Việt Nam: Mềm hay cứng?
Xin đừng hiểu lầm: Cả chuyện mềm hay cứng ở đây đều liên quan đến quyền lực.
Trên thế giới, nói đến quyền lực mềm hay cứng, người ta hay liên hệ
đến quan hệ giữa nước này và nước khác. Bởi vậy, trong rất nhiều trường
hợp, hai khái niệm “quyền lực mềm” (soft power) và chính sách “ngoại
giao văn hóa” (cultural diplomacy) được xem như đồng nghĩa với nhau. Tuy
nhiên, khái niệm quyền lực mềm và quyền lực cứng không phải chỉ giới
hạn trong phạm vi bang giao quốc tế mà còn cả trong chính trị đối nội
nữa.
Rất dễ thấy là ở hầu hết các quốc gia dân chủ, chính phủ đều có
khuynh hướng sử dụng quyền lực mềm. Không ai dám sử dụng sức mạnh quân
sự hay kinh tế để uy hiếp hay thu phục quần chúng cả. Làm thế là vi phạm
luật pháp và hậu quả nhãn tiền là chính phủ chắc chắn sẽ bị sụp đổ hay
bị thay thế muộn nhất là trong kỳ bầu cử kế tiếp. Mọi chính phủ dân chủ
đều tìm cách thuyết phục quần chúng: Giới lãnh đạo thường xuyên xuất
hiện trước các cơ quan truyền thông cũng như tiếp xúc trực tiếp với cử
tri để giải thích các chính sách cũng như thu phục nhân tâm.
Trong các chế độ độc tài, như Việt Nam, thì khác.
Trước đây, đặc biệt trước năm 1975, ở miền Bắc và trước năm 1954, ở
cả nước, chính quyền và đảng Cộng sản sử dụng cả hai loại quyền lực mềm
và cứng.
Cứng, họ sẵn sàng trấn áp tất cả những người phản kháng hay bất phục
tùng, thậm chí, cả những người có khả năng bất phục tùng: thành phần địa
chủ, tư sản, trí thức và một số tôn giáo vốn có quan hệ không mấy hòa
thuận với họ (như Công giáo, Cao Đài, và Phật giáo Hòa Hảo). Bộ đội,
công an và mật thám được huy động triệt để, lúc nào cũng có mặt để chờ
lệnh. Tòa án được sử dụng như một công cụ của chuyên chính vô sản. Án,
không những giành cho người bị xem là có tội mà còn cả cho con cháu của
họ nữa: không phải án chung thân mà là án truyền kiếp. Chính sách lương
thực được ra đời để quản lý bao tử của người dân: ai vâng lời thì cho ăn
đủ no; ai bất tuân thì bị bỏ đói.
Cả giáo dục và văn hóa cũng được sử dụng như một thứ quyền lực cứng:
thuộc thành phần “phản động” hay “khả nghi” thì không được vào đại học
và không được xuất bản hay trình diễn dưới mọi hình thức. Y tế cũng vậy:
có bệnh viện riêng cho dân chúng và bệnh viện riêng cho cán bộ. Giữa
cán bộ cấp cao và cấp thấp cũng khác: bệnh viện khác, bác sĩ khác, thuốc
men khác, cách thức đối đãi cũng khác.
Cuối cùng, ngay cả nghĩa địa cũng trở thành nơi mặc cả của quyền lực:
giới lãnh đạo trung ương cũng như những người được xem là có công với
“cách mạng” được chôn cất tử tế ở những nghĩa trang sang trọng hơn (như
nghĩa trang Mai Dịch, được xây dựng từ năm 1956 ở Hà Nội).
Nhưng bên cạnh quyền lực cứng, họ cũng không quên sử dụng quyền lực
mềm một cách thường xuyên với hệ thống truyền thông đại chúng ra rả vào
tai của từng người, từng người. Trong cái gọi là quyền lực mềm ấy, chính
quyền và đảng cộng sản sử dụng chủ yếu ba thứ: một, truyền thống; hai,
lý tưởng; và ba, huyền thoại.
Về truyền thống, người ta viết lại lịch sử của dân tộc, chỉ nhấn mạnh
vào khía cạnh tích cực, phù hợp với những điều nhà cầm quyền muốn tuyên
dương. Trước năm 1975, Tố Hữu có câu thơ rất tiêu biểu cho việc sử dụng
truyền thống ấy: “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Khi sử dụng truyền
thống, người ta không những cổ vũ cho lòng yêu nước mà còn cổ vũ cho cả
tinh thần bài ngoại, đặc biệt bài Tây phương: Tây phương đồng nghĩa với
đế quốc và xâm lược.
Về lý tưởng, họ nhấn mạnh đến hai cấp độ khác nhau: Ở bình diện quốc
gia, đó là sự độc lập, thống nhất và tự do; ở bình diện quốc tế, đó là
sự bình đẳng, hòa bình và thịnh vượng. Ở cả hai bình diện, lý tưởng nào
cũng cao cả. Vì chúng, người ta sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và gia
đình của mình.
Về huyền thoại, có thể nói, trong lịch sử, không có chế độ nào sản
xuất ra nhiều huyền thoại như là chế độ cộng sản. Xưa, cũng có huyền
thoại, nhưng do điều kiện in ấn cũng như truyền thông hạn chế, chỉ phổ
biến qua tin đồn, số lượng huyền thoại của mỗi hoàng đế cũng như mỗi
triều đại khá hạn chế. Trong khi đó, chủ nghĩa cộng sản ra đời cùng với
sự phát triển vượt bậc của các loại hình truyền thông, từ sách và báo
đến truyền thanh và truyền hình. Tất cả đều được tận dụng để xây dựng
huyền thoại. Không phải chỉ có huyền thoại về đảng (đỉnh cao trí tuệ và
bách chiến bách thắng) mà còn có huyền thoại về từng cá nhân trong giới
lãnh đạo. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản trước năm 1975 chủ yếu là
sức hấp dẫn của huyền thoại.
Sau này, đặc biệt trong khoảng một hai thập niên trở lại đây, nhà cầm
quyền Việt Nam vẫn cố gắng tuyên truyền nhưng rõ ràng là vấn đề tuyên
truyền của họ gặp rất nhiều khó khăn. Người ta vẫn giữ độc quyền, hoàn
toàn độc quyền trong lãnh vực truyền thông, nhưng với sự phát triển của
các hình thức truyền thông xã hội mới gắn liền với internet, như blog
hay facebook, tính chất độc quyền ấy dần dần lộ ra những vết thủng to
lớn.
Mất độc quyền về truyền thông, người ta cũng mất cả độc quyền trong
việc viết lại lịch sử. Truyền thống không còn đứng về phía nhà cầm quyền
nữa. Ngoài ra, trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, cái gọi là truyền
thống không chỉ giới hạn trong nội bộ một quốc gia mà còn mở rộng ra cả
nhân loại. Nhưng truyền thống nhân loại lại gắn liền với quá trình tự do
hóa và dân chủ hóa, hầu như hoàn toàn trái ngược với thực tại Việt Nam.
Càng nói nhiều đến truyền thống nhân loại, bộ mặt thật của chế độ lại
càng trở nên đen đúa.
Còn các lý tưởng, vốn là những điểm mạnh nhất để nối kết mọi người
lại với nhau, thì lại bị sụp đổ, thoạt đầu, một phần, ngay từ tháng 4
năm 1975, khi người dân miền Bắc đối diện với thực tế tương đối sung túc
và có văn hóa ở miền Nam và người dân miền Nam đối diện với thực tế bần
cùng ở miền Bắc; sau đó, hầu như sụp đổ hoàn toàn khi các chế độ cộng
sản ở Nga và Đông Âu lần lượt cáo chung.
Sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới cũng dẫn
đến sự sụp đổ của các huyền thoại liên quan đến đảng và lãnh tụ ở Việt
Nam. Nhìn lại, trong giới lãnh đạo cộng sản, chỉ có hai người còn ít
nhiều lấp lánh hào quang của huyền thoại: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.
Điều nghịch lý là sự tồn tại dai dẳng của các huyền thoại gắn liền với
hai nhân vật này không xuất phát từ tài năng hay công lao của họ mà chủ
yếu là từ tính chất nạn nhân của họ: Cả hai đều được tô vẽ như những kẻ
bị tước đoạt quyền lực. Không những Võ Nguyên Giáp mà cả Hồ Chí Minh
nữa, ngay từ đầu thập niên 1960, đã bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ tước hết
mọi quyền lực. Họ không còn quyền quyết định gì nữa. Một phần, nhờ thế,
họ trở thành những kẻ vô tội trước các sai lầm và các tội ác mà đảng đã
phạm phải từ đó về sau.
Không có truyền thống, lý tưởng và huyền thoại, nhà cầm quyền Việt
Nam hoàn toàn mất hết khả năng sử dụng quyền lực mềm. Ngay cả những
phương tiện, ở những nơi khác, vốn gắn liền với quyền lực mềm, như
truyền thông và giáo dục, ở Việt Nam, những năm gần đây, cũng đều trở
thành biểu hiện của quyền lực cứng. Trong sinh hoạt truyền thông, những
buổi giao ban của họ được hình dung như những buổi đấu tố; trên mặt báo
hay màn hình, họ xuất hiện một cách hung hãn với những lời lẽ đe dọa, vu
khống, trấn áp đầy thô bạo. Họ mở ra vô số các phiên tòa để kết tội
những người lên tiếng đòi hỏi tự do, dân chủ, hoặc thậm chí, chủ quyền
quốc gia.
Quyền lực cứng, thực sự cứng, lại càng được sử dụng triệt để. Với dân
chúng đòi đất hoặc chống lại lệnh cưỡng chế ư? Họ xua công an đến đánh
dập dã man. Với những người xuống đường biểu tình chống lại Trung Quốc
ư? Họ cũng đạp vào mặt, còng tay, chụp mũ cho một cái tội vớ vẩn gì đó
để thẩy vào nhà tù. Với dân chúng bình thường và vô tội khác, họ cũng
không ngớt uy hiếp để người ta phải sợ hãi. Thỉnh thoảng lại có tin
người này người nọ bị công an đánh chết.
Về phương diện kinh tế, người ta khăng khăng giữ lại thành phần kinh
tế quốc doanh chủ yếu để, ngoài việc làm giàu cho cá nhân và gia đình,
còn dễ dàng mua chuộc sự trung thành của các thuộc hạ. Các chức vụ được
sử dụng như hình thức thưởng công và kết bè kết cánh.
Trong quan hệ quốc tế, người ta thấy rõ và càng ngày càng thấy rõ
quyền lực cứng rất ít có kết quả. Mạnh như Mỹ mà vẫn không thành công ở
Iraq và Afghanistan, ở Iran và Bắc Hàn, ở Libya và Syria. Trong phạm vi
quốc gia, với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu vào cuối thập
niên 1980 và sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông trong mấy
năm vừa qua, người ta càng thấy rõ việc sử dụng quyền lực cứng đối với
dân chúng không những không có hiệu quả mà còn không có triển vọng tồn
tại lâu dài.
Số phận của những người chỉ biết sử
dụng quyền lực cứng là chui dưới hầm (như Saddam Hussein) hoặc dưới ống
cống (như Muammar Gaddafi).
Và vật cuối cùng họ được nhìn thấy là nòng súng hoặc sợi dây thòng lọng.
Theo VOA Blog
Chính phủ: 127 tập đoàn, tổng công ty nợ gần 1,35 triệu tỷ đồng
Có số nợ vay tương đối lớn là Tập đoàn Dầu khí 124.499 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực 103.194 tỷ, Tổng công ty Hàng hải 31.681 tỷ…
Dù đánh giá là các doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty vẫn có sự tăng trưởng đáng kể,
song Chính phủ cũng nhận định hiệu quả sản xuất kinh doanh của khối này
chưa tương xứng với quy mô vốn, tài sản của doanh nghiệp, năng suất lao
động không cao.
127 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ – công ty con
có tổng số nợ phải trả là 1.348.752 tỷ đồng, tăng 6% so với 2011, chiếm
56% tổng nguồn vốn.
Đây là một trong rất nhiều con số đáng chú ý ở báo cáo tình hình tài
chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2012 của các doanh
nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có cổ phẩn,
vốn góp của nhà nước, vừa được Chính phủ gửi đến Quốc hội.
Theo báo cáo, kết thúc năm tài chính 2012, cả nước có 846 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Báo cáo hợp nhất của các doanh nghiệp này cho biết các thông tin:
tổng tài sản 2.569.433 tỷ đồng vốn chủ sỡ hữu 1.019.578 tỷ, doanh thu
đạt 1.709.171 tỷ, lợi nhuận trước thuế là 166.941 tỷ, nộp ngân sách
221.673 tỷ.
So với năm 2011, các kết quả trên lần lượt tăng 13%, 26%, 4,3% 7% và 12%.
Trong khi khối các tập đoàn lợi nhuận đạt 125.187 tỷ đồng, tăng 12%
thì khối tổng công ty chỉ đạt 26.965 tỷ và tăng 2% so với năm trước.
Mặc dù nhận xét khối tổng công ty có mức tăng trưởng chậm, song Chính
phủ khẳng định các tập đoàn, tổng công ty vẫn đóng vai trò chủ đạo
trong hoạt động của khối doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc.
Dành phần riêng để báo cáo về tình hình tài chính và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của 127 tập đoàn, tổng công ty, Chính phủ cho
biết tổng tài sản của khối này là 2.392.274 tỷ đồng, tăng 28,2% so với
năm 2011.
Các con số về đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn đều tăng lần lượt ở
mức 28,25 và 5,07% với các con số tương ứng là 153.575 tỷ và 171.373
tỷ.
Vẫn theo báo cáo hợp nhất, khối này có tổng số nợ phải thu năm 2012
là 275.975 tỷ đồng, trong đó nợ phải thu khó đòi là 13.490 tỷ đồng, tăng
24,5% so với năm trước và chiếm 4,89% tổng số nợ phải thu.
Chính phủ cũng điểm danh một số công ty mẹ có tỷ lệ nợ phải thu/tổng
tài sản ở mức trên 50%, thậm chí trên 60%. Như Tổng công ty xây dựng
công trình giao thông 8 nợ phải thu chiếm 66%, hay công ty mẹ – Tổng
công ty xây dựng công trình giao thông 5 chiếm 62%…
Con số giảm hiếm hoi được dành cho tổng số hàng tồn kho với 222.264
tỷ đồng, giảm 4% so với thực hiện năm 2011 và chiếm 9,3% tổng tài sản.
Với nợ phải trả, con số luôn được coi là nhạy cảm của khối tập đoàn,
tổng công ty, báo cáo cho hay hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân
năm 2012 là 1,46 lần.
Riêng số này báo cáo không đưa ra so sánh. Song, theo văn bản trả lời
chất vấn của Bộ trưởng Bộ Tài chính vào kỳ họp cuối năm 2012 thì tính
đến thời điểm 31/12/2011, tổng số nợ phải trả của tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước là 1.292.400 tỷ đồng, tăng 18,9% so với 2010. Hệ số nợ
phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2011 là 1,77 lần.
Tăng nhẹ 2% so với năm trước là nợ vay từ các ngân hàng thương mại và
tổ chức tín dụng với 402.955 tỷ đồng. Có số nợ vay tương đối lớn là Tập
đoàn Dầu khí 124.499 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực 103.194 tỷ, Tổng công
ty Hàng hải 31.681 tỷ…
Các tập đoàn, tổng công ty cũng đang nợ nước ngoài 315.851 tỷ đồng,
vay ngắn hạn là 70.659 tỷ, dài hạn là 245.192 tỷ. Trong đó, vay lại vốn
ODA của Chính phủ là 54,574 tỷ đồng, vay nước ngoài được Chính phủ bảo
lãnh là 150.681 tỷ, còn lại các doanh nghiệp tự vay, tự trả.
Chủ yếu từ nguồn lợi nhuận sau thuế, vốn chủ sở hữu của các tập đoàn
là 921.638 tỷ đồng, tăng 197.831 tỷ (tương đươn 27%) so với thực hiện
năm 2011, chiếm 39% tổng nguồn vốn, báo cáo cho hay.
Chính phủ cho rằng, xét tổng thể, các tập đoàn, tổng công ty bảo toàn
được vốn chủ sở hữu, hệ số bảo toàn vốn bình quân là 1,27 lần. Nhưng
cũng có nhưng tổng công ty không bảo toàn được vốn chủ sở hữu do kinh
doanh thua lỗ, gặp nhiều rủi ro, không tự chủ được về tài chính dẫn đến
vốn chủ sở hữu giảm sút (hệ số bảo toàn vốn H nhỏ hơn 1 hoặc âm).
Các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu âm được điểm tên là Tổng công ty
Xăng dầu Quân đội – 205 tỷ, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam – 2.177 tỷ,
Tổng công ty Cơ khí xây dựng – 316 tỷ…
Báo cáo hợp nhất của 25 tập đoàn, tổng công ty đến 31/12/2012 có lỗ
lũy kế là 17.033 tỷ đồng và 16 công ty mẹ lỗ lũy kế 11.820 tỷ đồng, báo
cáo cho hay.
Có tên trong danh sách lỗ này là Tổng công ty Hàng hải Việt Nam với
4.562 tỷ đồng, Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC lỗ 246 tỷ,
Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 8 lỗ 44 tỷ…
Tại báo cáo, Chính phủ vẫn nêu tình trạng đầu tư ra ngoài ngành của
doanh nghiệp nhà nước còn lớn, kém hiệu quả, trong khi hầu hết các “ông
lớn” đều đang đầu tư dựa trên vốn vay.
Các con số cụ thể cho thấy giá trị đầu tư vào chứng khoán, vào quỹ
đầu tư, bảo hiểm của các công ty mẹ đều giảm, riêng đầu tư vào ngân hàng
lại tăng 3% so với năm 2011, với 13.152 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, giá trị đầu tư vào bất động sản của các công ty mẹ không
có ngành kinh doanh chính trong lĩnh vực bất động sản là 6.089 tỷ đồng,
tăng 1.188 tỷ so với năm trước.
Dù đánh giá là các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn,
tổng công ty vẫn có sự tăng trưởng đáng kể, song Chính phủ cũng nhận
định hiệu quả sản xuất kinh doanh của khối này chưa tương xứng với quy
mô vốn, tài sản của doanh nghiệp, năng suất lao động không cao.
Việc tồn tại tình trạng độc quyền trong một số lĩnh vực làm cho doanh
nghiệp nhà nước không chịu sức ép cạnh tranh, dẫn đến sức ỳ lớn, báo
cáo viết.
Chính phủ cũng nêu lại một thực trạng được nhắc đến rất nhiều lần tại
nghị trường là năng lực, quản trị ban điều hành của một số tập đoàn,
tổng công ty còn yếu kém, làm thất thoát vốn, tài sản, để xảy ra nợ xấu,
thua lỗ liên tục nhưng chưa hoặc không được xử lý trách nhiệm rõ ràng,
cụ thể.
Vì “đời cha thằng khác ăn mặn”.
ĐBQH Phạm Trọng Nhân thẳng toẹt bằng mấy chữ tuyệt vời “tận thu, tận gom trong nhiệm kỳ”
Một buổi chiều ngắn ngủi bàng bạc trong gió đông bắc đầu mùa, nghị
trường nóng bỏng khi mà lặp đi lặp lại từ phát biểu này sang phát biểu
kia những từ ngữ chứa đựng chút ít xót xa và rất nhiều bức xúc. Nào là
“Dàn trải”. Nào là “Bỏ hoang”. Nào là “Nợ đọng”. Rồi thì “Trách nhiệm”.
Rồi thì “Thất thoát”. “Tham Nhũng”. “Lãng Phí”.
Chẳng cần giới thiệu gì thêm cũng biết là Quốc hội đang bàn về Luật Đầu tư công.
Chỉ một chữ “công”, trong phân biệt với chữ “tư”, cho ra rất nhiều sự thật mà chúng ta đang phải đương nhiên chấp nhận.
Sự thật đầu tiên là làm cái gì bằng tiền thuế của dân cũng đắt hơn
làm bằng tiền túi của dân. Thì đó, một cái nhà WC dát vàng ở Thủ đô chưa
có thiết kế đã được Chủ đầu tư tính toán hết “có 1 tỷ”. Trong khi các
nhà thầu sẵn sàng làm với giá 300 triệu.
Sự thật thứ hai là các công trình công có khi chưa kịp khánh thành đã hỏng hóc.
Sự thật thứ ba là chỉ có các công trình công mới làm xong rồi bỏ
hoang. Ở đâu ra ư, ngay “dưới chân” Bộ trưởng Bộ KH và ĐT, trong hình
hài của những trụ sở, những khu chợ, những mái trường, những bảo tàng,
những công viên, mà có người thật nhiều hơn đùa gọi là “công viên nòng
nọc” hay “bảo tàng muỗi”. Nhưng rất lạ, cái bỏ hoang cứ bỏ hoang, cái
“cần thiết” vẫn được đệ trình để xây mới.
Nhớ hôm thảo luận tổ, Bộ trưởng
Vinh dốc gan ruột bảo “cứ để theo cái phong trào như cách đây ba, bốn
năm thì không biết hôm nay sẽ vỡ nợ như thế nào. Tôi có thể nói là đất
nước này vỡ nợ do xây dựng cơ bản tràn lan”.
Cái phong trào đó, chiều qua đã được ĐBQH Phạm Trọng Nhân thẳng toẹt bằng mấy chữ “tận thu, tận gom trong nhiệm kỳ”. Hay nói như
Bộ trưởng Vinh là “cứ vay, cứ
làm, rồi tạm ứng kho bạc trước, cứ nói với doanh nghiệp là anh đi vay về
làm đi rồi tôi tìm cách trả nhưng không có tiền trả”.
Tư duy nhiệm kỳ một thời từng khiến cả một tỉnh thành đại công trường
dang dở. Và tư duy nhiệm kỳ khiến các quan chức mỗi độ cáo lão bỗng ùn
ùn xây biệt thự. Còn nợ nần thì dân chịu. Dân chưa trả hết thì con dân
trả, cháu dân trả…Không ngẫu nhiên, mười mấy ý kiến phát biểu hội
trường, đã 3-4 ý kiến nói nhắc đến nợ nần. Nợ của ngày hôm nay và món nợ
mà con cháu phải trả ngày mai. Một món nợ, mà dân gian thời @ đã nói
chính xác tuyệt đối, vì “đời cha thằng khác ăn mặn”.
Cũng hôm qua, ĐBQH Lê Thị Nguyệt đã đề xuất một cơ chế gọi là “trách
nhiệm đến cùng”. Nói mĩ miều là tránh tư duy nhiệm kỳ, gắn trách nhiệm
với người đứng đầu và truy trách nhiệm để
“tránh việc cứ ký rồi con cháu trả”.
Nhưng trong ngày QH họp bàn về đầu tư công, thật mỉa mai, báo chí đưa
tin một huyện ở ngoại thành Hà Nội đang “xin” được đầu tư 20 cái nhà WC
công cộng. Còn ở Hải Phòng, 3 hôm trước, người ta, không hề đỏ mặt,
giải thích lý do không truy cứu trách nhiệm trước sai phạm của một quan
chức ngành tòa án là vì ông này đã về hưu.
Đấy, lại là dân gian nói không sai “Hạ cánh an toàn”. Còn thứ “Kim
bài miễn tất” từ chính trong tư duy những người thực thi pháp luật như
vậy thì làm sao mà thay đổi được gì!
THEO ĐÀO TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét