Hai nền kinh tế song hành ở Việt Nam: “sinh lợi” và “đặc lợi”, ai lấn sân?
Nhiều chuyên gia ở
Việt Nam thường trực theo dõi các nền kinh tế tư bản (hay thị
trường) và kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các biến chuyển lý
thuyết, với nhiệm vụ chính là để giữ gìn những đặc trưng cho nền
kinh tế Việt Nam hiện nay được mệnh danh “kinh tế thị trường với
định hướng chủ nghĩa xã hội”. Vài chuyên gia này có nhiệm vụ
chính là cho ra những cảnh báo chính trị ở cấp cao nhất nếu thấy nền
kinh tế thị trường dù chỉ đang phôi thai ở Việt Nam đi “chệch
đường” nghĩa là khác đi với các “nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội”.
Có quá nhiều giấy
mực đã bàn về đề tài trên, nhất là để so sánh những ưu khuyết điểm
của kinh tế thị trường và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi không
dám mạn bàn thêm các vấn đề to lớn này, nhưng khuôn khổ bài ngắn này
sẽ đặt vấn đề một cách khác: muốn ghi lại vài nhận định thiết thực
về hai nền kinh tế thực sự đang song hành ở xứ ta: nền kinh tế sinh lợi (dịch từ chữ “profit-making economy”) và nền kinh tế đặc lợi (tạm dịch từ “rent-seeking economy”[2], hay còn có thể hiểu nôm na hơn là “tìm lợi”—hay sát thực tế nhất là “đặc biệt cho nhóm lợi ích”, theo các giải thích dưới đây).
Nền kinh tế sinh
lợi chính là nền kinh tế được hướng dẫn bởi các nguyên tắc thị
trường, kết quả của hơn hai thập kỷ Đổi Mới, nôm na là đang được dẫn
đầu bởi giới doanh nhân của nền kinh tế thị trường tìm lợi nhuận
(profit) đích thực từ sản xuất bằng cách kiếm được doanh thu
(revenue) cao hơn phí sản xuất (cost)—viết theo phép số học đơn giản
là: lợi nhuận = doanh thu trừ phí sản xuất. Nền kinh tế này
còn bao gồm đại đa số các thành phần cư dân thành thị làm việc trong
các hãng xưởng công tư nhằm mục đích sinh lợi nhuận (profit) kinh
doanh đích thực như định nghĩa ở trên, người làm việc trong các khu
vực sản xuất dịch vụ thật sự theo định nghĩa GDP, hay nông dân ở tất
cả các vùng nông thôn tham dự vào việc sản xuất nông sản vốn là trụ
đỡ của nền kinh tế cả nước qua các thời đại…
Trái lại, nền kinh
tế đặc lợi (rent) không cần thiết phải dựa vào sản xuất mà chỉ đơn
giản là tiền hay lợi (rent) kiếm được do các đặc quyền kinh tế như
thế độc quyền sản xuất (monopoly) hay ưu đãi tín dụng (các công ty
nhà nước)…, hay đặc quyền chính trị như ở vị trí chính trị cao có
thể ban phát giấy phép hoạt động kinh tế trong một chế độ dựa vào
xin-cho, hay đặc quyền thông tin như biết trước những tin tức có lợi
cho một hành vi kinh tế hay mua bán (thí dụ biết trước tin qui
hoạch một vùng đất nên trực tiếp chạy đi mua hay cho người nhà/đàn
em đi mua đất trước để bán lại với giá cao hơn nhiều lần lúc thông
tin đó được chính thức công bố cho mọi người biết), hay giản dị nhất
là lợi kiếm được nhờ tham nhũng do ở các vị trí chính trị hay hành
chính cao có thể ban phát chức tước, lợi lộc kinh tế (cấp phép dự án
không thông qua các qui luật thông thường, hay các loại giấy phép
xin-cho trong khu vực sản xuất buôn bán v.v…).
Có muôn hình vạn trạng trong xã hội ta bây giờ về cách tìm đặc lợi mà không dựa vào sản xuất.
Sự xuất hiện nhan nhản của các “CÒ” kiếm tiền trung gian ở khắp nơi
và trong mọi địa hạt từ sinh hoạt kinh tế ở mức phức tạp đến luồn
lách pháp luật như “chạy án” hay xin “quotas”, hay để vượt qua vài
thủ tục hành chính hay giấy tờ ở cấp thấp, đơn giản nhất như để vượt
qua các hàng đuôi chờ dài ở các bến xe rạp hát đông người…
Rất khó để định
lượng được chính xác tỷ trọng của hai nền kinh tế song hành này
trong nền kinh tế tổng thể của Việt nam bây giờ. Nhưng chỉ có thể
tạm ước tính vai trò tương đối của cả hai qua những thời kỳ kinh tế
chính như từ thời bao cấp (trước 1989), đến 25 năm Đổi Mới thực sự
(1991-2006), và sau đó từ 2007 đến nay khi một số nguyên tắc và vận
hành căn bản của kinh tế thị trường lại bị thay đổi bởi ảnh hưởng
của các nhóm lợi ích quan trọng và chi phối quá lớn nền kinh tế quốc
gia, khiến nhiều qui luật thị trường bị thay thế bởi các biện pháp
hành chính và sự tái xuất hiện và bùng mạnh thêm của các Tổng công
ty với nhiều đặc quyền ưu thế trong sản xuất và hưởng phân bổ tín
dụng nhưng lại gây những thất thoát tài chính nghiêm trọng cho quốc
gia.
Có thể tạm hình
dung các hình ảnh cùng tỷ trọng tương đối dưới đây của 2 nền kinh tế
trên nhằm mục đích phân tích chính sách, chứ không nhằm định lượng
chính xác để hy vọng bài nói chuyện ngắn này không bị chỉ trích là
thiếu luận cứ dữ kiện thống kê hay tinh thần khoa học nghiêm túc:
· Trong
thời bao cấp trước cải tổ kinh tế: nền kinh tế sinh lợi (hay thị
trường) chiếm độ 70-75%, và nền kinh tế đặc lợi 25-30%
· Trong
thời kỳ Đổi Mới, nền kinh tế thị trường dù đang giai đoạn phôi thai
đã tăng cường vai trò của các sinh hoạt kinh tế chính thống và nâng
tỷ trọng của khu vực kinh tế sinh lợi lên 80-85% và khu vực kinh tế
đặc lợi xuống còn 15-20%
· Trong
thời kỳ từ 2007 đến nay, khu vực sinh lợi có thể đã rơi xuống còn
65-70% và khu vực đặc lợi đã chiếm ưu thế mới đến 30-35%.
Nhưng nghiêm trọng
nhất, bài này không muốn chỉ nói đến vấn đề công bằng hay đạo đức xã
hội khi các nhóm lợi ích hay hưởng đặc lợi về chính trị kinh tế đã
hưởng lợi quá nhiều trong 5-6 năm qua, mà là trên phương diện hiệu quả chính sách kinh tế--là
mục tiêu chính của bài này. Sự thiên vị hay ưu đãi các nhóm lợi ích
(interest groups) và nhóm tìm đặc lợi (rent-seekers) đã dẫn dắt đến
tình hình kinh tế tài chính khủng hoảng hiện tại với tăng trưởng
kinh tế sụt giảm nghiêm trọng (5-6%, mặc dù công bằng cũng phải công
nhận là do ảnh hưởng một phần của hai năm suy thoái kinh tế thế
giới 2008-09), so với 5 năm 2001-2005 (GDP tăng 7%-8%).
Nhưng đáng lo nhất
là sự mất cân bằng vĩ mô (macroeconomic disequilibrium) và các mất
mát thua lỗ tài chính khổng lồ (colossal financial losses) của khu
vực công trong vài năm qua. Hai nguyên nhân chính mới đây đã được
các chuyên gia phân tích đầy dủ và sâu sắc:[3]
(i) Nhận xét gần
đây nhất là của TS Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Kinh tế và Chính sách (VEPR), dựa trên khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư quá lớn, cho rằng “tiết
kiệm của Việt Nam so với thế giới không hề thấp (khoảng 35%) tuy
nhiên tổng đầu tư/GDP của Việt Nam giai đoạn từ 2006 – 2011 lại quá
lớn, trung bình đều trên 40%; riêng năm 2011, do Chính phủ thực hiện
chính sách cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm phát nên con số này
chỉ dừng ở mức 34,6%”. Và “sở dĩ đầu tư của Việt Nam luôn ở
mức cao là do mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa trên mở
rộng đầu tư nhưng chất lượng đầu tư ngày càng giảm, năng suất nền
kinh tế không được cải thiện.”
(ii) Thêm vào đó, Chính phủ lại tập trung vào đầu tư công và cho các Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Vì hiệu quả đầu tư của khư vực này thấp theo nhiều nghiên cứu khác
nhau, kết quả là làm suy giảm toàn bộ năng suất nền kinh tế, điển
hình là làm hệ số ICOR tăng nhanh từ 4-5 lên 7-8 trong những năm gần
đây. TS Vũ Thành Tự Anh cũng đã dẫn chứng rằng: “Xét về mức độ
phân tán/tập trung của các tập đoàn nhà nước thì Việt Nam cũng xếp
vào hàng “vô địch”. Nếu ở Việt Nam, điểm số này là 6,4 thì Hàn Quốc
chỉ là 1,7; Indonesia là 2,1; Philippines là 3,1; thậm chí Trung
Quốc cũng chỉ mức 2,3.” Cũng theo ông, tỉ lệ doanh số của
10 đại tập đoàn kinh tế Việt Nam trên GDP thuộc loại lớn nhất thế
giới. Cụ thể, tỷ lệ này của Việt Nam lên tới 37,3%, chỉ đứng sau Hàn
Quốc thời gian trước khủng hoảng, còn lại đều vượt xa các nước
khác.Thí dụ để so sánh: Trung Quốc (9,4%), Đài Loan (19%), Indonesia
(25%), Brazil (8%), Argentina (11%) và Mexico (10%).[4]
Nhưng chúng tôi
muốn nhấn mạnh nhiều hơn các vấn đề chính sách tương lai trong phần
sau, không phải đơn thuần là các chính sách có tính “kỹ trị” như tài
khóa ngân sách hay giá cả…theo các thảo luận thông thường, mà là các
vấn đề căn bản hơn về thể chế, về tái lập nguyên tắc thị trường, về
khu vực kinh tế chủ đạo dẫn dắt mới, nói chung về sự thay đổi triết
lý và tư duy kinh tế căn bản để điều hành guồng máy kinh tế mới
trong tinh thần một Đổi Mới đợt II (“Economic Renewal” Mark II).
2. Vài vấn đề chính sách lớn và khẩn cấp trước mặt
a.Vấn
đề đặc lợi của một nhóm lợi ích hay đặc quyền nhỏ (thí dụ nhan nhản
là Vinashin, EVN, hay các DNNN khác sẽ được điều tra đem ra ánh
sáng công luận trong tương lai…) gây nên mất cân bằng vĩ mô căn bản
giữa tổng chi tiêu và để dành, phần lớn do khu vực đặc lợi
(rent-seeking economy), đã gây nên lạm phát cao ngất ngư trong
suốt 6 năm qua (2007-2012) và là một hình thức thuế trá hình được
trả bởi đại đa số cư dân thuộc khu vực sinh lợi (profit-making
economy). Hình ảnh tiêu biểu đau lòng tương phản giữa các đoàn xe
lộng lẫy hay các căn hộ cao cấp luôn tắt đèn bỏ trống sở hữu bởi khu
vực đặc lợi, so với một thành phần lớn dân cư đang phải chạy từng
bữa cơm bớt dần thịt cá do ảnh hưởng lạm phát và sống lây lất ở các
vùng ven đô hay nông thôn.
b. Ưu tiên chính sách số một vẫn phải là giảm lạm phát, không phải bằng cách đẩy lãi suất lên cao nữa,
mà bằng cách cắt giảm các món chi tiêu công hay bán công khổng lồ
vẫn tiếp tục cho các nhóm đặc quyền dưới tên những Tổng công ty ưu
đãi, các dự án “khủng” thiếu hiệu quả kinh tế nhưng vẫn được theo
đuổi do nhóm lợi ích chi phối chính sách, các chương trình phát
triển vùng/cảng/khu chế xuất thiếu hiệu quả kinh tế, tiếp tục được
tài trợ hay hưởng ưu đãi tín dụng do “các nhân vật hay người thân
đứng sau”.
c.
Tình trạng đình đốn sản xuất kéo dài từ 3 năm nay đang kéo theo sự
phá sản khủng khiếp của nhiều doanh nghiệp, nhất là vừa và nhỏ, và
gây khốn đốn cho nhiều doanh gia có tim óc thật sự trong khu vực
sinh lợi vì thiếu tiếp cận tín dụng. Dần dà khu vực tư doanh sẽ được
thay thế bởi các DNNN vẫn có ưu tiên tín dụng và chúng ta sẽ trở
lại thời xưa khi tỷ trọng khu vực nhà nước hay nền kinh tế đặc lợi
lại có dịp được phình to hơn với cơ chế xin-cho càng tràn lan thay
vì phải thu hẹp dưới Đổi Mới I, bản thân tự nó đang bị lung lay tận
gốc rễ vì các cơ chế thị trường tự do như tín dụng ngân hàng, lãi
suất hay tỷ giá tự do đang bị thay thế bởi các thị trường chợ đen
khác nhau hay biện pháp hành chính thay thế. Ai có thể nói chúng ta vẫn theo hay đang đẩy mạnh Đổi Mới trong 3-4 năm qua với các chính sách hiện hữu?
d. Đặc biệt là các
chính sách của NHNN hiện nay nhằm mục đích “chữa cháy ngắn hạn” bằng
các biện pháp hành chính thêm dồn dập hay đã kéo dài khá lâu, được
lầm tưởng là đang có tác động tốt cho bệnh nhân là toàn nền kinh tế
hay dân cư được “ngấm thuốc” sẽ khỏi bệnh, chẳng hạn tỷ giá tạm ổn
định, lãi suất đang có chiều xuống nhờ “trần lãi suất”, phân bổ tín
dụng giữa các ngân hàng do NHNN ấn định để cứu hệ thống ngân hàng
hay giúp các “ngân hàng nhỏ”…Thật sự nếu phân tích kỹ thì các dấu
hiệu trên chỉ mang tính cách tạm thời thiếu bền vững.
(i) Tỷ giá tạm yên
năm nay 2013 không phải do “ngấm thuốc” tốt mà thật sự là phản ánh
tình trạng đình đốn sản xuất đang rất nguy kịch kéo dài từ quý
2/2011, khi các dữ kiện thống kê cho thấy chỉ số sản xuất công
nghiệp và ngay cả nông nghiệp tăng trưởng chậm dần, nhập khẩu sụt
giảm hẳn khiến mức nhập siêu hàng năm từ 10-12 tỷ USD từ các năm
trước 2011 có lẽ trở thành xuất siêu năm nay.
(ii) Các lãi suất
chính sách và lãi suất huy động trần được giảm mạnh đang đi đúng
hướng theo lý luận trên đây. Nhưng việc tiếp tục duy trì lãi suất
trần này cũng như việc phân bổ trực tiếp mức tăng tín dụng (quotas)
cho từng ngân hàng đặt ra nhiều dấu hỏi cho các quan sát viên kinh
tế cả trong và ngoài nước về hiệu quả thật sự của các cải cách của
NHNN. Duy trì lãi suất cho vay trần là tiếp tục “giết” các ngân hàng
nhỏ, vì họ khó huy động vốn nơi các trương mục nhỏ lẻ của đa số dân
cư. Lại một lần nữa, khu vực kinh tế sinh lợi hay thị trường bị
thiệt thòi vì tuân theo luật lệ chính thức được công bố chỉ được trả
lãi suất thấp cố định. Còn khu vực đặc lợi tuy số ít nhưng có nhiều
tiền bỏ vào ngân hàng hơn vẫn được trả trên mức lãi suất chính thức
đó.
(iii) Các ngân hàng
lớn chỉ phải trả 5-6% cho vốn huy động của đa số dân cư tìm đến
ngân hàng lớn cho yên tâm, nhưng lại được thả lỏng để cho vay trong
thị trường 1 (tức là với các doanh nghiệp hay tư nhân ngoài hệ thống
NH) ở mức thỏa thuận riêng với mức cao khủng cho NIM (net interest
margin—mức lợi biên ngân hàng) theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó “nhóm
lợi ích” gồm vài ngân hàng to lại đang hưởng lợi ích lớn nữa trên
thị trường 2 với các NH khác qua thị trường liên ngân hàng. Khó nói
không hề có chuyện nhóm lợi ích trong hệ thống NH hiện nay khi các
biện pháp hành chính đã làm nảy sinh vô số rủi ro đạo đức (moral
hazards).
(iv) Thêm một biện
pháp hành chính nữa từ cuối tháng 2/2011 là việc NHNN áp dụng phân
bổ tín dụng cho từng ngân hàng theo các tiêu chuẩn "riêng", gây ra
những lệch lạc trong thị trường. Một lần nữa, khu vực kinh tế đặc
lợi vẫn được hưởng lợi và chịu thiệt hại là khu vực sinh lợi hay thị
trường và đa số doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận tín dụng nên còn
nhiều hãng sẽ vẫn tiếp tục phá sản. Đa số dân cư chỉ được lãi suất
huy động trần thấp trong khi các NH lớn cho vay ở mức cao trên TT 1
cho các doanh nghiệp cần vốn trong khu vực thị trường sinh lợi đang
bàn đến.
e.
Vấn đề lớn nữa là cần xem lại vai trò của chính sách tài khóa để
kích cầu bằng cách bội chi ngân sách và vay ồ ạt qua trái phiếu
chính phủ trong năm nay 2013.
f.
Vấn đề sau nữa cho tái cấu trúc kinh tế và chính sách tài chính
công là cần đưa mới vai trò chủ đạo của doanh nghiệp tư nhân thay vì
các DNNN. Đây là một quyết
định cả chính trị lẫn kinh tế can đảm nhất trong bối cảnh chính trị
hiện tại của VN. Sẽ cần giảm cả tỷ lệ thu lẫn chi ngân sách so với
GDP trong vài năm tới như kim chỉ nam dẫn đường cho chiến lược kinh
tế mới này. Một biện pháp gây sốc nhưng rất quan trọng là giảm thuế
doanh nghiệp từ 25% xuống còn 20% trong bước đầu.
g. Sau
cùng, cố gắng tạo lối ra cho các thị trường chứng khoán và bất động
sản bằng sự cải thiện môi trường vĩ mô bền vững và tìm các nhà đầu
tư mới có thể “gây sốc” và tái lập niềm tin lâu dài cho thị trường
và người đầu tu. (xem khung 1).
Khung 1. Lối ra cho các TT Chứng Khoán và Bất Động Sản
v Tình
hình kinh tế vĩ mô phải có bước ngoặt nhanh chóng để gây lại
niềm tin là Chính Phủ thực sự sẽ kiểm soát được tình hình kinh tế
vĩ mô.
v Cần
giảm lạm phát thêm trong các quý 1-2/2014 và dẫn đến giảm lãi
suất cuối quý 2. Thị trường BĐS cũng sẽ phục hồi từ từ sau
TTCK khi lãi suất có dấu hiệu giảm thực sự.
v Giải
pháp tối ưu và khả thi hiện tại rõ ràng là phải dùng chính sách
tài khóa để hỗ trợ thực sự chính sách tiền tệ nhằm giảm tổng
cầu và lạm phát, và từ từ sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ để
giảm lãi suất.
v Bất động sản: cần các cú sốc từ việc tái cơ cấu nền kinh tế và có mặt các nhà đầu tư mới
v Sau
khi thị trường BĐS được khởi động từ lãi suất, thị trường này
chỉ có thể phục hồi nhanh chóng nếu có cú sốc ào ạt từ các
nhà đầu tư mới (thí dụ thực tế nhất và “hấp dẫn” nhất là các nhà
đầu tư Nhật bản đang tìm cách di dời cư dân và nhiều xưởng hãng
từ các vủng bị tsunami và dò rỉ từ trung tâm nguyên tử quanh vùng
Tokyo), đây sẽ là điều gây tác động tâm lý mạnh nhất cho BĐS ở
Việt Nam.
v Ngoài
ra các chính sách tái cơ cấu nền kinh tế sẽ tiếp sức mạnh mẽ
cho nhu cầu BĐS nếu khu vực tư nhân được đóng vai trò chủ đạo
trong nỗ lực giảm thật sự đầu tư công và vai trò các doanh
nghiệp nhà nước. Việc giảm thuế doanh nghiệp xuống 20% sẽ là bước
đầu cho chính sách này.
|
KẾT LUẬN NGẮN CÙNG ĐỀ XUẤT ĐỊNH LƯỢNG CHO CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRUNG HẠN ĐẾN 2015
(1) Sau các nhận
định ngắn gọn và thẳng thắn về thực trạng kinh tế đất nước năm 2013,
chúng tôi chỉ muốn đề nghị là nên thay đổi chiến lược căn bản từ
cấp chính trị cao nhất về đường hướng và thể chế của nền kinh tế đến
áp dụng ngay các biện pháp cấp thiết vĩ mô ngắn và trung hạn đến
2015 để tái lập các cân bằng vĩ mô đã mất trong 6 năm qua từ 2007:
(2) Giảm bớt các
đặc quyền và ưu đãi hiện có của khu vực kinh tế đặc lợi
(rent-seeking economy) và nâng cao vai trò của khu vực doanh nhân tư
nhân là đầu máy (locomotive) của khu vực kinh tế thị trường hay
sinh lợi (profit-oriented economy)
(3) Trong tinh thần
trên, tuyên bố chính thức vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế tư
nhân thay vì các DNNN là bước sáng kiến thứ nhất
(4) Giảm gánh nặng
thuế nói chung của nền kinh tế (giảm dần tỷ lệ tổng thu/GDP) và giảm
thuế doanh nghiệp nói riêng từ 25% xuống 20% từ năm nay là bước chủ
động thứ hai
(5) Tập trung việc
tái cấu trúc ba ngành kinh tế vào một cơ quan chỉ đạo duy nhất dưới
sự đôn đốc trực tiếp và toàn thì của một Phó Thủ Tướng với sự trợ
giúp của các chuyên gia trong và ngoài chính phủ, cùng với một thư
ký đoàn (secretariat) gồm chuyên viên các bộ liên hệ thuộc loại
“trẻ, giỏi” đang có mặt rất nhiều trong các cơ quan hay trên các
diễn đàn kinh tế.
(6) Công bố chính
thức một định hướng bằng số cho các chính sách vĩ mô trung hạn (thí
dụ trong bảng kèm dưới đây) để hướng dẫn về định hướng chính sách
mới của chính phủ và tái lập niềm tin cho các doanh nhân và giới đầu
tư.
(7) Cần sự minh
bạch thông tin hơn lúc nào hết, các chỉ số suy yếu kinh tế rất rõ
ràng từ khu công nghiệp và nhập khẩu như bàn trên, và cần cập nhật
hóa số tăng trưởng GDP cho ba năm qua 2011-2013. Tổng cục Thống kê
cũng cần giải thích rõ hơn về các tính toán của mình. Ngoài ra thị
trường tài chính vẫn đợi sự công bố chính thức các số liệu về khảo
sát tiền tệ và dự trữ ngoại hối như NHNN đã hứa trước đây.
Bảng 1: Vài chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trung hạn cho 2013-2015
| ||||||
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
| |
Tỷ lệ tăng GDP thực (%)
|
6,8
|
5,9
|
5,1
|
5,0
|
5,5
|
6,0
|
Lạm phát (tăng %)
|
11,7
|
18,2
|
8,0
|
6,5
|
5,0
|
5,0
|
Tỷ giá VND/USD*
|
21.000
|
21.300
|
21.500
|
21.200
|
22.300
|
23.000
|
Bội chi ngân sách (% GDP) **
|
-5,5
|
-4,9
|
-4,8
|
-5,3
|
-5,0
|
-4,5
|
Đầu tư toàn xã hội (% GDP) ***
Đầu tư công/GDP (%)****
|
41,9
18
|
38
15
|
36
14
|
32
13
|
30
11,5
|
30
10
|
Tổng phương tiện thanh toán (%)
|
25,3
|
12
|
12
|
13
|
14
|
16
|
Tổng tín dụng trong nước ( %)
|
29,8
|
14
|
15
|
10
|
10,5
|
12,0
|
Cán cân tài khoản vãng lai (% GDP)
Cán cân thanh toán (tỷ USD)*****
|
-4.4
-3,1
|
-7.1
2,0
|
-4.9
5,2
|
-4.3
9,5
|
-3.9
10,9
|
-3.8
12,7
|
Dự trữ ngoại hối (tỉ USD)
Dự trữ ngoại hối (tuần nhập khẩu)
|
14,0
8,6
|
16,0
7,0
|
17,6
7,9
|
28,1
12
|
38,0
13
|
50,7
14
|
Nguồn: Các số liệu 2011-15 dựa trên các tính toán ước tính và dự báo của tác giả.
-------------------------- Ghi chú:
1) Số liệu 2010 là số thực hiện, 2011 là ước thực hiện, từ 2012-2015 là số mục tiêu
2) *Tỷ giá tự do vào cuối năm (theo mục tiêu trượt giá 1,5-2% mỗi năm như trong quá khứ)
3) **Theo cách tính của Việt Nam
4) *** Chưa tính đầu tư từ tín dụng ngân hàng
5) **** Chưa tính đầu tư của địa phương, phần không đưa vào cân đối ngân sách.
6) ***** Cán cân thanh toán tổng thể trong năm 2011-2015 thặng dư tổng cộng 40,3 tỷ USD
[1] Tác giả là chuyên gia kinh tế độc lập.
[2]
Chữ “rent” nôm na nhất có thể dịch là “địa tô” trong kinh tế
học, thường được nói đến để chỉ thu nhập của những sở hữu chủ
đất đai, là một trong các yếu tố đầu vào căn bản của sản xuất như
lao động (labor), tư bản (capital), và đất đai (land).
[3] Xin xem “Vì sao bất ổn vĩ mô của Việt Nam kéo dài?, của Khánh Linh (TTVN) trên mạng cafef.vn, http://cafef.vn/20120321043525142CA33/vi-sao-bat-on-vi-mo-cua-viet-nam-keo-dai.chn, báo cáo về buổi Tọa đàm “Hướng tới một khung khổ chính sách kinh tế vĩ mô cho Việt Nam trong trung và dài hạn” (21/3/2012).
[4] Đã dẫn trên ở chú thích 2.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 11-11-13
Tiền lương và tăng trưởng kinh tế: ‘Miếng bánh’ teo dần
Phần mà người lao động được hưởng đang ngày càng giảm xuống. Và, giải pháp đúng đắn nhất là giúp đỡ người lao động chứ không phải trừng phạt các doanh nghiệp.Hãy tưởng tượng sản lượng kinh tế như một miếng bánh, được phân chia thành tiền lương mà người lao động kiếm được và lợi nhuận mà các công ty thu về. Cho tới đầu những năm 1980, quy mô của từng miếng bánh vẫn ổn định đến mức đã trở thành một quy luật kinh tế. Kinh tế học vĩ mô hiện đại cũng đưa ra những kết luận tương tự, lập nên mối quan hệ giữa sản lượng và thịnh vượng. Nếu người lao động luôn luôn nhận được những “miếng bánh” giống nhau, sản lượng bình quân tăng lên (nhân tố thúc đẩy tăng trưởng) sẽ khiến lợi nhuận trung bình của doanh nghiệp cũng tăng lên.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, dường như các sách giáo khoa kinh tế là nơi duy nhất mà miếng bánh thu nhập của người lao động được giữ ổn định. 30 năm qua, trên phạm vi toàn cầu, phần mà người lao động kiếm được đang ngày càng thu hẹp.
Ở Mỹ, lương của người lao động đóng góp 64% GDP trong khi tỷ lệ trước đó là 70%. Ở Na Uy, tỷ lệ giảm từ 64% trong năm 1980 xuống chỉ còn 55%. Ở Thụy Sĩ giảm từ 74% xuống còn 65%. Hiện tượng này cũng xảy ra ở các thị trường mới nổi, đặc biệt là ở châu Á.
Sự sụt giảm ngày càng đáng chú ý và kéo theo những hệ lụy xấu. Bởi vì vốn thuộc về những hộ gia đình giàu có hơn, tình trạng chênh lệch giàu nghèo ngày càng trở nên tồi tệ. Ở một số nước, khoảng cách giữa người có thu nhập cao và bộ phận còn lại cũng tăng lên, tạo nên hiệu ứng kép. Ví dụ như ở Mỹ, trong những năm 1980, nhóm 99% nghèo nhất sở hữu 60% tổng thu nhập quốc gia. Ngày nay, tỷ lệ giảm xuống chỉ còn 50%. Khi tăng trưởng trì trệ (như hiện nay), sự chuyển dịch này có nghĩa là hầu hết người lao động được hưởng “miếng bánh” ngày càng nhỏ đi.
Về mặt chính trị, đây là điều rất nguy hiểm và đã gây nên nhiều tranh cãi dẫn đến tình trạng phân cực. Cánh tả đổi tội cho các doanh nghiệp lớn và công đoàn yếu kém. Trong khi đó, cánh hữu cho rằng lỗi thuộc về “chính phủ lớn” và mức thuế cao.
Tuy nhiên, tất cả những lời giải thích này đều trở nên đuối lý trước thực trạng là xu hướng trên xuất hiện ở rất nhiều nước, với những chính phủ có quy mô khác nhau và công đoàn cũng hoàn toàn khác nhau. Trên thực tế, các nghiên cứu chỉ ra rằng những điều mà các chính trị gia đang tranh cãi không có nhiều ý nghĩa. Các lực đẩy lớn trên toàn cầu mới là nhân tố quan trọng. Cải tiến – đặc biệt là về công nghệ thông tin – đã khiến lương tăng lên nhanh chóng đối với những người có đủ kỹ năng để bắt kịp nhưng cũng gây tổn hại đối với bộ phận yếu thế hơn. Các doanh nghiệp dùng máy móc thay cho người lao động. Một số chuyên gia kinh tế cũng nhấn mạnh vai trò của toàn cầu hóa, đặc biệt là vai trò của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tất cả những điểm này nằm trong phạm trù mà các nhà hoạch định chính sách có thể giải quyết. Họ nên tập trung vào việc cải thiện triển vọng của các lao động thiếu kỹ năng và được trả lương ở mức thấp.
Mục tiêu là củng cố thêm sức mạnh của người lao động mà không ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp. Tăng trưởng – chứ không phải bảo vệ thị trường lao động – mới là mục tiêu hàng đầu. Nhiều việc làm hơn có nghĩa là một thị trường lao động khỏe mạnh hơn. Tuy nhiên, kể cả trong một nền kinh tế đang tăng trưởng, rõ ràng là người lao động khó có thể cạnh tranh được với máy móc. Bởi vậy, giáo dục và đào tạo cũng cần được cải tổ: tập trung hơn vào các môn kỹ thuật, từ toán học cho đến cơ khí, sẽ giúp đảm bảo chắc chắn người lao động không thể bị thay thế bởi máy móc. Họ sẽ thiết kế và vận hành máy móc.
Những cải cách khác có vẻ nhạy cảm hơn. Giảm thuế doanh nghiệp là một trong số đó. Biện pháp này sẽ giảm bớt chênh lệch giữa thuế đánh vào thu nhập từ vốn và thu nhập của người lao động, đem đến một hệ thống hiệu quả hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm.
Các nhà hoạch định chính sách cũng nên nghĩ về việc mở rộng quyền sở hữu vốn (bằng cách cải tổ chế độ lương hưu hoặc tư nhân hóa mạnh mẽ hơn).
Theo Trí Thức Trẻ/Economist
Hiệp hội Xăng dầu vẫn QUYẾT ĐẤU với Bộ Tài chính
Nguồn tin của chúng tôi cho hay, Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam lại vừa có đơn gửi Thủ tướng Chính phủ kiến nghị Thủ tướng xem xét giải quyết việc truy thu thuế nhập khẩu xăng dầu năm 2012 của Bộ Tài chính.Vụ việc lùm xùm này đã kéo dài cả năm qua. Cụ thể, Bộ Tài chính đã quyết định truy thu đối với các “đại gia” xăng dầu đầu mối số tiền thuế lên tới gần 500 tỷ đồng liên quan đến nghiệp vụ kinh doanh tạm nhập tái xuất mặt hàng xăng dầu năm 2012.
Trong đó Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) là 170 tỷ đồng, Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) là 66 tỷ đồng, Xăng dầu Đồng Tháp (Petimex) là 56,5 tỷ đồng, Lọc hóa dầu Nam Việt (NamViet Oil) là 26 tỷ đồng, Xăng dầu quân đội 19,7 tỷ đồng…
“Mặc dù việc quyết định truy thu thuế của các Chi cục Hải quan tỉnh/thành phố theo Thông báo số 17060/BTC-VP của Bộ Tài chính không đủ căn cứ pháp lý, nhưng với ý thức tôn trọng quyết định của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp đầu mối, một mặt vẫn nộp thuế, mặt khác, các doanh nghiệp này vẫn gửi nhiều công văn kiến nghị lên Chính phủ, các cơ quan chức năng và Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam.” – ông Phan Thế Ruệ, Chủ tịch Hiệp hội trình bày.
Theo ông Ruệ, bất bình trước Thông báo số 17060 (do Chánh Văn phòng Bộ Tài chính ký ngày 7/12/2012), các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã đề nghị Cục Kiểm tra VBQPPL của Bộ Tư pháp vào cuộc để kiểm tra căn cứ pháp lý của việc truy thu thuế.
Hồi tháng 7 vừa qua, Cục Kiểm tra VBQPPL đã có công văn gửi Bộ Tài chính khẳng định nội dung Thông báo số 17060 là không phù hợp với luật định hiện hành và đề nghị Bộ Tài chính phải hủy thông báo này. Tuy nhiên, phía Bộ Tài chính vẫn một mực khẳng định đã làm đúng.
“Về căn cứ pháp lý của thủ tục hải quan và chính sách thuế, Bộ Tài chính không đưa ra được một căn cứ pháp lý nào chứng minh cho quyết định truy thu thuế của mình là đúng với quy định của Nghị định 154/2005/NĐ-CP và Thông tư số 194/2010/TT-BTC.
Thông báo số 1760/BTC-VP yêu cầu Tổng cục Hải quan các tỉnh, thành phố phải thay tờ khai hải quan mới để xác định thời điểm tính thuế đối với xăng dầu tạm nhập tái xuất nhưng không tái xuất hết chuyển sang tiêu thụ nội địa… yêu cầu phải thay tờ khai hải quan là trái với Khoản 9 Điều 10 và Điểm b.3 Khoản 2 Điều 18 Thông tư 194/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính…” – văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ của Hiệp hội Xăng dầu một lần nữa khẳng định.
Vì vậy, bằng bản kiến nghị vừa trình lên Thủ tướng Chính phủ, Hiệp hội Xăng dầu tiếp tục đề nghị Bộ Tài chính thu hồi Thông báo 17060. Đồng thời, số tiền truy thu thuế mà các doanh nghiệp xăng dầu đã nộp sẽ được khấu trừ cho các doanh nghiệp trong các năm tiếp theo.
THEO Pháp luật Việt Nam
Được trả tự do sau 3 năm tù vì tuyên truyền chống Nhà nước
Anh Nguyễn Văn Thanh (bên phải) lúc Công an huyện Nghi Lộc, Nghệ An, bắt và khởi tố vào ngày 5-2-2011 (Báo Nghệ An)
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-11-12
Một tù nhân phải thụ án tù 3 năm về tội danh tuyên truyền chống Nhà Nước vừa được mãn hạn và ra tù vào ngày hôm qua 11 tháng 10. Đó là anh Nguyễn Văn Thanh, 29 tuổi, thuộc địa phận Vinh.
Gia Minh hỏi chuyện anh này sau khi từ trại tù Phú Xuân 4, Thái Nguyên, về đến nhà tại Nghệ An. Trước hết anh cho biết.
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Mình làm thì mình nhận những hành vi của mình, nhưng mình làm đúng theo lương tâm của mình.
Gia Minh: Anh nói hành động theo tiếng nói của lương tâm, được biết trong đó có việc đi rải truyền đơn phải không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Đúng rồi, họ quy cho mình tội rải truyền đơn.
Gia Minh: Nội dung truyền đơn đó thế nào và anh thực hiện việc đó với ai?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: ‘Cầu nguyện cho Tam Tòa, giáo xứ Cồn Dầu’, ’16 điều dối trá của đảng Cộng sản, những bất công đối với dân’. Cũng có mấy người trong xóm đi làm nhưng tôi nhận nên mấy người đó không liên quan. Họ có đưa những người đó ra tòa mà không xử.
Gia Minh: Anh bị xử bao nhiêu năm tù và bị giam tại những trại tù nào?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Tôi bị 36 tháng tù, không có thời gian quản chế. Đầu tiên bị giam tại Trại giam Nghi Kim, tỉnh Nghệ An. Sau khi xử xong họ đưa lên trại giam Phú Xuân 4, tỉnh Thái Nguyên.
Gia Minh: Tại trại Phú Xuân 4, tỉnh Thái Nguyên anh có được gặp những bạn tù nào cùng quê và có những hoạt động tương tự không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Có, một là anh Trần Hữu Đức, hai là anh Chu Mạnh Sơn, ba là Trần Minh Nhật, bốn là Hồ Văn Oanh. Trong đó cũng có một số anh em ở Tây Nguyên về vụ bauxite và những vụ trước. Họ bị vu cho tội ‘phá hoại chính sách đoàn kết’. Trước đây có 24 người ( Tây Nguyên), nay còn có 21 người thôi.
Gia Minh: Trong thời gian ở tù, những người mà anh vừa nói có cơ hội nào được gặp nhau không và có trao đổi với nhau gì không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Có. Anh em ở chung buồng, trong một chỗ và gặp nhau hằng ngày. Anh em thứ nhất giúp nhau trong cuộc sống thiếu thốn hằng ngày; thứ hai đấu tranh về những chế độ chính sách của trại mà họ không đáp ứng thì đấu tranh hằng ngày.
Gia Minh: Và việc đối xử với những tù nhân bất đồng chính kiến như các anh trong tù thì ra sao?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Các chế độ đối với anh em họ đều làm không đúng. Đồ ăn thiu, thịt nhiều lông, đen ăn đau bụng, cơm nửa sống nửa chín, rau có thời điểm có cát…
Gia Minh: Việc đấu tranh thế nào?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Anh em viết đơn kiến nghị hằng ngày; thế nhưng nếu có giải quyết chỉ giải quyết phần ào chiếu lệ thôi, chứ họ không đáp ứng cho mình.
Gia Minh: Trong tù anh có biết trường hợp bị biệt giam nào không?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Chỉ có anh Trần Hữu Đức bị biệt giam 10 ngày.
Gia Minh: Chúng tôi nghe thân nhân của những người bị tù tại trại Phú Xuân, Thái Nguyên về nói có người tuyệt thực, vậy anh có biết gì về trường hợp đó?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Về vấn đề tuyệt thực, nếu tôi nhớ không nhầm vào ngày 26 tháng 7, anh (Trần Hữu) Đức đi gặp gia đình lúc 2:15 phút chiều; thường theo qui định họ cho gặp 1 tiếng. Chờ qua một tiếng thấy anh Đức không về chúng tôi anh em Nghệ An có hỏi cán bộ quản giáo vì sao anh Đức không về. Cán bộ nói đang làm việc có gì tôi chịu trách nhiệm. Mại đến 5 giờ cũng không thấy về, đến giờ ăn cơm cũng không thấy về; đến giờ điểm buồng chúng tôi quyết định không vào buồng. Tôi và anh Hồ Văn Oanh ở buồng 1, anh Trần Minh Nhật và Chu Mạnh Sơn ở buồng 2, chúng tôi quyết định không vào buồng. Họ cho người gọi vào nhưng chúng tôi không vào và hỏi tại sao anh Đức chưa về, yêu cầu giải thích rõ ràng.
Sau đó quản giáo vào giải thích nói là anh Đức ra gặp gia đình mà có mang theo một số tài liệu, vi phạm đang xử lý kỷ luật, có gì mai gặp cán bộ giải quyết. Khi biết được thế chúng tôi mới quyết định vào buồng. Ngày mai chúng tôi tuyệt thực 4 ngày đòi hỏi Ban Giám thị vào giải quyết vấn đề anh Đức; thế nhưng Ban Giám thị không vào và nói vấn đề của anh Đức không phải của các anh, nếu ‘loằng ngoằng’ chi đi kỷ luật luôn.
Gia Minh: Anh nói làm theo lương tâm, nhưng cuộc sống có khó khăn mà trong thời gian sắp tới anh có tiếp tục những việc làm trước đây không?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Nói thật, mình tùy cơ ứng biến, đúng trường hợp mình thì làm. Mình luôn luôn ủng hộ công lý, đúng sự thật thì làm.
Nhưng nói thật gia đình bây giờ cực kỳ khó khăn, nhà cửa chưa được ổn định, mưa gió dột. Tôi là trụ cột gia đình, vợ con thì ốm đau suốt. Tất nhiên mình có gánh nặng vợ con; nhưng nếu các vấn đề về sự thật, bất bình, bất đồng chính kiến…; nếu không làm được ít nhiều, thì mình tạo điều kiện bằng cách động viên cho anh em.
Gia Minh: Cám ơn anh Nguyễn Văn Thanh.
2013-11-12
Một tù nhân phải thụ án tù 3 năm về tội danh tuyên truyền chống Nhà Nước vừa được mãn hạn và ra tù vào ngày hôm qua 11 tháng 10. Đó là anh Nguyễn Văn Thanh, 29 tuổi, thuộc địa phận Vinh.
Gia Minh hỏi chuyện anh này sau khi từ trại tù Phú Xuân 4, Thái Nguyên, về đến nhà tại Nghệ An. Trước hết anh cho biết.
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Mình làm thì mình nhận những hành vi của mình, nhưng mình làm đúng theo lương tâm của mình.
Gia Minh: Anh nói hành động theo tiếng nói của lương tâm, được biết trong đó có việc đi rải truyền đơn phải không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Đúng rồi, họ quy cho mình tội rải truyền đơn.
Gia Minh: Nội dung truyền đơn đó thế nào và anh thực hiện việc đó với ai?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: ‘Cầu nguyện cho Tam Tòa, giáo xứ Cồn Dầu’, ’16 điều dối trá của đảng Cộng sản, những bất công đối với dân’. Cũng có mấy người trong xóm đi làm nhưng tôi nhận nên mấy người đó không liên quan. Họ có đưa những người đó ra tòa mà không xử.
Gia Minh: Anh bị xử bao nhiêu năm tù và bị giam tại những trại tù nào?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Tôi bị 36 tháng tù, không có thời gian quản chế. Đầu tiên bị giam tại Trại giam Nghi Kim, tỉnh Nghệ An. Sau khi xử xong họ đưa lên trại giam Phú Xuân 4, tỉnh Thái Nguyên.
Gia Minh: Tại trại Phú Xuân 4, tỉnh Thái Nguyên anh có được gặp những bạn tù nào cùng quê và có những hoạt động tương tự không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Có, một là anh Trần Hữu Đức, hai là anh Chu Mạnh Sơn, ba là Trần Minh Nhật, bốn là Hồ Văn Oanh. Trong đó cũng có một số anh em ở Tây Nguyên về vụ bauxite và những vụ trước. Họ bị vu cho tội ‘phá hoại chính sách đoàn kết’. Trước đây có 24 người ( Tây Nguyên), nay còn có 21 người thôi.
Gia Minh: Trong thời gian ở tù, những người mà anh vừa nói có cơ hội nào được gặp nhau không và có trao đổi với nhau gì không?
Cựu tù nhân Nguyễn Văn Thanh: Có. Anh em ở chung buồng, trong một chỗ và gặp nhau hằng ngày. Anh em thứ nhất giúp nhau trong cuộc sống thiếu thốn hằng ngày; thứ hai đấu tranh về những chế độ chính sách của trại mà họ không đáp ứng thì đấu tranh hằng ngày.
Gia Minh: Và việc đối xử với những tù nhân bất đồng chính kiến như các anh trong tù thì ra sao?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Các chế độ đối với anh em họ đều làm không đúng. Đồ ăn thiu, thịt nhiều lông, đen ăn đau bụng, cơm nửa sống nửa chín, rau có thời điểm có cát…
Gia Minh: Việc đấu tranh thế nào?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Anh em viết đơn kiến nghị hằng ngày; thế nhưng nếu có giải quyết chỉ giải quyết phần ào chiếu lệ thôi, chứ họ không đáp ứng cho mình.
Gia Minh: Trong tù anh có biết trường hợp bị biệt giam nào không?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Chỉ có anh Trần Hữu Đức bị biệt giam 10 ngày.
Gia Minh: Chúng tôi nghe thân nhân của những người bị tù tại trại Phú Xuân, Thái Nguyên về nói có người tuyệt thực, vậy anh có biết gì về trường hợp đó?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Về vấn đề tuyệt thực, nếu tôi nhớ không nhầm vào ngày 26 tháng 7, anh (Trần Hữu) Đức đi gặp gia đình lúc 2:15 phút chiều; thường theo qui định họ cho gặp 1 tiếng. Chờ qua một tiếng thấy anh Đức không về chúng tôi anh em Nghệ An có hỏi cán bộ quản giáo vì sao anh Đức không về. Cán bộ nói đang làm việc có gì tôi chịu trách nhiệm. Mại đến 5 giờ cũng không thấy về, đến giờ ăn cơm cũng không thấy về; đến giờ điểm buồng chúng tôi quyết định không vào buồng. Tôi và anh Hồ Văn Oanh ở buồng 1, anh Trần Minh Nhật và Chu Mạnh Sơn ở buồng 2, chúng tôi quyết định không vào buồng. Họ cho người gọi vào nhưng chúng tôi không vào và hỏi tại sao anh Đức chưa về, yêu cầu giải thích rõ ràng.
Sau đó quản giáo vào giải thích nói là anh Đức ra gặp gia đình mà có mang theo một số tài liệu, vi phạm đang xử lý kỷ luật, có gì mai gặp cán bộ giải quyết. Khi biết được thế chúng tôi mới quyết định vào buồng. Ngày mai chúng tôi tuyệt thực 4 ngày đòi hỏi Ban Giám thị vào giải quyết vấn đề anh Đức; thế nhưng Ban Giám thị không vào và nói vấn đề của anh Đức không phải của các anh, nếu ‘loằng ngoằng’ chi đi kỷ luật luôn.
Gia Minh: Anh nói làm theo lương tâm, nhưng cuộc sống có khó khăn mà trong thời gian sắp tới anh có tiếp tục những việc làm trước đây không?
Cựu tù Nguyễn Văn Thanh: Nói thật, mình tùy cơ ứng biến, đúng trường hợp mình thì làm. Mình luôn luôn ủng hộ công lý, đúng sự thật thì làm.
Nhưng nói thật gia đình bây giờ cực kỳ khó khăn, nhà cửa chưa được ổn định, mưa gió dột. Tôi là trụ cột gia đình, vợ con thì ốm đau suốt. Tất nhiên mình có gánh nặng vợ con; nhưng nếu các vấn đề về sự thật, bất bình, bất đồng chính kiến…; nếu không làm được ít nhiều, thì mình tạo điều kiện bằng cách động viên cho anh em.
Gia Minh: Cám ơn anh Nguyễn Văn Thanh.
Bất an Quinvaxem
Vừa được đưa trở lại chương trình tiêm chủng mở rộng trên toàn quốc không bao lâu, vắc-xin Quinvaxem lại khiến người ta phải giật mình bất an bởi hàng loạt phản ứng và nghi tai biến sau tiêm.Mới đây nhất, một bé trai 3 tháng tuổi ở huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) đã tử vong ngày 10-11 sau khi tiêm vắc-xin Quinvaxem. Dù kết quả pháp y sau đó cho thấy trẻ tử vong do viêm phổi để đi đến kết luận rằng vắc-xin Quinvaxem “vô can” trong trường hợp tử vong này song nó vẫn khiến dấy lên những nghi ngại. Đó là trẻ bị viêm phổi trước hay sau khi tiêm? Nếu trước, sao không phát hiện lúc tiêm? Nếu sau thì việc tiêm vắc-xin có ảnh hưởng gì không, vì trẻ có biểu hiện sốt, quấy khóc, bỏ bú chỉ 16 giờ sau đó?…
Vụ bé trai 3 tháng tuổi ở Hướng Hóa tử vong sau tiêm Quinvaxem xảy ra giữa lúc có hàng loạt ca phản ứng khi sử dụng loại vắc-xin này. Theo thống kê chưa đầy đủ, đã có hơn 80 ca phản ứng với mức độ khác nhau kể từ khi vắc-xin Quinvaxem được sử dụng trở lại từ tháng 10 vừa qua.
Trước đó, vắc-xin này đã bị tạm dừng từ tháng 5-2013 khi xảy ra 5 trường hợp trẻ em tử vong sau tiêm. Trong kết luận đưa ra sau đó, Hội đồng Tư vấn chuyên môn đánh giá tai biến trong quá trình sử dụng vắc-xin cho rằng 4 trong 5 trường hợp tử vong này không liên quan đến tiêm chủng và chất lượng vắc-xin; 1 trường hợp chưa chẩn đoán được nguyên nhân tử vong. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng thông báo kết quả kiểm nghiệm các lô vắc-xin Việt Nam gửi đến kiểm tra đều đạt tiêu chuẩn theo quy định.
Từ những đánh giá này, Chính phủ đã đồng ý với đề nghị của Bộ Y tế về việc tiếp tục sử dụng vắc-xin Quinvaxem trong dự án tiêm chủng mở rộng. Ngành y cũng đã thắt chặt cả quy trình và tập huấn cho nhân lực thực hiện chương trình tnày.
Song, khó có thể nói rằng các gia đình có con nhỏ đã hoàn toàn an tâm khi đưa con mình đi tiêm vắc-xin Quinvaxem dù các quan chức có trách nhiệm của Bộ Y tế khẳng định phần lớn những phản ứng sau tiêm đều nhẹ, phản ứng nặng chỉ là hãn hữu. Tuy nhiên, liên quan tới sức khỏe và tính mạng của con người, đặc biệt là trẻ nhỏ, thì không thể xem nhẹ dù chỉ là “phản ứng thông thường” như đánh giá của các quan chức ngành y.
Phòng ngừa cùng lúc 5 loại bệnh, gồm: bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hib và viêm gan B, vắc-xin Quinvaxem có vai trò quan trọng trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Thế nhưng, vấn đề an toàn cũng quan trọng không kém. Bởi thế, rất cần sự cẩn trọng tối đa trong việc xem xét, đánh giá cũng như thực hiện tiêm phòng vắc-xin. Đừng để nỗi bất an với Quinvaxem, nhất là tai biến sau tiêm loại vắc-xin này, cứ nối dài.
THEO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Nỗi đau từ rượu
Có thể nói, tôi có một tuổi thơ êm ả như bất cứ một đứa trẻ miền quê nghèo ở miền Bắc. Tôi sẽ chẳng nghĩ đến rượu nhiều cho đến khi bố tôi ra khỏi quân đội và chuyển ngành về sống với gia đình.
Bình thường, bố tôi rất ít nói, nhưng khi có rượu vào, ông là người khác hẳn, nói nhiều và trở nên hung hãn. Ông nói về những thất vọng về người xung quanh như cha mẹ, vợ con, đồng nghiệp, bạn bè, lãnh đạo…
Nhưng cha mẹ thì chẳng còn, đồng nghiệp, lãnh đạo thì không ở cùng, vợ con là những người lãnh đủ những trận võ mồm của ông…ngày nọ qua ngày kia, không khí gia đình tôi nặng nề, oi nồng bởi mùi rượu và những lời nói cay nghiêt….
Tôi là con gái, ít bị đánh hơn, nhưng khổ nhất là anh và em trai của tôi. Tuổi mới lớn, lại ham chơi nên trở thành tâm điểm của những trận đòn roi như thời trung cổ.
Bố tôi dùng cả dây diện để đánh anh trai tôi chỉ vì anh ấy đi chơi về muộn. Em trai tôi, lúc đó mới 6-7 tuổi không biết bao nhiêu lần đã ngã dúi khi bố tôi đi đôi dày nhà binh đá con không thương tiếc …Còn mẹ tôi, mặt mày thỉnh thoảng lại sưng lên vì bị “ngã xe”.
Giá rượu thì không đắt đỏ, nhưng nếu mang tiền đi mua rượu cho bố mà dùng vào việc khác thì mẹ tôi không phải suốt ngày cháy nắng đi bán hàng, còn tôi, không phải một buổi đi học, một buổi đi làm. Mẹ con tôi, vốn đã quen làm từ trước, chưa bao giờ phải hỏi tiền của bố, nhưng chẳng bao giờ bố đưa tiền cho mẹ với lý do…phải để lo việc lớn.
Rượu quê tôi
Quê tôi, nổi tiếng là vùng đất nấu rượu ngon. Nhưng chắc chưa có ai thống kê những mất mát do cái tiếng tăm đó mang lại.Người làng tôi vô số người biết nấu rượu, và ai cũng biết uống rượu, già trẻ, gái trai…một người ở quê tôi cho biết, bây giờ đến chơi nhà, mọi người lấy rượu mời thay nước, thay trà…
Nhưng có lẽ, chẳng có ai trong làng tôi đếm nổi số người chết do rượu hoặc liên quan đến rượu, mà điển hình nhất là những người đi thoát ly (chủ yếu là bộ đội, công an, hoặc công chức)…có ít tiền lương, nghỉ hưu, về nhà nướng cho những quán rượu.
Nào là xơ gan cổ chướng, nào là ngã xe do tai nạn, say rượu rồi ngã chết…
Điều mà chưa ai nói đến là phụ nữ, trẻ con làng tôi khổ thế nào vì rượu.
Làm ăn đầu tắt mặt tối, về nhà không cẩn thận chồng sẽ đánh, bỏ quê hương đi làm thuê xứ khác để nuôi con, nuôi chồng và làm đầy những chai rượu của chồng. Những ông bố ngất ngư bên chai rượu không còn thời gian dạy con, hoặc chỉ biết dạy con cách uống rượu…
Nhìn về rượu
Văn hóa là một cái gì đẹp, có ích, nhưng có nhiều lúc, những thứ không đẹp, không có ích cũng được coi là văn hóa. Rượu là một ví dụ.Rượu đi vào thơ ca như một thú chơi tao nhã, rượu có mặt ở các bàn tiệc như một phương tiện để giao lưu, kết nối xã hội, rượu cũng được nhìn như một công cụ đo bản lĩnh của người đàn ông.
Rượu xuất hiện tại nhiều sự kiện xã hội
Nhưng có lẽ, chúng ta phải nhìn nhận một cách nghiêm túc rằng rượu là một chất gây nghiện, có tác dụng không chỉ đối với người sử dụng mà đối với những người sống xung quanh người đó ở góc độ sức khỏe, bạo lực, kinh tế, và phát triển xã hội.
Tác động của rượu đến sức khỏe …mọi người sẽ có câu trả lời rất nhanh khi gõ vào google với từ khóa tác động của rượu.
Đối với gia đình, xã hội, rượu là một tác nhân gây bạo lực gia đình, và bất ổn trong xã hội.
Về góc độ kinh tế, rượu gây ra thiếu thốn tiền bạc, hao hụt sức lao động. Đối với sự phát triển xã hội, rượu kéo con người vào vòng xoáy của bệnh tật, thất vọng, và lộn xộn.
Ấy thế mà, ít người nói đến nói một cách nghiêm túc, quan trọng hơn, chẳng ai nói phải làm gì với nó.
Rượu và nghề
Trong một khóa học được lựa chọn ở chương trình sau đại học tại Hoa Kỳ, tôi chọn khóa học về tư vấn cai nghiện.Nhưng thực tình, đến đó để giải quyết vấn đề cá nhân của mình, tôi khóc, chia sẻ những ám ảnh tuổi thơ sống chung với một người cha nghiện rượu.
Cô giáo của tôi, cũng là người đã giúp trị liệu cho tôi dặn tôi “không thay đổi được quá khứ đâu, việc có thể làm là cố gắng đừng để quá khứ …ảnh hưởng đến cuộc sống của mình”.
“Tôi nói với bố mình những gì đã được học, đưa ông đi cai nghiện, và áp dụng nhiều biện pháp “ngăn cản” không cho ông có cơ hội tiếp xúc với rượu. “
Những nước tiên tiến như Úc, Hoa Kỳ…hay kể cả những nước rất gần Việt Nam (Indonexia, Thái Lan)..người ta đã đặt rượu vào đúng ví trị của nó.
Một chất gây nghiện có tác hại cần phải loại bỏ ra khỏi cuộc sống, cần có chương trình điều tổng thể từ y tế, tâm lý, xã hội đối với người cai nghiện.
Người ta áp dụng chương trình cắt cơn tập trung cho người nghiện rượu, nhưng quan trọng hơn, là sử dụng liệu pháp nhận thức hành vi, giúp cho những người nghiện rượu nhận ra tác hại của rượu đối với bản thân và người khác, học về những cách ứng phó có lợi, và rèn luyện những thói quen tích cực cho bản thân.
Tôi nói với bố mình những gì đã được học, đưa ông đi cai nghiện, và áp dụng nhiều biện pháp “ngăn cản” không cho ông có cơ hội tiếp xúc với rượu.
Việc ông ấy nhận thức được vấn đề của mình, không còn cho đó là “chuyện bình thường”, phần nào hợp tác với gia đình để chữa trị bệnh…đã giúp tôi tự tin và nghĩ xa hơn về việc điều trị cho những người nghiện rượu ở xung quanh tôi.
THEO BBC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét