Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Bài viết đáng chú ý

VIỆT NAM KÍ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ CHỐNG TRA TẤN: CỨ KÍ NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ THỰC HIỆN

PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Qua tin nhắn trong thế giới mạng, anh Cùi Các gửi cho tôi câu hỏi: Ngày 7. 11. 2013, Việt Nam đã kí kết là thành viên Công ước quốc tế chống tra tấn. Đây có phải là nhà cầm quyền Việt Nam thể hiện quyết tâm ngăn chặn, tiến tới loại bỏ tra tấn hay chỉ nhằm kiếm lá phiếu và đã kiếm được trong cuộc bỏ phiếu ngày 12.11. 2013 vào Hội đồng Nhân quyền LHQ?
Suy nghĩ rằng Nhà nước Cộng sản Việt Nam kí Công ước quốc tế chống tra tấn với mong muốn cùng loài người văn minh ngăn chặn, loại bỏ tra tấn trong đời sống xã hội, trong hoạt động của bộ máy công cụ Nhà nước là một suy nghĩ ngây thơ, nhẹ dạ, không hiểu gì về Nhà nước Cộng sản Việt Nam.

Cứ nhìn vào Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Nhà nước cộng sản Việt Nam đã kí từ năm 1982 nhưng từ đó những quyền Dân sự và Chính trị thông thường của người dân Việt Nam, những quyền con người tối thiểu và quyền công dân cơ bản của người dân Việt Nam như quyền được mưu cầu kiếm sống, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền lập hội .  .  ., không những không được cải thiện, không được bảo đảm mà còn bị xâm phạm, bị tước đoạt nhiều hơn, nghiêm trọng hơn.
Trong các Quyền Con Người thì Quyền được mưu cầu hạnh phúc, mưu cầu có cuộc sống tốt đẹp là quyền đương nhiên của con người có mặt trên đời. Để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp, con người phải có quyền tư hữu. Điều quan trọng bậc nhất trong quyền tư hữu là quyền tư hữu đất đai. Nhưng Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ra đời năm 1987 đã tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân khi cả Hiến pháp và Luật đất đai đều ghi: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Quyền mưu cầu cuộc sống tốt đẹp của người dân đã bị mất khi quyền tư hữu đất đai của người dân không còn nữa!
Trong các quyền công dân thì quyền ứng cử, bầu cử người quản lí, lãnh đạo Nhà nước và xã hội là quyền lớn nhất, quan trọng nhất. Nhưng điều 4 Hiến pháp năm 1980, rồi Hiến pháp năm 1992 đều ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam.  .  . là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” đã tước đoạt quyền công dân của người dân trong ứng cử, bầu cử chọn ra lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Hiến pháp thông thường và đúng nghĩa phải là một khế ước xã hội được cả xã hội chấp nhận nhằm xác định trách nhiệm và quyền hạn các pháp nhân trong xã hội, bảo đảm cuộc sống lành mạnh, ổn định cho cả xã hội và cho từng cá thể trong xã hội, là văn bản pháp lí cao nhất xác nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân của người dân.
Hiến pháp của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã làm điều ngược lại. Hiến pháp 1992, điều 17: “Đất đai, rừng núi, sông hồ .  .  . đều thuộc sở hữu toàn dân” và điều 18: “Nhà nước thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo qui hoạch và pháp luật, .  .  .” Điều 17 và điều 18 tước đoạt quyền tối thiểu của con người trong mưu cầu hạnh phúc cùng với điều 4 tước đoạt quyền công dân trong bầu cử, ứng cử, đã làm cho toàn bộ các điều khác của Hiến pháp trở nên vô nghĩa và toàn bộ nội dung Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản chỉ để bảo đảm quyền thâu tóm xã tắc vào tay đảng Cộng sản, quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản, tạo điều kiện tốt nhất cho đảng Cộng sản tham nhũng đất đai, tham nhũng của cải, tham nhũng quyền lực, tham nhũng hạnh phúc của nhân dân, tham nhũng tài nguyên của đất nước, tham nhũng cả máu của anh hùng liệt sĩ, tham nhũng cả lịch sử của dân tộc.
Chỉ nêu hai dẫn chứng đủ thấy với những Công ước quốc tế cam kết tạo dựng một xã hội văn minh, Nhà nước Cộng sản Việt Nam cứ kí, cứ cam kết. Những văn bản mà một xã hội văn minh phải có, Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều có. Nhưng có chỉ để tô lớp phấn son rực rỡ cho bộ mặt xã hội cộng sản Việt Nam. Kí chỉ để chứng tỏ với thế giới rằng Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng là Nhà nước văn minh, tiến bộ. Quay về trong nước, đóng cửa lại hành xử với dân, cai trị xã hội, họ lại hiện nguyên hình là Nhà nước bạo quyền Cộng sản, không khác bao nhiêu chế độ bạo chúa trung cổ.
Trong Nhà nước Việt Nam Cộng sản công an trị, người dân bị tra tấn đến mức người vô tội cũng phải nhận tội giết người để khỏi bị tra tấn đến chết, phải ngồi tù mười năm trời đến khi kẻ giết người ra đầu thú, người dân vô tội mới được minh oan. Người dân bị đánh chết trong đồn công an diễn ra thường xuyên trên khắp đất nước như: Anh Nguyễn Văn Khương bị đánh chết trong trụ sở công an huyện Tân Yên, Bắc Giang. Ông Hoàng Văn Ngài bị đánh chết trong đồn công an thị trấn Gia Nghĩa, Đắc Nông. Anh Nguyễn Phú Trung bị công an xã Thủy Xuân Tiên huyện Chương Mỹ, Hà Nội đánh chết vất xác ra đường. Ông Nguyễn Mậu Thuận bị đánh chết trong trụ sở công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội. Anh Nguyễn Công Nhựt chết bí ẩn trong đồn công an huyện Bến Cát, Bình Dương. Ông Trịnh Xuân Tùng bị công an đánh gãy cổ ngay giữa bến xe Giáp Bát, Hà Nội dẫn đến cái chết đau đớn cho ông Tùng và nỗi đau, nỗi bất an cho cả xã hội .  .  .
Nhà nước Cộng sản Việt Nam kí Công ước quốc tế chống tra tấn thì sẽ chấm dứt thảm cảnh công an tra tấn, ép cung, dẫn đến án oan, dẫn đến những cái chết tức tưởi đang diễn ra trên khắp đất nước ư? Không! Chữ kí của Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong công ước quốc tế chống tra tấn hoàn toàn không mang lại điều tốt lành đó vì hai lẽ.
Một. Nhà nước bạo lực.
Mọi Nhà nước cộng sản đều phải tồn tại bằng bạo lực chuyên chính vô sản. Không có văn bản nào cho phép nhưng thực tế cho thấy Nhà nước bạo lực chuyên chính vô sản cho phép các cơ quan thực thi pháp luật không cần biết đến pháp luật, mặc sức đứng trên pháp luật. Đảng đứng trên pháp luật đã được thú nhận bằng câu nói thản nhiên trên diễn đàn của ông Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trước đám quan chức của đảng rằng Hiến pháp chỉ là văn bản pháp lí đứng hàng thứ hai sau cương lĩnh của đảng. Khế ước xã hội thiết thực bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ cuộc sống bình an của chín mươi triệu dân còn phải lép vế đứng dưới cương lĩnh viển vông, hão huyền, sáo rỗng của ba triệu đảng viên Cộng sản thì những Công ước quốc tế xa vời mà Nhà nước Cộng sản đã kí kết chỉ là mớ giấy lộn với Nhà nước chuyên chính vô sản!
Suốt hơn nửa thế kỉ đứng trên pháp luật, những người có quyền lực, nhất là những người nắm giữ sức mạnh bạo lực Nhà nước Cộng sản đều có nhận thức hợm hĩnh, ngạo ngược rằng: “Pháp luật là tao! Tao là pháp luật!” Tao là pháp luật thì tao muốn bắt ai thì bắt, muốn đánh ai thì đánh, muốn cho ai đi tù cũng được, muốn bắt ai chết thì phải chết. Đứng trên pháp luật, Nhà nước Việt Nam Cộng sản không những tùy tiện sử dụng sức mạnh bạo lực Nhà nước, công an – tòa án – nhà tù, đối với dân mà Nhà nước đó còn sử dụng cả bạo lực côn đồ, xã hội đen đàn áp dân.
Công an cùng côn đồ xã hội đen xông vào đánh những nông dân Văn Giang giữ đất không chịu để đất bị thu hồi bất công, đánh cả nhà báo đến chứng kiến vụ việc. Công an cùng côn đồ xã hội đen dùng sức mạnh bạo lực đánh đập, xô đẩy những người dân khiếu kiện đất đai ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội, đẩy bà Nguyễn Thị Nhung ngã ngửa dẫn đến cái chết tức thì, oan uổng cho bà và bạo lực Nhà nước, bạo lực côn đồ giết bà Nhung hoàn toàn vô can, những kẻ giết người là công cụ bạo lực Nhà nước đó không ai bị truy tố.
Trong Nhà nước chuyên chính vô sản, tính mạng người dân nhẹ như không, rẻ như bèo, chẳng hơn gì tính mạng con ong, cái kiến thì công cụ bạo lực nhà nước tra tấn dân chỉ là chuyện nhỏ.
Trong Nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực Nhà nước được ngang nhiên sử dụng với người dân ngay trên đường làng, ngay giữa phố đông, ngay trong vườn hoa không gian văn hóa công cộng thì sau cánh cổng sắt, giữa bốn bức tường trong trụ sở công an, trong buồng kín nhà giam âm u, công cụ bạo lực Nhà nước tra tấn người bị bắt giam chỉ là chuyện vặt thường ngày.
Trong Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có quyền lực cấp cao, chỉ có một nhóm hơn mười người trong Bộ Chính trị đảng Cộng sản mới được là con người, mới có cái tôi. Còn lại tất cả đều là bầy đàn, đều là công cụ. Đến Quốc hội, Chính phủ cũng chỉ là bầy đàn, là công cụ thực thi những quyết định của nhóm quyền lực tối cao. Nhân dân chỉ là công cụ thí nghiệm không có điểm dừng trong công cuộc mò mẫm xây dựng chủ nghĩa xã hội hư vô, không tưởng. Nhân dân chỉ là vật hi sinh, là nơi cung cấp sức lực, của cải và máu xương cho quyền lực tiến hành những cuộc chiến tranh liên miên với bên ngoài và những cuộc đấu tố bất tận trong nội bộ nhân dân.
Để khuất phục người dân cam chịu chấp nhận sự lãnh đạo Nhà nước và xã hội của đảng Cộng sản, bạo lực chuyên chính vô sản không phải chỉ tra tấn thân xác người dân mà còn tra tấn cả tinh thần. Dùng người dân đấu tố người dân để chia rẽ, phân hóa nhân dân. Những cuộc đấu tố vu oan giá họa cho người dân trong cải cách ruộng đất đã đẩy hàng chục nghìn người dân lương thiện phẫn uất phải tự tìm đến cái chết bằng tự treo cổ, tự rạch bụng, tự cắt mạch máu. Những cuộc đấu tố ngậm máu phun người từ cải cách ruộng đất vẫn đang tiếp diễn đến tận hôm nay và hình thức đấu tố ngày nay còn tinh vi, phong phú, hiện đại hóa lên rất nhiều.
Đấu tố ở cơ quan nơi làm việc. Đấu tổ ở khu phố nơi sinh sống. Đấu tố trên báo chí. Đấu tố trên truyền hình. Cuộc đấu tố vu khống bỉ ổi ở tổ dân phố để ngăn chặn luật sư Lê Quốc Quân ứng cử vào Quốc hội. Báo Nhân Dân, báo Quân Đội Nhân Dân, báo Công An vu khống những tiếng nói chính đáng của người dân khẳng định độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, đòi dân chủ là phản động, là thế lực thù địch. Đài truyền hình Hà Nội làm clip vu khống trí thức, thanh niên, sinh viên biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược là tụ tập đông người gây rối trật tự công cộng. Đài Truyền hình quốc gia làm clip vu khống xúc phạm danh dự, xúc phạm nhân phẩm công dân và gia đình công dân Cù Huy Hà Vũ.  .  . Người dân kiện sự vu khống phi pháp, vô liêm sỉ thì cả hệ thống tư pháp Nhà nước cộng sản chạy trốn, lẩn tránh như chuột chạy lụt và những cuộc đấu tố khủng bố, tra tấn tinh thần người dân chân chính, lương thiện vẫn đang tiếp diễn trong xã hội.
Công cụ bạo lực Nhà nước Cộng sản Việt Nam tra tấn tinh thần, tra tấn thân xác người dân, theo dõi, giám sát cuộc sống dân sự của từng người dân, Nhà nước Cộng sản Việt Nam thực sự là một Nhà nước cảnh sát hung bạo , dã man giữa thời đại văn minh.
Hai. Con người công cụ.
Để có sức mạnh bạo lực chống nhân dân, chống lại xu thế dân chủ hóa của thời đại, Nhà nước Cộng sản Việt Nam dùng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân tổ chức bộ máy công cụ bạo lực khổng lồ với những con người công cụ hung hãn và cuồng tín “chỉ biết còn đảng còn mình”.
Với Nhà nước nào công an cũng chỉ là công cụ bạo lực Nhà nước. Điều khác nhau là: Với Nhà nước dân chủ, công cụ bạo lực đó chỉ để chống lại tội phạm, chống lại cái ác, bảo vệ pháp luật, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo vệ người dân lương thiện. Còn trong Nhà nước độc tài đảng trị, công cụ bạo lực được phát triển lớn chưa từng có, được trang bị tối tân, với chức năng chủ yếu bảo vệ sự thống trị xã hội của đảng độc tài. “Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình”, cái slogan chữ lớn treo cao ở bộ Công an đã thú nhận điều đó và thực tế đã chứng minh điều đó.   
Bảo vệ sự tồn tại của đảng độc tài thì phải chống lại cả nhân dân, chống lại cả sự phát triển tất yếu của xã hội, chống lại cả xu thế thời đại nên đất nước nghèo, trẻ con đói cơm rách áo còn phải ngồi học trong lớp học rách nát, xiêu vẹo, ba, bốn người bệnh còn phải chen chúc trên một giường bệnh trong các bệnh viện ngay giữa thủ đô nhưng lực lượng công an công cụ bạo lực của đảng vẫn được trang bị cả xe bọc thép, cả máy bay lên thẳng, trang bị cả máy phá sóng vô tuyến điện hiện đại nhất.
Công cụ công an chỉ để bảo vệ đảng, chỉ để trấn áp dân, tước đoạt quyền tư do dân chủ của người dân. Chỉ vài chục người dân tập hợp biểu tình phản đối Tàu Cộng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, giết hại dân Việt đánh cá trên biển Việt Nam, đảng độc tài cũng giật lo sợ vội huy động hàng ngàn công cụ bạo lực Nhà nước ra đàn áp cuộc biểu tình yêu nước của người dân, vu cho người biểu tình tội gây rối trật tư, dùng sức mạnh bạo lực Nhà nước bắt bớ, đánh đập dân. Còn tội phạm xã hội thì thả nổi. Lực lượng công an công cụ bạo lực đông chưa từng có  nhưng chưa bao giờ lưu manh, trộm cắp, cướp của giết người lộng hành như hôm nay. 
Con người công cụ bạo lực chuyên chính vô sản của Nhà nước Cộng sản Việt Nam hành xử với dân giữ đất ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Dương Nội, Hà Đông, hành xử với dân oan ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà Nội là hành xử côn đồ, mất tính người. Công an phường Thụy Khuê, Hà Nội cướp soong nồi, lều bạt của người dân Hà Nội giúp dân oan H’ Mông từ trên núi cao Tây Bắc về Hà Nội khiếu kiện đất đai nhiều ngày đêm màn trời chiếu đất ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Anh Trương Văn Dũng cùng người dân đến đồn công an phường Thụy Khuê đòi lại đồ bị cướp đã bị công an phường Thụy Khuê đánh gãy xương sườn. Những kẻ mang sắc áo công an đánh người dân lương thiện như vậy thực sự là những tên côn đồ. Những tên công an công cụ bạo lực của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng, đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, đánh chết ông Hoàng Văn Ngài, đánh chết anh Nguyễn Phú Trung .  .  . càng bộc lộ rõ tính côn đồ, thú vật, không còn mảy may chút tính người.
Vì sao những kẻ ăn cơm của dân, mặc áo của dân, nhận đồng lương hậu hĩ từ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân lại có hành vi côn đồ, sắt máu, mất tính người với dân như vậy?
Nhà nước cộng sản Việt Nam không còn có chỗ đứng trong qui luật, trong tiến trình lịch sử, không còn có chỗ tồn tại trong lòng dân. Nhà nước đó chỉ tồn tại được trong không gian bé nhỏ, mong manh bằng sức mạnh mềm là tuyên truyền lừa dối và bằng sức mạnh cứng là bạo lực. Tuyên truyền lừa dối không còn hiệu quả, không còn lừa bịp được ai nữa. Chủ nghĩa Cộng sản lầm lạc, sai trái đã gây quá nhiều tội ác man rợ, đã kéo lùi lịch sử quay lại thời lãnh chúa trung cổ, cả hệ thống Cộng sản thế giới đã sụp đổ, đã bị ném vào sọt rác lịch sử thì không còn người nhẹ dạ tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Sức mạnh mềm không còn sử dụng được nữa, chỉ còn biết trông cậy vào sức mạnh cứng, chỉ còn tồn tại bằng sức mạnh bạo lực. Đổ vô tội vạ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân ra xây dựng bộ máy công cụ bạo lực, Nhà nước Cộng sản Việt Nam coi bạo lực là thần hộ mệnh, họ phải quan tâm đến sự trung thành của từng con người công cụ bạo lực, biến con người thành con thú bằng cách:
Tuyển chọn con người công cụ từ lớp người có lịch sử gắn bó sống còn với đảng và Nhà nước Cộng sản, lớp người nhờ có đảng và Nhà nước Cộng sản mới có được cuộc sống mở mày mở mặt hôm nay. Gắn bó bằng quá khứ cùng khổ. Gắn bó bằng hiện tại hào phóng lấy tiền thuế của dân chuyển thành đặc ân, đặc quyền, đặc lợi, thành bổng lộc, chức tước, hàm cấp ra ban phát cho con người công cụ. Chưa bao giờ lực lượng công cụ lại đông đúc, hùng hậu như hôm nay. Chưa bao giờ những con người công cụ bạo lực lại thăng quan tiến chức mau lẹ, lại có nhiều tướng tá được hưởng quá nhiều đặc ân, đặc quyền, đặc lợi như hôm nay. Và cũng chưa bao giờ những con người chỉ là công cụ bạo lực lại có vị thế lớn trong xã hội như hôm nay, lại lộng hành, chà đạp lên pháp luật, là nỗi bất an, đe dọa, khủng bố tinh thần, đe dọa mạng sống của người dân như hôm nay.
Những con người công cụ đó, phần cứng, phần con người sinh vật, con người thân xác được nuôi dưỡng bằng bổng lộc hậu hĩ thì phần mềm, phần con người xã hội lại được nuôi dưỡng bằng mớ lí luận đấu tranh giai cấp lệch lạc, bạo lực và tội ác.
Lí luận đấu tranh giai cấp trao cho đảng cộng sản sự độc tôn thống trị xã hội là kéo xã hội trở lại thời phong kiến bầy đàn tối tăm. Thời phong kiến vua tự cho mình là người được mệnh Trời trao cho việc cai trị, chăn dắt dân, được quyết định vận mệnh, quyết định sự sống còn của người dân, quyết định cả sự sống còn của đất nước. Người dân chỉ là bầy đàn, không có cá nhân, không có quyền con người, quyền công dân. Lí luận lệch lạc, sai trai về đấu tranh giai cấp trao cho đảng Cộng sản sứ mệnh lịch sử độc tôn thống trị xã hội, trao cho đảng Cộng sản quyền quyết định vận mệnh người dân, vận mệnh đất nước, coi người dân chỉ là bầy đàn, không được có những quyền con người, quyền công dân cơ bản như phần trên đã dẫn chứng.
Con người khác con vật ở trái tim và khối óc, ở tình yêu thương con người và trí tuệ sáng tạo. Chính tình yêu và trí tuệ sáng tạo là động lực thúc đẩy xã hội loài người phát triển. Nhưng con người công cụ bạo lực chuyên chính vô sản lại được nhồi nhét những điều sai trái, điên rồ rằng: đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, rằng giai cấp nông dân và giai cấp công nhân đói khổ là do giai cấp địa chủ và tư sản bóc lột. Giai cấp công nhân với bộ tham mưu là đảng Cộng sản là giai cấp độc tôn thống trị thế giới, là giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh tiêu diệt giai cấp bóc lột, giành lại cuộc sống, giành lại thế giới. Thay yêu thương bằng bạo lực, thay trí tuệ bằng cơ bắp là nội dung cốt lõi của học thuyết đấu tranh giai cấp bạo liệt. Chỉ có con vật mới dùng sức mạnh bạo lực thanh toán nhau để tồn tại, cá lớn nuốt cá bé. Học thuyết đấu tranh giai cấp đã kích thích, khuyến khích bản năng bạo lực ở phần con trong con người. Con người công cụ hung hãn, tàn bạo, mất tính người là vì thế.
Loài người đã bước vào nền văn minh mới, nền văn minh tin học. Nền văn minh tin học lại đưa loài người vào thời dân chủ hóa mạnh mẽ và triệt để. Chống lại xu thế dân chủ hóa, Nhà nước độc tài đảng trị đã quá lỗi thời và tội lỗi chỉ có thể tồn tại bằng bạo lực chống lại nhân dân. Nhà nước bạo lực sử dụng những con người công cụ sắt máu và cuồng tín thì việc tra tấn tinh thần, tra tấn thân thể người dân không phải chỉ diễn ra nhà giam âm u mà diễn ra hàng ngày ngay dưới ánh sáng mặt trời, ngay trên đường phố, ngay giữa quảng trường.  
P.Đ.T.

MẠNG LƯỚI XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ TRANH ĐẤU BẤT BẠO ĐỘNG

ABC (*)
Xin góp một tiếng nói để trình bày 2 suy nghĩ của cá nhân, một là hy vọng, một là nỗi lo.
- Một quan niệm chung về Xã hội Dân sự (XHDS) và tác động xã hội của nó.
- Sự thật của đấu tranh bất bạo động (BBĐ).

Quan niệm chung
Tôi không quan niệm Diễn đàn Xã hội Dân sự (DĐXHDS) này là đại diện duy nhất của XHDS VN. Tôi thích nghĩ đến từ “Mạng lưới XHDS” hơn, mang một ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là tiếng nói tự do của 90 triệu người VN và dành cho 90 triệu người VN. Nó là một tập hợp của mạng lưới các Blogger, của tất cả các báo mạng có định hướng Tự do Ngôn luận, chủ trương phản đối CSVN, phê phán CNXH và hướng đến Tự do, Dân chủ, Nhân quyền. Theo đó DĐXHDS của chúng ta đây là một thành viên (có cái tên khá gần gũi !).
Một quan niệm về sự liên kết rộng rãi như thế, cho phép chúng ta hình thành một cái nhìn tổng quát và xây dựng một niềm tin vững vàng hơn đối với tương lai Dân chủ của VN.
Một quan niệm như thế cũng có thể cho phép người Việt Nam vượt thoát khỏi một số định kiến, tạo khả năng dang tay đón nhận cả tuổi trẻ lẫn người già, Đón nhận những người bạn mới cả trong lẫn ngoài nước. Chào mừng những con người con VN phản tỉnh. Nâng đỡ những đảng viên CS đang mất phương hướng, đang rất giàu lòng nhiệt thành nhưng lại thật sự phẫn nộ đối với tổ chức của họ. Cũng như sẵn sàng chấp nhận những va chạm, những trao đổi bất đồng điệu, đón nhận bằng nụ cười anh em với cả những tờ báo đảng mang xu hướng tranh đấu đúng đắn, đang ngày đêm vạch trần sai trái của cả một guồng máy chính phủ. Quan niệm như thế sẽ phá vỡ sự co cụm, chia rẽ và sẽ làm nhạt dần những ranh giới, những khoảng cách đang còn âm ỉ tồn tại ngày nay.
Một môi trường Không còn sợ hãi và luôn sẵn sàng cho những Hành động ôn hòa của Bất tuân Dân sự, phải được chính tất cả chúng ta chung tay hình thành tại VN. Nếu thành công, nó chắc chắn sẽ tập hợp được đầy đủ sức mạnh vĩ đại của người VN, để công khai và trực diện chống lại sự đối nghịch từ một bọn cầm quyền bất lương và thối nát, dù cho chúng tự mệnh danh là gì, là ai. Và hiện tại, nó chắc chắn là kẻ thù đáng gờm, đáng phải hủy diệt nhất trong con mắt đầy những hằn học căm hờn của CSVN. Nhưng dù thế nào, họ sẽ không thể giết hết hay bỏ tù hết dân tộc VN này!
Đi từ Thư ngỏ, Kiến nghị đến Tuyên bố, Tuyên ngôn … và chắc chắc phải tiến đến Xuống đường, Biểu tình, Bãi công, Bãi thị … những diễn biến phải có của tranh đấu bất bạo động, là những bước đi tiên phong vững chắc, thúc đẩy toàn dân vượt qua sợ hãi. Chúng ta đã có những tấm gương tranh đấu BBĐ quyết liệt bằng phương pháp “Hiệp thông cầu nguyện” trong phạm vi một tôn giáo, nhưng chưa có được sự hiệp thông “cầu nguyện” của nhiều tôn giáo , đồng loạt tại nhiều nơi, hiệp thông dân sự … nhưng rồi sẽ có. Chúng ta đã có tranh đấu BBĐ bằng cách tuyệt thực trong tù của những người yêu nước, nhưng chưa có phong trào tuyệt thực bên ngoài nhà tù của tất cả những người yêu tự do. Chúng ta còn nhiều việc cần làm!
BBĐ, tuy nhìn qua thì chậm chạp ít tác dụng so với những hy vọng, những ước muốn, khát vọng cháy bỏng trong lòng tất cả chúng ta (nhất là người viết). Thế nhưng xin hãy nghĩ lại, bản chất thực sự BBĐ vẫn là tranh đấu để tạo ra thay đổi. Nó có đầy đủ những đặc trưng của tranh đấu là mất mát, thương tổn rất thực, có cả bị khủng bố, bị đàn áp, tù tội và có cả những hy sinh thầm lặng rất thực, thậm chí đến hy sinh tính mạng. Một con đường không hề nhẹ nhàng! Tất cả chỉ để giúp dân ta hiểu biết Tự do và Quyền lợi của mình, dám đứng lên cất một tiếng nói! XHDS chỉ sẽ đi đến đó, giúp mọi người cùng nhau vượt qua sợ hãi, và đứng lên bên nhau, đó đáng xem là một thành công vĩ đại ngày nay. Có được kết quả ấy, thì tiếp theo chuyện gì đến sẽ phải đến, nhưng dù thế nào, trước sức mạnh của một khối dân tộc đoàn kết, chung một mong ước một khát vọng, không thể có một ai, một thứ gì chống lại được. CSVN biết rất rõ sự thật ấy!
Xin hãy hợp tác và ủng hộ thúc đẩy, xin đừng dừng lại chỉ vì những nghi ngại nhỏ nhặt, hay vì những kỳ vọng quá cao, quá gấp.
Sự thật của tranh đấu BBĐ
Dù diễn ra trong âm thầm, đối với chuyện “tranh đấu” BBĐ này, cả “người tù nhân dân VN” cũng như “Cai ngục CSVN” đều biết rõ những “lý thuyết gia bất bạo động” cỡ bự“ như Gandhi, Martin Luther King, Mandela, Lech Wałęsa, Gene Sharp v.v .. Cũng như cùng lúc, trong lòng của hai bên cũng đều có những đối pháp, những bước đi, những phương án trù tính trước, cả những“dự cảm” khá rõ về một viễn cảnh “phá ngục” vĩ đại, nếu BBĐ không thàng công, nếu ý đồ “chuyển đổi ôn hòa từ độc tài toàn trị sang Dân chủ đa nguyên” thất bại (bị đàn áp hay bị biến chất, biến dạng … cải lương).
Trong “lý thuyết vượt ngục” (khác với phá ngục) khả thi và “cập nhật” nhất có lẽ là của GS Gene Sharp (Gene Sharp – Giáo sư Khoa học chính trị tại Đại học Massachusetts 1972. – Albert Einstein , người ủng hộ nhiệt thành BBĐ- đã từng rất ủng hộ BBĐ của Gene Sharp). Với tôi, để hướng đến sự thức tỉnh, “Bất bạo động” LÀ MỘT TRONG NHỮNG phương sách khôn ngoan, hợp lý nhất để chống độc tài toàn trị. Tôi thích sự thức tỉnh rất dai dẳng hiệu quả, mà nó mang lại cho đông đảo người dân. (Đọc trên mạng, ta dễ dàng tìm thấy những phê phán nặng lời với BBĐ, nhưng xin hãy nghiên cứu và nhận định thật rõ tình hình, xin đừng vội phán xét những ai ủng hộ “Bất bạo động” như là những người dùng cụm từ ấy để ve vuốt lòng kiêu hãnh, nó cho y cái cảm giác là người khôn ngoan tỉnh táo, vị tha, văn minh… rằng y tranh đấu hợp “thời thượng”…, hay khiến y nghĩ rằng ta đây, một người sáng suốt, biết đứng lên trên cuộc đời để nhìn xuống và hướng dẫn mọi người … rằng đó là thứ thông minh vặt đầy vị kỷ, bởi sự kiêu ngạo cá nhân v.v.. ? – Với lòng can đảm và những hy sinh có thực, lối suy nghĩ gán ghép ấy là một sự bất công!).
Trở lại thực tế đáng lo ngại hơn, muốn tuân thủ tôn chỉ BBĐ một cách hiệu quà và muốn nó có tác động, có ảnh hưởng lan rộng, tất cả chúng ta cần phải chung bước, phải sáng suốt và nhất là PHẢI HÀNH ĐỘNG MẠNH MẼ , GẤP RÚT HƠN NỮA. Dù là kêu gọi, lên án, phản đối, đình công, biểu tình v.v.. , chúng ta cũng nên xác định rằng, phải cùng nhau “đua tốc độ” để sao cho BBĐ sẽ về đích trước bạo động, trước khi những luồng suy nghĩ bế tắc, tuyệt vọng của những anh Vươn, anh Viết…và rất nhiều bà con dân oan ở khắp 64 tỉnh thành chuyển thành những hành động tuyệt vọng.
Phải NHANH, MẠNH VÀ HIỆU QUẢ! Phải tạo ra những kết quả, những thay đổi thấy rõ được. Và những kết quả ấy bắt buộc phải nằm trong TẦM VỚI của tất cả mọi người dân Việt Nam, đặc biệt những người đang trực tiếp hứng chịu bất công, áp chế và bạo lực…do đảng CSVN gây nên. Đó là một con đường rất khó nhọc, ít hy vọng thành công nếu không có một tập hợp đông đảo những con người tâm huyết và đồng lòng.
Vì sao thì cũng đã có một nỗi lo như thế. Vì cá nhân tôi nhận thấy, BBĐ thành công hay thất bại, không chỉ tùy thuộc vào những mong muốn tốt đẹp từ một nhóm người, mà trên thực tế, nó còn tùy thuộc vào các đối tượng của phong trào BBĐ, vào diễn biến phức tạp trong phản ứng của đôi bên. BBĐ có những đối tượng chính sau:
+ Đối tượng đảng CSVN – Không nên chung chung, đối tượng của BBĐ không chỉ một vài con người lãnh đạo u mê, giả dối, lì lợm xơ cứng não trạng… giỏi đội lốt CS, giỏi lợi dụng cái XHCN mờ mịt v.v.., mà đối tượng chính, chủ yếu là những loại “tư sản đỏ” bậc trung, nằm trong bóng tối, những kẻ cướp thật sự, những tên vô lại chỉ rắp tâm âm mưu cướp đoạt, thôn tính (và thậm chí cả bán nước). Chúng chính là những kẻ thừa hành hoang dã nhất của CSVN – đại diện là bọn như anh em chủ tịch huyện Tiên Lãng cùng đồng bọn. Chúng ngu dốt hung ác, cuồng bạo, lòng tham như thùng không đáy. Một tập hợp anh em CT Tiên lãng và nòng súng di động kiểu đại tá Đại ca Ca lỗ mãng, vô học, không có điều ác nào chúng không dám làm, chính là trở ngại lớn nhất của BBĐ. Chính lũ người ấy sẽ luôn là những kẽ đem xăng chữa cháy, tạo mối nguy để BBĐ bùng phát thành bạo động ngoài tầm kiểm soát của bất cứ ai. BBĐ liệu có thể tác động đến bọn ấy hay không, là một câu hỏi vẫn để ngỏ.
+ Đối tượng là những người dân oan đang phẫn nộ – Nạn nhân của lũ ác ôn CSVN nguy hiểm nói trên, phía bên kia là tập hợp các đối tượng đông nhất của BBĐ. Những người dân VN đang phẫn nộ, chịu đủ mọi loại oan ức, bạo lực, bất công, thậm chí tuyệt vọng. Hãy nhìn, rất đông người dân VN đang trong cảnh đói nghèo, thiếu thốn sẽ không cần biết Dân chủ là gì, Đa đảng Đa nguyên là thế nào, Tự do ngôn luận ích gì v.v.. , và dĩ nhiên họ cũng chẳng cần biết VN đã là thành viên của Ủy ban Nhân quyền của LHQ, thậm chí họ chẳng cần biết Quốc Hội đang họp, họp khóa thứ mấy, họp để làm gì. Nhưng họ biết rất rõ người lãnh đạo xã huyện và gia tộc những người ấy, biết rõ thế nào là bất công và họ chỉ cần công bằn. Và họ sẵn sàng là những thùng thuốc nổ của bạo lực phản kháng . Những người như thế, họ sẽ hiều thế nào và chờ đợi những gì đối với đấu tranh BBĐ, và họ sẽ có thái độ ra sao, đây cũng là một câu hỏi mà khó có một sự đoan chắc nào nếu muốn trả lời …
Trong khi chúng ta tìm lối thoát cho dân tộc qua BBĐ, nên chăng hãy lưu ý rằng, quá trình ấy cũng có mặt “tích cực thảm thương” của nó. Nếu không nhanh chóng có những kết quả khả quan, tiến bộ, nó có thể làm cho những người đang chờ đợi trong bế tắc và tuyệt vọng sẽ…lập tức lâm vào bế tắc toàn diện, rồi tuyệt vọng hẳn. Điều ấy tất nhiên thúc đẩy họ thêm phần quyết tâm, dấn thân mạnh mẽ và cương quyết hơn vào con đường ngắn nhất mà họ tự chọn lấy – “ Tự xử” ! Chỉ nỗi ngán ngẫm trong tranh cãi không thôi, cũng đủ đẩy một người bình thường vào những quyết định liều lĩnh. Huống gì đối với những người mà họ và cả gia đình đang trực tiếp đối diện với thực tế đầy những bế tắc, oan ức và phẫn nộ, khi mà trong họ chỉ còn mỗi con đường “một sống, một chết” với đối phương.
Thật đáng sợ nếu như mọi chuyện sẽ vẫn tiếp tục với cái logic khắc nghiệt của chính nó, mà không cần hỏi chúng ta nghĩ gì. Khi lý lẽ đã bất lực, máu và nước mắt sẽ trình bày ý kiến của chúng ! Không thể làm ra vẻ ngạc nhiên, hay buộc tội những gì đã bị buộc phải xảy ra. Đáng sợ hơn, trong khi ta còn bận luận bàn , thì CSVN tỉnh táo và thực tế hơn, họ chỉ im lặng “diễn tập đàn áp“ . Phải chăng họ biết sự nguy hiểm của các sự kiện “Vươn, Việt, …” và đề phòng những con người như thế rất cản thận, phải chăng vì đó là trận chiến thật sự giữa Sống và Chết?. Kinh nghiệm của chính họ ủng hộ cái sự thật cay nghiệt ấy!
Hai đối tượng trên là những trở ngại nặng nề nhất, là nguy cơ tiềm ẩn lớn nhất của tranh đấu BBĐ tại VN .
Muốn tránh một viễn cảnh thãm khốc nhiều oán thù và máu lửa, “ Mạng lưới XHDS” phải hợp tác rộng khắp hơn, phải nhanh chóng hơn, quyết liệt hơn. Không chấp nhận bạo lực, đổ máu nhưng chắc chắn phải ưu tiên tranh đấu bằng tất cả tình thương và trách nhiệm, để dập tắt trước hết các nguy cơ chạm đến ngòi nổ ấy (tức là ưu tiên đấu tranh cho quyền sở hữu ruộng đất chính đáng, tức là đạp đổ câu đùa dai của thằng cướp cạn “sở hữu toàn dân”, tức là xóa bỏ Hiến pháp phản động…hiện vẫn đang làm. Đồng thời giới luật sư có tâm huyết phải tận lực tranh đấu để mang những bọn “chủ tịch Tiên lãng “ ra trước pháp luật, phải đạt đến những án tử hình đủ sức cảnh cáo, răn đe đối với bọn cuồng cẩu ấy ! ).
Nếu mục tiêu này không thành công, lập tức sẽ có những “tiếng nổ” lớn, không ai có thể lường trước được sẽ có bao nhiếu anh Việt, anh Vươn sắp xuất hiện, một câu hỏi mà không một ai trong chúng ta muốn trả lời. Mặt khác, nếu thành công, tiếp đến sẽ phải hy sinh sự ổn định, mà vận động toàn dân Bất tuân Dân Sự đối với dù là Cương lĩnh đảng hay Nghị quyết hay các thứ luật lệ bất công của CSVN v.v.. Thúc đầy Biểu tình ôn hòa , ủng hộ Đình công, ủng hộ Bãi công,…cần có những hoạt động làm đình trệ mọi hoạt động kinh tế mờ ám để chặn lại những sự giao thương xảo quyệt, phải hy sinh cả những nguồn vốn đầu tư nước ngoài, quyết ngăn chặn dòng lưu chuyển của các nguồn tài chính tham nhũng ,phi nghĩa , vô đạo.
Cần liên tục chủ động tạo ra áp lực xã hội trong mọi mặt để buộc sự thay đổi phải xuất hiện, dù cho bọn cầm quyền CSVN có muốn hay không  – Vì nếu không như thế, không bao giờ CSVN biết lắng nghe. Và nếu không đẩy mạnh tranh đấu như thế, tất nhiên con đường chuyển đổi từ “độc tài toàn trị sang dân chủ” sẽ còn lâu dài  (có khi còn trễ hơn XHCN của Phú Trọng !)
XHDS phải dùng sức sống của chính mình, buộc nhà cầm quyền CSVN hiểu rõ Dân là chủ nhân thật sự của đất nước, bao gồm cả chính tổ chức của họ. Và buộc họ phải thay đổi nếu họ muốn tồn tại. Tóm lại, muốn XHDS có sức sống mạnh mẽ, và tranh đấu BBĐ thành công, tất cả phải chung lòng!
Rất cám ơn diễn đàn đã tạo cơ hội cho mọi người được chia xẻ những vấn đề chung của đất nước, của dân tộc.
—-
* Bài viết trên là một phản hồi của độc giả có biệt danh là ABC, Diễn đàn XHDS biên tập chút ít và đặt tựa.

Sự đe dọa của đập Don Sahong ở Lào

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-11-24
Con đập Xayaburi đã chắn ngang dòng chính Mekong (khởi công ngày 07/11/2012)
Con đập Xayaburi đã chắn ngang dòng chính Mekong (khởi công ngày 07/11/2012)
Courtesy ngothevinh
Nghe bài này
Giữa lúc người dân miền Trung đang gánh nhận thảm họa của hệ thống thủy điện vừa và nhỏ, thì một mối nguy khác của những đập thủy điện lớn bên nước Lào láng giềng đang đe dọa cuộc sống của người dân đồng bằng sông Cửu Long.
Đã có những hoạt động phản đối các đập này từ các tổ chức phi chính phủ Campuchia và Việt Nam. Kỹ sư Phạm Phan Long, một người tham gia nhiều các dự án hạ tầng tại California, đồng thời là thành viên của một tổ chức phi chính phủ đấu tranh cho môi trường là Việt Ecology, theo dõi rất sát các diễn biến xung quanh dự án con đập Don Sahong. Ông dành cho Kính Hòa cuộc nói chuyện về vấn đề này.
Cái chết của Đồng bằng sông Cửu Long
Ký sư Phạm Phan Long: Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu một mối nguy từ từ, ngấm ngầm, giết chết quyền lợi của nông dân, ngư dân của vựa lúa này của cả nước và giết chết cả miền duyên hải Nam Việt Nam. Bắt đầu là các đập đại qui mô bên Trung quốc. Những đập này tương đối xa và ảnh hưởng khoảng 15% lượng nước và một khối lượng lớn phù sa. Nhưng nó không cận kề bằng các đập bên Lào, họ đã bất chấp sự phản đối của dư luận mà xây đập Xayaburi và nay đang chuẩn bị xây thêm đập Don Sahong trên dòng chính, dưới chân thác Khone. Vì vậy chúng tôi đã viết một bức thư ngõ đến Thủ tướng Lào đề nghị dừng việc xây dựng để cùng nhau thương lượng về những tác động môi trường xuyên biên giới của nó.
Đầu tiên là làm giảm sản lượng ngư nghiệp bên Lào, rồi nó tàn phá vùng đất ngập nước Stungtreng bên Campuchia, mà xa hơn nữa là cá từ đồng bằng sông Cửu Long không thể di cư lên thượng nguồn để sinh sản vì dòng sông đã bị chặn. Cái dòng chính nơi mà họ chặn làm đập chính là nơi cá lên ngược thượng nguồn để sinh tồn trong mùa khô. Tôi ví chuyện chặn dòng đó như là một bàn tay bị chặt mất một ngón, nên người nông dân và ngư dân không thể sinh nhai được nữa.
Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu một mối nguy từ từ, ngấm ngầm, giết chết quyền lợi của nông dân, ngư dân của vựa lúa này của cả nước và giết chết cả miền duyên hải Nam Việt Nam
Kỹ sư Phạm Phan Long
Kính Hòa: Ngoài lá thư của tổ chức VietEcology Foundation hình như còn có sự phản ứng của các tổ chức phi chính phủ Campuchia?
ngang dòng chính Mekong ngay trước khi đổ vào vùng Thác Khone, sẽ làm giảm dòng chảy, gây nguy hại cho khu bảo tồn Ramsar Siphadone, cho mùa màng và ngư nghiệp dưới nguồn.
Đập Don Sahong sẽ chặn dòng chính Mekong ngay trước khi đổ vào vùng Thác Khone, sẽ làm giảm dòng chảy, gây nguy hại cho khu bảo tồn Ramsar Siphadone, cho mùa màng và ngư nghiệp dưới nguồn.
Kỹ sư Phạm Phan Long: Tôi thấy tổ chức NGOforum phản đối khá gay gắt vì họ biết là con đập này sẽ làm giảm nguồn cung cấp đạm cho dân chúng của họ.
Kính Hòa: Thế còn phản ứng từ NGO Việt nam cũng như chính phủ Việt nam?
Ký sư Phạm Phan Long: Tôi thấy có tổ chức Vietnam River Network là một tổ chức có tổ chức chặt chẽ gồm những người có kiến thức và kinh nghiệm, rồi tổ chức Ten Natures cũng tổ chức những buổi tọa đàm để cảnh báo về những nguy hại cho người dân Việt.
Kính Hòa: Có áp lực nào từ những nhà tài trợ, các tổ chức tài chính không ?
Kỹ sư Phạm Phan Long: Tôi biết là những quốc gia tài trợ cho vùng này cũng đã gửi thư đề nghị chính phủ Lào không những ngưng xây đập Don Sahong mà cả Xayaburi nữa, nhưng hình như là họ bất chấp.
Kính Hòa: Họ sẽ lấy nguồn vốn ở đâu để xây hai con đập này?
Nếu chính phủ VN ý thức được sự nguy hiểm cho mạng sống cả chục triệu người dân VN, ý thức rằng môi sinh của Tràm Chim...thì đây chính là lúc VN nên đứng ra triệu tập hội nghị thượng đỉnh Mekong để khuyến cáo các nước bạn về sự bền vững của môi sinh, về an ninh lương thực
Kỹ sư Phạm Phan Long
...Nếu chính phủ VN ý thức được sự nguy hiểm cho mạng sống cả chục triệu người dân VN, ý thức rằng môi sinh của Tràm Chim...thì đây chính là lúc Việt Nam nên đứng ra triệu tập hội nghị thượng đỉnh Mekong để khuyến cáo các nước bạn về sự bền vững của môi sinh, về an ninh lương thực
Kỹ sư Phạm Phan Long: Công ty chủ thầu là Mega First của Mã Lai, và dường như nguồn vốn là tư nhân và độc lập.
Kính Hòa: Có một vị tiến sĩ cho rằng con đập này chẳng ảnh hưởng gì cả đến môi trường..
Kỹ sư Phạm Phan Long: Trong một buổi họp báo gần đây của chính phủ Lào và công ty Mega First, ông Peter Hawkins, chuyên gia môi sinh của Mega First rất tự tin gạt bỏ mọi quan ngại của các khoa học gia thế giới, ông cho đó là chuyện huyền thoại. Nhưng khi ông bị ông chủ tịch ủy ban Mekong quốc gia của Campuchia chất vấn ai sẽ chịu trách nhiệm về chuyện mất nguồn sống của ngư dân Campuchia thì ông bảo rằng chuyện ấy nếu có là trách nhiệm của chính phủ Lào.
Kính Hòa: Chúng ta đều biết Lào là một quốc gia rất nghèo, dường như các công trình thủy điện này cũng là hy vọng của họ, vậy nếu nó làm hại các quốc gia xung quanh thì cộng đồng quốc tế cần có giải pháp cho họ chăng?
Kỹ sư Phạm Phan Long: Cuộc đấu tranh với nghèo đói là trách nhiệm của chính phủ Lào. Cho đến giờ đã khai thác 2000 MW điện trên dòng Mekong mà người dân Lào vẫn còn đói khổ, nếu không muốn nói là đói khổ nhất trong khu vực. Vậy thì các bạn nghĩ xem với 200MW nữa cũng trên dòng sông này thì liệu sự đói khổ có giảm không? Tôi cho là không. Đây là món lợi cho những người chủ chứ người dân không có gì. Cứ nhìn kết quả của 2000 MW trước đây, người dân bị mất những nguồn lợi ngư nghiệp, mất đi di sản thiên nhiên, phải dời đi sống chổ khác, không còn sống bằng nghề truyền thống của họ nữa.
Bây giờ nếu chính phủ Việt Nam ý thức được sự nguy hiểm cho mạng sống cả chục triệu người dân Việt Nam, ý thức rằng môi sinh của Tràm Chim, Đồng Tháp, Cà Mau là di sản bất khả xâm phạm của dân tộc, thì đây chính là lúc Việt Nam nên đứng ra triệu tập hội nghị thượng đỉnh Mekong để khuyến cáo các nước bạn về sự bền vững của môi sinh, về an ninh lương thực, về thu nhập của hàng chục triệu dân của cả ba nước.

Về việc thành lập Học Viện Khổng Tử ở Việt Nam

diplomatTác giả: Huỳnh Thục Vy
English Translation by Hung Do
Published by The Diplomat
“Tell the World”
 (Defend the Defenders)
Gần đây, một trong những đề tài gây tranh cãi sôi nổi trong giới trí thức Việt Nam là việc thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, trong cuộc gặp với người đồng nhiệm Trung Quốc – Lý Khắc Cường, đã công bố quyết định cho phép thành lập Học viện Khổng Tử đầu tiên ở Việt Nam đặt tại Đại học Hà Nội.
Như thường lệ, trong tình cảm mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc, bất cứ động thái nào của chính quyền Việt Nam liên quan đến mối quan hệ với người đàn anh bá đạo Trung Quốc đều gây nên những lo lắng và sự phản đối của người dân Việt Nam. Nhưng tôi e rằng trong thực trạng bất công của mối quan hệ Việt Trung hiện nay, sự lo lắng nhắm vào việc thành lập học viện Khổng Tử như là sự bá quyền về văn hoá cho thấy tình trạng dư luận Việt Nam bị đánh lạc hướng.
Học viện Khổng Tử là một cơ sở giáo dục nằm dưới sự điều hành của Nhà nước cộng sản Trung Quốc, hoạt động nhằm các mục tiêu chính sau: truyền bá ngôn ngữ Trung Hoa; phổ biến văn hoá Khổng Nho; và xúc tiến các chương trình hợp tác trao đổi văn hoá giữa Trung Quốc và các quốc gia khác. Ba mục tiêu này chỉ nằm trong một mục tiêu lớn hơn và quan trong hơn nhiều, đó là sự triển khai “quyền lực mềm” của Trung Quốc khắp thế giới. Nếu học viện này được đưa vào Việt Nam nhằm mục tiêu triển khai quyền lực mềm, điều này không đáng lo ngại bằng việc Trung Quốc áp đặt quyền lực cứng lên đất nước Việt Nam thông qua nhà cầm quyền Việt Nam từ mấy chục năm qua,  chưa kể những viện trợ cho phe cộng sản thời chiến tranh. Vấn đề lớn hơn phải cân nhắc là quyền lực mềm đó có bản chất thế nào, phương pháp thực hiện quyền lực mềm đó ra sao, tính công bằng trong mối quan hệ song phương có đảm bảo không và quyền lực mềm đó có tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp đặt quyền lực cứng hay không…
Việc học một ngoại ngữ, trong trường hợp này là tiếng Trung, đối với sinh viên-thanh niên Việt Nam, không những không đáng lo mà còn đáng khuyến khích, việc học ngôn ngữ và mở rộng kiến thức về một quốc gia khác luôn cần thiếtThực chất, với con số hàng chục ngàn người Trung Quốc đang có mặt tại Việt Nam và với các mối quan hệ toàn diện giữa hai nước Việt Trung do hai nhà nước cộng sản thực hiện từ mấy chục năm qua, việc biết tiếng Trung mang lại cơ hội việc làm đáng mong muốn cho người Việt Nam. Điều đó tạo nên động lực tự nhiên của việc học ngôn ngữ này. Nếu không có học viện Khổng tử dạy thì người ta sẽ đi học ở các trung tâm ngoại ngữ khác.
Việc thâm nhiễm văn hoá Khổng Nho, cũng không đáng bàn, vì Việt Nam là một quốc gia với nền văn hoá truyền thống chủ đạo là văn hoá Khổng Nho, việc tiếp tục  truyền bá văn hoá này hay không, không mang nhiều ý nghĩa. Tất nhiên, những hệ luỵ tồi tệ mà văn hoá Khổng nho đã để lại trên đất nước này quá rõ ràng. Nhưng điều cần suy ngẫm và hành động ngay là làm thế nào để đưa những tư tưởng và văn hoá mang tính khai sáng và tự do của phương Tây vào Việt Nam, để tạo nên sự đột phá về tư duy, để tạo điều kiện tốt cho công cuộc chuyển đổi dân chủ như cách phương Tây hoá  mà người Nhật đã làm; chứ không phải là ngồi  lo lắng về việc người ta đang rót thêm nước Khổng nho vào cái cốc vốn đã đầy thứ nước nước này.
Thứ ba, là về việc thúc đẩy các chương trình hợp tác văn hoá giữa hai nước. Với sự phụ thuộc chính trị của đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam đối với đảng và Nhà nước cộng sản Trung Quốc, tôi cho rằng, không có học viện Khổng Tử thì chương trình “hợp tác văn hoá” này vẫn được thực hiện từ lâu, nghiêm trọng hơn sự hợp tác văn hoá này chủ yếu diễn ra theo một chiều nghiêng về phía Trung Quốc. Và  hiện tại không chỉ  có sự hợp tác văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà sự thể đã được đẩy tới mức đáng lo ngại gấp trăm lần hơn. Đó là sự gắn kết và phụ thuộc cả về chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam đối với Trung Quốc. Trong khi phương Tây không có gì để lo lắng về quyền lực mềm của Trung Quốc vì thực trạng nội bộ thảm hại của  đất nước to lớn này lẫn sự hung hăng của họ đã vang dội khắp năm châu. Thì nhà cầm quyền Việt Nam lại hèn nhát, bỏ ngõ cánh cửa quốc gia cho Trung Quốc muốn dùng quyền lực nào cũng được, chứ không phải chỉ mỗi quyền lực mềm. Một học viện Khổng tử, thiết nghĩ, cũng chỉ là thêm một sự kiện nhỏ vào một bối cảnh lớn đã trở nên trầm trọng từ lâu.
Có thể xem qua một vài ví dụ điển hình về sự bá quyền toàn diện mà Trung Quốc đã áp đặt lên Việt Nam dưới sự trợ giúp ngoan ngoãn của chính quyền Việt Nam. Trong thời chiến, Trung Quốc đã rông tay trao cho chính quyền cộng sản miền Bắc Việt Nam những khoản viện trợ khổng lồ để đánh miền Nam. Hiện nay, Trung Quốc đang tiếp tục viện trợ cho chính quyền Việt Nam những khoản tiền không thể xác định, nhằm giữ cho Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc và nhằm tiếp sức cho chính quyền Việt Nam có đủ lực để giữ nguyên hiện trạng độc tài.  Gần 300 ngàn héc ta rừng đầu nguồn, trong đó có hơn hai trăm ngàn ha thuộc mười tỉnh biên giới xung yếu đã được giao cho người Trung Quốc, Hồng Kông thuê với thời hạn 50 năm. Hơn 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… của Việt Nam, đều do Trung Quốc đảm nhiệm theo hình thức tổng thầu EPC. Cùng với các hợp đồng tổng thầu này là việc hàng chục nghìn người lao động phổ thông Trung Quốc sang Việt Nam làm việc, lấy mất cơ hội việc của người lao động Việt Nam trên chính đất nước mình. Việt Nam trở thành nơi tiêu thụ của máy móc, công nghệ lỗi thời, hàng hoá kém chất lượng và hoá chất độc hại chết người từ Trung Quốc. Quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hiện đang nằm trong sự kiểm soát thô bạo của Trung Quốc. Các văn hoá phẩm Trung Quốc như tiểu thuyết, phim ảnh, tài liệu chính trị- văn hoá tràn ngập thị trường Việt Nam…
Nếu sự hiện diện của  học viện Khổng Tử quan trọng và ảnh hướng lớn đến quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc  ở Việt Nam thì chắc chắc từ nhiều năm qua hàng chục học viên Khổng tử đã được thành lập tại Việt Nam mà không có sự phản đối nào từ giới trí thức hay người dân thường có thể ngăn cản được.  Một nhà cầm quyền phụ thuộc ngoại bang đến độ ngư dân của mình bị tàu Trung Quốc bắn chết cũng không dám có hành động phản đối và có hành động ngăn chặn thực tế, thì liệu họ có dám cãi lời khi việc thành lập học viện này thực sự quan trọng đối với người đàn anh này?
Vì thế, thiễn nghĩ, sự kiện thành lập học viện Khổng Tử gần đây chỉ nhằm đánh lạc hướng dư luận khỏi những sự kiện quan trọng hơn như: Quốc hội Việt Nam sắp thông qua một bản Hiến pháp phản động, không những không pháp chế hoá các quyền tự do và nhân quyền phổ quát mà còn cố gắng xâm phạm các quyền này; nhiều trẻ sơ sinh đột tử do bị tiêm vaccine kém chất lượng dẫn đến sự phản kháng của người dân kêu gọi Bộ trưởng y tế phải từ chức; tình trạng chính quyền độc tài bảo trợ cho các chủ dự án cướp đất của nông dân gây nên làn sóng phẫn nộ khắp cả nước; và chế độ công an trị trao quyền lực cho lực lượng công an lộng hành, đánh chết nhiều người dân vô tội… Chính quyền Việt Nam trước nay vẫn là bậc thầy trong việc định hướng dư luận theo hướng có lợi cho họ, mà học viện Khổng Tử chỉ là một trong những trường hợp như thế.
Blogger Huỳnh Thục Vy, 28 tuổi, là con gái của nhà văn bất đồng chính kiến Huỳnh Ngọc Tuấn. Các em của cô cũng là các blogger viết và phổ biến các bài viết đối lập với quan điểm của chính quyền Việt Nam. Vì vậy cô đã trở thành đối tượng bị sách nhiễu và trừng phạt thường xuyên
* Bài viết thể hiện quan điểm, ý kiến của riêng tác giả, không nhất thiết là của Defend the Defender.

Việt Nam đội sổ Đông Nam Á về tự do ngôn luận

Danlambao - Dưới đây là bản dịch bài viết của nhà báo Đoan Trang, “The Laws of State Impunity”, kỷ niệm “Ngày Quốc tế chấm dứt các tội ác chống tự do ngôn luận” lần thứ ba, 23/11/2013. Vào ngày này, năm nay, Liên minh Báo chí Đông Nam Á (SEAPA) đã tổ chức một buổi lễ kỷ niệm lớn và công bố báo cáo của họ về tình trạng mất tự do ngôn luận ở Đông Nam Á. Theo báo cáo, Việt Nam và Philippines đứng đầu trong danh sách quốc gia nơi quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm. 
Sự khác biệt giữa hai nước cùng “đội sổ” này, như báo cáo chỉ ra, là ở chỗ: Tại Philippines, nghề báo là nghề nguy hiểm, chết chóc, do sự lộng hành của xã hội đen, do sự tồn tại của “văn hóa súng” và sự yếu kém của hệ thống hành pháp. Còn tại Việt Nam, tự do ngôn luận bị chà đạp với thủ phạm chính là... Nhà nước.
________________________________________

Nhà nước lợi dùng pháp luật để chống tự do ngôn luận

Phạm Đoan Trang/Người dịch Phạm Đức Khiêm - Viết blog đã thế chỗ viết báo để trở thành nghề nguy hiểm nhất ở Việt Nam trong thời đại Internet. 
“Quả thực là nguy hiểm. Nhưng nó không phải là một nghề, bởi vì blogger chúng tôi chưa bao giờ được trả tiền cho những gì chúng tôi viết cả”, J., một blogger trẻ tuổi ở Hà Nội, nói. Là quản trị viên của một diễn đàn trực tuyến lớn chuyên về các vấn đề chính trị và xã hội, J. thừa hiểu những rủi ro mà những blogger như anh phải đối mặt hàng ngày: tin tặc, bài viết hăm dọa của các dư luận viên được trả tiền bởi chính phủ, và, tệ hơn cả, là khi công an phát hiện ra họ là các blogger “chống chính quyền”. 
“Blogger không được trả lương như nhà báo”, J, nói, “nhưng chúng tôi làm những việc như truyền thông chính thống làm, hay chính xác hơn, những gì truyền thông chính thống không làm được, đó là: vạch trần những sự thật mà chính quyền không muốn công chúng biết. Làm việc này, chúng tôi đối mặt với sự sách nhiễu của cảnh sát, bị giam giữ và cầm tù”. 
J. không nói quá. Theo đánh giá vào tháng 9-2013 của tổ chức International Society for Human Rights (ISHR), ít nhất 263 công dân Việt Nam, bao gồm cả blogger, đã bị tống giam từ năm 2005 bởi các cáo cuộc “xâm phạm an ninh quốc gia” và “vi phạm trật tự quản lý hành chính”. 
Trong số những người bị bắt này, 68 người bị truy tố theo Điều 88 Bộ luật Hình sự với hành vi “tuyên truyền chống nhà nước” và 40 người bị truy tố theo Điều 258 với cáo buộc “lạm dụng các quyền tự do dân chủ, xâm hại lợi ích nhà nước”. 
Đằng sau những con số này là những người dám nói lên tiếng nói của mình. Trên thực tế, blogger chính trị ở Việt Nam đã trở thành những nhân vật quen thuộc trên truyền thông chính thống vì họ đưa tin về việc bắt bớ hoặc xét xử những người mà trước đó ở trong bóng tối (không ai biết) nhưng bây giờ thì bị xử theo Điều 88 hoặc 258. Những điều luật này tỏ ra là công cụ đe dọa hữu hiệu để chính quyền bịt miệng những tiếng nói bất đồng từ công chúng. 


“Cái còng”

Các blogger ví von một cách mia mai rằng Điều 88 như một chiếc còng, vì số 8 trông giống như thứ công cụ hỗ trợ mà công an sử dụng. Cụ thể là, điều luật này quy định những ai làm ra, lưu trữ hoặc phổ biến thông tin, kể cả “tài liệu và/hoặc văn hóa phẩm”, chống chính quyền sẽ bị kết án từ 3 đến 12 năm tù. 
Tuy nhiên, điều luật này không đưa ra định nghĩa rõ ràng về những nội dung có thể bị cho là “chống chính quyền”. Hơn nữa, thẩm quyền giải thích pháp luật ở Việt Nam nằm ở nhiều cơ quan khác nhau, từ cơ quan an ninh, cơ quan điều tra, đến viện kiểm sát, tòa án, hay thậm chí là các bộ ngành, mặc dù theo pháp luật Việt Nam, chỉ có Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền này. 
Trước khi có Điều 88, đã từng tồn tại Điều 82 của Bộ luật Hình sự năm 1985 vốn có tính trấn áp như bất kỳ bộ luật hình sự kiểu Xô Viết nào. Điều 82 nhắm đến việc trừng phạt hành vi “tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội”, với khung hình phạt nặng nề tương tự, từ 3 đến 12 năm tù. Không có thống kê công khai nào về số người bị giam giữ và cáo buộc theo Điều 82. 
Vào năm 1999, Bộ luật Hình sự mới được ban hành đã chuyển đổi Điều 82 thành Điều 88, thay thế từ “chủ nghĩa xã hội” bằng từ “chính quyền”. Giờ đây điều luật này sử dụng ngôn ngữ ít trừu tượng hơn nhưng không có nghĩa là ít mơ hồ và ít chung chung hơn. 
Không chỉ giới hạn trong những hoạt động có tính lật đổ một cách rõ ràng, Điều 88 đã và đang được sử dụng để bịt miệng những tiếng nói đòi hỏi chính quyền trong sạch hơn, trách nhiệm hơn – những điều mà nếu chính quyền lưu ý thì thực ra có thể giúp chính quyền mạnh hơn. 

Giải thích khái niệm “chính quyền”

Một trong những người tù nổi tiếng bị tống giam theo Điều 88 là Cù Huy Hà Vũ, tiến sĩ luật và là con trai của một đồng minh thân cận của nhà lập quốc Hồ Chí Minh. Vào năm 2009, Cù Huy Hà Vũ nộp đơn kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì đã khởi động một dự án khai mỏ lớn có thể gây hại cho môi trường. Ở các nước khác, một đơn kiện như thế có lẽ là bình thường, nhưng nó lại được coi là một sự kiện gây sốc trong lịch sử Việt Nam. 
Vũ còn gửi nhiều bài viết và trả lời phỏng vấn các hãng truyền thông nước ngoài, trong đó ông thẳng thắn chỉ trích Đảng Cộng sản cầm quyền và kêu gọi xây dựng một nền dân chủ đa đảng cho Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do, Vũ nói: “Hiện nay ở Việt Nam người ta sử dụng ngân sách vô tội vạ và rất nhiều tiền từ ngân sách nhà nước chi vào những việc thậm chí có thể gọi là mafia.... Để có được chế tài đối với những kẻ cướp ngày... thì cách duy nhất là phải có chế độ đa đảng tại Việt Nam”. 
Tại một trong những bài viết đăng trên mạng Boxitvn, Vũ vận động cho thể chế tam quyền phân lập, chỉ trích cái mà ông gọi là chính phủ, tòa án và quốc hội “đồng lòng hại dân”. 
Năm 2010, Cù Huy Hà Vũ bị bắt và bị truy tố theo Điều 88. Ông sau đó bị mang ra xét xử tại một phiên tòa gồm toàn các thẩm phán là đảng viên cộng sản, điều đó càng củng cố lập luận của ông là dưới một hệ thống như thế thì ngành tư pháp không thể vô tư. Năm 2011, Vũ bị kết án 7 năm tù giam. 
Phiên tòa Cù Huy Hà Vũ gửi một thông điệp mạnh mẽ rằng, dưới hệ thống pháp luật Việt Nam, đảng Cộng sản và các đảng viên cao cấp của nó như Thủ tướng là bất khả xâm phạm, và được miễn trừ trách nhiệm pháp lý. Quan trọng hơn có lẽ là, bản án này đã làm rõ rằng những hành vi như vậy sẽ được giải thích một cách hợp pháp là “tuyên truyền chống chính quyền”. 
Kết quả này là có thể dự đoán được trong một chính quyền độc đảng, và các blogger có lẽ cũng biết rủi ro đó. Tuy nhiên, Nguyễn Phương Uyên, một sinh viên ở thành phố miền Nam Long An, nhận ra rằng, ngay cả khi phát ngôn vì Việt Nam và phản đối các hành vi hung hăng của một nước khác, cụ thể là Trung Quốc, trong tranh chấp ở vùng biển Đông Nam Á, cũng có thể khiến cô vào tù. Cô bị bắt vào ngày 14-10-2012, chỉ hai ngày sau sinh nhật lần thứ 20 của cô, và bị cáo buộc theo Điều 88. Theo cáo trạng của Uyên và bạn cô là Đinh Nguyên Kha, “tội” của họ là làm tờ rơi, biểu ngữ và cờ giấy mang các thông điệp sau:

- “Tuổi trẻ yêu nước Long An đấu tranh cho tự do và nhân quyền”, 
- “Tuổi trẻ yêu nước quyết tâm diệt cộng sản, giải phóng dân tộc”,
- “Long An trung dũng kiên cường toàn dân chống cộng suốt đời tự do”. 
Bên cạnh đó, Uyên viết một khẩu hiệu bằng máu: “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”. Bản cáo trạng cho rằng khẩu hiệu này là “nội dung không tốt về Trung Quốc”. 
Có thể lập luận rằng những khẩu hiệu như thế không hề đối lập với “chính quyền nhân dân”, mà là nhắm đến một chủ nghĩa (ý thức hệ). Tuy nhiên, thật khó để xác định được làm thế nào một sự chỉ trích nhằm vào Trung Quốc lại có thể được diễn giải thành chống chính quyền Việt Nam. 
Vào tháng 5-2013, phiên tòa sơ thẩm áp đặt án tù 6 năm dành cho Nguyễn Phương Uyên và 8 năm dành cho Đinh Nguyên Kha. Mức án đã giảm xuống tại phiên phúc thẩm với 3 năm án treo dành cho Uyên và 4 năm tù giam dành cho Kha. Cả phiên sơ thẩm và phúc thẩm đều không cho phép bạn bè và gia đình vào dự, kể cả bố mẹ của Uyên và Kha. 

Tự do có điều kiện

So với “cái còng”, Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999 có vẻ ít nghiêm trọng hơn với các hình phạt bao gồm cảnh cáo và cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Trong những trường hợp nghiêm trọng, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 đến 7 năm. 
Mặt trái của Điều 258 này là nó mơ hồ hơn, chung chung hơn, và Nhà nước công an trị có thể dùng Điều 258 để bắt bao nhiêu người cũng được nếu muốn. Người vi phạm Điều 258 bao gồm những “Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. 
Điều 258 bắt đầu với một danh sách rất cụ thể các quyền không được phép “lạm dụng”. Nhưng mặt khác, nó cũng để ngỏ việc diễn giải “những quyền tự do dân chủ khác” vốn không được liệt kê ban đầu. Nghiêm trọng hơn, nó không định nghĩa thế nào là “lạm dụng” hay “lợi ích của nhà nước” là gì để mà không xâm phạm. Trên thực tế, Điều 258 bao trùm một phạm vi các hành vi rộng hơn cả Điều 88, vốn chỉ giới hạn chỉ trong các hành vi có thể bị coi là “tuyên truyền”. 
Sau sự bùng nổ của blog và truyền thông xã hội ở Việt Nam, đã có sự gia tăng việc bắt bớ và các cáo buộc theo Điều 258. 
Một số vụ việc xảy ra trong năm 2013 thể hiện sự leo thang sử dụng Điều 258 ở Việt Nam khi nước này chạy đua vào ghế thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016:
- Ngày 5-5: hai blogger bị giam giữ ngay sau khi phân phát các bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Công an cáo buộc họ đã lợi dụng quyền tự do dân chủ nhằm xâm phạm lợi ích của nhà nước. 
- Từ 26-5 đến 15-6: ba blogger bị bắt, hai trong số họ là các blogger và nhà báo nổi tiếng Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào. Blogger thứ ba, Đinh Nhật Uy, là anh trai của Đinh Nguyên Kha – người đang bị tạm giam theo Điều 88. Gia đình Uy và Kha, do đó, đâm ra nổi tiếng một cách đáng buồn vì có hai con trai đi tù, người vì vi phạm an ninh quốc gia, người vì xâm hại trật tự công cộng. 
- Vào tháng 10, công an một lần nữa sử dụng Điều 258 để bắt giữ hai người, Thào Quán Mua và Hoàng Văn Sang ở tỉnh miền Bắc Tuyên Quang vì họ khiếu kiện tập thể phản đối chính quyền đã đàn áp Dương Văn Mình, một giáo phái được thành lập vào năm 1989. Đầu tháng 6, cảnh sát phá hủy các nhà đòn xây dựng trái phép của giáo phái nói trên theo yêu cầu của Ủy ban Tôn giáo của chính phủ. Theo pháp luật Việt Nam, các tổ chức tôn giáo phải đăng ký trước khi hoạt động. Do đó, vụ việc này bị cho là sử dụng Điều 258 để chống lại quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. 

Suy đoán rộng

Bản cáo trạng của Đinh Nhật Uy bị rò rỉ trên cộng đồng mạng vào tháng 10 và gây ra một làn sóng phẫn nộ vì những lập luật trẻ con của nó: 
“Vào khoảng năm 2010, Đinh Nhật Uy được người bạn tạo cho tài khoản Facebook có nickname là Đinh Nhật Uy. Thời gian đầu, Nhật Uy chỉ sử dụng tin nhắn cho bạn bè. Nhưng từ khoảng tháng 11/2012, sau khi em ruột là Đinh Nguyên Kha bị khởi tố về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thì tài khoản Facebook này mới được Đinh Nhật Uy sử dụng thường xuyên để đăng tin, chia sẻ hình ảnh, liên kết, nhắn tin...”

“(Thông qua Facebook) Đinh Nhật Uy còn đăng những thông tin xấu, sai sự thật đối với Nhà nước, tổ chức, cá nhân... Những hình ảnh, bài viết nêu trên có nhiều lượt người vào xem. Nhiều lượt người chia sẻ, đánh giá “like”, nhiều lượt người vào bình luận, trong đó có nhiều bài bình luận với lời lẽ nói xấu, bôi bác, xúc phạm đến Nhà nước, tổ chức và công dân... Ngày 2-1-2013, đăng địa chỉ liên kết bài viết: “Lật tẩy bộ mặt thật của Giải nhân quyền Hellman/Hammett” trên trang trandaiquang.net (Trần Đại Quang là tên của Bộ trưởng Công an Việt Nam, trang trandaiquang.net có vẻ là một website thân chính phủ), Uy nhận xét: ‘Chuyện như vầy cũng bịa ra được. Chỉ lừa được lũ đầu tôm chung chạ thôi mấy chú ơi’. Phía dưới có 18 lượt người thích và 07 lượt người bình luận, trong đó có những bình luận có tính chất xúc phạm”. 
Bằng cách bỏ tù Uy 4 tháng và sau đó áp hình phạt 15 tháng tù treo cho anh, trên thực tế, nhà nước không chỉ nhắm tới một cá nhân mà còn gửi lời cảnh báo tới tất cả những người sử dụng mạng xã hội rằng họ là những tội phạm tiềm năng của Điều 258. Cáo buộc chống lại Đinh Nhật Uy không nói cụ thể quyền nào đã bị anh “lạm dụng”, nhưng có vẻ đó là quyền tự do ngôn luận. 
Khi đối mặt với sự hạn chế mơ hồ và rộng như thế, ai đó có thể hỏi: Công dân Việt Nam được phép làm hay nói những gì để không bị quy cho là “lợi dụng” quyền của mình? Ranh giới của “lợi ích nhà nước” là gì?
Chưa có câu trả lời, vì Điều 258 trao cho nhà chức trách sự tự do gần như không có giới hạn trong việc sử dụng pháp luật chống lại việc thực thi các quyền công dân. Chỉ khi nào nhà nước giải thích thế nào là “lạm dụng”, thế nào là xâm phạm “lợi ích” nhà nước, thì sự lạm dụng pháp luật này mới bị giới hạn.
Các blogger Việt Nam, trong đó có “J”, hiểu rằng những hạn chế sẽ ngày càng bị xiết chặt hơn nếu họ tiếp tục im lặng. Tuân theo những hạn chế này có thể đồng nghĩa với việc họ không bị bỏ tù, nhưng không có nghĩa là họ được tự do.
Phạm Đoan Trang
Người dịch Phạm Đức Khiêm
Danlambao

________________________________________

The Laws of State Impunity

Phạm Doan Trang - Blogging has replaced journalism as the most dangerous job in Vietnam in the Internet era.
“It’s dangerous indeed. But it’s not a job, for we bloggers have never been paid for what we write,” said “J.”, a young Hanoi-based blogger. An administrator of a large online forum specializing in social and political issues, J. is more than aware of the risks bloggers like him are facing everyday: hackers, intimidating posts of state-sponsored cyber troops, and, worst of all, police discovery of their identities as “anti-state” bloggers.
“Bloggers are not paid as journalists are,” said J., “but we are doing the same thing mainstream media have been doing, or more precisely, have failed to do: exposing truths to the public that the government does not want them to know. In doing this, we face police harassment, detention and imprisonment.”
J. was not exaggerating. According to September 2013 estimate by the International Society for Human Rights (ISHR), at least 263 Vietnamese citizens, including bloggers, have been jailed since 2005 under charges of “infringing upon national security” and “infringing upon administrative management order.”
Of these hundreds of detainees, 68 were prosecuted under Article 88 of the Vietnamese Criminal Code (VCC) for “conducting propaganda against the state”, and 40 under Article 258, “abusing democratic freedoms to infringe upon the interests of the state.”
Behind these numbers are individual cases of people who dared to speak out. In fact, political bloggers in Vietnam have become familiar personalities in mainstream media for reporting on the arrest or trial of a previously obscure person but now charged with Article 88 or 258. These laws have proven to be effective scare tools used by the government to silence voices of dissent from the public.

The “handcuffs”

Bloggers sarcastically refer to Article 88 as the “handcuffs”, since the number 8 visually resembles these restraining devices used by law enforcement. Specifically, this law stipulates that those who make, store or disseminate information, including “documents and/or cultural products”, against the state shall be sentenced to between three and 12 years of imprisonment.
However, the law falls short of providing a clear description of contents that could be deemed “against the state”. Furthermore, the authority to interpret laws in Vietnam lies in a variety of entities ranging from the security forces, investigating body, to the procuratorates, the courts, or even ministries, although under Vietnamese laws, only the Standing Committee of the National Assembly holds this authority.
Before Article 88, there was Article 82 of the 1985 Vietnam Criminal Code, which was as repressive as any Soviet-styled penal law. Article 82 aimed to punish “propaganda against socialism”, giving the same lengthy sentences of three to 12 years of imprisonment. There are no publicly available statistics on the number of detentions and charges under Article 82.
In 1999, a new penal code was issued which transformed Article 82 into Article 88, with the word “socialism” replaced by “the state”. The article now uses less abstract term but not necessarily less vague and broad.
Far from being restricted to cases of clearly subversive activities, Article 88 has been used to silence voices seeking a cleaner, more accountable government – something that, if the government would heed, could actually strengthen it.

Interpreting “the state”

One of the well known prisoners imprisoned under Article 88 is Cu Huy Ha Vu, a legal scholar, and son of a close ally of Vietnam founding father Ho Chi Minh. In 2009, Cu Huy Ha Vu filed a lawsuit against PM Nguyen Tan Dung, for allegedly starting a massive mining project that could be environmentally disastrous. In other countries, such a lawsuit may seem normal, but it was considered a watershed event in Vietnamese history.
Vu also contributed articles and gave interviews to overseas media agencies in which he straightforwardly criticized the ruling Communist Party and called for a multiparty democracy in Vietnam. In an interview with the Radio Free Asia, Vu said, “Today in Vietnam… a lot of state budget has been spent arbitrarily even on nefarious activities… In order to punish those corrupt gangs, I insist that the only way is to develop a multiparty system in Vietnam.”
In one of his articles published by the Vietnam Bauxite blog, Vu advocated the separation of powers, criticizing what he termed “the government, the court, and the national assembly uniting against the people.”
In 2010 Cu Huy Ha Vu was arrested and charged under Article 88. He was subsequently put on trial in a court composed of judges who were Vietnam Communist Party members, reinforcing his claim that under such a system the judiciary would be unable to be impartial. In 2011, Vu was given a seven-year imprisonment sentence.
Cu Huy Ha Vu’s trial loudly sent the message that, under the Vietnamese legal system, the Communist Party and its high-ranking members like the Prime Minister are untouchable, and immune from legal challenge. More importantly perhaps, the conviction made it clear that any such attempt is to be legally interpreted as “propaganda against the state”.
This case may be something already expected from a one-party state, and bloggers may already know that risk. However, as Nguyen Phuong Uyen, a student from the southern city of Long An, found out, even speaking for Vietnam and protesting to the aggressive acts of another country, specifically China, in the Southeast Asian sea dispute could put her in jail. She was arrested on 14 October 2012, just two days after her 20th birthday, and charged under Article 88. According to the indictment, Uyen and her companion, Dinh Nguyen Kha, their “crime” was producing pamphlets, slogans and paper flags that carried the following messages:
- “Long An’s patriot youth struggle for freedom and human rights;”
- “Patriotic youth are determined to eliminate communism and free the nation;” and
- “Long An is courageous and resolute in fighting communists for a free life.”
In addition, Uyen made a finger-writing in blood of the slogan, “China, get off the East Sea.” The indictment described this slogan as “not good content about China.”
It may well be argued that these slogans were not in opposition to “the people’s administration” but instead targeted an ideology. However, how a criticism against China could be interpreted as being against the Vietnamese state is simply hard to figure out.
In May 2013, the trial court imposed prison sentences of six years for Nguyen Phuong Uyen and eight for Dinh Nguyen Kha. These were reduced on appeal to three years suspended for Uyen and four years of imprisonment for Kha. Both the trial and the appeal were closed to their friends and family members; even the parents of Uyen and of Kha were not allowed in.

Conditional rights

Compared to “the handcuffs”, Article 258 of the 1999 Criminal Code seems less strict with sanctions including warnings and non-custodial reform for up to three years. In serious circumstances, offenders may be sentenced to between two and seven years of imprisonment.
The darker side is that Article 258 is more vague and broad worded, can be used against as many citizens as the police-dominated state wants. Offenders of Article 258 include “those who abuse the rights to freedom of speech, freedom of press, freedom of belief, religion, assembly, association and other democratic freedoms to infringe upon the interests of the State, the legitimate rights and interests of organizations and/or citizens.”
Article 258 begins with a very specific list of the rights that cannot be “abused”. On the other hand, it also leaves an open interpretation for “other democratic freedoms” not initially listed. More seriously, it does not define what constitutes an “abuse” or “interests of the state” that cannot be infringed upon. In effect, Article 258 covers a broader range of acts than Article 88, which is limited only to acts which may be deemed as “propaganda”.
Following the boom of blogs and social media in Vietnam, there has been an increase in arrests and charges under Article 258.
Several incidents in 2013 demonstrate the escalation in the use of Article 258 in Vietnam as the country campaigned for membership in 2014-2016 in the United Nations Human Rights Council:
5 May: two bloggers were detained right after distributing copies of the Universal Declaration on Human Rights. Police accused them of abusing democratic freedoms to infringe upon the interests of the state.
Between 26 May and 15 June: three bloggers were arrested, two of them were well-known bloggers and journalists Truong Duy Nhat and Pham Viet Dao. The third blogger, Dinh Nhat Uy, is the elder brother of Dinh Nguyen Kha, an Article 88 detainee. The Dinhs thus gained the sad distinction of having two sons imprisoned for alleged violations of “national security” and “order”.
In October, police again used Article 258 to arrest two persons, Thao Quan Mua and Hoang Van Sang, in the northern province of Tuyen Quang for initiating a class action suit against authorities for suppressing Duong Van Minh, a Christian sect founded in 1989. Earlier in June, police demolished unauthorized religious shrines of the said sect on orders of the government Committee on Religious Affairs. Under Vietnamese Law, religious organizations must register before their can operate. This case has therefore seen the use of Article 258 against freedom of religious belief.

Broad discretion

The indictment of Dinh Nhat Uy was leaked to the online community in October and incited a public outcry for its childish arguments, including:
“In around 2010, Dinh Nhat Uy had his friend created a Facebook account whose nickname is Dinh Nhat Uy. Initially Uy only used it to send messages to friends. But as from around November 2012, after his younger brother Dinh Nguyen Kha was charged with conducting propaganda against the State of the Socialist Republic of Vietnam, this Facebook account was regularly used by Uy to post news, to share images and links, and to send messages….”
“(Using his Facebook page) Uy posted bad and false information about the State, organizations and individuals… Those images and articles were seen and read by many people. Many shared, pressed “like”, and gave comments, of which many comments smeared and insulted the State, organizations and citizens… On January 2, 2013, on posting the link into the article titled “Exposing the true face of the human right award Hellman/Hammett” published on trandaiquang.net [Tran Dai Quang is the name of the Vietnamese Minister of Public Security; trandaiquang.net appears to be a pro-government website], Uy commented, “What a lie. You [the author] can only cheat the fools.” Below this post of his, there were 18 people pressing “like” and 7 people giving comments, many of those comments were insulting.”
By imprisoning Uy for four months and then imposing a suspended 15 month sentence upon him, the state, in fact, targeted not only one individual but sent a warning to all social media users that they are potential offenders of Article 258. The charge against Dinh Nhat Uy did not specify which right he allegedly “abused”, although it is apparently the right to free expression.
In the face of such vague and broad restrictions, one may well ask: what are Vietnamese citizens allowed to do or speak about that will not be interpreted as an “abuse” of their rights? What are the boundaries of the “interest of the state”?
Answers to these questions will remain unknown because Article 258 gives authorities an almost unfettered discretion on using the law against the exercise of a broad range civil rights. Such use can only be limited by the state’s justifications on how these were “abused” or infringed upon its ‘interests”.
Vietnamese bloggers, including “J.”, understand that these limits will grow tighter if they remain silent. Following these restrictions may mean that they will not be jailed, but it does not mean that they remain free.
Source: SEAPA's Impunity Report 2013, available at http://www.seapa.org/wp-content/uploads/IDEI-2013-report.pdf
Phạm Doan Trang
http://www.phamdoantrang.com/2013/11/the-laws-of-state-impunity.html

TRẢ THÙ CÁC LUẬT SƯ - Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang muốn tuyên bố TIÊU DIỆT CHÍNH NGHĨA VÀ SỰ THẬT



Từ lâu tôi cũng như nhiều người đều nhìn thấy rất rõ rằng 
Nhà cầm quyền Việt Nam luôn tìm cách bỏ tù , trù dập những luật sư muốn làm đúng nghề nghiệp  của mình 
Có thể không khó khăn gì khi liệt kê ra những danh sách luật sư từng bị nhà cầm quyền cộng sản bỏ tù trong nhiều năm qua tại Việt Nam như :
Luật sư Nguyễn Văn Đài- Luật sư Lê Thị Công Nhân - Luật Sư Nguyễn Bắc Truyển - Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ -  Luật sư Lê Quốc Quân - Luật sư Lê Công Định - Luật sư Lê Chí Quang- Huỳnh Quốc Hiền 
Bên cạnh đó biết bao nhiêu luật sư tâm huyết với nghề luôn bị khủng bố , đe dọa , bôi nhọ bằng đủ các chiêu trò ...từ dọa nạt . Khống chế cho đến ngăn chặn hành nghề và rồi rút giấy phép với những lí do hết sức là "độc tài cộng sản" như luật sư Huỳnh Văn Đông - Lê Trần Luật- .....
Có lẽ ở Việt Nam này bất cứ nghề gì , con người nào đều  phải sống và làm theo ý đảng mới có thể tồn tại. 
Đảng nói "Sả lũ đúng quy trình" thì dù cho có chết bao nhiêu con Dân hay thiệt hại đến đời sống chúng sinh thế nào vẫn cứ phải coi đảng là "muôn năm đúng"
Đảng và lãnh đạo chính quyền muốn đưa ra những dự án xây chiếc toillet hàng tỷ đồng thì các con Dân cứ ngoan ngoãn mà ủng hộ . Vì từ xưa nay đảng ta luôn muốn NGỒI XỔM lên tất cả từ hiến pháp - luật pháp- hành pháp và tư pháp kia mà ...Thế thì càng nhiều toillete tiền tỷ thì càng chứng minh cho cái đẳng cấp NGỒI XỔM của nhà sản ta chứ có sao đâu? 
Thật ra giữa ngổn ngang,  hổ lốn của cái xã hội này . Nếu chịu suy ngẫm thì tất cả đều có cái "logic chết người" cả đấy thôi ...Này nhé! Tham nhũng không thể song hành với luật pháp. Thế thì một thể chế đầy rẫy tham nhũng như chế độ nhà Sản này họ chẳng bao giờ coi luật pháp là "chuyên chính" cả..Hãy nhìn xem. Nếu luật pháp nghiêm minh thì làm sao có đất cho tệ nạn tham nhũng , tội ác hoành hành ?
Đã thế thì luật sư chân chính,  muốn hành nghề theo lương tâm lấy đâu đất sống? Bởi nghề luật sư là để bảo vệ cho quyền lợi và sự công bằng trong xã hội . Một xã hội không thể có quyền con người và sự công bằng mà ngược lại nó là hiện thân của thối nát- độc tài - NGỒI XỔM thì rõ ràng luật sư nếu không trở thành "cỗ máy tội ác của đảng" thì sẽ bị loại , bị bắt bỏ tù , bị đe dọa khủng bố như những gì chúng ta nhìn thấy trong xã hội Việt Nam bao nhiêu năm qua 
Án OAN ư? đã , đang và sẽ còn vô tội vạ không bao giờ hết. Vì cả cái thể chế này còn NGỒI XỔM thì sẽ chẳng bao giờ hết những sự oan sai, tàn ác ...Họ vẫn còn đang tìm đủ mọi cách để đàn áp , khủng bố những tiếng nói đấu tranh . Bịt mồm bất cứ sự thật nào thì tất cả những điều tệ hại trên không bao giờ dừng lại 
Tình cờ hôm nay đọc được chia sẻ của luật sư Hà Huy Sơn trên trang cá nhân . Thật đau xót nên tôi  viết lên đôi lời để mong mọi người cùng nhìn vào một sự thật đau đớn , nhức nhối
Chúng ta! Chính nghĩa và  sự thật đang từng giờ bị TIÊU DIỆT ...
Không lẽ dân tộc này thật sự không còn con đường hay bất cứ cơ hội nào để thay đổi và hồi sinh hay sao? 
Vươn ra với thế giới văn minh- Có chân trong ủy ban nhân quyền Quốc Tế
Tất cả những thứ đó đều là một sự giả dối,  che đậy đến lợm giọng tất cả những gì bên trong thối nát và càng ngày càng thối nát mà chính những người lãnh đạo nó không muốn sửa đổi . Họ càng ngày càng lún sâu vào thủ đoạn đê hèn và độc ác đến tận cùng của sự hạ tiện 
Chắc hẳn nhiều người biết rằng Cù Huy Hà Vũ - Luật sư Lê Thị Công Nhân - Nguyễn Văn Đài- Hà Huy Sơn ......đã phải trả giá những gì khi họ muốn bảo vệ luật pháp và chính nghĩa trong cái thể chế độc tài phản động này ...Tôi nhớ đây không phải là lần đầu những luật sư muốn làm đúng bị khủng bố - bôi nhọ hay o ép 
Khoảng đầu năm 2013 đã có lần luật sư Hà Huy Sơn đăng thông tin trên trang cá nhân của mình như sau 
http://danoanbuihang.blogspot.com.au/2013/04/bao-ong-o-ve-van-nan-con-o-sos.html

Cho đến hôm nay . Sau rất nhiều những đe dọa,  khủng bố dưới mọi hình thức và đã nhiều lần lên tiếng 
Luật sư Hà Huy Sơn mới chia sẻ với cộng đồng những thông tin mới nhất sau đây . Và theo tôi biết . Không chỉ riêng luật sư Hà Huy Sơn . Bất cứ một luật sư nào muốn sống đúng pháp luật . Muốn làm đúng lương tâm nghề nghiệp là bênh vực cho công lý và chính nghĩa . Bảo vệ sự thật thì đều bị dồn ép , bức bách đến cùng 
Có lẽ rằng khi sinh ra trong cái "cường quốc tham nhũng" dưới sự lãnh đạo của đảng thì muốn sống làm một con người bình thường đã khó chứ nói chi đến luật sư công chính. Bởi con người tử tế công minh không thể là sản phẩm của  nhà cầm quyền cộng sản .
Tôi bỗng nhớ đến câu nói của ai đó NGƯỜI TỬ TẾ KHÔNG AI VÀO ĐẢNG- ĐÃ VÀO ĐẢNG THÌ KHÔNG CÒN TỬ TẾ...<Chí ít câu nói này vô cùng đúng trong thời điểm hiện nay khi chúng ta nhìn vào một cái đảng bất chính đang nắm quyền lãnh đạo cả một Dân tộc với tất cả những trò bẩn thỉu và cặn bã nhất . Với ngập ngụa những sai phạm không thể sử đổi và tha thứ . Không thể chấp nhận nó tiếp tục tồn tại và dùng bạo lực mà nhấn chìm cả Dân tộc này >
Riêng tôi có suy nghĩ rằng : Muốn sống và làm một con người bình thường nhất , có đủ liêm xỉ con người  thì không thể nào sống chung với cái thể chế thối tha - độc tài , tàn ác và ngập ngụa thối nát , ngu dốt này được 
HÃY ĐỨNG LÊN THÔI HỠI CON DÂN VIỆT NAM TÔI!KHÔNG THỂ ĐỂ CÁI BẤT CHÍNH ĐÈ LÊN ĐẦU CHÚNG TA 

XIN ĐỐT MỘT NÉN HƯƠNG LÒNG CHO TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ BÙI ĐĂNG THỦY VỪA QUA ĐỜI Ở TRẠI GIAM XUÂN LỘC


Nguyễn Thu Trâm, 8406
Hẳn nhiều người vẫn còn nhớ  tù nhân chính trị NGUYỄN VĂN TRẠI qua đời vào ngày 11 tháng 7 năm 2011 tại nhà tù Z30A Xuân Lộc Đồng Nai, vừa khi bệnh viện Đa Khoa Đồng Nai cho xuất viện vào 5 giờ chiều ngày 10 tháng 07 năm 2011 do các thầy thuốc từ chối chữa trị, vì bệnh nan y không thể chữa trị được. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, người tù Nguyễn Văn Trại đã bày tỏ nguyện vọng được về nhà để chờ chết bên cạnh gia đình, vợ con để được gia đình lo hậu sự… nhưng nguyện vọng cuối cùng này cũng bị từ chối. Trước cơn hấp hối, Tù Nhân Nguyễn Văn Trại được Công An trại giam đưa trở lại nhà Tù Z30A, Xuân Lộc - Đồng Nai để ông phải chết phải chôn tại đó, trong một nhà tù. Ông đã qua đời trong oan nghiệt vào lúc 10 giờ 30 sáng Thứ Hai ngày 11/07/2011 tại nhà giam. Gia đình thân nhân xin được đưa thi hài ông về an táng tại quê nhà, nhưng Ban Giám Thị Trại từ chối, với lý do ông “NGUYỄN VĂN TRẠI LÀ MỘT TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI”.

Rồi, chỉ hai tháng sau đó, lúc 10 giờ 20 phút sáng Thứ Hai, 12 tháng 9 năm 2011, một tù nhân chính trị khác, cũng là cựu sỹ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Trung Úy Trương Văn Sương, qua đời tại trại giam Ba Sao, Nam Hà khi bị đưa trở lại trại giam vào ngày 19 tháng 8 năm 2011, tức chưa tròn 1 tháng trước đó, sau thời gian cho về địa phương chữa bệnh tim một năm trước, vào ngày 12 tháng 7 năm 2010.

Hôm nay 24 tháng 11 năm 2013, một tù nhân chính trị khác nữa, cũng là một cựu sỹ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu Úy Không Quân Bùi Đăng Thủy cũng vừa qua đời tại trại giam Xuân Lộc Đồng Nai sau 17 năm bị giam cầm tại đây, và cũng là 17 năm tù nhân chính trị Bùi Đăng Thủy mang căn  bệnh lao phổi mà không hề được chữa trị.
Là một đảng viên đảng Nhân Dân Hành Động thuộc xứ bộ Chùa Tháp đấu tranh đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt Nam, ông Bùi Đăng Thủy bị bắt cùng các đảng viên Giáp Bảo An, Nguyễn Văn Sỹ, Lê Văn Tính, Nguyễn Anh Hảo… trong đó ông Lê Văn Tính Cố Vấn Ban Trị Sự GHPGHH, bị kết án án 20 năm, Nguyễn Tuấn Nam bị kết án 19 năm và Bùi Đăng Thủy bị kết án18 năm.

Như vậy ông Nguyễn Văn Trại qua đời khi chỉ còn 5 tháng nữa là được mãn hạn tù. Ông Bùi Đăng Thủy qua đời khi chỉ còn 1 năm nữa là mãn án tù… Liệu rằng những tù nhân chính trị lão thành Lê Văn Tính, Nguyễn Tuấn Nam có được chết trong tự do hay phải chịu chung số phận với các chí hữu Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy của họ là vì nền tự do, dân chủ và nhân quyền cho quê hương Việt Nam mà phải sống trong tù và chết trong tù?

Được biết, nếu cúi đầu nhận tội và xin giảm án thì những tù nhân chính trị lão thành cũng có thể có cơ hội chết trong tự do, ở quê nhà để được lo hậu sự với những nghi thức tang tế theo phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương – Nhưng yêu nước đâu phải là tội lỗi – Đấu tranh để giành lại quyền tự do, dân chủ và quyền làm người cho đồng bào Việt Nam thì đâu phải là tội lỗi. Chính vì vậy mà các tù nhân chính trị lão thành trong các lao tù của cộng sản từ trước đến nay vẫn hiên ngang, ngẫng cao đầu trước bè lủ cai ngục, trước bạo quyền cộng sản mỗi lần chúng thuyết phục họ nhận tội và xin được đảng và nhà nước cộng sản khoan hồng, thì họ vẫn khẳng khái tuyên bố rằng bản thân họ chưa bao giờ có tội lỗi gì với nhân dân, với đất nước mà phải nhận hay phải xin được khoan hồng, mà chính đảng cộng sản và các lãnh tụ của cộng sản như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trường Chính, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng.... mới là những kẻ có tội với nhân dân, với đất nước – là phải cúi đầu nhận tội trước toàn dân để xin được toàn dân khoan hồng cho tội ác chống lại loài người, chống lại dân tộc khi du nhập chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về để giết hại đồng bào và tàn phá đất nước – Dẫu biết rằng cái giá của lòng yêu nước thương nòi và chí khí hiên ngang trước kẻ thù có thể là phải sống lặng lẽ trong lao tù và chết âm thầm trong ngục thất, nhưng chắc chắn những trang sử vàng của Việt tộc sẽ ngàn đời lưu danh họ và tổ quốc Việt Nam sẽ ngàn đời ghi ơn họ, để sự hy sinh máu xương của họ sẽ không phải là chuyện phí hoài.
Xin đốt một nén hương lòng và nghiêng mình trước anh linh của tù nhân chính trị Bùi Đăng Thủy và các anh linh Đất Việt đã vì nền tự do dân chủ và nhân quyền cho quê hương Việt Nam mà đã bỏ mình trong các lao tù của cộng sản.
Ngày 24 tháng 11 năm 2013
Nguyễn Thu Trâm, 8406

Ấn nút… Hán hóa?

Bauxite Việt Nam
25-11-2013
Trần Minh Thảo
Theo lịch làm việc, ngày 28/11/2013 tới đây, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sẽ ấn nút biểu quyết bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Bản Hiến pháp mới 2013 vẫn kiên định mấy điểm:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối
- Công hữu đất đai
- Quốc doanh chủ đạo nền kinh tế thị trường theo định hướng
Không thể nói ngay được nhân dân Việt Nam hài lòng hay không hài lòng với bản Hiến pháp mới vẫn nhiều “kiên định” này vì muốn khẳng định điều gì với Hiến pháp sửa đổi thì cần một cuộc khảo sát, điều tra xã hội học khoa học, khách quan hoặc một cuộc trưng cầu dân ý.
Cũng không thể khẳng định mấy triệu đảng viên cộng sản Việt Nam rất hài lòng về bản Hiến pháp mới do họ vẫn giữ được chỗ ở chiếu trên trong đình làng.
Cũng có thể, mỗi hộ gia đình trong cả nước sẽ được phát một mẫu in sẵn có nội dung “gia đình tôi hoàn toàn tán thành bản Hiến pháp mới” rồi nói đó là cách trưng cầu dân ý đặc trưng Việt Nam. Có thể mẫu “tán thành” này đã in rồi, đã về tới chính quyền cơ sở rồi.
Trên bình diện quốc tế, quốc gia nào “hài lòng”, “tán thành” bản Hiến pháp mới của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam?
Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Liên bang Nga V. Putin, truyền thông Trung Quốc nói Việt Nam thắt chặt quan hệ với Liên bang Nga, Ấn Độ nhằm chống Trung Quốc và cảnh cáo Việt Nam không được nâng tầm quan hệ với Hoa Kỳ, nhất là về quân sự.
Có thể Đảng, Nhà nước Việt Nam cù cưa với hiệp định TPP để tham gia liên minh thuế quan Âu Á do Nga chủ xướng nhưng là để Nga ủng hộ một Việt Nam độc tài, không phải để chống Trung Quốc. Cứ thần phục Trung Quốc nhưng sẵn sàng chi hàng tỉ đô la mua vũ khí, khí tài của Nga thì vẫn tốt. Hiến pháp mới của Việt Nam chẳng làm Liên bang Nga băn khoăn. Nói Việt Nam đi với Nga để chống Trung Quốc là cách tung hoả mù của bành trướng Bắc Kinh: Trung Quốc không áp đặt điều gì với Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội trị, ngoại giao của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ quyền tự chủ. Cũng là một thứ hoả mù khi thỉnh thoảng truyền thông nhà nước Việt Nam khoe sức mạnh vũ trang đến từ Liên bang Nga, rầm rộ đưa tin nơi này nơi nọ khám phá, tịch thu sản phẩm độc hại của Trung Quốc. Thế các khu dân cư, các làng, các phố người Hoa (không phải là Hoa kiều) khắp nước thì sao? Những thứ hàng hoá Trung Quốc độc hại tràn lan cả nước thì sao? Vẫn nhập siêu khủng liên tục từ Trung Quốc thì sao? “Bán” đất cho Trung Quốc cả 100 năm thì sao?
Ấn Độ cũng chẳng quan tâm các “kiên định” của Hiến pháp Việt Nam dù cho Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Ấn Độ và hai bên cam kết nhiều điều.
Tây Âu, Nhật, Úc, Mỹ… phản ứng thế nào với bản Hiến pháp mới của Việt Nam? Các quốc gia này có vướng mắc về “các kiên định” của Việt Nam trong Hiến pháp mới về nhân quyền, tự do, dân chủ…?
Chắc chắn các “kiên định” trong Hiến pháp mới 2013 là cản trở lớn trong việc nâng tầm quan hệ đối tác giữa Việt Nam với phương Tây nói chung. Việt Nam không phải là điều kiện không thể thiếu trong sách lược đối phó với bành trướng bá quyền Bắc kinh để Phương Tây nói chung bỏ qua các “kiên định” trong Hiến pháp Việt Nam mà chấp nhận “nuôi ong tay áo”. Có hay không có Việt Nam cũng không hề hấn gì đến thế trận chống bá quyền của thế giới. Mà Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng thường bội tín, chày cối với các nước phương Tậy.
Quốc gia hài lòng nhất với “Hiến pháp kiên định” của Việt Nam phải là Trung Quốc
Những “kiên định” trong Hiến pháp sửa đổi 2013 chứng tỏ Đảng, Nhà nước Việt Nam trung thành với cam kết Thành Đô: kiên định chủ nghĩa xã hội về hình thức, chủ nghĩa đại Hán về nội dung mà điểm mấu chốt là tư tưởng nước lớn nước nhỏ, quan hệ chủ tớ (chủ đất nông nô, chủ bảo vệ tớ, tớ trung thành với chủ) trong học thuyết Khổng Nho. Nông dân nghèo Nam bộ hài hước mà chua chát nói: Phải làm lúa vụ ba để có nhiều lúa gạo xuất sang Trung Quốc vì chủ đất lớn đã ra lệnh cho chủ đất nhỏ; không muốn làm vì lỗ thì chỉ việc trả lại đất cho chủ, mà trả lại thì đói. Kiếp đầy tớ, nông nô có khi nào hạnh phúc?
Cũng có thể, đi với phương Tây thì phải nhượng trả cho dân nhiều thứ nên Việt-Trung-Nga lại tương nhượng để lập một liên minh mà mẫu số chung là “nhà nước mật vụ” thay cho liên minh Việt-Trung-Xô đảng trị thời chiến tranh Việt Nam.
“Điều 4”, “công hữu”, “chủ đạo”… là hệ quả tất yếu của cam kết trung thành với chủ nghĩa đại Hán, nô dịch đại Hán. Do đó có ý kiến nói: rất oan uổng cho Mác, Lênin và Hồ Chí Minh khi bị dùng làm hoả mù, mặt nạ cho tư tưởng Hán hoá của hai đảng anh em.
Những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, những lời kêu gọi của nhân sĩ, trí thức, người dân nói chung yêu cầu Quốc hội không thông qua bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp của đảng chỉ để bày tỏ quan điểm, lập trường chính trị phản đối chủ trương Hán hoá được luật hoá, không thể ngăn được việc thông qua Hiến pháp Hán hoá.
Như vậy mấu chốt tác động đến công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền, xã hội dân sự v.v. là chủ trương Hán hoá đội lốt chủ nghĩa này, tư tưởng nọ ghi trong Hiến pháp mới.
Ấn nút thông qua là nhiệm vụ trọng đại nhằm luật hoá cam kết của hai đảng Trung Việt. Đảng đã giao nhiệm vụ luật hoá các cam kết với Trung Hoa vĩ đại thì đảng viên trong Quốc hội cứ thế mà ấn nút… thông qua.
T. M. T.

CSVN sẽ sụp đổ - Đó là điều chắc chắn

Nguyên Thạch (Danlambao) - Tại sao tôi nói vậy? Tại sao rất nhiều người nói vậy? Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!. Tại sao những người cộng sản VN lại nói vậy?. Khà khà khà... À thì ra, các ông nói vậy mà không phải vậy!.
He he... mấy cha nội đọc cái tựa bài cùng mấy câu ngắn ngủn, y như giỡn dai, chớ vội nổi nóng mà cho là Thạch tui phản động nha!. Chiện gì cũng phải từ từ, các cụ đã dạy “Dục tốc, bất đạt”, từ từ rùi cháo nó cũng nhừ. Đi đâu mà vội mà vàng, ghé vào quán nhậu nếp than đi nào. Nóng chi mà nóng nẩy ào ào, hiu hiu đồng nội, làu làu vài chai. Chiện đâu còn đó anh hai, ngồi xuống bình tỉnh vài chai đi nào.
Bây giờ, tụi mình bắt đầu nha, Muôn năm là mãi mãi, là trường tồn, là vĩnh cửu, đúng không? Dĩ nhiên câu trả lời là đúng. Vậy thì các ông mới chính là phản động bởi các ông đã chống lại tư tưởng của Mác (Karl Marx). Mác đã nói rằng: “Vạn vật luôn biến chuyển, cái sau phủ lấp và tiêu diệt cái trước, xã hội cũng vậy, chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản là tất yếu”. Các anh còn chống luôn cà Einstein, Newton và nhất là Darwin luôn. Riêng về phần Mác, nhiều người đã cho rằng, hắn cũng chỉ là một tên hoang tưởng, một tay siêu bệnh tâm thần bởi chính hắn mâu thuẫn lại với hắn rằng cộng sản là giai đoạn cuối và cao nhất của nhân loại. Nhưng thôi, ta hãy quên cái tay bị bịnh hoạn này đi.
Cuộc đời, sinh lão bịnh tử, người già phải chết đi để người sau có đất mà sống, không thì hành tinh này lút ngút như bọ, sao chịu nổi. Trong hóa học, chất này hợp với chất kia, tạo ra một hợp chất mới, trong y học, vi trùng này hòa với vi trùng khác tạo nên siêu vi trùng mới, siêu vi khuẩn mới... Nói chung, vạn vật luôn luôn biến đổi thì đời sống của con người cũng vậy. Làm thế chó nào mà muôn năm với vạn năm.
Tết lại sắp về, các ông lại tha hồ bố láo bố lếu giăng băng rông đỏ lòm, “Nước Cộng Hòa XHCN Muôn Năm”, “HCM vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”, “đảng CSVN quang vinh Muôn Năm” một cách không biết ngượng, lại thêm “Mừng đảng Mừng Xuân” một cách láu cá. Từ thuở xa xưa, nước nhà mừng xuân là mừng xuân, làm gì phải ép bắt dân mừng đảng đoàn gì trong đó, nhìn mớ băng đỏ mà phát mệt!.
Sở dĩ tôi phán rằng chế độ độc tài toàn trị của mấy ông sẽ phải sụp đổ là vì nhiều lý do chính như sau:
1- Cái thứ chủ nghĩa mà mấy ông đang theo đuổi là một thứ chủ nghĩa hoang tưởng, cả thế giới văn minh đã ném nó vào sọt rác từ lâu.
2- Lãnh tụ mà các ông thường tôn thờ và thần thánh nó như một nhân vật siêu phàm, nào Hồ Tập Chương, nào vợ rải rác, nào con rơi đây đó, nào ăn cắp văn thơ, nào tự ca tụng mình... đủ thứ tật xấu và gian ác, so ra không bằng một thanh niên bình thường có đạo lý, chứ đừng nói chi đến lãnh tụ.
3- Các ông đã hiện nguyên hình là một bọn phản quốc, quì gối thông đồng với kẻ thù truyền kiếp Bắc phương để dâng đất, dâng biển và toa rập với ngoại bang để nô lệ hóa cả một dân tộc vốn dĩ anh hùng. Các ông đã chạm lớn vào sự tự ái của cả dân tộc thì các ông sẽ nhận lãnh những hậu quả vô lường.
4- Sự nhận thức và lòng căm hận của đại đa số nhân dân đã bừng dậy và, họ sẵn sàng lật đổ các ông trong bất cứ lúc nào khi tình huấn cho phép.
5- Xuyên suốt quá trình cầm nắm quyền hành, các ông đã tàn phá đất nước đến mức thê thảm, kinh tế tụt hậu, nợ nần ngập mũi, tham nhũng bất trị, đạo lý suy đồi, oan nghiệt đầy dẫy khắp nơi.
6- Chừng nào số lượng người Việt ở hải ngoại chưa chết hết thì họ sẽ không bao giờ để các ông yên thân mà láo lếu. Họ sẽ là nguồn trợ lực phong phú và đa dạng trong mặt trận ngoại giao trên bình diện quốc tế. Số lượng người này với khả năng về tài chánh khổng lồ, ví như một ngày nào đó, họ chung lòng tự nguyện quyết định không gởi ngoại tệ về VN nữa thì thử hỏi các ông tồn tại được bao lâu?.
7- Trật tự của thế giới mới là triệt tiêu những thể chế độc tài đàn áp, cổ xúy cho nhân quyền và nhân phẩm trên bình diện toàn cầu thì liệu rằng các ông có đủ khả năng để chống chọi lại toàn thể nhân loại hay không?
Ngần ấy chi tiết và dữ kiện đã nêu, thử hỏi một chế độ phi chính nghĩa có còn lý do nào để tồn tại lâu dài? Các cán bộ công nhân viên chức, các ngành các nghề mọi cấp, mọi nơi cần phải đặt lại toàn bộ vấn đề, mau thay đổi tư duy để có được những hành động đúng đắn. Hành động thức thời đó là cùng toàn dân, sớm tạo ra một cuộc cách mạng toàn diện hầu cứu Quê Hương thoát khỏi bờ vực thẳm, bởi lẽ cái gì đến, sẽ phải đến.
Nguyên Thạch
danlambaovn.blogspot.com
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét