Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

Bức tường Berlin sụp đổ : Nhìn lại bài học lịch sử 1989 & Nhà nước - Ông là ai ?

Nhà nước - Ông là ai ?

(Chuyện cũ nói lại)
Ngày xưa, ta gọi là « Quốc gia ». Quốc gia Việt Nam. Gia là nhà, quốc là nước. Bởi vậy, ai cũng hiểu như là hiển nhiên : Quốc gia là Nhà nước. Nhà nước ấy, theo định nghĩa pháp lý mà mọi người trên thế giới thường học, gồm ba yếu tố căn bản : một lãnh thổ, một dân số, một tổ chức chính trị. Việt Nam là một Nhà nước vì Việt Nam có một lãnh thổ hình chữ S, một dân số gồm nhiều thành phần dân tộc, một chính thể đóng đô tại Hà Nội. Thế giới hiểu Nhà nước Việt Nam là vậy. Nhưng người Việt Nam hiểu như vậy thì lầm to !
Đọc Hiến pháp 1980, rồi Hiến pháp 1992, rồi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hiện nay, « Nhà nước » trong đó không phải là Quốc gia. Không phải là... Nhà nước ! Không gồm ba yếu tố như ta thường học. Nó là cái gì đó không chính xác, và nó không chính xác vì ngôn ngữ đẻ ra nó không phải là ngôn ngữ pháp lý mà là ngôn ngữ chính trị. Ngôn ngữ chính trị khai sinh ra nó nằm trong Hiến pháp 1980, tức là Hiến pháp chấm dứt Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thiêng liêng của thời Tuyên Ngôn Độc Lập, chấm dứt Hiến pháp 1946 mà ngôn ngữ rất pháp lý, chính xác. Nói lại chuyện cũ may ra hiểu được chuyện mới chăng.
GS. Cao Huy Thuần
Trong « Lời Nói Đầu » của bản Hiến Pháp 1980 ấy có câu chỉ đạo như sau : « Nó (tức là Hiến pháp) thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam ». Quái, Quốc gia Việt Nam chạy đi đâu mà bây giờ chỉ còn « xã hội Việt Nam » ? Trong cái « xã hội » ấy, « Nhà nước » chỉ còn là một trong ba thành phần, đứng đàng sau rốt, như cái đuôi con voi. Vậy thì « Nhà nước » này đâu có phải là khái niệm pháp lý mà ai cũng hiểu ? Nó là cái gì mà vai trò được giao phó là công việc của một anh quản lý ? Hiến pháp 1992 hiện hành và Dự thảo sửa đổi không lặp lại nguyên văn câu tuyên bố chỉ đạo ấy nữa, nhưng tinh thần là y chang, một sợi chỉ hồng ấy thôi xuyên suốt từ đầu đến cuối. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Đảng và Nhà nước là hai. Đảng là ai, mọi người đều thấy cụ thể. Nhưng « Nhà nước », thực thể là thế nào, có thực thể hay không, khi Quốc hội cũng là đảng viên, khi Chính phủ cũng là đảng viên, khi đâu đâu cũng là đảng viên ? Nếu Đảng và « Nhà nước » là hai thì ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là Nhà nước ? Thế tại sao khi ông đi thăm nước này nước nọ, họ tiếp ông như đại diện của Nhà nước Việt Nam ? Trong đầu của mọi người trên thế giới, ông là Nhà nước Việt Nam ! Họ trương cờ đỏ sao vàng của Nhà nước Việt Nam để tiếp ông. Ông đứng nghiêm trang nghe quân nhạc của họ cử hành bài quốc ca của Nhà nước Việt Nam. Họ đâu có tiếp « xã hội Việt Nam » ! Họ tiếp « Nhà nước Việt Nam » ! « Xã hội Việt Nam » đâu có quốc kỳ, quốc ca ? Quốc kỳ ấy, quốc ca ấy có từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập lại Nhà nước Việt Nam đã bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới như một quốc gia độc lập. Trước đó, vẫn có « xã hội » nhưng không có Nhà nước ! Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chữ S độc lập, một con Hồng cháu Lạc độc lập, một chính quyền độc lập trong đó đảng Cộng sản tham gia như một thành phần. Như vậy, đảng Cộng sản nằm trong chính quyền, ở trong Nhà nước, cùng với nhân dân nằm trong bụng của Nhà nước, đâu có nằm lên trên ? Dù cho sau đó, Hiến pháp 1980 ban cho đảng Cộng sản quyền lãnh đạo, và nếu nhân dân chấp nhận quyền đó, thì đó hiển nhiên là lãnh đạo trong chính quyền, lãnh đạo chính quyền, chứ sao lại lãnh đạo Nhà nước ?
Vậy thì « Nhà nước » được đẻ ra từ 1980 không phải là Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh rồi ! Vì vậy, khái niệm lẫn lộn như chỉ rối. Chẳng hạn, khi điều 9 đoạn 2 của Dự thảo sửa đổi viết : « Mặt Trận (Tổ Quốc) cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân », chữ « cùng » trong đó thật là bí hiểm. Sao lại « cùng » ? Nếu anh ở trong Nhà nước thì anh không thể « cùng » được. Anh chỉ « cùng » với một cái gì hay với ai là khi cái đó, người đó, ở ngoài anh, chẳng hạn anh « cùng » với vợ anh. Vậy Mặt Trận ở ngoài Nhà nước à ? Lại cũng chẳng hạn khi điều 29 của Dự thảo sửa đổi viết : « Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý Nhà nước... », quái, ấy là một Nhà nước hay hai Nhà nước ? Nhà nước nào tạo điều kiện ? Nhà nước nào được quản lý ? Nếu là hai thì vô lý, vì làm gì có hai Nhà nước, cũng như làm gì có hai mặt trời ! Nếu là một thì lại không chính xác vì cái việc « tạo điều kiện » là việc của các cơ quan Nhà nước, của chính quyền, trong đó đáng lẽ có cả đảng Cộng sản như đã nói.
Hãy đọc lại Hiến pháp 1946 : làm gì có chữ « Nhà nước » ! Bởi lẽ Nhà nước 1946 là nước, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và trong nước ấy chỉ có một chính quyền thôi, gồm : Nghị Viện (Quốc Hội), Chính phủ, cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chánh ở các cấp địa phương. Đó là các cơ quan của chính quyền Nhà nước mà Hiến pháp quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể cùng các mối tương quan qua lại. Lúc đó cũng có đảng chứ, và đảng cũng chi phối chính quyền chứ, có thể lãnh đạo nữa trên thực tế, nhưng dù lãnh đạo đi nữa, đảng cũng là một bộ phận của chính quyền Nhà nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lui nhắc tới hoài mãi : « Đảng ta là đảng cầm quyền ». Cầm quyền là cầm chính quyền trong Nhà nước, chứ đâu có đặt bày ra một khái niệm « Nhà nước » mông lung rồi giao cho nó cái phận sự của anh quản lý, làm việc dưới một thế lực lãnh đạo không pháp lý hóa được và cũng không muốn pháp lý hóa vì pháp lý hóa thì hóa ra nó ở dưới luật mất rồi, đâu còn tối cao nữa ! Tất cả nhập nhằng mà ai cũng biết và cũng nói từ lâu trong quan hệ giữa đảng và « Nhà nước » là do ở chỗ ấy : dẹp bỏ ngôn ngữ pháp lý của Hiến pháp 1946 và thay vào đó hai khái niệm chính trị bằng ngôn từ chính trị : « lãnh đạo » và « quản lý ». Chừng nào hai khái niệm chính trị ấy chưa làm đề tài để thay đổi tư duy, sửa đổi Hiến pháp chỉ là thay đổi văn bản chính trị này bằng văn bản chính trị khác, không ảnh hưởng thực sự gì đến đời sống pháp luật.
Vậy thì Nhà nước là gì, và vai trò đích thực của Nhà nước là gì ? Phe tự do nói : Nhà nước là trọng tài. Phe mác xít nói : là bộ máy nằm trong tay một giai cấp để bóc lột giai cấp khác. Gác ra ngoài tranh luận lý thuyết ấy, điều chắc chắn là lúc nhân loại đang còn ban sơ thì Nhà nước chưa có. Xã hội đầu tiên của loài người chắc hẳn là xã hội gia đình. Sau đó là thị tộc, đẳng cấp, bộ lạc... Nghĩa là Nhà nước không phải là cách tổ chức chính trị duy nhất của xã hội trong lịch sử nhân loại, nhưng là cách tổ chức chính trị mới mẻ nhất, hoàn hảo nhất. Nhà nước xuất hiện sau một quá trình tiến triển dài của những cấu trúc xã hội ; những cấu trúc này càng ngày càng trở nên phức tạp và càng được phân biệt với nhau. Nhà nước là sản phẩm của quá trình đó. Durkheim nói như vậy. Thuyết mác xít thì giải thích : Nhà nước xuất hiện lúc mà những mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa được nữa. Dưới cái nhìn này hay cái nhìn kia, Nhà nước đều xuất hiện ngay khi có một đầu não chính trị tách ra khỏi xã hội và làm nhiệm vụ tạo lập trật tự. Trong học thuyết mác xít, quyền hành từ xã hội mà ra nhưng lại có vẻ đứng lên trên xã hội để ngăn chận không cho những mâu thuẫn giai cấp đi đến mức làm tiêu diệt cả xã hội. Trong tư tưởng Durkheim, Nhà nước là một cơ quan có lý tính, có khả năng vượt qua những lợi ích và tranh chấp cá nhân.
Dù thế nào đi nữa, bản chất của Nhà nước là thống trị, thống trị bằng cách ban hành những quy tắc mà công dân phải tuân theo, nếu không thì sẽ bị trừng trị. Mà sự trừng trị của Nhà nước thì hiệu nghiệm lắm, bởi vì Nhà nước có độc quyền cưỡng chế bằng quân sự. Cưỡng chế, đó là đặc tính của Nhà nước. Lịch sử của Nhà nước là lịch sử của sự tập trung dần dà quyền hành cưỡng bức vào tay những người cai trị, và Nhà nước được đẻ ra lúc nó trở thành nguồn gốc chính đáng duy nhất của quyền lực và bạo lực. Nói một cách khác, Nhà nước chưa bao giờ chỉ làm công tác của một anh quản lý tính sổ tính sách. Nhà nước làm ra luật, Nhả nước ban hành luật, Nhà nước tạo ra các cơ quan để thi hành luật, Nhà nước trừng trị sự vi phạm luật, Nhà nước giải quyết những phân tranh xã hội, Nhà nước duy trì trật tự : đó không phải là quản lý, đó là cai trị, và Nhà nước nào cũng cai trị, kể cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù chỉ là trên danh nghĩa thôi, ai dám bảo Quốc hội của ta không cai trị ? Ông là « cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất » mà. Ai dám bảo ông thủ tướng hiện nay không cai trị ? Cai trị, không có gì khác hơn là soạn luật, làm ngân sách, thảo kế hoạch, bảo vệ trật tự an ninh. Dù cho ông làm dưới sự lãnh đạo của điều 4, bản chất của công việc ông làm là chính trị, không phải hành chánh. Dù có điều 4 đi nữa, khi ông làm những công việc có bản chất chính trị, bản chất quyền lực, bản chất cai trị rồi, thì ông không phải là anh quản lý nữa. Cho dù có lúc ông đội cái mũ quản lý, lúc nào ông cũng cai trị, hoặc là cai trị thông qua bộ máy của đảng, hoặc là cai trị thông qua bộ máy Nhà nước, hoặc là, nói cho chính xác, thông qua bộ máy của Đảng - Nhà nước. Nói Nhà nước không cai trị cũng như nói thiên lôi không có sét. Thiên lôi không quản lý sét cho ai ở trên đầu, thiên lôi đánh là đánh.
Bởi vì không có Nhà nước nào quản lý cả, bởi vì đã là Nhà nước thì là cai trị, là sử dụng quyền hành chính trị, quyền hành ý thức hệ, cho nên vấn đề cố hữu đặt ra là : Vậy thì đảng làm gì ? đảng ở đâu ? đảng « lãnh đạo » như thế nào ?
Chỉ có hai cách để giải quyết vấn đề. Một là đảng trực tiếp nắm hẳn quyền chính trị, sử dụng trực tiếp mọi quyền hành Nhà nước, và như vậy thì đừng phân biệt « lãnh đạo » và « quản lý » nữa trong đầu óc và trên giấy tờ, vì cả hai đã chính thức nhập làm một. Hai là tách đảng ra khỏi Nhà nước như đã từng tuyên bố lâu nay, và như vậy thì Nhà nước sẽ nắm thực quyền và khái niệm « lãnh đạo » phải quan niệm lại. Trong cả hai trường hợp, trường hợp nào cũng cần có con gà và nắm xôi để cúng tiễn đưa hương hồn anh quản lý về nơi chín suối.
*
Chuyện đã cũ, nói đi nói lại sợ nhàm mà chẳng được lợi lộc gì. Thế nhưng, mới cách đây mấy ngày thôi, hồi đầu tháng 11 này, báo Tuổi Trẻ có đăng bài phỏng vấn TS Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, mà nhan đề làm tôi giật mình : « Đổi mới là mệnh lệnh của thời đại ». Dù đã từng nhiều lần lạc quan, rồi thời đại vẫn qua mà đổi mới vẫn cứ là mệnh lệnh, tôi vẫn muốn tiếp tục lạc quan khi đọc đoạn cuối của bài phỏng vấn, trong đó ông phó chủ nhiệm kể lại lần gặp cố thủ tướng Võ Văn Kiệt vài tuần trước khi ông mất :
« Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng hơn, như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự « hóa thân » vào Nhà nước... Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta ».
Nói với ông Kiệt thì chỉ cần nửa lời ông cũng hiểu, vấn đề là có ai khác nữa hiểu như ông ? Ông phó chủ nhiệm nói thêm : « Thật ra, nhất thể hóa cũng đã được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả ». Đúng vậy, không có gì mới. Bản thân tôi cũng đã nói cách đây hơn hai mươi năm. Nhưng nói mà ai nghe ?
Dù vậy, mấy lời tâm huyết của TS Nguyễn Sĩ Dũng là tiếng nói của trí tuệ thức tỉnh, buộc trí thức phải lưu tâm. Cảm tạ lời nói đó, tôi nghĩ rằng : giá như Quốc hội chỉ đem vấn đề trọng yếu đáng nói này ra bàn thôi và gác qua một bên mọi chuyện hoa lá cành khác trong Dự thảo thì quả thật thời đại sẽ ăn mừng cho Việt Nam. Dù ăn mừng quá muộn.
Cao Huy Thuần
(Diễn đàn)

Bức tường Berlin sụp đổ : Nhìn lại bài học lịch sử 1989

Là sản phẩm của Chiến tranh lạnh và cũng là biểu tượng của thế giới lưỡng cực bên tự do tư bản bên độc tài Cộng sản, bức tường Berlin được phía Đông Đức xây dựng vào tháng 8 năm 1961 và sụp đổ vào ngày 9/11/1989. Vì sao bức tường chia cắt không tồn tại được trăm năm như lãnh đạo Đông Đức Honecker tuyên bố trước đó vài tháng ?

24 năm trước đây, bức tường Berlin sụp đổ trong bối cảnh hàng triệu dân Đông Đức biểu tình phản kháng tình trạng ù lì của chế độ Cộng sản và đòi quyền tự do sang Tây Đức.

Lễ hội tưng bừng vào đêm 09/11/1989 chào đón người dân hai miền được trùng phùng sau gần 40 năm chia cắt được xem là hệ quả của ngọn gió cải cách mà lãnh đạo Liên Xô thời bấy giờ là Mikhai Gorbatchev thực hiện từ năm 1985 thổi qua Đông Âu.

Một tháng trước khi xảy ra sự kiện lịch sử « bức tường ô nhục » sụp đổ, thì vào ngày 07/11/1989, nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Cộng Hòa Dân Chủ Đức, đích thân lãnh đạo Liên Xô kêu gọi Đông Đức « cải cách sâu rộng ».
Bức tường Berlin bên phía tây, trước ngày bị sụp đổ

Ngày 03/10/1990 nước Đức thống nhất. Bức tường Berlin sụp đổ kéo theo sự tan rã của toàn khối Cộng sản Đông Âu.

Tình trạng chính trị, kinh tế, xã hội Đông Đức lúc đó như thế nào? Vì sao giới lãnh đạo không thấy được chế độ bị thoái trào ?

Nhà nghiên cứu chính trị kinh tế Âu Dương Thệ, Dormund, Đức Quốc phân tích :

Từ « Bức tường Berlin còn tồn tại 50 -100 năm nữa » tới « Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.

I. Sự sụp đổ của Cộng Hòa Dân Chủ Đức

RFI đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu chính trị kinh tế Âu Dương Thệ, Dormund, Đức Quốc.

RFI :Bức tường Berlin đã sụp đổ như thế nào?

Âu Dương Thệ : Bức tường Berlin chia cắt thủ đô Berlin được xây rất đột ngột từ 1961 và được bảo vệ ngày đêm rất nghiêm ngặt và sắt máu bởi những lực lượng công an và quân đội Đông Đức. Bức tường Berlin là một biểu tượng ngăn chia giữa chế độ toàn trị Cộng sản Đông Đức (DDR) và chế độ dân chủ đa nguyên ở Tây Đức khi ấy. Nhưng đối với 17 triệu dân Đông Đức (ĐĐ) khi ấy và những người yêu chuộng tự do dân chủ thì đây là một „bức tường ô nhục“!

Mãi tới tháng 6.1989 TBT và Chủ tịch nước ĐĐ Erich Honeker vẫn còn tuyên bố ngay tại Mạc tư khoa là “Bức tường Berlin sẽ còn tồn tại 50 tới 100 năm nữa!“. Nhưng chỉ gần nửa năm sau, ngày 9.11.1989, hàng chục ngàn nhân dân Đông Berlin và Tây Berlin đã leo lên bức tường chia cắt hai thành phố và đục đổ bức tường ô nhục, chấm dứt chế độ toàn trị và mở đường cho 17 triệu dân DDR thống nhất với Tây Đức trong hòa bình và tự do dân chủ. Bức tường Berlin sụp đổ chỉ sau 3 tuần Bộ Chính trị Cộng sản Đông Đức truất phế Honecker. Và chỉ một ngày sau (8.11.89) Bộ Chính trị cho điều tra về sự lạm dụng quyền lực và tham nhũng của Honecker sau gần 20 năm làm Tổng bí thư và Chủ tịch nước.

RFI :Cuộc cải tổ sâu rộng ở Liên Xô của Mikhail Gorbatchev ảnh hưởng gì tới sự sụp đổ của Đông Đức?

Chế độ toàn trị ở Đông Đức không do nhân dân Đông Đức thành lập mà do Hồng quân Liên Xô dựng lên sau khi chế độ độc tài Hitler thất bại trong Thế chiến Thứ 2 (1939-1945). Cho nên dưới con mắt của nhân dân Đông Đức, những người cầm đầu Cộng sản Đông Đức chỉ là cánh tay dài của đảng Cộng sản Liên Xô, không được sư tín nhiệm của nhân dân. Hiến pháp của Đông Đức cũ - cũng tương tự như Hiến pháp của chế độ toàn trị ở Việt Nam - ngay phần mở đầu và Điều 1 đã đề cao chủ nghĩa Marx-Lenin và đảng Cộng sản Đông Đức là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội.

Như vậy chế độ toàn trị ở Đông Đức chỉ có thể tồn tại chừng nào còn được Liên Xô ủng hộ và chừng nào Mạc tư khoa còn nắm vững tình hình cả trong lẫn ngoài. Các điều kiện này đã bị mất dần từ khi Gorbatchev làm Tổng Bí thư đảng Cộng sản Liên Xô (1985) với những thay đổi toàn diện các chính sách đối nội và đối ngoại, nhất là với Khối quân sự Vac-xa-va bao gồm nhiều nước Cộng sản Đông Âu, trong đó có Đông Đức. Biến động chính trị vào mùa hè 1989 ở Ba Lan chuyển từ độc tài toàn trị sang dân chủ đa nguyên đã như trận động đất khủng khiếp trong Thế giới Cộng sản. Liên Xô không can thiệp, vì Gorbachov đã đề ra chủ trương không can thiệp vào nội bộ các nước đồng minh. Chấn động chính trị rất mạnh khi ấy đã dội tới cả VN khiến Nguyễn Văn Linh phải trở lại với chính sách đàn áp văn nghệ sĩ và báo chí, đồng thời khởi đầu giải pháp cầu hòa với Bắc kinh.

RFI :Tại sao nhóm lãnh đạo CS Đông Đức đã mất uy tín với nhân dân?

Sau Thế chiến 2 cả Tây và Đông Đức kinh tế hầu như tàn rụi, nhưng Tây Đức chỉ sau khoảng 2 thập niên đã trở thành một cường quốc kinh tế ở Âu Châu với kĩ nghệ tân tiến và trên 60 triệu dân được hưởng cuộc sống sung túc và tự do. Trong khi đó kinh tế Đông Đức theo kế hoạch hóa, công hữu đất đai nên không ngóc đầu lên được. Chỉ vài thí dụ dẫn chứng, Auto hiệu Trabant của Đông Đức tuy rất tồi về kĩ thuật, nhưng muốn mua cũng phải đặt cọc cả hàng năm trước. Sau khi bức tường Berlin bị đổ hàng vạn người Đông Đức chạy vào các siêu thị ở Tây Berlin, thứ hàng được họ ưa chuộng nhất là chuối tiêu. Vì ở Đông Đức chuối tiêu là một xa xỉ phẩm phải nhập cảng bằng ngoại tệ, nhưng Cộng Hòa Dân Chủ Đức không đủ ngoại tệ. Trong khi đó sau khi Đức thống nhất người ta đã tìm thấy trong các biệt thự của các ủy viên Bộ chính trị chỉ toàn các sản phẩm hạng sang, nhập cảng từ Tây Đức và các nước tư bản như TV, tủ lạnh, máy giặt, máy rửa chén …!

Các sự kiện đó chứng minh là, những người lãnh đạo Đông Đức khi ấy chỉ là những người đạo đức giả, sống trong nhung lụa, không quan tâm tới cuộc sống của người dân, nhưng vẫn tiếp tục cai trị bằng chế độ công an mật vụ - Stasi - và vẫn đề cao chủ nghĩa Marx-Lenin đã hoàn toàn bất cập. Ngay cả khi Gorbatchev đã tiến hành cải tổ sâu rộng ở Liên Xô, nhưng ông Honecker vẫn từ chối cải cách. Cho nên nhân dân Đông Đức ngày càng bất mãn. Vì thế trong dịp dự lễ Quốc khánh thứ 40 của Đông Đức Gorbatchev đã cảnh báo “Kẻ nào đi muộn sẽ bị đời trừng phạt”. Chính khi ấy Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cũng có mặt trong cuộc lễ này và tính ở lại nghỉ một thời gian, nhưng khi Honecker bị truất phế (18.10.89), đã phải hấp tấp về nước.

RFI :Phong trào đòi dân chủ của nhân dân Đông Đức khi ấy ra sao?

Theo dõi nội tình của Đông Đức từ khi được Liên Xô dựng lên vào sau Thế chiến Thứ hai thì thấy, ngay 1953 người dân Đông Đức đã có cuộc nổi dậy rất lớn, nhưng đã bị các sư đoàn Hồng quân Liên Xô sử dụng thiết giáp đàn áp. Các cuộc vận động dân chủ phải tạm thời chuyển vào các hoạt động xã hội -tôn giáo, đặc biệt của Giáo hội Tin lành ở Đông Đức. Mãi tới khi Hiệp ước An ninh và Hợp tác Âu Châu (KSZE) được kí kết ở Thủ đô Helsinki (Phần Lan) 1975 giữa một bên là Liên Xô cùng các nước Cộng sản Đông Âu và bên kia là Mĩ, Gia Nã đại và các nước Tây Âu thì các cuộc vận động cho nhân quyền và tự do dân chủ lại bộc pháp trở lại rất nhanh và rất mạnh. Vì Hiệp ước Helsinki, ngoài việc gìn giữ hòa bình và hợp tác ở Âu Châu, còn qui định cả việc thừa nhận trao đổi thông tin giữa hai khối và bảo đảm nhân quyền cùng các quyền tự do căn bản.

Lúc đầu những người sáng lập tổ chức “Sáng kiến vì Hòa bình và Nhân quyền” (IFM) đưa ra phong trào “Hòa bình và Nhân quyề” theo những qui định của Hiệp ước Helsinki với chương trình hành động gần giống Hiến chương 77 của nhóm ông V. Havel (Tiệp) và trở thành nhóm đối lập quan trong ngay trong lòng chế độ toàn trị DDR.

Các biến động chính trị lớn vào mùa hè 1989 ở Ba lan đã làm bùng nổ phong trào tị nạn của hàng chục ngàn người dân Đông Đức chạy sang các nước lân bang như Hung, Tiệp và vào các sứ quán Tây Đức xin tị nạn chính trị. Chính các cuộc tị nạn đông đảo này đã gây thêm phân hóa trầm trọng ngay trong Bộ chính trị ĐCS ĐD và khiến cho phong trào đòi tự do dân chủ ở Đông Đức đạt đến cao độ. Một phong trào đối lập mới ra đời ở Đông Đức là “Tân Diễn đàn“ (Neus Forum) vào cuối hè 1989 và ra Lời kêu gọi “Vùng lên 89“ (Aufbruch 89) đòi đối thoại giữa nhân dân với nhà cầm quyền để cải tổ chính trị theo hướng dân chủ. Chỉ vài tháng sau đã có trên 200.000 người kí tên ủng hộ Lời kêu gọi.

Các cuộc biểu tình vào chiều Thứ hai mỗi tuần xuất phát từ nhà thờ Nikolaikirche ở Leipzig với các khẩu hiệu „Chúng tôi là nhân dân“, „Khước từ bạo lực“ vào 4.9.89 đã có sức thu hút sự tham gia tích cực của nhân dân rất mạnh, đầu tháng 9 chỉ có 1200 người nhưng tới cuối tháng 10 đã có tới nửa triệu người tham dự. Nó còn thuyết phục cả nhiều cán bộ cao cấp đảng Cộng sản Đông Đức ở địa phương tham gia và nhiều đơn vị công an, quân đội đã chống lại lệnh của Honecker từ chối dùng vũ lực đàn áp người biểu tình. Chỉ một tuần trước khi bức tường Berlin sụp đổ đã diễn ra cuộc biểu tình rất lớn ở quảng trường Alexanderplatz , Đông Berlin với khoảng nửa triệu người tham dự.

RFI :Tây Đức và Liên Hiệp Châu Âu (EU) đã đóng vai trò như thế nào đối với các phong trào đòi dân chủ ở DDR và Đông Âu?

Cuộc „Cách mạng nhung“ diễn ra ở Đông Đức và hầu hết các nước Cộng sản Đông Âu đã diễn ra trong hòa bình, mở ra một kỉ nguyên mới về phương thức thay đổi thể chế chính trị so với các thế kỉ trước đây chỉ thuần dùng bạo lực. Thành công nhanh chóng, lớn lao và ít hao tổn nhân mạng và tài sản này là sáng kiến và công lao đầu tiên của chính nhân dân Đông Đức và các nước Đông Âu. Điều này thật rõ ràng không ai có thể phủ nhận được. Vì họ đã biết kết hợp sức mạnh nội lực và sức mạnh quốc tế của thời đại vào đúng lúc, đúng chỗ.

Nhưng sự hậu thuẫn cả về tinh thần lẫn vật chất của Tây Đức cho Đông Đức và Liên Hiệp Châu Âu cho toàn bộ Đông Âu là một yếu tố cực kì quan trọng. Chính sự hưng thịnh vững vàng của Liên Âu (khi ấy với 12 nước và khoảng 300 triệu người) cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã trở thành một tấm gương cho các cuộc vận động dân chủ tự do ở Đông Đức và Đông Âu trong thập niên 80 vừa qua. Trong các sách Hồi kí của cựu Thủ tướng Đức Helmut Kohl và cựu Ngoại trưởng Đức D.Genscher, cũng như nhiều sách nghiên cứu của các chuyên gia chính trị đã xác nhận, Liên Âu là hậu phương vững chắc cho sự thống nhất Đức và thay đổi thể chế chính trị trong hòa bình và nhanh gọn ở Đông Âu trên hai thập niên trước đây.

II. Cuối trào của triều đình XHCN ở VN?

RFI :Đâu là những tương đồng lớn giữa hai chế độ toàn trị ở Đông Đức và Việt Nam?

Ngày 23.10 trong cuộc họp tổ ở Quốc hội bàn về „Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992“ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố “Xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Khi chọn cách chơi chữ như vậy, người cầm đầu chế độ đồng thời là lí thuyết gia của Đảng muốn để cho mọi người biết là, chế độ toàn trị sẽ còn tồn tại tiếp tục cả thế kỉ nữa ở Việt Nam. Một sự tình cờ là, ý tưởng này cũng giống như tuyên bố của Honecker vào giữa năm 1989 „Bức tường Berlin còn tồn tại 50-100 năm“. Tuyên bố giống nhau của hai thủ lãnh độc tài cho thấy, đây là cách nói cường điệu khi họ phải đối diện với nguy cơ. Nhưng điều gì đã xẩy ra ở DDR chỉ nội sáu tháng sau đó thì đã trở thành một sự kiện lịch sử ai cũng biết.

So sánh hai chế độ toàn trị ở VN hiện nay và ở cựu Đông Đức thì tuy có một số điểm khác nhau, nhưng tương đồng là chính. Những người cầm đầu chế độ toàn trị ở VN, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, cũng rất giáo điều và bảo thủ, bất chấp tình hình quốc tế và trong nước đã thay đổi triệt để, nhưng họ vẫn chống lại nguyện vọng của nhân dân, như Honecker trước đây hơn 20 năm ở ĐĐ. Điển hình mới nhất như trong việc gọi là sửa đổi Hiến pháp. Khởi đầu họ kêu gọi mọi người góp ý kiến và sẵn sàng nghe cả ý kiến trái chiều. Nhưng khi nhân dân thuộc nhiều giới công khai đóng góp ý kiến, đại biểu cụ thể là “Kiến nghị 72” do nhiều nhân sĩ , trí thức trong và ngoài nước đưa ra và được cả hàng ngàn người thuộc nhiều giới- kể cả nhiều đảng viên tiến bộ- kí tên đồng ý thì ông Trọng đã rất kiêu căng ngạo mạn kết án “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! » Đúng ra phải trân trọng đối thoại với dân, nhưng ông Trọng đã cao ngạo khinh thường những đóng góp thành thực này. Vì vậy chính ông Trọng đã tự đánh mất tư cách và khả năng của người lãnh đạo!

Tại Hội nghị Trung ương 8 đầu tháng 10 những người bảo thủ và các nhóm lợi ích trong Trung ương đã thỏa hiệp ngầm với nhau bắt Quốc hội phải thông qua „Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992“ ngay trong kì họp thứ 6 này để mong kéo dài chế độ độc tài. Mặc dầu những điều căn bản vẫn còn tranh cãi, như để ĐCS độc quyền tiếp tục, kinh tế Nhà nước vẫn nắm chủ đạo, đất đai vẫn thuộc quyền công hữu, quân đội và công an phải tuyệt đối trung thành với Đảng…!

RFI :Sự bất lực và tha hóa đạo đức của những người có quyền lực ở Việt Nam như thế nào và dẫn tới những hậu quả gì?

Chính ông Trọng và các ủy viên Bộ chinh trị đã biết rằng, việc duy trì chế độ độc đảng, trong đó giành quyền ưu đãi gần như tuyệt đối cho những người có quyền lực ở trung ương và địa phương đã không làm chế độ ổn định, mà chỉ phát sinh thêm và trầm trọng hơn tệ trạng tham nhũng của bọn quan tham, biến các tập đoàn nhà nước thành nơi chia quyền, đục khoét tài sản quốc gia một cách vô trách nhiệm. Điển hình như việc làm ăn thua lỗ của Tập đoàn Vinashin vừa phải phá sản ít ngày trước, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tập đoàn Than Việt Nam…đã làm thất thoát cả hàng chục tỉ Mĩ kim. Trong vụ Vinashin Nguyễn Tấn Dũng đã hai lần xin lỗi và nhận trách nhiệm, nhưng ông ta vẫn chỗm chệ ở ghế Thủ tướng!

Chỉ có nhân dân phải gánh vác các hậu quả tại hại này. Rõ ràng nhất như nạn lạm phát cao và thường xuyên trong nhiều năm làm cho cuộc sống của nhân dân rất cơ cực; nợ công ngày càng phình ra đang tới mức mất kiểm soát –trong báo cáo vừa qua tại Quốc hội, Nguyễn Tấn Dũng đòi tăng ngân sách lên 5,3%. Nhiều chuyên viên Việt Nam và các tổ chức tài chánh quốc tế, như Ngân hàng Thế giới, đã cho biết, các con số nợ công mà chính phủ đưa ra còn thấp hơn rất nhiều so với thực tế! Trong ba năm trở lại đây mức tăng trưởng kinh tế của VN mỗi năm lại đi xuống, trong khi nhiều nước trong khu vực lại đang lên!

Trong khi tiền thuế của nhân dân và tài nguyên của đất nước bị lạm dụng và lãng phí khủng khiếp thì sự giầu lên nhanh và bất chính của cán bộ có quyền đã trở thành công khai. Chính ông Trọng đã nói trong nhiều Hội nghị trung ương và qua phong trào chỉnh đảng với các cuộc tự phê bình và phê bình ngay trong Bộ chính trị kéo dài nhiều tuần lễ trong năm 2012…. Nhưng việc chống tham nhũng đã thất bại, không những thế dự tính đòi kỉ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không thành và đang tạo nên sự chống đối công khai lẫn nhau. Hiện nay Chủ tịch nước Trương Tấn Sang còn kể tiếu lâm, chế diễu công khai cả Nguyễn Phú Trọng lẫn Nguyễn Tấn Dũng.

Nguy hiểm nữa là, do những khó khăn kinh tế, tài chánh và không được sự tin cậy của nhân dân, nên những người lãnh đạo chế độ ngày càng phải quỵ lụy Bắc kinh nhằm mưu đồ bảo vệ cái ghế và tiền bạc. Điển hình nhất là Thông cáo chung 10 điểm ngày 15.10 giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã mở toang cửa cho Bắc kinh tham dự và can thiệp vào nhiều lãnh vực của VN từ quốc phòng, an ninh, chính trị, ngoại giao tới kinh tế, tài chánh, báo chí và văn hóa tư tưởng! An ninh và chủ quyền của Việt Nam đang bị đe dọa!

Nói tóm lại, vì thiếu năng lực và tha hóa đạo đức, nên những người đang nắm quyền lực đang đục ruỗng gia tài của Đảng do các thế hệ trước để lại!

RFI : Các cuộc vận động dân chủ ở trong nước đang phát triển như thế nào?

Chính vì thế, mặc dầu bị đe dọa của chế độ công an trị cực kì tàn bạo, nhưng nhân dân nhiều giới, từ trí thức, chuyên viên, thanh niên, công nhân và nông dân và cả nhiều đảng viên biết quí tự trọng đã không còn sợ. Trong những năm gần đây nhiều giới ở trong nước theo dõi rất sát tình hình thời cuộc và đặc biệt xung đột ở đầu não chế độ toàn trị. Nhiều cuộc vận động đã bung ra trong các lãnh vực đang có bức xúc lớn, như các biểu tình chống sự xâm lấn của Bắc kinh, ủng hộ các vụ khiếu kiện đất đai của nông dân, nhà thờ, đòi tự do cho các thanh niên và các Blogger bị giam giữ trái phép, ra các Kiến nghị và Tuyên bố về sửa đổi Hiến pháp…Phương pháp tranh đấu là hòa bình, khước từ bạo lực, với mục tiêu trong sáng là chấm dứt đàn áp, công an trị và bảo vệ nhân quyền, tiến tới dân chủ đa nguyên. Vài năm trước chỉ có một số người, nhưng nay đang lan tỏa ra nhiều giới và sự tham gia ngày càng tích cực và đông đảo.

Đặc biệt nữa là, các cuộc vận động này đã biết tận dụng các phương tiện thông tin nhanh chóng và quảng đại là Internet cả trong nước lẫn ngoài nước. Nên không chỉ nhiều giới ở trong nước mà cả báo chí quốc tế và chính giới các nước dân chủ biết rất rõ về Kiến nghị 72 của hàng ngàn trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên và đảng viên tiến bộ đòi thay đổi thực sự và toàn diện Hiến pháp, các tuyên bố của Phật giáo và Công giáo, « Tuyên bố về Thực thi Quyền Dân sự và Chính trị », « Tuyên bố 258 » của những người trẻ Việt Nam !, lời kêu gọi từ bỏ Đảng CS và lâp đảng Dân chủ Xã hội của Lê Hiếu Đằng, hay mới đây lời nói rất khẳng khái và đúng đắn của nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên mới 21tuổi tại tòa án « Tôi yêu Tổ quốc, nhưng xin đừng đánh đồng với Đảng ».

RFI :Rút ra bài học nào từ Đông Đức, Đông Âu tới Việt Nam ?

Thế hệ Cộng sản Việt Nam đầu tiên đã biết thu phục nhân dân và có công rất lớn trong việc giành lại độc lập. Đây là gia tài rất quí để lại. Nhưng các thế hệ tiếp sau đã không biết gìn giữ và vun bồi. Trái lại, càng về sau bọn con cháu chỉ thích ham chơi hoang phí và làm điều bạo ngược chống lại dân, tự đánh mất tư cách lãnh đạo. Họ còn đang tháo khoán cho Bắc kinh thực hiện chính sách bành trướng ở biển Đông và bòn rút tài nguyên của Việt Nam . Chính vì thế họ là những người đang đục ruỗng gia tài của Đảng, không những thế còn đang chia bè, chia cánh, tranh giành quyền lợi ích kỉ và thanh toán lẫn nhau!

Vì vậy nhân dân ta đã thức tỉnh và đang đứng dậy, không thể chờ và tin vào những lời hứa cuội của những người cầm đầu chế độ toàn trị! Các cuộc vận động dân chủ đang lên cao ở trong nước cho thấy, nhân dân Việt Nam đang tự tin, quyết nắm lấy tương lai trong chính tay mình.

Tóm lại, trước đây trên hai thập kỉ nhân dân Đông Đức và các nước Cộng sản Đông Âu đã đứng dậy chấm dứt các chế độ toàn trị của các tập đoàn lãnh đạo tham nhũng, bất lực và ích kỉ. Nay nhân dân Việt Nam cũng đang hành động chính nghĩa như vậy!
  (RFI)

2113. THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI NGHỊ TRƯNG ƯƠNG 3 KHÓA 18 ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 14/11/2013
TTXVN (Bắc Kinh 13/11)
 (Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá 18 thông qua ngày 12/11/2013)
Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá 18 (Hội nghị Trung ương 3 khoá 18) diễn ra từ ngày 9-12/11/2013 tại Bắc Kinh.

Tham dự Hội nghị lần này có 204 ủy viên Trung ương, 169 ủy viên dự khuyết. Các ủy viên Thường vụ ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương và các đồng chí phụ trách liên quan tham dự Hội nghị. Một số đồng chí cấp cơ sở và chuyên gia học giả trong số đại biểu Đại hội 18 của Đảng cũng tham dự Hội nghị.
Hội nghị Trung ương 3 khoá 18 do Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trì. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình có bài phát biểu quan trọng.
Hội nghị đã lắng nghe và thảo luận Báo cáo công tác được Bộ Chính trị uỷ thác cho đồng chí Tập Cận Bình trình bầy, xem xét và thông qua “Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số vấn đề trọng đại liên quan tới cải cách sâu rộng toàn diện”. Đồng chí Tập Cận Bình đã trình bầy trước Hội nghị nội dung bản dự thảo nghị quyết.
Hội nghị đánh giá cao công tác của Bộ Chính trị kể từ Đại hội 18 của Đảng đến nay. Hội nghị cũng nhất chí rằng đứng trước tình hình quốc tế hết sức phức tạp và nhiệm vụ cải cách, phát triển ổn định trong nước vô cùng gian khó, nặng nề, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quán triệt toàn diện tinh thần Đại hội 18 và Hội nghị Trung ương 1, Hội nghị Trung ương 2, giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, lấy lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học làm nguyên tắc chỉ đạo, đoàn kết dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc trên toàn quốc, kiên trì quan điểm cơ bản của công tác là tiến lên trong ổn định, ra sức tăng trưởng ổn định, điều chỉnh kết cấu, thúc đấy cải cách, bình tĩnh ứng phó với các thách thức rủi ro, đẩy mạnh toàn diện xây dụng kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và xây dựng văn minh sinh thái xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy toàn diện công trình vĩ đại mới về xây dựng Đảng, đẩy mạnh vững chắc hoạt động thực tiễn giáo dục đường lối quần chúng của Đảng. Các mặt công tác đã thu được tiến triển mới, thành quả của đẩy mạnh phát triển đã đem lại nhiều lợi ích và công bằng hơn cho toàn thể nhân dân, đã thực hiện một năm khởi đầu tốt đẹp, quán triệt tinh thần Đại hội 18 của Đảng.
Hội nghị đánh giá cao thực tiễn thành công và thành tựu vĩ đại của 35 năm cải cách mở cửa của Hội nghị Trung ương 3 khoá 11, đã nghiên cứu một số vấn đề quan trọng về đi sâu cải cách toàn diện, cho rằng cải cách mở cửa là cuộc cách mạng vĩ đại mà Đảng dẫn dắt nhân dân các dân tộc toàn quốc trong điều kiện thời đại mới, là đặc sắc tươi sáng nhất của Trung Quốc ngày nay, là lựa chọn then chốt quyết định vận mệnh Trung Quốc đương đại, là phép mầu quan trọng trong sự nghiệp của Đảng và nhân dân theo kịp thời đại. Đứng trước tình hình mới, nhiệm vụ mới, xây dựng toàn diện xã hội khá giả, tiến tới xây dựng thành công giấc mộng Trung Hoa về một đất nước hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa giầu mạnh, dân chủ văn minh, hài hoà, phục hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại, cần phải đi sâu cải cách toàn diện trên khởi điểm lịch sử mới.
Hội nghị nhấn mạnh đi sâu cải cách toàn diện, cần phải giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học làm nguyên tắc chỉ đạo, kiên định lòng tin, tạo sự đồng thuận, lập kế hoạch tổng thể, chỉ đạo điều phối kiên trì phương hướng cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, lấy thúc đẩy công bằng chính nghĩa xã hội, tăng thêm phúc lợi nhân dân làm xuất phát điểm và đích đến, tiến thêm một bước trong việc giải phóng tư tưởng, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội, giải phóng và tăng cường sức sống xã hội, kiên quyết bài trừ các tệ nạn trong thể chế, cơ chế, nỗ lực mở ra tương lai rộng mở hơn cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Hội nghị chỉ rõ mục tiêu chung của đi sâu cải cách toàn diện là hoàn thiện và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thúc đẩy hiện đại hoá hệ thống quản lý và năng lực quản lý của đất nước. Cần phải chú trọng hơn tính hệ thống, tổng thể và phối hợp trong cải cách, đẩy nhanh phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, chính trị dân chủ, văn hoá tiên tiến, xã hội hài hoà và văn minh sinh thái, kết hợp sức lao động, tri thức, công nghệ, quản lý và tài chính để tạo thêm nhiều của cải xã hội, để thành quả phát triển mang lại nhiều lợi ích hơn và công bằng hơn cho toàn thể nhân dân.
Hội nghị chỉ rõ phải bám sát đề cao vai trò của thị trường, để thị trường giữ vai trò quyết định trong phân phối tài nguyên, cải cách sâu rộng thể chế kinh tế, kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống thị trường hiện đại, hệ thống điều tiết vĩ mô, hệ thống kinh tế theo mô hình mở, đẩy nhanh chuyển biến phương thức phát triển kinh tế, đẩy nhanh xây dựng nhà nước theo mô hình đổi mới, thúc đẩy kinh tế phát triển hiệu quả hơn, công bằng hơn, bền vững hơn; bám sát đi sâu cải cách thể chế chính trị một cách thống nhất hữu cơ giữa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ và quản lý đất nước theo pháp luật, đẩy nhanh thực hiện chế độ hoá, quy phạm hoá, trình tự hoá chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa, phát triển dân chủ nhân dân rộng khắp hơn, phong phú hơn, kiện toàn hơn; bám sát đi sâu cải cách thể chế văn hoá theo hướng xây dựng thể chế giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa và cường quốc văn hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế quản lý văn hoá và thể chế sản xuất kinh doanh văn hoá, xây dựng và kiện toàn hệ thống dịch vụ văn hoá cộng đồng hiện đại, hệ thống thị trường văn hoá hiện đại, thúc đẩy văn hoá xã hội chủ nghĩa phát triển hơn nữa, phong phú hơn nữa; bám sát đi sâu cải cách thể chế xã hội theo hướng đảm bảo tốt hơn về an sinh xã hội, thúc đẩy xã hội công bằng, cải cách chế độ phân phối thu nhập, thúc đẩy cùng giầu có, đẩy mạnh đổi mới chế độ xã hội, thúc đẩy đồng đều hóa dịch vụ công cơ bản, đẩy nhanh hình thành thể chế quản lý xã hội khoa học hiệu quả, bảo đảm xã hội vừa có sức sống mạnh mẽ vừa hài hoà có trật tự; bám sát đi sâu cải cách thể chế văn minh sinh thái theo hướng xây dựng Trung Quốc mỹ lệ, đẩy nhanh xây dựng chế độ văn minh sinh thái, kiện toàn thể chế, cơ chế khai thác phát triển không gian lãnh thổ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy hình thành cục diện mới về xây dựng hiện đại hoá phát triển hài hoà giữa con người với thiên nhiên; bám sát đi sâu cải cách công tác xây dựng Đảng theo hướng nâng cao trình độ thực thi quyền lực khoa học, thực thi quyền lực dân chủ và thực thi quyền lực theo pháp luật, tăng cường xây dựng chế độ tập trung dân chủ, hoàn thiện thể chế lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng, giữ gìn tính tiên tiến, tính thuần khiết của Đảng, bảo đảm giữ vững nền tảng chính trị kiên cường cho công cuộc cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị chỉ rõ đi sâu cải cách toàn diện phải xuất phát từ thực tế lớn nhất là Trung Quốc ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội trong suốt một thời gian dài, kiên trì phát triển vẫn là chiến lược trọng đại, là mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề của Trung Quốc, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, phát huy vai trò dẫn dắt của cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy quan hệ sản xuất và sức sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải thích ứng với cơ sở kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội tiếp tục phát triển lành mạnh.
Hội nghị nêu rõ cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm đi sâu cải cách toàn diện, vấn đề cốt lõi là giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính phủ với thị trường, làm cho thị trường giữ vai trò mang tính quyết định trong phân phối tài nguyên và phát huy tốt hơn vai trò của chính phủ.
Hội nghị cũng nhấn mạnh thực tiễn cải cách mở cửa thành công là kinh nghiệm quan trọng cho đi sâu cải cách toàn diện, phải kiên trì lâu dài. Điều quan trọng nhất là kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đường lối cơ bản của Đảng, không đi con đường cũ là đóng cửa, cứng nhắc, không đi theo con đường bất chính thay đổi hình thái ý thức chính trị (ám chỉ con đường tư bản chủ nghĩa phương tây), kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc kiên định đảm bảo phương hướng cải cách đúng đắn, kiên trì giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, theo kịp thời đại, thực chất, tất cả đều phải xuất phát từ thực tế, tổng kết biện pháp thành công trong nước, học tập kinh nghiệm có lợi của nước ngoài, mạnh dạn thúc đẩy sáng tạo lý luận và thực tiễn; kiên trì lấy con người làm gốc, tôn trọng vai trò chủ thể của nhân dân, phát huy tinh thần sáng tạo của quần chúng, dựa vào nhân dân để thúc đẩy cải cách, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người; kiên trì giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định, mạnh dạn, tiến bước vững chắc, tăng cường kết hợp giữa xây dựng kiến trúc thượng tầng và dò đá qua sông, thúc đẩy thực hiện tổng thể và đột phá trọng điểm, nâng cao tính khoa học trong quyết sách cải cách, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, hình thành sức mạnh cải cách tổng hợp.
Hội nghị yêu cầu đến năm 2020, trong cải cách lĩnh vực quan trọng và khâu then chốt phải đạt được thành quả mang tính quyết định, hình thành hệ thống chế độ hoàn thiện, khoa học quy phạm, vận hành hiệu quả, làm cho chế độ hoàn thiện hơn, định hình hơn về mọi mặt.
Đối với đi sâu cải cách toàn diện, Hội nghị đề ra phải bố trí có hệ thống, nhấn mạnh kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, tăng cường hoàn thiện hệ thống thị trường hiện đại, đẩy nhanh việc chuyển đổi chức năng chính phủ, đi sâu cải cách chế độ thuế, kiện toàn cơ chế nhất thể hóa phát triển thành thị nông thôn, xây dựng thể chế kinh tế mới theo hướng mở cửa, tăng cường xây dựng chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy xây dựng Trung Quốc pháp trị, tăng cường hệ thống giám sát và kiểm soát quyền lực, thúc đẩy sáng tạo cơ chế văn hóa, thúc đẩy sáng tạo sự nghiệp cải cách xã hội, sáng tạo thể chế quản lý xã hội, đẩy nhanh xây dựng chế độ văn minh sinh thái, đi sâu cải cách quốc phòng và quân đội, tăng cường và cải thiện sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đi sâu cải cách mở cửa.
Hội nghị chỉ rõ thể chế kinh tế cơ bản trong đó sở hữu nhà nước là một chủ thể, phát triển đồng thời nhiều hình thức sở hữu là trụ cột quan trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, cũng là nền móng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và không thuộc sở hữu nhà nước đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đều là cơ sở quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc. Phải kiên trì củng cố và phát triển kinh tế sở hữu nhà nước, coi trọng vai trò chủ thể của chế độ sở hữu nhà nước, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu, không ngừng tăng cường sức sống, sức khống chế, sức ảnh hựởng của kinh tế quốc hữu. Phải không ngừng khuyến khích, ủng hộ, dẫn dắt sự phát triển kinh tế chế độ không thuộc sở hữu nhà nước, khơi nguồn sức sống và sức sáng tạo của kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước. Phải hoàn thiện chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tích cực phát triển kinh tế sở hữu nhiều thành phần, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoàn thiện chế độ doanh nghiệp hiện đại, ủng hộ kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước phát triển lành mạnh.
Hội nghị nêu rõ xây dựng hệ thống thị trường mở cửa đồng nhất, cạnh tranh có trật tự là cơ sở để thị trường có vai trò mang tính quyết định trong phân phối tài nguyên. Phải đẩy nhanh hình thành hệ thống thị trường hiện đại doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, cạnh tranh công bằng, người tiêu dùng tự do lựa chọn, tự chủ tiêu dùng, hàng hóa tự do lưu thông, trao đổi bình đẳng, ra sức xóa bỏ rào cản thị trường, nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong phân phối tài nguyên. Phải xây dựng nguyên tắc thị trường công bằng, mở cửa, minh bạch, hoàn thiện cơ chế giá chủ yếu do thị trường quyết định, xây dựng thị trường đất đai thống nhất giữa thành thị và nông thôn, hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính, đi sâu cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
Hội nghị chỉ rõ điều chỉnh vĩ mô khoa học, quản lý chính phủ hiệu quả là yêu cầu nội tại phát huy ưu thế của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Phải chuyển đổi thiết thực chức năng chính phủ, đi sâu cải cách thể chế hành chính, sáng tạo phương thức quản lý hành chính, củng cố lòng tin và chấp hành sự chỉ đạo chính phủ, xây dựng chính phủ pháp trị và chính phủ theo kiểu phục vụ. Phải kiện toàn hệ thống điều hành, điều tiết vĩ mô, thực hiện toàn diện, đúng đắn chức năng chính phủ, tối ưu hóa kết cấu tổ chức chính phủ, nâng cao trình độ quản lý khoa học.
Hội nghị nêu rõ tài chính là cơ sở và trụ cột quan trọng trong quản trị quốc gia, thể chế hóa thuế và tài chính một cách khoa học là sự bảo đảm chế độ tối ưu hóa phân phối tài nguyên, duy trì sự đồng nhất của thị trường, thúc đẩy công bằng xã hội, giữ gìn ổn định trị an xã hội. Phải hoàn thiện lập pháp, xác định rõ quyền lực, cải cách chế độ thuế ổn định, dự toán minh bạch, nâng cao hiệu quả, xây dựng chế độ tài chính hiện đại, phát huy tính tích cực của trung ương và địa phương. Phải cải tiến chế độ quản lý dự toán, hoàn thiện chế độ thu thuế, xây dựng chế độ quyền và trách nhiệm chi tiêu cùng phù hợp.
Hội nghị nêu rõ rằng kết cấu nhị nguyên thành thị-nông thôn là trở ngại chủ yếu trói buộc nhất thể hóa phát triển thành thị-nông thôn. Phải kiện toàn cơ chế thể chế, hình thành hệ thống thành thị-nông thôn công nông kiểu mới lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, lấy thành thị vực nông thôn, phát triển đồng thời cả công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn là một chính thể thống nhất, để đông đảo nông dân bình đẳng tham gia tiến trình hiện đại hóa, cùng chia sẻ thành quả hiện đại hóa. Phải đẩy nhanh xây dụng hệ thống kinh doanh nông nghiệp kiểu mới, trao cho nông dân nhiều quyền về tài sản hơn nữa, thúc đẩy phân phối công bằng tài nguyên chung và trao đổi bình đẳng, hoàn thiện cơ chế đô thị hóa phát triển lành mạnh.
Hội nghị chỉ rõ rằng để thích ứng với tình hình kinh tế toàn cầu hóa mới, phải đẩy mạnh mở cửa đối nội, đối ngoại, kết hợp tốt giữa thu hút đầu tư và đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy yếu tố quốc tế và trong nước lưu thông tự do có trật tự, sử dụng hiệu quả tài nguyên, thâm nhập sâu vào thị trường, tạo ra nhiều ưu thế cạnh tranh mới đế tham gia và dẫn dắt hơp tác kinh tế thế giới, góp phần đẩy nhanh công cuộc cải cách mở cửa. Phải mở rộng đầu tư, đẩy nhanh xây dựng phát triển khu thương mại tự do, mở cửa biên giới phía Tây.
Hội nghị nêu rõ phát triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì và hoàn thiện chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ khu tự trị dân tộc và chế độ quần chúng tự quản cấp cơ sở, chú trọng hơn nữa đến việc kiện toàn chế độ dân chủ, hình thức dân chủ phong phú, phát huy tối đa tính ưu việt của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, cần thúc đẩy phát triển chế độ đại hội đại biểu nhân dân theo kịp thời đại, thực hiện chế độ hóa dân chủ hiệp thương sâu rộng, phát triển dân chủ cơ sở.
Hội nghị chỉ rõ xây dựng Trung Quốc pháp trị cần đi sâu cải cách thể chế tư pháp, đẩy nhanh việc xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng, chính trực, hiệu quả cao và có quyền uy cần duy trì quyền lực tối cao của hiến pháp pháp luật, đi sâu cải cách chế độ hành chính, thực thi pháp luật, đảm bảo quyền điều tra xét xử, quyền thanh tra công bằng, độc lập trên cơ sở luật pháp, kiện toàn cơ chế thực thi quyền lực tư pháp, hoàn thiện chế độ đảm bảo nhân quyền.
Hội nghị chỉ rõ kiên trì quản lý quyền lực, quản lý công việc, quản lý con người bằng chế độ, để nhân dân giám sát quyền lực, để quyền lực được thực thi minh bạch, là quyết sách cơ bản để quản lý quyền lực trong khuôn phép chế độ cần xây dựng hệ thống thực thi quyền lực với việc đưa ra quyết sách khoa học, thực thi kiên quyết, giám sát chặt chẽ, kiện toàn cơ chế phòng, chống tham nhũng, xây dựng chính trị trong sạch, liêm khiết, nỗ lực thực hiện cán bộ trong sạch, ngay thẳng, chính phủ trong sạch, liêm khiết, chính trị trong sạch, sáng suốt. Phải hình thành cơ chế quản lý và phối hợp quyền lực một cách khoa học và có hiệu quả, tăng cường tính sáng tạo và đảm bảo cơ chế phòng, chống tham nhũng, kiện toàn cải tiến chế độ chuẩn hóa tác phong.
Hội nghị chỉ rõ xây dựng cường quốc văn hóa xã hội chủ nghĩa, tăng cường quyền lực mềm về văn hóa quốc gia, phải kiên trì phát triển văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, kiên trì đường lối phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, kiên trì phương hướng công tác lấy nhân dân làm trung tâm, đi sâu cải cách thể chế văn hóa hơn nữa. Phải hoàn thiện thể chế quản lý, xây dựng kiện toàn hệ thống văn hóa hiện đại, tạo cơ chế dịch vụ văn hóa công cộng, mở rộng giao lưu văn hóa.
Hội nghị nêu rõ để thành quả phát triển đem lại nhiều lợi ích và công bằng hơn đến với toàn thể nhân dân, phải tăng cường cải cách sự nghiệp xã hội, giải quyết tốt vấn đề lợi ích mà người dân quan tâm nhất, trực tiếp nhất và thiết thực nhất, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của người dân. Cần đi sâu cải cách toàn diện giáo dục, kiện toàn thúc đẩy cơ chế việc làm và lập nghiệp, hình thành mô hình phân phối thu nhập hợp lý, có trật tự, xây dựng chế độ bảo đảm an sinh xã hội công bằng, bền vững hơn, đi sâu cải cách hệ thống y tế và quản lý dược phẩm.
Hội nghị chỉ rõ rằng sáng tạo trong quản lý xã hội phải chú trọng đến việc duy trì lợi ích căn bản của đại đa số, ra sức nhân rộng yếu tố hài hòa, tăng cường sức sống phát triển xã hội, nâng cao trình độ quản lý xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, đảm bảo nhân dân an cư lạc nghiệp, giữ gìn trật tự xã hội. Phải cải tiến phương thức quản lý xã hội, khuyến khích nguồn lực tổ chức xã hội, sáng tạo cơ chế phòng ngừa có hiệu quả và giải quyết mâu thuẫn xã hội, kiện toàn hệ thống an ninh công cộng. Thành lập ủy ban An ninh Quốc gia, hoàn thiện thể chế và chiến lược an ninh quốc gia, bảo đảm an ninh quốc gia.
Hội nghị chỉ rõ phải xây dựng thể chế, chế độ văn minh sinh thái một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, bảo vệ môi trường sinh thái bằng chế độ. Phải kiện toàn chế độ quyền sở hữu và quản lý khai thác tài sản tài nguyên thiên nhiên, đưa ra giới hạn đỏ về bảo vệ sinh thái, thực hiện chế độ sử dụng tài nguyên có bồi thường và chế độ đền bù sinh thái, cải cách chế độ quản lý bảo vệ môi trường sinh thái.
Hội nghị nêu rõ bám sát mục tiêu xây dựng quân đội hùng cường với một đội quân nhân dân tuân theo sự chỉ huy của Đảng, có thế đánh thắng trận, tác phong tốt trong tình hình mới, ra sức giải quyết vấn đề mâu thuẫn nổi cộm hạn chế xây dựng phát triển quốc phòng và quân đội, đổi mới phát triển lý luận quân sự, tăng cường chỉ đạo chiến lược quân sự, hoàn thiện phương châm chiến lược quân sự thời kỳ mới, xây dựng hệ thống sức mạnh quân sự hiện đại đặc sắc Trung Quốc, cần đi sâu cải cách điều chỉnh biên chế quân đội, thúc đẩy cải cách, điều chỉnh chế độ chính sách quân đội, đẩy mạnh phát triển hòa hợp đi vào chiều sâu giữa quân đội và nhân dân.
Hội nghị nhấn mạnh đi sâu cải cách toàn diện phải tăng cường và cải thiện sự lãnh đạo của Đảng, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo là Đảng nắm toàn diện, điều hoà giữa các bên, nâng cao trình độ lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm chắc chắn cải cách thu được thành công. Trung ương thành lập nhóm lãnh đạo đi sâu cải cách toàn diện, chịu trách nhiệm lập kế hoạch tổng hợp, điều hoà phối hợp, bao quát toàn diện, đôn đốc thực hiện. Các cấp ủy đảng phải thực hiện thiết thực trách nhiệm lãnh đạo cải cách. Phải đi sâu cải cách chế độ nhân sự cán bộ, xây dựng cơ chế tập hợp được nhân tài, phát huy đầy đủ tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của quần chúng nhân dân, khuyến khích cơ sở địa phương và quần chúng mạnh dạn tìm tòi, kịp thời tổng kết kinh nghiệm.
Hội nghị đã phân tích tình hình và nhiệm vụ hiện nay, nhấn mạnh các đồng chí trong toàn Đảng phải thống nhất tư tưởng và hành động trong việc triển khai các quyết sách quan trọng về đi sâu cải cách toàn diện, tăng cường ý chí tiến thù, ý thức cơ hội, ý thức trách nhiệm, nắm vững phương hướng, mạnh dạn tìm tòi thực tiễn, chú trọng phối hợp điều hoà, tạo sự đồng thuận trong cải cách, thực hiện trách nhiệm lãnh đạo, kiên định thực hiện quyết sách cải cách của trung ương. Phải căn cứ vào quyết sách của trung ương, kiên trì tiến lên trong ổn định, đạt được thành quả trong ổn định, thực sự làm tốt các mặt công tác, duy trì xu thế phát triển kinh tế, xã hội, quan tâm đến quần chúng đặc biệt là đời sống của quân chúng khó khăn, phát triển xã hội ổn định hài hoà, tiếp tục đẩy mạnh vững chắc hoạt động thực tiễn giáo dục đường lối quần chúng của Đảng, nỗ lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đã đề ra.
Hội nghị kêu gọi các đồng chí trong toàn Đảng phải đoàn kết, gắn bó trong Trung ương Đảng do đồng chí Tập Cận Bình làm Tổng Bí thư, anh dũng tiến lên, vượt qua mọi khó khăn, viết nên trang sử mới trong sự nghiệp vĩ đại cải cách mở cửa, phấn đấu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, không ngừng giành được những thắng lợi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” là phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa./.

2114. GIẢI MÃ “GIẤC MỘNG TRUNG HOA”CỦA CHỦ TỊCH TẬP CẬN BÌNH

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 14/11/2013
TTXVN (Hong Kong 12/11)
Ngày 9/11, đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tổ chức Hội nghị Trung ương 3 khóa 18. Hội nghị quan trọng này là chìa khóa để “giải mã” triết lý cầm quyền của nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, ông Tập Cận Bình – người sẽ điều hành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong 9 năm tới.

Theo thông lệ, trong một chu kỳ 7 phiên họp toàn thể tại mỗi khóa Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc, các phiên đầu tiên và phiên thứ hai thường tập trung vào những vấn đề nhân sự và phiên thứ ba bàn về chính sách. Điều gì diễn ra tại Hội nghị Trung ương 3 lần này? Hội nghị này cho chúng ta biết những gì về nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, Chủ tịch Tập Cận Bình? “Giấc mộng Trung Hoa” của ông dường như bao gồm cả quyền kiểm soát chính trị cứng rắn và triển vọng về tự do hóa kinh tế? Sau đây là nội dung bài phỏng vấn Roderick MacFarquhar, giáo sư Lịch sử và Khoa học chính trị tại Đại học Harvard, đăng trên trang mạng Hồ sơ Trung Quốc:
Hỏi (+): Chính phủ mới của Trung Quốc dưới thời nhà lãnh đạo Tập Cận Bình đang thẳng tay đàn áp xã hội dân sự và siết chặt kiểm soát mạng Internet. Tuy nhiên ông Tập Cận Bình cũng đang trừng phạt các quan chức tham nhũng, trong đó có Bạc Hy Lai và các đồng sự, các thư ký của Chu Vĩnh Khang, một cựu ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Bạn Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc. Vậy liệu ông Tập Cận Bình có thực sự muốn làm những điều này?
Trả lời (-): Ông Tập Cận Bình đã thể hiện rất rõ ràng từ thời điểm trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc rằng ông đã bị ám ảnh, giống như các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc cũng từng bị ám ảnh tương tự, với hội chứng Gorbachev. Ông nhận thấy, giống như Thủ tướng Lý Khắc Cường, rằng cần thiết phải cải cách kinh tế sâu rộng – những cuộc cải cách thực sự rất quan trọng và rất khó khăn. Tuy nhiên, điều họ lo ngại là họ không biết cuộc cải cách nào có thể là cuộc cải cách giúp loại bỏ tình trạng kiểu Gorbachev, tình trạng mà cải cách này nối tiếp cải cách khác và trước khi biết nó là gì thì cả đất nước và toàn bộ hệ thống đảng đã sụp đổ. Vì vậy, khi tiếp cận những cuộc cải cách kinh tế này, ông Tập Cận Bình muốn đảm bảo rằng sẽ không có vấn đề gì tác động tới đất nước. Ông không biết chính xác những gì đã khiến Trung Quốc phát triển hội chứng Gorbachev, nhưng điều ông có thể làm là ngăn chặn những thứ theo kiểu mà Gorbachev đã cho phép. Gorbachev ủng hộ tất cả các hình thức tự do ngôn luận dưới thuyết Perestroika (một chính sách cải tổ chính trị và kinh tế), song Tập Cận Bình sẽ không chấp nhận điều đó. Chính phủ đã ban hành các hướng dẫn “7 không” về những gì người dân không thể nói, và ông Tập Cận Bình sẽ trở nên cực kỳ khắc nghiệt bởi ông cảm thấy trước hết, đó là một cách để bảo vệ chế độ, và hai là nó đặc biệt quan trọng khi những thay đổi sâu rộng và có lẽ là đáng lo ngại về kinh tế được khởi xướng.
Tại sao ông Tập Cận Bình lại tấn công những quan chức tham nhũng? Đó là vì như cựu Chủ tịch Hồ cẩm Đào đã từng nói – tham nhũng có thể là sự kết thúc của một chế độ. Và theo những gì Tổng biên tập tờ Nhân dân Nhật báo (cơ quan ngôn luận của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc) thường nói, tham nhũng ngày nay tồi tệ hơn nhiều so với thời Tưởng Giới Thạch khi chế độ của ông này sụp đổ. Vì vậy, đó là một điều đáng lo ngại. Câu hỏi thực sự là họ có trừng phạt bất kỳ kẻ tham nhũng nào, bao gồm cả các thành viên của ban lãnh đạo cấp cao, hay không? Chắc là họ sẽ không làm như vậy. Họ không thể. Bởi vì điều đó sẽ gây chia rẽ nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc. Gia đình của ông Tập Cận Bình đã được hưởng lợi rất nhiều từ thực tế ông trở thành một nhà lãnh đạo, do đó, ông cần bảo vệ tổ ấm của mình. Ông Tập Cận Bình cho biết ông sẽ nghiêm trị cả “những con hổ và những con ruồi” (các quan chức cấp cao và cấp thấp trong đảng Cộng sản Trung Quốc). Cho đến nay ông đã nghiêm trị được “những con ruồi và những con mèo”. Nếu ông công khai xử “con hổ” Chu Vĩnh Khang (người từng được coi là “ông vua an ninh” của Trung Quốc) vì tội tham nhũng, mặc dù người ta biết các chính trị gia sẽ bị liên đới rất nhiều bởi Chu Vĩnh Khang là một đồng minh của Bạc Hy Lai, thì mọi người sẽ bắt đầu chú ý. Nhưng nếu ông Tập Cận Bình xử lý Chu Vĩnh Khang thì tất cả mọi người đều bắt đầu cảm thấy lo lắng.
+ Tuy nhiên, họ đang nỗ lực đi đến đâu? Với sự kiểm soát ngặt nghèo về mặt chính trị cùng những “cuộc cải cách thị trường” về mặt kinh tế, liệu Trung Quốc có trở thành một nước giống như Singapore?
- Nếu Trung Quốc trở thành một Singapore khác, đó sẽ là điều tuyệt vời. Singapore không phải là một nền dân chủ hoàn hảo, nhưng ở đó có tự do ngôn luận hơn so với ở Trung Quốc. Và có thể những gì ông Tập Cận Bình muốn Trung Quốc trở thành sẽ là một xã hội có kỷ luật chính trị, với việc không có những Lưu Hiểu Ba, không có những người ký bản Hiến chương 08, tất cả mọi người đều rất kỷ luật, và mọi người đều tập trung vào cải cách kinh tế. Tại sao vậy? Bởi vì nhiều nhà kinh tế nói rằng họ sẽ thay đổi rất nhiều khi họ thành công. Và dường như ông Lý Khắc Cường rất quan tâm tới việc thúc đẩy những cuộc cải cách này. Vì vậy, những gì ông Tập Cận Bình đang làm là nhằm đảm bảo rằng đấu trường chính trị ổn định để công cuộc cải cách kinh tế có thể được thực hiện một cách êm đẹp.
+ Một số nhà quan sát Trung Quốc cho rằng có sự chia rẽ giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường, rằng ông Tập Cận Bình là một người theo chủ nghĩa cộng sản Mao Trạch Đông, trong khi ông Lý Khắc Cường lại ủng hộ tư tưởng thị trường. Tuy nhiên, liệu người ta có tin rằng trên thực tế họ đang hợp tác và có sự đồng thuận với nhau?
- Có thể chúng ta sẽ nhớ tới một câu chuyện trong những năm 1990, dưới thời Chủ tịch Giang Trạch Dân, đã có một cuộc thảo luận và người ta quyết định rằng sau khi Giang Trạch Dân và Hồ cẩm Đào mãn nhiệm, những người thừa kế cuối cùng nên là những “ông hoàng con”, bởi vì những “ông hoàng con” này có nhiêu lợi ích đặc quyền đặc lợi – xét về quan điểm gia đình của họ – nhiều hơn bất kỳ ai trong chế độ.
Bất cứ ai đang ở trong một chế độ như của Trung Quốc, cho dù là “ông hoàng con” hay không, đều muốn bảo vệ nó. Và họ sẽ làm bất cứ điều gì để chế độ đó không biến mất, bởi nó rất có lợi cho họ và, theo quan điểm của họ, cho cả đất nước nữa. Các “ông hoàng con” có thể cảm thấy việc gìn giữ niềm tin là nghĩa vụ gia đình đối với cha mẹ và ông bà của họ, nhưng thực sự thì hầu hết các quan chức đều muốn duy trì hệ thống hiện nay.
+ Những chiến thuật cứng rắn của chính phủ hiện nay đã khiến một số quan chức, trí thức và các nhà báo cảm thấy khó chịu. Vậy đối với những người bình thường thì sao? Liệu họ có cảm thấy áp lực? Hay họ nghĩ rằng đó không phải việc của mình?
- Còn nhớ những gì đã xẩy ra khi có những chiến dịch chống tha hóa nhân cách trong những năm 1980. Chiến dịch này đã chấm dứt vì Đặng Tiểu Bình được thông báo, như là kết quả của các chiến dịch chống tha hóa nhân cách, rằng những người nông dân đã ngừng đầu tư vào đất đai. Tại sao vậy? Bởi những người nông dân không phải là những kẻ khờ dại: họ đã học được từ thời kỳ của Mao Trạch Đông rằng “chắng ai có thể sống một mình”. Nếu bạn để cánh tả gây ảnh hưởng đến một phần của xã hội thì cuối cùng nó sẽ gây ảnh hưởng tới chính bạn. Có bao nhiêu người biết Lưu Hiểu Ba là ai trước khi ông bị giam giữ? Có lẽ không nhiều. Nhung người dân Trung Quốc không ngốc nghếch tới mức không nhận ra, đặc biệt là trong thời đại Internet, khi người ta đang bị bắt và thậm chí bị loại bỏ, những gì sẽ xẩy ra với họ ở một giai đoạn khác?
+ Sau Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “Trung Quốc nên duy trì cảnh giác chống lại phe cánh hữu nhưng chủ yếu là chống phe cánh tả”. Và trên thực tế, phe cánh tả trong đảng Cộng sản Trung Quốc đã bị hạn chế từ khi bắt đầu các cuộc cải cách hơn ba thập kỷ trước đây. Tuy nhiên, tại sao các nhà lãnh đạo hàng đầu như Hồ cẩm Đào, Tập Cận Bình và Bạc Hy Lai vẫn tiếp tục đi theo con đường của Mao Trạch Đông?
- Có một số lý do giải thích tại sao những người như Bạc Hy Lai và Tập Cận Bình phải chấp thuận, và đi theo đường lối của Mao Trạch Đông. Đầu tiên và quan trọng nhất là tên của cố Chủ tịch Mao Trạch Đông – chính cố Chủ tịch Mao Trạch Đông và những gì ông đã làm cho Trung Quốc – là sợi dây kết nối vô cùng quan trọng giữa nhà nước và xã hội với nhau. Nếu bạn muốn có một xã hội hưởng ứng mình thì Mao Trạch Đông chính là một cái tên được nhắc đến đầu tiên. Đảng Cộng sản Trung Quốc không còn nhận được sự tôn trọng của người dân như trong những năm 1950 và 1960. Cố Chủ tịch Mao Trạch Đông là biểu tượng của đất nước. Họ không thể đưa ông ra khỏi Quảng trường Thiên An Môn, và họ không thể gỡ bức chân dung của ông xuống. Điều đó sẽ giống như việc đặt câu hỏi rằng “Toàn bộ cuộc cách mạng là vì điều gì?”
Thứ hai, người dân, chủ yếu là dân thường, nhìn lại những tháng ngày dưới thời Mao Trạch Đông với một sự tin tưởng lớn lao. Có nhiều ngôi nhà của những người nông dân treo bức hình của Mao Trạch Đông cạnh bức hình của Đức Phật, và một số người tin rằng xã hội dưới thời cố Chủ tịch Mao Trạch Đông công bằng hơn, rằng tất cả mọi người đều nghèo. Trên thực tế, cố Chủ tịch Mao Trạch Đông không hề nghèo. Trong khi đó, ngày nay, sự phân phối thu nhập vô cùng khác nhau và có một khoảng cách lớn giữa người giầu và người nghèo khiến mọi người nhìn lại những ngày tháng dưới thời Mao Trạch Đông với niềm khát khao. Vì vậy, các nhà lãnh đạo phải cúi đầu trước cố Chủ tịch Mao Trạch Đông một lần nữa để cho thấy họ tôn trọng hình thái xã hội đó, ngay cả khi họ không điều hành một nhà nước giống như vậy.
Thứ ba, giới trí thức đang có sự phát triển mạnh mẽ. Đó là những người đã từng ủng hộ chính sách của Mao Trạch Đông trong nhiều năm, và vì những điều nói ở trên về những người phẫn nộ với sự bất bình đẳng của xã hội mới, những trí thức này nhận được sự hậu thuẫn của một số người và có được sự lắng nghe của mọi người. Sự kiện Bạc Hy Lai nói lên rằng Bạc Hy Lai đã rất nổi tiếng không chỉ ở Trùng Khánh mà còn ở các tỉnh lân cận. Bởi vì mọi người nghĩ rằng ông ta đã quay trở lại với quan điểm của cố Chủ tịch Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người không tin điều đó. Mặt khác, Chủ tịch Tập Cận Bình không muốn thực hiện Cách mạng Văn hóa hay Đại nhẩy vọt hoặc bất cứ điều gì giống như vậy, song ông đã đi theo đường hướng của Mao Trạch Đông vì, hãy nhớ rằng, cha của ông Tập Cận Bình (cố Phó Thủ tướng Tập Trọng Huân) từng là đồng chí của Mao Trạch Đông. Cho đến khi bị Mao Trạch Đông thanh trừng, cha của ông Tập Cập Bình đã có một vị trí rất cao trong chính quyền cộng sản, như một kết quả sau chiến thắng của Mao Trạch Đông. Vì vậy, chiến thắng này, đưa những người cộng sản lên nắm quyền, vẫn còn quan trọng đối với tính hợp pháp của chính quyền hiện hành. Cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm suy yếu tính hợp pháp của quyền lực. Tuy nhiên, ngay cả khi bị cáo buộc về tội gây ra Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông bằng cách nào đó vẫn hợp pháp hóa được đất nước hiện nay.
+ Tuy nhiên, hầu hết các chính sách và tư tưởng của Mao Trạch Đông đã hoàn toàn bị loại bở khỏi Trung Quốc kể từ khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu cuộc cải cách của Trung Quốc. Đối với rất nhiều thanh niên Trung Quốc, Mao Trạch Đông là một hình ảnh khá mơ hồ. Trong hoàn cảnh này, liệu chủ nghĩa Mao ít và bản thân Mao Trạch Đông vẫn có thể gắn kết xã hội và nhà nước với nhau?
- Họ không có gì. Và mọi người sẽ đi tới nơi nào trên cuộc hành hương đến Bắc Kinh? Hàng chục nghìn người mỗi tháng đến thăm lăng cố Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trong trường tiểu học và trung học cơ sở, học sinh được học về cố Chủ tịch Mao Trạch Đông, như trẻ em ở Anh tìm hiểu về William Người Chinh phục – người đã vượt biển vào năm 1066. Đó là câu chuyện cách đây hàng trăm năm, nhưng họ vẫn biết về điều đó. Thời Mao Trạch Đông thì chỉ cách đây 60-70 năm. Ông đã chiến thắng – thống nhất Trung Quốc. Đó là một chiến thắng vĩ đại. Ông đã thiết lập một chế độ mới. Ông thành lập đất nước Trung Quốc mới. Vì vậy, tất nhiên ông vẫn được xem là một nhân vật anh hùng trong nền giáo dục của Trung Quốc.
+ Liệu mọi người có tiếp tục sử dụng những ý tưởng của Mao Trạch Đông? Trung Quốc đã thay đổi đáng kể từ khi Mao Trạch Đông lãnh đạo Trung Quốc.
- Hầu hết mọi người trong phần lớn thời gian ở hầu hết các nước không nghĩ về chính trị. Đặc biệt là nếu họ nghèo, họ chỉ nghĩ về thực phẩm, chi phí sinh hoạt và nền giáo dục tốt hơn cho con cái họ. Trong ba mươi năm qua, đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc sống nói chung của một người bình thường có vai trò nhỏ hơn nhiều so với thời Mao Trạch Đông và ngay cả so với thời Đặng Tiểu Bình.
Vì vậy, hầu hết mọi người không lắng nghe đảng Cộng sản Trung Quốc nói về Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông ở một nơi nào đó đằng sau tâm trí của họ, vì hình ảnh của ông vẫn được đưa vào giảng dậy trong nền giáo dục của Trung Quốc, có một tượng đài ở đó và một bức chân dung Mao Trạch Đông ở đó. Hiện nay, họ có tin vào tư tưởng của Mao Trạch Đông hay không? Điều đó phụ thuộc vào việc những tư tưởng ấy là gì. Một số tư tưởng của Mao Trạch Đông đã được Đặng Tiểu Bình kế thừa: “Tìm kiếm sự thật từ những thực tế”, đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông, và nó thực sự là một tư tưởng của Trung Quốc cổ đại mà Mao Trạch Đông đã tiếp thu được, nhưng nó được gán cho là của Mao Trạch Đông. Và “nêu chúng ta có sức mạnh ý chí và quyết tâm, chúng ta có thể làm bất kỳ điều gì”. Đó là điều đang phát triển và ngày càng lớn mạnh ở một đất nước như Trung Quốc. Vì vậy, có một số điều – những điều đơn giản,- mà họ sẽ tin vào.
+ Vậy còn những di sản khác của Mao Trạch Đông, như các phong trào quần chúng mà Bạc Hy Lai đã sử dụng ở Trùng Khánh và ông Tập Cận Bình đang sử dụng hiện nay thì sao?
- Phong trào quần chúng là kẻ thù của các hình thức cải cách kinh tế mà Thủ tướng Lý Khắc Cường và ê kíp của ông định đưa ra. Phong trào quần chúng có chỗ đứng riêng trong một xã hội đang phát triển ở giai đoạn đầu. Nếu muốn thuyết phục người nông dân làm một điều gì đó và cần phải huy động họ làm những công việc cơ bản, như làm những con đập…, thì phong trào này sẽ phát huy tác dụng. Tuy nhiên những gì chúng ta đã thấy trong giai đoạn cải cách là nêu đưa ra sự khuyến khích tài chính, mọi người sẽ đi từ miền Bắc xuống miền Nam của Trung Quốc để kiếm được một công việc trong một nhà máy với mức lương tối thiểu. Họ sẽ ngủ trong những khu nhà tập thể xa gia đình bởi nó mang lại cho họ có một cơ hội xoay xở. Vì vậy, khả năng chế độ này thực hiện phong trào quần chúng là không cao.
+ Liệu chủ nghĩa Mao ít sẽ không chết, hay biến mất khỏi Trung Quốc, bởi vì các nhà lãnh đạo khác sẽ tiếp thu nó ngay cả khi không có Bạc Hy Lai?
- Chủ nghĩa Mao Trạch Đông sẽ không biến mất khỏi Trung Quốc cho đến khi chế độ thay đổi, điều này sẽ dẫn đến việc gỡ bỏ bức chân dung của Mao Trạch Đông, và có lẽ là phá dỡ ngôi mộ của ông. Họ nói rằng ở Nga cuối cùng họ sẽ di dời phần mộ của Lênin, nhưng chưa biết họ sẽ làm gì với ngôi mộ đó. Họ đã di dời phần mộ của Stalin, nhưng nếu họ di dời mộ Lênin thì đó thực sự là một vấn đề lớn. Nhưng đó chính là điều sẽ xẩy ra ở Trung Quốc, vào ngày nay và trong thời đại này, bạn không thể thấy một người được tôn thờ theo kiểu một á thần như vậy.
Tương lai của triều đại của Tập Cận Bình
+ Nhiều người tin rằng cải cách theo hướng thị trường không thể cùng tôn tại với những ông lớn doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Vậy điều này sẽ diễn ra như thế nào ở Trung Quốc?
- Tất nhiên sẽ có những sự khác biệt về quan điểm: sự khác biệt quan điểm trong tất cả mọi hệ thống chính trị, không nhất thiết phải là sự khác biệt về cái đích cần đạt đến, mà là phải làm thế nào để đến được đó. Vì vậy tất cả các nhà lãnh đạo hiện nay đều nhất trí về sự cần thiết phải cải cách nhưng câu hỏi là làm thế nào để thực hiện điều đó. Và có thể một số người sẽ nghĩ rằng những biện pháp cải cách của Thủ tướng Lý Khắc Cường là quá cực đoan, và những người khác sẽ ủng hộ các cải cách và họ cho rằng những cải cách đó sẽ không đi đủ xa. Vì vậy, tất nhiên sẽ có những bất đồng và điều này sẽ cho thấy thước đo cho hai vấn đề. Đầu tiên, khả năng Tập Cận Bình duy trì trật tự và kỷ luật trong Bộ Chính trị, và thứ hai bản năng tự sinh tồn trong mội bộ phận các nhà lãnh đạo. Họ nên biết rằng nếu họ bắt đầu chia rẽ đảng Cộng sản Trung Quốc thì rất có thể dẫn đến thảm họa. Một số người nói con đường cho cải cách chính trị là phải công khai thừa nhận các phe phái trong đảng. Đó chính là bước đi đầu tiên hướng tới một chế độ hai đảng. Nhưng không ai muốn đi con đường đó.
+ Điều đó đã xẩy ra với đảng Cộng sản Liên Xô dưới thời Gorbachev
- Gorbachev đã suy nghĩ sai lầm rằng ông ta sẽ tăng cường được chủ nghĩa cộng sản, và trước hết ông đã cố gắng làm điều đó bằng thuyết Perestroika, nghĩa là bằng việc cải cách chế độ. Tuy nhiên, Gorbachev nhận thấy rằng sau 70 năm hoặc lâu hơn dưới sự cai trị của chế độ Cộng sản, các quan chức Liên Xô đã phản đối hình thức cải cách này. Vì vậy ta thực hiện sự công khai thẳng thắn, nhưng mọi người lại bắt đầu chỉ trích các quan chức, và báo chí trở nên rất quan trọng. Vì vậy Gorbachev đã chia rẽ xã hội chống lại chính nó. Và đó là những gì khiến biện pháp này thất bại. Và sau đó, tất nhiên, Gorbachev nghĩ rằng cuộc bầu cử sẽ củng cố cho sự đồng thuận về khả năng cai trị của đảng Cộng sản Liên Xô. Nhưng bản thân ông không bao giờ tham gia ứng cử. Boris Yeltsin đã tham gia canh bạc đó và giành chiến thắng, và chúng ta đều biết những gì xẩy ra sau đó. Vì vậy, nếu mọi người đều biết rõ rằng có những điều chắc chắn không thể làm được vì chúng sẽ làm suy yếu chế độ, thì sau đó họ sẽ không làm theo. Điều đó không khẳng định rằng chế độ này sẽ vẫn tồn tại. Hiện nay nó có những nền tảng không vững chắc. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo sẽ không muốn “tự vẫn”.
+ Liệu ông Tập Cận Bình cuối cùng có đạt được mục tiêu của mình?
- Mục tiêu của ông Tập Cận Bình là “Giấc mộng Trung Hoa”. Mục tiêu đó rõ ràng là làm cho Trung Quốc trở nên ngày càng mạnh mẽ trên trường quốc tế. vấn đề là Trung Quốc không có kinh nghiệm “trong hành động trên vũ đài thế giới”. Không có bất cứ thứ gì cả. Đó là một đất nước vĩ đại trong nhiều thế kỷ, nhiều thiên niên kỷ, nhưng không phải trên trường quốc tế. Nó chỉ là một đất nước vĩ đại ở khu vực Đông Á, và bây giờ là tư tưởng về một nước tham gia có trách nhiệm, đó là những gì mà Trung Quốc cần hướng tới, rất hấp dẫn đối với một số người, nhưng không phải với tất cả các nhà lãnh đạo. Vì vậy, giấc mộng của ông Tập Cận Bình là một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ hơn, và rằng mọi người ở châu Á, châu Phi và có thể cả ở phương Tây, sẽ phải cúi đầu. Và điều đó đang xẩy ra ở thời điểm hiện tại: mọi người đổ xô đến Trung Quốc để hoạt động thương mại trong mọi lúc. Do đó, giấc mộng của ông Tập Cận Bình là Trung Quốc sẽ ngày càng thâu tóm được nhiều quyền lực, và đảng Cộng sản Trung Quốc cai trị mãi mãi. Tuy nhiên, khả năng đảng Cộng sản cai trị mãi mãi là điều đáng nghi ngờ./.

2115. TS Cù Huy Hà Vũ góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992

Kính gửi Qúy Báo,
Ngày 4/10/2013, công dân Cù Huy Hà Vũ đã thông báo cho vợ là Ls Nguyễn Thị Dương Hà biết: Thực hiện chủ trương của Quốc Hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hưởng ứng phong trào Lấy ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Trại giam số 5 Bộ Công an – Yên Định – Thanh Hóa, ngày 30/9/2013, công dân Cù Huy Hà Vũ đã gửi bài góp ý Sửa đổi Hiến pháp 1992 tới Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 qua đường Bưu điện của Trại giam số 5 Bộ Công an.

Trong điều kiện khó khăn của trại giam, công dân Cù Huy Hà Vũ thực hiện nghĩa vụ của mình, đã viết Bản góp ý gồm 20 trang A4 viết tay chữ nhỏ, dày kín, nội dung gồm 7 phần lớn. Vậy mà sáng nay, công dân Cù Huy Hà Vũ lại cho biết, ngày 15/11/2013, Trại giam số 5 đã thông báo chính thức  là Trại giam số 5 đã không gửi bài góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992 của TS Vũ cho Quốc Hội và Ủy Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp!!!???
Vì sợ bài góp ý không đến được địa chỉ nên công dân Cù Huy Hà Vũ đã nhờ vợ, con soạn, đánh máy giúp bài Góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 theo đúng tinh thần của công dân Vũ. Ngày 22/10/2013, vợ công dân Vũ đã gửi tới Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 bài Góp ý kể trên (photocopy đính kèm).
Kính mong Quý Báo cho đăng để những ai quan tâm được biết.
Trân trọng cảm ơn Quý Báo,
Gia đình Công dân Cù Huy Hà Vũ
——
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————————————
Hà Nội, ngày 22/10/2013
Kính gửi: – Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam;
- Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Tôi, Nguyễn Thị Dương Hà, ở tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội, CMND 010538534 do Công an Hà Nội cấp ngày 16/12/2010, là vợ cũng là luật sư của ông Cù Huy Hà Vũ – HKTT tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội, bị Tòa án nhân dân tối cao kết án 07 (bảy) năm tù, 03 (ba) năm quản chế kể từ ngày bị bắt 05/11/2010 về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điểm c khoản 1 Điều 88 Bộ Luật Hình sự – ông Vũ luôn khẳng định ông Vũ hoàn toàn vô tội – hiện bị giam tại B11, K3, Trại giam số 5 – Bộ Công an (Yên Định – Thanh Hóa).
Căn cứ Nghị Quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và theo yêu cầu của Ban Giám thị Trại giam số 5 – Bộ Công an, ngày 30/9/2013, ông Vũ đã gửi Quốc hội và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 Bản “Góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” gồm 20 trang (viết tay) qua Ban Giám thị Trại giam số 5 – Bộ Công an. Đề phòng trường hợp văn Bản Góp ý kể trên mà ông Vũ đã gửi qua Ban Giám thị Trại giam số 5 – Bộ Công an chưa đến được Quốc hội và Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Vũ ủy quyền cho tôi đánh máy lại, gửi tới Quốc Hội và Ủy ban Dự thảo Bản Góp ý kể trên. Toàn văn Bản “Góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” của ông Cù Huy Hà Vũ đã được đánh máy lại có 19 trang được gửi cùng với thư này.
Trân trọng,
Người được ủy quyền
Nguyễn Thị Dương Hà
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 9 năm 2013

GÓP Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992

Kính gửi: Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Tôi là Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội, bị Tòa án nhân dân tối cao kết án 07 ( bảy ) năm tù giam, 03 (ba) năm quản chế kể từ ngày bị bắt 05/11/2010, về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điểm c khoản 1 Điều 88 Bộ luật hình sự – tôi luôn khẳng định tôi hoàn toàn vô tội, hiện bị giam tại B11-K3 – trại giam số 5 – Bộ Công an ( Yên Định – Thanh Hóa), căn cứ Nghị quyết số 38/2012/QH 13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về “Tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (gọi tắt là Dự thảo) như trình bày sau đây.
I – BỎ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI, THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG
Tôi đề nghị bỏ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội quy định tại Điều 4 Hiến pháp và tại Điều 4 Dự thảo và thay vào đó là quy định về thực hiện chế độ đa đảng với những lý do sau đây.
1-    Điều 2 Hiến pháp và Điều 2 Dự thảo đều quy định: “ Nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, “ tức nhân dân là chủ duy nhất của Nhà nước đồng nghĩa Nhà nước không phục tùng, không chịu sự lãnh đạo của ai khác ngoài nhân dân. Nói cách khác, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là tiếm quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân.
2-    Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (do Chính phủ Việt Nam tổ chức biên soạn), “ chế độ độc tài” là “chế độ chính trị tập trung quyền hành vào tay một cá nhân, một nhóm người hay một đảng phái cai trị độc đoán, không bị ràng buộc bởi luật pháp hay một cơ quan quyền lực nào”. Như vậy với quy định “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội” tại Điều 4 Hiến pháp và Điều 4 Dự thảo trong khi đảng này không bị ràng buộc bởi bất cứ luật nào hay bởi bất cứ cơ quan quyền lực Nhà nước nào thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dứt khoát là chế độ độc tài! Do đó để thiết lập chế độ dân chủ thì không có cách nào khác là bỏ quy định nói trên.
3-    Quan điểm “đấu tranh giai cấp” hay thiết lập sự thống trị của giai cấp vô sản – công nhân với chế độ xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đối lập với Dân chủ. Thực vậy, Dân chủ đồng nhất với xóa bỏ phân biệt giai cấp tầng lớp xã hội trong quyết định các vấn đề của đất nước, không kích động giai cấp, tầng lớp xã hội này chống lại giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Nói cách khác, Dân chủ là tiếng nói của mỗi người dân về các vấn đề của đất nước được thể hiện rõ nhất và tập trung nhất qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử Quốc Hội, Hội đồng nhân dân hay trưng cầu ý dân, chứ tuyệt nhiên không phải là áp đặt ý chí nhân danh giai cấp, tầng lớp xã hội. Vả lại, quan điểm “ giai cấp công nhân thống trị” của Đảng cộng sản Việt Nam là trái ngược với quyền bình đẳng của mọi người được Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 trân trọng tuyên bố và trái ngược ngay với nguyên tắc “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” được Dự thảo nêu tại Khoản 2 Điều 17.
4-    Khải niệm “lãnh đạo” có thể áp dụng cho đảng chính trị mà trong trường hợp này là Đảng cộng sản Việt Nam nhưng chỉ trong trường hợp Đảng tổ chức giành chính quyền về tay nhân dân chủ yếu bằng vũ lực, điều này có nghĩa một khi chính quyền đã về tay nhân dân thì chính nhân dân chứ không phải đảng chính trị, quyết định đường lối quốc gia cũng như cách thức hoạt động của Nhà nước, cụ thể là nhân dân thực hiện các quyết định tối cao này của mình hoặc trực tiếp bằng lá phiếu trong các cuộc bầu cử Quốc Hội, Hội đồng nhân dân hay trưng cầu ý dân hoặc gián tiếp thông qua các đại diện của mình tại các cơ quan quyền lực Nhà nước nói trên. Tóm lại Dân chủ là nhân dân tự quyết định vận mệnh của đất nước và của bản thân mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, không cần ai dẫn dắt, không cần ai lãnh đạo. Các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hay bất cứ ai khác được nhân dân trực tiếp bầu vào các cơ quan quyền lực Nhà nước chỉ là để thực hiện ý chí của nhân dân hay chỉ là đầy tớ của nhân dân như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chứ không thể làm điều ngược lại là áp đặt ý chí của bản thân hoặc của Đảng cộng sản Việt Nam cho nhân dân. Nghĩa là không thể có chuyện đầy tớ “lãnh đạo”, bắt ông chủ, bà chủ phục tùng mình được!
Ngoài ra, quy định “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” là trái với nhiều quy định khác ngay trong Dự thảo. Điều 2 Hiến pháp và Dự thảo quy định Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền”. tức Nhà nước chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Do đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như đảng chính trị nào khác không phải là Hiến pháp và pháp luật nên dĩ nhiên Nhà nước không thể chịu sự lãnh đạo của đảng này. Điều 83 Hiến pháp và Điều 74 Dự thảo quy định “ Quốc Hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” đồng nghĩa không có thế  lực nào đứng trên Quốc Hội để có thể “ lãnh đạo” hay áp đặt ý chí của mình cho Quốc Hội ngoài chính người đã đẻ ra thiết chế này là nhân dân!
5-    Đảng cộng sản Việt Nam lấy câu nói “Đảng ta là đảng cầm quyền” của Hồ Chí Minh để biện minh cho chế độ độc tài của mình được thiết lập thông qua việc áp đặt Điều 4 Hiến pháp. Thế nhưng chính câu nói này của người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam lại khẳng định chế độ dân chủ – đa đảng. Thực vậy, “ đảng cầm quyền” là để so sánh với “đảng không cầm quyền” bởi dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Nước đã có nhiều đảng hoạt động song song với Đảng cộng sản Việt Nam nhưng không chiếm đa số ghế trong Quốc Hội nên không thể đứng ra thành lập Chính phủ như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội. Chế độ đa đảng này tồn tại cả sau khi Hồ Chí Minh mất, cho đến 1988 khi Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội tự giải thể. Thực tế đa nguyên chính trị này được phản ánh tại Điều 9 Hiến pháp 1980: “Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam – bao gồm các chính đảng…”
Vẫn chưa hết, Đảng cộng sản Việt Nam luôn khẳng định đảng này cầm quyền mà không cần cạnh tranh với ai là do được nhân dân tín nhiệm. Thế nhưng lập luận này của Đảng cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng định chế độ đa đảng. Thực vậy, tín nhiệm của nhân dân là niềm tin mà người dân đặt vào người này, đảng này mà không áp đặt vào người khác, đảng khác, đặc biệt trong bối cảnh bầu cử Quốc Hội. Nói cách khác, không có sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị thì không tồn tại sự tín nhiệm của nhân dân. Vậy để “sự tín nhiệm của nhân dân” nguồn gốc của quyền lực Nhà nước – thực sự tồn tại thì không có cách nào khác là phải thực hiện chế độ đa đảng!
Cũng cần khẳng định ngay rằng thiết lập chế độ đa đảng tuyệt nhiên không nhằm ngăn cản Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, thậm chí lâu dài, càng không nhằm loại bỏ đảng này ra khỏi đời sống chính trị của đất nước. Thực tế cho thấy mặc dù ở Singapore có nhiều đảng nhưng chỉ có Đảng nhân dân hành động là cầm quyền vì luôn chiếm đa số ghế trong các kỳ Quốc Hội. Ở Mỹ cũng có hơn 100 đảng nhưng chỉ có Đảng Dân chủ và Đảng cộng hòa là thay nhau có ứng cử viên được bầu làm tổng thống và ngược lại, vẫn ở đất nước mà Đảng Cộng sản Việt Nam coi là đế quốc và chống cộng số 1 này Đảng cộng sản vẫn tồn tại. Tóm lại, chế độ đa đảng là quyền của nhân dân được tự do lựa chọn giữa các quan điểm chính trị khác nhau và về phía các chính đảng là làm sao giành được sự tín nhiệm cao nhất của nhân dân để có thể cầm quyền. Để nói, Đảng cộng sản Việt Nam luôn khẳng định bản thân có nhiều công trạng với dân, với nước thì không có lý do gì để đảng này phải sợ sẽ không được nhân dân tín nhiệm trong cạnh tranh với các đảng khác. Ngược lại, nếu Đảng cộng sản Việt Nam không dám chấp nhận cạnh tranh chính trị một cách hòa bình trong khuôn khổ chế độ đa đảng thì điều này chẳng những chứng tỏ đảng này yếu kém và vụ lợi mà nghiêm trọng hơn rất nhiều, sẽ dẫn đến cạnh tranh chính trị bằng bạo lực đồng nhất với một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn kéo dài 2 thập kỷ từ 1955 đến 1975 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa (Điều này có nghĩa chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không phải là xâm lược)
6-    Chính chủ nghĩa Mác Lê Nin mà Đảng cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng tư tưởng đã thừa nhận “nguồn gốc của sự vận động và phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật”. Vậy không có lý do gì để Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận song song với mình sự tồn tại của các đảng khác trong đó có các đảng đối lập với mình, trừ phi đảng này chống lại sự vận động và phát triển của đất nước và xã hội Việt Nam.
Kết luận lại, việc bỏ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội quy định tại Điều 4 Hiến pháp và Điều 4 Dự thảo đồng nhất với chế độ độc tài và việc thực hiện chế độ đa đảng là tuyệt đối cần thiết để đảm bảo Dân chủ, bảo đảm “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”.Tuy nhiên, để không xảy ra tình trạng “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, bỏ được sự cai trị độc đoán của Đảng cộng sản Việt Nam do đảng này không bị ràng buộc bởi luật pháp thì lại vớ phải tình trạng hỗn loạn “vô chính phủ” được tạo ra bởi sự vắng bóng của luật pháp về các đảng chính trị thì cách duy nhất là phải có luật về các đảng chính trị mà những nét cơ bản phải được xác định trong Hiến pháp. Cụ thể là Hiến pháp xác định vai trò của các đảng trong bảo đảm Dân chủ, xác định cách thức thành lập, cách thức tổ chức, cách thức hoạt động của các đảng. Ví dụ: “Các đảng chính trị tham gia vào việc hình thành ý chí chính trị của nhân dân”, “việc đăng ký các đảng chính trị được thực hiện tại Tòa án Hiến pháp”..
II – BỎ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, LẤY “VIỆT NAM” LÀM QUỐC HIỆU, THIẾT LẬP CHỨC VỤ TỔNG THỐNG
Tôi đề nghị bỏ chủ nghĩa xã hội – chế độ xã hội chủ nghĩa khỏi Hiến pháp, Hiến pháp sửa đổi với những lý do sau đây.
1-    Chủ nghĩa xã hội phản dân chủ
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “ chuyên chính” là “ trực tiếp dùng bạo lực (đối lập với dân chủ) để áp đặt ý chí của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị”. Vậy chủ nghĩa xã hội – chế độ xã hội chủ nghĩa mà chủ trương “chuyên chính vô sản”, tức dùng bạo lực để áp đặt cho xã hội sự thống trị của giai cấp công nhân, cụ thể là áp đặt sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội của Đảng cộng sản là “đội tiên phong” của giai cấp công nhân, dứt khoát là một chế độ chính trị phản dân chủ. Bản chất phản dân chủ này của chủ nghĩa xã hội, chế độ xã hội chủ nghĩa đã được tôi phân tích ở trên trong mục “ Bỏ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thực hiện chế độ đa đảng”.
2 – Chủ nghĩa xã hội phản dân tộc
Đối với chủ nghĩa xã hội thì không có “dân tộc” mà chỉ có “giai cấp” không có “con người dân tộc” mà chỉ có “con người giai cấp” bất cứ ai không tán thành sự thống trị của giai cấp vô sản – công nhân đều là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và vì vậy là đối tượng đàn áp của “chuyên chính vô sản” mà hiện thân là chính quyền do đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này lý giải vì sao sau 30/4/1975, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp đó là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đưa cả trăm nghìn nhân viên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vào các trại tập trung cải tạo – các nhà tù thực sự – với lý do duy nhất là họ đã phục vụ trong chính quyền chống cộng. Lẽ dĩ nhiên, việc bỏ tù các “kẻ thù giai cấp” này của Nhà nước Cộng sản Việt Nam chỉ càng đào sâu hận thù dân tộc thay vì xóa bỏ nó. Chính sách gây hận thù dân tộc này còn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy lên cao độ khi bỏ tù luôn cả người yêu cầu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện hòa giải dân tộc, cụ thể là bỏ tù tôi – Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ – do đã gửi Quốc hội “ Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc”!
Chủ nghĩa xã hội không chỉ phản dân tộc ở chỗ xóa bỏ “con người dân tộc” bằng cách luôn duy trì người Việt Nam trong tình trạng thù hận lẫn nhau như trên vừa chứng minh mà tày giời hơn, ở chỗ muốn xóa bỏ Tổ Quốc của người Việt Nam với định danh “ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” ghi trong Hiến pháp và Dự thảo. Thực vậy, “Tổ quốc” trong tiếng Việt có nghĩa “quốc gia do Tổ tiên tạo lập” đồng nghĩa Tổ Quốc của người Việt Nam chỉ có một, là quốc gia do Tổ tiên của người Việt Nam là Vua Hùng tạo lập. Do đó “Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa” không gì khác hơn là phủ nhận Vua Hùng, phủ nhận quốc gia của người Việt Nam đã có từ 4000 năm nay hay phủ định chính Tổ Quốc của người Việt Nam!
Cũng như vậy, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà Đảng cộng sản Việt Nam luôn tuyên truyền là hoàn toàn trái với lich sử của dân tộc Việt Nam. Thực vậy, Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 68 năm hoàn toàn không dính dáng đến chủ nghĩa xã hội, điều này có thể thấy rõ trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Không những thế, việc Đảng cộng sản Việt Nam – lúc bấy giờ có tên là Đảng cộng sản Đông Dương – tự giải thể vào ngày 11/11/1945, chỉ 2 tháng sau khi nền Cộng hòa ra đời, càng chứng tỏ nhân dân Việt Nam giành độc lập là để thực hiện quyền dân tộc tự quyết chứ tuyệt nhiên không phải để xây dựng chủ nghĩa xã hội là mục đích tự thân của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như chứng tỏ sự tồn tại của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ gây hại cho việc bảo vệ và củng cố nền Độc lập dân tộc còn trứng nước. Ngoài ra, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không gì khác hơn là phủ định sạch trơn Độc lập dân tộc mà người Việt Nam đã giành được dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Ngô Quyền, Lê Lợi trước phong kiến Trung Hoa hay nói ngắn gọn, xóa bỏ toàn bộ lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam!
Không dừng lại ở phủ nhận, xuyên tạc Tổ Quốc và Độc lập dân tộc của người Việt Nam, chủ nghĩa xã hội xâm hại ngay chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Năm 1958, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa”, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công hàm gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam, điều này giải thích vì sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không hề phản ứng dù chỉ là tý chút trước việc Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đang do Việt Nam Cộng hòa quản lý vào năm 1974. Năm 1988, Trung Quốc đã ngang nhiên tấn công quần đảo Trường Sa, giết chết 64 sĩ quan, chiến sĩ Việt Nam đồn trú và chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo này của Việt Nam. Thế nhưng một lần nữa, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa” Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã không hề lên án hành vi xâm lược này của Trung Quốc. Bộ mặt phản dân tộc này của chế độ xã hội càng lộ rõ khi cách đây một số năm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bắt giam một số công dân Việt Nam vì họ đã lên tiếng khẳng định “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” với lý do không thể ngược đời hơn là những công dân này đã “xâm phạm an ninh quốc gia” cũng như cho đến bây giờ đã không chịu công nhận liệt sĩ cho các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa như tôi đã yêu cầu trong một Kiến nghị gửi Quốc Hội.
Điều nghiêm trọng là hành vi “ bán nước” hay phản dân tộc của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn chưa dừng lại. Thực vậy, trước âm mưu dùng vũ lực thôn tính nốt quần đảo Trường Sa và độc chiếm biển Đông đã quá rõ ràng của Trung Quốc, nước đang sở hữu các phương tiện chiến tranh nói chung, phương tiện chiến tranh trên biển nói riêng gấp bội lần Việt Nam, tôi – Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ – đã nhiều lần kều gọi Nhà nước Việt Nam khẩn trương liên minh quân sự với Mỹ để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa và tiến tới thu hồi quần đảo Hoàng Sa nói riêng, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông nói chung vì Mỹ không chỉ là siêu cường quân sự duy nhất trên thế giới mà còn là nước duy nhất trên thế giới có chiến lược ngăn chặn Trung Quốc bành trướng bằng vũ lực ở Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở Đông Á. Thế nhưng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bác bỏ liên minh quân sự với Mỹ vì cho rằng cái giá phải trả cho liên mình này là mất chế độ xã hội chủ nghĩa!
3 – Chủ nghĩa xã hội chống lại con người
Trước hết cần ghi nhận rằng nhiều quyền con người đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam mà sau đây là một số cơ bản nhất.
Điều 69 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Điều 70 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào… Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”.
Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam đã tham gia một số điều ước quốc tế về nhân quyền trong đó có Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự. Điều 19 Công ước này quy định:
1)    Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2)    Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ!
3)    Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được quy định trong luật và là cần thiết để:
  1. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác.
  2. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội.
Thế nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa là “nói một đằng, làm một nẻo” những quyền con người nói trên đều bị Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chà đạp trên thực tế.
Để triệt tiêu quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin của công dân, Nhà nước đã đặt ra “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” – Điều 88 Bộ luật hình sự bất chấp quy định “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp tại Khoản 1 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền chính trị dân sự. Cụ thể là Nhà nước đã vịn vào tội danh được đặt ra trái pháp luật này để bỏ tù tất cả những ai bày tỏ quan điểm chính trị trái ngược với quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam mà tôi – Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ là một trong số các nạn nhân.
Cũng cần nói thêm rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cấm báo chí tư nhân trong khi thực chất của quyền tự do báo chí là cá nhân hay tư nhân được quyền ra báo chí. Bản thân khái niệm “tự do” xuất phát và gắn liền với khái niệm “cá nhân” hay nói cách khác, “cá nhân” không tồn tại thì “tự do” không tồn tại!
Về quyền lập hội, quyền biểu tình của công dân, các quyền này chỉ có thể được pháp luật bảo hộ sau khi các quyền này được luật hóa như quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992. Thế nhưng cho đến nay, đã 21 năm trôi qua, Luật về Hội và Luật biểu tình vẫn chưa được ban hành đồng nghĩa quyền lập hội, quyền biểu tình vẫn chưa được ban hành đồng nghĩa quyền lập hội, quyền biểu tình “có cũng như không” hay nói đúng hơn, các hội, các cuộc biểu tình ở Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất hợp pháp và vì vậy có thể bị Nhà nước dẹp bỏ bất cứ lúc nào và những người tổ chức luôn có thể bị Nhà nước khép vào “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 258 Bộ luật hình sự hay vào “Tôi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 245 Bộ luật hình sự hay vào “Tội gây rối trật tự công cộng” quy định tại Điều 258 Bộ luật hình sự hay vào “ Tội gây rối trật tự công công” quy định tại Điều 245 Bộ luật hình sự. Nhân đây cần khẳng định rằng “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân “ là trái nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là “Mọi người có thể làm những gì mà Luật không cấm” (Từ điển bách khoa Việt Nam), tức không vi phạm điều mà luật cấm thì không thể là tội phạm! Nói cách khác, Điều 258 và Điều 88 Bộ luật hình sự được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra là để loại bỏ các quyền tự do, dân chủ của công dân!
Cũng như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Điều 70 Hiến pháp là không tồn tại chừng nào còn Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực vậy, tín ngưỡng, tôn giáo, suy cho cùng đều là hệ tư tưởng trong khi chủ nghĩa Mác Lê-nin cũng là hệ tư tưởng. Do đó, một khi đã khẳng định tự do tín ngưỡng, tư do tôn giáo thì đương nhiên tín ngưỡng tôn giáo không thể bị “lãnh đạo” hay định hướng, điều khiển bởi hệ tư tưởng nào khác mà ở đây là chủ nghĩa Mác Lê-nin. Đó là chưa nói đến quan điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của chủ nghĩa Mác-Lê-nin theo đó những người cộng sản phải giải thoát nhân dân khỏi sự đầu độc của tôn giáo, tức coi tôn giáo là địch thủ, là đối tượng mà những người cộng sản phải trừ bỏ!
Về quy định “những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” cũng tại Điều 70 Hiến pháp thì quy định này đồng nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo bị hủy diệt khi nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo bị Nhà nước xóa bỏ và chiếm lấy. Cần khẳng định rằng nghĩa trang của giáo xứ là một nơi thờ tự của đạo Thiên chúa ( Kito giáo). Do đó việc chính quyền Đà Nẵng năm 2009 đã chiếm lấy nghĩa trang của giáo xứ Cồn Dầu và bỏ tù một số giáo dân do những người này đã đưa một giáo dân khác vừa qua đời đến chôn ở nghĩa trang này là hành vi đàn áp, hủy diệt tôn giáo không hơn không kém!
Lẽ dĩ nhiên, còn rất nhiều quyền con người – công dân khác như quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tài sản đối với đất đai… bị Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xâm hại nghiêm trọng. Tuy nhiên một số dẫn chứng đã nêu ở trên cũng đã đủ cho thấy chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa là điển hình của đàn áp con người.
4 – Chủ nghĩa xã hội mang lại đói nghèo và tham nhũng
Trước hết phải khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản không gì khác hơn là kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường, còn chủ nghĩa xã hội lại chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tức xóa bỏ kinh tế tư nhân, xóa bỏ kinh tế thị trường thông qua “công hữu hóa tư liệu sản xuất”mà sản phẩm là các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế ở Việt Nam cho thấy chủ nghĩa xã hội chỉ mang lại đói nghèo cho tuyệt đại đa số người dân, đẩy Việt Nam đến bờ vực phá sản với lạm phát 900% vào năm 1985 dẫn tới ăn mày đầy đường.
Để sống sót, từ 1986, Đảng cộng sản Việt Nam phải tiến hành “Đổi mới” bước đầu đi theo chủ nghĩa tư bản bằng cách thừa nhận kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường và tự diễn biến hòa bình từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản đã cơ bản hoàn tất với việc 20 năm sau vào năm 2006 Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã chính thức cho đảng viên làm kinh tế tư nhân vốn bị đảng này coi là “bóc lột”. Mặc dầu vậy, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn không chịu công khai thừa nhận sự phá sản của chủ nghĩa xã hội và để bao biện cho việc rốt cuộc đã phải thực hiện kinh tế thị trường hiện thân của chủ nghĩa tư bản – đảng này đã biến báo kinh tế thị trường bằng cách gắn cho nó cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, sự bao biện này của Đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại hoàn toàn. Thực vậy, như trên đã nêu, “ chủ nghĩa xã hội” hay “xã hội chủ nghĩa” đồng nhất với “xóa bỏ kinh tế thị trường”. Vậy khi thay “xã hội chủ nghĩa” trong “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thì ta có “kinh tế thị trường định hướng xóa bỏ kinh tế thị trường” vô nghĩa hoàn toàn! Ngoài ra, chỉ việc Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi thăm các nước thuộc Liên hiệp Châu Âu ( EU) đầu năm nay, 2013, luôn khẩn khoản đề nghị các nước này công nhận Việt Nam có “nền kinh tế thị trường” chứ không phải “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng đã đủ cho thấy để tồn tại và hội nhập thế giới ngày nay, Việt Nam không thể không từ bỏ chủ nghĩa xã hội!
Chủ nghĩa xã hội cũng đồng nhất với tham nhũng. Như trên đã đề cập, chủ nghĩa xã hội chủ trương quốc hữu hóa toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước trực tiếp kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước, nghĩa là Nhà nước vừa là người quản lý đồng nhất với giám sát, kiểm soát tài sản quốc gia vừa là người sử dụng tài sản ấy, tức làm cái chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi” theo cách nói dân gian. Nói cách khác, Nhà nước không phải chịu bất cứ giám sát kiểm soát nào trong việc sử dụng tài sản quốc gia và chính lỗ hổng thể chế này đã tạo ra tham nhũng – tham nhũng thể chế!
Tóm lại, doanh nghiệp Nhà nước là kênh chủ yếu để những người nắm giữ quyền lực Nhà nước mà ở đây là các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam bòn rút tiền, của Nhân dân mà các vụ VINASHIN, VINALINES là những bằng chứng điển hình. Điều này lý giải vì sao Hiến pháp 1992 hiện hành vẫn khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế quốc gia cho dù tuyệt đại đa số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, cơ bản là lỗ. Trong các lĩnh vực phi kinh doanh cũng vậy, tham nhũng tràn lan và trầm trọng bởi sự độc quyền cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam đã loại trừ tính minh bạch trong sử dụng ngân sách Nhà nước. Tình hình nghiêm trọng đến mức mà ngay Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã phải thừa nhận tham nhũng là quốc nạn!
Trên cơ sở bộ chủ nghĩa xã hội – chế độ xã hội chủ nghĩa vì những lý do đã rõ, tôi đề nghị lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu thay cho “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Cũng trên tinh thần bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa để thiết lập chế độ dân chủ – đa đảng, tôi đề nghị bỏ chức vụ “Chủ tịch Nước” và thay vào đó thiết lập chức vụ “Tổng thống”. Thực tiễn trên thế giới cho thấy Tổng thống hoặc do Quốc Hội (Nghị viện) bầu hoặc do toàn dân bầu thông qua phổ thông đầu phiếu. Tôi đề nghị Tổng thống do toàn dân bầu nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
III QUYỀN LẬP HIẾN THUỘC VỀ TOÀN DÂN, TRƯNG CẦU Ý DÂN VỀ HIẾN PHÁP, HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI
Điều 83 Hiến pháp quy định: “Quốc Hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp”.
Điều 84 Hiến pháp quy định: “Quốc Hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật”.
Điều 74 Dự thảo quy định: “Quốc Hội thực hiện quyền lập Hiến, quyền lập pháp”.
Như vậy, “lập Hiến” và “ lập pháp” là hai vấn đề khác nhau hay “lập pháp” không bao gôm “lập Hiến”.
Tôi đề nghị Hiến pháp sửa đổi quy định quyền lập Hiến thuộc về toàn dân, Quốc Hội chỉ thực hiện quyền lập pháp với các lý do sau đây.
1 – Chính thể Việt Nam là Cộng hòa đồng nghĩa nhân dân là chủ của đất nước. Do đó, chỉ nhân dân mới có quyền quyết định các vấn đề của đất nước và nhân dân thực hiện chủ quyền này của mình hoặc trực tiếp bằng lá phiếu trong khuôn khổ bầu cử Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và trưng cầu ý dân hoặc gián tiếp thông qua các đại diện của mình ở Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và cac cơ quan do các cơ quan dân cử bầu ra.
Trên tinh thần đó, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, quan hệ đến vận mệnh quốc gia, mà đứng đầu là Hiến pháp phải được nhân dân trực tiếp quyết định bằng lá phiếu trong khuôn khổ trưng cầu ý dân hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất mà Hiến pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nền Cộng hòa mà Bộ trưởng Cù Huy Cận phụ thân tôi là Tổng thư ký Ban Dự thảo – gọi là quyền phúc quyết của nhân dân ( Điều 21: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh của quốc gia theo điều 32 và 70”; Điều 32: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ được nhân dân phúc quyết nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý”. Điều 70: “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viên ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết. Nói cách khác, chừng nào Hiến pháp chưa được nhân dân trực tiếp làm ra dưới hình thức phúc quyết về Hiến pháp thì không thể nói nhân dân đã làm chủ đất nước hay Việt Nam đã có Dân chủ.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong điều kiện chiến tranh thì quyền phúc quyết của toàn dân về Hiến pháp và các vấn đề khác quan hệ đến vận mệnh quốc gia là không thể thực hiện được như trường hợp của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, điều này có nghĩa trong thời bình thì chủ quyền tối cao ấy của nhân dân quyết không thể bị từ chối bất kể vì lý do gì. Để nói việc Quốc Hội đã không đưa vào Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 quy định toàn dân phúc quyết về Hiến pháp để rồi vin vào đó không đưa hai đạo luật cơ bản này của nền Cộng hòa ra trưng cầu ý dân chỉ có thể là hành vi cố ý xâm phạm Dân chủ một cách nghiêm trọng nhất. Do đó, để vãn hồi nền Dân chủ thì không có cách nào khác là Hiến pháp, Hiến pháp sửa đổi quy định quyền lập Hiến thuộc về toàn dân.
2 – Điều 2 Hiến pháp quy định: “Có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp hàm thức, tư pháp”. Điều 2 Dự thảo quy định: “có sự phân công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, cơ quan Nhà nước (Được hiểu ở đây là Quốc Hội) chỉ có quyền lập pháp chứ không có quyền lập Hiến.
Cụ thể, tôi đề nghị ghi vào Hiến pháp, Hiến pháp sửa đổi quyền lập Hiến của nhân dân như sau:
1)    Chỉ nhân dân mới có quyền lập Hiến dưới hình thức phúc quyết về Hiến pháp, Hiến pháp sửa đổi trong khuôn khổ trưng cầu ý dân.
2)    Quy trình lập Hiến như sau:
a)    Mọi công dân, cơ quan, tổ chức có quyền đề xuất Hiến pháp, đề xuất sửa đổi Hiến pháp với Quốc Hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội vào bất cứ lúc nào.
b)    Căn cứ đề xuất Hiến pháp, đề xuất sửa đổi Hiến pháp của công dân, cơ quan, tổ chức Quốc Hội quyết định về làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số Đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành.
c)    Quốc Hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
d)    Dự thảo Hiến pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sau khi được ít nhất hai phần ba tổng số Đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành được đưa ra trưng cầu ý dân.
e)    Trưng cầu ý dân chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của quá nửa tổng số cử tri. Dự thảo Hiến pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thông qua sau khi được quá nửa tổng số cử tri tham gia trưng cầu ý dân biểu quyết tán thành.
IV – THỰC HIỆN “TAM QUYỀN PHÂN LẬP”
Điều 2 Hiến pháp quy định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trong Điều 2 Dự thảo có thêm từ “kiểm soát”: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp kiêm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nếu như Hiến pháp tại Điều 83 xác định Quốc Hội thực hiện quyền lập pháp thì cơ quan Nhà nước nào thực hiện quyền hành pháp, cơ quan Nhà nước nào thực hiện quyền tư pháp vẫn chưa được làm rõ, điều này đương nhiên tác động tiêu cực đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Do đó việc Dự thảo quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp tại Điều 99, Tòa án thực hiện quyền tư pháp tại Điều 107 bên cạnh việc tái khẳng định Quốc Hội thực hiện quyền lập pháp tại Điều 74 là hoàn toàn đúng đắn. Hơn thế nữa, với việc xác định quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, mỗi quyền có một chủ thể riêng biệt, tức ba quyền này được thực hiện độc lập với nhau, Dự thảo đã hoàn tất thiết lập thể chế “Tam quyền phân lập” đồng nghĩa quyền lực Nhà nước không phải là một thể thống nhất hay quyền lực Nhà nước không phải là thống nhất.
Thực ra, khái niệm “quyền lực Nhà nước là thống nhất” có nguồn gốc từ chế độ quân chủ chuyên chế trong đó mọi quyền lực Nhà nước như quyền đặt ra luật, quyền bổ nhiệm , bãi nhiệm các chức vụ trong bộ máy Nhà nước, quyền tối hậu trong điều hành công việc Nhà nước và trong xét xử điều nằm trong tay một người là vua. Nói cách khác, trong chế độ quân chủ chuyên chế Nhà nước là của vua hay bản thân vua là Nhà nước mà tuyên bố “Nhà nước là Ta” ( L’Etat, c’est moi) của vua Pháp Louis XIV (trị vì từ 1643 đến 1715) đã thể hiện không gì rõ hơn. Do đó, để Nhà nước là của dân, vì dân thì không có cách nào khác là phải lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế đồng nhất với việc phân chia quyền lực Nhà nước thành 3 quyền riêng biệt là lập pháp, hành pháp, tư pháp và mỗi quyền này được giao cho một cơ quan độc lập thực hiện đồng nghĩa thành viên của cơ quan thực hành quyền này không được là thành viên của cơ quan thực hành quyền kia, cụ thể là Nghị viện (Quốc Hội) thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Điêu đáng chú ý là một sự phân công quyền lực Nhà nước như vậy không chỉ nhằm tránh cai trị độc đoán khi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ do một cơ quan thực hiện theo kiểu “quân chủ chuyên chế không vua” mà còn nhằm tránh lạm dụng quyền lực Nhà nước khi mỗi quyền được đặt trong sự kiểm soát của hai quyền kia. Học thuyết chính trị này được gọi là “Tam quyền phân lập” và đã được các nhà cách mạng tư sản dân quyền thực hiện thành công ở Châu Âu từ thế kỷ 16. Tóm lại, sự ra đời của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với mỗi quyền có chủ thể riêng biệt chính là sự phủ nhận tuyệt đối “quyền lực Nhà nước là thống nhất”. Ví như cái bánh một khi được cắt thành miếng thì không thể gọi đó là bánh nguyên cái nữa!
Do đó, việc Hiến pháp và Dự thảo một mặt đề ra các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhưng mặt khác khẳng định “quyền lực Nhà nước là thống nhất rõ ràng là phủ nhận “Tam quyền phân lập” hay khẳng định “Tam quyền nhất lập” theo đó 3 quyền này kết làm một bởi đều nằm trong tay của Đảng cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, hành xử của Đảng cộng sản Việt Nam là hành xử của “vua không ngai”, lẽ dĩ nhiên điều này chi gây hại cho Dân chủ, cho quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Bài “Tam quyền nhất lập đồng lòng hại dân” mà tôi đã viết và công bố chính là nhắm tới xóa bỏ thể chế bê bối và phản pháp quyền này.
V -  BỎ “LỰC LƯỢNG VŨ TRANG PHẢI TUYỆT ĐỐI TRUNG THÀNH VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, BẢO VỆ ĐẢNG, CHẾ ĐỘ XÃ HÔI CHỦ NGHĨA”
Điều 70 Dự thảo quy định: “Lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ Quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền , thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Tôi đề nghị bỏ “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối với Đảng cộng sản Việt Nam bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa” ra khỏi Hiến pháp sửa đổi với những lý do sau:
1 -  Ở Việt Nam cũng như ở bất cứ quốc gia nào, việc Hiến định lực lượng vũ trang có tầm quan trọng vô cùng đặc biệt vì nó liên quan đến vận mệnh của quốc gia, của toàn thể người dân và vì thế việc Hiến định này, bao gồm cả sửa đổi, cần phải được lý giải một cách rõ ràng, ngược lại là áp đặt, mà áp đặt tất sẽ gây động loạn trong xã hội.
Như chúng ta đa biết, không có bất cứ Hiến pháp Việt Nam nào kể cả Hiến pháp hiện hành, quy định “ lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, bảo vệ Đảng” cả. Do đó, nhất thiết phải có giải thích vì sao các Hiến pháp không có quy định này cũng như vì sao Dự thảo lại có quy định này. Thế nhưng trong “Thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” ngày 05/01/2013 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chỉ thấy ghi: “Dự thảo khẳng định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Đảng và bảo vệ Đảng:! Nghĩa là áp đặt với hậu quả đã rõ!
2 – Điều 2 Hiến pháp và Điều 2 Dự thảo đều quy định: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Như vậy, lực lượng vũ trang nhân dân với tư cách là một công cụ để thực hiện quyền lực Nhà nước đương nhiên là của nhân dân, thuộc về nhân dân như chính cái tên của lực lượng vũ trang này đã chỉ rõ, điều này đồng nghĩa lực lượng vũ trang nhân dân không thể trung thành với ai khác bảo vệ ai khác ngoài nhân dân và Tổ quốc! Nói cách khác, muốn quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa (mục đích của Đảng cộng sản Việt Nam) thì Điều 2 Hiến pháp và Điều 2 Dự thảo phải được sửa thành “Nhà nước của Đảng cộng sản Việt Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam, vì Đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Đảng cộng sản Việt Nam” cũng như phải loại bỏ “nhân dân” khỏi “lực lượng vũ trang nhân dân” cái đã! Tất nhiên khi tiến hành những thay đổi này thì đồng thời phải xóa bỏ nền Cộng hòa vì Cộng hòa đồng nhất với “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Mà đã xóa bỏ nền Cộng hòa thì hoặc phải tái lập chế độ quân chủ hoặc phải thiết lập một chính thể hoàn toàn mới mà “ Đảng chủ” chắc chắn là tên gọi thích hợp nhất! còn nếu những thay đổi chính trị nói trên là không thể thì lực lượng vũ trang nhân dân chỉ có thể trung thành với Tổ Quốc và nhân dân mà thôi!
3 – Nói một cách thực tế, ai nuôi lực lượng vũ trang thì nhận được sự trung thành và sự bảo vệ của lực lượng vũ trang. Do đó, việc lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đang được nuôi bằng ngân sách Nhà nước, tức bằng tiền của nhân dân chứ không phải bằng đảng phí của Đảng cộng sản Việt Nam, huống hồ đảng này cũng đang hoạt động chủ yếu bằng ngân sách Nhà nước, thì lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam chỉ có thể trung thành với nhân dân, bảo vệ nhân dân chứ tuyệt nhiên không thể trung thành và bảo vệ Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhân đây cũng cần khẳng định rằng lực lượng vũ trang không được “ ăn hai mang” không được cùng lúc nhận tiền từ ngân sách Nhà nước và từ đảng chính trị hoặc đối tượng khác. Còn một khi đã nhận tiền của đảng chính trị hoặc của đối tượng khác thì lực lượng vũ trang không thể là lực lượng vũ trang nhân dân hay lực lượng vũ trang quốc gia mà nhận tiền của đảng chính trị hoặc đối tượng khác thì là Nhà nước nhân dân đang “nuôi ong tay áo” bởi lực lượng vũ trang “ăn hai mang” này thủ tiêu chính quyền nhân dân vì lợi ích của đảng chính trị hay đối tượng khác chỉ còn là vấn đề thời gian!
4 – Tại lễ khai giảng khóa đầu tiên của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ngày 26/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cho cán bộ, học viên lá cờ thêu dòng chữ “Trung với Nước, Hiếu với Dân” và có nói: “Anh em có nhiều giai cấp, tư tưởng khác nhau … Mong rằng anh em ở đây bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em “Trung với Nước, Hiếu với Dân”. Mà trong chính thể Cộng hòa thì Nước với Dân là một, “Trung với Nước” cũng là “Trung với Dân”. Lời căn dặn này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhằm khẳng định lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng phải “phi đảng hóa” hay “phi chính trị hóa” để có thể toàn tâm chiến đấu vì Nước vì Dân. Do đó việc Dự thảo quy định “lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, bảo vệ Đảng, chủ nghĩa xã hội (mục đích của Đảng cộng sản Việt Nam) rõ ràng là chống lại chính Chủ tịch Hồ Chí Minh!
VI – THIẾT LẬP TÒA ÁN HIẾN PHÁP
Khoảng 6 năm trước, tôi đã tuyên bố trên phương tiện thông tin đại chúng là ở Việt Nam phải có cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp, cụ thể là Tòa bảo Hiến hay Tòa án Hiến pháp không chỉ vì có quá nhiều xâm phạm Hiến pháp gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia và công dân từ các cơ quan Nhà nước mà còn vì Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền đồng nghĩa Hiến pháp – đạo luật cơ bản của quốc gia được bảo vệ nghiêm cẩn bằng thiết chế, chứ không chỉ bằng ý chí, thì mới loại trừ và răn đe được sự cố ý làm trái Hiến pháp hay chí ít sự tùy tiện của các cơ quan Nhà nước trong làm luật và ban hành các văn bản dưới luật và các văn bản khác. Do đó tôi hoanh nghênh việc thiết lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp mà Dự thảo đề xuất dưới hình thức Hội đồng Hiến pháp.
Tuy nhiên, tôi vẫn khẳng định rằng cần thiết lập Tòa án Hiến pháp với những lý do sau:
Dự thảo quy định Hội đồng Hiến pháp kiến nghị Quốc Hội và các cơ quan Nhà nước khác xem xét lại, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình vi phạm Hiến pháp, kiểm tra tính hợp Hiến của điều ước quốc tế được ký kết. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp chỉ có chức năng tư vấn, không có chức năng phán quyết về tính hợp Hiến của các văn bản do các cơ quan Nhà nước ban hành đồng nhất với quyền hủy bỏ các văn bản vi phạm Hiến pháp và do đó Hội đồng Hiến pháp không thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp trong trường hợp các cơ quan Nhà nước có liên quan không thu hồi, hủy bỏ các văn bản vi phạm Hiến pháp. Còn với chức năng phán quyết của mình, Tòa án Hiến pháp hủy bỏ các văn bản vi Hiến là không phải bàn cãi.
Trên thực tế, không chỉ các văn bản quy phạm pháp luật, tức có tính bắt buộc chung mà cả các văn bản chuyên biệt của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương có tính bắt buộc đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức nhất định vi phạm Hiến pháp. Do đó, phạm vi điều chỉnh của Tòa án Hiến pháp là tất cả các văn bản có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp do các cơ quan Nhà nước ban hanh, bất luận quy phạm pháp luật hay không.
Ngoài ra, Tòa án Hiến pháp có quyền phán quyết về các tranh chấp liên quan đến bầu cử Quốc Hội, bầu cử Tổng thống, Hội đồng nhân dân, kết quả trưng cầu ý dân, thực hiện chức năng đăng ký các đảng chính trị.
Mặc dầu vậy, “Hội đồng Hiến pháp” vẫn có thể được chấp nhận nếu cơ quan này có mọi chức năng của Tòa án Hiến pháp như tôi vừa nêu trên.
Bởi lẽ trên tôi đề nghị quy định về tòa án Hiến pháp (Hội dồng Hiến pháp) trong Hiến pháp sửa đổi như sau:
1 – Tòa án Hiến pháp (Hội đồng Hiến pháp) là cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp do Quốc Hội thành lập, các thành viên do Quốc Hội bầu trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Quốc Hội. Nhiệm kỳ của Tòa án Hiến pháp (Hội đồng Hiến pháp) kéo dài cho đến khi Quốc Hội khóa mới bầu ra các thành viên mới của Tòa án Hiến pháp.
2 – Tòa án Hiến pháp có chức năng:
a) Phán quyết về tính hợp Hiến của các văn bản do các cơ quan Nhà nước ban hành, hủy bỏ các văn bản vi phạm Hiến pháp.
b) Phán quyết về các tranh chấp liên quan đến bầu cử Quốc Hội, bầu cử Tổng thống, bầu cử Hội đồng nhân dân, trưng cầu ý dân.
c) Đăng ký các đảng chính trị.
VII- NGĂN CHẶN CƠ QUAN NHÀ NƯỚC XÂM PHẠM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
Tôi đề nghị như sau:
1 -  Dự thảo quy định “Quyền con người , quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng tại khoản 2 Điều 15 mà không quy định các giới hạn quyền con người, quyền công dân phải được quy định trong luật tất dẫn đến việc các cơ quan Nhà nước ngoài Quốc Hội hay cơ quan lập pháp tùy tiện định ra các giới hạn quyền con người, quyền công dân để triệt tiêu chính các quyền này. Do đó, cần sửa lại quy định này của Dự thảo như sau “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng. Nhưng giới hạn quyền con người, quyền công dân phải được quy định trong luật”.
2 -  Bỏ quy định “ Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác tại khoản 2 Điều 16 Dự thảo vì quy định này trái với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là “Mọi người có thể làm những gì mà luật không cấm” (Ngược lại, cơ quan công quyền và công chức phải tuân theo nguyên tắc “chỉ được làm những gi mà luật cho phép” – Từ điển Bách Khoa Việt Nam).
Trên đây là những tâm huyết và cũng là trách nhiệm công dân của tôi trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nếu có vấn đề gì cần trao đổi, Quý Quốc Hội và Quý ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 liên hệ sớm với tôi và tôi sẵn sàng phục vụ quý vị.
Tôi mong sớm nhận được hồi âm từ quý vị.
Người yêu nước
Đã ký
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Nơi nhận:
-       Như trên;
-       Gia đình ông Cù Huy Hà Vũ; Bà Nguyễn Thị Dương Hà ( vợ)
-       Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà và các luật sư khác;
-       Lưu.
1

2

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét