Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Ngày 25/11/2013 - Nỗi đau nước Việt & Nỗi đau sân bay

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Nỗi đau nước Việt

Nhân chuyển đi công tác, dự hội thảo ở Đài Loan. Sau khi kết thúc hội nghị, tranh thủ một vài ngày còn lại ở hòn đảo này, người viết có đi tham quan một vài nơi.
Hôm nay, thử đi ra biển Đạm Thủy, nơi địa đầu của Đài Bắc, thủ phủ của Đài Loan. Vài nhận xét chung thì biển ở đây không có đẹp, nước không có xanh và cát không có trắng mịn như biển Việt Nam nhưng người ta làm quy hoạch rất tốt và không khí rất trong lành.
Đi lang thang một mình trên khu du lịch, cảm thấy xa lạ và lạc lõng ở hòn đảo này. Bên cạnh người bản xứ còn có rất nhiều du khách nước ngoài, những sinh viên du học tại xứ này, người nước ngoài tới công tác, lao động, làm việc và đặc biệt là có thể nghe thấy tiếng Việt Nam ở khắp nơi. Vì hôm nay là ngày cuối tuần cho nên có rất nhiều thanh niên trẻ tuổi Việt Nam qua đây làm công nhân xuất khẩu lao động tranh thủ thời gian nghỉ đi chơi. Họ thường đi theo đôi theo cặp, họ ngồi ăn thịt, uống bia trên bãi cỏ, họ cười đùa nói chuyện, ôm hôn nhau và chụp ảnh, rất vô tư và đôi khi tự nhiên thái quá … tới mức không cần biết thái độ của người dân bản xứ lẫn những người xung quanh ở mảnh đất này.
Theo số liệu đọc được ở trên mạng thì ở Đài Loan có hơn 80.000 thanh niên (trai, gái) Việt Nam sang xuất khẩu lao động, gần 100.000 cô dâu Việt Nam kết hôn với người Đài Loan và hơn 160,000 đứa trẻ lai Việt Đài và một con số không hề nhỏ, nhưng khá khiêm tốn so với hai nhóm trên là gần 4000 sinh viên du học. Đây gần như là một cộng đồng người nước ngoài lớn nhất tại Đài Loan nhưng dường như giữa những nhóm này không có nhiều sự tương tác, liên hệ, tương trợ và bản thân họ cũng không nhận được nhiều sự giúp đỡ từ cơ quan hữu trách Việt Nam tại Đài Loan.

Đang cô đơn lạc lõng thì nhìn thấy một nhóm ba người công nhân Việt đang ngồi ăn uống trên thảm cỏ, một trai và hai gái, họ rất trẻ, chỉ ở trong độ tuổi 20. Thử ngồi gần lại và bắt chuyện với họ nhã nhặn và lịch sự:
“Các bạn từ Việt Nam qua đây phải không?”
Họ cũng lịch sự và thân thiện đáp lại:
“Vâng ! Anh ngồi đây ăn với chúng em!” Rồi đưa một xiên thịt nướng ra mời. Trong lòng cảm thấy rất vui, ấm áp và cảm động, một chút thân thiện vì dù sao cũng được gặp đồng bào Việt Nam của mình ở cái xứ sở này.
Thế rồi qua câu chuyện, họ trở nên thân thiện, rất tin cậy và chia sẻ rất nhiều điều. Đa phần những người bạn trẻ này sinh tại những vùng quê nghèo ở Việt Nam: Nghệ An, Hưng Yên, Thái Nguyên, vv … Họ không có điều kiện học hành nhiều hay khi còn đi học thì rất chểnh mảng nên phải nghỉ học sớm, chưa tốt nghiệp Phổ Thông Trung Học, họ cũng đã đi làm thuê nhiều nơi nhưng thu nhập không đủ sống và giúp đỡ gia đình nên lo lót tiền bạc, nộp cho các công ty Môi giới Xuất Khẩu Lao Động để qua Đài Loan làm việc trong các công ty, nhà xưởng theo hợp đồng với chủ thuê, những mong có một khoản vốn để giành để về giúp đỡ gia đình và làm ăn. Số tiền mà họ phải nộp cho môi giới để được sang Đài Loan tương đối lớn, từ 6000 – 8000 USD một suất đi lao động, đa phần họ không thể có số tiền này ở Việt Nam mà phải vay mượn hay bán nhà cửa ruộng vườn. Khi qua tới Đài Loan, họ bị chủ thuê lao động và công ty môi giới giữ giấy tờ, hộ chiếu và hợp đồng thì soạn bằng cái chữ tượng hình mà họ không tài nào hiểu nổi (tiếng Trung), và mức lương tối thiểu mà họ được trả theo quy định của Luật lao động tại Đài Loan là rất thấp, chỉ quãng 600 USD, họ phải làm thêm giờ, tăng ca rất nhiều mới có thêm thu nhập, nhưng cũng bị chủ thuê cắt xén, thêm bớt và bóc lột rất thậm tệ. Thu nhập của họ thật sự không bõ bèn gì với sức lao động hao phí mà họ đã bỏ ra. Một em gái tháng sau là phải về Việt Nam sau khi hết hợp đồng lao động, ở đây làm việc tới 6 năm rồi, cho biết rằng: lần này về em chỉ để giành được có hơn 1000 USD, chỉ đủ mua quà cho gia đình. Trời ơi !
Tâm sự với những bạn trẻ này, hỏi vì sao không ở nhà cố gắng làm ăn: làm nông nghiệp chẳng hạn? Ở những nước phát triển như Nhật, Úc, nông nghiệp rất phát triển và nông dân rất giàu cỏ. Tất nhiên để đời sống người nông dân sung túc hơn thì cần có khoa học, kĩ thuật và giáo dục, để định hướng cho người nông dân cách làm ăn và để gia tăng giá trị nông sản … nhưng điều kiện thổ nhưỡng để phát triển nông nghiệp của Việt Nam rất tốt, tốt hơn cả Đài Loan … rồi khuyên các em sau khi hết thời gian lao động tại đây hãy trở về Việt Nam, đừng sang đây lại nữa … nên quay về làm nông nghiệp, rồi cuộc sống cũng sẽ khấm khá hơn. Họ nói rằng: ở quê em bây giờ cũng không ai làm ruộng nữa. Được biết, ở nông thôn Việt Nam ngày nay, người nông dân thật sự cũng không muốn làm ruộng nữa, họ mong nhà nước thu hồi đất rồi có tiền đền bù, xây được cái nhà to, mua sắm xe cộ, vật dụng rồi còn lại một khoản tiền thì đem gửi vào ngân hàng hay đưa con cái đi lao động xuất khẩu ở Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Nga hay Trung Đông, vv … Vậy là đủ. Người viết vốn có hiểu biết chút ít về kinh tế, về sự trượt giá và sự lãng phí nguồn vốn, nhân lực ở Việt Nam nên cảm thấy xót xa.
Như những người bạn, người viết đi cùng ba em đi thuyền máy ra bán đảo chơi, nơi đó hình như tên là Bắc Đẩu. Dưới đây là một vài tấm hình chụp cho các em, những nam thanh nữ tú, rất dễ mến, hiền lành và chất phác.

Không thể cầm nổi nước mắt. Chính đất nước nghèo đói, lạc hậu và số phận nghiệt ngã đã đẩy các em phải xa xứ theo cái cách như thế này.
Giá như đất nước giàu có, tốt đẹp hơn, họ và rất nhiều người như họ có điều kiện được chăm lo y tế, giáo dục, được đầu tư tăng cường cái vốn con người (human capital) cho bản thân thì họ sẽ làm được nhiều việc hơn, đóng góp được cho Việt Nam nhiều hơn chứ không phải qua xứ người cho chủ thuê bản xứ bóc lột, vv … và ngày hôm nay thân phận người Việt ở trên khắp thế giới này đang bị coi thường, khinh rẻ … và hộ chiếu của Việt Nam xin visa đi đâu cũng khó khăn. Bây giờ khắp nơi trên thế giới này, đâu đâu có người Việt cũng thấy tệ nạn: buôn lậu, trồng cần sa, buôn bán cả người … và người Việt Nam lại bị chính tòa đại sứ, cơ quan ngoại giao Việt Nam ở khắp nơi làm tiền. Vì sao đất nước Việt Nam ngày hôm nay lại bi thảm và nhục nhã đến như vậy ?
Chúng ta thường tự hào là con Hồng cháu Lạc, là 4000 năm văn hiến đậm đà bản sắc dân tộc, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm … chúng ta tự hào là đánh thắng bốn đế quốc to trên thế giới này , là nước duy nhất trên thế giới thắng được Mỹ. Nhưng sau gần 40 năm, người chiến thắng vẫn lẹt đẹt cầm đèn đỏ trên hầu như tất cả các lĩnh vưc: kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa … lẫn những giá trị phổ quát của nhân loại như Tự do, dân chủ và nhân quyền bị chà đạp. Trúng cử vào Ủy ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc có làm cho tình hình tốt đẹp hơn được không … khi mà chính chúng ta đang buôn bán đồng bào của mình ? Xuất khẩu lao động không phải là một hình thức buôn người thì là cái gì ?
‘Khi nào những thanh niên Việt Nam còn phải xếp hàng chờ đi xuất khẩu lao động và phụ nữ Việt Nam phải chờ thi tuyển để lấy chồng ngoại quốc, những sinh viên giỏi của Việt Nam phải bỏ đi du học và tìm cách ở lại làm việc không về nữa thì đất nước làm gì có Độc Lập – Tự Do với Hạnh Phúc như Hồ Chí Minh từng nói.
Tất cả người Việt trên toàn thế giới này, những ai còn tự hào về dòng giống Việt Nam của mình và thấy mình còn mắc nợ, có trách nhiệm với dân tộc cần phải thức tỉnh, cần phải làm một cái gì đó để làm thay đổi đất nước.
Trong thể ký 20, Việt Nam đã mất quá nhiều. Những thế hệ trước đã lãng phí mồ hôi, xương máu và nhân mạng cho những cuộc chiến ý thức hệ tàn khốc, huynh đệ tương tàn … và ngày nay Việt Nam là một trong những nước bị chia rẽ, phân tán nhiều nhất trên thế giới này. Cho đến hôm nay, người Việt Nam chúng ta trên khắp thế giới vẫn còn đang vướng vào những tranh cãi, hiềm khích và thù hận, vẫn chưa có sự đồng lòng, cùng nhìn về một hướng cho tương lai của dân tộc. Để rồi chính những thế hệ sau vốn vô tội lại phải chịu đựng đau khổ vì những điều hèn kém mà chúng ta gây ra.
Một giáo sư Việt kiều đã từng nói với sinh viên một câu cay đắng: “Ở Việt Nam mình, người lớn toàn làm bậy để đám nhỏ phải khổ, đi tha phương cầu thực”
Hỡi người Việt yêu nước trên toàn thế giới này ! Những ai còn tâm huyết, nặng lòng và trăn trở với dân tộc thì hãy cùng nhau ngồi lại, làm hết khả năng có thể, hay với 200% khả năng của mình để cứu lấy tương lai của nước Việt Nam và con cháu Lạc Hồng. Chúng ta quyết không thể để những thế hệ tương lai và con cháu đời sau phải qua xứ người làm cu li lao động, đi thi tuyển đi lấy chồng ngoại hay đau đớn hơn là bị bán vào nhà điếm, động mại dâm. Đó là Quốc Nhục mà kẻ gây tội lỗi lớn nhất chính là chúng ta, những kẻ may may mắn được học hành, có tri thức và cơ hội hơn rất nhiều đồng bào của mình, vì căn bệnh vô cảm của chúng ta ! 
Đâu rồi:
Việt Nam gấm hoa ?
Đâu rồi:
Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm

Mau mau thức tỉnh và làm một cái gì đó,

Nếu không sẽ quá trễ và tất cả chúng ta đều là những kẻ thất bại !

Nỗi đau sân bay


19 h30 ngày 22/11/2013 VTV1 phát tin nói về việc tất yếu phải xây sân bay Long Thành. Bản tin là phát ngôn của nhóm lợi ích xuyên tạc sự thật để lừa dư luận. Nay tôi xin đăng lại bài này đã đăng cách đây cả tháng để ai quan tâm tham khảo.
Nguyễn Đình Ấm

Những năm gần đây nhiều sân bay ở Việt Nam đã và nằm trong kế hoạch di dời ra chỗ khác ngốn
những khoản tiền khổng lồ: sân bay Nha Trang chuyển qua Cam Ranh, sân bay Phú Quốc cũ (SB Dương Đông) chuyển qua Dương Tơ, sân bay Tân Sơn Nhất sẽ chuyển qua Long Thành (Đồng Nai), sân bay Cát Bi (Hải Phòng) sẽ thay bằng sân bay Tiên Lãng, sân bay Cà Mau cũng có đề nghị chuyển ra chỗ khác… Lý do di chuyển tất cả là “sân bay cũ chật hẹp không phát triển được, bị dân cư bao quanh, ô nhiễm…”…

Một câu hỏi đặt ra: Sân bay là những công trình lớn, vĩnh cửu được các quốc gia chọn địa điểm, quy hoạch rất cẩn thận, kỹ càng cho cả hiện tại và tương lai, trên thế giới rất ít bị thay đổi địa điểm nhưng tại sao ở Việt Nam lại diễn ra “cấp tập” như thế? Những sự di dời hối hả ấy có hoàn toàn theo nhu cầu khách quan hay bị cái gì nữa chi phối?

Sân bay Tân Sơn Nhất (TSN) được Pháp xây dựng năm 1930 ở quận Tân Bình, Gò Vấp, Phú Nhuận cách TP hơn 10km (nay là 8 km). Thời chế độ Việt Nam Cộng hoà, lớp ngoài cùng sân bay là đường công vụ tuần tra, phía trong là hàng chục lớp rào kẽm gai, trong cùng là hào sâu, mỗi đoạn có tháp cảnh giới, trong cùng lại có đường tuần tra an ninh khép kín. Theo người đã làm việc ở TSN trước năm 1975 thì tính theo chu vi ngoài cùng TSN rộng không dưới 2.500 ha, diện tính “lõi” sau lớp hào trong cùng hơn 1.250 ha. Với quỹ đất này TSN đáp ứng sự phát triển “vô thời hạn”…
Thế nhưng, từ sau giải phóng, nhất là từ những năm 1987-2008 khi giá đất lên cao, các cơ quan của bộ quốc phòng, ngành Hàng không Việt Nam, cư dân phá các lớp rào, “thanh lý” các nhà công vụ, dùng một số ít làm văn phòng, cơ sở sản xuất kinh doanh, còn các vi la, những diện tích đất lưu không cây cổ thụ rộng mênh mông chia cho sĩ quan, cán bộ, dân làm nhà ở, nhà hàng, khách sạn, bán chác… Nhiều sếp bỗng dưng thành triệu phú đôla… Do các cuộc “đại đô thị hóa” với chiêu “phạt cho tồn tại” của chính quyền mà đến nay TSN chỉ còn 1.150 ha. Trong quỹ đất đó khi hàng không dân dụng (HKDD) hàng năm phát triển 2 con số thì chỉ được quản lý, sử dụng 205 ha còn đơn vị không quân hoạt động rất ít thì lại sở hữu tới 545 ha (400 ha khu bay dùng chung). Với 205 ha ấy HKDD TSN chỉ xây được hơn 30 điểm đỗ máy bay nên từ nhiều năm nay TSN bị quá tải chỗ đỗ, nhiều chuyến bay của Việt Nam và nước ngoài đến không còn chỗ đỗ phải bay vòng chờ lãng phí nhiên liệu, ô nhiễm môi trường, uy hiếp an toàn.
Trước năm 1975 do vị trí tối ưu TSN là một trong những HUB (điểm trung chuyển hàng không) ở Đông Nam Á, ga hàng không Đon Muang ở Bangkok (Thái Lan) chỉ như “ga xép”. Sau giải phóng chế độ bao cấp lại bị cấm vận, nền kinh tế Việt Nam lụn bại nên TSN phải nhường chỗ cho Don Muang (nay là Suvarnabhumi). Từ những năm 1990 nền kinh tế hồi phục thị trường TSN phát triển nhanh, đang lấy lại vị trí huy hoàng trước kia nhưng nay lại bị nạn quá tải sân đỗ chặn lại. Theo ông Nguyễn Thành Trung, nguyên P.TGĐ Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thì do chỗ đỗ khó khăn nhiều hãng HK nước ngoài đã chuyển căn cứ transit đi Singapore, Hongkong… Rồi đây dù TSN hay Long Thành rộng mở thì họ cũng khó mà quay trở lại. Chiến lược HUB của TSN đang phá sản.
Cuối năm 2007 chính phủ cho TSN quy hoạch mở rộng sân bay theo hướng tăng thêm 30 ha đất sang phía quân sự nhàn rỗi để làm thêm 30 chỗ đỗ nữa nhưng bên quân sự “không thỏa thuận”. Tại sao đất đai quân sự cũng là của nhà nước, nếu đem làm sân đỗ thì vừa khỏi lãng phí, góp phần phát triển ngành hàng không Việt Nam, đất nước, TPHCM mà khi “vạn nhất” xảy ra chuyện gì thì có ngay hạ tầng phục vụ chiến đấu… mà sao lại không thực hiện được để TSN dù có nhà ga mới với tổng công suất 20 triệu khách/năm trở thành “cọc cạch”? Chỉ đến khi dự án sân golf do doanh nghiệp quân đội “vì nhân dân quên mình” hình thành trái luật với diện tích 157 ha trong sân bay thì người ta mới vỡ lẽ. Năm 2011 báo chí đăng dồn dập nói lên sự vô lý của sân golf trong sân bay TSN và Gia Lâm nhưng chỉ được vài bữa phải câm bặt để hai sân golf tăng tốc độ thi công “chóng mặt”.
Những ngày gần đây dư luận lại rộ chuyện có nên xây sân bay Long Thành (Đồng Nai) thay cho sân bay Tân Sơn Nhất hay không. Cử tri thành phố HCM, nhiều lão thành tâm huyết yêu cầu chính phủ không nên xây sân bay LT mà hủy bỏ dự án sân golf rồi mở rộng TSN để tiết kiệm chi phí, giữ gìn một thương hiệu “vàng” gắn với lịch sử… Tuy nhiên, xem ra những lập luận của cử tri, những người tâm huyết… bị “lép vế” trước tiếng nói của chủ dự án, Bộ Giao thông Vận tải, một số sếp ngành hàng không Việt Nam (dư luận gọi là “cái loa của các đại gia”?)… Họ đưa ra những con số “tào lao” bịp bợm dư luận. Ví dụ, thổi phồng tốc độ tăng trưởng khách, theo quy hoạch của Cục Hàng không Việt Nam năm 2010 sân bay TSN rộng 1.150 ha (theo dư luận ở ngành Hàng không Việt Nam, việc đo đạc diện tích TSN chưa thể tin cậy do có sự can thiệp của hai bên HKDD và quân sự, đến nay sân bay này vẫn chưa có quy hoạch chính thức) nhưng khi công khai họ đưa ra nếu mở rộng TSN phải giải phóng mặt bằng 641 ha, tức phải nâng diện tích TSN từ 1.150 ha lên đến 1.791 ha, lớn hơn cả quy hoạch Long Thành (1.688 ha), hoặc không tính 157 ha làm sân golf ở TSN. Do phải giải phóng những 641 ha, tái định cư nên phải chi 16,1 tỷ USD tiền giải phóng mặt bằng nếu mở rộng TSN so với chỉ 0,730 USD nếu chuyển về Long Thành… Bất cứ ai nghe thông tin này cũng phải toát mồ hôi mà ủng hộ Long Thành vì nó quá tiết kiệm! Đặc biệt, đại gia cũng tuyên bố liều lĩnh: “…các nước Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản…đều phải xây sân bay ra xa thành phố ít nhất 100km” là hoàn toàn bịp bợm. Thực tế, các nước này chỉ có Hàn Quốc xây sân bay quốc tế Incheon cách Seoul 70km do không tìm đâu ra khu đất bằng phẳng để làm sân bay trong vùng toàn đồi núi ở thủ đô Seoul, còn sân bay quốc tế Tokyo (Haneda) công suất 70 triệu khách/năm của Nhật cũng gần thành phố như TSN…
Như vậy, chỉ cần hủy dự án sân golf tận dụng cả 1.150 ha hiện có của TSN phục vụ cho hoạt động hàng không (dân dụng và quân sự) thì sân bay sẽ đáp ứng mọi phát triển ít nhất vài chục năm nữa, dân không phải chi khoản tiền thuế đến hàng chục tỷ USD trong lúc khó khăn. Sân bay Check Lap Kok của Hongkong có công suất hiện tại 45 triệu khách/năm và có thể phát triển lên 80 triệu cũng chỉ có quỹ đất 12 km2 tức 1.200 ha. Ngược lại, nếu các đại gia không tính 157 ha làm sân golf vào sân bay thì việc thực hiện ngay dự án chuyển TSN về Long Thành cũng là muộn (vì phải ít nhất 5 năm trong khi TSN đã quá tải sân đỗ từ năm 2005).
Theo nhiều chuyên gia hàng không thì phương án tối ưu là chuyển căn cứ không quân TSN đến Biên Hòa, “giải tán” sân golf, dành toàn bộ 1.150 ha cho hàng không dân dụng. Khi ấy sẽ giải quyết được 50% ô nhiễm môi trường (máy bay quân sự ồn và khí thải gấp nhiều lần máy bay dân dụng) lại tách được mục tiêu số một khi có chiến tranh ra khỏi thành phố, giải tỏa mọi quá tải cho HKDD…Với phương án này nhà nước chỉ cần bỏ ra chừng 2-3 tỷ USD (thay vì hàng chục tỷ đô chỉ cho riêng Long Thành) là thừa mở mang TSN, trang bị hạ tầng cho Biên Hòa. Dăm bảy chục năm nữa nếu TSN quá tải (rất khó xảy ra vì tốc độ tăng trưởng khách, hàng của TSN đang chậm lại, hơn nữa, từ 2015 tự do hóa hàng không ASEAN các hãng hàng không nước ngoài sẽ được bay thẳng đến hàng chục sân bay quốc tế khác ở Việt Nam thì TSN, Nội Bài, Đà Nẵng sẽ càng giảm mức tăng trưởng…), kinh tế nước nhà khấm khá hơn mới chuyển về Long Thành. Khi ấy 1.150 ha đất vàng kia để TPHCM sẽ làm công viên, quảng trường, sân bay thể thao, cấp cứu HK… Không có lý gì một TP lớn như HCM lại không có những công trình “phổ quát” ấy.
Tuy nhiên, tình hình chắc không thể đảo ngược vì nếu xây Long Thành thì sẽ “nhất cử, lưỡng tiện” cho các đại gia: Người ta vừa có sân golf 157 ha đất “vàng” ngay trong thành phố, “người ta” khác lại được “giải ngân” hàng chục tỷ đô dự án Long Thành, còn nếu ngược lại thì… gần như không có gì! Cách đây cỡ dăm năm ở ngành hàng không Việt Nam đàm tiếu sôi nổi về cuộc “chạy đua vũ trang” quyết liệt giành giật dự án Long Thành của các đại gia. Muốn nhà nước triển khai các dự án thật lớn, thật nhiều tiền để mình làm chủ đầu tư là đặc điểm của họ. Thời gian qua các sân bay Phú Quốc, Cần Thơ, Chu Lai… được đầu tư những khoản tiền khổng lồ để phát triển “mạng sân bay quốc tế” nhưng đã nhiều năm qua ngoài Cam Ranh các “sân bay quốc tế” kia chỉ èo uột ít chuyến bay nội địa…
Càng khó nữa, khi dự án sân golf ở TSN, Gia Lâm vượt qua cả quyết định 1946/ 2009 của Thủ tướng: “các dự án sân golf không được sử dụng đất lúa, đất màu và đất quy hoạch xây dựng khu công nghiệp; các khu đô thị, đất rừng… địa điểm quy hoạch sân golf chủ yếu ở vùng trung du, miền núi…”… thì mọi ý kiến cản trở Long Thành vào được tai ai?
Có một câu chuyện như đùa: Thủ tướng yêu cầu Bộ Quốc phòng khi nào nhà nước lấy lại đất (sân golf) thì không được yêu cầu bồi thường…. Ai có thể tin hàng bao nhiêu năm nữa khi cháu chắt nhà đầu tư, lãnh đạo TP HCM, bộ, ngành, chính phủ… nắm quyền thì vẫn còn nhớ và trung thành với lời hứa của cụ, kỵ mình?… Hơn nữa, dân Việt Nam đâu cần số tiền “không phải bồi thường” của các đại gia khi cả cửa ngõ hàng không lớn nhất của quốc gia phải lận đận?
Cũng theo “quy luật” này, sân bay Gia Lâm (SBGL) ở Hà Nội cũng gần như chung số phận như TSN. Do “cái tội” chỉ cách hồ Hoàn Kiếm 10 phút xe, “tấc đất tấc vàng” nên những năm gần đây SBGL bị thu hẹp “không thương tiếc”. Hàng trăm ha đất phía nam sân bay biến thành nhà xưởng của doanh nghiệp, chia làm nhà ở, bán chác đẩy hàng loạt nhà công vụ đến sát phía nam khu bay. Ở phía bắc một sân golf nhỏ ép đến lề bảo hiểm đường băng, phía nam sân bay là sân golf 117 ha cũng của doanh nghiệp “vì nhân dân quên mình” tiến sát khu bay. Ngoài 75 ha đất quốc phòng, người dân phường Phúc Đồng, Gia Thụy (Q Long Biên) còn phải “hy sinh” 40 ha đất lúa hai vụ màu mỡ cho sân golf này. Do bị lấp hết hồ điều hòa, hệ thống thoát nước bị xâm phạm nên trong khi sân golf hoành tránh hình thành thì hạ tầng sân bay xuống cấp thảm hại. Đường băng, đường lăn thấm nước sụt, lún tứ tung. Chỉ một cơn mưa đường băng biến thành hồ…
Năm 2010, 2011 ngành hàng không Việt Nam đã thương thảo với bên quân sự để chuyển các chuyến bay nội địa ngắn ở Nội Bài về Gia Lâm thuận tiện cho hành khách giải tỏa sự quá tải cho Nội Bài nhưng cũng không thành. Một cán bộ Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đứng trên tầng cao trụ sở nhìn xuống sân golf sân bay Gia Lâm mênh mông tiến sát đường băng thở dài:
- Nước quân đội mạnh hơn nước Việt Nam rồi…
Sân bay Gia Lâm được chính phủ quy hoạch trong mạng sân bay quốc gia đáng lẽ ngày càng phát triển nhưng cũng như với TSN, Bạch Mai, Cát Bi… thì ngược lại do giá trị đất của nó. Tất cả mang một nỗi đau giống như con tê giác chết vì cái sừng!
Nguồn FB Nguyễn Đình Ấm 

Bùn đỏ rất tốt cho cây trồng!


Chuyện khôn, dại của nông dân qua sự kiện ông Nguyễn Thanh Chấn bị tù oan 10 năm và sự kiện vỡ hồ chứa bùn đỏ ở Bình Thuận.

Nông dân ta luôn được tiếng chất phác thật thà. Nhưng cũng có người dại, tức là không được khôn ngoan cho lắm. Xin dẫn chứng một vài việc:
Ngày 18.11 hồ chứa bùn đỏ là chất thải do khai thác titan ở Bình Thuận bị vỡ tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Du khách tắm biển chạy loạn xạ như gặp sóng thần. Hai phụ nữ bị cuốn đi suýt chết. Xe khách “nín thở” qua suối bùn, chỉ sợ bị trôi. Một vùng bờ biển xã Thuận Quý bị biến dạng, cát trên bờ, nước dưới biển đỏ ngầu chết chóc. Cây cối trong vùng ảnh hưởng bị bùn vây kín gốc rễ…
Nông dân trong vùng không biết mô tê, thấy bùn đỏ gây ra những chuyện tai hại như thế liền gọi điện, phản ứng, kêu toáng lên cầu cứu. Tưởng thế là khôn, nhưng sau mới biết là dại.
Bởi vì, ngay sau đó ông Tô Tài Tích – Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư khoáng sản và thương mại Bình Thuận đã giải thích rõ ràng rằng: “Do trong hồ có bùn đỏ, khi vỡ thì nước cuốn cát bùn trong khai thác chảy ra ngoài, có gì lạ!”. Và vị lãnh đạo nhiều trí tuệ ấy đưa ra một tin “mật”: “Bùn này rất tốt cho cây trồng” (theo báo Đất Việt 19.11).
Thì ra, “bùn này rất tốt cho cây trồng”, chắc là lâu nay công ty tích trữ để tính bán ra lấy tiền hay sản xuất phân bón xuất khẩu, giấu nhẹm sợ người ta đến múc trộm. Nay không may vỡ ra, đành chịu thiệt bón cho đồng ruộng, rừng cây, miễn phí. Vậy mà nông dân không biết tận dụng, như gánh về nhà tích trữ dùng dần rồi cảm ơn công ty, lại còn kêu ca ầm ĩ, thế không phải dại thì là gì?
Dại như anh Nguyễn Thanh Chấn, người vừa được thả sau 10 năm lao lý oan gia khai rằng do anh bị ép cung, bức cung, bị bắt tập giết người trước khi thực nghiệm hiện trường, đóng giả tội phạm cho đến khi thành thục nên mới ra người có tội.
Lãnh đạo tỉnh Bắc Giang bèn tra cứu, hỏi những người có liên quan, nay đều là quan chức cả, yêu cầu họ trình bày thực hư lời tố của anh Chấn đúng sai ra sao. Tất cả có tới 6 người. Tất tật họ đều đồng thanh: “Làm gì có chuyện đó. Xem lại kỹ rồi, trong vụ này chẳng có vấn đề gì!”. Nghĩa là không hề có chuyện ép cung, bức cung, tất nhiên nhục hình càng không!
Chúng khẩu đồng từ, cả 6 vị quyền cao chức trọng nói như thế thì ai hồ nghi mấy cũng phải tin! Không tin họ thì tin ai, mất “niềm tin” sao?
Vậy thì, lòi ra cái ông Chấn dại. Không ai bức cung, ép cung, người ta ngọt ngào để ông tự giác khai báo đàng hoàng, vô tội thì cứ nói mình vô tội có sao đâu! Vậy mà ông lại nhẹ dạ cả tin, tự nguyện nhận tội giết người tầy đình, tưởng thế là hay. May có bố là liệt sĩ, nếu không đã phải “dựa cột” từ lâu. Sao dại thế ông Chấn ơi? Họ không bức cung ông mà ông tự gánh tội vào thân, bây giờ gỡ sao đây? Có ai dại như ông không chứ?
Khôn dại là chuyện khó lường. Mong rằng nông dân nơi có bùn đỏ chảy tràn hãy chớ vội tin vào vị tổng giám đốc trí tuệ mà nên hỏi các nhà khoa học xem cái thứ bùn ấy nó tốt xấu thế nào rồi hẵng hay, để khỏi mắc dại lần nữa.
Còn ông Chấn, ông đang được cả nước chú ý, làm nóng cả nghị trường, quyết làm rõ thực hư chứ đâu có nhẹ dạ mà giao cho Bắc Giang. Cả nghi phạm giết người trước khi đầu thú cũng đặt điều kiện đừng giao nó cho tỉnh này kia mà. Xin ông yên tâm và đừng có “dại” nữa. Có gì nói nấy, có gì khai nấy, thủ phạm đã đầu thú rồi, lật ngược thế cờ đâu có dễ, nhiều phần chắc là ông gỡ được án oan.
Mong ông bảo trọng.
THEO DÂN VIỆT

Chứng minh sự thật 30% công chức ngồi chơi

Trước thông tin Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu ra vào đầu năm 2013 về tình trạng 30% công chức ngồi chơi, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình nói rằng đó chỉ là “dư luận”. Vậy thực tế, có bao nhiêu % công chức không làm được việc mà vẫn hưởng tiền thuế của dân? 
Nói 30% công chức ngồi chơi là có căn cứ
Theo ĐBQH Lê Nam – Trưởng đoàn ĐBQH Thanh Hóa: con số 30% cách đây khoảng hai năm, được các nhà khoa học đưa ra tại một hội thảo của Học viện Chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đây là con số công bố dựa trên kết quả điều tra, khảo sát.
Ông Nam cho biết thêm, con số 30% công chức ngồi chơi được dư luận quan tâm bởi chính Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề cập đến đầu tiên.
“Có thể không phải là 30% mà là 25% hay 28%, nhưng có một điều ai cũng phải thừa nhận là có một số lượng rất lớn cán bộ, công chức không làm được việc, chắc chắn không phải là 1%”, ông Nam khẳng định.

Còn PGS.TS Võ Kim Sơn – Học viện Chính trị Quốc gia cho rằng con số 1% công chức không làm việc chỉ là “đáp số giả” vì chỉ dựa vào báo cáo chung chung của cả cơ quan chứ không phải riêng cá nhân mỗi công chức.
PGS.TS Võ Kim Sơn nói rằng, nghiên cứu về hiệu quả sử dung công chức của Bộ Nội vụ 2 năm về trước sẽ không bao giờ tìm ra con số trung thực vì chưa ó phương pháp nghiên cứu tối ưu nào để cho ra kết quả chính xác bao nhiêu phần trăm công chức không làm được việc.
Nếu điều tra theo cách này thì có thể 30-50% công chức không làm được việc, nhưng theo cách khác tỉ lệ lại tụt xuống không tưởng.
Trong khi đó, ông Châu Minh Tỷ – nguyên Giám đốc Sở Nội vụ TP.HCM cho rằng: Có thể giảm ngay 20% số lượng công chức hiện nay.
Ông Tỷ chỉ ra rằng, nhiều thủ trưởng nói có khoảng 30% cán bộ, công chức không đáp ứng được nhu cầu công việc. Những người này, thủ trưởng có phân công việc nhưng chỉ là những việc đơn giản, tránh để họ ngồi không.
Nhược điểm lớn nhất của cán bộ, công chức của ta hiện nay là chưa làm việc hết lòng. Những người làm việc tốt chưa được đánh giá đúng, chưa được hưởng thù lao tương xứng. Nhiều khi người làm việc tích cực, hết mình còn bị cô lập trong tập thể. Tại không ít cơ quan chỉ có khoảng 30% công chức làm việc tích cực, 40% làm việc trung bình và 30% làm việc yếu.
Gánh nặng mang tên “bộ máy hành chính”
Theo thống kê, bình quân 12 năm (2001 – 2012) chi cho hoạt động của bộ máy hành chính là 55,37% tổng chi ngân sách nhà nước.
Đó là lý do, hầu hết các hiến kế chống thâm hụt ngân sách cho năm 2014 đều nhấn mạnh việc phải tinh gọn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế. Nhưng muốn làm được việc này, phải biết chính xác chỗ nào cồng kềnh, chỗ nào dư thừa, người nào làm việc thiếu hiệu quả để cắt giảm.
Nếu là 30% công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” thì sẽ có khoảng 700.000 người buộc phải cho thôi việc, tiết kiệm 17.000 tỉ đồng như đại biểu Chu Sơn Hà tính toán tại phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình ngày 20/11.
Còn nếu chỉ 1% thì con số cần cho thôi việc tương ứng là 2.400 người, số tiền tiết kiệm cũng sẽ ít hơn. Nhưng sự thật, tới lúc này chúng ta vẫn không biết chính xác bộ máy công chức đang “phình” ở chỗ nào thì rất khó để thực hiện việc tinh giản như mục tiêu của QH.
Bộ trưởng Nguyễn Thái Bình nói rằng “giờ nói con số là bao nhiêu thì không có cơ sở”. Đồng thời, ông Bình phủ nhận độ chính xác về con số 1% công chức không làm được việc do chính mình công bố vào tháng 9/2013.
Và câu trả lời cuối cùng theo Bộ trưởng là “đến thời điểm nhất định, có thể tạo được tiếng nói chung về tỷ lệ này”. Với cách làm việc này, có thể hiểu tại sao, sau 5 năm thực hiện tinh giản biên chế, cán bộ công chức đã tăng trên 20%.
Có bộ có tới… 9, thậm chí 11 thứ trưởng; hàng chục cục phó; Các cấp – ngành “vẽ” ra quá nhiều ghế khiến ngân sách phải “giật gấu vá vai”… Đó là những điều mà các đại biểu QH nêu cụ thể ngay lại kỳ họp này và đó cũng chính là thực trạng nhức nhối của bộ máy công chức cồng kềnh, tạo gánh nặng cho ngân sách hiện nay.
Vậy thì việc xác định tỷ lệ công chức ngồi chơi hưởng lương là 1%, 30% hay bao nhiêu phần trăm liệu có quá khó khăn đối với Bộ Nội vụ?
Theo Báo Đất Việt 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét