Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

50% gia đình nông dân Việt Nam phải vay nặng lãi & 'Quan chức có thể 'mất mặt' nhưng quyết không... mất chức'

Nguyễn Trọng Vĩnh - Đổi mới tư duy cho đất nước tiến lên

I. Vì ai nên nỗi

Đọc bài viết của giáo sư, tiến sĩ Trần Đình Bá về “Tứ đại Vi Na” và những thất thoát do họ gây ra, nợ nần khổng lồ của nhà nước cùng sự công bố của vụ trưởng Trần Ngọc Thành, tôi vô cùng sót sa và oán hận. Chắc rằng những công dân lương thiện mà biết được cũng có tâm trạng như tôi.

Do thất thoát, lãng phí, tham ô hàng chục, hàng trăm tỷ đô la, tài chính nhà nước thiếu hụt, tất phải lạm phát làm cho giá mọi thứ nhu cầu thiết yếu của dân tăng, từ xăng dầu, điện, nước, học phí, viện phí, thuốc men, cho đến con cá lá rau cũng tăng, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là công nhân, dân nghèo đời sống càng chật vật.

Do tài chính thiếu hụt, không có tiền tăng lương cho công nhân viên chức, giáo viên để họ đủ nuôi sống gia đình, nên nhiều người phải xoay sở một cách bất chính; không có tiền xây thêm trường học, học sinh phải học ba ca, không có tiền xây thêm bệnh viện, khiến bệnh nhân phải nằm 2,3 người một gường; không có tiền đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; không có tiền tăng ngân sách quốc phòng, để trang bị cần thiết tạm đủ khả năng bảo vệ độc lập chủ quyền, nên bị “người ta” lấn át. Do thiết hụt tài chính lại tăng vay nợ nước ngoài, nợ cũ nợ mới chồng chất để gánh nặng cho cháu chắt phải trả bao giờ cho hết trong khi tài nguyên khoáng sản các loại móc lên bán hết, còn đâu phần cho các thế hệ mai sau. Những thất thoát kinh khủng mà “Tứ đại Vi Na” gây ra do mua sắm đồ phế thải, do làm ăn thua lỗ, do tham ô, tất nhiên các giám đốc, các tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm. Nhưng trách nhiệm lớn hơn phải là Chính phủ, Thủ tướng là cấp trên trực tiếp quản lý và chỉ đạo các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Chả lẽ những sự việc rất to như mua “ụ nổi sắt vụn”, tàu nát, xây hơn 200 cảng biển, 63 sân bay quá nhiều không cần thiết v.v… mà Thủ tướng không biết hoặc biết mà dung dưỡng, hoặc có những uẩn khúc, khuất tất gì bên trong mà không dám công khai xử lý và không dám công khai nhận trách nhiệm.

Nhưng xét đến cùng thì trách nhiệm thuộc về lãnh đạo Đảng, bởi vì Đảng lãnh đạo toàn diện, lãnh đạo chính quyền, kể cả ký thay chính quyền trong hoạt động đối ngoại, các chức danh chính quyền từ dưới lên đều do cấp ủy Đảng bố chí, Thủ tướng cũng do lãnh đạo Đảng quyết định. Quốc hội bầu chỉ là hình thức. Một Thủ tướng yếu kém, không có tâm, có tầm mà lãnh đạo vẫn để cho quyền điều hành, cộng với những chủ trương sai lầm của lãnh đạo nên kinh tế sa sút, tụt hậu, chính trị lệ thuộc, xã hội hỗn loạn, văn hóa đạo đức suy đồi, dân nghèo nước yếu.

II. Đổi mới tư duy để đất nước tiến lên

1. Trước hết cần có một Hiến pháp thật sự dân chủ, bảo đảm mọi quyền tự do chính đáng của công dân đã ghi trong Hiến pháp, đúng tinh thần dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân như lâu nay văn kiện thường nêu. Hiến pháp phải đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết và phù hợp với trào lưu văn minh, tiến bộ của thế giới đương đại trong đó có tam quyền phân lập. Có thế mới động viên được tinh thần phấn khởi của toàn dân, phát huy được mọi năng lực, sáng tạo vào công cuộc xây dựng đất nước, không phải như dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 như hiện nay theo chỉ thị của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp được Quốc hội thông qua.

2. Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, không cần nói “theo chủ nghĩa Mác – Lê nin” nữa. Biết rằng Mác, Lê nin là những nhà uyên bác, những đầu óc lớn đáng kính, nhưng các vị cũng có những chỗ sai, không phù hợp với thực tế. Vả lại những ý gì của Mác, của Lê nin mà thích hợp với nước ta thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu, cũng như Người đã tiếp thu những gì là văn minh khoa học, tiến bộ của thế giới. Người cũng đã nghiên cứu tiếp thụ những cái đúng cái hay của đạo Phật, đạo Thiên chúa, của Khổng Tử, của Tôn Trung Sơn. Vậy làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ rồi.

3. Mục tiêu: Xây dựng nước ta dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh như nghị quyết Đảng đã từng nêu là thích hợp. Được thế thì nhân dân hạnh phúc rồi. Không nêu xây dựng chủ nghĩa xã hội nữa. Mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin, trái ngược với thực tế cuộc sống đã tan rã, sụp đổ rồi. Các nước vẫn còn bám theo mô hình ấy như Cu Ba, Việt Nam, Triều Tiên thì đều nghèo, thậm chí đói (như Triều Tiên), trừ TQ. Từ khi ông Đặng Tiểu Bình nêu: “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì TQ đã rẽ theo con đường phi XHCN rồi và tiến nhanh. Mặc dầu đến nay, họ vẫn nêu “Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc TQ” là nói để mà nói thôi, thực tế thì xã hội TQ hiện tại là xã hội tư bản chưa hoàn chỉnh do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Việt Nam ta mang tên là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và vẫn nói xây dựng chủ nghĩa xã hội, vậy theo mô hình nào, tiêu chí ra sao, chưa ai nêu ra. Trong nước ta hiện nay, cái gì là xã hội chủ nghĩa không ai chỉ ra được, đến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói “Đến hết thế kỷ này, cũng chưa hoàn thành được chủ nghĩa xã hội”. Cái mà gần 100 năm nữa chưa biết ra thế nào có phải là ảo tưởng không? Lại nói “Định hướng xã hội chủ nghĩa” là định hướng theo cái vô hình ư, thật mơ hồ. Vậy nên thôi nói xây dựng chủ nghĩa xã hội để khỏi tự bó buộc mình và dễ hòa đồng với thế giới. Nên giải thể hoặc cổ phần hóa các Tập đoàn kinh tế nhà nước, không giao cho nó vai trò chủ đạo nền kinh tế và nó cũng không có khả năng chủ đạo.

4. Lãnh đạo khác với Đảng trị. Không nên mọi việc đều do Bộ Chính trị quyết định một cách chủ quan, độc đoán. Phải thực hiện dân chủ, tôn trọng các quyền tự do của công dân được ghi trong Hiến pháp; phải đồng hành với dân, lắng nghe ý kiến của dân, của các chuyên gia, các nhà kinh tế giỏi trong, ngoài nước trong đó có ý kiến của ông Lý Quang Diệu; lắng nghe những ý kiến tâm huyết của những nhà trí thức chân chính, những ý kiến xây dựng của các nhân sĩ ngoài Đảng, của các Đảng viên lão thành trung thực, nói thẳng nói thật. Không nên đàn áp những người có ý kiến bất đồng, những người đấu tranh cho độc lập chủ quyền của Tổ quốc. Bộ Chính trị không nên tự cho mình là giỏi giang, sáng suốt nhất nước (thực tế không phải như vậy), mà phải quý trọng thu hút hiền tài. Những cái ghế, cái ngai không phải là quan trọng mà những người nào làm được cho Tổ quốc cường thịnh mới là quan trọng nhất.

5. Quan trọng hơn hết là phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường vốn có của dân tộc ta. Tự lực, tự cường phải xây dựng và phát triển nội lực, nội lực chính là lòng dân và sức dân. Gắn bó với dân, dựa vào dân thì sẽ có tất cả. Từ các triều đại phong kiến đánh bại được quân xâm lược phương Bắc, giữ được nước cũng là nhờ có sức mạnh của dân, Cách mạng tháng 8 giành lại được độc lập, xây dựng được chính quyền cũng là nhờ được sức mạnh của hàng vạn, hàng triệu dân (vũ khí bấy giờ không đáng kể). Tất nhiên cần có vua sáng, tôi hiền, có lãnh đạo kiệt xuất, tướng lĩnh tài ba biết động viên và phát huy sức mạnh toàn dân. Hiện nay, do yếu kém không tạo được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc thành ra lệ thuộc. Cái gì giới cầm quyền TQ đề xuất vì lợi ích của họ đều phải chấp nhận, cái gì TQ không muốn đều không dám làm. Thế thì tinh thần độc lập tự chủ ở đâu? Tại sao không làm được như Miến Điện?

Ta đã đề ra chính sách ngoại giao “Đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau” là rất đúng. Vậy cần phát triển quan hệ thân thiện, bình đẳng, cân bằng với các nước lớn, Mỹ cũng như TQ, không ngả theo bên nào. Đối với những vấn đề thuộc lợi ích quốc gia của ta, ta cứ hành xử theo tình thần độc lập tự chủ, không việc gì phải e ngại ai./.
Nguyễn Trọng Vĩnh
Theo Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự

Dân chủ không thể là cái bánh vẽ

Trong các nghị quyết của Đảng đều nêu rõ mục tiêu phấn đấu là “xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Vậy ta đã xây dựng như thế nào, hiệu quả thực sự đến đâu?”
Nói về dân chủ, trước hết là nói về quyền thực thi dân chủ, quyền được thụ hưởng nền dân chủ của người dân trong một thể chế chính trị-xã hội.
Không thể cứ liên tục gân cổ gào lên hai từ dân chủ là coi như có dân chủ đích thực. Dân chủ luôn luôn là ước vọng của con người trong mọi thời đại, mọi dân tộc. Nó cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày.
Dân chủ là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã hội và năng lực quản lý của một nhà nước. Dân chủ không phải tự nhiên mà có. Lịch sử đất nước ta đã chứng minh, muốn có một xã hội thực sự dân chủ, thực sự văn minh, lành mạnh phải đấu tranh, thậm chí phải hy sinh biết bao xương máu. Dân chủ và cuộc đấu tranh vì dân chủ hay dân chủ hóa, cũng như hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển, là một xu thế lớn của thời đại. Cuộc đấu tranh vì dân chủ, cũng như vì hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và thử thách, nhưng đã và đang có những bước tiến mới. Hơn thế, dân chủ và dân chủ hóa còn ngày càng trở thành mục tiêu và động lực, nội dung và phương thức của phát triển xã hội theo hướng phát triển hướng tới công bằng, văn minh và thực sự bền vững.

Mất dân chủ là tự triệt tiêu đi nguồn sức mạnh nội lực của đất nước, của cả dân tộc. Coi thường hoặc thậm chí đánh mất dân chủ, nhưng lại quăng quật đi cầu sự trợ giúp bên ngoài là sai lầm cả về chiến lược và sách lược dựng nước, giữ nước Ở nước ta hiện nay, dân chủ trở thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa ngày càng có tầm quan trọng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những thành tựu của quá trình dân chủ hóa đang góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, toàn Đảng toàn dân ta cũng đang nỗ lực vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình dân chủ hóa, văn minh hóa một xã hội đang phấn đấu vươn tới hiện đại hóa. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã khó khăn và phức tạp, nhưng nhận thức về dân chủ hóa hay quá trình hiện thực hóa những mơ ước, những giá trị dân chủ trong đời sống còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Những vấn đề về mục tiêu, động lực, nội dung, hình thức và phương pháp; nguyên nhân, kinh nghiệm, nguyên tắc, phương châm và bước đi của dân chủ hóa luôn là những vấn đề khó khăn và mới mẻ đòi hỏi phải giải quyết một cách đồng bộ, cần sự hợp lực rộng lớn để chuyển biến, thay đổi từ tư duy, nếp nghĩ, thói quen , lối sống đến những hành động tổ chức thực thi.
Cách mạng nước ta đã có Đảng lãnh đạo theo đường lối dân chủ từ 82 năm qua. Và nhân dân ta cũng được thụ hưởng các quyền tự do dân chủ kể từ ngày 2-9-1945. Hiến pháp cũng đã quy định quyền tự do dân chủ của mỗi người dân Việt. Ấy vậy, mà cho đến nay, nhiều khi người dân cũng tự mình chưa biết thực thi dân chủ và thụ hưởng quyền dân chủ, chưa mạnh dạn và biết cách đấu tranh và giúp nhau cùng đồng tâm hiệp lực bảo vệ quyền dân chủ chính đáng của mình.
Vụ oan án mới đây còn nóng hổi về chuyện ông Nguyễn Thanh Chấn qua 10 năm ngồi tù với án chung thân là thể hiện sự cố tình bức cung mất dân chủ và vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn.
Nhìn lại các vụ cưỡng chế thu hồi đất “rầm trời” đầu năm 2012, thấy rõ: Dân chủ cần được hiểu là dân chủ trong Đảng và dân chủ toàn xã hội, dân chủ ngay trong các cộng đồng dân cư, dân chủ trong môi trường sống, lao động, học tập, sinh hoạt xã hội. Thế nhưng, một thực tế phải ghi nhận là từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng lao động đều chưa thực sự biết sử dụng và phát huy quyền dân chủ của mình. Và người ta thấy do sự thiếu gắn kết Dân với Đảng, do những cách thức làm việc và sự áp đặt của chính quyền, dân chủ nhiều khi chỉ là hình thức. Người dân không được thấu đáo là dân chủ thì mình được hưởng quyền đó như thế nào? Và mình được thực hiện quyền dân chủ ra sao. Các vụ xảy ra với hành động điều công an bất chấp pháp luật trấn áp dân thẳng tay như Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản, lình sình kéo dài như Dương Nội, rồi biết bao vụ người dân có đất, thậm chí ông bà để lại cả chục nghìn m2 đất, nhưng nay rơi vào cảnh bị trắng tay, oan ức, thiệt thòi đi kiện chán đành về cam chịu cảnh không đất, không nhà, đi làm thuê, đi ở cho nhà giàu để kiếm sống, vậy nền dân chủ xã hội mang tiếng là tốt đẹp nay ở đâu?
Chính quyền làm sai Luật Đất đai rành rành, Thủ tướng đã trực tiếp chỉ đạo làm nhanh, vậy mà mấy tháng nay thành phố Hải Phòng giải quyết lựa chiều như giải pháp tình thế, từng bước đối phó, vụ việc bị câu dầm, và đi vào quên lãng. Sự vi phạm dân chủ trắng trợn vẫn coi như “không có gì xảy ra”(!?).
Theo Luật đất đai 2003, và theo các chính sách khuyến nông, khuyến ngư của Nhà nước, lẽ ra trường hợp từ tay trắng, phải vay vốn ngân hàng cả mấy tỉ đồng, mà khai hoang nên vùng đầm ven biển như gia đình ông Vươn phải được biểu dương tấm gương tự xóa đói giảm nghèo, tự vươn lên trong sản xuất, là nông dân-cựu chiến binh làm ăn giỏi, nhưng nay lại bị cưỡng chế thu đất, thu đầm thủy sản, trong khi chủ nhân đứng ra thuê đất đang có nhu cầu sử dụng để tiếp tục mở rộng sản xuất, như thế thi dân chủ ở đâu? Cũng theo Luật Đất đai 2003, đất bãi bồi thuộc đất nông nghiệp nhưng có đặc trưng riêng là quyền được phép khai hoang, thuê đất, sử dụng đất theo hợp đồng không bị phụ thuộc nhiều vào “hạn điền”. Định ra "hạn điền" cho người làm nông nghiệp, sao không định ra "giới hạn đất", "giới hạn nhà, biệt thự, vườn sinh thái, xe cộ, mức tiêu xài"... cho các quan? Trong mục 2, điều 80 của Luật này cũng ghi rõ: “Nhà nước khuyến khích tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân đầu tư đưa đất bãi bồi ven sông, ven biển vào sử dụng”. Ông Vươn có đề xuất nguyện vọng tiếp tục sử dụng đất để sản xuất mở rộng. Đúng ra, những vùng đất bãi bồi hoang hóa như thế này, khi người dân khai hoang và sản xuất có hiệu quả, nên chuyển từ thuê đất sang mô hình trang trại. Thế mà cách làm trong vụ này của chính quyền huyện Tiên Lãng vẫn ngang nhiên trái luật, vi phạm dân chủ nghiêm trọng.
Trong vụ thực hiện lệnh cưỡng chế để giải quyết đất đai quá mạnh tay và liều lĩnh, vi phạm dân chủ nghiêm trọng ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng), cả việc thực thi dân chủ và sử dụng quyền dân chủ đều đặt ra những vấn đề cần xem lại. Thử đặt vấn đề: Nếu như một mình ông Lê Văn Hiền, Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng, và nếu thêm một vài cán bộ chức quyền nào đó có làm được chuyện cưỡng chế “quá nặng tay” gây tai tiếng này hay không? Trước hết, những sĩ quan công an và quân đội chấp hành lệnh cưỡng chế này có cả đảng viên. Lại thêm Đảng ủy xã Vinh Quang có bao nhiêu đảng viên? Chẳng lẽ ai cũng đồng tình với việc làm sai trái của huyện hay sao? Trong vụ này, Hội đồng nhân dân huyện và xã, một loại hình hệ thống do dân bầu cử, cơ quan đại diện cho quyền lợi của người dân đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ, vai trò đến đâu? Rồi các đoàn thể quần chúng như đoàn thanh niên cộng sản, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ…tai sao không ai lên tiếng, tại sao không ai phản đối? Đã có quyền dân chủ, được Hiến pháp thừa nhận, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, người ta tự đánh mất quyền dân chủ. Có khi phê bình nhau lại sợ “đụng chạm”. Cấp dưới phê bình, đấu tranh với cái sai của cấp trên sợ bị trù dập, bị đì, sợ mất chức vụ, mất ghế, sợ không được cất nhắc, lên lương, lên cấp chức. Sự “dĩ hòa vi quý” đó là vì cá nhân bản thân họ, không vì dân chủ, không vì cộng đồng, “cái tôi” quá lớn đã che lấp hết. Lối an phận thủ thường vô hình trung đã thủ tiêu công lý, đánh tráo khái niệm đúng-sai, phải-trái, trắng-đen.
Nhận thức của các cán bộ, đảng viên cấp thừa hành và tại cơ sở về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thế nào? Tại sao một mệnh lệnh sai trái, một hành động sai pháp luật rành rành mà không ai lên tiếng? Vũ khí đấu tranh để bảo vệ công bằng, lẽ phải, bảo vệ chân lý ở đâu? Thừa hành mệnh lệnh mà gây ác, hoặc lờ đi trước tội ác cũng là tiếp tay cho tội ác. Những đảng viên là sĩ quan công an, quân đội, những chỉ huy dân quân là đảng viên, trước hết phải tự xem xét cái chất đảng, bản lĩnh người đảng viên thế nào, có còn xứng đáng hay không? Nhiệm vụ thứ 3 của người đảng viên là: “Luôn luôn thắt chặt mối liên hệ với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ quần chúng, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân… Phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, chăm lo đời sống của quần chúng... Phải thường xuyên làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền, xa rời thực tế, xa rời quần chúng”.
Vụ ở Tiên Lãng, riêng cá nhân ông Chủ tịch huyện có quyền và đủ toàn quyền ra chủ trương được không? Mà khi chủ trương, mệnh lệnh sai, có hại cho người dân, thì các đảng viên thừa hành nhiệm vụ xử trí thế nào? Trong vụ này, Ban Thường vụ Huyện ủy có trách nhiệm gì không? Đã có ai dám phản ứng khi chủ trương, mênh lệnh sai, vi phạm pháp luật và dân chủ một cách nghiêm trọng? Có một nghịch lý, bất công rõ ràng mà vẫn tồn tại mọi lúc, mọi nơi: Nếu như " quan" lợi dụng chức quyền làm sai, vi phạm pháp luật thì hầu như chẳng sao cả, nhưng dân thì không khéo hở một chút bị quy là "lợi dụng quyền dân chủ" chống này, phá nọ (!?). Thế nhưng, rốt cục vẫn cảnh bất công, chứa chất đầy ngang trái: “Quan xử theo lễ, dân xử theo hình”, rất tỉnh bơ bất cần soi đến Hiến pháp, pháp luật và nhất là chân lý và dân luận! Cái đà này, cho hay rằng, với cơ chế và hệ thóng bọ máy quyền lực trong xã hội như hiện nya, cho dù Hiến pháp sửa đổi có thông qua cũng chỉ nằm trên giấy mà thôi.
Lời Bác dặn còn đó: “Cái gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Giữa ban ngày mà tung lực lượng, cả máy ủi, máy xúc đập phá nhà dân, giữa ban ngày mà công khai kéo hàng chục tấn cá trong hồ của dân, thế mà cũng gọi là “thi hành công vụ” ư? Người nào đó đọc lại câu ca dao chống xâm lược, chống phong kiến: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, liệu có đúng với hiện trạng vụ việc này không?
Có một lý giải xem ra cũng đúng với thực tế trong xã hội, hình như dân ta đã quá khổ vì các tầng áp bức của nhiều chế độ xã hội cũ, cho nên, được sống trong xã hội có dân chủ, được quyền dân chủ, nhưng vẫn còn tâm lý sợ chính quyền, sợ công an, thấy bắt bớ, giam cầm là sợ. Cho dù khi biết người đại diện cho chính quyền, mấy anh công an làm sai trật lấc, không đúng đường lối, ngược chính sách của Đảng, không đúng pháp luật, nhưng lại ít có bản lĩnh, không biết hợp sức bà con đồng lòng đoàn kết lại để đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ của mình, cứ im lặng ngó qua cho xong chuyện, thậm chí căn răng mà chịu và tự khuyên nhau: “Họ có quyền, có thế, là người Nhà nước, dân mình thấp cổ bé họng, làm sao cho lại?”. Những cán bộ, đảng viên cấp dưới thuộc quyền thì như “thiên lôi”, chỉ đâu đánh đấy, thậm chí còn hành động như muốn lập công với cấp trên, thể hiện cái gọi là “ý thức phục tùng”. Sự nhu nhược, thiếu bản lĩnh ấy đã dẫn tới tạo điều kiện buông cho cái sai được dịp sai nặng hơn, cái ác thêm lộng hành, cửa quyền càng phát sinh. Rồi cuối cùng, người dân bị tước quyền dân chủ một cách trắng trợn.
Dư luận xã hội đã rất phổ biến một thực trạng là: “Hiện nay, it có ai quan tâm đến việc phát huy quyền dân chủ, mà chỉ nặng về thủ (giữ) cho cá nhân”. Chữ “thủ” ở đây là giữ cho riêng mình, có lợi cho riêng bản thân mình. Cá nhân chủ nghĩa thể hiện trong lối “thủ” này rất rõ nét. Cán bộ có chức có quyền do động cơ, lối sống “thủ cá nhân” mà thẳng tay vi phạm dân chủ, dọa nạt, ức hiếp, trù dập, trả thù những người dân dùng quyền dân chủ để tố cáo sai phạm. Những người này rất sợ, rất ái ngại dân chủ, tìm cách né tránh dân chủ. Bới vì, theo đường lối dân chủ thì họ không dễ dàng qua mặt quần chúng để “thủ lợi” cho cá nhân và nhóm lợi ích. Nói về dân chủ, Bác Hồ đã dạy rất chân tình, giản dị và dễ hiểu: “Dân chủ là hãy để cho người dân mở miệng”, nhưng các vị đương chức đương quyền đã “suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống” chỉ lo tìm cách bịt miệng dân, dối trên lừa dưới. Thế là thủ tiêu dân chủ. Thực tế trong các thể chế chính trị đã có nhiều bài học đau xót do mất dân chủ, đàn áp dân chủ, độ chênh lệch về công bằng xã hội tạo sự phân hóa lớn.
Còn trong các tầng lớp quần chúng cũng có những người chỉ chăm chắm lo “thủ” cho cái tôi bé nhỏ, sinh ra co lại, trùm chăn an phận, sống theo kiểu “mũ ni che tai, đèn nhà ai nhà ấy rạng”, “chuyện ai kệ ai, mặc gai trước mắt”, từ đó sinh ra hiện tượng lối sống vô cảm. Do đó, sức manh đoàn kết cộng đồng bị dần dần yếu đi, thậm chí như bị triệt tiêu. Một số vụ thấy người hành xóm, người trong cơ quan, đơn vị bị ức hiếp quá đáng, nhưng không ai ra mặt can thiệp, chuyện ai người ấy gánh, phận ai người đó chịu, đấu tranh-tránh đâu, nói có ăn nhằm gì. Hoặc không ít người quan niệm: “Họ mất chất cộng sản rồi đấy, nhưng dây vào họ làm gì, chỉ sinh phiền toái, chẳng phải đầu cũng phải tai”.
Tâm lý sợ bị trù dập, sợ trả thù, hoặc tâm lý tự ti là dân không quyền hành nên không dám lên tiếng là rất phổ biến và tai hại. Có những cán bộ, đảng viên biết là nói sai, nói và làm sẽ có hại cho dân, sẽ ảnh hưởng uy tín Đảng, nhưng ỉ vào cấp trên, nịnh cấp trên, muốn cái lợi trước mắt gì đó, mà vẫn cố tình nói liều, nói ẩu, làm sai, bao che cho cái sai. Thực hiện quyền dân chủ, đấu tranh vì nền dân chủ thực sự nhiều khi rất cần bản lĩnh, dũng khí, chính kiến rõ ràng. Những biểu hiện đó, suy cho cùng là chính mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cũng chưa phát huy quyền dân chủ của mình. Mặc kệ những đau khổ, thiệt thòi, oan khốc của người khác; mặc kệ cho sự vi phạm dân chủ một cách trắng trợn, tưởng như được an toàn cho bản thân, gia đình, nhưng đến lúc nào đó cái nạn đến với chính mình, rồi cũng đành phải cam lòng gánh chịu.
Nếu như mọi cán bộ, đảng viên và người dân biết hưởng quyền dân chủ đã được Hiến pháp cho phép và bảo vệ, biết và dám sử dụng quyền dân chủ, có bản lĩnh, ý chí đấu tranh chống mọi sự bất công thì sẽ tạo sức mạnh tổng hợp toàn xã hội để vươn tới xây dựng được một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Có như vậy mới tránh được nguy cơ sụp đổ của chính quyền và những trở ngại khác đối với một cuộc sống công bằng và đoàn kết với cơ hội sống an khang, thịnh vượng cho tất cả mọi người. Chỉ có sự tham gia công bằng, tự do và dân chủ vào đời sống chính trị- xã hội và kinh tế của một nhà nước hay một cộng đồng mới có thể tăng cường an ninh cho cuộc sống và mỗi con người. Chỉ có đảm bảo đầy đủ các quyền con người, tôn trọng dân chủ, quản lý nhà nước có sự tham gia của người dân thì mới có an ninh cho mỗi cá nhân và cộng đồng, mới đi tới phát triển xã hội thực sự “dan chủ, công bằng, văn minh”.
Chương trình nghị sự an ninh con người tập trung vào việc giành tự do không bị đe dọa xâm lăng tới cuộc sống hay mưu sinh của con người, đó là chính trị-xã hội là kinh tế, văn hóa. Khái niệm tôn trọng quyền con người và tự do dân chủ cũng như trao quyền cho việc phát triển con người là điều không thể thiếu trong việc bảo vệ và tăng cường an ninh con người. Quá trình thúc đẩy quyền con người, phát triển con người và an ninh con người - ba khái niệm có liên quan mật thiết với nhau như là tầm nhìn cơ bản của một trật tự thế giới mới - có thể bắt nguồn từ những xã hội trong đó các giá trị dân chủ không chỉ được truyền bá mà còn được thực hiện chuẩn mực và chất lượng. Chỉ trong một nền dân chủ thì việc tôn trọng quyền con người thể hiện ở tự do thoát khỏi sợ hãi và các mối đe dọa đối với sự tồn tại cơ bản của một người; phát triển con người đặt ra yêu cầu về nguồn lực và tự do mà một người cần để phát triển tối đa tiềm năng của mình; an ninh con người đề cập đến tự do thoát khỏi nạn đói, chiến tranh, thảm họa sinh thái, những bất công, cũng như những hành động xâm phạm đến con người do chính con người đưa đến với nhau.
Tất nhiên tình hình hiện nay đã khác xưa rất nhiều. Người dân đã ý thức hơn về quyền dân chủ và thực thi quyền dân chủ của mình. Nhưng, để thực hiện được quyền dân chủ như lời Bác Hồ đã nói, để “làm cho nhân dân biết thụ hưởng quyền làm chủ, biết dùng quyền làm chủ của mình, dám nói, dám làm” thì trước mắt còn rất nhiều việc phải làm. Dân chủ thường được hiểu là quyền lực của nhân dân, nhưng quyền lực đó phải được pháp luật bảo vệ mọi lúc mọi nơi thì mới phát huy được hiệu quả, nếu không thì số đông cũng bị một vài cá nhân quyền lực trấn áp một cách vô lý và oan ức. Cho nên, khi người dân không được giáo dục, tạo điều kiện để nâng cao nhận thức “biết thụ hưởng quyền làm chủ” hợp pháp thì quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc vẫn rất khó đến được với họ.
Có một thực tế là các "quan tham" và "quan dốt" né tránh dân chủ, sợ mở rộng dân chủ sẽ nhiều bất lợi cho mình, nhất là những việc làm sai trái khó che đậy và vô cùng khó lý giải trước dân. Đó là cái mầm tư tưởng sinh ra co lại "phòng thủ" với dân chủ, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền.
Trình độ dân trí càng thấp thì sự thiệt thòi của họ càng thêm gia tăng, cái xấu, cái ác nghiễm nhiên tự tại. Nhưng về bản chất, dân chủ liên quan chặt chẽ tới các nguyên tắc quyền con người, do đó không thể thực hiện dân chủ đầy đủ và rộng rãi nếu như không đảm bảo đầy đủ việc tôn trọng và bảo vệ phẩm giá con người. Ngoài quyền tham gia và quyền đại diện, dân chủ còn có tính bao hàm, tức là quyền này có đầy đủ trong cuộc sống của công dân ở một cộng đồng, một khu vực hay một nhà nước. Cách thức để mỗi công dân đều có thể thực hiện đầy đủ quyền được tham gia là ở quyền được tự do sống theo Hiến pháp, pháp luật mà không bị thói cường quyền xâm phạm. Chỉ những người có hiểu biết cơ bản về cách thức vận hành của hệ thống và có kiến thức về các cơ chế và các tổ chức trong một xã hội dân chủ thì mới có thể đóng góp và giúp ích cho xã hội. Suy cho cùng, quyền dân chủ bị vi phạm quá nặng thì cần xem lại những lỗi hệ thống tổ chức, điều hành, quán lý xã hội.
Quá trình thực hiện cải cách hành chính gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đang được tiến hành đồng bộ, rộng rãi. Quy chế dân chủ cơ sở nhằm đảm bảo cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trực tiếp ở cơ sở nơi cư trú và cơ quan, đơn vị công tác. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng về mở rộng dân chủ, dân chủ trực tiếp được cụ thể hoá và đưa vào khá nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Quá trình thực hiện cải cách hành chính gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đang được tiến hành đồng bộ, rộng rãi. Đặc biệt là từ khi Chính phủ ban hành Quy chế dân chủ cơ sở xã kèm theo nghi định 79/2003/NĐ -CP.
Dân chủ cần được thực thi đúng quan điểm, nghiêm túc, chuẩn mực, thường xuyên và có trách nhiệm, không thể chỉ bày ra như ‘cái bánh vẽ’. Dù trong bát cứ nội tình vụ việc, bối ảnh, diễn biến nào, đàn áp dân chủ đều thể hiện sự bất lực, kém cỏi, độc tài, tàn bạo và tồi tệ nhất của một thể chế quyền lực trong xã hội. Mọi hình thức đàn áp dân chủ hoặc dân chủ hình thức đều là sản phẩm cực kỳ nguy hại của chế độ chuyên chế toàn trị.
Để “Quy chế dân chủ cơ sở” được phát huy rộng rãi, thực sự đi vào cuộc sống, trước hết cần thường xuyên tăng cường giáo dục cho mọi cán bộ, đảng viên có quan điểm tư tưởng, có lập trường cộng sản kiên định, nhận thức thật đúng đắn và sâu sắc về mối quan hệ Đảng lãnh đạo với thực thi dân chủ. Cần phát hiện và xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm dân chủ. Muốn thực hiện dân chủ xã hội rộng rãi, trước hết phải thực sự dân chủ trong Đảng. Nếu như ngay trong nội bộ Đảng cũng bị mất dân chủ, thì chẳng thể mong thực hiện dân chủ toàn xã hội. Dân chủ trong Đảng phải gắn chặt với thực hiện nguyên tắc, điều lệ Đảng, gắn với tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về dân chủ. Đối với người dân, các cấp bộ đảng, chính quyền cần khắc phục quan niệm phổ biến pháp luật qua quýt, lấy cớ, hnhf thức, sợ dân hiểu sâu, nắm chắc pháp luật, khó bề lách luật, lướt luật. Cần có chính sách giáo dục nâng cao dân trí, làm cho mọi người dân đều hiểu biết sâu rộng các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ những người dân bị cán bộ đảng, chính quyền lợi dụng chức vụ, quyền hạn trù dập do đã mạnh dạn đấu tranh thực hành quyền dân chủ vì mục đích chung; đồng thời cần quan tâm khuyến khích người dân khi thu hưởng quyền dân chủ phải có trách nhiệm đấu tranh và vận động nhau xây dựng tốt đời sống văn hóa ở khu dân cư, sẵn sàng và trực diện đấu tranh với mọi hành vi sai trái, vi phạm dân chủ. Dân chủ xã hội càng đi vào lòng người thì đó là nguồn sức mạnh vô biên để xây dựng ngày càng vững chắc thể chế chính trị do Đảng lãnh đạo, cũng là thiết thực nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín và độ bèn vững của một Đảng cầm quyền.

Bùi Văn Bồng
(Blog Bùi Văn Bồng)

50% gia đình nông dân Việt Nam phải vay nặng lãi

Nông dân vẫn phải chắt bóp trong chi tiêu. Giai đoạn 2010 – 2012, tỷ lệ gia đình nghèo không những không giảm mà tỷ lệ tái nghèo còn tăng. Có đến 50% gia đình nông dân phải vay nặng lãi.
Tuy nhà cầm quyền đặt định nhiều chính sách và nhận được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế nhằm giúp nông dân Việt Nam thoát khỏi đói nghèo nhưng nông dân càng ngày càng cơ cực, bần cùng (Hình: Dân Việt)

Đó là kết quả nghiên cứu sâu về gia đình ở nông thôn năm 2012 tại 12 tỉnh của Việt Nam. Nghiên cứu này do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện và kết quả vừa được công bố hôm 21 tháng 11-2013.

Tuy chế độ Hà Nội đặt định nhiều chính sách và nhận được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế nhằm giúp nông dân Việt Nam thoát khỏi đói nghèo nhưng kết quả cuộc nghiên cứu về gia đình ở nông thôn năm 2012 do CIEM thực hiện, cho thấy, đại đa số gia đình nông dân vẫn “tự lực vượt khó” bằng các “cơ chế phi chính thức”  (vay mượn bên ngoài hệ thống ngân hàng và chịu lãi cao).

CIEM cho biết, có tới 42% nông dân không cảm thấy hạnh phúc vì thu nhập quá thấp, không tương xứng với sức lực mà họ bỏ ra.

Thu nhập thấp cũng là lý do tạo ra nhiều rủi ro. CIEM ước tính, thiệt hại trung bình đối với đủ loại rủi ro (thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi…) đố lên đầu mỗi gia đình nông dân ở mức khoảng 8 triệu đồng một năm.

Những gia đình nghèo, thuần nông (chỉ trồng trọt, chăn nuôi, không buôn bán) gặp rủi ro nhiều hơn và gánh chịu thiệt hại nặng nề hơn những gia đình khác tại nông thôn. CIEM cho biết, chỉ có chừng 50% số gia đình hồi phục hoàn toàn sau những cú sốc (sốc do thiên tai, sốc vì thị trường – chi phí tăng, giá bán giảm, sốc cá nhân do gia đình có người đau bệnh, qua đời).

Kết quả nghiên cứu còn cho thấy nông dân vẫn là bộ phận gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất Việt Nam. Ngoài chuyện không nhận được những hỗ trợ cần thiết từ phía chính quyền, nông dân còn thiếu thông tin, thiếu khả năng sơ chế, thiếu kho bãi bảo quản sản phẩm, trả chi phí vận chuyển cao... nên càng ngày càng mạt.

Trong mười năm qua, CIEM đã thực hiện năm cuộc khảo sát về nông dân và nông thôn (2002, 2004, 2006, 2008, 2010, 2012) để hỗ trợ hoạch định chính sách phát triển kinh tế cho nông thôn. Tuy nhiên các cuộc khảo sát luôn cho thấy, thực trạng năm sau tồi tệ hơn hai năm trước.

Tình trạng ly nông (bỏ làm ruộng), ly hương (bỏ quê đi nơi khác kiếm sống) càng ngày càng phổ biến. Ông Lưu Đức Khải, Trưởng Ban Chính sách phát triển nông thôn của CIEM cho biết, hơn 20% gia đình nông dân được phỏng vấn xác nhận, có ít nhất một thành viên trong gia đình của họ đã ly hương, di cư đến nơi khác.

Những cuộc di cư này thường xảy ra sau khi có những biến cố bất ngờ (thiên tai, dịch bệnh,…) và mục tiêu của ly hương là tìm cơ hội kiếm tiền, giúp gia đình hồi phục. Đến nay, nguồn tiền của những người ly hương gửi về vẫn là nguồn thu nhập quan trọng giúp các gia đình nông dân cầm cự. Ông Hải dự báo, xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng.

Có một điểm đáng chú ý là theo CIEM, phúc lợi của các gia đình nông dân không được cải thiện. Thậm chí phúc lợi của các gia đình thiểu số còn bị giảm đi.

Trả lời tờ Nông thôn Ngày nay, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách (IPSARD), một thành viên tham gia nhóm nghiên cứu, kể rằng, thu nhập của nông dân chỉ ở mức 1 triệu đồng/người/tháng, thành ra dè sẻn lắm thì cũng chỉ tích lũy được 14 đến 15 triệu đồng/năm, tạm đủ cho ma chay, cưới xin hay một người vào bệnh viện một lần.

Sau các cuộc khảo sát, ông Tuấn nhận xét, tần suất các cú sốc đang càng ngày càng nhiều, nhất là những cú sốc tác động đến toàn bộ nông dân như thiên tai, dịch bệnh và thị trường biến động song nông dân không thể tiếp cận các dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nông nghiệp. 
(Người Việt)

Bao giờ Quốc hội thoát khỏi vai trò trang trí?

Toàn cảnh buổi lễ khai mạc Kỳ họp thứ 6 quốc hội khóa 13 của Việt Nam hôm 21/10/2013. AFP photo
Về nguyên tắc Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Nhưng trên thực tế cơ chế này chỉ là công cụ của Đảng và mang tính hình thức. Câu hỏi đặt ra là, có cơ may nào để Cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, có thể thoát khỏi vai trò trang trí cho chế độ.
Một nền dân chủ giả hiệu
Hiến pháp 1992 hiện hành trao cho Quốc hội và các đại biểu chức trách và quyền hạn rất lớn. Ngôn từ diễn tả trong các điều 6, điều 83 và 84 rất hoành tráng. Nhưng trên thực tế Quốc hội và các đại biểu dù có xuất xứ ra sao, sự nghiệp như thế nào thì cũng không thể thay đổi những điều Đảng đã chỉ đạo.


∇ Nghe tường trình
Trả lời chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng một chuyên gia nghiên cứu ở TP.HCM so sánh chế độ chính trị ở Việt Nam với thời kỳ chủ nghĩa tư bản dã man ở Châu Âu trong thế kỷ 19. Theo đó, đặc thù của chủ nghĩa tư bản dã man là một nền dân chủ được coi là giả hiệu. Trong hoàn cảnh đó, những tổ chức đại diện cho dân chúng mang tính cách dân bầu không thể đóng vai trò đại diện cho khối cử tri đông đảo. Thay vào đó các tổ chức đại diện này mang dáng dấp khu biệt cô lập, có thể xem là vật trang trí cho một đảng phái chính trị nào đó. TS Phạm Chí Dũng tiếp lời:




Điều đó đang có nét ứng với chính trị ở Việt Nam, chính vì vậy trong một bài viết gần đây tôi có nêu lại luồng ý kiến đặt ra vấn đề là phải chăng Quốc hội cũng là một nhóm lợi ích.

» TS Phạm Chí Dũng
“Điều đó đang có nét ứng với chính trị ở Việt Nam, chính vì vậy trong một bài viết gần đây tôi có nêu lại luồng ý kiến đặt ra vấn đề là phải chăng Quốc hội cũng là một nhóm lợi ích.”
Nhà báo Lê Phú Khải, nguyên phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam hiện nghỉ hưu ở Hà Nội đã biểu cảm một thái độ chán chường với chế độ toàn trị. Đáp câu hỏi là có cách nào để quốc hội dân chủ hơn dù giữ nguyên chế độ độc đảng, thí dụ mở rộng quyền ứng cử, tranh cử thay vì cơ chế Đảng chọn dân bầu. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:
“Chúng ta từ một xã hội cổ xưa phong kiến độc tài, đến bây giờ lại đảng trị độc tài. Bây giờ chúng ta phải tập dân chủ và trách nhiệm bước tập dân chủ đó ở ngay trong Quốc hội. Nếu có 50% người ngoài Đảng, trong Quốc hội cọ xát nhau dần dần tiến tới dân chủ. Bước tập dân chủ, bước đệm dân chủ thì đã nói trước đây rồi nhưng mà làm gì có chuyện đó, đến bây giờ vẫn chỉ có dưới 10% là người ngoài Đảng mà thậm chí người ngoài Đảng cũng là do Đảng chọn… thì đây là Quốc hội của Đảng.”
Nhân kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 13 đang diễn ra ở Hà Nội, Kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh hiện sống và làm việc ở Đà Nẵng chia sẻ cảm nhận của mình về vai trò của 493 đại biểu Quốc hội hiện nay.
“Trong các nước dân chủ thì quyền lực của dân biểu rất cao, họ là đại diện cho ý chí, tiếng nói nguyện vọng của người dân. Nhưng hiện tại nước tôi chưa đạt được điều này vì người đại biểu không có tự do, họ không thể nói hết được tiếng nói của họ, cũng như tiếng nói nguyện vọng người dân, bởi trên họ có nhiều tầng lớp có thể lũng đoạn họ về mặt chính trị, về mặt Đảng cũng như về mặt kinh tế… Nhưng tôi nghĩ rằng nếu có một xã hội dân sự đủ mạnh thì có thể tập hợp tiếng nói người dân…thúc đẩy… thì tôi nghĩ lúc đó buộc các đại biểu Quốc hội phải nói, phải làm, để mà tròn trách nhiệm do dân giao phó. Khi đó tiếng nói của họ sẽ rất là mạnh mẽ để thúc đẩy việc giải quyết các vấn nạn mà người dân đang gánh chịu.”
Những phiên họp sớm nở tối tàn
Bà Lê Hiền Đức ở Hà Nội, người được Tổ chức Minh bạch Quốc tế vinh danh, có cách đánh giá Quốc hội và các vị đại biểu một cách khá đặc biệt. Bà nói:




Tôi nhìn trên mạng có rất nhiều ảnh đại biểu quốc hội ngủ gật, nhưng ở đâu cũng có người tốt và người xấu. Tôi không nói là tôi mất tin tưởng tất cả, cũng không nói là tôi tin tưởng Quốc hội, người tốt thì thương dân, người xấu thì hại dân.

» Bà Lê Hiền Đức
“Tôi nhìn trên mạng có rất nhiều ảnh đại biểu quốc hội ngủ gật, nhưng ở đâu cũng có người tốt và người xấu. Tôi không nói là tôi mất tin tưởng tất cả, cũng không nói là tôi tin tưởng Quốc hội, người tốt thì thương dân, người xấu thì hại dân.”
Cách đây một thập niên, hoạt động ở Quốc hội Việt Nam buồn chán hơn rất nhiều, thời trước không có những ý kiến phản biện mạnh mẽ dám phê phán chính quyền. Có ý kiến cho là xu thế thời đại và sự bùng nổ công nghệ thông tin đã có những tác động nhất định. Tuy vậy quan sát những phiên họp Quốc hội gần đây, sự phản biện có vẻ đã sớm nở tối tàn. TS Phạm Chí Dũng nhận định:
“Vào kỳ họp Quốc hội cuối năm 2011 tiếng nói phản biện cất lên nhiều hơn, trong Quốc hội, trong Đảng nữa. Lúc đó có ít nhất 5-6 đại biểu đứng lên hỏi vấn đề chủ quyền Biển Đông, hỏi về Luật Biểu tình và ngay lúc đó chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đứng trước Quốc hội và đề cập tới hai vấn đề này. Nhưng sau đó 2 năm cho tới thời điểm này, không một ai nhắc đến chủ quyền Biển Đông và cũng chẳng ai đá động đến Luật Biểu tình nữa.”
Theo lời TS Phạm Chí Dũng số đại biểu phản biện hiện nay đã giảm chỉ còn 2 tới 3 người, ông mô tả điều gọi là tâm lý sợ hãi và tâm lý chán nản, mệt mỏi bất lực của đại biểu Quốc hội trước những biến động xã hội. Bản thân họ không còn tin vào tổ chức mà họ đang có chân trong đó mặc dù họ không nói ra.
TS Phạm Chí Dũng nói với chúng tôi là ông không tin vào một tín hiệu cải cách chính trị nào ngay trước mắt. Ngay cả vấn đề cho dân bầu trực tiếp Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ mà dự thảo sửa đổi Hiến pháp kỳ này cũng không đề cập tới thì còn nói gì tới Trưng cầu Dân ý rộng rãi và dân chủ rộng rãi được. TS Phạm Chí Dũng nhận định là, những áp lực của xã hội về mặt kinh tế, về những bất ổn và những động loạn sẽ buộc giải quyết một số nào đó về thế độc quyền kinh tế và sự sở hữu toàn dân về đất đai chuyển qua đa sở hữu nhiều hơn. Vẫn theo TS Phạm Chí Dũng, tất cả những điều đó sẽ diễn ra một cách chậm chạp từ tốn và dù sao khi nó đem lại một chút kết quả nào đó dù là nhỏ, thì nó cũng sẽ ảnh hưởng tới tư duy chính trị.
Nam Nguyên,
phóng viên RFA

Dân nghèo lắm rồi, đừng thu thêm nữa!


“Thu phí phương tiện vào nội đô nhiều nước đã làm nhưng đó là khi đời sống của người ta rất cao”, TS Nguyễn Xuân Thủy chia sẻ.

TS Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám đốc NXB Giao thông Vận tải khẳng định: “Thu nhập người dân hơn gấp mấy chục lần ta. Giờ không thể quy hoạch kém, không đầu tư phát triển giao thông đô thị, rồi lại đè dân ra mà thu tiền để giải quyết hậu quả được”.

Đóng phí trong sự ấm ức

Bộ GTVT vừa đề xuất triển khai đề án thu phí xe vào trung tâm Hà Nội và TPHCM từ năm 2013 – 2017 nhằm giảm tình trạng ùn tắc, kiểm soát và từng bước hạn chế xe cá nhân lưu thông trong khu vực trung tâm các thành phố. Ông đánh giá thế nào về giải pháp này?

Trước đây, Bộ GTVT đã bàn đến chuyện này rồi. Lúc đó tôi cũng đã nêu quan điểm không nên thu phí để hạn chế xe cá nhân. Vì phương tiện công cộng của mình mới chỉ có xe buýt. Mỗi năm xe buýt chỉ đáp ứng được từ 6 – 10% nhu cầu đi lại của nhân dân. Hơn 90% người dân không biết di chuyển bằng phương tiện gì buộc phải mua xe cá nhân để mưu sinh.

Hạn chế xe cá nhân thì dân đi bằng gì. Bộ GTVT không trả lời được nên không thực hiện. Tiếp đến, ta học một số nước là thu phí phương tiện vào đô thị trong giờ cao điểm. Các nước họ làm được. Pháp đã giảm được 15% lượng người vào trung tâm vào giờ cao điểm. Nhưng cái này thì ta chưa học được đâu.

Cái hay thì ta phải học hỏi chứ, sao lại chưa học được ạ?

Ta phải xét các điều kiện cần và đủ. Giảm phương tiện cá nhân để giao thông thông thoáng là cần, nhưng điều kiện đủ là các phương tiện khác phải phát triển tương xứng để người dân lựa chọn để đi, thay thế phương tiện cá nhân. Thì ta lại chưa có điều kiện này. Thứ nữa là đời sống nhân dân của ta đang rất khó khăn. Có những gia đình cũng đi xe máy đấy, nhưng mỗi ngày cũng chỉ kiếm được vài ba chục ngàn đồng. Có đến 60 – 70% số người sử dụng xe máy làm phương tiện mưu sinh có thu nhập rất thấp. Thu phí thì sẽ gây khó khăn cho dân, đảo lộn cuộc sống của họ.

Nghĩa là không nên thu phí phương tiện vào giờ cao điểm khi đi vào nội đô?

TS Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám
đốc NXB Giao thông Vận tải.
Tôi nghĩ là cần phải có lộ trình hợp lý để từng bước phù hợp với điều kiện chung của xã hội. Khi giao thông công cộng được đầu tư mở rộng, khi hạ tầng giao thông, đường thông hè thoáng thì mới nên tính đến thu phí. Với số lượng 40 – 45 vạn ô tô hiện nay ở Hà Nội, TPHCM là 50 vạn, cùng với hàng triệu chiếc xe máy, nếu làm tốt giao thông công cộng và hạ tầng thì chưa đến mức áp dụng biện pháp kinh tế với người dân.

Giả sử vẫn thu phí thì ông có đóng không?

Tôi vẫn chấp hành, tôi nghĩ người dân nào cũng sẽ chấp hành. Nhưng đóng phí trong ấm ức vì đời sống quá thấp.
TS Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám đốc NXB Giao thông Vận tải.

Cái tài của người lãnh đạo!

Nhưng ở góc độ quản lý, nếu không thu phí, thì sẽ không có tiền đầu tư, không giải quyết được ùn tắc?

Ý đó vừa đúng vừa sai. Việc đầu tư cho giao thông công cộng bao nhiêu là do nhà nước hoạch định. Nhưng việc đầu tư đó có hợp lý hay không thì nhiều lần tôi cũng nói rằng đầu tư đó chưa đáng bao nhiêu cả. Mình đầu tư cho giao thông công cộng quá thấp so với thế giới. Chúng ta làm cảng, làm sân bay, làm đường cao tốc… nhưng tiền tập trung cho giao thông đô thị thì cực kỳ thấp. Tôi nói ví dụ như tuyến tàu điện ngầm Nhổn – Ga Hà Nội, nói 5 – 7 năm nay rồi những chưa triển khai gì cả. Rồi tuyến tàu điện trên cao từ Hà Đông đi Cát Linh cũng chưa được triển khai. Chưa thấy đổi mới gì cả.

Có lẽ là vì bài toán kinh tế?

Ở Bắc Kinh, người ta làm 27km tàu điện ngầm mà chỉ trong 5 năm. Ta thì chục năm vẫn chỉ có nói thôi. Vẫn biết kinh tế khó khăn, nhưng đầu tư vào đâu là cái tài của người lãnh đạo. Tôi có 40 năm nghiên cứu giao thông đô thị thì so với các nước, đầu tư cho giao thông đô thị ở nước mình là kém nhất.

Cụ thể của “cái tài” ấy là như thế nào, thưa ông?

Về nguyên tắc, để chống ùn tắc thì thành phố từ 2 triệu dân trở lên thì dứt khoát phải có tàu điện ngầm. Hà Nội bây giờ 7 – 8 triệu dân mà chưa có một mét tàu điện ngầm nào, chưa có một mét đường sắt đô thị nào. TPHCM cũng thế. Sẽ đến lúc, không có chỗ mà đỗ xe buýt nữa. Cách đây 20 năm tôi đề nghị các ngã tư lớn ở Hà Nội phải có cầu vượt. Đến 2011 thực hiện thì mới thấy nó tốt và triển khai. Thế đấy, vấn đề vẫn là tầm nhìn thôi!

Đừng đổ lỗi cho ý thức

Nhiều người phàn nàn về ý thức người tham gia giao thông kém là tác nhân dẫn đến ùn tắc, chứ không phải số lượng mật độ xe tham gia giao thông. Điều đó theo ông có đúng?

Đừng nói thế. Cái quan trọng số một là hạ tầng giao thông nó mới dẫn đến những hệ quả đó. Đường phải rộng, hè phải thoáng thì tự khắc người dân sẽ điều chỉnh. Chứ giả sử tôi đang đứng trong cái hàng ùn tắc này mà vợ tôi đang ốm hoặc chuẩn bị sinh con, thì liệu tôi có bình tĩnh đi theo thứ tự được không. Tôi phải vượt lên vỉa hè mà đi chứ. Đó là bản năng con người cơ mà.

Nghĩa là mấu chốt vẫn là hạ tầng?

Đúng, nếu nó tốt, giao thông công cộng tốt, thì tự nhiên người ta sẽ có ý thức thôi.

Vậy theo ông thì vì sao lãnh đạo lại chưa quan tâm đến phát triển giao thông đô thị?

Đó là cái tầm nhìn. Đừng đổ lỗi cho ít tiền. Nó là bài toán đầu tư. Hà Nội và TP HCM tạo ra gần 30% GDP cho cả nước, tạo ra 40 – 50% ngân sách, thì phải đầu tư cho nó chứ. Không có thành phố nào trên thế giới có 7 – 8 triệu dân mà lại chỉ có 1.000 xe buýt cả. Trong khu vực thì Băng Cốc, Kualalumpur, Singapore đều đã có tàu điện ngầm rồi. Xe buýt là phương tiện chỉ hợp với thành phố có 30 – 50 vạn dân mà thôi.

Vậy trở lại với việc thu phí phương tiện vào nội đô, biết đâu từ đó sẽ có tiền để làm tàu điện ngầm?

Lãnh đạo ngành giao thông chưa hiểu rõ vai trò của giao thông đô thị thì mới đầu tư nhỏ giọt manh mún như thế này. Chứ còn đừng có bảo không có tiền. Cách đây 20 năm thì nói câu đó được. Chứ hiện nay thì đừng. Cầu Nhật Tân ta làm 1 tỷ đồng/m. Ta đã làm những công trình với chi phí rất lớn, thì không có nghĩa là không có tiền.

Vậy thì vai trò của các nhà khoa học như ông đâu?

Chúng tôi nói nhưng họ không nghe thì biết làm thế nào? Họ không quan tâm và không nghe các nhà khoa học tham mưu tư vấn đâu. Nếu nghe thì chỉ trong 3 năm nữa là chúng ta sẽ có tàu điện ngầm. Các nhà khoa học rất bức xúc. Đầu tư cho giao thông đô thị không đúng hướng, không hợp lý nên mới ùn tắc. Từ đó nghĩ ra chính sách khác như thu phí. Mà dân thì nghèo lắm rồi!

Xin cảm ơn ông!

Một công chức đi làm đúng giờ thì hiệu quả sẽ nhân lên, một sinh viên đi học đúng giờ thì sẽ tiếp thu được nhiều hơn. Mỗi phút giây giao thông tiết kiệm được cho người dân chính là những hiệu quả mà giao thông đô thị mang lại. Tiết kiệm thời gian và sức khoẻ. TPHCM mỗi năm đóng góp GDP là khoảng 600 nghìn tỷ đồng. Nếu nhờ thời gian tiết kiệm được mang lại hiệu quả thì chỉ cần 1% trong đó thôi đã là hàng trăm tỷ rồi.

Một công chức đi làm đúng giờ thì hiệu quả sẽ nhân lên, một sinh viên đi học đúng giờ thì sẽ tiếp thu được nhiều hơn. Mỗi phút giây giao thông tiết kiệm được cho người dân chính là những hiệu quả mà giao thông đô thị mang lại. Tiết kiệm thời gian và sức khoẻ. TPHCM mỗi năm đóng góp GDP là khoảng 600 nghìn tỷ đồng. Nếu nhờ thời gian tiết kiệm được mang lại hiệu quả thì chỉ cần 1% trong đó thôi đã là hàng trăm tỷ rồi.

Tô Hội
Theo Kiến Thức

Mổ xẻ nguyên nhân 80% sinh viên Việt Nam nói dối?

Thiên Di - theo Trí Thức Trẻ

(Soha.vn) - Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, tỷ lệ nói dối tăng theo lứa tuổi (học sinh cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50%, cấp 3 là 64% và sinh viên là 80%) không còn là chuyện nhỏ.

Trong buổi hội thảo “Thực trạng văn hoá học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” do Sở Giáo dục - Đào tạo Lâm Đồng phối hợp với công ty Bước Tiến Mới tổ chức tại Đà Lạt cách đây chưa lâu, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm – Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng (ĐH Quốc gia TP. HCM) đã cung cấp những con số giật mình: Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục thực hiện năm 2008, tỷ lệ nối dối cha mẹ ở học sinh cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50%, cấp 3 là 64% và sinh viên là 80%.
Con số này khiến dư luận, đặc biệt là bậc cha mẹ học sinh, hoang mang lo lắng về sự tác động của xã hội, sự thay đổi môi trường, điều kiện sống đối với sự phát triển tâm lý của con em mình.
Nói dối trở thành “kỹ năng sống” để đối phó với đời?
- GS đánh giá như thế nào về tỷ lệ nói dối của học sinh, sinh viên mà ông nêu ra tại Hội thảo?
GS Trần Ngọc Thêm: Xin nói ngay là tôi không thuộc nhóm người tin tưởng vào những con số mà các cuộc điều tra xã hội học ở Việt Nam cung cấp. Tuy nhiên, trong trường hợp đang xét, tôi thấy những con số này phù hợp với các kết quả nghiên cứu từ góc độ văn hóa học của nhóm chúng tôi và cho rằng chúng phản ánh thực tế xã hội hiện nay.
GS. Trần Ngọc Thêm (Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng (ĐH Quốc gia TP. HCM) cho rằng tỷ lệ nói dối tăng theo lứa tuổi là vấn đề không nhỏ.
GS. Trần Ngọc Thêm (Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng - ĐH Quốc gia TP. HCM) cho rằng tỷ lệ nói dối tăng theo lứa tuổi là vấn đề không nhỏ.
- Theo GS thì bệnh nói dối của học sinh đã được hình thành như thế nào?
GS Trần Ngọc Thêm: Đó là cả một quá trình. Chúng ta đều biết rằng không ai thật thà bằng con trẻ: “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” – ông cha ta từ lâu đã dạy thế. Nhưng dần dần, ở nhà các bé được chứng kiến những ứng xử của cha mẹ theo kiểu “nghĩ một đằng, nói một nẻo” và được giải thích rằng đó là sự tế nhị, khéo léo để không làm mất lòng nhau.
Ở trường, nhiều khi các bé được thầy cô dạy là khi đi thi, phải biết cách làm sao để giành phần thắng về cho trường mình; khi có đoàn thanh tra đến, các em sẽ giơ tay lên như thế nào, em nào sẽ trả lời thế nào… Các em tự nghĩ cách và bày cho nhau cách đối phó với những đòi hỏi, những kiểm soát của cha mẹ; những quy định, những yêu cầu của các thầy cô…
Lớn lên chút nữa, các em sẽ không khó khăn để nhận ra sự dối trá lan tràn khắp nơi. Từ thi cử gian dối, bệnh thành tích trong nhà trường (học sinh dốt cỡ nào cuối năm cũng được điểm 8-9 và lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông năm nào cũng cao ngất ngưởng) đến cân điêu, nói thách ở ngoài chợ; thanh minh thanh nga khi có lỗi; nạn phong bì, chạy chọt ngoài xã hội…
Sự dối trá phổ biến đến mức người lớn thường quên đi rằng mình đang nói dối, ai cũng nghĩ mình là người thật thà. Khi bị bắt gặp nói dối, họ luôn có đủ lý do để tự biện bạch. Cứ như thế, năng lực nói dối được tích lũy dần cùng với sự trưởng thành của đứa trẻ.
- Là nhà nghiên cứu văn hóa học, GS nhận định như thế nào về nguyên nhân của tệ nạn nói dối trong xã hội hiện nay?
GS Trần Ngọc Thêm: Qua những phân tích vừa nêu, có thể thấy tệ nạn nói dối trong xã hội hiện nay có cơ sở từ truyền thống ứng xử khéo léo của văn hóa làng xã. Đến nay, người Việt vẫn thích nghe lời nói khéo hơn là lời thật thà. Những lời nói thật thường bị chê là “thật thà quá”, ngụ ý là ngờ nghệch, dại dột. Người nói thật còn bị ném đá: “Thật như người miền Tây”. Nhưng nó chỉ trở thành tệ nạn nói dối nghiêm trọng là trong bối cảnh xung đột giữa văn hóa làng xã truyền thống với văn hóađô thị và kinh tế thị trường.
Từ đồng lương cho đến các quy chuẩn tài chính đều không hợp lý; mọi người, mọi cơ quan phải tìm mọi cách để tồn tại. Quản lý xã hội bị buông lỏng, người ta giải quyết mọi việc theo tình, theo tiền… chứ không theo pháp luật, quy chuẩn. Việc tham nhũng, chạy chức, suy thoái đạo đức… trở thành quốc nạn. Trong bối cảnh ấy, gian dối đã trở thành căn bệnh trầm kha đến mức không ít người có chức quyền đã trâng tráo nói dối mà không hề biết ngượng (như kiểu:“Không phát hiện mại dâm ở Quất Lâm, Đồ Sơn”; “Việc chạy chức ở Hà Nội chỉ là tin đồn thất thiệt”…).
Khi mà ngoài xã hội như thế, thì vô hình chung nói dối trở thành một phẩm chất mà thiếu nó, những người trẻ tuổi không đủ kỹ năng sống để đối phó với đời: “Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt/ Lọt luồn lươn lẹo lại lên lương”.
Người Việt Nam nói dối nhiều hơn nước ngoài?
- Tỷ lệ nói dối ở Việt Nam so với nước ngoài thì thế nào, thưa ông?
GS Trần Ngọc Thêm: Ở phương Tây, tuy các chính trị gia có dối trá, có thủ đoạn, nhưng nhìn chung thì truyền thống văn hóa phương Tây rất đề cao sự trung thực và dị ứng với thói dối trá. Văn hóa ứng xử của họ thắng thắn, sòng phẳng, không có lối nói khéo để lấy lòng nhau. Các quốc gia phương Tây có hệ thống quản lý theo luật pháp rất chặt chẽ, không có kẽ hở cho sự gian dối. Cho nên chắc chắc là tỷ lệ nói dối ở các nước phương Tây thua xa Việt Nam cả về mức độ và quy mô.
Nói dối trở thành căn bệnh, tệ nạn của xã hội.
Nói dối trở thành căn bệnh, tệ nạn của xã hội.
- Liệu những con số này có đẩy các bậc cha mẹ vào suy nghĩ bi quan hơn không?
GS. Trần Ngọc Thêm: Tâm lý bi quan hay lạc quan chỉ là hệ quả của thực tế do chính chúng ta tạo dựng nên. Vì vậy, cách ứng xử thông minh duy nhất là phải đối mặt, nhìn thẳng vào sự thật để tìm biện pháp giải quyết tận gốc chứ không phải trốn tránh nó như con đà điểu chui đầu vào cát khi gặp hiểm nguy.
Đừng nên quá ảo tưởng về con cái mình
- Vậy giải pháp nào để hạn chế được tệ nạn này thưa ông?
GS Trần Ngọc Thêm: Có giải pháp lâu dài để giải quyết tận gốc và giải pháp trước mắt để áp dụng cho con em mình.
Trước mắt, để áp dụng cho con em mình thì cha mẹ cần tôn trọng con cái, học và sinh hoạt cùng con cái để gần gũi, hiểu con cái. Hiểu được năng lực thực sự của các em thì cha mẹ sẽ đặt ra những mục tiêu phù hợp, không đòi hỏi quá khắt khe, không kỳ vọng quá mức vào thành tích để gây áp lực quá mức khiến đứa trẻ phải dối trá để đối phó. Học cùng con cái và gần gũi con cái thì các em không thể qua mặt được cha mẹ, nói dối cha mẹ (nhất là trong lĩnh vực tin học).
Sở dĩ các em nói dối được cha mẹ chính là vì cha mẹ quá chủ quan, ảo tưởng về mình và con cái mình; vì cha mẹ xa rời con cái, tạo mọi điều kiện vật chất rồi để mặc con cái muốn làm gì thì làm; và vì có những lĩnh vực cha mẹ không hiểu biết bằng con, không đủ năng lực và trình độ để kiểm soát con. Nhưng trên hết thì cần giáo dục cho con có bản lĩnh, năng lực và kỹ năng tự đối phó được trong mọi tình huống một cách trung thực nhất có thể.
Về lâu dài, để giải quyết tận gốc nạn nói dối thì phải điều chỉnh truyền thống văn hóa. Trong văn hóa ứng xử, không nên quá đề cao sự khéo léo, tế nhị mà phải đề cao sự trung thực, thẳng thắn, dù cái sự thật mà ta phải đối mặt có cay đắng đến thế nào. Trong văn hóa pháp luật, phải luôn tôn trọng sự thật, sự công bằng, coi trọng sự nghiêm minh. Ứng xử theo tình cảm, chạy theo thành tích, quá đề cao sĩ diện, coi trọng hình thức, v.v. chính là những cội nguồn của bệnh dối trá.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Lướt Net càng nhiều, học càng kém

Lần đầu tiên một hội thảo khoa học quy mô lớn về thực trạng nghiện Internet đã được tổ chức tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM vào sáng 23-11.

Hội thảo thu hút hơn 18 tham luận, bài viết của các tác giả cả nước bàn về những tác hại của Internet ảnh hưởng đến người dân và đặc biệt là giới trẻ.
Nguyên nhân gây nghiện Internet
ThS Đỗ Minh Hoàng trình bày nghiên cứu về tác động của Internet đến sinh viên (SV) Trường ĐH Nông lâm TP.HCM. Tác giả cho rằng: “SV truy cập Internet càng nhiều, kết quả học tập càng kém. Cụ thể, những SV có học lực giỏi và xuất sắc có số giờ truy cập Internet là 17,6 giờ/tuần trong khi SV yếu, kém có số giờ truy cập Internet bình quân lên đến 31,9 giờ/tuần. 9,1% SV giỏi truy cập Internet quá 4 giờ/ngày và có đến 50% SV yếu truy cập Internet trên 4 giờ/ngày”.
Theo PGS-TS-BS Nguyễn Văn Thọ - nguyên Giám đốc BV Tâm thần Trung ương 2, Trưởng khoa Khoa học Xã hội Nhân văn ĐH Văn Hiến, cụm từ “nghiện Internet” được BS Kimberly Young - Giám đốc Trung tâm phục hồi nghiện Internet (Mỹ) tiến hành các nghiên cứu đầu tiên và đưa ra khái niệm “nghiện Internet” vào năm 1996. Bà Young đã khẳng định người dùng Internet thái quá cũng tương đồng như người mê cờ bạc thái quá. Họ cũng có thể bị ám ảnh hoặc ép buộc, cưỡng bức về cảm xúc và hành vi. Vì vậy, bà đã dựa vào mô hình “cờ bạc bệnh lý” để phát triển bảng câu hỏi gồm tám mục nhằm đánh giá người nghiện Internet. Và bà cũng đưa ra tiêu chuẩn là những người nghiện Internet thường sử dụng Internet 38 tiếng/tuần cho những mục đích không liên quan đến học tập và công việc.

Nhiều tham luận, ý kiến sôi nổi tại hội thảo Nghiện Internet: Những thách thức mới của xã hội hiện đại. Ảnh: HUYỀN VI
Có thể bị rối loạn tâm thần
TS Ngô Xuân Điệp - Trưởng bộ môn Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM cho rằng: “Người nghiện Internet thường có các biểu hiện như cơ thể xanh xao do thiếu ngủ, học lực yếu, sức khỏe sút kém, bị ảo tưởng hay quên, hay tức giận, bồn chồn khi không sử dụng Internet… Nếu phụ thuộc vào Internet trong thời gian dài, người nghiện có thể bị dẫn đến tình trạng tách biệt xã hội, trầm cảm, hoang tưởng, rối loạn tâm thần… Đôi khi người nghiện còn có hành vi bạo lực khi bắt chước các trò chơi trên game”.
Để hạn chế những tác hại của Internet thì không thể nào buộc người nghiện từ bỏ Internet mà chỉ có thể giúp họ tiết chế việc truy cập Internet như một bệnh lý, đồng thời duy trì việc sử dụng Internet chính đáng một cách có kiểm soát. Đó cũng là mục đích chính của những người trị liệu nghiện Internet hướng tới. Theo PGS-TS-BS Nguyễn Văn Thọ, để thực hiện việc trị liệu “cai nghiện” Internet, các nhà trị liệu còn sử dụng hỗn hợp các liệu pháp tâm lý để điều trị hành vi của người nghiện. Ví dụ như xây dựng lại thời gian biểu của người bệnh, dùng các dụng cụ cảnh báo để nhắc nhở ngưng sử dụng máy tính, ghi phiếu nhắc nhở… “Nhưng quan trọng nhất trong việc điều trị nghiện Internet là cần đề ra một mô hình dự phòng nghiện Internet trong cộng đồng. Trong đó nên chú trọng đến lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhóm này có nguy cơ nghiện Internet và game online rất cao vì chưa có khả năng về nhận thức và cảm xúc cần thiết để tự kiểm soát mình nên rất dễ cuốn hút vào game và Internet” - BS Thọ nhấn mạnh.
Tám tiêu chí đánh giá nghiện Internet, game online
Theo BS Kimberly Young - Giám đốc Trung tâm phục hồi nghiện Internet (Mỹ) thì tám tiêu chí đó như sau:
1. Bạn có cảm thấy bận tâm quá mức với game online, Internet?
2. Bạn có cảm thấy là cần thiết phải sử dụng Internet hay chơi game online với khoảng thời gian tăng dần để đạt tới sự thỏa mãn của bản thân?
3. Bạn có những cố gắng không thành công và lặp đi lặp lại nhiều lần khi cố kiểm soát, giảm bớt sử dụng hoặc ngưng chơi game online?
4. Bạn có cảm giác bồn chồn, buồn rầu, suy nhược hoặc dễ bị kích thích khi bạn cố gắng giảm việc chơi game online?
5. Bạn lên mạng để chơi game online lâu hơn thời gian mà bạn dự kiến?
6. Có phải là bạn có nguy cơ mất mối quan hệ nghề nghiệp, cơ hội nghề nghiệp và học tập vì bạn chơi game online quá mức?
7. Bạn nói dối với những thành viên trong gia đình, nhà trị liệu hoặc những người thân để giấu đi những mức độ liên quan đến việc chơi game online thường xuyên?
8. Có phải khi bạn sử dụng trò chơi game online như là cách để tránh những vấn đề hoặc là giảm bớt tâm trạng khó chịu?
Nếu bạn trả lời là “có” từ năm câu trở lên trong tám câu trên thì bạn đã được coi là một trường hợp “nghiện game online, Internet”.
HUYỀN VI

Nhà vệ sinh 'dát vàng' Hà Nội sẽ thành di sản văn hóa

Gửi phản hồi về báo Đất Việt, nhiều độc giả đã bình chọn nhà vệ sinh "dát vàng" của Hà Nội sẽ trở thành di sản văn hóa thế giới vì những tiêu chí để lại dấu ấn về kiến trúc và tầm nhìn của một nhà vệ sinh hợp thời đại. 
Đắt, độc, lạ...
 
Không còn gây tai tiếng về giá cả tiền tỷ cho một căn nhà vệ sinh, dự án 14 nhà vệ sinh của Hà Nội chính thức được độc giả bình chọn là di sản văn hóa thế giới vì những dấu ấn riêng biệt của nó. 
 
Trước hết nhìn từ góc độ quản lý, tầm nhìn, dấu ấn kiến trúc...
 
14 nhà vệ sinh với tổng chi phí 15 tỷ, không chỉ đơn giản nó là tiền từ ngân sách, mà về yêu cầu của thành phố đặt ra cũng luôn nhấn mạnh nhà vệ sinh phải có một thiết kế phù hợp với thẩm mỹ, xứng tầm với một thủ đô của cả nước. 

Nhà vệ sinh tiền tỷ của Hà Nội khóa cửa cả ngày
Nhà vệ sinh tiền tỷ của Hà Nội khóa cửa cả ngày
Đó là còn chưa nói tới hệ thống chống nóng, khử mùi hôi, các thiết bị hiện đại đang được tính đến sẽ lắp đặt trong nhà vệ sinh này. Cái này phải nói là lãnh đạo thành phố rất thương dân, quan tâm tới dân từ cái nhỏ nhất tới cái lớn nhất, từ cái nhu cầu tối thiểu là sợ dân bị nóng thì "đi" không được. Cho tới cái lớn hơn là môi trường, sức khỏe.
 
Từ những tiêu chí này, độc giả Quang tin tưởng: "Nhà vệ sinh này, sau này sẽ trở thành di sản văn hoá thế giới".
 
Có thể thấy, bản lĩnh và ý chí quyết tâm làm nhà vệ sinh "dát vàng" của lãnh đạo thành phố Hà Nội là rất đáng nể. 
 
Độc giả Dang Duyz cho rằng, sự quyết tâm này thể hiện tầm nhìn xa của lãnh đạo thành phố đồng thời kiến nghị, Hà Nội nên đầu tư thêm tiền để cho những cán bộ liên quan tới dự án sang các nước trên thế giới khảo sát để có được một mô hình nhà vệ sinh để lại dấu ấn cho thời đại.
 
"Những cán bộ nào có liên quan nhiệm vụ đến công trình cầu tiêu tiền tỷ Hà Nội, đề nghị cho đi khảo sát các nước G20, các nước đang phát triển khắp năm châu. Sau đó về họp bàn chọn hố xí nào văn minh hiện đại, mỹ quan nhất thế giới... để dấu ấn về kiến trúc và tầm nhìn hố xí cho con cháu đời sau thì xây dựng. Chúc ban XD cầu tiêu thành công tốt đẹp", độc giả này tha thiết. 
 
Di sản thế giới còn vì nó được "dát vàng". Nói thì chẳng ai tin, nhưng có đại biểu Quốc hội đã tính rồi đấy, hơn 1,3 tỷ/ căn nhà vệ sinh có dát vàng cũng không đến thế. 
 
Còn độc giả tên Nam thì chứng minh bằng con số: "Cái toilet này giá trị hơn nhà em. Sáng ngày 21/11 em ở Bình chánh TP.HCM được mời đi họp đền bù giả tỏa làm đường vành đai 3. Nhà em 5x20m=100m2, 1 trệt 1 lầu vậy là 200m2 xây dựng. Giá đất nhà nước áp 6.2tr/m2, giá xây dựng nhà 3.6tr/m2. Đền 1.2tỷ".
 
Độc giả này cho biết sẽ kiện thành phố HCM vì mức giá xây dựng tính còn không bằng 1/10 giá tính của thành phố Hà Nội cho một cái nhà vệ sinh bé tí. Vậy thì chả "dát vàng" thì là cái gì?
 
Chỉ với ngần ấy, độc giả Don tin tưởng cả thế giới sẽ bái phục tư duy nhà vệ sinh của Hà Nội.
 
"Hè, hè! Chỉ VN mới có! Cầu tiêu cũng phải đắt, phải độc! Cả thế giới phải nghiêng đầu bái phục tư duy các bác!", độc giả này nói. 
 
Độc giả XD51 mong mỏi: "Lúc nào vào vệ sinh phải xin quản lý ký phát vào chỗ ấy lấy cái về quê khoe mới được".
 
Tham nhũng?
 
Không phải ngẫu nhiên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan phải thốt lên "người ta ăn của dân không từ một thứ gì". 
 
Nhiều năm nay, Chính phủ luôn kêu gọi tiết kiệm, chống lãng phí. Mới đây, Bộ Tài chính cũng phải lên tiếng ca thán bị hụt thu vì địa phương nợ ngân sách do kinh tế khó khăn. 
 
40 tỉnh, thành phố chưa đạt yêu cầu tiến độ thu nộp ngân sách như dự toán, trong đó có Hà Nội. 
 
Vẫn biết, nhà vệ sinh công cộng là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu để phục vụ nhu cầu của người dân. Nhưng có lãng phí không khi một thành phố hiện đại bậc nhất như Singapore cũng không đầu tư nhiều tiền đến thế nhưng họ vẫn được ghi nhận là một đất nước đáng đến nhất.
 
Độc giả Viet Ha chia sẻ góc nhìn từ nước ngoài: "Cái thùng rác ở bến xe buýt của Singapore làm tôi luôn tự vấn, sao nó rất đỗi bình thường, giống hệt cái xô nhựa ở nhà tôi, trong có cái túi nilong đen, nhưng nó hầu như không có rác vì ai đó đã túc trực dọn ngay nó đi. 
 
Ở HN thùng rác xanh đỏ thật hoành tráng, rồi vẽ voi vẽ vượn, mời nọ mời kia, nhưng bẩn tới kinh hoàng. Phòng khách sạn của họ rất nhỏ, tiện nghi bình thường, nhưng đố bạn tìm thấy vết ám trên tường hay dưới sàn, hay trên thiết bị vệ sinh...." Độc giả này kết luận: "Ý thức kém vì quản lý kém và ngược lại".
 
Từ ý thức kém, quản lý kém có phải là nguyên nhân dẫn đến lãng phí, tham nhũng hụt thu, nợ ngân sách?
 
Độc giả Phan Nguyên chỉ ra một thực tế: "WC 3 buồng bằng thép mới làm hơn 1 năm đã mốc meo, hoen rỉ. Quan chức nói không ai đi, cả ngày có một vài người, nếu "lãi" tui dám chắc các vị đã đề xuất Xã hội hóa và đầu tư độ 400 triệu là làm được "ngon" hơn cái WC hơn tỷ bạc này là cái chắc.
 
Nhìn vào bảng chi phí đã thấy vô lý. Công trình này cũng không thuộc diện "Bí mật Quốc gia" do đó tôi yêu cầu phải công khai thiết kế, chi tiết vật tư, Vật liệu. Các ông nói "chỉ có công ty đó báo giá thấp nhất!", 
 
Xin lỗi chỉ có công ty đó mới được quyền báo giá và họ đi "thuê" tư cách pháp nhân của các công ty khác mấy triệu để báo giá "cao hơn nhiều" dĩ nhiên họ trúng. Trò trẻ con đó đến dân làm nhà cấp 4 cũng biết. Yêu cầu Công khai Dự toán chi tiết, tui dám chắc sẽ "đánh nhau" để đấu thầu với giá 1/2 là lãi khủng rồi".
 
Độc giả Hoanglinh phân tích: "Chi phí tư vấn đủ trả lương cho 10 kỹ sư trong 2 tháng, mỗi người 20tr/tháng. Còn lại 80 triệu tiền in ấn ra bản vẽ. Khảo sát 14 cái WC mà cần 10 kỹ sư lương 20tr làm ròng rã 2 tháng thì nhà vệ sinh chắc phải kinh lắm! ( Em phơi mặt cả ngày ngoài đường là lương có 7-8tr thôi)".
 
Từ những bất cập trên, độc giả Anh Van yêu cầu: "Cần phải điều tra gấp xem thẳng chủ đầu tư nào ăn hối lộ trong nhà vệ sinh này".
 
Thái An
(Đất Việt)

Vấn đề Khổng-tử của Tàu

Nếu giáo lý Khổng tử tốt và lành thì sao các ông không dạy dân Tàu các ông trước đi, để đừng xâm lăng man rợ và bất hợp pháp biển đảo Hoàng Sa Trường Sa của Việt-Nam chúng tôi, đừng ăn cướp tàu đánh cá của ngư dân lương thiện Việt-Nam, đừng giết hại, bắt cốc đòi chuộc tiền, hoặc đem tàu to đâm tàu đánh cá Việt-Nam một cách sát nhân, man rợ và vô luật pháp ngay trên biển của Việt-Nam !

Thưa các quý vị và đồng bào Việt Nam yêu thương,

Mấy hôm nay tôi nghe đài RFA có thông tin là Trung-cộng đã đề nghị với mấy ông cộng-sản gộc Việt-Nam để dựng đền Khổng-tử tại Việt-Nam để dạy dân Việt-Nam chúng ta.

Khổng Tử tại Bảo tàng Rockbund, Tokyo (RAM)

Nhưng trước nhất mấy ông bà tai to mặt lớn, tham nhũng, lợi ích nhóm tại Việt-Nam nên học Khổng-tử trước đi !

Nếu các ông bà cộng-sản gộc học tốt có kết quả, có thay đổi thể chế, thay đổi hiến pháp, có tự-do dân-chủ, tự-do tôn giáo, tự-do báo chí, tự-do ngôn luận, biết tôn trọng Nhân-quyền, Nghĩa đồng bào dân tộc, Lễ phải tôn trọng tôn-giáo, Trí cao không bị Trung-cộng gạt 16 chử vàng khè + 4 tốt liền bị Trung-cộng cướp luôn biển đảo, Tín không phản bội hiệp ước quốc-gia, không phản bội dân-tộc bán đất nước cho giặc Tàu xâm lăng... thì dân chúng tôi và các thành phần Nhân sĩ trí thức sẽ xét lại Khổng tử mà liệu định.

Từ ngàn xưa tới giờ chúng ta đã có đạo Phật và sau này thì có thêm Thiên chúa giáo, Tinh Lành, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài khuyên dân chúng ta làm lành lánh dữ và yêu nước, và nhân loại yêu thương giúp đở nhau để có cuộc sống thanh bình !

Như các Sư ông đạo Phật của Việt-Nam đã từng đâu lưng, sát cánh với dân, với các chiến sĩ Việt-Nam để chống giặc Tàu xâm lăng nước chúng ta nhiều lần cả ngàn năm trước. Các chiến công của các Sư ông chống giặc giử nuớc cho dân Việt-Nam chúng ta sử sách còn ghi. Vậy thì ngày nay chúng ta đâu cần "đạo" Khổng tử nữa làm chi cho rối rắm.

Nếu giáo lý Khổng tử tốt và lành thì sao các ông không dạy dân Tàu các ông trước đi, để đừng xâm lăng man rợ và bất hợp pháp biển đảo Hoàng Sa Trường Sa của Việt-Nam chúng tôi, đừng ăn cướp tàu đánh cá của ngư dân lương thiện Việt-Nam, đừng giết hại, bắt cốc đòi chuộc tiền, hoặc đem tàu to đâm tàu đánh cá Việt-Nam một cách sát nhân, man rợ và vô luật pháp ngay trên biển của Việt-Nam !

Trung-cộng hãy phải dạy dân Trung-cộng giáo lý Khổng tử trước đi để làm gương nhân đạo nhân loại cho các nước láng giềng !

Cư sĩ Huyền Diệu Sanh
23/11/2013

'Quan chức có thể 'mất mặt' nhưng quyết không... mất chức'

“Việc “đánh lén” nhau bằng ngôn từ, blog của một vị đại biểu Quốc hội vừa qua cũng không thể gọi là cách ứng xử văn minh, văn hóa cao được”, PGS.TS Đỗ Minh Cương, Chuyên viên cao cấp, vụ Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, ban Tổ chức Trung ương, nói.


Hình ảnh, hành vi dưới chuẩn

- Dư luận hết sức bất bình khi Chánh thanh tra sở Y tế Kon Tum bị tố cáo, dùng cuốc đánh vào đầu người dân khi xảy ra xô xát, phó giám đốc sở TN-MT Hà Tĩnh đã dửng dưng đút tay túi áo đứng nhìn một người đi xe máy bị ô tô đâm rồi lên xe bỏ đi… Ông đánh giá sao về hình ảnh của các vị quan chức ở trên?

- Không chỉ có hành động, thái độ ứng xử, mà cả những phát ngôn khó hiểu của quan chức cũng có thể làm xấu hình ảnh của họ. Các vị quan chức đó, dù ở chức vụ gì thì họ cũng là một người cán bộ, công chức Nhà nước. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cán bộ, công chức, không chỉ phải là một công dân tốt mà còn là “tấm gương trong”, người dẫn đường cho quần chúng. Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã ban hành nhiều văn bản quy định về đạo đức, lối sống và sự gương mẫu của cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ lãnh đạo và “chính khách” từ trên xuống dưới. Các hành vi của quan chức ở trên là sự lệch chuẩn hoặc dưới chuẩn của cán bộ, công chức.

- Nguyên nhân của những hành vi lệch chuẩn như trên bắt nguồn từ đâu, thưa ông?

- Đây không chỉ là vấn đề đạo đức công vụ mà thuộc về một phạm trù rộng hơn- nhân cách, tư cách của con người. Tôi nhớ, ngay từ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, phát biểu trong lễ khai giảng của trường Đảng Trung ương, Bác Hồ đã căn dặn cán bộ – học viên rằng: “Phải học để làm người, học để làm cán bộ. Học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân”.

Đáng tiếc là trong đội ngũ cán bộ của ta hiện nay còn một bộ phận không nhỏ chưa học thuộc bài đạo đức làm người đã được bố trí làm cán bộ, thậm chí là cán bộ cấp tỉnh, cấp cao hơn… Hoặc trước đây, họ đã từng là người tốt nhưng do có quyền chức, lợi ích riêng, họ “bị tha hóa, bị suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống” như cách gọi của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI. Ở nước ngoài, khi các vụ việc liên quan xấu đến hình ảnh của chính trị gia, hoặc có bê bối trong ngành do họ quản lý, dù chưa điều tra nhưng họ cũng đứng ra xin lỗi, thậm chí xin từ chức, trong khi đó ở Việt Nam thì lại khó tìm thấy hành động này ở một quan chức.

Chánh thanh tra sở Y tế Kon Tum dùng cuốc bổ vào đầu người dân vì chuyện mâu thuẫn đất đai.

Rất hiếm cán bộ muốn từ chức

- Vậy theo ông đâu là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó?

- Ở nước ta đã có nhiều cán bộ, công chức dám nhận lỗi khi sai nhưng đúng là cái “văn hóa xin lỗi”, hơn thế là “văn hóa từ chức” thì còn rất lâu nữa mới có. Lâu nay, trong họp hành, sinh hoạt chính trị chúng ta đã để cho những thói quen xấu phát triển thành thứ “văn hóa xấu/văn hóa dưới chuẩn” là khi mắc sai lầm, khuyết điểm thuộc thẩm quyền của mình, thuộc lĩnh vực mình phụ trách thì lại né tránh, đổ tội cho tập thể lãnh đạo, cho cơ chế.

Rất hiếm cán bộ muốn từ chức, cho dù bị kỷ luật, giáng chức, họ vẫn cố chạy sang chức khác hoặc chức thấp hơn một tý. Vì sao như vậy? Vì chức quyền hiện nay sinh ra quyền lực, bổng lộc và vẫn như ngày xưa “một người làm quan cả họ được nhờ”; chịu “mất mặt”, thậm chí mất nhiều thứ mà còn chức thì vẫn hơn? Thêm một lý do nữa là nhiều cán bộ, công chức của ta hiện nay đang ở tuổi làm việc, nếu bị mất chức quyền, không được làm quan thì về nhà không làm dân thường được. Họ có học để làm người công dân đâu; ngoài việc đi họp, viết báo cáo hay chỉ đạo ra thì không biết làm công việc khác; những kỹ năng, thủ đoạn giỏi kiếm ăn được khi làm quan thì nếu bị thành dân là “hết đất dụng võ”. Nên, họ có thái độ, lối sống say mê, khao khát quyền lực và chức vụ là vậy.

Không qua được mắt nhân dân

- Như chia sẻ của ông thì người có chức có quyền sẵn sàng “mất mặt”, mất nhiều thứ nhưng quyết không mất chức. Tuy nhiên, việc “mất mặt” lại chỉ xảy ra ở các lợi ích liên quan đến cá nhân. Ông nghĩ sao về điều này?

- Theo tôi, cán bộ, công chức nước ta không nên học kiểu sinh hoạt dân chủ, tự do “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với nhau như một số nghị sỹ nước ngoài. Nhưng việc “đánh lén” nhau bằng ngôn từ, blog như nghị sỹ Hoàng Hữu Phước đã làm với nghị sỹ Dương Trung Quốc cũng không thể gọi là cách ứng xử văn minh, văn hóa cao.

PGS.TS Đỗ Minh Cương, Chuyên viên Cao cấp, Vụ đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung Ương.
Đúng là bản lĩnh, trí tuệ, tâm huyết của các cán bộ, công chức nước ta cần thể hiện rõ nét hơn, quyết liệt hơn trong “lời nói đi đôi với việc làm” vì dân, vì nước một cách chính trực, công khai, minh bạch và nhân văn. Xem các quan chức, đại biểu Quốc hội nước ta phát biểu trên nghị trường, người dân nhận thấy số có trí tuệ, khẩu khí và phong cách như ông Dương Trung Quốc không nhiều, vẫn còn nhiều đại biểu khi đặt một câu hỏi phải đọc cả một vài trang giấy; vẫn còn những “câu hỏi mồi”, cách trả lời vòng vo, “câu giờ”, không một cái tên người, một địa chỉ cụ thể chịu trách nhiệm… Người dân thấy buồn, thất vọng vì một số đại biểu, cán bộ lãnh đạo của họ lại có lời nói, việc làm và cách ứng xử kém hơn họ hoặc trái với quan điểm, lợi ích của họ.

- Theo ông, cần làm gì để tạo ra một đội ngũ công chức chức, chính trị gia xuất sắc ở nước ta?

- Làm nghề gì, công việc gì cho tốt cũng cần phải được giáo dục, đào tạo bài bản và tự học tập, rèn luyện thường xuyên. Tấm gương về nhân cách, phong cách xử thế và giao tiếp cán bộ, công chức chúng ta nên học tập không ở đâu xa, chính là ở Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đó là người lãnh đạo, chính khách đã kết hợp được những cái tinh hoa của dân tộc và thời đại, của Đông – Tây, kim cổ; đã sống và làm việc với tinh thần “dĩ công vi thượng”, cống hiến hết mình vì dân, vì nước.

Nhân dân ta rất thông minh, sống trọng nghĩa tình và lịch sử rất công bằng. Quốc tang bác Giáp vừa qua là bằng chứng rõ nét về điều này. Không chỉ hình ảnh, phong cách mà cả công lao, nhân cách của mỗi cán bộ lãnh đạo, chính khách sẽ được nhân dân nhìn nhận, đánh giá một cách công bằng.

Muốn làm một cán bộ, công chức tốt đẹp, họ phải không ngừng học tập, rèn luyện quan điểm, thái độ, kiến thức, kỹ năng thực hiện công việc, nghề nghiệp của mình. Đầu tiên, họ cần có thái độ trọng dân, gần dân, học hỏi dân và thương yêu nhân dân. Những cán bộ, công chức cầm quyền có thái độ, phong cách quan liêu, tham nhũng, sống thủ đoạn, vị kỷ, chạy theo lợi ích gia đình, lợi ích nhóm của mình đều không qua được mắt nhân dân và lịch sử.
- Xin cảm ơn ông!

Tập Cận Bình quyết thực hiện 'Giấc mơ Trung Quốc'

Hương Lan - Đỗ Thơm
Người Đua Tin 
tapcanbinh02

Trong cuộc họp Ban chấp hành Trung ương hôm 15/11, Chủ tịch kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình công bố kế hoạch cụ thể, giải thích các quyết định về cải cách được thông qua trước đó trong Hội nghị Trung ương ba, khóa 18.

Bản kế hoạch này đề ra 60 nhiệm vụ xoay quanh mục tiêu tự do hóa nền kinh tế ở mức độ phù hợp, cải cách xã hội và hành chính. Truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục đưa tin với cường độ cao, gửi đi hai thông điệp quan trọng : đảng Cộng sản Trung Quốc quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cải cách và Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ đích thân giám sát thực thi.

Bản kế hoạch được công bố dưới hình thức bài phát biểu chỉ đạo của ông Tập. Theo truyền thông nước này, ông là người phụ trách quá trình khởi thảo văn kiện. Động thái này hoàn toàn khác biệt với người tiền nhiệm, cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Trong hai nhiệm kỳ của ông Hồ, công việc khởi thảo các văn kiện liên quan đến cải cách kinh tế, xã hội được giao cho cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo.

"Tổng bí thư Tập Cận Bình dành nhiều tâm sức, đọc kỹ từng câu, từng chữ trong mỗi bản thảo mà tổ văn kiện gửi lên và đưa ra rất nhiều ý kiến sửa chữa quan trọng", Tân Hoa xã cho hay trong một bài xã luận gần đây.

Ông Bao Đồng, thư ký của cố tổng bí thư Triệu Tử Dương cho biết, ông Tập và Ban thường vụ Bộ Chính trị muốn người dân Trung Quốc tin tưởng vào quyết tâm cải cách của đảng, đặc biệt là mục tiêu tăng cường vai trò của yếu tố thị trường trong nền kinh tế.

"Các nhà lãnh đạo thực sự muốn cải thiện tình hình kinh tế hiện tại. Họ hy vọng thông qua việc nâng cao tầm quan trọng và khả năng sáng tạo của thị trường để đạt được mục tiêu trên", New York Times dẫn lời ông Bao.

Ông Cheng Li, chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện nghiên cứu Brookings (Mỹ), cho rằng, các mục tiêu cải cách tựu chung lại là nhằm hướng đến thực hiện "Giấc mơ Trung Quốc", một khái niệm mới được Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra từ những ngày đầu cầm quyền. Khái niệm này có nội hàm chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc thế giới.

Ông Tập sẽ cai quản cả kinh tế ?

Việc điều hành kinh tế Trung Quốc thường do thủ tướng phụ trách, chủ tịch và tổng bí thư chỉ đưa ra các chỉ đạo mang tính vĩ mô. Tuy nhiên, vai trò của Chủ tịch Tập trong nền kinh tế Trung Quốc được cho là sẽ lớn hơn nhiều so với những người tiền nhiệm.

"Kết quả mang tính quyết định của Hội nghị lần này củng cố thêm vị thế của ông Tập Cận Bình. Ông đang dần trở thành nhà lãnh đạo có sức ảnh hưởng lớn nhất Trung Quốc trong vòng hơn 10 năm trở lại đây", Christopher Johnson, chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ, cho biết.

Một trong những kết quả được chú ý nhiều nhất của Hội nghị Trung ương ba lần này là quyết định thành lập Ủy ban anh ninh quốc gia và Tổ lãnh đạo thúc đẩy cải cách toàn diện. Hai cơ quan mới được cho là sẽ tăng cường vị thế lãnh đạo của ông Tập trong hệ thống chính trị Trung Quốc.

"Việc thành lập hai cơ quan mới chứng tỏ ông Tập có đủ sức ảnh hưởng để có thể đưa ra phương án giải quyết mang tính hệ thống, tránh tình trạng chịu sự cản trở của nhiều khối cơ quan", ông Johnson bình luận.

Theo tờ Quang minh nhật báo, Tổ lãnh đạo sẽ trực thuộc Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tổng thể, phối hợp điều hành, xúc tiến và giám sát thực hiện.

Ông Stephen Green, trưởng nhóm nghiên cứu khu vực Trung Quốc thuộc ngân hàng Standard Chartered lại cho rằng, Thủ tướng Lý Khắc Cường sẽ phụ trách Tổ lãnh đạo, bởi kinh tế là lĩnh vực phụ trách của thủ tướng. Ông Lý với bằng tiến sĩ kinh tế tại trường đại học Bắc Kinh, được biết đến như thủ tướng đầu tiên của Trung Quốc được đào tạo bài bản về điều hành kinh tế vĩ mô.

Green cũng đồng ý với quan điểm Trung Quốc cần một cơ quan ở tầm cao nhất phụ trách quán triệt công tác cải cách, tránh tình trạng bất hợp tác từ các cơ quan hành chính.

Ông Bao Đồng cho rằng, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng có thể phụ trách Tổ lãnh đạo, nhằm thể hiện quyết tâm cải cách và sự đoàn kết thống nhất của Trung ương đảng, nhưng Thủ tướng Lý Khắc Cường vẫn sẽ là người chịu trách nhiệm xây dựng dựng và thực hiện các chính sách kinh tế cụ thể.

"Các vấn đề kinh tế quan trọng nhất sẽ được tập trung quyết định tại Tổ lãnh đạo. Tôi cho rằng người phụ trách sẽ không phải là ai khác mà chính là Tổng bí thư Tập Cận Bình", ông Bao kết luận.

Đức Dương
(Thông luận)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét