Trung Cộng, cường quốc trị giá 100 ngàn đô la
Bangladesh là quốc gia có dân số 147 triệu ở vùng Nam Á. Sau cuộc chiến tạm gọi là nội chiến Pakistan dài phát xuất từ các lý do văn hóa, tôn giáo, địa lý, quốc gia Bangladesh được thành lập vào năm 1971. Về kinh tế, Bangladesh được xếp vào hạng thứ 151 trên thế giới, nghĩa là rất nghèo. Nhiều triệu trẻ em Bangladesh vẫn còn thiếu dinh dưỡng. Chẳng những thế, các nước chung quanh cũng là những nước nghèo không thua kém nên các quan hệ kinh tế thương mại trong khu vực chẳng phát triển gì nhiều.
Nhưng khi trận bão lụt Katrina xảy ra ở New Orleans, Mỹ, tháng 8 2005, Bangladesh là một trong những quốc gia đầu tiên đáp ứng về cả nhân lực lẫn tài chánh. Chính phủ Bangladesh đã tặng nạn nhân Katrina 1 triệu đô la và sẵn sàng đưa chuyên viên sang giúp xây dựng các đê điều ở New Orleans mà họ vốn có nhiều kinh nghiệm.
Có người cho rằng việc Bangladesh tặng một triệu đô la cho Mỹ chẳng khác gì “gánh củi về rừng” và cũng có người cho rằng đó là một cách đầu tư lòng nhân đạo. Một nước nghèo như Bangladesh, số tiền một triệu đó sớm muộn cũng được Mỹ viện trợ trở lại, có thể với cả vốn lẫn lời.
Nhưng đại đa số các nhà bình luận đều đồng ý, trên tất cả những khía cạnh chính trị, kinh tế, nghĩa cử của chính phủ Bangladesh đã nói lên tấm lòng nhân ái của những người cùng cảnh ngộ. Năm 1974, Bangladesh vừa mới thành lập đã phải chịu một trong những cơn lụt lớn nhất trong lịch sử nhân loại với gần 30 ngàn người chết. Những cơn mưa mùa kéo dài suốt tháng đã làm xứ sở này sống với lũ lụt thường xuyên như chúng ta thấy trên các phóng sự truyền hình. Không ai hiểu được nỗi lòng của người chịu đựng lũ lụt hơn những người phải than thở “trời hành cơn lụt mỗi năm” như người dân Bangladesh.
Ngày 4 tháng 11, bão Haiyan hay Yolanda theo cách gọi của Philippines được cảnh báo và ngày 7 tháng 11, Tổng thống Phi Benigno Aquino III kêu gọi dân chúng trong vùng bão sẽ đi qua di tản tức khắc. Nhưng nhiều khu vực không biết tin tức và dù có nhận được lịnh cũng không biết đi đâu. Và vài giờ sau, lúc 6 giờ sáng cơn bão với sức gió 275 kilomet giờ vào đất liền.
Theo ước lượng của các cơ quan thiện nguyện quốc tế nhiều chục ngàn người dân Phi tại các đảo miền trung Philippines đã chết do cơn bão Haiyan gây ra. Chỉ riêng đảo Leyte Island đã có 10 ngàn người chết. Theo ước lượng của cơ quan National Disaster Risk Reduction and Management Council (NDRRMC) thuộc chính phủ Phi, khoảng 9.5 triệu người bị ảnh hưởng và hiện có 630 ngàn người đang lâm cảnh màn trời chiếu đất. Theo phóng viên CNN có mặt tại chỗ trong những ngày đầu, nhiều làng đã trở thành ngôi mộ tập thể và nạn nhân sống sót phải uống nước dừa để sống. Với sức gió 275 kilomet một giờ số thiệt hại nhân mạng và tài sản cuối cùng sẽ còn cao hơn ước tính rất nhiều.
Trong điêu tàn đổ nát do siêu bão Haiyan gây ra những hạt giống tình thương đang được gieo trồng. Hàng trăm quốc gia, hàng ngàn tổ chức từ thiện khắp thế giới đang đổ về Philippines không chỉ với thuốc men, áo quần, thực phẩm mà cả nhân lực để góp phần hàn gắn vết thương. Chính phủ Mỹ chỉ vài giờ sau cơn bão đã thông báo viện trợ khẩn cấp 20 triệu đô la, Anh tặng 16 triệu đô la, Nhật Bản tặng 10 triệu đô la. Đó chỉ là tiên mặt, ngoài ra, các hàng không mẫu hạm HMS Illustrious của Anh, USS George Washington của Mỹ chuyên chở thuốc men và vật dụng cần thiết đến Phi.
Và Trung Cộng, quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đã viện trợ 100 ngàn đô la.
Đừng nói gì các công ty như IKEA cam kết 2.7 triệu đô la, Coco-Cola cam kết 2.5 triệu, số tiền viện trợ của cường quốc thứ hai trên thế giới có thể còn thấp hơn số tiền do các cựu thuyền nhân và đồng hương Việt Nam tại hải ngoại đóng góp. Báo Times bình luận 100 ngàn đô la là một sỉ nhục đối với Philippines. Trước phản ứng của dư luận thế giới mới đây Trung Cộng đã gia tăng viện trợ lên đến 1.64 triệu đô la nhưng không phải tiền mặt mà là mùng mền, chăn chiếu. Những món “Made in China” này nghe qua là đã sợ.
Nhiều nhà bình luận dù phê bình Trung Cộng đã yểm trợ chỉ bằng 6 phần trăm số tiền New Zealand đã hứa nhưng không ai hiểu tại sao các lãnh đạo Trung Cộng lại có thể làm như thế, chẳng lẽ chúng không biết thế nào là xấu hổ hay sao. Ngay cả tờ Global Times có khuynh hướng dân tộc cực đoan cũng viết trong phần bình luận ngày 12 tháng 11, 2013 “Trung Quốc như một cường quốc có trách nhiệm nên tham gia vào các hoạt động cứu trợ để giúp đở nạn nhân của quốc gia láng giềng. Nếu Trung Quốc làm nhục Philippines lần này, Trung Quốc sẽ chịu tổn thất lớn lao.”
Lãnh đạo Trung Cộng không phải là không nhận ra điều đó nhưng Trung Cộng ngày nay không phải là một Trung Cộng mà Chu Ân Lai từng thề nguyền sát cánh cùng các nước nghèo, bị trị láng giềng tại hội nghị Bandung ở Nam Dương 1955. Trung Cộng ngày nay cũng không phải là một Trung Cộng mà Đặng Tiểu Bình đã hứa chia ngọt sẻ bùi với các quốc gia Đông Nam Á bằng những lời đường mật trong chuyến viếng thăm của y năm 1978. Cơn bỉ cực đã qua, thời thái lai đang tới, lãnh đạo Trung Cộng ngày nay là một đám kiêu căng đang giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc Đại Hán và chủ nghĩa này sẽ là chảo dầu của chiến tranh thế giới lần thứ ba phát xuất tại Á Châu.
Hơn ai hết, lãnh đạo Trung Cộng biết 3 trong số 20 cơn lụt lớn nhất nhân loại đều xảy ra tại Trung Hoa với khoảng 3 triệu người chết trong cơn lụt 1931, hai triệu người chết trong cơn lụt 1887 và khoảng bảy trăm ngàn người chết trong cơn lụt 1938, nhưng bản chất ti tiện, kiêu căng của giới lãnh đạo CS đã giết chết đặc tính “nhân chi sơ tính bổn thiện” của con người, che khuất tình “đồng cảnh tương thân”, bôi một lớp tro đen lên trên mấy ngàn năm văn hóa Trung Hoa và hủy hoại thể diện một của một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Trung Cộng là một trong những nước có nguồn dự trữ vàng lớn nhất thế giới, là nước chủ nợ lớn nhất thế giới và GDP có khả năng sẽ vượt qua Mỹ vào năm 2020 với ước lượng khoảng 24 ngàn tỉ đô la. Trung Cộng có rất nhiều cái nhất nhưng những điều đó không làm nên giá trị của một quốc gia, không làm cho nhân loại kính trọng Trung Cộng hơn Bangladesh, bởi vì giá trị của một quốc gia không phải được xác định bằng của cải mà bằng các tiêu chuẩn đạo đức, dân chủ, văn minh và văn hóa.
Khi bàn về những phẩm chất để làm một quốc gia trở nên vĩ đại và được kính trọng, nhà văn Thomas Fann, trong một tiểu luận xuất sắc đã nêu ra 10 yếu tô gồm tự do, công lý, danh dự, đạo đức, lòng thương cảm, thành thật, giá trị cuộc sống, sáng tạo, vượt trội, bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai. Thomas Fann nhấn mạnh đến việc nghĩ đến các thế hệ tương lại khi nhắc câu chuyện Disney Land. Ông Walt Disney chết năm năm trước ngày Disney World ở Florida, Mỹ, khai mạc. Trong lễ khai mạc, có người than phải chi ông còn sống để thấy những khu chơi dành cho cho thiếu nhi huy hoàng tráng lệ như ngày nay. Thật ra, với tầm nhìn xa và tư duy khai phóng, ông Walt Disney đã thấy những nụ cười rạng rở, những ánh mắt vui tươi của trẻ em từ lâu trước ngày khai mạc Disney Land.
Trung Cộng không đạt bất cứ một phẩm chất nào trong mười phẩm chất nêu trên. Nhưng nếu phải xếp hạng, có lẽ nên được xếp Trung Cộng cùng thời đại với các nhóm dân bộ lạc bán khai ăn thịt người còn sống tản mát trong các khu rừng ở Congo, vùng West Indies và khu vực Amazon hoang dã.
Tại sao?
Cách đây không lâu Trung Cộng là một trong số ít quốc gia mà cha mẹ đã làm thịt con đẻ của mình để sống qua ngày. Cách đây không lâu đã có hơn ba chục triệu người dân Trung Cộng phải chết đói, ăn thịt nhau một cách công khai trong thời kỳ Bước tiến nhảy vọt và Công xã nhân dân, tức giai đoạn người dân phải đem nồi niêu xoong chảo ra các “nhà luyện kim sau vườn” để “đúc thép” theo chủ trương của Mao Trạch Đông. Và không chỉ trong 40 năm trước, mà ngay cả ngày nay cũng thế, trong lúc đại đa số nhân loại đã qua khỏi thời kỳ dã man cả ngàn năm nhưng tại Trung Cộng việc ăn thịt người là một thức ăn sang trọng. Tờ Next Magazine phát hành tại Hong Kong cho rằng tại Trung Cộng, thai nhi là thức ăn phổ biến.
Tháng Năm, 2012, trên tờ Washington Times, nhà văn và nhà nghiên cứu Youngbee Dale cho biết sở quan thuế Nam Hàn đã tịch thu 17 ngàn viên thuốc chế bằng thai nhi sản xuất tại Trung Cộng. Chính sách một con đã buộc các cặp vợ chồng chọn phá thai dù ở giai đoạn nào khi biết đứa bé sắp chào đời là con gái. Đài truyền hình Nam Hàn chiếu một phóng sự kinh hoàng, trong đó, các bác sĩ người Hoa thực hiện các ca phá thai và ăn bào thai ngay tại chỗ. Một bác sĩ người Hoa khác để dành bào thai trong tủ lạnh như để dành tôm cá. Việc ăn thịt người xảy ra nhiều nơi ở các bộ lạc bán khai Phi Châu, Nam Mỹ nhưng ăn thịt người được nhà nước cho phép chỉ xảy ra tại quê hương của Tập Cận Bình.
Trung Cộng như một cường quốc kinh tế và theo thông lệ chính trị quốc tế, phải hành xử đúng tư cách của một cường quốc dù đối với bạn hay thù. Nhưng không, lãnh đạo Trung Cộng không có trái tim và lòng nhân đạo và cũng không quan tâm đến sĩ diện của quốc gia. Đối với chúng tiền bạc là vũ khí, là cây gậy. Philippines là quốc gia tranh chấp với Trung Cộng về chủ quyền biển Đông nên những đứa bé Philippines đang hấp hối ở Tacloban phải chết thay cho chính phủ của các em.
Lãnh đạo Trung Cộng là những kẻ nói như Bá Dương nhận xét về nước của ông ta “Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết."
Tại sao người Nhật không ghét Mỹ dù Mỹ đã ném hai trái bom nguyên tử giết 240 ngàn người Nhật tại hai đảo Hiroshima và Nagasaki? Bởi vì đó là lịch sử. Con người cũng như quốc gia, không ai có thể quay ngược lại bánh xe thời gian và chỉ có thể vượt qua nỗi đau quá khứ bằng cách xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Trung Cộng thì khác. Mối nhục một trăm năm được ghi đậm ngay trong phần mở đầu của hiến pháp và lòng thù hận nước ngoài đã được đảng CS khai thác tận tình.
Từ cơn bão lụt Katrina đến nay, mỗi khi cần phải tìm một ví dụ để nhắc đến tình người, để biểu dương tinh thần “đồng cảnh tương thân”, Bangladesh lại được ca ngợi trong hầu hết bài viết, diễn văn, từ tổng thống Mỹ cho đến một học sinh trung học và xem đó như “tấm gương Bangladesh”. Từ cơn bão Haiyan về sau, Trung Cộng cũng sẽ được nhắc nhở nhưng hoàn toàn phản nghĩa với Bangladesh. Trung Cộng sẽ đồng nghĩa với bản chất ti tiện, dã man, kiêu căng, thù vặt và thù dai. Bản chất đó là “sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn” của dòng máu bành trướng Đại Hán và đặc tính Cộng Sản độc tài. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, Trung Cộng là quốc gia có tổng sản lượng nội địa năm 2012 hơn bảy ngàn tỉ đô la nhưng trong mắt của phần lớn nhân loại hôm nay, trị giá của cường quốc này chỉ đáng 100 ngàn.
Trần Trung Đạo
Theo blog Trần Trung Đạo
Đồng tiền có mùi gì?
Một câu chuyện có thật vừa được đưa lên báo đang gây sự phẫn nộ cực điểm trong dư luận.
Đại ý là vào một buổi trưa, bà L - nhân có việc đi ngang trường Hùng Vương - đã tá hỏa khi nhìn thấy cháu nội là Lã Thị Th V đang đứng bơ vơ trước cổng trường đóng kín. Hỏi cơ sự thì cháu V nói không được ăn cơm vì chưa nộp tiền.
Sáng hôm sau, bà đưa cháu đến trường và khất cô tài vụ hẹn buổi trưa sẽ đến đóng tiền và được phòng tài vụ đồng ý. Vậy mà trưa hôm đó khi đến trường đóng tiền, bà L một lần nữa lại thấy cháu nội của mình đứng dưới cái nắng chang chang trước cổng trường đang đóng kín…
Hóa ra, nguyên do của việc bị đuổi cổ ra ngoài cổng trường trong giờ các bạn ăn trưa chỉ là vì chậm nộp tiền. Và chậm nộp tiền là vì cha mẹ cháu V đang xảy ra lục đục.
Bạn sẽ có thể có một thứ tình cảm nào khác ngoài sự phẫn nộ. Bạn có bao giờ giật mình mỗi khi lơ đãng nghe chuyện con nhắc nộp tiền?
Người ta có thể trách “cha mẹ cháu đã thiếu quan tâm đến con cái”. Người ta có thể nói “nhà trường không phải là trại tế bần”. Thậm chí, người ta lập luận rằng: “Không có tiền thì không ăn. Thế thôi; để đảm bảo công bằng cho những người nộp tiền ăn”. Nhưng từ bao giờ, dưới mái trường XHCN đã sinh ra cái thứ công bằng bằng cách làm nhục một đứa bé? Từ bao giờ và ai đã nghĩ ra biện pháp sòng phẳng đến lạnh lùng là buộc một đứa bé phải đứng ngoài cổng để gây sức ép thu tiền? Và từ bao giờ, đồng tiền trở thành một tiêu chí cho việc phục vụ trong chính môi trường sư phạm đang dạy dỗ những đứa trẻ rằng đồng tiền không mua được hạnh phúc.
Còn bảo đó là “biện pháp” ư? Liệu có thể gọi sự lạnh lùng đến vô cảm, sòng phẳng đến nhẫn tâm là một biện pháp?
Nhắc lại rằng, cháu V - 7 tuổi, mới đang chỉ là một học sinh lớp 2. Có lẽ cháu còn quá nhỏ để có thể khóc trong tủi nhục.
Đã có một thời, khi buộc học sinh mặc đồng phục, ngành giáo dục đã đưa ra một lý do rất thuyết phục là để tạo ra sự bình đẳng, để tránh sự phân biệt giàu-nghèo trong môi trường giáo dục.
Sự bình đẳng ấy đang hiện diện về mặt hình thức trên những tấm áo đồng phục. Nhưng trong không ít trường hợp, lại thiếu vắng trong chính tư duy của những nhà giáo dục.
Những học sinh ở thủ đô phải ngồi trong lớp, không được ra ngoài xem xiếc cùng các bạn do cha mẹ không đóng 40 ngàn đồng. Lý do được giải thích là “đảm bảo công bằng cho những bạn đóng tiền”.
Và giờ, một đứa trò còn quá nhỏ để biết thế nào là công bằng, còn quá thơ dại để hiểu nổi tủi nhục, bị đối xử như thể hất kẻ ăn mày ra ngoài cửa nhà.
Đồng tiền ngoài chợ có mùi hàng tôm hàng cá. Còn nếu đồng tiền ngay trong nhà trường đang là một thước đo chuẩn mực thì không hiểu đồng tiền đó có mùi gì!
Anton Makarenko - nhà sư phạm vĩ đại người Ukraina - có lần nêu triết lý giáo dục của ông rằng: “Muốn có những đoá hoa đẹp phải kịp thời dùng kéo cắt những cành khô hoặc dùng thuốc sát trùng mà tưới cho hoa”.
Chắc chắn, đó không phải là lưỡi kéo đồng tiền để cắt vào trang giấy tâm hồn còn đang trắng tinh. Bởi thứ mà “lưỡi kéo đồng tiền” nhận được không phải là một đóa hoa đẹp, mà là một tổn thương của người lớn và là một bài học lớn về nổi tủi hổ của những đứa bé.
(Lao động)
Ban Thẩm Tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc Tế Cộng Sản
Dân Luận xin cảm ơn nhà báo Nguyễn Xuân Bình đã cung cấp phóng ảnh bài báo.
Ban Thẩm Tra Vụ Việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc Tế Cộng Sản được thành lập
Tháng Hai Năm 1936 (Tháng 02 – 1936), trong một giai đoạn lịch sử phức
tạp, căng thẳng. Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Hai đang đến gần, các nước
tư bản thù địch đang bao vây quyết tiêu diệt chính quyền Xô Viết ở nước
Nga, nội bộ Quốc Tế Cộng Sản do nhiều lý do khách quan và chủ quan, gặp
rất nhiều khó khăn thử thách. Trong bối cảnh lịch sử đó Đảng Cộng Sản
Đông Dương phải trải qua những ảnh hưởng khác nhau về quan điểm tư tưởng
và đường lối Cách Mạng Việt Nam. Tình hình chung ít nhiều ảnh hưởng
trực tiếp đến từng người cụ thể, đến từng vụ việc cụ thể, nếu như người
đó trước đây và hiện tại “có vấn đề” về chính trị hoặc vướng mắc về mặt nào đó liên quan đến tổ chức.
Nguyễn Ái Quốc lúc này đang là học viên Trường Đại Học Đông Phương, nhưng lại là tâm điểm chú ý của dư luận trong nội bộ Quốc Tế Cộng Sản và Đảng Cộng Sản Đông Dương, bởi “nghi án” của những vụ việc trước đây như sự kiện thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam với tên gọi và chính cương, sách lược vắn tắt tập hợp địa chủ và tư sản dân tộc là động lực của cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy rằng đến ngày nay, đó vẫn là sự sáng suốt và đứng đắn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhưng thời kỳ đó cho rằng là sai lầm, hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, tư tưởng tiểu tư sản…
Một loạt dấu hỏi về vụ án Hương Cảng: Vì sao chịu án phạt nhẹ, bằng con đường nào để đến được Liên Xô…Đặc biệt bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại Đảng Cộng Sản Đông Dương viết ngày 20 tháng 04 năm 1935 [1] gửi Quốc Tế Cộng Sản cung cấp những thông tin cực kỳ nguy hiểm về Nguyễn Ái Quốc. Nội dung thư kết tội Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn một trăm đảng viên của Đảng Cách Mạng Thanh Niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng, Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của hai đến mười bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc. Đường lối chính trị của Đảng Cộng Sản do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trước đây bị phê bình gay gắt trong các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đồng chí Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Xiêm – người học trò trung thành của Nguyễn Ái Quốc, một trong nhiều người nói rằng, trước năm 1930 Nguyễn Ái Quốc chưa phải là đảng viên Đảng Cộng Sản. Trong thư còn nói về sai lầm của Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ chức cộng sản vào năm 1930, yêu cầu Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất cần viết cuốn sách tự chỉ trích những sai lầm về chính trị của mình.
Có phải do bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại là nguyên nhân chính dẫn đến việc thành lập Ban Thẩm Tra Vụ Việc Nguyễn Ái Quốc, hay đó chỉ là “giọt nước làm tràn ly,” là cái cớ để những dị nghị âm ỉ lâu nay bùng phát?
Nguyễn Ái Quốc lúc này đang là học viên Trường Đại Học Đông Phương, nhưng lại là tâm điểm chú ý của dư luận trong nội bộ Quốc Tế Cộng Sản và Đảng Cộng Sản Đông Dương, bởi “nghi án” của những vụ việc trước đây như sự kiện thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam với tên gọi và chính cương, sách lược vắn tắt tập hợp địa chủ và tư sản dân tộc là động lực của cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy rằng đến ngày nay, đó vẫn là sự sáng suốt và đứng đắn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhưng thời kỳ đó cho rằng là sai lầm, hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, tư tưởng tiểu tư sản…
Một loạt dấu hỏi về vụ án Hương Cảng: Vì sao chịu án phạt nhẹ, bằng con đường nào để đến được Liên Xô…Đặc biệt bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại Đảng Cộng Sản Đông Dương viết ngày 20 tháng 04 năm 1935 [1] gửi Quốc Tế Cộng Sản cung cấp những thông tin cực kỳ nguy hiểm về Nguyễn Ái Quốc. Nội dung thư kết tội Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn một trăm đảng viên của Đảng Cách Mạng Thanh Niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng, Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của hai đến mười bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc. Đường lối chính trị của Đảng Cộng Sản do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trước đây bị phê bình gay gắt trong các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đồng chí Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Xiêm – người học trò trung thành của Nguyễn Ái Quốc, một trong nhiều người nói rằng, trước năm 1930 Nguyễn Ái Quốc chưa phải là đảng viên Đảng Cộng Sản. Trong thư còn nói về sai lầm của Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ chức cộng sản vào năm 1930, yêu cầu Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất cần viết cuốn sách tự chỉ trích những sai lầm về chính trị của mình.
Có phải do bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại là nguyên nhân chính dẫn đến việc thành lập Ban Thẩm Tra Vụ Việc Nguyễn Ái Quốc, hay đó chỉ là “giọt nước làm tràn ly,” là cái cớ để những dị nghị âm ỉ lâu nay bùng phát?
Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản được bầu chọn vào năm 1935. |
Hàng đứng: (từ trái sang) M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck, Dmitry Manuilsky.
Hàng ngồi: (từ trái sang) André Marty, G.Dimitrov, Palmiro Togliatti, V.Florin, Vương Minh.
Sau khi tiếp nhận được bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại, đồng chí Vaxiliepna – người trực tiếp phụ trách Đông Dương của Quốc Tế Cộng Sản đã viết bản báo cáo đề ngày 29 tháng 06 năm 1935 [2] dài ba trang gửi Bộ Phương Đông và Vụ Tổ Chức Cán Bộ của Quốc Tế Cộng Sản: “Đề nghị cần nghiên cứu kỹ nội dung bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại và cung cấp thêm những thông tin về Nguyễn Ái Quốc để Quốc Tế Cộng Sản có cơ sở đánh giá chính xác, đầy đủ, toàn diện về Nguyễn Ái Quốc.” Đồng Chí Vaxiliepna khẳng định:
“Nguyễn Ái Quốc là người Cộng Sản Đông Dương đầu tiên, là người rất có uy tín giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng sản đầu tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Khi hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc Tế Cộng Sản, mặc dầu Quốc Tế Cộng Sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy Ban Lâm Thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản…Do đó, uy tín của đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội ngũ những người lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Hội Nghị Tháng Mười – 1930 của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng chí. Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban Lãnh Đạo Đảng phản ánh tâm trạng không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên lạc viên bình thường mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo, đã đưa ra những ý kiến, ghi chú, nhận xét của mình trong các chỉ thị, thông báo của Quốc Tế Cộng Sản và cản trở những thông tin từ đất nước gửi Quốc Tế Cộng Sản.
Ngày 06-06-1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng Kông và bị kết án hai năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vaxiliepna) liên hệ với luật sư bào chữa thông qua tổ chức cứu trợ những người cộng sản bị nạn của Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức cho Nguyễn trốn thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi chúng tôi. Một thời gian sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết mà được thả tự do và biến mất.
Vera Vaxiliepna, người đã bảo vệ Hồ Chí Minh khi ông bị điều tra vào năm 1935 Vào tháng 07-1934, Nguyễn Ái Quốc đến Mátxcơva. Theo lời kể củaNguyễn Ái Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn bản về các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và trở về với chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở về, theo Nguyễn Ái Quốc kể thì do Vaillant Couturier trong thời gian ở Trung Quốc đã tổ chức giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi học tại Trường Mác - Lênin cho đến ngày nay. Thống nhất với các đồng chí Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, mặc dù chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn đấu, Nguyễn đã nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng, đặc biệt, rất quan tâm đến các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc họ đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về việc không được tham gia những nhiệm vụ bí mật.
Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thư đó có thể chống lại ý nguyện của mình.
Trên đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc khi tự phê bình tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó.
Điểm lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định vị trí đại diện trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể tham gia đại hội (Quốc Tế Cộng Sản) như một đại biểu chính thức,” (trích báo cáo của Vaxiliepna).
Bản báo cáo của Vaxiliepna được những người có trách nhiệm trong Quốc
Tế Cộng Sản đọc và nghiên cứu kỹ. Xử lý vụ việc như thế nào đây? Đã có
sự trao đổi qua lại giữa Vaxiliepna và các đồng chí trong tổ chức Quốc
Tế Cộng Sản.
Trong những vụ việc liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, những việc nào quan trọng, gây tác động nguy hiểm cần được làm sáng tỏ trước khi Ban Thẩm Tra thành lập và nhóm họp. Đó là những vụ việc sau:
Đồng chí Vaxiliepna đã trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc trao đổi về những buộc tội có trong thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại. Đặc biệt vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội mà vẫn sử dụng. Nguyễn Ái Quốc trả lời dứt khoát rằng phát hiện Lâm Đức Thụ phản động rất muộn, mãi sau này. Việc này được Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng chí Hải An (Lê Hồng Phong) đã khẳng định trong báo cáo giải trình về Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc Tế Cộng Sản.
Về việc thời gian bị bắt ở Hồng Kông, vì sao được tòa án kết tội nhẹ và thoát tù một cách dễ dàng, đồng chí Vaxiliepna đã có trong tay chứng cớ thuyết phục rằng đã liên lạc, gửi tiền cho luật sư Loseby lo việc Nguyễn Ái Quốc thông qua Hội Cứu Trợ Những Người Cộng Sản Bị Nạn của Pháp.
Bằng cách nào để đến được Mátxcơva? Sau khi ra tù, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với người bạn cũ thời kỳ hoạt động ở Cộng Sản Pháp là Paul Vaillant Couturier lúc này đang ở Trung Quốc và được bố trí trở lại nước Nga. Quốc Tế Cộng Sản đã cử đồng chí Radumopva gặp trực tiếp Vaillant Couturier hỏi về vụ việc và được trả lời là do đồng chí bố trí cho Nguyễn Ái Quốc trở về nước Nga.
Để chuẩn bị tốt nội dung làm việc cho Ban Thẩm Tra Vaxiliepna đã viết bản giải trình dài sáu trang[3], tổng hợp tất cả những vụ việc liên quan đến quá khứ, hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, đã đưa ra những ý kiến cực kỳ có lợi cho Nguyễn Ái Quốc, khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản chân chính, hy sinh cống hiến hết mình cho Đảng không phải là kẻ phản bội, chưa bao giờ có sự liên hệ với mật thám. Dẫn đến việc sai lầm về chính trị, chưa có kinh nghiệm hoạt động bí mật, trình độ lý luận còn yếu…là do chưa được đào tạo cơ bản. Gần đây, Nguyễn Ái Quốc tích cực học tập, nghiên cứu, cố gắng vươn lên để nhận thức đúng bản chất những sai lầm trong quá khứ…
Trong Bản Giải Trình Vaxiliepna đề nghị Ban Thẩm Tra có từ ba đến năm người có uy tín lớn, trong đó, dứt khoát phải có mặt của Hải An (Lê Hồng Phong) với Bản Giải Trình về Nguyễn Ái Quốc. Đây là một đề nghị cực kỳ qúy báu, như một sự bảo lãnh vận mệnh chính trị trong sạch của Nguyễn Ái Quốc trước Ban Thẩm Tra của Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng 02-1936 Ban Thẩm Tra được thành lập, lúc đầu, có hai ý kiến bút phê của lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản:
Ý kiến 1, đề nghị Ban Thẩm Tra có các đồng chí: 1. Manuinxki, 2. Krapxki, 3. Hải An, 4. Vương Minh, 5. Barixta, 6. Raimốp.
Ý kiến 2, đề nghị gồm các đồng chí: 1. Cônxinna, 2. Hải An, 3. Krapxki, 4. Barixta, 5. Xtipannốp.
Đến ngày 19-02-1936, do có nhiều lý do khác nhau, thành phần Ban Thẩm Tra chỉ có các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki.
Ban Thẩm Tra nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau:
1. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động bí mật. Ban Thẩm Tra yêu cầu đồng chí từ nay không để xảy ra những trường hợp tương tự. Đề nghị đồng chí rút kinh nghiệm bài học này trong hoạt động bí mật sau này.
2. Ban Thẩm Tra không tìm ra chứng cứ nghi ngờ nào về sự trung thành chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
3. Hồ sơ vụ việc về Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ.
Bản kết luận đã được Krapxki và Hải An ký.
Sau kết luận của Ban Thẩm Tra, tưởng chừng vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được giải quyết xong. Nào ngờ, đến tháng 01-1938, khi Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa, ban lãnh đạo Viện đề nghị Vụ Tổ Chức Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản xác minh việc Nguyễn Ái Quốc ra khỏi tù và vào Liên Xô như thế nào. Trong thư trả lời Viện Nghiên Cứu [4], Vụ Tổ Chức Cán Bộ khẳng định: Để giải quyết vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ban Thẩm Tra và đi đến kết luận về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc; đồng thời đồng chí Radumopva đã trực tiếp gặp Vaillant Couturier và được khẳng định chuyến trở về Liên Xô là do Vaillant tổ chức; hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm Tra quyết định hủy bỏ. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc mới được tiếp nhận làm nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa.
Trong những vụ việc liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, những việc nào quan trọng, gây tác động nguy hiểm cần được làm sáng tỏ trước khi Ban Thẩm Tra thành lập và nhóm họp. Đó là những vụ việc sau:
1. Vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội vẫn còn sử dụng?
2. Vì sao thời gian bị bắt ở Hồng Kông, bị tòa án kết tội nhẹ và vì sao thoát tù một cách dễ dàng?
3. Bằng cách nào để đến được Mátxcơva?
Đồng chí Vaxiliepna đã trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc trao đổi về những buộc tội có trong thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại. Đặc biệt vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội mà vẫn sử dụng. Nguyễn Ái Quốc trả lời dứt khoát rằng phát hiện Lâm Đức Thụ phản động rất muộn, mãi sau này. Việc này được Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng chí Hải An (Lê Hồng Phong) đã khẳng định trong báo cáo giải trình về Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc Tế Cộng Sản.
Về việc thời gian bị bắt ở Hồng Kông, vì sao được tòa án kết tội nhẹ và thoát tù một cách dễ dàng, đồng chí Vaxiliepna đã có trong tay chứng cớ thuyết phục rằng đã liên lạc, gửi tiền cho luật sư Loseby lo việc Nguyễn Ái Quốc thông qua Hội Cứu Trợ Những Người Cộng Sản Bị Nạn của Pháp.
Bằng cách nào để đến được Mátxcơva? Sau khi ra tù, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với người bạn cũ thời kỳ hoạt động ở Cộng Sản Pháp là Paul Vaillant Couturier lúc này đang ở Trung Quốc và được bố trí trở lại nước Nga. Quốc Tế Cộng Sản đã cử đồng chí Radumopva gặp trực tiếp Vaillant Couturier hỏi về vụ việc và được trả lời là do đồng chí bố trí cho Nguyễn Ái Quốc trở về nước Nga.
Để chuẩn bị tốt nội dung làm việc cho Ban Thẩm Tra Vaxiliepna đã viết bản giải trình dài sáu trang[3], tổng hợp tất cả những vụ việc liên quan đến quá khứ, hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, đã đưa ra những ý kiến cực kỳ có lợi cho Nguyễn Ái Quốc, khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản chân chính, hy sinh cống hiến hết mình cho Đảng không phải là kẻ phản bội, chưa bao giờ có sự liên hệ với mật thám. Dẫn đến việc sai lầm về chính trị, chưa có kinh nghiệm hoạt động bí mật, trình độ lý luận còn yếu…là do chưa được đào tạo cơ bản. Gần đây, Nguyễn Ái Quốc tích cực học tập, nghiên cứu, cố gắng vươn lên để nhận thức đúng bản chất những sai lầm trong quá khứ…
Trong Bản Giải Trình Vaxiliepna đề nghị Ban Thẩm Tra có từ ba đến năm người có uy tín lớn, trong đó, dứt khoát phải có mặt của Hải An (Lê Hồng Phong) với Bản Giải Trình về Nguyễn Ái Quốc. Đây là một đề nghị cực kỳ qúy báu, như một sự bảo lãnh vận mệnh chính trị trong sạch của Nguyễn Ái Quốc trước Ban Thẩm Tra của Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng 02-1936 Ban Thẩm Tra được thành lập, lúc đầu, có hai ý kiến bút phê của lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản:
Ý kiến 1, đề nghị Ban Thẩm Tra có các đồng chí: 1. Manuinxki, 2. Krapxki, 3. Hải An, 4. Vương Minh, 5. Barixta, 6. Raimốp.
Ý kiến 2, đề nghị gồm các đồng chí: 1. Cônxinna, 2. Hải An, 3. Krapxki, 4. Barixta, 5. Xtipannốp.
Đến ngày 19-02-1936, do có nhiều lý do khác nhau, thành phần Ban Thẩm Tra chỉ có các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki.
Ban Thẩm Tra nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau:
1. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động bí mật. Ban Thẩm Tra yêu cầu đồng chí từ nay không để xảy ra những trường hợp tương tự. Đề nghị đồng chí rút kinh nghiệm bài học này trong hoạt động bí mật sau này.
2. Ban Thẩm Tra không tìm ra chứng cứ nghi ngờ nào về sự trung thành chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
3. Hồ sơ vụ việc về Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ.
Bản kết luận đã được Krapxki và Hải An ký.
Sau kết luận của Ban Thẩm Tra, tưởng chừng vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được giải quyết xong. Nào ngờ, đến tháng 01-1938, khi Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa, ban lãnh đạo Viện đề nghị Vụ Tổ Chức Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản xác minh việc Nguyễn Ái Quốc ra khỏi tù và vào Liên Xô như thế nào. Trong thư trả lời Viện Nghiên Cứu [4], Vụ Tổ Chức Cán Bộ khẳng định: Để giải quyết vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ban Thẩm Tra và đi đến kết luận về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc; đồng thời đồng chí Radumopva đã trực tiếp gặp Vaillant Couturier và được khẳng định chuyến trở về Liên Xô là do Vaillant tổ chức; hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm Tra quyết định hủy bỏ. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc mới được tiếp nhận làm nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa.
tại Maxcova năm 1924 cùng Joseph Gothon-Lunion (thứ 3) và Leon Trotsky (thứ 4)
Vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã lùi xa từ nửa đầu thế kỷ trước, nó như một
dấu lặng trong cuộc đời đầy sóng gió của những năm tháng hoạt động ở
nước ngoài. Vì nhiều lý do mà đến nay chúng ta chưa tiếp cận được đầy
đủ, hoặc chưa xã hội hóa tài liệu lưu trữ thuộc giai đoạn này, do đó,
nhận thức về bản chất các sự kiện liên quan đến Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều
khó khăn.
Thời kỳ này là thời kỳ khó khăn nhất của Nguyễn Ái Quốc, nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng Người đã vượt qua. Ngoài ra, cần được xem xét những yếu tố khách quan khác. Trong lúc khó khăn nhất, bên cạnh Nguyễn có những người bạn, người đồng chí hết lòng giúp đỡ, như Vaxiliepna, Lê Hồng Phong, Vaillant Couturier, Manuinxki, Radumopva…
Thời điểm thành lập Ban Thẩm Tra (tháng 02-1936) và trước đó chưa rơi vào thời kỳ cao điểm thanh lọc nội bộ Quốc Tế Cộng Sản, cho nên xem xét vụ việc chưa đến nỗi quá tả; những người trực tiếp phụ trách Phong Trào Cách Mạng Đông Dương hoặc có liên quan đến vụ việc của Nguyễn Ái Quốc chưa bị “xử lý” như Vaxilepnia, Krapxki, Radumopva…Với cái cớ rất hợp lý “do trình độ lý luận yếu,” Nguyễn Ái Quốc có điều kiện vào trường học suốt thời gian lưu lại ở Liên Xô. Công việc học tập, một mặt nâng cao trình độ lý luận, mặt khác, được giảm bớt tham gia đảm nhận những công việc khác. Đặc biệt trong thời gian cực kỳ khó khăn này, nếu một nhân vật chính trị “có vướng tỳ vết” nào đó mà đang đảm nhận nhiệm vụ chính trị thì nguy hiểm rất cao; trường học là nơi “ẩn náu” tốt nhất tránh được mọi cuộc va chạm, đối đầu, dị nghị. Những ai, đặc biệt là người nước ngoài, đảm nhận vị trí trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản thời kỳ này phải đối mặt với sự nguy hiểm của chiến dịch thanh trừng “nội bộ.” Nguyễn Ái Quốc không có danh sách trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản, không đảm nhận công việc cụ thể nào “mà chỉ lo học hành.”
Một yếu tố cực kỳ quan trọng, đó là tầm ảnh hưởng, tiếng tăm của Nguyễn Ái Quốc trên chính trường quốc tế. Khi xử lý vụ việc Nguyễn Ái Quốc, rõ ràng những người có trách nhiệm trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản luôn tỏ thái độ kính nể và thận trọng. Có những việc phải cử người ra nước ngoài để thẩm tra, xác minh. Ngay cả Vaxiliepna cũng phải thừa nhận: “Tôi từng biết tiếng tăm của đồng chí Nguyễn trước khi làm việc trực tiếp với đồng chí.”
Cũng phải thừa nhận rằng, ít người trong thời kỳ này khi có “tỳ vết chính trị” được thành lập Ban Thẩm Tra để giải quyết một cách thận trọng như trường hợp Nguyễn Ái Quốc. Phần lớn rơi vào trường hợp này thường bị xử lý “tiền trạm hậu tấu.”
Thời điểm khó khăn nhất là lúc bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc tỏa sáng. Vì sao một số nhân vật lãnh đạo Đảng nhiều lần nhắc Nguyễn Ái Quốc viết bản tự chỉ trích về tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, biệt phái tiểu tư sản, sai lầm về đấu tranh giai cấp…nhưng Nguyễn Ái Quốc không phản ứng, không giãi bầy, chấp nhận nó trong im lặng. Nếu viết ra thành văn bản tức là chấp nhận thất bại, tự đầu hàng, biết đâu là cái cớ cho kẻ khác lợi dụng…Tư duy nhìn xa trông rộng của thiên tài là ở chỗ đó.
Lịch sử luôn luôn đúng. Hồ Chí Minh luôn đứng về phía lịch sử và làm nên lịch sử ở những thời khắc lịch sử.
Bá Ngọc
__________________________________________
Chú thích:Thời kỳ này là thời kỳ khó khăn nhất của Nguyễn Ái Quốc, nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng Người đã vượt qua. Ngoài ra, cần được xem xét những yếu tố khách quan khác. Trong lúc khó khăn nhất, bên cạnh Nguyễn có những người bạn, người đồng chí hết lòng giúp đỡ, như Vaxiliepna, Lê Hồng Phong, Vaillant Couturier, Manuinxki, Radumopva…
Thời điểm thành lập Ban Thẩm Tra (tháng 02-1936) và trước đó chưa rơi vào thời kỳ cao điểm thanh lọc nội bộ Quốc Tế Cộng Sản, cho nên xem xét vụ việc chưa đến nỗi quá tả; những người trực tiếp phụ trách Phong Trào Cách Mạng Đông Dương hoặc có liên quan đến vụ việc của Nguyễn Ái Quốc chưa bị “xử lý” như Vaxilepnia, Krapxki, Radumopva…Với cái cớ rất hợp lý “do trình độ lý luận yếu,” Nguyễn Ái Quốc có điều kiện vào trường học suốt thời gian lưu lại ở Liên Xô. Công việc học tập, một mặt nâng cao trình độ lý luận, mặt khác, được giảm bớt tham gia đảm nhận những công việc khác. Đặc biệt trong thời gian cực kỳ khó khăn này, nếu một nhân vật chính trị “có vướng tỳ vết” nào đó mà đang đảm nhận nhiệm vụ chính trị thì nguy hiểm rất cao; trường học là nơi “ẩn náu” tốt nhất tránh được mọi cuộc va chạm, đối đầu, dị nghị. Những ai, đặc biệt là người nước ngoài, đảm nhận vị trí trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản thời kỳ này phải đối mặt với sự nguy hiểm của chiến dịch thanh trừng “nội bộ.” Nguyễn Ái Quốc không có danh sách trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản, không đảm nhận công việc cụ thể nào “mà chỉ lo học hành.”
Một yếu tố cực kỳ quan trọng, đó là tầm ảnh hưởng, tiếng tăm của Nguyễn Ái Quốc trên chính trường quốc tế. Khi xử lý vụ việc Nguyễn Ái Quốc, rõ ràng những người có trách nhiệm trong bộ máy Quốc Tế Cộng Sản luôn tỏ thái độ kính nể và thận trọng. Có những việc phải cử người ra nước ngoài để thẩm tra, xác minh. Ngay cả Vaxiliepna cũng phải thừa nhận: “Tôi từng biết tiếng tăm của đồng chí Nguyễn trước khi làm việc trực tiếp với đồng chí.”
Cũng phải thừa nhận rằng, ít người trong thời kỳ này khi có “tỳ vết chính trị” được thành lập Ban Thẩm Tra để giải quyết một cách thận trọng như trường hợp Nguyễn Ái Quốc. Phần lớn rơi vào trường hợp này thường bị xử lý “tiền trạm hậu tấu.”
Thời điểm khó khăn nhất là lúc bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc tỏa sáng. Vì sao một số nhân vật lãnh đạo Đảng nhiều lần nhắc Nguyễn Ái Quốc viết bản tự chỉ trích về tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, biệt phái tiểu tư sản, sai lầm về đấu tranh giai cấp…nhưng Nguyễn Ái Quốc không phản ứng, không giãi bầy, chấp nhận nó trong im lặng. Nếu viết ra thành văn bản tức là chấp nhận thất bại, tự đầu hàng, biết đâu là cái cớ cho kẻ khác lợi dụng…Tư duy nhìn xa trông rộng của thiên tài là ở chỗ đó.
Lịch sử luôn luôn đúng. Hồ Chí Minh luôn đứng về phía lịch sử và làm nên lịch sử ở những thời khắc lịch sử.
Bá Ngọc
__________________________________________
[1]. Thư Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại gửi Quốc Tế Cộng Sản ngày 20-04-1935. Bút tích tiếng Pháp, ký hiệu lưu trữ 495-154-699.
[2]. Báo cáo của Vaxiliepna gửi Bộ Phương Đông, Vụ Tổ Chức Cán Bộ của Quốc Tế Cộng Sản ngày 29-06-1935. Ký hiệu lưu trữ 495-201-01 tờ số 154 đến 156.
[3]. Báo cáo giải trình của Vaxiliepna gửi Ban Phương Đông và Vụ Tổ Chức Cán Bộ ký hiệu lưu trữ 495-201-01 tờ số 143 đến 148.
[4]. Thư của Vụ Tổ Chức Cán Bộ gửi Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Thuộc Địa đề ngày 08-02-1938, ký hiệu lưu trữ 495-201-01 tờ số 134.
(Dân luận)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét