Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Ngày 26/10/2013 - Đâu là sự thật của thác Bản Giốc?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Ngân sách đã đến mức vay ăn và trả nợ



Các đại biểu Quốc hội bày tỏ lo lắng đặc biệt đến tình hình ngân sách cạn kiệt tại cuộc thảo luận ở tổ về ngân sách nhà nước hôm nay (25-10).
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói: “Thu ngân sách ngày càng xấu hơn. Giờ chi tiêu dùng nhiều hơn chi cho phát triển. Chi phát triển toàn phải đi vay vì không có phần nào của ngân sách để chi cho đầu tư cả”, ông nói.
Trích báo cáo của Chính phủ xin bội chi năm tới là 222 ngàn tỉ đồng, trong đó 165.000 tỉ đồng là chi đầu tư, ông Hùng nói: “Tức là chúng ta vay để ăn rồi, vay để trả nợ rồi”.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – ngân sách Phùng Quốc Hiển cho biết, ngân sách nhà nước sẽ hụt thu khoảng 63.000 tỉ đồng trong năm nay, một tỷ lệ rất lớn so với nhiệm vụ thu. “Nói từ thời kỳ đổi mới đến nay thì đây là năm đầu tiên chúng ta không hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước,” ông Hiển nói.
Ông cho biết, tỷ lệ thu thuế và lệ phí đến năm nay chỉ còn 17-18% GDP, thấp hơn rất nhiều so với 21-22% GDP năm 2011, và khoảng 27-28% GDP trước đó. Ông tỏ vẻ băn khoăn: “Không hiểu tại sao GDP tăng 5,4%, chỉ dưới mức chỉ tiêu một chút (5,5%) mà lại hụt thu lớn như thế?”.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân nói ông rất lo ngại khi tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã cao nhất ASEAN, song Chính phủ vẫn đề nghị phát hành thêm 400.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ năm 2014.
Đại biểu Trần Du Lịch cảnh báo về việc huy động trái phiếu cao: “Cứ hễ ngân sách thiếu thì lại đi vay. Ngân hàng thương mại huy động trong dân xong thì đem đi mua trái phiếu Chính phủ cho an toàn, còn đâu cho doanh nghiệp vay nữa!”.
Đại biểu Ngô Văn Minh đề nghị xem xét bán nhanh vốn ở các doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn hiệu quả, rà soát lại 70 quỹ ngoài ngân sách đang tồn tại, và công khai toàn bộ danh sách các dự án được phân bổ vốn.
Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh, tổng vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt từ 30% GDP trở lên nếu muốn GDP đạt 5,8% năm 2014.
Ông cho biết, để đạt được tỉ lệ vốn đó thì phải đảm bảo kế hoạch vốn đầu tư phát triển 234.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, Chính phủ chỉ chỉ bố trí được 163.000 tỉ. Ông thừa nhận: “Mục tiêu tăng trưởng GDP 5,8% là rất căng thẳng”.
THEO thesaigontimes

BÀI ĐÃ BỊ XÓA VÀ ĐĂNG LẠI: Bộ trưởng Bộ Y tế nên từ chức!

CHÚ THÍCH: Bài gốc đã bị xóa tại link này:
http://petrotimes.vn/news/vn/dam-luan-doi-thoai/bo-truong-bo-y-te-nen-tu-chuc.html
Sau đó tựa bài viết được thay đổi thành “Ai phải chịu trách nhiệm đây?”, nhưng cũng bị xóa nhanh chóng.
CẬP NHẬT:
Bài báo đã được đăng lại tại link mới:
http://petrotimes.vn/news/vn/dam-luan-doi-thoai/bo-truong-y-te-nen-tu-chuc.html

NGUYENKIMTIEN-tuchuc

Vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người rồi ném xác xuống sông đang khiến dư luận hết sức bức xúc. Vụ việc này cộng với hàng loạt vụ việc “tai nạn nghề nghiệp” trong ngành y tế khiến mọi người không thể không nói đến vấn đề y đức trong ngành y tế hiện nay.
Ở đâu cũng có người xấu người tốt, trong ngành y tế cũng vậy, bên cạnh rất nhiều những bác sĩ, y tá, hộ lý đang hết lòng vì người bệnh thì cũng có những người lợi dụng nghề nghiệp của mình để kiếm chác. Ngành nghề nào bây giờ trong xã hội cũng có những loại người như vậy.
Nhưng, qua vụ việc ở thẩm mỹ viện Cát Tường thì lại thấy một điều rằng, lãnh đạo Bộ Y tế đã “trút” tội này cho Sở Y tế Hà Nội, rồi sở lại đổ cho quận… thế là cứ “đồng đổ cho cốt, cốt đổ cho đồng”. Và rồi, có lẽ sẽ chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về việc này cả.
Nói chuyện Sở Y tế Hà Nội, phòng Y tế quận không biết một thẩm mỹ viện hành nghề chui, trái chức năng như vậy… trẻ con không nghe được. Ai cũng thấy một thực tế rằng, bất cứ một cửa hàng kinh doanh nào mới ra đời thì lập tức sẽ có người đến “hỏi thăm”. Một người dân đổ vài thúng cát, vài trăm viên gạch ra đường là lập tức có thanh tra xây dựng của phường, quận xuống “hỏi han”, kiểm tra các loại giấy tờ thủ tục… Có thể nói không có một cái gì có thể qua mắt được các cơ quan chức năng.
Vấn đề là họ có làm theo đúng quy luật của pháp luật hay không mà thôi.
Nơi nào biết nói, biết hiểu “vấn đề đầu tiên” là tiền đâu thì sẽ thoát. Thủ tục chưa hoàn thành thì cứ làm xong đi rồi giải quyết sau; hoặc phạt cho tồn tại… nghĩa là những người có trách nhiệm quản lý họ sẽ nghĩ ra đủ mọi kế, mọi mưu để “thông cảm” với đương sự.
Thế rồi đến khi có việc xảy ra thì họ lấp liếm nói rằng không đủ người theo dõi, kiểm tra… hoặc cấp nọ đổ cấp kia.
Thẩm mỹ viện Cát Tường đã hành nghề mấy tháng nay, không thể không nói các cơ quan quản lý không biết. Họ biết hết đấy, nhưng họ cũng hiểu rất rõ chỗ nào cần phải “triệt” và chỗ nào cần phải “để”.
Để chấm dứt tình trạng “tít mù nó lại vòng quanh” như thế này, có lẽ chỉ cần một biện pháp rất đơn giản đó là cách chức ngay Giám đốc Sở Y tế Hà Nội và Trưởng phòng Y tế quận. Bởi vì sinh ra các vị để các vị làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực của mình mà các vị lại không biết thì để các vị làm gì. Còn nếu cao hơn nữa, và nếu như bà Bộ trưởng Bộ Y tế có tự trọng hơn nữa thì nên từ chức.
Chúng ta cũng nên học nước ngoài, khi một vụ việc nghiệm trọng xảy ra, bộ trưởng sẵn sàng từ chức ngay. Còn ở chúng ta, văn hóa từ chức xem ra quá xa lạ đối với rất nhiều quan chức. Tất nhiên chúng ta cũng thông cảm rằng, để leo lên được chức nọ chức kia thì họ đã phải phấn đấu bền bỉ rất lâu. Nhưng nếu như cứ hành xử theo kiểu “dĩ hòa vi quý” thế này thì sẽ chẳng bao giờ có ai chịu trách nhiệm cả, và chắc chắn những vụ như kiểu “ông Cát Tường” hoặc các vụ tiêm nhầm thuốc, vô trách nhiệm gây chết người như thời gian qua sẽ còn nhiều.
Nếu như không dám cách chức, không dám từ chức và cứ lấp liếm tìm cách đổ tội cho những nguyên nhân hoàn cảnh khách quan thì không bao giờ ngăn được nạn tiêu cực và không chỉ riêng ở ngành y tế mà còn ở rất nhiều ngành nghề khác.
THEO PETROTIMES

Đâu là sự thật của thác Bản Giốc?


Từ những năm đầu thập niên 2000, tác giả đã vào Trung tâm Văn khố Hải ngoại của Pháp tại Aix-en-Provence (CAOM) để nghiên cứu vấn đề biên giới hai nước Việt-Trung. Năm 2003 có bài biên khảo công bố các dữ kiện địa lý, lịch sử và pháp lý liên quan đến chủ quyền thác Bản Giốc. Bài biên khảo này có lẽ vẫn còn đâu đó trong không gian internet. Thời gian tác giả dành cho việc tìm kiếm tài liệu, riêng cho thác Bản Giốc, tính ra gần một năm, với không biết bao nhiêu trang tài liệu, sách và bản đồ phải tham khảo. Nếu đây chỉ là một công tác « thuần túy nghiên cứu khoa học », thì mọi việc sẽ diễn ra hết sức dễ dàng. Người làm nghiên cứu tìm thấy được điều gì thì ghi nhận điều đó, hiểu tới đâu nói tới đó, sau đó tổng hợp lại các dữ kiện và đưa ra kết luận. Nhưng vấn đề tranh chấp biên giới Việt-Trung là một trường hợp hết sức tế nhị và phức tạp. Vấn đề tranh chấp đã tồn đọng từ hàng trăm năm trước, khi VN mới vào vòng lệ thuộc Pháp. Trong khi đó, nhiều tài liệu phát tán từ trong nước tố cáo các lãnh đạo CSVN « bán đất nhượng biển » cho TQ, sau khi hai bên VN-TQ ký kết lại hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999.
Người làm nghiên cứu về biên giới Việt-Trung vô hình chung cùng lúc bị áp lực từ ba phía : 1/ thiên kiến do tình cảm cá nhân, muốn VN được lợi trong việc phân định biên giới, 2/ do lòng yêu chuộng học thuật, muốn thiết lập một sự thật khách quan và khoa học về vấn đề biên giới Việt-Trung và 3/ do sức ép chính trị từ các phía.
Vấn đề rắc rối hơn từ khi tài liệu chính thức từ Chính phủ VN (Bị Vong Lục 1979), khẳng định rằng thác Bản Giốc thuộc về VN, được công bố tại hải ngoại.
Tài liệu này viết như sau :
« Tại khu vực cột mốc 53 (xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Qui Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày dặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên cồn Pò-Thoong và ngang nhiên nhận cồn nầy là của Trung Quốc

Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỉ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành của Trung Quốc. Thí dụ : họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong. »
Tài liệu « Bị Vong Lục 1979 » của nhà nước VN là một tài liệu được đúc kết từ các dữ kiện lịch sử và pháp lý giữa hai nước Việt-Trung, đưa ra quốc tế nhằm tố cáo phía TQ lấn đất của VN. Tài liệu này có giá trị pháp lý.
Vì có giá trị pháp lý, nó phải « đúng ».
Ngoài giá trị pháp lý do nhà nước CSVN bảo kê, tài liệu này còn có giá trị của « hồn thiêng sông núi ». Nó đã động viên ý chí, thúc đẩy nhiều thế hệ thanh niên VN hy sinh tính mạng để bảo vệ vùng lãnh thổ này.
Vì vậy, người làm nghiên cứu bị dồn vào cái thế chẳng đặng đừng : mọi cách phải chứng minh cho được thác Bản Giốc thuộc VN.
Nguyên văn bài viết năm 2003 (xem bên dưới) tác giả trình bày cái logic về chủ quyền của VN tại thác Bản Giốc như sau :
1/ Chứng minh sông Qui Xuân (Qui Thuận), bằng các tài liệu lịch sử chính thức của TQ, có chảy sang VN.
2/ Chứng minh sông này vẫn có đoạn chảy sang VN, sau khi phân định lại biên giới 1887.
3/ Chứng minh thác Bản Giốc nằm trên đoạn sông thuộc VN bằng văn bản phân định biên giới Pháp-Thanh 1887.
4/ Dẫn tài liệu chứng minh thác Bản Giốc cách đường biên giới 2km.
5/ Dẫn tài liệu tài liệu chứng minh nhà nước thuộc địa Pháp đã quản lý thác Bản Giốc.
Với những tài liệu lịch sử có giá trị pháp lý này, nếu với một đội ngũ thương thuyết tài giỏi, thác Bản Giốc và cồn Pò-Thong sẽ thuộc VN, chứ không phải chia với TQ mà VN chỉ được một phần rất nhỏ như hiện nay.
Trong khi sự thật của thác Bản Giốc, với những tài liệu thu thập được, tác giả không hề có việc « ngộ nhận » nào. Những dữ kiện mà tác giả đã công bố trong bài biên khảo đó, độc giả nào tinh ý đã có thể biết vị trí của thác Bản Giốc ở đâu (trên sông Qui Xuân). Những dòng mở đầu, tác giả đã viết :
« Thác Bản Giốc ở hướng Ðông Bắc phủ Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nằm trên sông Qui Xuân (hay Qui Thuận, Quây Sơn). Sông Qui Xuân bắt nguồn từ vùng núi phủ Trấn An (hay Thiên Bảo – Vân Nam), chảy vào Việt Nam – theo các biên bản phân giới Pháp Thanh 1894 – tại ải Lung (cột mốc 81), chảy lại sang Trung Quốc ở khoảng cột mốc số 50 đến 52. Từ cột mốc 50 cho đến cột mốc 52, biên giới hai nước Việt-Trung là đường trung tuyến sông Qui Xuân. Thác Bản Giốc là một loại thác nước bậc thềm. Theo tài liệu của Cdt Famin viết năm 1894, thác cao khoảng 40 thước. Theo bản báo cáo của Trung Úy Détrie, ủy viên phân giới 1894 (người phụ trách cắm mốc vùng Bản Giốc), thác cao khoảng 50m. Về vị trí thác Bản Giốc, báo cáo của ông Détrie cho biết thác nằm ở phía « hạ lưu » mốc 53. Điều này cho thấy thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột mốc 52 và 53. »
Cùng lúc với bản đồ :
Bangioc GGI
Bản đồ SGI (Sở địa dư Dông Dương) khu vực Cao Bằng, tỉ lệ 1/100.000.
Như đã dẫn, từ bản báo cáo của người cắm mốc : “thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột mốc 52 và 53 » ; nếu mọi người chú ý nhìn bản đồ thì sẽ thấy thác Bản Giốc nằm trên đường biên giới.
Và « plan B » của tác giả trong bài viết, nếu để ý, mọi người sẽ thấy hai điều :
1/ Đường biên giới vẽ trên các bản đồ dành thác Bản Giốc và cồn Pò Thong cho VN.
2/ Từ sau khi phân định biên giới, thác Bản Giốc được quản lý bởi nhà cầm quyền thuộc địa.
Vấn đề thứ nhất thực hiện dễ dàng vì các bản đồ thuộc SGI, hay các bản đồ liên quan khác, đều vẽ đường biên giới ở phía bên kia, để lại cồn Pò Thong và thác Bản Giốc cho VN.
Vấn đề thứ hai khó khăn hơn. Tác giả phải mất nhiều thời giờ tìm kiếm mới tìm ra được. Đây là một yếu tố quan trọng thuộc về công pháp quốc tế (effectivité). Theo đó, trong một vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, phía nào chứng minh được mình đã áp dụng một cách liên tục và hòa bình thẩm quyền quốc gia tại vùng lãnh thổ này, vùng lãnh thổ sẽ thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tài liệu cho thấy Pháp đã quản lý, cho quân lính đi tuần thường trực khu vực thác này
Nếu VN có một đội ngũ thương thuyết với TQ hiểu biết vấn đề hơn, VN sẽ dành phần lớn thác Bản Giốc và toàn bộ cồn Pò-Thong. (Nhưng không thể loại bỏ giả thuyết việc nhượng bộ thác Bản Giốc là do các lãnh đạo chóp bu đảng CSVN quyết định.)
Nguyên văn bài viết của tác giả năm 2003 như sau :
Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc.
1/ Tài liệu dẫn từ Ðại Thanh Hội Ðiển Ðồ và Ðại Thanh Nhứt Thống Chí :
Tiểu Thiên An có sông Qui Thuận ; sông nầy bắt nguồn ở phía Bắc huyện Qui Thuận, chảy vào huyện nầy ở vùng Tây-Nam, sau đó chảy về hướng Ðông (ÐTHÐÐ, quyển số 125, tờ 4).
Sông Bác Lai Thủy (Poh-lai chouei 駮來水) chảy ở phía Ðông sông Qui Thuận, bắt nguồn trên vùng núi Tây Bắc châu Qui Thuận, chảy theo hướng Tây Nam và chảy vào phía Ðông phủ Thái Bình (sđd, nt).
Sông Long Ðàm Thủy (Long-t’an chouei 龍潭水), chảy cách huyện Qui Thuận 1 dặm về hướng Tây Bắc. Sông này có nguồn từ chân núi, chảy qua vùng Nam châu Qui Thuận, sau đó vào tỉnh Cao Bằng. Sông nầy thuyền bè không lưu thông được (ÐTNTC, quyển số 366, tờ 6). Theo bản đồ của các nhà truyền giáo Jésuites thì Long Ðàm Thủy là một tên khác của sông Qui Thuận Sông nầy cắt xéo ngang phần phía Bắc tỉnh Cao Bằng, chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào (Ngo-tsao 峨漕) và vào lại Trung Hoa qua Ải Canh Biền (Keng-ping 更駢).
Thai Binh Phu - Dai thanh hoi dien do
Bản đồ Thái bình phủ, Đại Thanh hội điển đồ.
Như thế tài liệu này cho chúng ta một khái niệm về sông Qui Thuận (trong đoạn đi vào lãnh thổ Việt Nam. Sông này chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào và chảy ra qua ải Canh Biền.
2/ Tài liệu biên bản phân định biên giới số 3, ký ngày 29-3-1887.
….
«Từ điểm A của bản đồ thứ 3 đến điểm B của bản đồ thứ 3, gần làng An Nam Luong-Bak-Trai ( ?), đường biên giới theo đường trung tuyến Sông sông Qui Xuân.
Từ điểm B của bản-đồ thứ 3 cho đến điểm C của bản đồ thứ 3, gần làngBảo Khê ê thuộc VN, đường biên-giới vẽ một vòng cung mà phần lồi hướng về phía Ðông, để lại cho Trung Hoa công sự Ban-Thao-Kha ( ?), xuyên qua hẻm núi Ko-Ya-Ai, để lại cho Trung Hoa công sự Ko-Ya-Kha ( ?) và Kaing-Hane-Kha ( ?) v.v.., bên An Nam, đoạn sông Bắc Vong giữa hai điểm B và C, các làng Luong-Bak-Trai ( ?), Loung-Bo-Xa ( ?) và Pham-Khé ( ?) v.v.. »
So sánh với tài liệu ở phần 1, điểm B tương ứng với ải Canh Biền (更 駢) và điểm C tương ứng với ải Nga Tào (峨漕). Xem hình chụp dưới đây, từ điểm A đến điểm B, sông Qui Xuân là đường biên-giới. Từ điểm B đến điểm C, sông Qui Xuân thuộc Việt Nam.
Thác Bản Giốc ở trên đoạn sông AB hay BC ?
Nếu thác ở trên đoạn AB thì thác ở trên đường biên giới. Việc phân chia thác này sẽ chiếu theo nội dung biên-bản : « đường biên giới là trung tuyến » của dòng sông. Thác phải chia làm hai. Những cù lao hay cồn trên sông sẽ thuộc về nước có bờ gần cồn nhất.
Nhưng nếu thác Bản Giốc ở trên đoạn BC thì thác này hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Hình chụp phía dưới là đồ tuyến biên giới đính kèm biên bản phân định biên giới 1887. Ta thấy đây là bản đồ gốc vì có chữ ký của hai phái đoàn Pháp và Thanh, có chữ ký của ông Dillon, Chủ Tịch Ủy Ban Pháp và các ủy viên Bouinais và bác sĩ Néïs. Bản đồ này là bản đồ số 3.
Bien ban phan dinh 1887-2
Bien ban phan dinh 1887
Bản đồ đính kèm biên bản phân giới 1887
3/ Tài liệu biên bản phân giới ký tại Long Châu ngày 19 tháng 6 năm 1894 giữa Ðại Tá Galliéni và Commandant Famin, đại diện chính-phủ Pháp với ông Thái Hy Bân, Tri Phủ Long Châu, đại diện nhà Thanh.
Hai trang cuối ghi sau: « Các cột mốc biên giới, như vừa thấy, đều mang một con số, từ 1 đến 67 cho đoạn một và từ số 1 cho đến số 140 cho đoạn hai, đã được cắm tại các địa điểm được chỉ định ở trên, với sự hiện diện một ủy viên Pháp và một viên quan Tàu. Không một cột mốc nào được dời đi kể từ bây giờ mà không có sự ưng thuận hỗ tương giữa hai nước. »
Cột mốc số 53, thuộc đoạn thứ hai, được định nghĩa như sau : tên Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口), cắm tại « bên lề một con đường ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ », « au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d’un petit bois ».
Cột 51, tên Khau Pang (Canh Bàng Ải 更旁隘), cắm tại : Bên bờ trái sông Qui Xuân (bờ bên TQ, ghi chú của tác giả) ở hạ lưu một cái cái thác và cách 150m. « Sur la berge du Sung Quei Cheun (rive gauche) à 130 pas en aval d’une cascade ».
Cột 52, tên Khau Canh Ai (Khẩu Canh Ải 口更隘), cắm bên bờ sông và cách một trạm canh (ải, tức cửa biên giới tên Khẩu Canh) 5 bước. « Sur la berge et à 5 pas en avant du poste ».
Ta thấy phần mô tả vị trí cột mốc 51 có đề cập đến một cái thác và thác này ở phía hạ lưu cột 51. Thác này nhỏ, chỉ cao khoảng 1m, không phải thác Bản Giốc. Sông Qui Xuân, như mô tả phần trên, có nhiều ghềnh thác, thuyền bè không lưu thông được.
Cột 51 mang tên Canh Bàng Ải 更旁隘. Xem lại phần 2 ở trên, điểm B tương ứng với Canh Biền Ải 更駢隘. Rất có thể Canh Biền Ải chính là Canh Bàng Ải vì trùng hợp ở chữ Canh 更 và cách phát âm của hai chữ Biền và Bàng. Hơn nữa, hai tên chỉ định cho hai nơi rất gần nhau. Nếu giả thuyết này đúng thì đường trung tuyến sông Qui Xuân chỉ là biên giới hai nước từ cột 50 đến cột 51.
Như thế thác Bản Giốc ở phía thượng lưu, nằm trong đoạn BC, nên hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Xem hình chụp 2 trang biên bản phân giới ở dưới có ghi các cột mốc liên quan, một tiếng Hán và một tiếng Pháp.
Về các cột mốc, tùy theo vùng, được làm bằng đá đẻo, bằng xi-măng đúc hay bằng đá tảng tự nhiên có sẵn trên thực địa. Cột mốc vùng Quảng Tây được ghi nhận như hình dưới đây. Ta thấy trên mốc có khắc một số chữ. Hàng dọc bên phải ghi là « Trung Quốc Quảng Tây Giới 中國廣西界 ». Phía phải, ở trên, ghi chữ Pháp « Frontière Sino-Annamite ». Ở giữa ghi số cột mốc và phía phải, hàng dưới, ghi tên cột mốc.
Cot moc Quang Tay
Hình của Dr Péthellaz, đăng trong « Au Tonkin et sur la Frontière du Quang-Si » của Commandant Famin.
Bien ban phan gioi 1894 - 2
Biên bản ghi bằng tiếng Hán. Cột 53 tên Bách Nga Khẩu.
Bien ban phan gioi 1894 - 1
Biên bản tiếng Pháp.
4/ Tài Liệu Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, Par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894. Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895 (Trang 12-13; 142,143).
Tonkin và trên vùng biên giới Quảng Tây, của Cdt Famin, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Phân-Giới năm 1884. Ông này đảm trách việc phân giới dưới quyền Ðại Tá Galliéni, kết thúc việc phân giới vùng Quảng Tây trong chiến-dịch 1893-1894 mà nhiều chiến dịch khác từ những năm trước do các ông Servière, Flandin… đã không thành công.
Trang 12-13: Xác nhận thác Bản Giốc thuộc Việt Nam :
« Trên vùng phía Bắc (vùng II Quân-Sự), sông Qui Thuận chảy qua Trùng Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây Giang (Si-Kiang). Có chiều rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại TQ ở gần công sự (của TQ) tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn và trù mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt đẹp cao khoảng 40 thước. Từng cột nước khổng-lồ, trước hết rơi xuống vang rền trên một trũng nước, sau đó dội ngược lên thành những chùm tua đầy bọt nước, chảy trên những bậc thềm đá bóng láng. Vào mùa mưa, thác nầy mang một hình thái tuyệt trần, tiếng động của nó âm vang ra thật xa, dội vào vách núi đá nghe như là sấm động, trong lúc những đám mây hơi nước được tạo thành ở các bên bờ tan ra tạo thành một đám mưa lâm râm thật sự. »
5/ Tài liệu: Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng Ban đến Ðèo Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc. (28 tháng 6 năm 1894) :
Tài liệu này xác định vị trí của cột mốc 53 và thác Bản Giốc :
« Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante.

A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés ».
Bắt đầu từ cái thác nước đẹp, cao 50 thước, ở phía hạ-lưu (aval) của cột mốc số 53, sông Qui Xuân chảy hẹp lại ở giữa những ngọn đồi cao. »
Ta thấy ông Détrie mô tả đường biên giới từ Tây sang Đông trong khi các cột mốc trong vùng này được cắm từ Đông sang Tây. Như biên bản phân giới mô tả, cột mốc 53 được cắm ở bên lề con đường.
Ta thấy ghi chú trong hình dưới, đoàn quân « tirailleurs tonkinois » qua sông (passage du gué) từ phía tả ngạn sang phía hữu ngạn. Đây là một yếu tố quan trọng cho thấy hai bờ con sông đều thuộc Việt Nam (hay do hành chánh thuộc địa Pháp quản lý). Đơn giản vì theo các công ước, quân đội hai bên không được đi qua lãnh thổ nước bạn.
Bên kia thác ta không thấy con đường (đi Hang-Dong-Quan) có cắm mốc số 53 như Trung Úy Détrie mô tả. Hình thái núi non hiểm trở phía bên kia cũng như phía thượng lưu sông cho thấy không thể có con đường qua đây được. Nhưng rất có thể con đường đi dọc theo sông, đoàn quân trong hình theo con đường này, gần đến thác, qua sông. Riêng con đường, vì núi chận, phải đi vòng sau núi. Vì thế cột mốc 53 chỉ có thể ở phía hạ lưu thác Bản Giốc.
Theo các lý luận này thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Qua song Qui Xuan
Hình trên : đoàn quân qua sông, dưới thác Bản Giốc.
6/ Tài liệu Bulletin du service Géologique de l’Indochine, Volume XI, Fascicule I, Etudes Géologiques sur le Nord-Est Du Tonkin, (Feuilles de Bảo Lạc, Cao Bằng, Hà Lang, Bắc Kạn, Thất Khê và Long Châu), Réné Bourrret; Hà Nội – Hải Phòng Imprimerie d’Extrême d’Orient – 1922. (trang 32-33-34).
Xác nhận thác Bản Giốc của Việt Nam:
« Sông Qui Xuân theo hướng Ðông-Bắc trong vùng núi nầy, chảy ở giữa hai tường đá rất cao. Bờ tả ngạn, có chung hình thái với Phong Nam, là sự nối dài từ bên TQ. Nhiều bằng chứng đá vôi, được chuốc thành đỉnh nhọn, cao thấp đủ cỡ, rải rác khắp nơi trong thung lũng.
….
Vùng này con sông Qui Xuân chảy qua gần ở Chi-Choi ( ?). Sông này sau khi ra khỏi vùng đá vôi Phong Nam, mở rộng phía hạ lưu thung lũng. Tại đây dân bản xứ lấy nước bằng hệ thống tưới bằng ống tre. Con sông này mở một con đường ngoằn ngoèo ở vùng phía Ðông phủ Trùng-Khánh, chảy xuống hết ghềnh thác nầy qua ghềnh thác khác để đến biên giới đông bắc, kế cận Bản Giốc, trước khi chảy qua vùng đồi Bồng Sơn. Công sự Bản Giốc, hiện nay bỏ trống, cheo leo trên một núi đá cao khoảng 30 thước, nhìn xuống ghềnh thác của con sông và vùng đồng bằng đông đảo dân cư, với những tường cao bao quanh. Ðây là một trong những vùng đẹp nhất của Tonkin, nếu không vì xa xôi và vì khó khăn phương tiện lưu thông, nó rất xứng đáng để du khách đến thăm viếng với những hang động, những cây cầu hình chữ Z bắt lên những tảng đá để băng qua sông, và nhất là cái thác hùng vĩ, gọi là thác bậc thềm Tụ Tổng, được người Châu Âu biết nhiều qua tên Thác Bản Giốc ».
cau hinh chu Z
Hình trên : cầu chữ Z bắt qua sông Qui-Xuân, gần thác Bản-Giốc.
THEO TRƯƠNG NHÂN TUẤN

Bác sĩ, đàn bà và sự mê dụ tàn nhẫn


Xét cho cùng, đồng tiền đâu có lỗi. Lỗi là ở con người, vừa nặng tham- sân- si, vừa trì trệ và xơ cứng tư duy…
I- Giật mình, tại sao số phận con người lại mong manh và trêu ngươi đến vậy? Vừa mới là một người đàn bà trẻ, khát khao làm đẹp. Chỉ vài giờ sau đã là một người của âm gian, trôi nổi trên sông nước, chưa biết phiêu dạt về đâu. Vừa mới là một bác sĩ, thạc sĩ, thậm chí sắp làm tiến sĩ của một bệnh viện lớn có tên tuổi ở Hà Nội- Bệnh viện Bạch Mai, cũng chỉ từng ấy giờ sau, trở thành tên tội phạm, gây “sốc” nặng cho cả xã hội.
Đó là câu chuyện kinh hoàng của Trung tâm thẩm mỹ Cát Tường. Nhân vật trung tâm đang làm tốn biết bao giấy mực, phím bàn là bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường. Và nạn nhân tội nghiệp, đáng thương chưa tìm được xác, là chị L.T.T.H. Cái tên Cát Tường- may mắn- bỗng trở thành tai họa, cho cả nạn nhân lẫn thủ phạm, dù là một người vô tình, một kẻ cố ý.
Thật ra, hoạt động chữa bệnh của người thầy thuốc, dù giỏi đến mấy, cũng luôn phải đối mặt với những rủi ro khó lường. Nhưng cách ứng xử với những tình huống đó, nó cho thấy không chỉ kỹ năng, tay nghề, trí thông minh, mà cả sự dũng cảm, dám chịu trách nhiệm trước người bệnh, trước lương tâm nghề nghiệp của người thầy thuốc.
Nạn nhân- khách hàng, chị L.T.T.T không phải người bệnh. Chị chỉ có nhu cầu làm đẹp. Nhưng rút cục cuối cùng là cái đẹp… chết người, theo đúng nghĩa đen.
Còn Nguyễn Mạnh Tường, khi phải hành xử như một bác sĩ chính trực, thì sau những cố gắng vốn có cần thiết, cuối cùng, lại hành xử như một kẻ tội phạm đê hèn- vứt xác hành khách xuống sông Hồng. Một tội ác, mà một vị đại biểu QH cũng phải nói “đến xã hội đen còn bất ngờ”. Một câu nói gói trọn sự đau xót, mà cả xã hội những ngày này, đang phải “giải mã”…

bác sĩ thẩm mỹ, Nguyễn Mạnh Tường, Thẩm mỹ viện Cát Tường, y tế, tỷ phú, tiền, lòng tham
Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường chỉ nơi vứt xác nạn nhân

Nguyễn Mạnh Tường rồi đây sẽ phải đối mặt với pháp luật nghiêm khắc. Xã hội đối mặt với những vết thương đạo lý- văn hóa người Việt đang băng hoại. Còn ngành y tế, đang đối mặt với nỗi hổ thẹn, xen lẫn đau xót, vì tổn thất niềm tin nơi người dân không biết đến bao giờ mới lấy lại được, sau hàng loạt vụ việc kinh hoàng. Trong khi những giải pháp của ngành cứ như chuồn chuồn đạp nước.
Vụ việc của TT thẩm mỹ Cát Tường, cho thấy nhân cách của một ông thầy thuốc bị “tha hóa” một cách sâu sắc và âm thầm bởi đồng tiền. Sự sĩ diện của một thằng đàn ông “kiếm ăn riêng” lớn hơn cả sự sống của một người phụ nữ, khiến ông ta không thể vượt lên mình, đưa người bị nạn đi cấp cứu, ngay BV Bạch Mai, nơi ông ta làm việc, gần đó.
Sự sợ hãi trách nhiệm đã biến ông ta- một trí thức có ăn học đàng hoàng, thành một kẻ liều lĩnh táng tận lương tâm, có hành vi đê hèn, tăm tối và máu lạnh không kém, hệt những bộ phim tội ác của phương Tây, để rồi sau đó, vẫn đi làm bình thường như mọi ngày- một tội ác mà người có lý trí bình thường biết rằng sớm muộn sẽ bị phanh phui.
Sự liều lĩnh và tăm tối, khiến ông ta lôi kéo cả những nhân viên dưới quyền ít được học hành, cũng tăm tối theo. Điển hình là bảo vệ Đào Quang Khánh, 17 tuổi, trở thành kẻ đồng phạm che giấu tội ác, chỉ vì lời hứa tăng lương gấp đôi- 08 triệu.
Đồng lương bạc triệu chưa thấy đâu, nhưng một ngày tù nghìn thu ở ngoài đang đợi cậu này. Kéo theo gần chục nhân viên của TT mong muốn xóa dấu vết. Rồi đây, họ cũng sẽ phải trả lời trước thanh thiên bạch nhật, trước hết, với cái dấu vết tòa án lương tâm “đóng lên” số phận họ?
Lần đầu tiên, xã hội thấy ngành y tế xin lỗi nhân dân, một việc làm quá hiếm hoi. Lần đầu tiên, Bộ trưởng Y tế khẳng định: Đạo đức nghề nghiệp và y đức thời gian qua đáng báo động rất lớn. Chúng tôi cũng rất đau đớn, xót xa. Và thừa nhận: Vụ việc này xảy ra, trước tiên là lỗi quản lý của ngành! Còn Bí thư Thành ủy HN nhìn nhận: Ngoài sức tưởng tượng của con người!
Sự thừa nhận của Bộ trưởng Y tế có vẻ muộn màng, nhưng còn hơn không. Bởi vụ việc ở TT thẩm mỹ Cát Tường, giống như vết hoại tử, cho thấy hết những yếu kém trong quản lý của ngành y. Cho thấy hết những “lỗ hổng” của quản lý chính quyền sở tại, mà ĐBQH Dương Trung Quốc đặt câu hỏi nghi vấn: Được bảo kê?
Trung tâm thẩm mỹ Cát Tường đâu phải TT thẩm mỹ đầu tiên hoạt động chui. Còn nhiều TT thẩm mỹ, cơ sở chữa bệnh khác, từ lâu cứ thản nhiên “chui” qua mặt quản lý Nhà nước- Sở Y tế HN, chính quyền phường sở tại, liều mình như chẳng có. Dù văn bản quy phạm pháp luật, với những quy định cụ thể về thẩm quyền, chức năng, phạm vi hành nghề được in trên giấy trắng mực đen, đầy đủ.
Cũng đâu chỉ có TT thẩm mỹ Cát Tường mới là TT… tử thần đầu tiên, và nạn nhân L.T.T.H đâu phải người duy nhất. Đã có các TT Maria, Linh Nhung…, đi tiên phong. Đã có các chị T.T.T.H; B.B.L; N.T.K.H đều bị tử vong vì chuyện làm đẹp.
Khát vọng làm đẹp của người đàn bà không có lỗi. Nhưng sự đặt niềm tin làm đẹp không đúng chỗ, đã khiến họ trả giá quá đắt- bằng cả sinh mạng mình. Họ chỉ có thể nhận ra điều đó khi xuống âm gian? Liệu vụ việc kinh hoàng ở TT thẩm mỹ Cát Tường có cảnh báo, và cảnh tỉnh cho không ít người đàn bà nhẹ dạ nơi trần thế?
II- Giật mình, tại sao hạnh phúc gia đình giờ đây, cũng có thể bi thảm đến thế. Hay bởi Hạnh phúc phải “khiêu vũ” với Kim tiền?
Chỉ tiếc, đây không phải là cặp đôi hoàn hảo.
Mà câu chuyện một người đàn ông chuyên kinh doanh bất động sản, ông Vương Chí Linh, đã dùng axit tạt vào người vợ thứ hai, bà Nguyễn Thị Tường Vân, từng chung sống với nhau hơn chục năm, rồi tự thiêu, mới đây- là một ví dụ chua chát.
Kết cục bi thảm hệt một bộ phim tâm lý xã hội đầy kịch tính. Nhưng nước mắt của người đời không khóc cho nạn nhân, dù bà này bị axit hủy hoại, mà lại khóc cho thủ phạm, và khóc cho cả xã hội, giờ đây. Vì ở đó, sự chiến thắng- ôm trọn tài sản của người từng đầu gối tay ấp lại thuộc về cái ác, cái nhẫn tâm, và thủ đoạn. Sự thua cuộc, thuộc về lòng nhân, sự nhẹ dạ, và cả tin. Chả lẽ, đây là cổ tích thời hiện đại?
Bi thảm, vì những người trong cuộc, một chết vì tự thiêu, từng là tỷ phú, một sống với những vết thương bị axit hủy hoại suốt đời, cũng là một người có học- một nữ tiến sĩ.
Tâm điểm của mối mâu thuẫn và quyết liệt sinh tử này là số tài sản lớn- 30 tỷ đồng- giữa hai người, phần lớn do ông Vương Chí Linh kiếm ra.
Mọi điều, để bà vợ Nguyễn Thị Tường Vân lấy làm cái cớ đòi sang tên hết tài sản cho bà, giống như nhiều cặp rổ rá cạp lại- là liên quan đến những đứa con riêng của ông. Tình là tình, mà tiền là tiền!
Nhưng cái kết của gia đình ông không giống cái kết của nhiều gia đình có con anh, con em, con chúng ta. Nó cay đắng hơn nhiều vì lòng người bội bạc, tham lam và tính toán tàn nhẫn với nhau, cũng “ngoài sức tưởng tượng” của nhiều người.
Ở đó, người chồng giỏi làm ăn, giỏi tính toán, đã thua trắng tay, và thua xa sự tính toán của bà vợ. Để cuối cùng, nhận lấy cái kết cục- không có cả chốn dung thân.
Thế mới biết, chí đàn ông vẫn… thua xa trí đàn bà. Nhất lại là đàn bà có học vấn, có cả danh tiến sĩ. Không chỉ người nghèo mới khóc, giờ đây, người giàu cũng khóc, như tên một bộ phim hút khách dạo nào. Nước mắt người giàu mặn mùi kim tiền, hẳn mặn chát chữ nhân tình thế thái.
Nhưng sự tự thiêu của ông Vương Chí Linh, biết đâu sẽ khó xảy ra, nếu như thái độ của cơ quan thi hành án không lạnh lùng, vô cảm và tàn nhẫn đến thế, khi bày binh bố trận tời gần 100 người, như đánh giặc ngoại xâm, chỉ để “điệu” một ông già 70 tuổi tay không ra khỏi nhà, theo lệnh cưỡng chế (Afamily, ngày 24/10)
Trong cái hành động vừa là tội ác, vừa là đường cùng tự sát của ông Vương chí Linh, có… tý ty trách nhiệm nào của cơ quan thi hành án không? Không ai trả lời. Vì người chết, thì đã chết rồi. Còn những người trong cuộc đang sống, dĩ nhiên họ im lặng là vàng.
Vàng là thứ người ta vốn khát khao, mà vàng có khi cũng là thứ tồi tệ của nhân cách!
Còn không biết bà tiến sĩ Nguyễn Thị Tường Vân, khi ôm khối tài sản 30 tỷ đồng, ở cái tuổi già 60, với thương tật cháy bỏng vì axit, bà có hạnh phúc không?
Dường như, cho dù có là tiến sĩ, học vị đầy mình, nhưng con người ta vẫn có thể rất dốt nát, tăm tối. Chỉ bởi chữ Tham choán hết trong đầu, trong tim, trong óc họ!
III- Nhưng không nên giật mình, bởi sự đảo lộn các giá trị tinh thần, tình cảm, mà đồng tiền là kẻ “giật dây”, từ lâu đã khuynh đảo xã hội, đã mê dụ, dẫn lối…Nếu không, thì sao tham nhũng, lãng phí, các nhóm lợi ích lại trở thành vấn nạn mà các đợt tuyên chiến của cả xã hội vẫn không sao đẩy lùi? Nếu không làm sao hình thù tham nhũng lúc là sâu, lúc là cái ghẻ, lúc lại là bạch tuộc? Người dân ai cũng ghê tởm, bất bình nhưng ai cũng phải chung sống, dù rất muốn “ly hôn”?
Trong cái xu thế tồi tệ ấy, đồng tiền đã tha hóa không thương tiếc cả tầng lớp trí thức có học. Tiếc thay, sự tha hóa của những kẻ ở tầng lớp này cũng rất ghê gớm, thậm chí dị biệt. Câu chuyện bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường hành xử kinh hoàng “đến xã hội đen còn bất ngờ”, và tấm thảm kịch của gia đình bà tiến sĩ Nguyễn Thị Tường Vân chỉ là những minh họa điển hình đắng ngắt, trên hàng loạt những vụ việc khiến cả xã hội kinh hoàng, phẫn nộ.
Từ tiêm nhầm thuốc “gây co bóp tử cung” thành tiêm vacxin khiến trẻ sơ sinh tử vong, tráo thủy tinh thể ở BV Mắt, nhân bản phiếu xét nghiệm máu ở BV Hoài Đức (thuộc HN) đến nạn tham nhũng trong giáo dục, mua danh bán tước, dối trá, cho thấy “văn hóa người” bị hủy hoại không thương tiếc. Cho thấy lỗ hổng, sự lệch chuẩn trong dạy người của GD nói chung, của ngành y nói riêng, dù đổ hàng ngàn tỷ, vẫn chưa “giải phẫu thẩm mỹ” nổi.
Hệ lụy lớn nhất, chưa bao giờ, cả ngành y tế lẫn GD lại … mất thiêng đến thế trong con mắt người dân.
Có phòng tuyến nào chống lại được sự tha hóa của đồng tiền ngoài phòng tuyến cần quyết liệt “sửa lỗi quản lý” như Bộ trưởng Y tế đã đau xót thừa nhận. Ở đó, cơ chế quản lý Nhà nước các cấp phải thực sự chặt chẽ, trên nền tảng thay đổi- thực chất là trả lại những thang bậc giá trị thực tiễn và bất biến, phù hợp quy luật phát triển của kinh tế thị trường.
Trước hết là sự thay đổi những quan niệm tôn vinh hình thức, tạo ra sự suy tôn giá trị không cần thiết, tạo nên ảo tưởng về sự hy sinh của cán bộ y tế, đồng thời tạo nên cơ chế mang tính hàm ơn- ban ơn, và xin- cho của ngành, tạo nên kẽ hở cho việc đòi hỏi quyền lợi, nhất là đòi hỏi phong bì.(VietNamNet, ngày 25/10). Cái cơ chế xin- cho “bất tử” đang dẫn dụ và làm đau ốm, cả nền kinh tế- văn hóa- xã hội.
Để từ sự thay đổi những quan niệm giá trị ngành nghề, bình đẳng như mọi ngành nghề khác, ngành y tế xem xét lại, chấm dứt hoặc xiết chặt tình trạng làm việc “chân trong, chân ngoài”, công- tư nhập nhèm. Thực tế, chỉ dẫn đến hậu quả chất lượng cứu người cả công lẫn tư đều khó bảo đảm. Mà tư cách thầy thuốc trở nên thiếu đàng hoàng. Hệt như “hệ thống dạy thêm” của ngành GD.
Khác biệt duy nhất, sự thẩm thấu, giết chết tinh thần, tâm hồn con người của GD phải cần có thời gian, trong khi giết chết sự sống của người bệnh của ngành y, có thể chỉ trong tích tắc.
Nhưng liệu “sự sửa lỗi hệ thống” của ngành y tế, sau hàng loạt vụ việc kinh hoàng, mà “đỉnh cao” là hành vi vứt xác khách hàng của ông bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, có thực sự quyết liệt, thực chất và hiệu quả? Trong khi ngành GD đang chuẩn bị tâm thế cho một cuộc thay đổi, từ tư duy cho đến tổ chức hoạt động.
Xét cho cùng, đồng tiền đâu có lỗi. Lỗi là ở con người, vừa nặng tham- sân- si, vừa trì trệ và xơ cứng tư duy…
THEO VIETNAMNET

Dấu hiệu bất thường trên thị trường tiền tệ?



Lãi suất liên ngân hàng lên cao, doanh số giao dịch cũng tăng mạnh ở các kỳ hạn ngắn trong khi tình trạng huy động vốn vượt trần tái diễn cho thấy các ngân hàng có thể đang thiếu thanh khoản.
Trong vài ngày qua, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục ở xu hướng tăng. Đặc biệt trong ngày 24/10, lãi suất qua đêm đã tăng mạnh lên mức 4,71%/năm, cao hơn 0,76% so với ngày trước đó và tăng 1,7% so với đầu tháng 10. Lãi suất kỳ hạn 1 tuần lên 5,16%/năm, cao hơn 0,89% so với ngày 23/10 và tăng 1,88% so với gày 1/10.
Không chỉ ở kỳ hạn ngắn, lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn khác cũng tăng, trong đó lãi suất kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng lên lần lượt 5,38%/năm và 5,79%/năm trong ngày 24/10, cao hơn 0,59% và 0,15% so với 1 ngày trước đó và tăng lần lượt 0,9% và 0,49% so với đầu tháng.

Diễn biễn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng

Ghi chú: Lãi suất qua đêm (màu cam); Lãi suất kỳ hạn 1 tuần (màu hồng);
Lãi suất kỳ hạn 1 tháng (màu xanh lá) và 3 tháng (màu xanh dương).

Không chỉ có thế, doanh số giao dịch trên thị trường cũng lên khá cao. Theo số liệu công bố trên website của NHNN, tính từ đầu tháng 10 đến ngày 18/10, tổng doanh số giao dịch qua đêm đạt 135.956 tỷ đồng, xấp xỉ tổng doanh số giao dịch qua đêm trong cả tháng 9 (144.947 tỷ đồng). Tương tự, kỳ hạn 1 tuần mới chỉ trong 3 tuần đầu tháng 10 cũng đã đạt 109.808 tỷ đồng.
Tổng doanh số giao dịch liên ngân hàng tính đến ngày 18/10 đạt trên 297.000 tỷ đồng, bình quân 1 ngày là 21.228 tỷ – cao nhất kể từ đầu năm, trong đó tỷ lệ doanh số giao dịch dưới 1 tháng chiếm xấp xỉ 90% – tỷ lệ cao nhất kể từ tháng 5.

Doanh số giao dịch trên liên ngân hàng tăng mạnh


Nguồn NHNN. Số liệu tính đến ngày 18/10

Doanh số giao dịch tăng trong khi lãi suất cũng ở mức cao chứng tỏ thị trường liên ngân hàng đang phản ánh tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Theo một chuyên gia về tài chính ngân hàng, rõ ràng đây là tín hiệu lạ của thị trường tiền tệ, tuy nhiên đó có thể chỉ là cục bộ và mang tính tạm thời.
Vị chuyên gia này phân tích, rất có thể trong mùa tín dụng cuối năm, các ngân hàng đẩy mạnh cho vay để bù đắp tình trạng cho vay mờ nhạt những tháng đầu năm, tuy nhiên nguồn vốn huy động trên thị trường 1 lại không thể bù đắp nên buộc phải lên liên ngân hàng vay mượn, đẩy lãi suất lên cao.
Lý giải trên của chuyên gia cũng khá hợp lý khi mà thị trường gần đây lại tái diễn tình trạng các ngân hàng huy động vốn vượt trần ở các kỳ hạn ngắn và áp dụng lãi suất khá cao cho các kỳ hạn thả nổi. Theo khảo sát của người viết, lãi suất kỳ hạn 1 tháng hiện được các ngân hàng thương mại cổ phần huy động ở mức 6,5 – 7% trên sổ sách và không ít nhà băng áp dụng phần cộng thêm từ 0,2% cho đến 1% đối với khoản tiền gửi nhiều. Lãi suất kỳ hạn 6 tháng trong khi đó được đẩy lên tới 7,5% – 8,3%/năm và lãi suất 12 tháng là 9% – 10%/năm. Ấy là chưa kể, nhiều ngân hàng còn cho nhân viên “săn đón” khách hàng gửi tiền một cách “khó chịu”, bên cạnh việc nhiều nhân viên kinh doanh vì áp lực chỉ tiêu mà phải chi tiền túi để trả thêm phần lãi cộng nhằm giữ chân khách hàng.
Trong khi Chính phủ và NHNN vẫn yêu cầu các ngân hàng giảm lãi suất cho vay phù hợp với xu hướng giảm của lạm phát thì dấu hiệu của thị trường liên ngân hàng thời điểm này cho thấy rất khó có khả năng hạ lãi suất cho vay, ít nhất là trong ngắn hạn.
Theo Trí Thức Trẻ

Hai vĩ nhân trong thơ Tố Hữu



Theo “con hùm xám đường số 4” – Đặng Văn Việt: “Đạo Phật tồn tại đến nay trên 2500 năm (đang phát triển), Đạo Thiên chúa tồn tại được 2013 năm, Đạo Hồi tồn tại được trên 1500 năm, Đạo Mác tồn tại đến khi Liên Xô sụp đổ được 75 năm”. Thực ra, nếu tính thời gian tồn tại cho “Đạo Mác” lùi xa hơn cái mốc từ năm 1917, tỷ như từ những năm 40 của thế kỷ XIX, cho đến nay, thì rõ ràng “Đạo Mác” có sức sống rất lâu dài !
Với bản chất cách mạng và khoa học (nhất), “Đạo Mác” được đảng cầm quyền tại một số nước cách xa quê hương mà nó ra đời hàng vạn dặm lấy làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Ở VN, một trong những nhà lãnh đạo – nhà thơ say mê cổ vũ “Đạo Mác” nhất, không ai khác hơn, chính là Tố Hữu:
Mỗi chặng đường qua, ngoảnh lại nhìn
Càng đi, càng vững, lại càng tin
Hai bàn tay trắng nên cơ nghiệp
Một tấm lòng son quyết giữ gìn.
Độc lập tự do vàng quý nhất
Năm châu cách mạng, sức nhân nghìn.
Hãy hô một tiếng vang trời đất
Muôn năm, muôn năm Mác-Lênin!
(Ngẫu hứng)
Thơ Tố Hữu đầy những tiếng hô, tiếng hoan hô: “Hoan hô chiến sỹ Điện Biên. Chiến sỹ anh hùng. Đầu nung lửa sắt”. “Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp. Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp”. “Hoan hô anh giải phóng quân. Kính chào anh con người đẹp nhất”…Có cả tiếng nổ của “hai mươi phát đại bác vang trời, chào xuân 67” nữa.
Song, có lẽ những tiếng hô ấy, tiếng nổ ấy cũng khó có thể to bằng tiếng hô “vang trời đất”: “Muôn năm, muôn năm Mác-Lênin” ! Câu thơ – khẩu hiệu ca ngợi hai vĩ nhân của lịch sử.
Đến đây, tôi xin mở một dấu ngoặc. Khỏi phải nói, có rất nhiều nhà phê bình văn học cự phách nghiên cứu, phê bình thơ Tố Hữu. Điều đáng chú ý là Tổng bí thư đương nhiệm kính mến của chúng ta cũng nghiên cứu thơ Tố Hữu. Luận văn tốt nghiệp của Tổng bí thư với đề tài “Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu” đã đạt điểm tối ưu duy nhất của khóa học. Sau này, khai thác kết quả luận văn, Tổng bí thư đã viết bài “Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu”, đăng trên Tạp chí Văn học, được đánh giá cao và lãnh đạo Viện Văn học có ý định xin ông về Viện công tác, song ông từ chối. Tôi xin đóng ngoặc.
Và tôi chợt nghĩ, bây giờ mà bàn về thơ Tố Hữu, xem ra không hợp thời mà cũng chẳng đúng lúc. Vì sao vậy? Theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh: “ở khoa văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội có điều này, nếu Tố Hữu sống lại chắc buồn lắm: hàng năm cán bộ giảng dạy phải hướng dẫn hàng trăm sinh viên cao học, hàng chục nghiên cứu sinh làm luận án thạc sỹ, tiến sỹ. Đề tài ngày càng bí, quanh đi quẩn lại khai thác mãi những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…hầu như đã cạn kiệt. Rất bí. Cả thầy lẫn trò đều bí. Vậy mà không ai chịu làm về Tố Hữu, tuy Tố Hữu vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình phổ thông và đại học như một tác gia lớn của nền văn học VN hiện đại” (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh).
Phải chăng, thơ Tố Hữu là thứ “thơ của một thời” – cái thời ấy qua đi thì thứ thơ đó cũng “biến mất”? Còn Trần Đăng Khoa thì cho rằng, “phần lớn thơ Tố Hữu sẽ bất tử nhờ lịch sử. Bởi nó đề cập đến những cái mốc lịch sử” (Chân dung và đối thoại). Có lẽ điều đó không hoàn toàn đúng, bởi không hẳn hễ cứ đề cập đến “những cái mốc lịch sử” là thơ sẽ bất tử?
Nhưng quả là thơ Tố Hữu đánh dấu, ghi lại rất đậm nét nhiều sự kiện lịch sử VN mà qua đó – đánh thức cảm hứng của chúng ta về lịch sử.
Trở lại với hai vĩ nhân trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ có rất nhiều bài trực tiếp viết về Lênin: Trước Kremlin, Lều cỏ Lênin, Với Lênin, song với Mác thì hơi hiếm hoi:
Kính chào Mác thân yêu, vĩ đại!
Hơn một thánh thần
Người làm ra ánh sáng
Cho trái đất, bình minh
Cho Việt Nam, chiến thắng
Cho mỗi chúng ta tin ở chính mình
Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống.
Đời, với Mác, là tình cao nghĩa rộng.
Xin cho tôi được ngợi ca Người
Dâng một vòng hoa cúc vàng tươi
Muôn lời cảm tạ.
Ôi, ta hiểu Mác còn đau trong dạ
Quê người đây còn mang nặng xích xiềng
Như lấy Chúa thiêng liêng chịu đóng đinh tội ác!
Ca ngợi vĩ nhân, như thường lệ, Tố Hữu luôn dùng những tính từ quen thuộc: “thân yêu”, “vĩ đại”, “ánh sáng”, “thánh thần”, “tình cao”, “nghĩa rộng” và dĩ nhiên, tác giả “muôn lần cảm tạ”…Khó mà có thể cảm nhận được chất thơ trong những tứ thơ, ý thơ, lời thơ đó. Cái đặc biệt có lẽ là sự ngưỡng mộ, lòng biết ơn vĩ nhân của tác giả, dường như không có vĩ nhân thì chẳng bao giờ có cuộc sống tốt đẹp ngày nay.
Vào đầu cái năm 1974 ấy, Tố Hữu tham dự Đại hội ĐCS Tây Đức. Tất nhiên, bấy giờ (và cả bây giờ), ĐCS Tây Đức – quê hương của Mác, không phải là đảng cầm quyền. Ông ta muốn gặp một số sinh viên VN đang học tập ở đó. Một đảng viên ĐCS Tây Đức phân vân: “Đồng chí có biết họ là ai không? Có biết tên nào không?”. “Không! Tôi chỉ biết nơi đây có sinh viên VN hoặc trí thức VN thôi!”. “Thế thì ít nhất đồng chí cũng phải cho tôi biết là họ từ đâu tới chứ”. “Tôi biết chứ. Họ từ Sài Gòn tới. Tôi hoàn toàn biết vì không bao giờ chúng tôi gửi sinh viên chúng tôi sang mảnh đất không may này cả”. “Cũng có thể! Nhưng sao đồng chí lại gặp người Sài Gòn?”. “Sài Gòn là đất nước của chúng tôi!”. “Nhưng …ít nhất đồng chí cũng phải biết họ con ai chứ?”. “Có lẽ tôi cũng đoán được. Họ con tư sản, con của đại công chức…những chắc chắn họ không phải là con của những người lao động chân tay. Chắc họ chưa tới được cái may mắn đó. Mà nếu có thì chắc họ không còn chân tay nữa”.
Lịch sử vẫn tiến lên, ngay trên quê hương của vĩ nhân mà nhà thơ ca ngợi. Chỉ có điều nó hơi khác kịch bản của Mác. Nhà kinh tế học Paul A.Samuelson, người Mỹ đầu tiên giành giải Nobel về kinh tế năm 1970, trong tác phẩm Kinh tế học đã viết : “Trong thế kỷ qua, từ khi có cuốn Tư bản, lịch sử đã không tỏ ra có thiện cảm với những lời tiên tri của Mark. Nhưng như chúng ta thấy nhiều lần, lịch sử ít khi theo đúng một kịch bản nào của những con người bình thường”.
Còn Isaiak Berlin lại viết: “Không một nhà tư tưởng nào trong thế kỷ XIX có ảnh hưởng trực tiếp, dứt khoát và mạnh mẽ đối với loài người như Karl Mark”.
Những người cộng sản chân chính luôn tin rằng, Mác đã chứng minh một cách khoa học sự quá độ tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản những năm 1890, 1929 hay cuộc đại suy thoái từ năm 2008 đến nay vẫn chưa phục hồi xem ra đang chứng minh những tiên tri của Mác?
Phải chăng vì thế mà Tố Hữu khẳng định:
Mác – Lênin, vĩnh viễn mặt trời
Giữa mây đục, càng sáng ngời chân lý
Vẫn trong Đường của ta đi, Tố Hữu ước muốn:
Ta muốn viết cho đời ta bài ca Đại hội
Bài ca vui của ngày mai, gió nổi
Tan sương mù
Không biết sương mù đã tan hay chưa, song chính nhà thơ cũng hiểu rõ, mười sáu năm sau, nước Đức đã thống nhất. Người VN – không chỉ từ Sài Gòn, định cư ở nước Đức không ít, dù đây là “mảnh đất không may”. Với gần 3,5 ngàn tỷ Euro, nước Đức có nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ tư thế giới. Nước Đức có tiếng nói đầy sức mạnh trên bàn cờ chính trị thế giới. Tuy vậy, nước Đức vẫn chưa thể tiến lên chủ nghĩa xã hội?
Ta hãy cùng với nhà thơ:
Tạm biệt! Đường ta lại trở về
Tưởng chừng lâu lắm đã xa quê
Ngoảnh trông muôn dặm đường sương tuyết
Nhìn lại ta, xuân dậy bốn bề
Trở về để đến Với Lênin – một bài thơ nổi tiếng của Tố Hữu ca ngợi Lênin, vĩ nhân của lịch sử, người đã bổ sung, phát triển một cách toàn diện học thuyết của Mác. Tên tuổi Lênin luôn luôn gắn liền với tên tuổi của Mác. Khác với VN luôn gọi chủ nghĩa Mác – Lênin, TQ chỉ gọi là chủ nghĩa Mác.
Ta lại gặp lại những tính từ quen thuộc tả vĩ nhân: “dòng ánh sáng”, “làm lại loài người”, “làm thế kỷ hai mươi”, “vĩnh viễn” “phơi phới”, “diệu kỳ”, “thiên tài”, “ngôi sao”, “con người đẹp nhất”…
Về nghệ thuật thơ, nhà thơ Chế Lan Viên, sau khi ca ngợi hết lời thơ Tố Hữu, có nhận xét: “Anh hay chú ý cái ruột, cái gốc hơn là cái ngọn, cái vỏ. Một đôi hình ảnh của anh chung chung, vì không có đường nét rõ, như cái hình này của Lênin:
Vĩnh viễn Lê-nin sống giữa loài người
Vầng trán mênh mông đôi mắt yêu đời
Như trái đất vui mùa xuân mới dậy
Tôi muốn đổi “cái đôi mắt yêu đời” lấy cái “đôi mắt nheo cười” và đổi cái “sống giữa loài người” đó lấy cái “giữa công nông ngồi chật” rất cụ thể ở những câu này:
Người là đồng chí
Hồn nhiên giản dị
Giữa công nông ngồi chật quanh Người
Rất yêu thương, đôi mắt nheo cười…
Đổi những “trái đất” “mùa xuân” trên lấy những “chiếc gậy”, “bậc thang”, “tấm áo dạ sờn”, “đôi dày ống gót mòn” ở những câu sau này rất là sinh động:
Người đã sống đến giây phút cuối:
Chiếc gậy cầm tay còn gác cạnh bàn
Bậc thang nhà còn ấm những lan can
Và tấm lịch đứng lại ngày 21
Hay:
Ghét mọi quân thù, ghét mọi nước sơn
Suốt đời mang tấm áo dạ sờn
Đôi dày ống gót mòn sỏi đá”.
Và Chế Lan Viên cũng có bài thơ Đến trước Lênin giàu chất suy nghĩ. Nhà thơ đến Hồng trường viếng mộ Lênin trong khung cảnh trang nghiêm và xúc động. Nhà thơ nhận thấy Lênin “Sau thủy tinh vầng trán bình yên. Đang sóng gió”. Vì sao vậy? Đó chính là sự phản bội của bọn tự xưng là mặt trời hồng:
Những phản bội ấy Người đâu lạ nữa
Ngỡ như có thể đoán ra từ lúc sinh thời
Mặc cho chúng tự xưng mặt trời, tự huơ sách đỏ
Và bây giờ, chúng ta đến với Lều cỏ Lênin. Nghệ thuật ca ngợi hai vĩ nhân của Tố Hữu xem ra chúng ta đều đã rõ. Dù sao, ý thơ sau đây cũng khá hay:
Sự thật vốn không ưa trang trí
Đời thanh cao quen dáng đơn sơ
Lịch sử thường đi những lối không ngờ
Một lều cỏ làm mũi tên chỉ hướng
Quả là “lịch sử thường đi những lối không ngờ”. Ai có thể ngờ, Liên Xô, thành trì XHCN và hệ thống các nước XHCN Đông Âu bỗng chốc sụp đổ. Chủ nghĩa tư bản, tuy gặp những khúc quanh song vẫn đầy tiềm năng và vẫn phát triển vượt bậc. Hai vĩ nhân của lịch sử hiện lên trong thơ Tố Hữu đầy thiên tài và nặng ơn nghĩa. Chỉ có điều, mơ ước đòi “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” của hai vĩ nhân lịch sử vẫn chưa thể trở thành hiện thực. Song, hãy tin rằng, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội!
THEO LÊ MAI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét