Đấu tranh và Xây dựng chỉ là hai mặt của một vấn đề
Tuy nhiên có một thực tế, con đường đến chuyển đổi là sự hòa trộn liên
tiếp giữa đấu tranh và xây dựng. Tất cả những nhân tố của hệ thống mới
khi ra đời, không khác nào như những cá thể bị đột biến, sẽ bị cái cũ
hạn chế, o ép, thậm chí hủy diệt. Thế nên hệ thống cũ cần bị những cũ
kích thích mạnh mẽ và đúng chỗ để làm tan rã mối liên kết chặt chẽ, tạo
kẽ hở cho những nhân tố mới có chỗ để phát triển. Nhưng nếu quá trình
đấu tranh khi được tôn vinh đến mức trở thành phá hoại thì ngay cả các
nhân tố mới cũng sẽ bị cào bằng và tàn lụi theo. Nếu nhìn thấy và biết
vận dụng hai quá trình tương hỗ này, quá trình chuyển đổi mới có thể
diễn ra một cách hòa bình và tạo được nền móng vững chắc cho sự thịnh
vượng của xã hội được.
Dù muốn hay không trong mỗi cuộc chuyển đổi, hai thành phần đấu tranh và
xây dựng vẫn tồn tại song song, ngay cả trong thời chiến loạn. Trong
cuộc chiến tranh Việt Nam thế kỷ 20, thành công của cuộc chiến không
phải chỉ nằm ở những đại tướng, quân đội hay sách lược ngoại giao, mà
còn nằm ở những nhân tài như Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Lương Đình
Của… nếu không có kiến thức thâm sâu của họ, cuộc chiến của vũ khí thô
sơ không thể chiến thắng được vũ khí hiện đại của phương Tây. Nhưng sai
lầm trong đường lối miền Bắc sau năm 54 là triệt tiêu dần thành phần xây
dựng này để dọn đường củng cố vị trí của những thành phần đấu tranh.
Hậu quả của việc này cho đến nay là sự suy yếu xã hôi toàn thể từ kinh
tế, giáo dục, vị thế chính trị… Trong bối cảnh suy yếu ấy, những tiếng
nói phản biện, những hành động đấu tranh ngấm ngầm, bển bỉ đã dần dần
tạo ra kẽ hở cho những nhân tố mới. Đến nay, những nhân tố này bắt đầu
trổ mầm nhưng vẫn bị che lấp bởi những cái bóng của hệ thống cũ. Doanh
nghiệp tư nhân vẫn bị cản trở bởi hàng rào cơ chế, văn hóa vẫn bị kiểm
duyệt tư tưởng (chứ không phải chất lượng), các nhóm phi chính phủ hoạt
động gần như không được cấp giấy phép và vẫn bị coi là phi pháp, những
dự án khoa học công nghệ mang tính đột phá bị cản trở vì cấp quản lý
không đủ khả năng điều phối các nguồn ngân quỹ và nhân sự, tự do ngôn
luận bị cản trở và đàn áp vì sự cần thiết duy trì quyền lực, giáo dục
trở thành thảm họa bởi các nhà cải cách cần trẻ em đi theo lộ trình của
xã hội hơn là để trẻ em được phát triển đúng với thiên hướng của mình…
Bất cứ một hệ thống nào đến giai đoạn cần chuyển đổi đều diễn ra những
lộn xộn này.
Những thực trạng nêu trên tràn lan trên báo chí, có lẽ không cần phải mổ
xẻ nhiều về điều này nữa. Nhưng có một thực trạng khác cần quan tâm
hơn, đó là thực trạng của các thành phần thúc đẩy sự chuyển đổi: những
người đấu tranh và những người xây dựng. Nhiều chục năm qua hai thành
phần này vẫn còn giống như hai thành phần song song khó có thể tìm thấy
điểm chung. Thậm chí nhiều khi sự phát triển của thành phần này trở
thành cản trở cho sự phát triển của thành phần kia.
Khi những hoạt động đấu tranh trở nên nhiều tính bạo lực một cách tự
phát khi lực lượng chưa đủ mạnh, hệ thống cũ với toàn bộ sức mạnh của nó
sẽ nhanh chóng hàn gắn các kẽ hở bằng sức mạnh quân đội, ngoại giao,
tài chính; có nghĩa là khả năng độc tài chuyên chế không thể tránh khỏi.
Khi độc tài chuyên chế lên cao, bạo loạn lật đổ sau đó sẽ xảy ra. Sau
một cuộc lật đổ bằng bạo loạn, không thể sinh ra một thể chế dân chủ mà
chỉ có thể bằng độc tài khác: Công xã Paris, Cách mạng tháng Tám … là
những ví dụ rõ ràng cho việc này. Tuy nhiên dù sao đi nữa, con đường đấu
tranh vẫn là một con đường nhanh chóng đạt được thành công cho những cá
nhân cổ vũ nó dù cho hậu quả của các cuộc chiến là khôn lường. Có điều,
thực trạng hiện nay ở Việt Nam, để kích động một cuộc chiến lật đổ là
điều bất khả thi. Nên việc đấu tranh bạo lực trong thời gian sắp tới sẽ
đến sự siết chặt nhiều hơn là cởi mở, và một khi đã siết chặt thì sự can
thiệp của quốc tế vào tình hình Việt Nam càng khó khăn hơn. Hiện giờ
Việt Nam đứng giữa hai phe là thân Âu- Mỹ và thân Trung Quốc, nếu bạo
lực lên cao, chính phủ hoàn toàn có khả năng nghiêng về phe thân Trung
Quốc để giải quyết bất ổn. Điều này không cần phân tích nhiều cũng biết
rằng không hề có lợi lộc gì cho công cuộc chuyển đổi. Vô tình đó là lực
cản đối với những thành phần cải cách yêu nước hiện nay.
Con đường cải cách là một con đường cần trình tự và lâu dài, đặc biệt là
ở Việt Nam. Bởi sau nhiều thế kỷ chiến loạn, những nền tảng kiến thức –
tri thức đã bị tiêu hủy nhiều. Con đường này cứ thể như là bất khả thi,
thế nhưng vẫn có nhiều người đang nỗ lực cho con đường này. Lập luận
của những người cải cách là: Dân nào thì chính phủ ấy, khi đời sống
người dân được nâng cao thì bắt buộc mô hình tổ chức nhà nước phải thay
đổi. Nhưng có một vấn đề, quá trình cải cách này đang bị rơi vào lý
tưởng hóa. Tất cả những sự hơi mở cửa đã gây ra cho các dự án cải cách
từ kinh tế, giáo dục, môi trường, khoa học công nghệ… bị rơi vào sự hỗn
loạn và thấp cấp hơn. Nguyên nhân của việc này là bởi những nhà cải cách
chân chính và trung thực không có đủ sức mạnh về tài chính và quyền lực
đủ để chống chọi lại những thành phần cơ hội, bảo thủ, kiếm chác thông
qua những dự án mang tính đột phá thay đổi bộ mặt xã hội ở Việt Nam. Một
ví dụ rõ ràng là xã hội hóa truyền hình. Vốn dĩ đây là một chính sách
mở cửa cho sự phát triển của truyền hình tư nhân. Thế nhưng từ ngày xã
hội hóa truyền hình thì không thấy những chương trình hay những bộ phim
có chất lượng giúp nâng cao nhận thức của người dân mà chỉ có nối tiếp
nhau các phim bộ Hàn Quốc, Trung Quốc, những chương trình giải trí không
có tính thẩm mỹ, tin tức thì luôn đưa chậm hơn báo mạng… Rõ ràng sự cải
cách này diễn ra trong khi nhân sự vẫn là nhân sự cũ, trình độ vẫn là
trình độ cũ, hệ thống kiểm duyệt vẫn kiểm duyệt theo kiểu cũ. Cuối cùng
thì nó có hại nhiều hơn có lợi. Cái có lợi chỉ là túi tiền của những nhà
sản xuất. Với mục đích giải trí lên hàng đầu khiến cho người dân bị mê
tín hơn vào các chương trình truyền hình, ngăn trở việc thúc đẩy xã hội
của các nhà đấu tranh. Đây chỉ là một ví dụ trong rất nhiều ví dụ khác.
Đáng buồn là tiến trình nâng cao dân trí lại trở thành người dân dễ dàng
bị mê muội hơn, bởi cơ hội vẫn không đến với những người có thực tài mà
chỉ đến với những kẻ chộp giật.
Có một mâu thuẫn khó giải quyết giữa những người đấu tranh và những
người cải cách. Hai bên cùng chung mục đích nhưng lại chưa thể ngồi cùng
nhau để bàn bạc đường đi nước bước. Những người đấu tranh e ngại những
người cải cách vẫn thân với chính quyền nên dễ lá mặt lá trái, những
người cải cách thì cho rằng những người đấu tranh trình độ không đủ để
có thể đứng chung với họ. Cả hai lối suy nghĩ này là một sự sai lầm.
Thứ nhất, những nhà cải cách chân chính không hoàn toàn quan tâm đến
quyền lực chính trị. Mục tiêu của họ là những nghiên cứu, những sáng tao
của họ được đưa ra sử dụng và làm đời sống xã hội tốt hơn. Họ tin rằng
việc ra đời của máy in làm thay đổi thế giới thậm chí còn sâu sắc hơn
các cuộc Cách mạng Tư sản, rằng không có máy in thì không có phong trào
Khai Sáng, không có Cách mạng Tư Sản. Điều này, những nhà cải cách hoàn
toàn có lý. Thứ hai, những nhà cải cách có tâm lý chỉ tập trung hoàn
toàn vào các kế hoạch, các dự án của họ vậy nên bất cứ điều gì phục vụ
cho sự thành công này, họ đều có thể đồng ý. Điều này khiến nhiều người
khác nghĩ rằng họ lá mặt lá trái. Thứ ba, trong xã hội mỗi người một vai
trò khác nhau, kiến thức nhiều chưa chắc đã hành xử đúng đắn, nên không
thể vội vã đánh giá lớp người này hơn, lớp người khác kém. Đây thật sự
là sai lầm trong lối nghĩ của những người cải cách. Thứ tư, không thể
phủ nhận, nếu không có các phong trào kích thích xã hội như Nhân Văn –
Giai Phẩm, các hoạt động đấu tranh dân chủ, các cuộc biểu tình chống
Trung Quốc thì không thể có tình trạng chính phủ buộc phải có các chính
sách quản lý xã hội cởi mở hơn và sáng sủa hơn như hiện nay.
Các hoạt động cải cách đang đi vào bê tắc vì thành phần chộp giật quá
nhiều, các hoạt động đấu tranh cũng đi vào bế tắc vì không thể mở rộng
sức ảnh hưởng. Nhưng sự kết nối giữa hai thành phần này vẫn chưa được
đặt ra như một sự thiết yếu. Các hoạt động cải cách có khả năng đi vào
chuyển đổi xã hội ở bề sâu và dễ dàng tác đông đến người dân hơn, nên sẽ
vô cùng cần sự giúp đỡ của những người đấu tranh để đảm bảo lộ trình
cải cách không bị đi sai hướng vì những “con sâu làm rầu nồi canh”.
Những nhà đấu tranh sẽ đấu tranh vì cái gì nếu xã hội không thể tự thân
tốt lên được? Nếu đấu tranh để lặp lại tất cả những cái cũ thì cuộc đấu
tranh đó là vô nghĩa. Vậy nên hai thành phần này tuy khác nhau cách thức
nhưng giống nhau về mục đích: Đó là vì một hệ thống mới tốt đẹp hơn cần
thay thế cho hệ thống cũ. Hai đường thẳng song song cần vặn xoắn lại
với nhau như một sợi dây thừng. Sợi dây thừng nhờ sự vặn xoắn liên tục
nên mới có thể bền chắc đến vậy. Có lẽ trước khi Việt Nam có sự chuyển
đổi trong thể chế thì cần sự chuyển đổi ngay chính trong tư duy và nhận
thức của những người hi sinh mình vì một Việt Nam trong tương lai văn
minh và thịnh vượng.
Hà Thủy Nguyên
© 2013 TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Yêu Cầu Ngừng Xây Đập Don Sahong
Thủ Tướng Thongsing THAMMAVONG
Laos People’s Democratic Republic
Đề tài: Yêu Cầu Ngừng Xây Đập Don Sahong
Kính thưa Thủ Tướng,
Viet Ecology Foundation (VEF), một tổ chức dân sự (NGO) tại California, Hoa Kỳ xin bày tỏ mối lo ngại của chúng tôi về dự án Don Sahong và việc không tham vấn và thỏa hiệp với các quốc gia khác theo Hiệp Định Mekong 1995. Tác động xuyên biên giới trên môi sinh, dân cư, xã hội và kinh tế của Cam Bốt và Việt Nam chưa được đánh giá đúng mức. Chúng tôi yêu cầu chính phủ Lào duyệt xét Lá Thư Ngỏ của 28 tổ chức NGO công bố vào năm 2007. VEF cùng họ thỉnh cầu chính phủ Lào bãi bỏ dự án này.
Báo Cáo Tác động Tổng hợp của Dự án Thủy điện Don Sahong 2013 không hoàn chỉnh
Bản báo cáo tác động tổng hợp EIA/CIA năm 2013 do công ty National Consulting Company, cố vấn cho chủ thầu Mega First Corporation, đã phủ nhận các tác động trên ngư sinh của đập Don Sahong mặc dù Don Sahong sẽ chặn ngang dòng chảy Hou Sahong, sinh lộ độc nhất cho di ngư từ Viêt Nam và Cam Bốt trở về thượng nguồn vào mùa khô. Hơn thế nữa EIA/CIA của dự án này đã thiếu sót không thẩm định tác động xuyên biên giới xuống hạ lưu trên lãnh thổ Cam Bốt và Việt Nam.
Vi phạm Hiệp Định sông Mekong 1995
Mạng lưới sông ngòi quốc tế IRN đã tường trình: “Phó Bộ trưởng Năng lượng và Khoáng sản Lào đã tuyên bố rằng dự án này (Don Sahong) sẽ không theo thủ tục tham vấn (các nước thành viên khác). Ông viện lẽ Don Sahong không phải là đập ngăn dòng chính vì không chắn hết cả chiều ngang dòng sông.”
Tuy nhiên IRN trích dẫn: “Theo Điều 5.1 của Hiệp Định 1995, Thủ tục về Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận sẽ phải áp dụng cho những dự án trong lưu vực năm trên dòng chính cần sử dụng nước vào mùa khô.”
Hou Sahong không phải là phụ lưu vì không có nguồn nước riêng biệt của nó. Do đó, Don Sahong Dam là đập trên dòng chính cần có tham vấn và thỏa hiệp (PNPCA) theo Hiệp Định Mekong 1995. Bất chấp quy định này là sự vi phạm tinh thần hợp tác quốc tế.
Công ước Helsinki 1992 – Tác động xuyên biên giới
Năm 2007, 34 nhà khoa học đã ký chung một Lá Thư Ngỏ từ trường Đại học Sydney gởi đến các chính phủ và định chế quốc tế có trách nhiệm về Mekong để trình bày mối quan tâm của họ về tác động của đập Don Sahong như sau:
“Tác động môi trường nghiêm trọng và tiêu cực nhất của con đập giáng xuống – điều cần quan tâm nhất cho dân cư sống hai bên Mekong và khắp phụ lưu trung và nam Lào, kể cả sông Xe Kong và các phụ lưu trong hai tỉnh Xe Kong và Attapeu, cũng như Cam Bốt, Việt Nam ở phía nam và Thái Lan ở phía bắc – là vào ngư sinh và ngư nghiệp. Đập Don Sahong sẽ ngăn dòng chảy chính trong vùng thác Khone mà đại đa số di ngư cần có sử dụng đặc biệt vào mùa khô để đi lên thượng nguồn từ Cam Bốt.”
“Nếu xây đập ở đó chặn lối, di ngư sẽ không còn vượt được thác Khone qua Cam Bốt để lên Lào. Đây sẽ là thiệt hại thu hoạch ngư nghiệp to lớn nhất cho toàn lưu vực.”
Word Wildlife Federation, WordFish Center, trường Đại học Wisconsin và Đại học Sydney đều cảnh báo về các tác động xuyên biên giới của đập Don Sahong. Nếu chính phủ Lào vẫn tiến hành xây đập Don Sahong, bất chấp Hiệp Định 1995, Lào có thể phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại cho Cam Bốt và Việt Nam theo tinh thần các luật quốc tế như Công ước Helsinki 1992 mà Hiệp Định Mekong 1995 dựa vào để giải quyết tranh chấp.
Nghĩa vụ quốc tế theo Luật Bảo Vệ Môi Trường 1999 của Lào
Đập Don Sahong sẽ gây rối loạn Siphandone, vùng bốn ngàn giang đảo, kho tàng thiên nhiên của dân tộc Lào. Không tham vấn và thỏa hiệp với lân bang như thế, Lào có lẽ đã vi phạm Luật Bảo vệ Môi Trường 1999 của Lào, Điều khoản 33 quy định rằng Lào sẽ: “thực hiện những ràng buộc của các công ước hiệp định môi sinh quốc tế mà Lào ký kết”.
Don Sahong đe dọa Ramsar Site của Cam Bốt và Việt Nam
Tiềm năng kinh tế của Mekong tuy suy giảm nhưng còn sinh động là nhờ vào sự phong phú và đa dạng sinh học hiếm có tại vùng thác Khone, tỉnh Chapasak của Lào, Ramsar Site Stung Treng của Cam Bốt và Ramsar Site Tràm Chim của Việt Nam. Mekong là nguồn sinh kế, lợi tức protein chính yếu của ba dân tộc Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Bất chấp tác động xuyên biên giới của Don Sahong xuống các Ramsar Site lân bang là hành động vi phạm Công Ước Ramsar 1971 mà Lào đã cam kết.
Bảo vệ cá heo Irrawaddy cá Pla Beuk khỏi tuyệt chủng
Sau cùng, giống cá heo Irrawaddy , giống cá cat fish khổng lồ Pla Buek và nhiều giống cá khác sẽ đi đến uyệt chủng nếu không còn di chuyển được tự do lên và xuống khúc sông ba quốc gia cùng chia sẻ.
Sự phân chia lợi ích và thiệt hại phi lý
Về lợi, với 260 MW, công suất từ Don Sahong chỉ ngang 10% tổng số công suất Lào đã sẵn có. Lào sẽ phải vĩnh viễn hy sinh Siphandone để lấy số điện năng nhỏ nhoi này; trong khi tiết kiệm năng lượng tiêu thụ thôi sẽ giúp Lào để dành gấp đôi công suất của Don Sahong mà không phải mất Siphandone. Dân Cam Bốt và Việt Nam không được hưởng lợi gì của Don Sanhong mà phải gánh chịu thiệt hại ngư nghiệp, bị lấy mất nguồn protein, nguồn nước sạch, nguồn phù sa và dinh dưỡng. Đó là an ninh sinh tồn của hàng triệu dân nghèo Cam Bốt và Viêt Nam, họ không thể nhân nhượng nhắm mắt để bị cướp mất.
Với những lý do trên, chúng tôi khẩn khoản yêu cầu chính phủ Lào hủy bỏ dự án Don Sahong, cất đi mối de dọa cho dân cư lưu vực, bảo toàn môi sinh cho thế hệ sau và chung sống hòa bình thân hữu với các dân tộc láng giềng.
Trân trọng,
Phạm Phan Long, P.E.
Chairman
Viet Ecology Foundation
Bản tiếng Anh
November 16, 2013
The Honorable H.E. Mr. Thongsing THAMMAVONG
Prime Minister of the Lao People’s Democratic Republic
Subject: Urgent Call to Stop Don Sahong Dam
Your Excellency,
We, the Viet Ecology Foundation (VEF), an NGO based in California in the United States, would like to express our concern that the Lao government’s Don Sahong Dam project, similar to the Xayaburi Dam project, has not duly followed the regional consultation process mandated by the 1995 Agreement. We are also concerned that its trans-boundary impact on Cambodia and Vietnam has not been addressed. We also call on your attention to the 2007 Plea to Abandon Plans for the Don Sahong Dam in the 2007 Open Letter by 28 Non-Governmental Organizations and take proper action.
The 2013 Don Sahong Hydropower Project Cumulative Impact Assessment Report
The January 2013 EIA/CIA report prepared by the National Consulting Company for the developer fails to address the problem that the dam blocks the Hou Sahong Channel, the only mainstream path that supports fish migration in dry seasons. This means the EIA/CIA report has ignored the Dam’s trans-boundary impact from Laos to Cambodia and Vietnam.
The 1995 Mekong Agreement
The International Rivers Network (IRN) reported that: “the Laos Vice Minister of Energy and Mines said the project would not undergo prior consultation. He argued that that the Don Sahong Dam is not a mainstream project because it will not stretch across the entire width of the river.”
However, the IRN cited that: “Under Article 5.1 of the 1995 Mekong Agreements’ Procedures for Notification, Prior Consultation and Agreement, prior consultation is required for all intra-basin projects on the mainstream that use dry-season flows.”
Don Sahong Dam is proposed on Hou Sahong, a mainstream channel of the Mekong. Hou Shahong is not a tributary because it does not have a catchment basin of its own. The Don Sahong Dam project is subject to the regional consultation per the 1995 Mekong Agreement.
The 1992 Helsinki Convention and Trans-Boundary Impacts
In 2007, 34 scientists submitted an open letter from the University of Sydney to all governmental and international agencies responsible for the Mekong River stating that:
“The most serious negative environmental impact of the dam – and one that should be of serious concern to people living along the Mekong River and its tributary rivers and streams throughout southern and central Laos, including the Xekong River and its tributaries in Xekong and Attapeu provinces, as well as Cambodia and Vietnam to the south, and Thailand to the north – relates to fish and fisheries. The Don Sahong dam would block the major channel in the Khone Falls area used by the great majority of fish migrating up from Cambodia, especially in the dry season.”
“If a dam is built there and blocks that migration route, fish may not be able to get up the Khone Falls at all, and would not be able to enter Laos from Cambodia. This would have serious negative consequences for fisheries production throughout the region.”
Word Wildlife Federation, WorldFish Center, scientists from the University of Wisconsin and the University of Sydney have identified the clear adverse and trans-boundary impact of the Don Sahong Dam. If the Laotian government proceeds to build the Don Sahong Dam, violating the 1995 Mekong Agreement, Laos would be liable for the harm this dam causes to Cambodia and Vietnam, including under such international laws as the 1992 Helsinki Convention.
The Don Sahong Dam and Ramsar Sites in Cambodia and Vietnam
The productivity of the Lower Mekong to date remains vibrant, which can be attributed to the rich biological reserve and productivity at the Khone Falls, the Champasak province of Laos, the Stung Treng Ramsar Site of Cambodia, and the Tram Chim Ramsar of Vietnam. The livelihood and food security of the people of three countries—Laos, Cambodia and Vietnam—depend on the fish, water and nutrients produced by the dynamics of the Mekong’s eco-environment. Laos as a Ramsar contracting party could be in violation of the 1971 Ramsar Convention if trans-boundary impacts from Don Sahong to Cambodia and Vietnam are disregarded.
The International Obligations per Laos’ 1999 Environmental Protection Law
The Don Sahong Dam would wreak havoc to the Siphandone, the four thousand islands, a national treasure of the Laotian people. The Don Sahong Dam project may violate the intent and spirit of Laos’ own 1999 Environmental Protection Law.Article 33 of the Law states that Laos is to “implement obligations under international conventions and agreements on the environment to which Laos PDR is a party.”
Save the Irrawaddy Dolphin and the Pla Beuk
Lastly, the endangered Irrawaddy Dolphin, the Pla Beuk and other fish species could be doomed to extinction if not allowed to swim freely in this part of the Mekong’s watercourse shared by the three nations.
Inequitable Benefit and Cost
The 240 MW capacity from Don Sahong Dam amounts to less than 10% of the Laos’ present national power generation capacity. The Laotian people do not need to sacrifice the pristine Siphandone wetland to gain that extra minor capacity. Exercising energy conservation can spare Laos twice as much power from Don Sahong. The loss of fish production, vital protein supply, fresh water, sediments and nutrients caused by Don Sahong Dam cannot be replaced. This loss is the food security millions poor Mekong people cannot survive without it.
For these reasons, we earnestly request that the Laotian government cancel the Don Sahong Dam project, remove its threat to the Mekong people, protect the environment for future generations and preserve the mutual friendship with neighboring countries.
Yours sincerely,
Long P. Pham, P.E.
THEO Viet Ecology
Phân thân hay dấn thân!
Người ta dễ dàng làm
ảnh “phân thân” trong photosshop nhờ mẹo chụp ảnh đặt góc quay và model
di chuyển các vị trí khác nhau cho cùng một góc máy. Theo tôi được
biết, sự phân thân, thường gọi nhiều hơn, phổ biến hơn là “sự
nhị hoá nhân cách”, được thấy nhiều nhất không phải ở tuổi
thơ, mà nhiều nhất ở người lớn. Ở một số người, đó là một
khuyết tật nhân cách.
Con người có nhiều loại phân thân. Phân thân nhân cách là một bệnh tật thương tâm, không phải một sự sa đoạ nhân cách đến hư hỏng. Những sự sai lầm về nhân cách có nhiều mức độ từ nhẹ đến nặng, như: suy giảm nhân cách, sa sút nhân cách, bán rẻ nhân cách. Về sai lầm nhân cách, do tội lỗi chứ không phải do khuyết tật.
Trong Thầ̀n khúc, ở cổng địa ngục có dòng chữ: “Xin bỏ lại sự sợ hãi trước khi bước qua đây, trong này không có chỗ cho lòng̣ khiếp đảm”. Ngược hẳn với người dấn thân, là người vô trách nhiệm, với nhiều biển̉ hiện, nhiều mức độ tuỳ từng loại người và từng người, như trùm chăn, ở ẩn, thoái thác, đùn đẩy, lẩn tránh nhiệm, nghĩ một đằng nói một nẻo, v.v.
Người dấn thân, chính khách, trí thức, thợ thuyền, dân cày, v.v. là người làm việc và chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc làm của mình. Trước cửa cuộc đời, nên có dòng chữ thường thấy ở cổng một cơ quan, một công trường, một đơn vị quân đội: “Không có trách nhiệm, xin miễn vào”. Ở đời này, không chịu dấn thân, không dám dấn thân là vô trách nhiệm.
Trên mạng xã hội có nhiều bài viết phản ánh về hoạt động của Quốc hội như kiểu “vỗ tay” theo hướng đã được chỉ tay! Một số hình ảnh đại biểu ngủ gật chứng tỏ khá mệt mỏi. Tuy nhiên, vẫn có những vị đại biểu Quốc hội không chấp nhận phân thân, vẫn dũng cảm nói lên tiếng lòng của dân, thể hiện bản lĩnh và dấn thân của mình, thật đáng nể và kính trọng.
Cho rằng dự thảo Luật Đất đai còn rất nhiều nội dung cần phải trao đổi, cần phải điều chỉnh và với thời gian từ nay đến cuối kỳ họp còn rất ít, đại biểu Phạm Xuân Thường đề nghị Quốc hội nghiên cứu có thể hoãn lại chưa thông qua tại kỳ họp này mà để sang kỳ họp thứ 7, v.v. Dư luận cho rằng đây là trường hợp đặc biệt dám dấn thân phát biểu chính kiến của mình. Điều này chính xác. Tuy nhiên, tôi muốn giải thích để đại biểu Phạm Xuân Thường rõ hơn là đất đai ở nông thôn có hai phần. Thứ nhất, đất thổ cư của gia đình. Đất này rõ ràng là đất sở hữu cá nhân do đó việc sử dụng và bán đi hay không là hoàn toàn thuộc cá nhân. Thứ hai, đất thuộc quyền của hợp tác xã ở làng/xã hiện nay đã trót thành đất của tập thể (dù trước kia là đất cá nhân nhưng đã bị tịch thu từ lâu nên không thể truy nguồn gốc). Đất này là sở hữu tư nhân thuộc tập thể xã viên. Việc sử dụng chúng, hoặc bán đi là quyền của tập thể xã viên quyết định. Xã viên nào muốn rút khỏi có thể bán lại cho tập thể. Tập thể có thể quyết định bán hay cho thuê cho nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân dùng trong hoạt động không phải làm nông nghiệp. Vậy thì không nên áp trò sở hữu toàn dân ở đây, rồi áp đặt thời hạn quyền sử dụng ở đây.
Dư luận cũng rất quan tâm bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh tại buổi thảo luận tổ ở Quốc hội. Bộ trưởg Bùi Quang Vinh thay vì phân thân để né tránh đối diện với sự thật thì đã dũng cảm dấn thân. Trong lãnh đạo của Việt Nam hiện nay còn quá ít các vị Bộ trưởng như vậy. Trung Quốc sở dĩ làm được những việc cải cách lớn vì họ có ý thức và bản lĩnh của Đại Hán và là dân tộc thực dụng. Chúng ta mang trong mình ba căn bệnh: bệnh Sô viết quan liêu bao cấp, bệnh tiểu nông và bệnh tha hoá khi tham gia thị trường nhưng không cải cách thể chế chính trị. Nói là ta học Tàu nhưng có lẽ cậu học trò nhiễm đến ba căn bệnh trọng nêu trên thì kết quả ra sao cũng dễ hiểu.
Trên mạng đưa thông tin ông Bùi Quang Vinh thẳng thắn phân tích về “Luật Ngân sách và Nghị quyết của Trung ương đối với đầu tư phát triển” và “cảnh báo, đất nước này vỡ nợ do xây dựng cơ bản tràn lan, còn Bộ Giao thông thì lúc nào cũng nợ. Ngân sách đang thâm hụt một cách nghiêm trọng, chưa từng có.
Trước đây, tổng chi đầu tư phát triển trong vòng 05 năm trước, 2006-2010 bình quân là khoảng 35-37%, thậm chí năm đầu 40%, có những năm lên tới 42% so với GDP. Ví dụ GDP năm nay của chúng ta là 4,2 triệu tỷ, thì tổng đầu tư toàn xã hội vào cỡ 1,7-1,8 triệu tỷ. Nhưng nó cứ tụt dần, tụt dần. Nó tụt cái chi đầu tư của nhà nước thì còn có lý chứ tụt tổng chi đầu tư toàn xã hội là có vấn đề vì đất nước ta đang phát triển. Có nhiều người mang cái này ra so sánh với Pháp, với Đức, bảo là ở họ bố trí có mấy phần trăm, rất ít, sao VN nhiều thế.”
Ông Bùi Quang Vinh cho rằng “Đức, Pháp họ bảo là sao các ngài lại so sánh thế được nhỉ, chúng tôi đã có mấy nghìn năm xây dựng rồi, cách đây hàng trăm năm chúng tôi đã có cơ sở vật chất tốt hơn VN hiện nay, đường cao tốc, quốc lộ, đường ngang ngõ xóm của chúng tôi xong từ bao giở bao giờ, nên chúng tôi không phải làm thêm gì nữa. Tức là người ta đã đầu tư hoàn chỉnh rồi, không cần đầu tư thêm về hạ tầng nữa.”
Và phân tích: “Tại sao chúng ta hôm nay phát hành trái phiếu, là bởi vì trái phiếu thì sẽ không phải in thêm tiền, không phải gây lạm phát trực tiếp. Tức là chúng ta có tiền nhưng không phải in thêm tiền. Nó vẫn là đồng tiền đang lưu hành trong chúng ta, khi Chính phủ phát hành trái phiếu thì nhân dân mua, doanh nghiệp mua, ngân hàng mua.
Tiền của ngân hàng là tiền dân gửi tiết kiệm, đáng lẽ mang ra đầu tư cho sản xuất, thì ông ấy dành một phần mua trái phiếu Chính phủ. Nhưng tất nhiên nó cũng có tác động gián tiếp đến giá cả, giá cả có thể tăng lên. Trái phiếu này chỉ dành để nâng cao hiệu quả đầu tư và góp phần tăng trưởng. Bởi vì 1.400 công trình đang dở dang của các bộ, ngành, địa phương, là đường quốc lộ, thủy lợi đang dở dang chỉ còn thiếu một ít thôi, bây giờ nếu không cho nữa thì tất cả khoản tiền đổ vào trước đó sẽ vứt đi.
…Chúng ta cần thay đổi thể chế để quyền đi đôi với trách nhiệm. Không làm được thì từ chức, không từ chức thì tôi gạch tên ông. Phải thế mới được. Còn bây giờ thì tốt xấu lẫn lộn, thành tích cũng chẳng biết của ông nào, sai cũng chẳng biết của ông nào. Nhiều thứ lộn xộn, mệt mỏi lắm, nên tôi nói các đồng chí là nếu chúng ta không đổi mới thì chúng sẽ chết thôi, chúng ta sẽ củ mài ăn xuống thôi.
Người ta cứ kể câu chuyện rằng vứt một thằng VN xuống hố thì nó lên được, nhưng vứt ba thằng xuống thì chúng nó chết hết vì chúng kéo nhau xuống, còn bỏ 3 thằng Trung Quốc xuống thì cả 3 chúng nó đều lên được. Người VN chỉ cá nhân, không làm việc được cùng nhau. Nếu thế thì chỉ có chết.”
Ông Bùi Quang Vinh là Bộ trưởng đầu tiên biết phân tích và nói thẳng về việc các địa phương tranh nhau lên dự án đầu tư và coi Trung ương là cái lò cung cấp tiền. Không kế hoạch, không thẩm định dự án và chắc cũng không cần kiểm tra chất lượng từng giai đoạn cho đến khi kết thúc. Cứ thế mà làm rồi chia nhau quyền lợi. Có lẽ đây là mấu chốt tại sao Trung Quốc dù có tham nhũng nhưng đầu tư hiệu quả hơn xa Việt Nam.
Tuy nhiên, ngẫm suy bài phát biểu của ông Bùi Quang Vinh, trao đổi với người bạn đồng tâm, chúng tôi có chung nhận xét, vẫn có thể nhặt ra những “hạt sạn” cần nói lại cho rõ. Lý luận rằng phải có đầu tư cao hơn các nước phát triển vì mình thiếu hạ tầng cơ sở thì cần phải xem lại là hơn bao nhiêu mới hợp lý. Các nước phương Tây phát triển cao như Đức, Mỹ đầu tư trung bình là 18% GDP tính từ 2000 đến 2011 và hiện nay còn thấp hơn.
Nhật Bản đầu tư cao hơn ở mức 21% GDP vì Nhật muốn kích cầu thoát khỏi tình trạng trì trệ hơn 20 năm nay, mà vẫn không thành công. Các nước Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Malaisia, Indonesia cùng thời gian trên đầu tư khoảng 27% GDP, Singapore thì khoảng 26%. Và Việt Nam khoảng gần chục năm nay, đầu tư xấp xỉ 40%, nhưng tốc độ phát triển lại quá thấp!? Lỗi tại ai? Hỏi tức là trả lời.
Chúng tôi nghĩ trong tình trạng không kiểm soát được chất lượng, thì không nên đầu tư quá nhiều làm gì, vì chỉ tạo cơ hội làm đầy túi quan chức. Cảng tỷ đô Lạch Huyện – cầu Tân Vũ đắt ngất ngưởng, lại tác hại lớn đến môi trường chỉ là một ví dụ minh chứng.
Khi nghe ông Bùi Quang Vinh nói về thu ngân sách, tôi lại nhớ đến trên website của Ủy ban Kinh tế xã hội: http://ecna.gov.vn/Pages/Index.aspx. Chúng tôi thấy có lẽ đây là lần đầu tiên Quốc hội có một bản báo cáo kinh tế, ít nhất là bản được công khai. Không những thế, đây là bản báo cáo có nghiên cứu và phân tích thực địa, có giá trị hơn nhiều bản báo cáo của Chính phủ mà thực chất chỉ là khẩu hiệu.
Chương về Ngân sách giải thích đúng điều mà TS Vũ Quang Việt đã phân tích trước đây, tức là ngân sách kết toán luôn luôn lớn hơn ngân sách dự toán (tức là ngân sách Quốc hội thông qua) rất nhiều.
Con người có nhiều loại phân thân. Phân thân nhân cách là một bệnh tật thương tâm, không phải một sự sa đoạ nhân cách đến hư hỏng. Những sự sai lầm về nhân cách có nhiều mức độ từ nhẹ đến nặng, như: suy giảm nhân cách, sa sút nhân cách, bán rẻ nhân cách. Về sai lầm nhân cách, do tội lỗi chứ không phải do khuyết tật.
Trong Thầ̀n khúc, ở cổng địa ngục có dòng chữ: “Xin bỏ lại sự sợ hãi trước khi bước qua đây, trong này không có chỗ cho lòng̣ khiếp đảm”. Ngược hẳn với người dấn thân, là người vô trách nhiệm, với nhiều biển̉ hiện, nhiều mức độ tuỳ từng loại người và từng người, như trùm chăn, ở ẩn, thoái thác, đùn đẩy, lẩn tránh nhiệm, nghĩ một đằng nói một nẻo, v.v.
Người dấn thân, chính khách, trí thức, thợ thuyền, dân cày, v.v. là người làm việc và chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc làm của mình. Trước cửa cuộc đời, nên có dòng chữ thường thấy ở cổng một cơ quan, một công trường, một đơn vị quân đội: “Không có trách nhiệm, xin miễn vào”. Ở đời này, không chịu dấn thân, không dám dấn thân là vô trách nhiệm.
Trên mạng xã hội có nhiều bài viết phản ánh về hoạt động của Quốc hội như kiểu “vỗ tay” theo hướng đã được chỉ tay! Một số hình ảnh đại biểu ngủ gật chứng tỏ khá mệt mỏi. Tuy nhiên, vẫn có những vị đại biểu Quốc hội không chấp nhận phân thân, vẫn dũng cảm nói lên tiếng lòng của dân, thể hiện bản lĩnh và dấn thân của mình, thật đáng nể và kính trọng.
Cho rằng dự thảo Luật Đất đai còn rất nhiều nội dung cần phải trao đổi, cần phải điều chỉnh và với thời gian từ nay đến cuối kỳ họp còn rất ít, đại biểu Phạm Xuân Thường đề nghị Quốc hội nghiên cứu có thể hoãn lại chưa thông qua tại kỳ họp này mà để sang kỳ họp thứ 7, v.v. Dư luận cho rằng đây là trường hợp đặc biệt dám dấn thân phát biểu chính kiến của mình. Điều này chính xác. Tuy nhiên, tôi muốn giải thích để đại biểu Phạm Xuân Thường rõ hơn là đất đai ở nông thôn có hai phần. Thứ nhất, đất thổ cư của gia đình. Đất này rõ ràng là đất sở hữu cá nhân do đó việc sử dụng và bán đi hay không là hoàn toàn thuộc cá nhân. Thứ hai, đất thuộc quyền của hợp tác xã ở làng/xã hiện nay đã trót thành đất của tập thể (dù trước kia là đất cá nhân nhưng đã bị tịch thu từ lâu nên không thể truy nguồn gốc). Đất này là sở hữu tư nhân thuộc tập thể xã viên. Việc sử dụng chúng, hoặc bán đi là quyền của tập thể xã viên quyết định. Xã viên nào muốn rút khỏi có thể bán lại cho tập thể. Tập thể có thể quyết định bán hay cho thuê cho nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân dùng trong hoạt động không phải làm nông nghiệp. Vậy thì không nên áp trò sở hữu toàn dân ở đây, rồi áp đặt thời hạn quyền sử dụng ở đây.
Dư luận cũng rất quan tâm bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh tại buổi thảo luận tổ ở Quốc hội. Bộ trưởg Bùi Quang Vinh thay vì phân thân để né tránh đối diện với sự thật thì đã dũng cảm dấn thân. Trong lãnh đạo của Việt Nam hiện nay còn quá ít các vị Bộ trưởng như vậy. Trung Quốc sở dĩ làm được những việc cải cách lớn vì họ có ý thức và bản lĩnh của Đại Hán và là dân tộc thực dụng. Chúng ta mang trong mình ba căn bệnh: bệnh Sô viết quan liêu bao cấp, bệnh tiểu nông và bệnh tha hoá khi tham gia thị trường nhưng không cải cách thể chế chính trị. Nói là ta học Tàu nhưng có lẽ cậu học trò nhiễm đến ba căn bệnh trọng nêu trên thì kết quả ra sao cũng dễ hiểu.
Trên mạng đưa thông tin ông Bùi Quang Vinh thẳng thắn phân tích về “Luật Ngân sách và Nghị quyết của Trung ương đối với đầu tư phát triển” và “cảnh báo, đất nước này vỡ nợ do xây dựng cơ bản tràn lan, còn Bộ Giao thông thì lúc nào cũng nợ. Ngân sách đang thâm hụt một cách nghiêm trọng, chưa từng có.
Trước đây, tổng chi đầu tư phát triển trong vòng 05 năm trước, 2006-2010 bình quân là khoảng 35-37%, thậm chí năm đầu 40%, có những năm lên tới 42% so với GDP. Ví dụ GDP năm nay của chúng ta là 4,2 triệu tỷ, thì tổng đầu tư toàn xã hội vào cỡ 1,7-1,8 triệu tỷ. Nhưng nó cứ tụt dần, tụt dần. Nó tụt cái chi đầu tư của nhà nước thì còn có lý chứ tụt tổng chi đầu tư toàn xã hội là có vấn đề vì đất nước ta đang phát triển. Có nhiều người mang cái này ra so sánh với Pháp, với Đức, bảo là ở họ bố trí có mấy phần trăm, rất ít, sao VN nhiều thế.”
Ông Bùi Quang Vinh cho rằng “Đức, Pháp họ bảo là sao các ngài lại so sánh thế được nhỉ, chúng tôi đã có mấy nghìn năm xây dựng rồi, cách đây hàng trăm năm chúng tôi đã có cơ sở vật chất tốt hơn VN hiện nay, đường cao tốc, quốc lộ, đường ngang ngõ xóm của chúng tôi xong từ bao giở bao giờ, nên chúng tôi không phải làm thêm gì nữa. Tức là người ta đã đầu tư hoàn chỉnh rồi, không cần đầu tư thêm về hạ tầng nữa.”
Và phân tích: “Tại sao chúng ta hôm nay phát hành trái phiếu, là bởi vì trái phiếu thì sẽ không phải in thêm tiền, không phải gây lạm phát trực tiếp. Tức là chúng ta có tiền nhưng không phải in thêm tiền. Nó vẫn là đồng tiền đang lưu hành trong chúng ta, khi Chính phủ phát hành trái phiếu thì nhân dân mua, doanh nghiệp mua, ngân hàng mua.
Tiền của ngân hàng là tiền dân gửi tiết kiệm, đáng lẽ mang ra đầu tư cho sản xuất, thì ông ấy dành một phần mua trái phiếu Chính phủ. Nhưng tất nhiên nó cũng có tác động gián tiếp đến giá cả, giá cả có thể tăng lên. Trái phiếu này chỉ dành để nâng cao hiệu quả đầu tư và góp phần tăng trưởng. Bởi vì 1.400 công trình đang dở dang của các bộ, ngành, địa phương, là đường quốc lộ, thủy lợi đang dở dang chỉ còn thiếu một ít thôi, bây giờ nếu không cho nữa thì tất cả khoản tiền đổ vào trước đó sẽ vứt đi.
…Chúng ta cần thay đổi thể chế để quyền đi đôi với trách nhiệm. Không làm được thì từ chức, không từ chức thì tôi gạch tên ông. Phải thế mới được. Còn bây giờ thì tốt xấu lẫn lộn, thành tích cũng chẳng biết của ông nào, sai cũng chẳng biết của ông nào. Nhiều thứ lộn xộn, mệt mỏi lắm, nên tôi nói các đồng chí là nếu chúng ta không đổi mới thì chúng sẽ chết thôi, chúng ta sẽ củ mài ăn xuống thôi.
Người ta cứ kể câu chuyện rằng vứt một thằng VN xuống hố thì nó lên được, nhưng vứt ba thằng xuống thì chúng nó chết hết vì chúng kéo nhau xuống, còn bỏ 3 thằng Trung Quốc xuống thì cả 3 chúng nó đều lên được. Người VN chỉ cá nhân, không làm việc được cùng nhau. Nếu thế thì chỉ có chết.”
Ông Bùi Quang Vinh là Bộ trưởng đầu tiên biết phân tích và nói thẳng về việc các địa phương tranh nhau lên dự án đầu tư và coi Trung ương là cái lò cung cấp tiền. Không kế hoạch, không thẩm định dự án và chắc cũng không cần kiểm tra chất lượng từng giai đoạn cho đến khi kết thúc. Cứ thế mà làm rồi chia nhau quyền lợi. Có lẽ đây là mấu chốt tại sao Trung Quốc dù có tham nhũng nhưng đầu tư hiệu quả hơn xa Việt Nam.
Tuy nhiên, ngẫm suy bài phát biểu của ông Bùi Quang Vinh, trao đổi với người bạn đồng tâm, chúng tôi có chung nhận xét, vẫn có thể nhặt ra những “hạt sạn” cần nói lại cho rõ. Lý luận rằng phải có đầu tư cao hơn các nước phát triển vì mình thiếu hạ tầng cơ sở thì cần phải xem lại là hơn bao nhiêu mới hợp lý. Các nước phương Tây phát triển cao như Đức, Mỹ đầu tư trung bình là 18% GDP tính từ 2000 đến 2011 và hiện nay còn thấp hơn.
Nhật Bản đầu tư cao hơn ở mức 21% GDP vì Nhật muốn kích cầu thoát khỏi tình trạng trì trệ hơn 20 năm nay, mà vẫn không thành công. Các nước Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Malaisia, Indonesia cùng thời gian trên đầu tư khoảng 27% GDP, Singapore thì khoảng 26%. Và Việt Nam khoảng gần chục năm nay, đầu tư xấp xỉ 40%, nhưng tốc độ phát triển lại quá thấp!? Lỗi tại ai? Hỏi tức là trả lời.
Chúng tôi nghĩ trong tình trạng không kiểm soát được chất lượng, thì không nên đầu tư quá nhiều làm gì, vì chỉ tạo cơ hội làm đầy túi quan chức. Cảng tỷ đô Lạch Huyện – cầu Tân Vũ đắt ngất ngưởng, lại tác hại lớn đến môi trường chỉ là một ví dụ minh chứng.
Khi nghe ông Bùi Quang Vinh nói về thu ngân sách, tôi lại nhớ đến trên website của Ủy ban Kinh tế xã hội: http://ecna.gov.vn/Pages/Index.aspx. Chúng tôi thấy có lẽ đây là lần đầu tiên Quốc hội có một bản báo cáo kinh tế, ít nhất là bản được công khai. Không những thế, đây là bản báo cáo có nghiên cứu và phân tích thực địa, có giá trị hơn nhiều bản báo cáo của Chính phủ mà thực chất chỉ là khẩu hiệu.
Chương về Ngân sách giải thích đúng điều mà TS Vũ Quang Việt đã phân tích trước đây, tức là ngân sách kết toán luôn luôn lớn hơn ngân sách dự toán (tức là ngân sách Quốc hội thông qua) rất nhiều.
Bản
báo cáo Quốc hội giải thích là cách làm ngân sách là ở tỉnh thì đợi xã
huyện làm ngân sách rồi cộng lại, trung ương lại đợi các tỉnh rồi cộng
lại. Ngoài ra trung ương lại đợi các bộ rồi cộng lại (?). Dự toán ngân
sách như thế là bài tính cộng đơn giản, nếu chưa nhận được thì dự toán
rồi cộng chẳng giống ai. Do đó, mà dự toán của Chính phủ to tướng chẳng
có gì lạ!
Khi dự toán được lên, tiền không biết đâu ra, và chi vào đâu, cho nên mới nảy sinh chi bừa bãi, chi nhiều mà không thể hoàn thành công trình, còn công trình không được đánh giá thì tất nhiên không thể có chất lượng.
Nhóm nghiên cứu kinh tế Ủy ban kinh tế Quốc hội đã làm được việc đáng khích lệ đã giúp vẽ ra được bức tranh trên là một đóng góp lớn cho Ủy ban Kinh tế Quốc hội. Mong rằng sẽ có Ủy ban kiểm soát chi tiêu của Quốc hội để thẩm tra chi tiết chi tiêu của Chính phủ và các doanh nghiệp quốc doanh. Ủy ban này cần thiết lập một cánh tay chuyên nghiệp và độc lập nhằm phục vụ kiểm toán các hoạt động chi tiêu của Chính phủ kể cả của Quốc hội.
Ông Bùi Quang Vinh và nhiều vị đại biểu Quốc hội cho rằng phát hành trái phiếu để đầu tư, tức là không in tiền nên không gây lạm phát? Nói như thế là nhầm lẫn, không hiểu gì về cách tạo tiền. Ngân hàng Trung ương tạo tiền bằng cách mua lại/mua mới trái phiếu trên thị trường, tức là tung tiền ra.
Điều này Ngân hàng Trung ương đang làm để tạo thêm thanh khoản và đưa lãi suất xuống gần zero. Điều này, Ngân hàng Trung ương Mỹ tự quyết định. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không độc lập cho nên Chính phủ có thể bắt họ mua trái phiếu, tức là đẩy tiền ra. Với chính sách độc lập, họ có toàn quyền không chịu mua, không tung tiền ra thì mới có thể kiểm soát được lạm phát.
Nếu Ngân hàng Nhà nước độc lập, việc phát hành trái phiếu để có tiền đầu tư cho hạ tầng cơ sở là nguyên tắc đúng đắn thay vì mượn tín dụng ngân hàng (vì phải trả lãi cao), nhưng điều này không kiểm soát được thì lại trở thành mạo hiểm. Bài học nhãn tiền là nhiều tỉnh ở Trung Quốc đang gặp khó khăn trả nợ và nhiều thành phố ở Mỹ đã phải tuyên bố phá sản, người mua đương nhiên phải chịu mất. Ở Việt Nam có thể như thế không? Nếu không, ai sẽ trả nợ trái phiếu khi thành phố phá sản ở Việt Nam? V.v.
Quốc hội sắp đến thời đoạn bấm nút thông qua sửa đổi Hiến pháp và Luật Đất đai, những người hiểu biết đều thấy còn rất nhiều vấn đề bất cập. Cử tri cả nước dõi theo và tri ân các vị đại biểu Quốc hội thực sự biết vượt lên chính mình, dấn thân phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân vì sự phát triển vững bền của đất nước.
Khi dự toán được lên, tiền không biết đâu ra, và chi vào đâu, cho nên mới nảy sinh chi bừa bãi, chi nhiều mà không thể hoàn thành công trình, còn công trình không được đánh giá thì tất nhiên không thể có chất lượng.
Nhóm nghiên cứu kinh tế Ủy ban kinh tế Quốc hội đã làm được việc đáng khích lệ đã giúp vẽ ra được bức tranh trên là một đóng góp lớn cho Ủy ban Kinh tế Quốc hội. Mong rằng sẽ có Ủy ban kiểm soát chi tiêu của Quốc hội để thẩm tra chi tiết chi tiêu của Chính phủ và các doanh nghiệp quốc doanh. Ủy ban này cần thiết lập một cánh tay chuyên nghiệp và độc lập nhằm phục vụ kiểm toán các hoạt động chi tiêu của Chính phủ kể cả của Quốc hội.
Ông Bùi Quang Vinh và nhiều vị đại biểu Quốc hội cho rằng phát hành trái phiếu để đầu tư, tức là không in tiền nên không gây lạm phát? Nói như thế là nhầm lẫn, không hiểu gì về cách tạo tiền. Ngân hàng Trung ương tạo tiền bằng cách mua lại/mua mới trái phiếu trên thị trường, tức là tung tiền ra.
Điều này Ngân hàng Trung ương đang làm để tạo thêm thanh khoản và đưa lãi suất xuống gần zero. Điều này, Ngân hàng Trung ương Mỹ tự quyết định. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không độc lập cho nên Chính phủ có thể bắt họ mua trái phiếu, tức là đẩy tiền ra. Với chính sách độc lập, họ có toàn quyền không chịu mua, không tung tiền ra thì mới có thể kiểm soát được lạm phát.
Nếu Ngân hàng Nhà nước độc lập, việc phát hành trái phiếu để có tiền đầu tư cho hạ tầng cơ sở là nguyên tắc đúng đắn thay vì mượn tín dụng ngân hàng (vì phải trả lãi cao), nhưng điều này không kiểm soát được thì lại trở thành mạo hiểm. Bài học nhãn tiền là nhiều tỉnh ở Trung Quốc đang gặp khó khăn trả nợ và nhiều thành phố ở Mỹ đã phải tuyên bố phá sản, người mua đương nhiên phải chịu mất. Ở Việt Nam có thể như thế không? Nếu không, ai sẽ trả nợ trái phiếu khi thành phố phá sản ở Việt Nam? V.v.
Quốc hội sắp đến thời đoạn bấm nút thông qua sửa đổi Hiến pháp và Luật Đất đai, những người hiểu biết đều thấy còn rất nhiều vấn đề bất cập. Cử tri cả nước dõi theo và tri ân các vị đại biểu Quốc hội thực sự biết vượt lên chính mình, dấn thân phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân vì sự phát triển vững bền của đất nước.
Tô Văn Trường
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Hiểm họa văn hóa lai căng
Các tài liệu cho biết, sư tử đá xuất hiện từ thời Lý, nó là niềm kiêu hãnh của nghệ thuật Việt Nam, thể hiện sự sáng tạo và tính dân tộc cao của người Đại Việt. Nhưng hình tượng sư tử đá trong văn hóa Việt này có nhiều phần giống hổ hoặc lân, đó là những con sư tử dạng cách điệu; dù vẫn là biểu trưng của sức mạnh nhưng được chạm trổ rất công phu, mỹ thuật chứ không mang hình dáng cụ thể và hung tợn như những con sư tử đá lai căng đang xuất hiện tràn lan.
Từ lâu, sư tử được ví như là sức mạnh của Phật pháp, chính vì thế mà ở các đình chùa hay đặt các tượng sư tử trước cổng, thậm chí là đưa vào trong tâm điện thờ Phật hay đội tòa sen. Thật ra, trong kinh điển cũng có nhắc nhiều đến hình tượng con sư tử cùng với tiếng rống của nó. Cụ thể, thành ngữ “Sư tử hống” trong kinh điển Đại thừa thường được dùng để chỉ cho tiếng nói của bậc đại trí như đức Phật. Trong kinh điển Nguyên thủy thì khi đức Phật hoặc đệ tử của ngài thuyết pháp thì lời thuyết pháp đó được gọi là “Thành tựu sư tử hống”. Tức đó là tiếng nói không sợ hãi, không do dự, không mơ hồ, nói với niềm xác tín và kiên quyết. Trong kinh A Hàm, phẩm kinh Thế gian có đoạn nói: “Nói về Như Lai cũng là nói về sư tử vậy”.
Tượng sư tử đá trước chùa Vân Hồ – Hà Nội
Không những thế, ngày nay tượng sư tử còn được đặt tràn lan ở nhiều
nơi khác, như là một hình tượng dùng để bày trí theo phong thủy. Ở nhiều
công sở hiện tại, sư tử đá như là một biểu tượng của sự may mắn về tiền
tài dù thực chất trong phong thủy hiếm khi người ta nói đến điều đó! Ở
Trung Quốc, các nhà nghiên cứu văn hóa cho biết, những con sư tử đá với
hình dáng hung tợn kia chỉ ở vị trí… canh mộ, từ xưa đến nay vẫn như
thế! Nhưng có thể vì kém hiểu biết, vì mê tín và còn là vì sự tùy tiện
nên người ta đã mang hình tượng những con sư tử đó vào các nơi thờ tự,
công sở ở xứ ta. Nói về điều này, Giáo sư Trần Lâm Biền gọi đó là một sự
“lạc dòng” văn hóa. Bởi theo ông, việc đặt tượng sư tử đá trước cửa các
di tích lịch sử văn hóa của Việt Nam thì dù vô tình hay cố ý, chính
người ta đã mặc nhiên thừa nhận những di tích đó có liên quan hay gắn
liền với văn hóa Trung Hoa, trong khi bản chất không phải như thế!Tuy nhiên, hiện tượng sư tử đá lai căng tràn lan ở nước ta không phải chỉ mới diễn ra. Nó đã bắt đầu bùng phát trong khoảng chục năm trở lại đây và đã có nhiều nhà nghiên cứu lên tiếng nhưng hầu hết đều rơi vào hư không trước sự tăm tối của nhà quản lý. Và nếu trước đây, hiện tượng này chỉ diễn ra trong hạn chế thì ngày nay nó bắt đầu bùng phát thành phong trào cùng với sự phát triển rầm rộ của các công trình kiến trúc.
Chia sẻ với chúng tôi, GS Trần Lâm Biền cho biết, thực tế tượng sư tử đá cũng không phải phía Trung Quốc trực tiếp đưa sang mà nó đi theo đường vòng. Ban đầu nó được du nhập vào miền Nam bằng cách theo chân người Hoa di cư, rồi sau đó mới từ miền Nam ngược ra Bắc. “Nó là quá trình “thẩm thấu” lâu dài và đã bắt đầu bùng phát. Nếu xét trên phương diện thẩm mỹ thì có thể đánh giá bức tượng sư tử đá có thần thái đẹp, phù hợp với việc đặt ở những cổng di tích, đền chùa… Nhưng xét về văn hóa Việt Nam thì nó lại không nằm ở bản gốc văn hóa của nước ta. Nó hoàn toàn thuộc về kiến trúc văn hóa Trung Hoa” – GS Biền nói.
Theo GS Biền thì những tượng sư tử đá hầu hết được “sinh” ra từ các vùng Ninh Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng – nơi có nghề chạm khắc đá truyền thống. Những nghệ nhân ở đây làm theo các đơn đặt hàng của khách mà không hề để ý gì đến văn hóa dân tộc. Rồi từ vùng này mới dần dần lan tỏa ra khắp các địa phương khác và trở thành phong trào như hiện nay.
Nói về trách nhiệm gây nên sự lai căng văn hóa đó thì có lẽ người ta sẽ nhắc đến những người lắm tiền đã đặt làm và đưa những tượng đó về mà trưng bày và thờ phụng. Song, bản thân họ không hề ý thức được việc làm đó sẽ gây ảnh hưởng đến đặc trưng văn hóa gốc của dân tộc mình như thế nào, nên có thể nói họ không có lỗi. Lỗi ở đây thuộc về những cá nhân, cơ quan làm công tác quản lý văn hóa đã không làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến và cả cách thức quản lý văn hóa nên mới dẫn đến hiện tượng lai căng văn hóa đó.
Hẳn người ta chưa thể nào quên một vụ việc cũng liên quan đến sự mê muội của một bộ phận những người quản lý văn hóa vừa bị phát giác vừa qua. Đó là việc một hòn đá lạ với dăm ba dòng chữ loằng ngoằng được đặt trên ban thờ Vua Hùng để người dân ngày đêm khấn vái, suốt 3 năm mà những chức sắc ở di tích này vẫn coi đó là việc làm mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc! Thậm chí, vài quan chức của tỉnh Phú Thọ, những người có chứng chỉ cao cấp chính trị và thuộc lòng chủ nghĩa di vật biện chứng cũng tỏ ra “run rẩy” trước một hòn đá vô tri! Và để vứt hòn đá đó ra khỏi bàn thờ tổ tiên, thay vì chỉ cần hai anh lực điền làm trong vòng vài phút thì người ta lại cần đến cả một hội đồng khoa học để ngồi lại thảo luận! Nguồn cơn của sự lãng phí ấy chính là vì sự nỗi sợ hãi dị đoan vẫn còn đang tồn tại trong những cái đầu nặng nề như đeo đá!
Trở lại chuyện sư tử đá Trung Quốc xuất hiện trong các đình chùa, công sở Việt, người ta có thể giải thích rằng đó là một sự giao lưu văn hóa. Đúng là nền văn hóa nào cũng cần có sự giao lưu nhưng sự giao lưu một cách nguyên vẹn, rập khuôn mà không được Việt hóa thì đó là sự giao lưu mù quáng. Giao lưu văn hóa đúng nghĩa phải là dựa trên sự tự nguyện và nghiên cứu sao cho phù hợp với thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa bản địa. GS Trần Lâm Biền đã bức xúc rằng: “Thực tế, chúng ta cũng có rất nhiều những linh vật đẹp, tại sao chúng ta không sử dụng mà lại đi lấy một linh vật của nước khác? Như thế là vô cùng phản cảm và phản văn hóa”.
Đem một hòn đá lên bàn thờ tổ tiên để ngày đêm khấn vái, mang hình tượng sư tử hung tợn của văn hóa ngoại đặt trong các di tích, đình chùa, công sở mình mà không hề biết gì về nó là một việc có lẽ chỉ nên xảy ra vào thời… các Vua Hùng. Nhưng sự thiếu hiểu biết đó có thể kéo dài đến hiện tại là điều hoàn toàn không thể chấp nhận!
Nhưng rõ ràng là khi những người có nghĩa vụ chưa tuyên truyền, phổ biến cho mọi người hiểu về văn hóa dân tộc hay chưa xử lý những trường hợp vi phạm, hoặc chính bản thân họ cũng đang tăm tối, dị đoan thì những vụ việc tương tự sẽ còn kéo dài. Bởi GS Biền nói, chỉ khi người dân có kiến thức, có hiểu biết về những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình thì khi đó văn hóa truyền thống mới không bị “xâm lăng” bởi văn hóa ngoại lai!
Trúc Vân
The PetroTimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét