Các bài trong Blog được collect từ nhiều nguồn & các bài viết trong blog này không thể hiện quan điểm của chủ BLog!
Tổng số lượt xem trang
Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013
Bài đáng chú ý: Chính trị VN 'không rõ ai đang cầm lái' & Tổng bí thư kiêm Chủ tịch QH? (tức là Đảng nắm quyền lập hiến luôn nhể ^:)^
Chính trị VN 'không rõ ai đang cầm lái'
Báo Anh nói Đảng Cộng sản VN gặp nhiều vấn đề nhưng Bắc Kinh có thể có ít bài học để giúp Hà Nội.
Ngoài ra, bài báo cũng nói sau các đấu đá nội bộ, chính trị Việt Nam nay không rõ ai là người 'cầm quyền thực thụ'.
Tờ Economist
tuần này có bài trên mục bình luận Banyan nói về điều mà tạp chí này
gọi là "những khó khăn chung mà hai nước độc đảng đang đối mặt như đấu
đá nội bộ, tranh luận về hiến pháp và thực trạng bị dân chỉ trích".
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 vốn được kỳ vọng là sự kiện quan
trọng cho nỗ lực cải cách đã diễn ra tại Việt Nam và kết thúc một cách
buồn tẻ và ĐCSVN hiện đang gặp phải nhiều vấn đề.
Dự thảo sửa đổi hiến pháp được đưa ra công chúng góp ý nhưng đa phần đề
xuất trong số 26 triệu ý kiến có nội dung mà đảng không thấy lọt tai,
đặc biệt là gợi ý bỏ Điều 4.
Tổng Bí thư Đảng, Nguyễn Phú Trọng mới đây khẳng định rằng ‘tuyệt đại đa
số người dân Việt Nam’ đồng tình với những điều khoản chủ chốt trong
bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi nhưng cũng nói cần đề phòng ‘thế lực xấu’
đòi bỏ Điều 4.
The Economist không phải là cơ quan báo chí hay tổ chức đầu tiên nêu vấn đề về Điều 4 Hiến pháp Việt Nam.
Cuộc tranh luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã làm rộ lên một phong
trào đòi thực hiện các quyền hiến định và Bấm tính chính danh của Hiến
pháp mà đã được "đa số đại biểu Quốc hội tán thành" vừa qua.
Cũng tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục Công giáo cũng từng nêu ý kiến rằng
“Phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, bởi lẽ chủ nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần?”
Về mặt kinh tế, nhiều người biện luận rằng Điều 19 qui định "kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia" vừa lạc hậu lại
vừa có tác động xấu.
Tuy nhiên gỡ bỏ khu vực kinh tế nhà nước là việc sẽ làm nhiều người khiếp sợ.
Chẳng những các quan chức trục lợi từ những mối làm ăn mà hệ thống kinh
tế nhà nước cũng giúp biện minh cho quyền cai trị độc đảng, bài báo bình
luận.
'Đấu đá phe nhóm'
Điều
4 Hiến pháp Việt Nam trở thành vấn đề một phần vì hệ quả của thực trạng
quản lý kinh tế yếu kém trong những năm gần đây, và một mặt cho thấy sự
bất bình của người dân đối với tình trạng tham nhũng tràn lan của quan
chức, đặc biệt là các nhân vật nằm cao trong bộ máy chính phủ."
Trong khi đó những gì diễn ra tại Trung Quốc cũng chẳng giúp ích nhiều,
mặc dù tại đây hiến pháp cũng là chủ đề được đưa ra bàn luận.
Điểm khác biệt mấu chốt, theo The Economist, là tại Trung Quốc, những
người chỉ trích đảng chỉ đơn thuần muốn Bắc Kinh tôn trọng hiến pháp
hiện hành.
"Bản hiến pháp này qui định về sự công bằng, tự do ngôn luận, tự do tôn
giáo và hội họp cũng như tòa án độc lập, là tất cả những điều mà Đảng
Cộng sản Trung Quốc từ chối không cho công dân của họ được hưởng".
Thực ra trong hiến pháp Trung Quốc, vai trò đảng lãnh đạo được nói trong phần mào đầu chứ không nằm trong nội dung chính.
Điều 4 Hiến pháp Việt Nam trở thành vấn đề một phần vì hệ quả của thực
trạng quản lý kinh tế yếu kém trong những năm gần đây và một mặt cho
thấy sự bất bình của người dân đối với tình trạng tham nhũng tràn lan
của quan chức, đặc biệt là các nhân vật nằm cao trong bộ máy chính phủ.
Theo tờ báo Anh, chính vì vậy mà trong lần lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc
hội vào mùa xuân năm nay, các dân biểu ở Việt Nam tỏ ra chủ động và sáng
tạo hơn so với quốc hội Trung Quốc, khi gần một phần ba dân biểu bỏ
phiếu tín nhiệm thấp với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Bất bình với chính phủ có tham nhũng cũng lý giải việc nhà nông Đoàn Văn
Vươn phản ứng bằng súng tự chế với lực lượng cưỡng chế sai đất của mình
và để rồi lĩnh án tù, thế nhưng cũng trở thành hình tượng người hùng.
Dân bất mãn
Tại
Trung Quốc, đấu đá phe nhóm đã cho kết quả người chiến thắng rõ ràng là
lãnh đạo đảng Tập Cận Bình. Một phần của vấn đề tại Việt Nam là chẳng
ai dường như biết chắc rằng người ai là người đang cầm trịch."
Thực trạng chính quyền cưỡng chế đất của dân cũng xảy ra như cơm bữa tại
Trung Quốc và kế hoạch cải cách hệ thống sở hữu đất đai đã và đang bị
lạm dụng có thể, hoặc nên, là một trong những quyết định lớn trong hội
nghị trung ương tại Trung Quốc sắp tới.
Bài bình luận này cảnh báo chính quyền Việt Nam về điều họ gọi là sẽ
không thể trở tay kịp với thực trạng bất mãn của dân trước đảng và chính
phủ hiện đang lan tràn trên Internet.
Thực trạng bất mãn ngày càng gia tăng khi người ta thấy lãnh đạo đảng
quan tâm ít tới lợi ích quốc gia hơn là bảo vệ quyền lực của mình trước
các đối thủ ganh tị.
Tại Trung Quốc, việc hạ bệ Bạc Hy Lai cho thấy cuộc đấu đá tay bo giữa giới chóp bu chính trị tại đây.
Ở Việt Nam, Thủ tướng Dũng, dường như là mục tiêu của một chiến dịch từ
các nhà lãnh đạp đảng bảo thủ hơn, chẳng hạn như Chủ tịch Trương Tấn
Sang.
Sự khác biệt là ở chỗ tại Trung Quốc, đấu đá phe nhóm đã cho kết quả người chiến thắng rõ ràng là lãnh đạo đảng Tập Cận Bình.
Một phần của vấn đề tại Việt Nam là chẳng ai dường như biết chắc rằng người ai là người đang cầm trịch, theo The Economist.
Theo BBC
Hai lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng
Trong khi bàn thảo sửa đổi hiến pháp, ý kiến
đề xuất hợp nhất hai chức danh Tổng bí thư và Chủ tịch nước dành được
nhiều sự quan tâm, song chưa thấy ai đề xuất hợp nhất hai chức danh Tổng
bí thư và Chủ tịch Quốc hội.
Bao nhiêu năm qua, ở các cấp tỉnh huyện xã, bí thư bên đảng đã kiêm
nhiệm Chủ tịch hội đồng nhân dân, vậy tại sao việc hợp nhất chỉ dừng lại
ở cấp độ địa phương mà không áp dụng ở trung ương? Điều gì cản trở việc
này?
Theo thông lệ thế giới, đảng phái là tổ chức của một nhóm người có
chung mục tiêu quyền lợi, hoạt động chính yếu nhắm tới là chiếm lĩnh
quyền lãnh đạo quốc gia, nguyên lý tổ chức hoạt động là cấp dưới phục
tùng cấp trên.
Bình đẳng hay phục tùng?
Trong khi đó cũng theo thông lệ thế giới, Quốc hội là tổ chức của
những đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp dân chúng chứ không của chỉ
riêng một nhóm người nào. Giữa các đại biểu quốc hội là bình đẳng và
không có quan hệ phục tùng vì đại biểu đại diện cho dân mà quyền lợi của
các nhóm dân cư thì đều chính đáng như nhau.
Các đảng viên có chung mục tiêu quyền lợi, còn các đại biểu quốc hội thông thường không cùng chung mục tiêu quyền lợi.
Lý do là nguồn lực quốc gia luôn hữu hạn trong khi mỗi nhóm dân chúng
đều muốn được dành nguồn lực giải quyết vấn đề của nhóm mình. Như thế
trong xã hội luôn tồn tại những nhóm người có quyền lợi không đồng nhất
hoặc là đối lập nhau, từ đó các đại biểu quốc hội cũng không cùng chung
mục tiêu quyền lợi.
Chỉ trong trường hợp chiến tranh các đại biểu quốc hội mới có quyền
lợi chung, đứng trước nguy cơ tồn vong của quốc gia, khi đó quyền lợi
của các nhóm dân chúng bị xếp lại sau so với quyền lợi chung của dân
tộc.
Như vậy theo truyền thống quốc tế, mô thức thành lập và hoạt động của hai tổ chức đảng phái và quốc hội là đối lập nhau.
Phải chăng vì đó nên e ngại quốc tế nghi hoặc chê cười do sự không
giống ai của mình nên ở Việt Nam đã không hợp nhất hai chức danh Tổng bí
thư và Chủ tịch Quốc hội?
Nhưng vì sự hợp lý thực tiễn nào đó lại hợp nhất người đứng đầu hai cơ quan đảng và cơ quan dân cử ở cấp độ địa phương?
Hóa giải những trở ngại
Đảng Cộng sản Việt Nam bao nhiêu năm qua giữ vai trò lãnh đạo nhưng
hiện tình đất nước như bây giờ chứng tỏ đảng đã không biết cách làm tốt
vai trò của mình.
Nắm toàn quyền điều hành hệ thống chính trị nhưng đảng đã không biết
cách lập trình hệ thống sao cho sự vận hành được trơn tru hiệu quả.
Rõ ràng là Đảng cộng sản hiện nay không còn tổ chức theo nguyên lý
kinh điển truyền thống của các tổ chức đảng phái lâu nay, giống như đảng
cộng sản Trung Quốc, đảng của giai cấp công nhân xưa kia nay đã kết nạp
cả thành phần tư sản – kẻ thù cũ, doanh nhân cũng trở thành đảng viên.
Đảng hiện nay đã cấp tiến đến mức khó xác định bản chất giai cấp của
đảng, không còn đại diện cho riêng một nhóm người, một giai tầng nào.
Điều 4 dự thảo hiến pháp viết rằng Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Nếu đúng thực chất như vậy, tức đảng đại biểu cho toàn dân thì khi đó
đảng tiến gần đến với quốc hội cũng là tổ chức đại biểu cho toàn dân,
hai tổ chức khi đó có tính chất giống nhau nên đây là một lý do cho phép
có thể hợp nhất Ban lãnh đạo đảng với quốc hội.
Vì là chế độ một đảng và giữ vai trò lãnh đạo, cho nên không giống
như các đảng phái truyền thống luôn trong trạng thái tranh đấu để giành
và giữ quyền lãnh đạo quốc gia, lúc này đảng chỉ tập trung vào việc lãnh
đạo và làm chính sách, như thế cũng tương đồng với tính chất vai trò
của quốc hội là cơ quan ban hành chính sách. Đây là lý do thứ hai cho
thấy có sự tương hợp giữa hai tổ chức cho nên có thể hợp nhất.
Ở đây không cần phải chỉ ra những bất lợi khi duy trì tình trạng cả
hai tổ chức cùng có vai trò lãnh đạo và làm chính sách nữa, xin xem lại
bài viết có tiêu đề “Canh tân hệ thống”.
Về điểm khác biệt trong nguyên lý tổ chức hoạt động, trong đảng thì
cấp dưới phục tùng cấp trên, còn các đại biểu quốc hội thì bình đẳng,
vậy hóa giải mâu thuẫn này thế nào?
Có thể hóa giải bằng cách đúng như việc cần phải làm là chỉ thực hiện
hợp nhất đối với một số lượng nhỏ người đứng đầu chứ không phải hợp
nhất hai tổ chức. Đảng có hàng triệu người trong khi quốc hội có 500
người, đâu phải hợp nhất cả hai nhóm người này.
Hợp nhất thế nào?
“Đảng Cộng sản Việt Nam bao nhiêu
năm qua giữ vai trò lãnh đạo nhưng hiện tình đất nước như bây giờ chứng
tỏ đảng đã không biết cách làm tốt vai trò của mình“
Đầu tiên là hợp nhất người đứng đầu, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch quốc
hội. Sau đó là hợp nhất Bộ chính trị với Ủy ban thường vụ quốc hội.
Ủy ban thường vụ quốc hội hiện tại gồm 17 người, bộ chính trị hiện có
16 người tới đây có thể bầu bổ sung thêm một khi đó doanh số là bằng
nhau. Các ủy viên trung ương đảng thì vẫn là đại biểu quốc hội như lâu
nay.
Đồng thời với việc hợp nhất thì quan trọng không kém là cần thực hiện
tách bạch về nhân sự giữa cơ quan làm chính sách với quan thực thi
chính sách, giữa cơ quan lãnh đạo với cơ quan chấp hành. Người đứng đầu
các cơ quan chính phủ, quân đội, công an chỉ nên cho giữ từ ủy viên
trung ương trở xuống.
Để người đứng đầu các cơ quan này giữ cương vị ủy viên bộ chính trị
như lâu nay đảng tưởng rằng như thế là nắm chắc được chính quyền, thực
ra không phải. Làm vậy giống như đảng đang ôm một cái cột, khi tách bạch
như đề xuất tức thu nhỏ cái cột lại thì đảng nắm các cơ quan này như
một người cầm cái gậy trong tay, trường hợp nào thì nắm chắc hơn và điều
khiển linh hoạt hơn?
Lợi ích đem lại là gì?
Vấn đề cốt yếu nhất là đưa ra được những chính sách đúng đắn, mà muốn
thế thì điều cần thiết là không để bất cứ lý do gì chi phối ảnh hưởng
khiến cho việc ban hành chính sách không đảm bảo chất lượng được tối ưu.
Lâu nay ở Việt Nam đâu là cơ quan ban hành chính sách? Mọi cơ quan
đều làm chính sách. Hiến pháp quy định Quốc hội quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng Đảng lại có cương lĩnh phát
triển đất nước của mình. Chính phủ là cơ quan chấp hành của cả đảng và
quốc hội nhưng tự chính phủ cũng ban hành chính sách.
Thông lệ lâu nay đảng lãnh đạo bằng chủ trương đường lối sau đó quốc
hội luật hóa chính sách của đảng rồi chính phủ thực hiện, nhưng có phải
đảng được toàn quyền trong hoạt động hay không?
“Làm sao hóa giải mâu thuẫn trong đảng thì cấp dưới phục tùng cấp trên, còn các đại biểu quốc hội thì bình đẳng? “
LS Ngô Ngọc Trai
Liệu khi làm việc đảng có phải ngó nghiêng quan điểm của quốc hội hay
lượng định quan điểm của chính phủ là cơ quan thực thi hay không? Điều
này có thể có bởi vì các tổ chức gồm những con người khác nhau về cả
nhận thức lẫn quyền lợi.
Điểm khác nhau dù là rất nhỏ cũng khiến cho chính sách phải hạ thấp tiêu chí chất lượng để có thể đạt được sự chấp nhận.
Hoặc có khả năng là để chính sách được chấp nhận, cơ quan ban hành
đưa ra nội dung rất chung chung và độ mở rất rộng, dành phần không gian
quyền hạn cho cơ quan tiếp theo, đảng dành cho quốc hội, quốc hội dành
cho chính phủ. Hệ quả của việc này là các cơ quan đều làm chính sách và
như thế thì đừng mong có được chất lượng cao.
Khi hợp nhất sẽ giúp việc ban hành chính sách được tập trung ban hành
bởi một cơ quan đầu não, tránh tình trạng phân tán về thẩm quyền ban
hành chính sách.
Đặc biệt trong xu hướng xây dựng quốc gia pháp quyền, mọi tổ chức đều
được thiết lập và hoạt động theo pháp luật thì xem ra Đảng lại ở vào
thế yếu so với quốc hội và chính phủ do không được pháp luật bảo hộ nên
có thể bị bỏ rơi bất cứ lúc nào.
Để củng cố vị thế của Đảng, Tổng bí thư và Bộ chính trị nên kiêm Chủ tịch quốc hội và Ủy ban thường vụ quốc hội.
Khi đảng đã vững rồi thì phải có trách nhiệm thúc đẩy dân chủ bằng
cách rút bớt phạm vi hoạt động, chỉ lãnh đạo bộ máy nhà nước và buông bỏ
lãnh đạo xã hội dành phần không gian cho xã hội dân sự phát triển. Đảng
toàn trị khi đó thu gọn thành đảng cầm quyền, dân chủ sẽ khai phóng
tiềm lực nhân dân, từ đó mà đất nước phát triển. Bài viết thể hiện quan điểm riêng và văn phong của
trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự. Xem thêm về tác
giả tại trang web http://www.ngongoctrai.com/
Phan Châu Thành – Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh coi thường và lừa bịp dân hết sức thô thiển!
Tại sao Chính phủ PHẢI nhận nợ thay Vinashin và các Tập đoàn Kinh Tế Nhà Nước khác?
Mới đây Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh vẫn tuyên bố: “Chính phủ không nhận nợ thay cho Vinashin, mà chỉ… nhận bảo lãnh khoản nợ”.
Thật là nực cười khi một quan kinh tế hàng đầu nhà nước (cựu bộ trưởng
tài chính, đương kim Phó thủ tướng phụ trách tài chính) lại coi thường
và lừa bịp dân và Cuốc hội (trả lời phỏng vấn bên lề QH) thô thiển đến
như thế!
Định không viết gì thêm về các khoản nợ không thể trả của các Tập
đoàn Kinh tế Nhà nước (TĐKTTNN) đã đang và sẽ gây ra cho đất nước nữa,
nhưng sự dối trá thô thiển như thế của ông Ninh khiến tôi không im lặng
được. Quốc hội thì có thể im, và chắc chắn sẽ im, vì đảng chỉ đạo thế,
con dân thì không thể im được mãi. Và tôi là dân như thế.
Bất kỳ sinh viên kinh tế nào, chưa cần là những người tham gia hoạt động thanh toán ngoại hối, đều biết Bảo lãnh nợ hay thanh toán là Cam kết trả nợ/thanh toán vô điều kiện
bởi Người bảo lãnh (ở đây là chính phủ) thay người Được bảo lãnh (ở đây
là Vinashin hay các TĐKTNN khác) cho chủ nợ hay người Thụ hưởng (các
định chế Tài chính Quốc tế) bất kỳ khi nào người được bảo lãnh không thực hiện cam kết và trách nhiệm trả nợ và thanh toán của họ vì bất kỳ lý do gì….
Đó là nội dung phải có và bất di bất dịch của mọi chứng thư Bảo lãnh
thanh toán hay trả nợ, để chủ nợ chấp nhận. Một Thư bảo lãnh như thế
thường chỉ dài khoảng 1 đến 2 trang A4 mà đến 3/4 là dành cho địa chỉ
pháp lý của các bên liên quan, và câu cam kết đó. Như
thế, nhận bảo lãnh nợ hay nhận nợ thay thì có khác gì nhau? Thực tế
người ta gọi thư Bảo lãnh trả nợ là thư người bảo lãnh nhận trả nợ thay
“nếu Con nợ có mệnh hệ gì”. Ở đây, con nợ là Vinashin thì “mệnh hệ” của
nó là… đã “shink”, tức “chìm”, từ lâu rồi, và 4-5 năm nay không thấy sủi
tăm sau tái cơ cấu như chính phủ đã tuyên bố (bởi một ông PTT khác lúc
đó, Ng Sinh Hùng) đại ý “sau 3 năm Vinashin sẽ làm ăn có lãi và sẽ tự
trả nợ các khoản tự vay…”
Sự lừa bịp của ông Hùng, rồi ông Ninh (thay mặt Chính phủ) với dân
chúng ta thế là đã rõ. Xưa nay họ luôn làm thế và sẽ còn làm thế với dân
– “những ông chủ” của họ, và cả Cuốc hội –“sếp” của họ, cũng đã rõ.
Nhưng tại sao họ phải làm thế? Ở đời có ai muốn cứ đi “lừa thầy phản bạn” hoài? Đó là điều tôi muốn chỉ ra ở đây.
Lần bảo lãnh của Chính phủ cho Vinashin là chỉ dấu mới để chúng ta
suy xét: Thứ nhất, đây là món nợ 600 triệu USD Vinashin tự vay, không có
bảo lãnh từ trước của Chính phủ như món nợ trái phiếu Chính phủ 750
triệu USD trước đó mà Chính phủ đã hoàn toàn phải đứng ra gánh chịu. Như
vậy, tại sao biết thế mà Chính phủ vẫn PHẢI làm, ngược với các tuyến bố
trước đó về cách giải quyết các khoản nợ của Vinashin?
Thứ hai, khi bảo lãnh thế, đó sẽ là tiền lệ để Chính phủ sẽ phải bảo
lãnh trả nợ thay cho các món nợ khác ”tự vay” của các TĐKTNN khác – có
nhiều TĐKTNN còn quan trọng hơn VNS nhiều. Tại sao biết thế mà Chính phủ
vẫn phải làm?
Thứ ba, đó có phải cũng chính là cách mà chính phủ đang xử lý các
khoản nợ xấu ngân hàng, bất động sản, nợ nước ngoài… (khoảng 1,3 triệu
tỷ VNĐ hay khoảng trên 60 tỷ USD) của các TĐKTNN và các doanh nghiệp nhà
nước khác mà Chính phủ đang làm thông qua cái gọi là Công ty Mua bán Nợ
VAMC? Tại sao vẫn là ”cách đó” và phải là cách đó: Chính phủ đứng ra
“trả nợ thay”!? Tôi nói “trả nợ thay” trong ngoặc kép, tức là Chính phủ
tròng lên cổ dân ta những khoản nợ đó, nhưng lần này “dân ta” không phải
là tôi hay các bạn đang nói về chuyện này, mà là con cháu chúng ta –
những thế hệ trẻ Việt Nam còn đang ăn học hay chưa được sinh ra! Vì thế,
nên coi công ty VAMC của của chính phủ như một loại VAMPIRE (ma cà
rồng) để hút máu dân nuôi đảng thì chính xác hơn.
Tôi xin trả lời những câu hỏi “Tại sao?” đó qua ví dụ Vinashin để chúng ta cùng thấy rõ.
Thời còn đang “tinh tướng”, khoảng 2000-2005, Vinashin có một dự án
lớn được quảng bá và triển khai rầm rộ là xuất khẩu sang Iraq thiết bị,
phương tiện nổi (xà lan, tầu hút bùn, tàu kéo…) được chính phủ chi cho
hàng nhiều nghìn tỷ đồng để thực hiện. Gặp ông P.T.Bình (cựu TGĐ VNS)
tôi khen: “Anh giỏi thế, sang Iraq với “các cụ“ có một chuyến mà đã ký
được hợp đồng bán tàu thuyền trị giá mấy trăm triệu USD!” Hắn cười khoái
chí vênh mặt lên, không them nói cho tôi chiêu tiếp thị của mình là gì
mà tài thế! Nhưng rồi tôi cũng phát hiện ra “tuyệt chiêu” bán hàng lô đó
của Vinashin: VNS nhận trả nợ thay Chính phủ ta cho chính phủ Iraq lúc
đó (của Sadam Hussein), bằng các phương tiện hàng hải mà họ cần. Các bạn
có thấy “quen quen” với “nhận trả nợ thay” không? Như vậy, trước khi
Chính phủ nhận trả nợ thay Vinashin vỡ nợ hiện nay thì từ lâu Vinashin
đã nhận trả nợ thay Chính phủ “vỡ nợ” trước đó!
Tôi cũng phát hiện ra hai sự thật và thực tế ghê tởm nữa liên quan
đến hay đằng sau các khoản nhận trả nợ thay Chính phủ của các TĐKTNN như
VNS.
Đó là, hồi đó – từ những năm 1990, các tổng công ty nhà nước rất đói
rách và họ ra sức tranh nhau “chạy” các dự án trả nợ của nhà nước ta cho
các nhà nước khác, tất nhiên để kiếm lời rất lớn từ đó cho mình. Các
khoản nợ này là do “đảng ta” đã vay các nước “anh em” XHCN như LX, Đông
Âu, TQ… để đánh nhau (trong chiến tranh), nay hết chiến tranh rồi phải
trả nợ họ. Như vậy “chiến thắng” xong, đảng hưởng chiến công (cầm quyền
bằng điều 4 Hiến pháp, sở hữu đất đai “toàn dân”, biến quân đội thành
của riêng mình đảng…) và giao cho các TĐKTTNN nhiệm vụ bòn rút dân để
trả nợ cho các chủ nợ “chiến thắng” đó! Tức là, cuối cùng thì dân ta là
người trả nợ cho các chiến thắng “vẻ vang” của đảng từ trong chiến
tranh.
Còn khoản nợ vay các nước như Iraq của Sadam Husein là sau chiến
thắng – các khoản vay hậu chiến thắng. Sadam đã cho cộng sản VN vay 1,5
triệu tấn dầu tương đương khoảng trên 300 triệu USD lúc đó (nay khoảng 1
tỷ USD) sau khi tặng không 400 nghìn tấn. Tại sao có các khoản vay này
thì chúng ta biết rõ rồi: “bên thắng cuộc” vốn chỉ biết vay nợ để thắng
thì cũng chỉ còn biết vay nợ tiếp để tồn tại sau chiến thắng từ 1975 đến
khảng 1995, vì mải trả thù “bên thua cuộc” đến cùng suốt mấy chục năm,
vì các nước anh em không cho vay nữa nên không biết sống bằng gì, dân
tình đói khát, cả nền kinh tế kiệt quệ bị đẩy lùi vào quá khứ hàng trăm
năm sơ với các nước láng giềng…
Sự thật thứ hai là cách “trả nợ thay chính phủ” rất không minh bạch
đã làm giàu cho các quan chức chính phủ được phân công phụ trách công
việc “trả nợ” đó (hồi đó là Nguyễn Sinh Hùng, Nguyến Tấn Dũng, Phan Văn
Khải…), và tất nhiên, đã làm giàu cho các doanh nghiệp được các quan lớn
đó “giao trọng trách vẻ vang”.
Ở Vinashin, chỉ có ai cánh hẩu với sếp lớn mới được tham dự vào các
dự án trả nợ Iraq và Liên Xô. Họ thả sức bịa ra và đổ mọi chi phí khống
vào các dự án đó, báo cáo chính phủ “tỷ lệ vốn đã đầu tư” thực hiện các
nhiệm vụ đó (bạn học ông Bình “phụ trách” Iraq, em gái ông “phụ trách”
Liên Xô…). Khi Vinashin chuẩn bị phải bàn giao tầu kéo, xà lan, tầu hút
bùn… sang Iraq để trả nợ rồi mà tất cả những thứ đó đều như những đống
sắt vụn không thể hoạt động được. Thậm chí tầu “Bạch Đằng Giang” được
hoán cải chỉ để chở “tầu hút bùn mới đóng” sang Iraq trả nợ nhưng chưa
chở gì thì đã bị chìm ở Vịnh Hạ Long… Và, lịch sử thật trớ trêu, Saddam
Husein và cả chế độ độc tài đã tan rã trước khi VNS có thể mang đồ sang
trả nợ, làm VNS vui sướng hơn dân Iraq ủng hộ chính phủ mới sau chiến
tranh vùng Vịnh của ông Bush. Nhưng trong các báo cáo của các quan lên
Chính phủ thì… VNS đã thay mặt Chính phủ thực hiện hết các trách nhiệm
trả nợ “chính phủ Iraq”…(ông Husein hào phóng với CSVN lúc đó đã bị treo
cổ, tội nghiệp, mà vẫn giúp chính phủ VN gánh được bao chi phí “đã trả
nợ”…).
Điều tương tự cũng đã xảy ra với các Tổng Cty nhà nước khác khi nhận
trả nợ thay chính phủ cho anh cả Đỏ Liên Xô khi anh cả này tan rã năm
1991 và số nợ “chuyển sang” nước Nga của Putin hiện nay. Nước Nga thì
vẫn không đòi được “nợ” (vì không có bảo lãnh nợ!) và cũng không tha
thiết lắm với việc đó, nhưng trong báo cáo của Chính phủ thì “chúng ta
vẫn liên tục trả nợ cho nước Bạn”… và số tiền dân ta phải trả nợ đó đã
chui hết vào túi các quan chức chính phủ và các công ty nhà nước (với
các chân rết là các công ty tư nhân) được “giao trách nhiệm trả nợ” của
họ. Từ đó sinh ra lớp đại gia maphia đỏ của Việt nam tại Nga rồi nay họ
về Việt Nam tiếp tục trở thành sân sau và chỗ đứng, chỗ dựa hùng mạnh
cho các quan chức chính phủ hiện nay.
Đến đây, cả ba câu hỏi trên đều đã được trả lời: Tại sao chính phủ
phải trả nợ thay các tập đoàn KTNN dừ họ có làm sai và làm lỗ lã thế
nào? Vì họ đã thay mặt nhà nước trả các nợ chiến tranh mà nhờ đó đảng ta
cướp được chính danh lãnh đạo đất nước, và qua đó họ đã làm giàu các
quan chức biến họ thành các tư bản đỏ. Các tập đoàn kinh tế khác tự vay
nợ có được nhà nước “bảo lãnh trả nợ thay” như Vinashin không? Tất nhiên
là có. Cách giải quyết nợ của VAMC có được chính phủ bảo lãnh không? Dĩ
nhiên. Tất cả các món nợ của đảng và nhà nước sẽ được đảng và chính phủ
truyền cho dân Việt trả, qua Bảo lãnh trả nợ, qua VAMC, qua trái phiếu
Chính phủ, hay qua các khoản vay các dạng khác có bóng chính phủ. Cái
bóng của chính phủ chính là các doanh nghiệp nhà nước… Nhà nước là cái
bóng mà chính phủ nấp vào, mạo danh thế để hành động tùy tiện. Thế nên
tôi mới nói VAMC là VAMP…
Điều này dẫn đến vấn đề tiếp theo là, Chính phủ ta lấy tiền đâu để
trả các món nợ chiến tranh và hậu chiến tranh? Xin thưa: từ các khoản
vay quốc tế, mà như tôi đã nói, các thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả
nợ tiếp trong tương lai.
Như vậy, có thể thấy, cùng một món nợ “chiến thắng” chính phủ cộng
sản đã bắt nhân dân ta phải trả nợ ba lần: lần đầu, họ chiếm công lao
chiến thắng của toàn dân tộc đó cho mình rồi treo lên ngai cai trị vĩnh
viễn và chiếm đoạt vĩnh viễn tự do hạnh phúc của dân tộc, bằng hiến pháp
(lót dưới cương lĩnh đảng) của họ, như tình trạng thể chế đất nước hiện
nay. Lần thứ hai, đã đang xảy ra, là mấy chục năm nay họ dùng các doanh
nghiệp nhà nước để vơ vét, phá hoại, làm nghèo đất nước, làm đói khổ
dân, để “trả nợ thay chính phủ”- như vụ Vinashin trả nợ Irak thay chính
phủ trên. Và lần thứ ba, họ bắt các thế hệ Việt Nam sau này sẽ phải trả
nợ cho thế giới các khoản vay quốc tế mà họ đã và đang vay vấn là để
“trả nợ chiến thắng” của họ, thức ra là củng cố địa vị, vơ vét thêm của
cải cho họ.
Lịch sử thật là tàn nhẫn với dân tộc ta bởi chính dân tộc ta chấp
nhận điều đó. Một lần đưa chân sai (theo cộng sản) là phải trả nợ ba
lần, suốt năm bảy đời chưa xong!
Nhưng, nếu lần thứ ba đã thấy rõ rồi – đã quá tam – mà vẫn không học
được bài học (bị cộng sản lừa) đó thì dân tộc ta sẽ phải trả giá lần thứ
tư! Lần này với cái giá đắt nhất, là “không có gì quí hơn độc lập tự
do”.
Vâng, tôi muốn nói đến món “nợ chính phủ” của CSVN với TQ. Từ sau
chiến tranh, chính phủ TQ không “đòi nợ” như một số “anh em” khác, và
chính phủ ta vì thế đã không phải cử các TĐKTNN sân sau trả nợ TQ thay
mình. Thậm chí, họ còn chính phủ ta cho vay thêm. Nhưng có thật các
khoản nợ đó TQ không đòi và cộng sản VN không phải trả?
Cái họ thực sự muốn “đòi” và đang đòi lớn hơn rất nhiều. Và CSVN
dường như đã âm thầm chịu chấp nhận phản bội dân tọc để trả món nợ đó.
Đó là, họ đang và sẽ dâng cả đất nước Việt Nam này cho TQ! Sát nhập VN
vào TQ và các món nợ khủng của cộng sản VN với TQ biến mất!
Nhưng dân tộc Việt nam có chịu “trả nợ thay chính phủ” như thế nữa hay không? Đó lại là một việc khác.
Cả dân tộc không phải là các tập đoàn kinh tế, không thể được “định
hướng” XHCN, càng không thể tự ăn thịt chính mình. Dân tộc ta sẽ tự
hướng về những giá trị mà cả dân tộc xứng đáng có, nhất định đó không
phải những thứ mà đảng csvn đã “bôi bác” ra trên dải đất này suốt hơn
nửa thế kỷ nay.
Phan Châu Thành
Như chúng ta đều biết, việc chép sử và tuyên
truyền nội dung lịch sử từ xưa đến nay luôn phụ thuộc vào hai nhân tố
chi phối: ý chí của cộng đồng dân tộc và ý chí của nhà cầm quyền.
Ở một xã hội tiến bộ, dân chủ được phát huy cao độ như Tây Âu, Mỹ và Úc thì ý chí của dân tộc và sự thật được đề cao nhiều hơn.
Ý chí của nhà cầm quyền tuy có nhưng phản ảnh không quá nặng, thậm chí không thể tìm ra.
Nhưng ở những quốc gia độc đảng, tập quyền như Việt Nam, Trung Quốc,
Triều Tiên thì vấn đề dạy sử và viết sử quả đã bị xuyên tạc đến mức nguy
hiểm.
Có thể nói, chúng ta đang nợ giới trẻ tương lai quá nhiều việc chưa làm.
Ở xã hội châu Á xưa, với nền quân chủ tập quyền chuyên chế ở mức cao
độ, sử gia phải là những bậc chí sĩ dũng cảm lắm mới dám nói sự thật.
Trong số đó, có nhiều sử gia đã bị kẻ cầm quyền giết hại. Điển hình
như ở Trung Quốc, thời Xuân Thu, loạn thần Thôi Trữ giết vua để tiếm
ngôi.
Rồi hắn ép một sử quan phải bỏ không đề cập sự kiện đó. Sử quan này
là người chính trực, thà bị giết còn hơn ghi sai. Thôi Trữ đưa người em
của sử gia đó lên thay, ông này vẫn ghi “Thôi Trữ giết vua” và lại bị
giết.
Cứ như thế, hắn giết cả ba sử quan một lúc. Nhưng thử hỏi có mấy sử gia dũng cảm như thế?
Do vậy, lịch sử bị chép sai theo ý chí của nhà cầm quyền là điều khá phổ biến ở các quốc gia châu Á.
Và sang thế kỷ 20, hiện tượng chi phối nội dung lịch sử là khá phổ
biến ở những nước cộng sản châu Á, cụ thể là ở Việt Nam và Trung Quốc,
nơi mà nhà cầm quyền dùng truyền thông và hệ thống giáo dục để nói
tốt cho mình.
Bởi thế, muốn đọc sử châu Á cho rõ ràng chân tướng thì phải khảo cứu
nhiều tài liệu, nhiều năm và sau một thời gian dài khi sự kiện đó diễn
ra. Có thể thời gian đó là 100 năm hoặc lâu hơn nữa.
‘Tìm hiểu sự thực’
Chúng ta không ai có thể phủ nhận rằng, tiến tới chân thiện mỹ, vươn tới sự đúng đắn là nhu cầu chung của loài người.
Thời phong kiến TQ cũng có các sử gia không sợ hoàng đế
Chân lý có thể bị che khuất ở một thời đoạn nào đó nhưng trước sau gì cũng sẽ lộ ra.
Giới làm sử Trung Quốc hiện nay, do thành quả của đấu tranh dân chủ,
đang nghiên cứu để làm rõ về những nhân vật và sự kiện bị Đảng Cộng
sản Trung Quốc bóp méo hoặc thổi phồng.
Chẳng hạn như họ đang muốn trả lại vị trí đúng của Mao Trạch Đông, Lỗ
Tấn, lấy lại công bằng cho ông Tưởng Giới Thạch và các chiến sỹ Quốc
Dân Đảng, đánh giá lại tầm nhìn tư tưởng của Tôn Trung Sơn.
Ở Việt Nam, làn sóng ngầm cũng diễn ra tương tự trên các mạng xã hội
và các trang blog nổi tiếng. Có thể nói, đấu tranh đòi trả lại sự thật
cho lịch sử vừa là thành quả của tiến trình dân chủ, vừa là công cụ để
đấu tranh dân chủ.
Nội dung lịch sử Việt Nam mà giới đấu tranh phản biện tập trung vào
là từ sau năm 1911, thời điểm Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Việt Nam để đi –
đi cứu nước hay không thì còn khá nhiều tranh cãi.
Có thể nói xét giai đoạn từ năm 1911 đến tận hôm nay, các sử gia Việt
Nam còn quá nhiều việc phải làm. Chúng ta đang nợ giới trẻ quá nhiều sự
thật phải trả cho sòng phẳng.
Có những điều có thể sòng phẳng ngay, có những điều cần nhiều thời gian hơn nữa nhưng tôi xin tổng kết các “món nợ” đó như sau:
Thứ nhất, đánh giá lại công lao và tài năng của các ông Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, và các trí thức yêu nước khác trong những phong
trào đấu tranh nghị trường thời Pháp thuộc.
Thứ hai, không che dấu, không tâng bốc vai trò của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1945.
Viết rõ những sai lầm trong đường của Đảng Cộng sản Việt Nam thời Trần Phú và Hà Huy Tập.
“Ở Trung Quốc và Việt Nam nhà cầm quyền dùng truyền thông và hệ thống giáo dục để nói tốt cho mình“
Chỉ rõ lỗi sai vô cùng nguy hiểm của Đảng Cộng Sản trong tiếng trống
Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cải cách Ruộng đất, Tết Mậu Thân, quản lý kinh tế và
thất thoát nhân tài thời hậu chiến đến nay.
Thứ ba, riêng cá nhân Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh cũng quá nhiều điều
chưa rõ ràng và đã được tô vẽ vĩ đại hơn sự thật. Trong xã hội Việt Nam
hôm nay, đây vẫn còn là một chủ đề lớn và cực kỳ nhạy cảm, chưa ai dám
hé môi công khai bàn đến.
Thứ tư, vai trò can thiệp rất lớn và quyết định của Trung Quốc và
Liên Xô trong cuộc chiến chống Pháp (1946 – 1954) và cuộc chiến thứ hai
(1964 – 1975) mà có người gọi là nội chiến Việt Nam, có người gọi là
kháng chiến chống Mỹ.
Và cả cái được, cái mất của dân Việt Nam trong hai cuộc chiến đó.
Thứ năm, Chính quyền Sài Gòn (1954 – 1975) không thể bị gọi là “ngụy
quyền”. Người Mỹ xuất hiện ở Việt Nam (1964 – 1972) không thể gọi là “kẻ
xâm lược” mà là “kẻ can thiệp”.
Dân chủ và lịch sử
Tất nhiên những vấn đề đó không thể được giải quyết một lúc mà phải có lộ trình song hành với thành quả đấu tranh dân chủ.
Các nhà sử học và các nhà giáo dục đã đến lúc cần cất lên tiếng nói của mình.
Nếu không, giới trẻ Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị “ngộ độc” bởi những luận điệu cũ rích và lạc lõng.
Có thể nói đến hôm nay, thế kỷ 20 ở Việt Nam, tuyên truyền chính trị
vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nhà trường chứ không phải là giáo dục và
khoa học.
Chủ nghĩa dân tộc bốc đồng và sự ồn ào, ngây thơ về chiến thắng ‘Hai Đế quốc to’.
Ngoài những vấn đề kể trên, trách nhiệm của các nhà làm sử nói riêng,
trách nhiệm của giới giáo dục nói chung là phải hạn chế bớt các nội
dung nhấn mạnh thái quá vào tự tôn dân tộc.
Theo cố sử gia Trần Quốc Vượng, điều này diễn ra khá phổ biến ở các dân tộc châu Á và nặng nhất là ở Việt Nam và Trung Quốc.
Hai dân tộc này luôn cho mình là tuyệt vời, vĩ đại và cao đẹp, anh dũng, yêu thương nhau, thông minh và kiệt xuất.
Ở thế kỷ XIX, ông Nguyễn Đình Chiểu và dân Việt còn gọi người Pháp là “mọi trắng”, “Bạch Quỷ”.
Bây giờ hiểu ra họ văn minh hơn hẳn ta, ta chẳng có gì đáng tự hào thì đành bám lấy lịch sử, ăn vay lịch sử chiến tranh.
Nhiều năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn nghèo, thiếu thành tựu tầm cỡ thế giới
Bây giờ dân Việt chỉ còn biết lôi “đánh thắng Nguyên Mông, đánh thắng phong kiến Tàu” ra làm cứu cánh.
Về niềm tự hào “đánh tan tác hai đế quốc to Pháp, Mỹ” họ cố tình
quên rằng nếu Bắc Việt không có trợ giúp của Nga Xô và Trung Quốc thì
sẽ ra sao, nếu người Mỹ không bỏ miền Nam từ đầu năm 1973 sau Hiệp định
Paris thì thế nào.
Cuộc nội chiến đó, sau năm 1973, Bắc Việt vẫn có Trung Quốc và Liên Xô trợ lực mà Nam Việt thì không còn nhờ được Mỹ.
Tấn công Mùa Xuân năm 1975 là hoàn toàn không hề cân sức giữa hai phe Nam – Bắc.
Như chúng ta đều biết, người Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam không phải vì họ
thua Việt Nam trong một cuộc đối đầu toàn diện, mà họ tự rút lui vì cân
nhắc giữa được và mất nếu tiếp tục sa lầy.
Nhưng ngay cả khi những trận thắng đó dù là có thật thì chúng cũng bị
giáo khoa lịch sử Việt Nam hiện nay nhìn nhận phiến diện và phủ lên một
tấm màn tự tôn dân tộc quá dày.
Màn đó dày đến nỗi nhiều người Việt quên rằng đã hơn 30 năm sau chiến
tranh, Việt Nam vẫn xếp vào hạng những nước kém phát triển nhất thế
giới, không có một thành tựu kinh tế, khoa học, kỹ thuật nào tầm cỡ thế
giới.
Họ cũng quên đi rằng Việt Nam, lúc ít lúc nhiều, chưa bao giờ hết thuộc vào Trung Quốc dù chỉ một giây.
Bản sắc, phong tục dân tộc nên giữ và phát huy nhưng tự tôn dân tộc,
theo tôi được biết, chỉ nên hạn chế và kiềm chế chứ không cần nhấn mạnh
trong giáo dục.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu
nước chỉ đem lại đố kỵ và kìm hãm sự phát triển. Nó là nguyên nhân
chính của các cuộc chiến tranh và xung đột trên thế giới.
Huống chi ở châu Á, tự tôn dân tộc như ngọn lửa ngùn ngụt, trách
nhiệm của chúng ta là vặn nhỏ nó lại chứ không phải như Đảng Cộng Sản
Việt Nam đang khêu nó lên ngùn ngụt trong sách giáo khoa và truyền thông
để làm giới trẻ bị “nhập đồng”. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Nguyễn Tâm Thức, một bạn đọc BBC ở Việt Nam.
Toàn cảnh buổi lễ khai mạc Kỳ họp thứ 6 quốc hội khóa 13 của Việt Nam hôm 21/10/2013. AFP photo
Bản chất chế độ sẽ không thay đổi
Việt Nam sẽ có một bản Hiến pháp mới về hình thức sau khi Quốc hội
biểu quyết vào ngày 28/11/2013. Tuy vậy bản chất chế độ sẽ không có gì
thay đổi và những cái mới mà nhiều người trông đợi sẽ là hoài công.
Theo tinh thần Dự thảo đang được xem xét ở Quốc hội, Việt Nam theo
đuổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến định vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước; đất đai sở hữu toàn dân; Nhà nước có thể
thu hồi đất ngay cả với lý do phát triển kinh tế xã hội. Sẽ không có
định chế Hội đồng Hiến pháp dù số đông ý kiến mong muốn một cơ quan bảo
vệ Hiến pháp, để xử lý những vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra.
Nhiều đại biểu đề nghị gọi là Hiến pháp 2013, thay vì Hiến pháp 1992
sửa đổi. Những ý kiến này dựa trên quan điểm, 147 điều của Hiến pháp
hiện hành chỉ giữ 7 điều, 140 điều còn lại được soạn lại thành 113 điều
mới. Bản dự thảo trình Quốc hội xem xét hiện nay, được mô tả là tiếp thu
ý kiến rộng rãi trong xã hội. Tuy vậy những điều mà nhiều người tin
tưởng sẽ ít nhiều thay đổi, như vấn đề kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, hay thu hồi đất vì lý do phát triển kinh tế xã hội, thì ở dự thảo
này vẫn được đưa vào.
Một nền kinh tế phát triển tốt thì tất
cả các thành phần kinh tế phải có cơ hội hoạt động tốt, chứ không riêng
gì thành phần kinh tế quốc doanh chủ đạo.
-Ô. Bùi Kiến Thành
Trong cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ nói rằng bà lấy
làm tiếc về việc Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lại hiến định việc kinh tế
nhà nước là chủ đạo. Từ Hà Nội bà Phạm Chi Lan nhận định: “Theo ý kiến của rất đông đảo chuyên gia thì cho là không nên đưa
kinh tế Nhà nước là chủ đạo vào Hiến pháp, bởi vì như vậy sẽ được hiểu
là doanh nghiệp Nhà nước là thành phần nòng cốt, một biểu hiện quan
trọng hàng đầu của kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước vẫn được
Nhà nước kỳ vọng, vừa là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chủ
trương vai trò chủ đạo của mình vừa là công cụ để Nhà nước điều tiết nền
kinh tế, ổn định thị trường. Tức là đặt cho nó rất nhiều vai trò mà nó
không thể nào đảm đương hết được. Cũng không hợp lý khi giao cho doanh
nghiệp những vai trò như vậy.”
Có thể thấy được là Hội nghị Trung ương 8 vừa qua đã quyết định phải
đưa trở lại vấn đề kinh tế Nhà nước là chủ đạo vào dự thảo Hiến pháp. Do
đó ông Nguyễn Hạnh Phúc người phát ngôn của Quốc hội mới khẳng định
trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 17/10/2013: “Đương nhiên kinh tế nhà
nước phải chủ đạo, nếu không chỉ đạo thì ai lo an sinh xã hội, đương
nhiên kinh tế nhà nước phải lo rồi, phải là chủ đạo.”
Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992.
Báo chí lúc đó đã trích lời TS Trần Du Lịch, đại biểu Quốc hội nói
rằng, khi đặt ai chủ đạo có nghĩa là đã phân biệt thành phần, nếu nhà
nước luôn nói là không phân biệt thành phần kinh tế thì tại sao lại phải
qui định ai là chủ đạo. Khoản 1 Điều 51 bản Dự thảo qui định: “Nền kinh
tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.”
Ông Bùi Kiến Thành, chuyên gia tài chính hiện sống và làm việc ở Hà Nội nhận định: “Một nền kinh tế phát triển tốt thì tất cả các thành phần kinh tế
phải có cơ hội hoạt động tốt, chứ không riêng gì thành phần kinh tế quốc
doanh chủ đạo. Thành phần kinh tế quốc doanh chủ đạo này đương ở tình
trạng rất bi đát về khả năng hoạt động đạt hiệu quả…như vậy kinh tế quốc
doanh chủ đạo là một tầm nhìn đã xưa rồi, nó có từ thời kỳ chế độ kinh
tế kế hoạch tập trung mà hiện nay chúng ta đã loại bỏ, phải đi đến chỗ
giải quyết tư duy đó cho rõ ràng.”
Chỉ làm theo ý Đảng
Trung ương Đảng kiên trì áp đặt quan điểm đất đai sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu, điều này đã được biết trước từ lâu. Giới
quan sát chính trị cho rằng, Quốc hội không có cách gì đi ngược lại ý
kiến chỉ đạo của Trung ương Đảng. Trước đây đã có rất nhiều ý kiến đóng
góp cho Quốc hội là nên hiến định đất đai đa sở hữu. Thí dụ đất công
thuộc sở hữu Nhà nước, ngoài ra công nhận đất sở hữu tư nhân, đất nông
nghiệp do nông dân sở hữu, đất tập thể, đất doanh nghiệp, hoặc đất của
tôn giáo. Nhưng tất cả những ý kiến như thế không được Quốc hội tiếp thu
mà chỉ làm theo ý Đảng.
Vấn đề thu hồi đất theo Dự thảo Hiến pháp lần này, dù được chỉnh lý
nhưng vẫn dành cho Nhà nước quyền thu hồi đất một cách rộng rãi. Khoản 3
điều 54 Dự thảo qui định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân
đang sử dụng trong trường hợp cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng; phát triển kinh tế xã
hội. Việc thu hồi đất phải công khai minh bạch và được bồi thường theo
qui định của pháp luật.”
Theo quan điểm cá nhân, nên hạn chế việc thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế, tốt nhất là nên bỏ hẳn điều đó.
-LS Nguyễn Văn Hậu
Đối với quyền thu hồi đất quá rộng rãi sẽ được hiến định theo Dự thảo Hiến pháp, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định: “Việc Nhà nước có thể thu hồi đất vì mục tiêu quốc phòng thì điều
đó có thể hiểu được, người dân kể cả nông dân có thể chấp nhận được.
Nhưng Nhà nước muốn giữ quyền thu hồi đất vì các dự án kinh tế xã hội
thì là điều mà rất nhiều ý kiến không đồng tình kể cả ý kiến của đại
biểu Quốc hội. Bởi vì qui định như vậy quá rộng, nó sẽ gây ra tình trạng
bao nhiêu người có thể nhân danh Nhà nước để lấy lại đất của nông dân.
Nếu còn để điều này thì sẽ rất khó cho người nông dân yên tâm với đất
đai lâu dài được.”
Có quan điểm tương đồng, LS Nguyễn Văn Hậu phó Chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM nhận định: “Theo quan điểm cá nhân, nên hạn chế việc thu hồi đất vì mục đích
phát triển kinh tế, tốt nhất là nên bỏ hẳn điều đó…. Vì mục đích an
ninh, quốc phòng, công cộng thì mọi người đồng ý; nhưng vì mục đích phát
triển kinh tế vì lợi ích một nhóm người, một tập thể nhỏ thì phải tính
toán lại, không nên qui định điều đó.”
Báo chí lề phải do Chính phủ quản lý đã thể hiện việc “lách để viết”,
khi bày tỏ sự thất vọng của giới chuyên gia, đại biểu Quốc hội qua tựa
lớn “Hiến pháp và những khoảng lặng bên hành lang Quốc hội”. Thời báo
Kinh tế Việt Nam bản điện tử ngày 23/10 ghi nhận ý kiến Đại biểu, mà tờ
báo không nêu tên nói rằng, ông cảm thấy hụt hẫng trước bản dự thảo mới
nhất, tiếp sau biết bao vấn đề đưa ra từ dự thảo Hiến pháp lần đầu, rồi
thảo luận, lấy ý kiến, rồi tiếp thu chỉnh lý, rồi lại thảo luận tiếp
thu.
Sự thất vọng được thể hiện rõ ràng hơn khi tờ báo trích lời một vị
đại biểu khác cũng không nêu tên quả quyết “sẽ không nói gì về Hiến pháp
nữa”. Theo tờ báo vị này là đại biểu chuyên trách dày kinh nghiệm qua
ba nhiệm kỳ Quốc hội, có chân trong ban biên tập và nhận thiết kế một số
nội dung tại dự thảo. Tờ báo nhắc lại tại kỳ họp thứ năm của Quốc hội,
vị đại biểu này đã nói lời xin lỗi vì tự thấy không hoàn thành nhiệm vụ.
Nguyên do là thiết kế do ông soạn thảo dù có nhuận bút nhưng không được
đưa một từ nào vào Dự thảo. Thiết kế này, làm rõ chính quyền địa phương
là ai và quyền tự chủ đến đâu, tách bạch ngân sách quốc gia, ngân sách
địa phương để chấm dứt hoàn toàn cơ chế xin-cho hiện nay. Tuy Thời báo
Kinh tế Việt Nam không nêu danh, nhưng xem lại các bài báo trên mạng thì
nhân vật này này là chuyên gia kinh tế TS Trần Du Lịch, đại biểu Quốc
hội đơn vị TP.HCM.
Bản Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi từng được Trưởng ban Biên tập
Phan Trung Lý báo cáo là qua tiếp thu 26 triệu lượt ý kiến và 28.000
cuộc hội nghị, hội thảo. Với sự hụt hẫng của chính các đại biểu Quốc hội
mong muốn cải cách thể chế kinh tế -chính trị, câu hỏi được nhiều người
đặt ra là, tại sao phải lãng phí thời gian và tiền bạc của nhân dân đến
vậy.
Dân oan từ nhiều tỉnh thành trong một lần tập trung ở vườn hoa Mai
Xuân Thưởng, Hà Nội đòi nhà nước giải quyết các bất công về đất đai, ảnh
chụp trước đây. File photo
Có những trại giam do chính quyền độc tài nghĩ ra để giam giữ tù nhân
chính trị. Có những trại giam dùng để thủ tiêu người Do Thái trong chế
độ Đức quốc xã, nhưng cũng có những nơi mà người cùng khổ vì bị bóc lột,
áp bức đã tự tập trung kéo tới tá túc trong thời gian tranh đấu cho sự
sống còn của họ trong một loại trại chưa từng có trong lịch sử loài
người “Trại dân oan”.
Vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội từ nhiều năm nay đã trở thành quen
thuộc với hàng ngàn dân oan từ khắp nơi trên đất nước đổ về tạm trú thân
trong lúc mang đơn gõ cửa các cơ quan tiếp dân của chính phủ với niềm
tin là sẽ được giải quyết những vấn đề mà địa phương áp bức. Các tỉnh
phía bắc như Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Bắc
Giang, Điện Biên, Quảng Bình, Ninh Bình, Tuyên Quang… các tỉnh miền
Trung và cao nguyên như Ninh Thuận, Gia Lai, Đắc Lắc, Dak Nông, Đồng
Nai, Bình Phước rồi miền Nam như Tiền Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau…hầu như không còn chỗ nào mà người dân oan không biết tới Mai Xuân
Thưởng, cái tên trở thành nhà, thành một loại trại dân oan không song
sắt cho những mảnh đời oan khuất này.
Quốc hội họp: niềm hy vọng mỗi năm
Chính quyền biết rõ từng con người tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng vì
người tới và đi trong gần 15 năm qua cũng bấy nhiêu khuôn mặt. Có khi
họ tập trung vài chục, lúc cao điểm tới gần trăm, nhất là vào những ngày
khai mạc Quốc Hội số người về đây đông hơn hẳn. Niềm tin vào đại biểu
Quốc hội sẽ chú ý tới họ khiến một số rất lớn bỏ hết công ăn việc làm để
khăn gói về Hà Nội kêu oan nhưng kết quả nhiều năm qua cho thấy chưa
một đại biểu quốc hội nào lên tiếng chính thức tại diễn đàn về sự có mặt
không đúng lúc của những con người dân không ra dân, phạm nhân không ra
phạm nhân, ăn mày hay công nhân vệ sinh cũng không phải nốt.
Cuộc sống ở đây quá vất vả, người ta thì khác nhưng mấy người dân oan này thì khổ dữ lắm không có gì để mà sống, ăn rau không.
-Chị Hương
Họ không phải là dân vì nhiều người đã mất hộ khẩu, mất nhà cửa và
mất cả đất đai. Họ không phạm bất cứ một tội gì để chính quyền xem họ là
phạm nhân nhưng công an muốn săn đuổi, quát nạt hay cưỡng chế, đánh đập
lúc nào cũng được. Họ không phải là công nhân vệ sinh nhưng người ta
thấy không ít người thường xuyên nhặt nhạnh rác thải chung quanh vườn
hoa để tạm sống trong khi ở quê nhà họ chưa bao giờ làm công việc này.
Họ đến Hà Nội, tự chấp nhận vào Trại dân oan vì không còn nơi nào
khác họ có thể sống để theo đuổi việc khiếu kiện. Đất đai là nguyên nhân
chính, trong đó có người đã theo đuổi gần hai mươi năm và cho biết họ
sẽ theo tới chết. Chị Hương người An Giang cho biết: “Cuộc sống ở đây quá vất vả, người ta thì khác nhưng mấy người dân
oan này thì khổ dữ lắm không có gì để mà sống, ăn rau không chưa từng
thấy. Dân oan này khổ quá rồi, sáng rau muống chiều rau muống! Bởi vậy. Bây giờ cũng liều rồi. Bây giờ ai cũng khổ hết nằm vất vơ
vất vưởng ngoài công viên. Nằm đó lang thang đó. Ăn uống thì rau muống
chấm nước tương. Hùn nhau mua gạo về nấu. Tiền xe thì phải lo tiền đi
tiền về.
Đất đai, tín ngưỡng
Căn cước của công dân Trại dân oan là những tờ giấy được dán lại
thành khổ lớn trên ấy viết đủ thứ yêu cầu giải quyết đất đai bị trưng
thu. Khi mệt họ bày những tấm giấy ấy bên vệ đường như đang bán hàng
rong mà sản phẩm họ bày ra toàn những thứ đau lòng, rát ruột.
Hàng trăm người dân Hưng
Yên tập trung biểu tình trước trụ sở Quốc Hội ở Hà Nội hôm 27-4-2011,
phản đối chính quyền trưng thu đất đai xây dựng khu đô thị Ecopark.
Ngoài đất đai, việc bị bạc đãi, sách nhiễu vì niềm tin tôn giáo cũng
làm cho hàng trăm người dân tộc thiểu số của các tỉnh miền Bắc và Tây
nguyên kéo về Trại dân oan để góp thêm vào đó những tiếng kêu cứu giữa
lòng thủ đô Hà Nội.
Trong vài ngày qua hơn 100 người H’Mông tập trung về đây. Anh Sự, Một dân oan từ Bắc Kạn cho biết: “Tại vì chính quyền đến đàn áp bà con, đánh đập bà con tàn nhẫn
quá. Không cho bà con đổi mới là theo phong tục mới không cho bà con
chúng tôi có chỗ để ở nên bà con mới xuống đây kêu oan. Hiện tại thì có
108 người của bốn tỉnh về đây.”
Bà Lê Hiền Đức, người gần gũi với dân oan Tây nguyên kể: “Dân oan ở tỉnh Dak nông hiện nay họ không còn tiền để đi ra nữa.
Đất mất, tiền mất, nhà bị đốt. Người ta gọi là ba sạch: phá sạch, đốt
sạch và những người nào ra ngăn cản thì bắt sạch! Bây giờ dân khổ quá
rồi mà là dân tộc thiểu số M’ Nông.”
Chính quyền đối phó với Trại dân oan bằng nhiều cách. Bao vây bắt bớ
nhưng do không thể kết tội nên khi được thả họ lại quay về trại. Rào
chắn dày dặc chung quanh Mai Xuân Thưởng cũng không ngăn cản được những
con người đã vào bước đường cùng: họ kéo nhau sang một trại dân oan khác
có tên: vườn hoa Lý Tự Trọng.
Họ thường xuyên bị xua đuổi, nhất là những dịp lễ lạc. Nhiều nhất là
bị bốc lên xe chở về quê nếu gần Hà Nội, nếu xa thì bị chở sang trại
Đồng Dầu, Dục Tú, Đông Anh.
Trong khi tìm giải pháp mới để giải tán cư dân của Trại dân oan này,
chính quyền đành phải chọn hạ sách: cắt nước. Giải pháp cắt nước không
cho họ uống là cách chính quyền thực hiện hồi gần đây nhất, chị Ma Thị
Hường, từ Cao Bằng cùng với 108 người bốn tỉnh phía Bắc khác cho biết: “Em đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng thờ Đức Chúa Trời nhưng bọn em
không có đạo bởi vì người ta cho là thay đổi như thế là không có nguồn
gốc, làm như thế là phản động nên người ta không cho. Về vườn hoa này được 7 ngày rồi ở đây ăn uống rất là khổ sở. Người
ta thấy dân oan đi đông như vậy nên người ta còn cắt cả nước, không cho
uống nước rất là khát nước. Thậm chí ngày hôm kia bà con nhịn nước cả
ngày.”
Sống lang thang, chết âm thầm
Chúng tôi nói cho ngay nằm bờ nằm bụi,
chị em hùn nhau chỉ có 10 ngàn cũng xong. Nấu cơm luộc rau chấm nước mắm
hay nước tương. Cuộc sống tụi tôi rất là khổ.Tuy nhiên cũng được bà con
ở Hà Nội người ta âm thầm giúp đỡ.
-Trần Thị Ngọc Anh
Có sống thì có chết, trại tập trung nào trên khắp thế giới cũng thế.
Cụ Hà Thị Nhung, sinh năm 1937, cư ngụ tại thôn 6 xã Xuân Thành, huyện
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa khiếu kiện đất đai đã nhiều năm khi giành giật
một tấm biểu ngữ với công an đã ngã ra chết. Bà là nhân khẩu bị gạch sổ
đầu tiên của Trại dân oan Lý Tự Trọng.
Những ngày lễ tết thì sao? Khó thể tưởng tượng được rằng những con
người khốn khổ này lại chấp nhận “ăn” Tết trong cảnh màn trời chiếu đất
như vậy. Họ ngồi co ro trong giá rét của những ngày cuối đông trên chiếc
ghế công viên nhìn dân Hà Nội ăn Tết. Hình ảnh của họ đã ám ảnh rất
nhiều cư dân thủ đô và không ít người đã nhường cơm xẻ áo cho những
người tù không có số này.
Dân oan, họ tội gì?
Họ chẳng khác mấy với tù nhân tuy nhiên người tù nào cũng được thăm
nuôi trong khi đó công dân của Trại dân oan lại không có cái quyền này.
Người tốt bụng Hà Nội phải đợi đến nửa đêm khi công an không còn quanh
quẩn mới dám thăm nuôi những người mà họ không quen biết.
Chị Trần Thị Ngọc Anh, người dân oan có căn cước khiếu kiện gần hai mươi năm kể lại: “Chúng tôi nói cho ngay nằm bờ nằm bụi, chị em hùn nhau chỉ có 10
ngàn cũng xong. Nấu cơm luộc rau chấm nước mắm hay nước tương. Cuộc sống
tụi tôi rất là khổ.Tuy nhiên cũng được bà con ở Hà Nội người ta âm thầm
giúp đỡ cho một gói mì tôm hay là âm thầm nửa đêm vì người ta không dám
cho, tối 12 giờ người ta cho mỗi người một gói xôi, một cái bánh để
sáng ăn lót dạ, từ chỗ đó tụi tôi lay lắt sống qua ngày.”
Không bị còng tay, không phòng giam và không người quản giáo, tuy
nhiên họ không khác gì một tù nhân thứ thiệt vì ngồi trong công viên
không biết đi đâu, nhìn ra bên ngoài chỉ để mơ ước nguyện vọng của mình
được nhìn tới. Bao nhiêu năm kêu đòi công lý, ban đầu ước mơ được Thủ
tướng xem xét: thất vọng, lại ước mơ đến Quốc hội, lại tiếp tục thất
vọng. Mơ ước quay về quê với một lắng nghe tối thiểu không còn nữa trong
tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của những con người khốn khổ này.
Rất nhiều người lặng lẽ ngồi bên lề đường nhìn những con người như
mình sinh hoạt bình thường với gia đình mà không khỏi cay đắng khi tự
hỏi: họ có tội gì với nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam?
Chuyện dài ra đảng và đa đảng (phần 1 và phần 2)
Chuyện dài ra đảng và đa đảng (phần 1)
Nguyễn Minh Cần 2013-10-24
Hình ảnh Cải cách ruộng đất và Tòa án Nhân Dân của ĐCS Việt Nam, hầu
hết các người có ruộng đất đưa ra xử đều bị đánh đến chết. Ảnh tư liệu
====>>>
Gần đây, trong nước lại rộ lên những lời bàn tán về chuyện ra Đảng và chuyện đa đảng, nhất là sau khi bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của Luật gia Lê Hiếu Đằng và bài “Phá xiềng” của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được tung ra.
Người viết những dòng này hoan nghênh hai tác giả vừa nói trên đã
gióng lên lời kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra
khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-dân chủ. Đáng lẽ, lời
kêu gọi thức thời đó phải được tung ra từ rất lâu cơ! Nhưng chẳng sao
cả, chậm còn hơn không! Hãy can đảm xét lại…
Để đáp ứng lời kêu gọi thức thời đó của hai ông, thiết nghĩ các đảng
viên cộng sản có tư duy độc lập đang còn phân vân cần phải có gan “xét
lại” và nhận thức rõ thực trạng của hệ thống chính trị nước ta dưới sự
thống trị độc tôn của Đảng cộng sản Việt Nam để xác định cho mình một
thái độ dứt khoát với tinh thần trách nhiệm công dân cao.
Để các bạn hiểu rõ tôi hơn khi đọc những dòng trên, tôi xin thưa với
các bạn rằng, khi mới 18 tuổi, tôi đã gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương
(1946), và cũng đã từng vào sinh ra tử nhiều năm trong cuộc kháng chiến
chống Pháp và từng gánh vác nhiều trách nhiệm quan trọng trong Đảng… Đến
khi có những ý kiến bất đồng với ban lãnh đạo Đảng hồi cuối những năm
50 đầu những năm 60, tôi cùng với một số cán bộ cao cấp và trung cấp của
Đảng bị quy “tội” “xét lại – chống Đảng”. Khi bị truy bức mạnh thì tôi
đã rời bỏ Đảng cộng sản (ĐCS) vào lúc 36 tuổi (1964) lúc đang ở nước
ngoài.
Suy cho cùng, cái “tội” mà các vị lãnh đạo ĐCS hồi đó đã quy, không
biết những người khác nhận thức thế nào, còn đối với riêng tôi thì tôi
cho là đúng! Tôi không phủ nhận! Đúng là tôi đã phạm “tội” “xét lại”!
Chắc nhiều bạn đã sống cái thời cực kỳ ác liệt những năm 50, 60 thế kỷ
trước đều biết cái “tội” “xét lại” hồi đó là đáng sợ lắm, vì Đảng coi
“tội” ấy ngang với tội “phản động”, “phản đảng”, “phản quốc”! Thời đó
các vị lãnh đạo đánh đồng (và đánh tráo) Đảng với Tổ quốc. Tôi nhận
“tội” “xét lại”, nhưng quyết không nhận “tội” “phản quốc”, bởi lẽ tôi
“xét lại” và phát biểu ý kiến với Đảng vì tôi yêu nước, thương dân, vì
tôi không muốn Đảng đưa Đất nước và Nhân dân vào những thảm họa.
Làm sao mà không “xét lại” được, khi chính mắt mình thấy hằng trăm,
hằng nghìn người dân ở nông thôn bị bắn giết oan uổng trong cải cách
ruộng đất? khi thấy hàng nghìn gia đình bị điêu đứng trong cuộc cải tạo
công thương nghiệp và thủ công nghiệp ở thành phố? khi thấy cả xã hội bị
nghẹt thở vì chính sách quản lý hộ khẩu ngặt nghèo, vì các quyền công
dân, quyền con người, các quyền tự do dân chủ bị xóa bỏ? Vậy thì tôi đã
“xét lại” gì? Tôi “xét lại” đường lối của Đảng, nhưng trước hết, tôi
“xét lại” chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa
Mao Trạch Đông mà Đảng dùng “làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động”. Cuối cùng, tôi đã phủ nhận những thứ đó. Vì, sau khi đã
kiểm nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước Việt Nam, cũng như kiểm
nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước đã khai sinh ra phong trào
cộng sản quốc tế là Liên Xô, sau khi đã nghiên cứu kỹ càng về mặt lý
luận những thứ chủ nghĩa đó, tôi nhận thức sâu sắc rằng những chủ nghĩa
đó rất sai lầm và rất nguy hại cho các dân tộc đã áp dụng chúng, kể cả
cho dân tộc Việt Nam, và cho toàn nhân loại. Tôi nghĩ rằng, không phải
ngẫu nhiên mà Nghị viện châu Âu đã ra Nghị quyết 1481 (2006) lên án chủ
nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài
người.
Nhà báo Hồ Ngọc Nhuận
Nói cụ thể hơn: cú đẩy đầu tiên làm tôi phân vân về đường lối của
Đảng là những sai lầm nghiêm trọng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền
Bắc (1953-1956) và thái độ quanh co, giả dối của các lãnh tụ của Đảng
trước những sai lầm đó. Còn cú đẩy mạnh nhất là “Nghị quyết 9” (tháng 12
năm 1963) đánh dấu một bước ngoặt căn bản của Đảng cộng sản Việt Nam:
đi theo con đường của Đảng cộng sản Trung Quốc,1 tức là đi
theo con đường của chủ nghĩa Mao, một thứ chủ nghĩa phiêu lưu vô cùng
nguy hại. Từ đó, tôi thấy phải “xét lại” con đường của ĐCSVN, kể từ việc
Đảng đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội” đến việc ban lãnh đạo Đảng phát động cuộc chiến tranh Bắc Nam
hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Tôi cũng không phủ nhận cái “tội” “chống Đảng”, vì khi tôi nghiệm
thấy những việc làm thực tế của các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (khi
tôi sống ở Việt Nam) và của các lãnh tụ Đảng cộng sản Liên Xô (khi tôi
sống ở Nga) thì tôi thấy chế độ chính trị mà các ĐCS đã xây dựng lên để
thống trị người dân ở Liên Xô, ở Việt Nam, ở một số nước châu Âu, châu
Á, châu Mỹ đều là những chế độ độc tài toàn trị bóp nghẹt mọi quyền tự
do của người dân, mọi quyền con người, kìm hãm sự phát triển của xã hội
và tạo ra mọi tệ nạn xã hội trầm trọng, như sự dối trá, lừa bịp có hệ
thống, nạn tham nhũng tràn lan, v.v… vì thế tôi nhận thức rằng cần phải
chống những đảng độc tài toàn trị như thế để bênh vực cho người dân.
Và số phận dun dủi tôi là một người Việt Nam đã tham gia hai cuộc
Cách mạng Tháng Tám trong đời mình: cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945)
ở Việt Nam lúc tôi mới 17 tuổi, vì ngây thơ về chính trị tôi đã vô ý
thức đưa Đảng cộng sản Việt Nam lên nắm chính quyền thống trị Đất nước,
và cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1991) ở Nga lúc tôi đã 63 tuổi và là
thành viên của tổ chức “Nước Nga Dân chủ”, vì hồi đó tôi nhận thức rõ
phải đấu tranh chống lại và hạ bệ Đảng cộng sản Liên Xô xuống để dân Nga
và các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết được tự do và tiến theo con
đường dân chủ. Hành động đó của tôi rõ ràng là chống ĐCS nhưng tôi không
hề cho rằng đó là một “tội”, mà đó là một việc làm chính đáng của một
người trung thực có ý thức và thức thời.
Tôi phải kể rõ ràng như vậy để các đảng viên cộng sản còn ở trong
Đảng thấy rằng có lắm khi việc “xét lại” dù rất khó khăn nhưng lại là
rất cần thiết. Nhận thức của con người là một quá trình liên tục, có khi
phải đấu tranh, dằn vặt rất gian khổ, phải kiểm nghiệm, lật đi lật lại
nhận thức cũ của mình, vì chân lý không phải một lúc mà ta đã nhận thức
được ngay. Nên đừng e ngại khi thấy cần phải “xét lại” những điều trước
đây mình đã tưởng nhầm là chân lý, là lý tưởng. Viết đến đây, chúng tôi
xin phép dẫn ra một câu rất sâu sắc của Vaclav Havel, nhà văn, nhà soạn
kịch và chiến sĩ dân chủ Czechoslovakia: “Chúng ta sống trong những điều kiện ép buộc con người vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng”2.
Đúng như thế, ngày nay, rất nhiều đảng viên ở nhiều ĐCS trên thế giới
sau khi “xét lại” và nhận thức rõ sự lầm lạc của mình cũng đã “vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng” và
từ bỏ ĐCS. Tôi tin rằng trong số đó không ít người đã phải trải qua
những dằn vặt đau đớn giống như tôi. Thế mà họ đã dứt khoát. Vì thế, ở
nhiều nước, trước đây ĐCS đông đảo có đến hàng triệu đảng viên nay đã
teo lại như “miếng da lừa”, thậm chí ở nhiều nước không còn ĐCS nữa. Đó
là một thực tế cần phải thấy!
Luật gia Lê Hiếu Đằng
Tôi nghĩ răng rằng, thời điểm này hơn lúc nào hết – khi ĐCSVN đã hoàn
toàn biến chất, đang bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tư tưởng, về
đường lối, về cán bộ, khi tổ chức của Đảng – nhất là ở thượng tầng –
chia rẽ nặng nề, đấu đá nhau vì quyền lợi; khi ĐCS đã đưa Đất nước vào
cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo
dục, y tế, đạo đức, vào tình trạng xã hội vô cùng tồi tệ – thì chính lúc
này, những người cộng sản trung thực còn ở lại trong ĐCSVN hãy nên nghe
lời kêu gọi thức thời của hai đảng viên CS kỳ cựu Lê Hiếu Đằng và Hồ
Ngọc Nhuận, mà can đảm “xét lại” và quyết định một thái độ rõ ràng, dứt
khoát, đầy trách nhiệm công dân. Trước tình trạng Đất nước ngày nay, lẽ
nào những con người có lương tri lại có thể thờ ơ, vô cảm? Thực chất của chế độ hiện nay
Những điều tôi sẽ trình bày sau đây về thực chất cái chế độ mà ĐCSVN
đã dựng lên trên Đất nước ta là một chế độ độc tài toàn trị CS cực kỳ
khắc nghiệt, có thể nhiều bạn đã biết mà không dám nói ra, nhưng tôi xin
phép được nói một lần nữa, đặc biệt cho thế hệ trẻ chưa từng trải lắm
được thấu rõ.
Mọi người trung thực đều biết: ngay sau khi ĐCSVN cướp được chính
quyền hồi tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS
khác liền bắt tay xây dựng chế độ toàn trị (totalitarisme), trong đó ĐCS
“độc quyền lãnh đạo” (từ ngữ của Lenin – hegemonia), tức là quyền lực
của ĐCS độc tôn thống trị đất nước và dân tộc. Nhưng hồi đó, thế và lực
của ĐCS còn yếu, nên các lãnh tụ CS phải dùng những thủ đoạn khéo léo
che giấu cái chất CS của chế độ. Thậm chí có lúc họ còn giả vờ giải tán
ĐCS (11/1946) và cho ra đời hai đảng “bỏ túi” là Đảng Dân chủ và Đảng Xã
hội để làm cảnh, hòng đánh lừa dư luận trong nước và thế giới. Họ đặt
tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và có khi phải lập “Chính phủ
liên hiệp”, mời những quan chức, vài đại biểu các đảng khác, vài nhân sĩ
có uy tín dưới chế độ cũ đứng đầu các bộ quan trọng trong chính phủ
(như nội vụ, ngoại giao, văn hóa…), nhưng những vị này chỉ “làm vì”
chẳng có quyền hành thực tế, mà mọi thực quyền đều nằm trong tay các cán
bộ CS.
Trái hẳn với những lời kêu gọi tốt đẹp của Hồ Chí Minh về đoàn kết
dân tộc, ngay từ khi mới lên cầm quyền, các lãnh tụ CS đã cho thủ tiêu
bí mật nhiều lãnh tụ các đảng yêu nước không CS (như Quốc Dân Đảng, Đảng
Đại Việt, v.v…), ngay cả những lãnh tụ đảng cùng ý thức hệ với họ,
nhưng không CS (những người trốt-skít) cũng bị giết. Nhiều vị trong hàng
giáo phẩm cao cấp, các chức sắc của các tôn giáo bị cô lập, bị bắt đi
tù, bị ám hại (như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ…). Ở các địa phương, nhiều
người người đã làm việc dưới chế độ cũ bị thủ tiêu hoặc bị tù đày dài
hạn không xét xử.
Song song với việc xóa bỏ các hội đoàn đã có từ trước, như tổ chức
hướng đạo, các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, các tổ chức tôn giáo, các
hội từ thiện… ĐCS ra sức phát triển các tổ chức quần chúng của họ trong
mọi giới, công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi
đồng… Do vậy, trong một thời gian ngắn, ĐCS đã nắm được toàn bộ xã hội
VN trong tay, loại trừ được các đảng phái và tổ chức có thể cạnh tranh
quyền lực với họ.
Một người bán hàng rong trên đường phố Hà Nội. AFP
Đến khi cuộc kháng chiến bắt đầu, cơ quan đầu não của ĐCS phải rút
lên chiến khu, thì ở các vùng gọi là “tự do” (như một số tỉnh ở Khu Bốn,
Khu Năm, các vùng chưa bị Pháp chiếm ở những nơi khác), các lãnh tụ CS
càng siết chặt chế độ toàn trị của họ. Ở các vùng đó, mọi quyền tự do
của dân chúng bị xóa bỏ, lấy lý do vì đang trong thời chiến.
Đến năm 1949, khi ĐCS Trung Quốc nắm được chính quyền trên toàn Hoa
lục, các lãnh tụ CSVN có được “chỗ dựa vững chắc như dãy Hy-mã-lạp-sơn”
(lời ông Trường Chinh, Tổng bí thư ĐCS hồi đó). Và đúng như vậy, dựa vào
sự ủng hộ to lớn về mọi mặt của ĐCSTQ, nhất là về mặt quân sự, Trung
Cộng đã giúp ĐCSVN giành được thắng lợi trên nhiều chiến dịch, bắt đầu
từ chiến dịch Biên giới (1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
dẫn đến việc ký Hiệp định Genève chia nước VN thành hai miền: Bắc và
Nam.
Tiếp nhận miền Bắc, thế và lực của ĐCS đã mạnh hơn nhờ sự giúp đỡ của
Liên Xô và Trung Cộng, ĐCSVN công khai ra mắt dân chúng khoác cái tên
mới là Đảng Lao động VN (1951), công nhiên tuyên bố xây dựng chủ nghĩa
xã hội và thực hiện cái họ gọi là “chuyên chính dân chủ nhân dân” mà
thực chất là chuyên chính vô sản. Ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ CS khác
càng siết chặt hơn nữa sự kiểm soát toàn diện cuộc sống của dân chúng,
từ kinh tế, đi lại, lao động cho đến tư tưởng, tín ngưỡng. Rập theo
khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Cộng, trong thời kỳ này ĐCSVN đã thực
hiện chế độ quản lý hộ khẩu rất ngặt nghèo, làm các cuộc “chỉnh huấn”,
“phóng tay phát động cải cách ruộng đất” và dựng lên “vụ án Nhân Văn
Giai Phẩm”, “vụ án Xét Lại Chống Đảng”… để đàn áp giới trí thức dân chủ
trong và ngoài Đảng, gieo rắc sự khiếp sợ trong dân chúng, đè bẹp mọi ý
hướng không đồng tình với ĐCS. Trong thời kỳ này, các quyền tự do dân
chủ và quyền con người bị chà đạp vô cùng tàn bạo, nhiều trí thức, sinh
viên, cán bộ, đảng viên bị cầm tù lâu dài và hàng chục ngàn người dưới
chế độ cũ bị bắt nhốt vào các “trại cải tạo” theo nghị quyết 49/NQ/TVQH
(20/06/1961) của Thường vụ Quốc hội do ông Trường Chinh ký.
Dựa vào sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Cộng, các lãnh tụ CSVN
đã tiến hành cuộc chiến tranh Bắc Nam dưới chiêu bài “giải phóng miền
Nam”. Biết bao xương máu của quân và dân cả hai miền Bắc và Nam đã đổ
ra! Biết bao nhiêu triệu thanh niên, nam nữ của cả hai miền Bắc và Nam
đã chết tức tưởi trong cuộc chiến tranh huynh đệ này! Đến khi chiếm được
miền Nam và xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng hòa, các lãnh tụ CS liền công
nhiên đặt cả nước dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCS; đưa khoảng 200
ngàn quân nhân và viên chức dưới chế độ cũ vào tù, có tên là “trại cải
tạo”; ngang nhiên “luật hóa” độc quyền ĐCS thống trị đất nước bằng điều 4
Hiến pháp (1980); công nhiên tuyên bố “đi theo con đường Cách mạng
tháng Mười Nga”; tuyên bố “nắm vững chuyên chính vô sản” để xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong cả nước; công khai lấy lại tên ĐCSVN; còn tên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì bị xóa bỏ mà đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Hai “đảng anh em” Dân chủ và Xã hội bị xóa sổ ngay và
chế độ chính trị hiển nhiên trở thành “độc đảng” tuyệt đối (còn trước
đây cũng là “độc đảng” nhưng có che đậy bằng “chiếc lá nho” hai “đảng
anh em”).
Kể từ năm 1930, các lãnh tụ CS luôn luôn dùng khẩu hiệu “người cày có
ruộng” để lừa mị, lôi kéo nông dân theo ĐCS thì đến năm 1980, họ đưa ra
Hiến pháp mới với điều 17 (trong Hiến pháp tiếp sau là điều 19) xóa bỏ
quyền tư hữu đất đai của người dân và tuyên bố tất cả ruộng đất chuyển
thành cái gọi là “sở hữu toàn dân”, thực tế là tước đoạt toàn bộ ruộng
đất của người dân, chủ yếu là của nông dân, biến thành sở hữu của ĐCS để
cho cán bộ CS tha hồ thao túng. Đến lúc này thì Tổng bí thư ĐCS nghiễm
nhiên đóng vai nguyên thủ quốc gia dù vẫn còn ngôi vị Chủ tịch nước; các
chỉ thị, nghị quyết của ĐCS có hiệu lực như các đạo luật; còn Quốc hội
do “Đảng cử dân bầu” và các cơ quan nhà nước chỉ là bù nhìn của ĐCS,
bình phong che đậy chế độ chuyên chế.
Tóm lại, chế độ độc tài toàn trị mà ĐCSVN dựng lên đã 68 năm nay là
một cơ chế chính trị bao trùm tất cả và thâm nhập vào mọi mặt hoạt động
của xã hội, nó cho phép các lãnh tụ CS quản lý và can thiệp sâu vào đời
sống của công dân. Dưới chế độ này, người dân hoàn toàn bị mất quyền tự
do, bị nô dịch hóa một cách rất tinh vi, ngay cả suy nghĩ, phát biểu ý
kiến, và đời sống nội tâm cũng phải theo chỉ đạo của ĐCS. Trong nước,
chỉ có một giai cấp được hưởng tự do và toàn quyền thâu tóm các quyền
lợi, đó là tầng lớp các quan chức CS. Bản thân họ và gia đình họ nghiễm
nhiên trở thành những nhà tư bản đỏ, những tỷ phú, những địa chủ cường
hào như thời xưa. Họ thật sự là giai cấp thống trị trong xã hội.Trong
bài “Nghịch lý” Thái Bình – “Nghịch lý’” Việt Nam” viết ngày
15/5/1998 nhân dịp kỷ niệm lần thứ nhất cuộc nổi dậy của nông dân Thái
Bình, chúng tôi đã đi đến kết luận: “…Những ‘nghịch lý’ đó nói lên điều
gì? Chúng nói lên rằng: cuộc cách mạng nhân dân đã bị phản bội và đại chúng tham gia cuộc cách mạng đó đã bị phản bội.”… “Chính tập đoàn thống trị cùng với giai cấp quan liêu cầm quyền này đã phản bội cuộc cách mạng nhân dân..
Chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã đem lại vô vàn hậu quả cực kỳ thảm
khốc cho đất nước và nhân dân ta: hàng trăm lãnh tụ và cán bộ chủ chốt
của các đảng yêu nước không CS đã bị giết hại, trên 172 ngàn người đã là
nạn nhân oan uổng trong cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu ở miền Bắc,
khoảng 5-6 triệu quân nhân và thường dân của cả hai miền đã bỏ mạng
trong cuộc chiến tranh Bắc-Nam, hàng trăm ngàn người bị rục xác trong
ngục tù CS, tình trạng chia rẽ, hận thù trong dân chúng vô cùng trầm
trọng… Do đường lối, chính sách “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà ĐCS đã
tàn phá nền kinh tế của đất nước, đẩy lùi nền văn hóa, giáo dục của dân
tộc, làm cho nước ta bị lạc hậu gấp nhiều lần so với các nước láng giềng
mà trước năm 1945 trình độ phát triển còn thấp hơn nước ta. Chế độ độc
tài toàn trị đã tạo nên một xã hội đầy bất công, đầy tham nhũng, đầy tội
ác; đạo đức con người băng hoại nặng nề không tưởng tượng nổi. Đặc biệt
cần nói thêm, chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã tạo nên một lớp người
khiếp sợ, khuất phục cường quyền, vô cảm, ích kỷ và… độc ác.
Một hậu quả cực kỳ nguy hiểm nữa mà chế độ độc tài toàn trị do tập
đoàn cầm quyền CSVN đã gây ra cho đất nước và dân tộc ta là: do “chịu ơn
sâu nặng” ĐCSTQ ngay từ thời những năm 1930, ông Hồ Chí Minh cùng các
lãnh tụ CS đã mù quáng, không thấy rõ mưu đồ của Trung Cộng muốn xâm
chiếm nước ta, nên có một thời gian dài họ đã mê muội thuần phục Mao
Trạch Đông và các lãnh tụ Trung Cộng, đến nỗi để Trung Cộng lấn dần lãnh
thổ của Tổ quốc ta, và thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có công hàm
(14.09.1958) “ghi nhận và tán thành” Công bố của Chính phủ Trung Quốc
ngày 04.09.1958, thực tế là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gián
tiếp phủ nhận chủ quyền của ta trên quần đảo Hoàng Sa! Còn khi Liên Xô
và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị sụp đổ thảm hại, lãnh đạo ĐCSVN
đã vội vã bay đến Thành Đô (09.1990) để quỵ luỵ tìm chỗ dựa mới, hòng
cứu ĐCS, cứu chế độ toàn trị của Đảng, mặc dù cách đấy không lâu, hồi
năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn phá
nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam và lấn chiếm lãnh thổ của ta ở gần biên
giới.
Từ đó, tập đoàn cầm quyền VN từng bước nhân nhượng TQ về lãnh thổ và
lãnh hải nước ta (Hiệp ước về biên giới trên đất liền 30.12,1999, Hiệp
ước phân định lãnh hải 25,12.2000), tự nguyện quàng vào cổ dây thòng
lọng “16 chữ vàng” và “4 tốt” để bè lũ Trung Cộng thực hiện cuộc xâm
lăng “mềm”: Nhà cầm quyền VN đã để các đoàn lao động TQ xâm nhập sâu vào
các nơi hiểm yếu trong nội địa nước ta, cho thuê dài hạn rừng vùng biên
giới, để kinh tế TQ tràn ngập thị trường VN, văn hóa TQ tràn ngập đất
nước bằng phim ảnh, sách báo, các trường dạy Hoa ngữ, v.v… tạo ra nguy
cơ mất nước rất hiển nhiên. Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến
chầu Thiên triều đỏ, một bản Tuyên bố chung và 10 văn kiện quan trọng đã
được ký chóng vánh trong một ngày 21.06.2013. Đây là sự khuất phục toàn
diện vô cùng nhục nhã của tập đoàn thống trị CSVN trước kẻ thù của Dân
tộc là bọn “đại bá” Trung Cộng.
Trước hiểm họa mất nước, các công dân yêu nước đã đứng lên đấu tranh
chống lại kẻ xâm lược thì lại bị ĐCS đàn áp rất tàn bạo, nhiều người bị
tống vào tù ngục. Như vậy, trước mắt người dân VN, tập đoàn thống trị
CSVN đã hiện nguyên hình là những tên “thái thú” của Trung Cộng. Có thể
kết luận rằng chừng nào còn tồn tại chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN
thì hiểm họa mất Tổ quốc, mất Dân tộc vẫn còn tồn tại.
Các đảng viên cộng sản trung thực có tư duy độc lập cần sớm “xét lại”
để tỉnh thức mà nhận rõ chế độ độc tài đảng trị của ĐCS áp đặt cho Dân
tộc ta đã trên 68 năm. Phải nhận rõ ĐCSVN đã và đang là khối u ác tính
trên thân thể Dân tộc ta, đang là trở lực lớn nhất trên con đường tiến
lên của xã hội Việt Nam, của Dân tộc Việt Nam, đã và đang là trở lực lớn
nhất cho cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Đất nước, gìn giữ non
sông yêu quý. Cần nhận rõ như vậy để tự mình xác định dứt khoát thái độ
của một công dân yêu nước, thương dân. Chia tay đau đớn nhưng…
Vẫn biết rằng mọi cuộc chia tay thường là đau buồn, khó khăn, bịn
rịn. Điều này, đối với cá nhân tôi và hai người bạn cùng cảnh ngộ là
Thượng tá Đỗ Văn Doãn, nguyên Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân và Đại
tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó Chính ủy Quân khu III thì lại càng thấm
thía. Cuộc chia taycủa chúng tôi với ĐCS hồi năm 1964 thật là vô cùng
đau đớn, vì, đối với chúng tôi, cuộc chia tay đó lại gắn liền với việc
chia lìa vợ con mà chúng tôi rất yêu quý, chia lìa bà con, họ hàng, xa
lìa Tổ quốc, quê hương! Biết bao đêm thao thức, nghĩ suy… Biết bao lần
chúng tôi đã bàn đi tính lại với nhau, trao đổi ý kiến với các bạn cùng
tư tưởng, như anh Trần Minh Việt, cựu phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, anh
Nguyễn Kiến Giang, cựu phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật… Những người
bạn này khi về nước thì bị bắt vào tù giam giữ nhiều năm, khi thả ra anh
Minh Việt kiệt sức qua đời, còn anh Kiến Giang thì sống vất vưởng trong
vòng kiềm tỏa ngặt nghèo cho đến nay.
Nhiều bạn bè đã khuyên chúng tôi: thôi cứ “đánh bài” “ngậm miệng qua
thời”, cứ “hoan hô sự anh minh của Đảng”, “chúc tụng muôn năm lãnh tụ”
cho xong chuyện để được gần vợ gần con, giữ lấy cái chức vụ đã có, v.v…
Chúng tôi không nghe, quyết tâm ở lại và rời bỏ Đảng mà chúng tôi đã
phục vụ 20 năm trời. Chúng tôi ở lại nước ngoài chẳng phải để hưởng thụ,
nằm im… Nhưng những điều dự định làm thì… than ôi, mấy tháng sau, một
cuộc đảo chính cung đình (1964) nổ ra đã thay đổi người lãnh đạo tối cao
của nước bạn… Thế là mọi dự định tan thành mây khói! Khoảng 40 anh chị
em sinh viên, nghiên cứu sinh hồi đó không về nước, rất thất vọng… cuối
cùng, kẻ trước người sau, nhiều người rồi cũng lần lượt hồi hương. Văn
Doãn, người bạn thân của tôi, chán nản nhảy từ tầng lầu 6 đập đầu xuống
lề đường tự tử! Tôi đau đớn vô cùng, có lúc gần như điên loạn, một thời
gian lâu mới trấn tĩnh được để lao vào những việc làm có ích: tôi say mê
nghiên cứu, sinh hoạt tâm linh, bắt tay vào việc biên soạn từ điển,
v.v… Đấy, tôi kể lại chuyện đời mình để thấy sự chia tay với Đảng thật
là đau đớn, nó kéo theo nhiều thiệt thòi cho gia đình, cho anh em, cho
bà con, bạn bè…
Nhưng, phải nói thật lòng rằng khi tâm hồn tôi đã bình tĩnh lại, nghĩ
cho cùng, việc rời bỏ ĐCS đã đem lại cho tôi nhiều điều tốt.
Trước hết, tôi hoàn toàn được tự do về mặt tư tưởng và tinh thần, tôi
thật sự làm chủ cái đầu, cái lưỡi và cây bút của tôi. Đó là điều sung
sướng nhất đối với tôi! Tuy rằng với cái thẻ cư trú của một người tị nạn
chính trị ở Liên Xô, tôi không được hoàn toàn có tự do về những mặt
khác, chẳng hạn về việc đi lại: cũng như các công dân bình thường khác
của Liên Xô hồi đó, tôi không được đi ra nước ngoài… Nhưng tự do tư
tưởng và tinh thần, tự do nghiên cứu, viết lách đối với tôi là điều quý
nhất.
Thứ hai, nếu tôi không thoát ly khỏi ĐCS mà ngoan ngoãn trở về nước
thì rất có thể tôi phải chịu số phận bi thảm của các anh Trần Minh Việt,
Nguyễn Kiến Giang và biết bao nhiêu cán bộ cao cấp, trung cấp khác,
người thì bị chết trong tù, người sắp chết trong tù thì người ta vội vã
đưa về nhà… chết, người thì âm thầm chết khi bị giam tại gia…
Thứ ba, tôi không phải trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn, mà vì phản đối nó, tôi bị quy “tội” “xét
lại-chống Đảng”.Cứ mỗi lần nghĩ đến điều này, tôi thấy lòng mình thật
nhẹ nhõm vì đã giữ lập trường đúng và đã dám nói lên sự không đồng tình
của mình với Đảng.4
Chỉ có một điều đau đớn day dứt trong lòng là vì tôi thoát ly khỏi
Đảng mà vợ con tôi phải chịu biết bao điều khổ cực, biết bao nỗi oan
trái do chính sách kỳ thị bất công của Đảng; các anh, các chị và các
cháu tôi cũng bị vạ lây… Còn việc bộ máy tuyên huấn của Đảng ra sức vu
khống, đặt lắm điều nói xấu tôi và các bạn tôi thì tôi chẳng bận tâm.
Cho đến gần đây, báo của Đảng vẫn không ngừng nói xấu tôi. Tôi chẳng để
ý, chỉ khi đọc bài của một blogger mà tôi chẳng hề quen đăng trên Đối
Thoại phản bác lại tờ báo ấy thì tôi mới biết.5
Tôi kể cụ thể những điều trên để anh chị em đảng viên cộng sản – già
cũng như trẻ – còn đang phân vân, hiểu rằng, hơn ai hết, là người “đã
qua cầu”, tôi rất thông cảm các bạn. Sự ngập ngừng, do dự của các bạn là
rất dễ hiểu. Nhưng, chắc chắn là các bạn sẽ không phải chịu những đau
đớn ê chề như chúng tôi. Còn khi các bạn đã dám làm một bước quyết định
là ra khỏi cái Đảng độc tài, thối nát, tham nhũng hiện nay rồi thì các
bạn sẽ thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường, “vòng kim cô”
trên đầu bạn đã biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân
trời mới để các bạn có thể cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho những
công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc, hơn là vẫn phải cúi đầu tiếp
tục phục vụ cho tập đoàn thống trị mafia hóa, đội lốt CS, độc tài, tham
nhũng./.
Ngày 26/8/2013
Tại hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp ở hội trường Ba Đình hồi
tháng 1 năm 1964, ông Trường Chinh đã nói: “Cần đặc biệt lưu ý rằng thực
chất của nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là: Đường
lối đối ngoại và đối nội của Đảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ
bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng cộng sản và Nhà nước
Trung Quốc”.
Vaclav Havel trả lời phỏng vấn của Michael Bongiovanni, Mai Việt Tú dịch, bài đăng trên Dân Luận.
Bài này được viết ngày 15/5/1998, đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21 và in trong sách “Chuyện Nước Non” của Nguyễn Minh Cần, NXB Văn Nghệ, Westminster, CA, 1999.
Tôi tin chắc rằng đến bây giờ Trung Ương Đảng vẫn còn lưu giữ hồ sơ
của Nguyễn Minh Cần, trong đó có bức thư tôi gửi cho Bộ Chính trị khi
tôi ở lại Liên Xô, trong thư nói rõ: tôi không đồng tình với việc các vị
lãnh đạo Đảng phát động chiến tranh “giải phóng miền Nam”, vì điều đó
trái với Nghị quyết Đại hội III (1960) của Đảng mà tôi là một đại biểu
của Đại hội đó. Tôi cũng nhắc lại Nghị quyết Đại hội III đã ghi rõ: Đảng
chủ trương “hòa bình thống nhất đất nước”.
Bài viết của blogger Y Giáo đăng trên Đối Thoại ngày chủ nhật 03.02.2013 với tựa đề “Báo Quân Đội Nhân Dân đã nói sai sự thật về ông Nguyễn Minh Cần như thế nào?”
Pano tuyên truyền cho ngày thành lập ĐCSVN tại Hà Nội được chụp hôm 27/2/2013 AFP photo
Khi kêu gọi các đảng viên cộng sản “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng”,
hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận có nêu vấn đề “thành lập Đảng dân
chủ-xã hội”, nên chúng tôi muốn nói rõ thêm về chủ nghĩa xã hội-dân chủ.
Chủ nghĩa xã hội – dân chủ
Trước hết, xin nói về từ ngữ. Theo tôi, từ ngữ “xã hội-dân chủ” phản
ánh đúng thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ hơn là từ ngữ “dân
chủ-xã hội”. Vì sao? Vì cơ sở tư tưởng của phong trào “xã hội-dân chủ”
là học thuyết về chủ nghĩa xã hội, mà thứ chủ nghĩa xã hội đó là chủ
nghĩa xã hội dân chủ; nó khác hẳn thứ chủ nghĩa xã hội chuyên chính vô
sản, chủ nghĩa xã hội độc tài, tức là thứ chủ nghĩa xã hội của người
cộng sản.
Từ ngữ chủ nghĩa xã hội-dân chủ lần đầu tiên được nhà văn Anh Bernard
Shaw dùng năm 1888. Sau này, tại Đại hội thành lập Quốc tế Xã hội chủ
nghĩa (gọi tắt là Quốc tế Xã hội – SI) tại Frankfurt năm 1951, từ ngữ
này đã được chính thức sử dụng. Qua những bước thăng trầm, ngày nay Quốc
tế Xã hội đã lớn mạnh, đến năm 1999 đã có 143 đảng gia nhập. Những
người cộng sản nước ta biết đến chủ nghĩa xã hội-dân chủ và các Đảng Xã
hội-Dân chủ, chủ yếu qua những bài mạt sát thậm tệ của Lenin, Stalin và
những người CS khác… đối với các lãnh tụ của phong trào này, như
Ferdinand Lassalle, Karl Kautsky, Eduard Bernstein, v.v…. Các đảng viên
CSVN vì bị bưng bít trên 70 năm trời, chỉ được nghe duy nhất một tiếng
nói của Lenin, Stalin… không hề được tiếp cận các nguồn tư liệu khác,
nên thường có lắm điều ngộ nhận.
Các Đảng Xã hội-Dân chủ châu Âu phần nhiều chịu ảnh hưởng của
Ferdinand Lassalle (1825–1864), người sáng lập ra Đảng Xã hội-Dân chủ
Đức hồi năm 1863 và là chủ tịch đầu tiên của đảng. Mãi 26 năm sau khi
Đảng Xã hội-Dân chủ Đức ra đời, Friedrich Engels và một số người khác
mới thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, còn gọi là Quốc tế II. Quốc tế
này thu hút các Đảng Xã hội chủ nghĩa, trong đó có Đảng Xã hội-Dân chủ
Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong hàng ngũ Quốc tế II
có nhiều phái khác nhau, trái nhau về quan điểm và đường lối. Đến năm
1914 vì không thống nhất được với nhau về chiến lược cũng như phương
thức đấu tranh nên Quốc tế II phải giải tán.
Trong phong trào xã hội-dân chủ có một phái nhỏ những người theo chủ
nghĩa Marx, chủ trương cách mạng bạo lực giành chính quyền, đập tan bộ
máy nhà nước cũ, thiết lập chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đó là Vladimir Lenin, Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht… Về sau những
người này tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Lenin và những người CS căm
ghét các lãnh tụ và đảng viên các Đảng Xã hội-Dân chủ, mạt sát họ tàn
tệ, còn khi nắm được chính quyền ở Nga thì thẳng tay đàn áp, thậm chí
tiêu diệt họ về thể xác.
Các phái khác trong phong trào xã hội-dân chủ thì ôn hòa hơn, họ chủ
trương xét lại chủ nghĩa Marx, từ bỏ con đường bạo lực cách mạng, phủ
nhận chuyên chính vô sản, v.v… như Karl Kautsky, Eduard Bernstein,
Rudolf Hilferding, Friedrich Adler… Những người này chú trọng công bằng
xã hội, chủ trương quốc hữu hóa những xí nghiệp quan trọng về chiến
lược, nhà nước can thiệp vào kinh tế, đối tác xã hội giữa những người
lao động và những người thuê nhân công, xây dựng một xã hội dân chủ đa
nguyên về tư tưởng, đa đảng về chính trị, dựa vào những nguyên tắc tự do
và tình huynh đệ, bảo đảm triệt để quyền con người, bảo vệ quyền lợi
của tất cả mọi người lao động – không chỉ giai cấp công nhân, mà cả giới
trí thức, nông dân, các trại chủ và tầng lớp trung gian, kể cả các
doanh nhân nhỏ và vừa. Họ cho rằng điều kiện quan trọng nhất để xác lập
chủ nghĩa xã hội đúng thực chất là thực hiện nền dân chủ chân chính
trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội.
Dân chủ chính trị phải bảo đảm cho người dân mọi quyền và quyền tự do
của công dân, bảo đảm tính đa đảng, chế độ nghị trường, quyền phổ thông
bầu cử, thượng tôn luật pháp và sự tham gia thực sự của người dân vào
việc điều hành công việc xã hội.
Luật gia Lê Hiếu Đằng, ảnh chụp trước đây.
Dân chủ kinh tế nhằm chống lại sự tập trung quyền lực kinh tế vào tay
một thiểu số, để mỗi người đều có thể ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
và phân phối. Vì thế dân chủ kinh tế phải nhằm xây dựng một hệ thống
kinh tế đảm bảo được việc sử dụng nguồn tài nguyên xã hội cho lợi ích
của mọi người. Theo quan niệm của những người xã hội-dân chủ, quyền lực
kinh tế trong xã hội không thuộc những người nắm phương tiện sản xuất,
mà thuộc về những người điều hành chúng. Vì vậy áp dụng dân chủ kinh tế
phải được bảo đảm không phải bằng việc tước đoạt sở hữu của những người
chủ xí nghiệp, mà bằng cách làm cho đông đảo người lao động tham gia
ngày càng nhiều vào việc điều hành doanh nghiệp, cả ở các xí nghiệp
riêng lẻ (qua các hội đồng sản xuất, kiểm tra lượng người làm, việc trả
công lao động và điều kiện lao động, hợp đồng tập thể giữa người lao
động và chủ các xí nghiệp), cũng như trong phạm vi toàn xã hội (qua việc
thành lập các cơ quan đối tác xã hội giữa người lao động và các nhà
kinh doanh, việc mở rộng lĩnh vực sở hữu của thị chính, của hợp tác xã,
của nghiệp đoàn, v.v…). Trước đây, những người xã hội-dân chủ chủ trương
quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, ngày nay, họ nhấn mạnh vai trò của thị
trường, nhưng vai trò này phải được nhà nước điều tiết. Còn nhà nước
phải khá “ôn hòa” và không được gây trở ngại cho sáng kiến riêng của cá
nhân.
Dân chủ xã hội là mục tiêu cuối cùng của những người xã hội-dân chủ,
nó nhằm bảo đảm mọi quyền lợi xã hội của người lao động (các quyền lao
động, học vấn, nghỉ ngơi, trị bệnh, nhà ở, bảo đảm xã hội), cũng như
phải xóa bỏ mọi hình thức áp bức, kỳ thị, người bóc lột người, bảo đảm
các điều kiện để cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ phải đạt tới bằng nhưng phương
tiện hòa bình và dân chủ, bằng sự tiến hóa dần dần của xã hội, nhờ những
cải cách, nhờ sự hợp tác giữa các giai cấp, dựa trên sự ủng hộ của nhà
nước dân chủ.
Những điều trình bày trên đây về chủ nghĩa xã hội-dân chủ không chỉ
là lý thuyết mà đã được thực hiện hàng chục năm rồi trong thực tiễn ở
nhiều nước châu Âu, đặc biệt ở Bắc Âu, như ở Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy,
Phần Lan; những nơi đó tự do dân chủ được đảm bảo tuyệt đối, xã hội rất
trong sạch, hầu như vắng bóng nạn tham nhũng, nên chất lượng đời sống
của người dân rất cao. Một vài nước châu Âu, như Đức, Pháp, Anh…, châu
Mỹ, như Canada, châu Úc, như nước Australia cũng đã đạt được nhiều thành
tựu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ. Còn tình trạng các nước do các ĐCS đi
theo con đường của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhân dân bị thống trị bi đát
như thế nào, tưởng không cần phải nói.
Nói đến những nhân vật đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn ở nước ta
ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ thì tôi rất đồng
tình với hai ông Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh, là trước tiên phải nói đến
nhà chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926). Cụ là một nhà dân chủ Việt Nam
không kêu gọi bạo lực, không có đầu óc chuyên chính. Người thứ hai chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ là Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo
Huỳnh Phú Sổ (1920-1947). Ông đã sáng lập ra Việt Nam Dân chủ Xã hội
Đảng (ngày 21.09.1946), gọi tắt là Đảng Dân Xã. Đảng này theo nguyên tắc
“chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”, chủ trương “toàn dân chánh trị” và “chống độc tài bất cứ hình thức nào”. Nét độc đáo của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là tư tưởng xã hội-dân chủ hòa quyện với giáo lý đức Phật.
Chúng tôi viết nhiều về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, mà ít nói đến Đảng
Xã hội-Dân chủ, vì nghĩ rằng, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa xã hội-dân
chủ, không chỉ có các Đảng Xã hội-Dân chủ. Đảng của những người xã
hội-dân chủ còn có thể mang nhiều tên khác, như Đảng Lao động, Đảng Công
nhân, Đảng Công bằng, Đảng Chính Nghĩa, v.v… Cái tên đảng không phải là
quan trọng, cái chính, cái thực chất là cương lĩnh, là mục tiêu đấu
tranh của đảng, tức là chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực. Chúng tôi
nhấn mạnh chữ “đích thực”, vì trên đời này, khi có những thứ tốt thuộc
“hàng chính hiệu” thì thường cũng xuất hiện nhiều “hàng giả”, “hàng
nhái”. Điều này dễ thấy ở một vài nước CS gọi là “xã hội chủ nghĩa”: Khi
“hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” bị sụp đổ hồi cuối những năm 80
đầu những năm 90 thế kỷ trước thì ban lãnh đạo một vài ĐCS vội vàng thay
đổi nhãn hiệu, đổi tên đảng thành Đảng Xã hội-Dân chủ, Đảng Xã hội,
Đảng Dân chủ, và tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ, chỉ cốt để bảo
vệ quyền lực của giai cấp cầm quyền cũ, chứ thực ra họ vẫn giữ thực chất
CS. Đó là một thực tế, các chiến sĩ dân chủ cần cảnh giác.
Viết đến đây, chúng tôi không thể không nhắc đến ý kiến của Giáo sư
Phan Đình Diệu, một trong những nhà trí thức khả kính. Ý kiến của ông
như thế này: “Tôi hy vọng là Đảng (cộng sản) sẽ tự biến đổi thàng Đảng
xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân
chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng (cộng sản) và tạo
ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và
do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế.” Giáo sư Tiến
sĩ Phan Đình Diệu giỏi về toán học, ông là người khảng khái, chính trực,
nhưng chưa chắc ông đã giỏi về chính trị học. Bài toán khó khăn của Đất
nước mà Tiến sĩ giải cách này, chúng tôi tin chắc rằng “đáp số” sẽ làm
ông thất vọng nặng nề!
Nhân tiện, cũng xin nói thêm điều này: hiện nay ở Việt Nam, có những
nhân sĩ, trí thức… đề nghị đổi tên ĐCSVN thành Đảng Lao động Việt Nam,
đổi tên nước CHXHCNVN thành Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, tưởng như vậy thì
tình hình VN sẽ thay đổi hẳn, mọi sự sẽ tốt lên. Về chuyện đổi tên, kẻ
viết bài này có học được một bài học rất thấm thía do Chủ tịch Đảng Hồ
Chí Minh dạy cho. Xin chia sẻ cùng các bạn: Năm 1950, chúng tôi được
triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho
việc đổi tên ĐCS tại Đại hội Đảng năm 1951. Cụ Hồ bước lên bục giảng
giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán bộ cao cấp và trung cấp đến
họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn hiệu CRAVEN A. Giơ cao nắp
hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng tôi, cụ lớn tiếng nói: “Đây
là ĐCS”, rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía trong không có chữ, đưa lên
và nói tiếp: “Đây là Đảng Lao động”. Rồi cụ thủng thẳng hỏi: “Đã rõ
chưa? Có khác nhau gì không?” Cả hội trường ầm vang tiếng đáp: “Rõ rồi
ạ! Dạ, không khác nhau gì cả!”.
Đúng là bài học nhớ đời! Dưới thời ĐLĐVN cũng như dưới thời ĐCSVN,
dưới thời VNDCCH cũng như dưới thời CHXHCNVN, mọi tầng lớp nhân dân đều
phải chịu biết bao thảm kịch! Lẽ nào các nhà trí thức, các nhân sĩ và
toàn dân ta không thấy hay sao?
Cần có một tư duy đúng
Ông Hồ Ngọc Nhuận. File photo.
Chúng tôi đánh giá cao tâm nguyện của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà
báo Hồ Ngọc Nhuận, khi hai ông kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên
bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-Dân
chủ. Lời kêu gọi xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, đa nguyên và kêu
gọi thành lập một Đảng Xã hội-dân chủ đáng trân trọng. Có người còn cho
đó là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải đi…” mặc dù đó chỉ là
một lời kêu gọi thôi, không có cương lĩnh, mục tiêu, chương trình gì cụ
thể cả.
Thật ra, lời kêu gọi đó của hai ông không có gì mới. Khi nói đến
“tuyên ngôn”, thiết tưởng cần phải nhắc lại để mọi người nhớ: Cách đây
trên 7 năm, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào dân chủ nước ta, đã
từng có một bản tuyên ngôn của 118 công dân ở trong nước (xin nhấn mạnh
ba chữ ở trong nước) khao khát tự do dân chủ được công bố công khai ngày
08.04.2006. Đó là “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” (còn gọi
là Tuyên ngôn 8406). Tuyên ngôn đó đã nói rất rõ ràng và mạnh mẽ về mục
tiêu đấu tranh cho một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, mục tiêu đấu
tranh cho mọi quyền tự do, dân chủ. Tuyên ngôn đó, được trên 5000 người
Việt Nam trong và ngoài nước công khai ký tên, và được 140 chính khách
quốc tế bảo trợ, trong đó có cố Tổng thống Vaclav Havel.
Tuyên ngôn 8406 vạch rõ rằng, sau khi cướp được chính quyền, ĐCS đã
thủ tiêu quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đã chà đạp thô
bạo tất cả những quyền thiêng liêng về tự do, dân chủ, cũng như quyền
được sống yên bình và mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn 8406 nhận định rằng,
vì “lấy chủ nghĩa Mác-Ăng-ghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao Trạch
Đông, kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng” nên ĐCS đưa “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam”, … “đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam”. Tuyên ngôn 8406 nói rõ “Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm chothể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ
không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang
xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc
đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính
trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi
hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và
đầy thành tựu.” Còn “Mục tiêu cụ thể làthiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dânsau đây: Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận…”, “Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử…”, “Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng…”, “Quyền Tự do Tôn giáo…”. Tuyên ngôn 8406 tuyên bố rõ ràng “Phương pháp của cuộc đấu tranh này làhòa bình, bất bạo động…” (các chữ in đậm trong các ngoặc kép là theo đúng nguyên bản).
Chúng tôi nghĩ rằng Tuyên ngôn 8406 này rất xứng đáng làm bảng chỉ
đường cho phong trào đấu tranh giành Tự do, Dân chủ ở nước ta. Chính vì
đấu tranh cho một Cương lĩnh đúng đắn như vậy, nên đến nay dù bị khủng
bố rất ác liệt, hàng trăm chiến sĩ dân chủ của Khối 8406 đã bị truy bức,
sách nhiễu, đàn áp hết sức tàn bạo, bị tống vào tù ngục CS, bị quản chế
tại nhà, nhưng phong trào dân chủ vẫn được duy trì và ngày càng phát
triển. Cho đến nay đã có 190 thành viên của Khối 8406 là nạn nhân của sự
đàn áp như vậy, trong số đó 65 chiến sĩ dân chủ bị lãnh án tù giam từ 7
năm trở lên! Rất nhiều chiến sĩ của Khối 8406 đã nêu gương đấu tranh
kiên cường trong nhà tù. Chúng tôi không thể nêu hết tên của họ, vì sợ
chiếm nhiều chỗ trong bài.
Cũng cần nói thêm, Khối 8406 còn đề ra “Cương lĩnh Khối 8406” và công
bố “Tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn & 8 bước”. Khối
8406 đã phát hành tờ bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, vừa là
báo mạng vừa là báo giấy có 32 trang A4 để vận động cho tự do dân chủ,
chống chế độ độc tài toàn trị. Từ ngày 15.04.2006 đến ngày 01.09.2013,
bán nguyệt san không xin phép này đã ra được 178 số. Khối 8406 còn
thường xuyên ra những lời tuyên bố, những lời kêu gọi, những nhận định,
những kháng thư… để hướng dẫn dư luận, phản đối nhà cầm quyền và động
viên đại chúng đấu tranh.
Chúng tôi nghĩ rằng cần phải nói những điều này để mọi người nhìn
thấy rõ những thành tựu đã có, không vì những hiện tượng mới bộc phát mà
che lấp những thành tựu đã thực hiện được bằng nỗ lực, bằng xương máu,
nước mắt và mồ hôi của hàng trăm, hàng nghìn người!
Khi đọc kỹ những bài viết và bài nói (trả lời phỏng vấn) của Luật gia
Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, chúng tôi không thể không nói
đến tính hời hợt, thô thiển, chưa chín chắn của những lập luận của hai
ông.
Nhiều người có nhận xét về điều ông Lê Hiếu Đằng đã cho biết: “Nằm
trong bệnh viện… tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn,
nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu” rồi
ông mới “thấy sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở
miền Bắc, một xã hội không có bóng người”, ông chuyển biến tư tưởng và
hạ bút viết bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”.
Người đọc có thể nghĩ rằng sự hiểu biết của ông Lê Hiếu Đằng như thế là
chưa sâu sắc. Nhưng dẫu sao tôi cũng mong rằng nhận thức của ông Đằng
còn chín chắn hơn nhiều so với cái “hiểu loáng thoáng” của ông Nguyễn Tất Thành1
hồi năm 1920, khi ông này nhảy từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III; mà
vì cú nhảy đó Đất nước và Dân tộc Việt Nam đã và đang chịu biết bao tai
họa! Chuyện ông Lê Hiếu Đằng chuyển từ ĐCS sang cổ động cho Đảng Xã
hội-Dân chủ làm ta nhớ đến “cú nhích chân” (cụm từ của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu) của ông Nguyễn Tất Thành mà Tiến sĩ đã nhắc đến trong bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích chân lại” bước từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin, chỉ vì ông Nguyễn Tất Thànhthấy “Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề thuộc địa”2, …“Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì thì tôi (tức Nguyễn Tất Thành) chưa hiểu”3. Thậm chí “Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lenin đăng trên báo L’Humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy ông Nguyễn Tất Thành “cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi”4.
Về vấn đề thành lập đảng đối lập, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu đã viết chí lý trong bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ”:
“…Là luật gia, là nhà hoạt động chính trị, ông Đằng nói đến thành lập
đảng đối lập với chính quyền cộng sản có vẻ rất tài tử, khơi khơi. Ít
nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương, đường lối (của đảng
ấy) như thế nào để người đọc biết ý ông ra sao.”
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận nên xem lại mình có ngây thơ
không, khi nói rằng: “Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ
trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản nào cấm điều này? Mà nguyên tắc
pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là
quyền công dân chính đáng của chúng ta.” Các ông quên rằng hai ông cũng
như toàn dân nước ta đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN
hay sao? Xưa nay có bao giờ ĐCS coi trọng luật pháp, coi trọng nguyên
tắc pháp lý đâu, tất cả những thứ đó trong mắt đám cầm quyền CS chỉ là
những quan niệm tư sản về pháp quyền phải vứt bỏ. Ngoài miệng họ vẫn nói
“thượng tôn pháp luật”, nhưng đó là thứ “pháp luật phi pháp” của họ
thôi mà họ bắt người dân phải theo! Thực ra họ có coi pháp luật ra cái
gì đâu? Thế thì mấy chữ của ông Lê Hiếu Đằng “Cần cho lập thêm các đảng
đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam” có nghĩa lý gì với họ?
Thành thật mà nói, đọc những điều hai ông nói và viết về dân chủ đa
đảng và về Đảng Xã hội-Dân chủ, chúng tôi thấy rằng nhận thức của hai
ông còn… – xin đừng giận vì lời nói thẳng – thô thiển và mơ hồ. Về vấn
đề này, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với nhà báo Ngô Nhân Dụng, viết
trong bài “Ông Hồ Ngọc Nhuận cần đổi cách suy nghĩ”. Ông Ngô Nhân
Dụng có lời khuyên rất chí lý: “Trong lúc tranh đấu để thiết lập một
xã hội dân chủ tự do chúng ta cần sống theo lối tự do dân chủ”. Chúng
xin nói thêm: Mà muốn sống theo lối tự do dân chủ thì phải hiểu thấu đáo
xã hội dân chủ tự do đích thực nó phải như thế nào?
Cũng như khi kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-dân chủ thì phải hiểu thấu
đáo về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, về lịch sử của phong trào xã hội-dân
chủ thế giới, về mục tiêu của chủ nghĩa đó qua các thời kỳ lịch sử cũng
như về cương lĩnh của Đảng Xã hội-dân chủ, phải nói rõ sự khác biệt to
lớn của mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ so với chủ nghĩa xã
hội-chuyên chính vô sản, tức là chủ nghĩa xã hội-độc tài của những người
cộng sản. Đáng tiếc là hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đã không
làm được điều đó. Có chỗ ông Lê Hiếu Đằng lại viết ông muốn “thành lập
một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân chủ-Xã hội”. Người đọc cảm thấy
dường như ông chưa chắc chắn lắm, hoặc chưa quyết định dứt khoát. Thế
thì làm sao người ta có thể đáp ứng lời kêu gọi của ông?
Tôi ngạc nhiên khi nghe Luật gia Lê Hiếu Đằng trả lời phóng viên RFI,
ông nói rằng ông “phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi”, dựa theo
những điều ông đã “học abc của chủ nghĩa Mác-Lênin” thì ông thấy chế độ
độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại (ý nói chủ nghĩa Mác-Lênin)”.
Như vậy là ông không biết rằng cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” của
Lenin và Stalin bao giờ cũng chủ trương độc đảng, tức là chỉ một mình
đảng cộng sản độc tôn thống trị, cái đó Lenin gọi là “hegemonia” (Nhà
xuất bản Sự Thật dịch là độc quyền lãnh đạo) của ĐCS. Chính cái đó mới
đẻ ra chế độ độc tài toàn trị CS với nguyên tắc “chuyên chính vô sản” –
đó là nguyên nhân của mọi tai họa của Đất nước và Dân tộc VN ta! Thế mà
ông Lê Hiếu Đằng lại cho chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại”
chủ nghĩa Mác-Lênin!
Tôi giật mình khi thấy ông nói rằng: “Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội”
ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân chủ
xã hội của Đệ Nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy”! Có
thể nào một người đang kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ lại có thể
mơ hồ đến thế về tên độc tài CS đẵm máu nhất nhì thế giới của thế kỷ 20?
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi các đảng viên cộng sản
ra khỏi Đảng để thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ đối lập với ĐCS. Có lẽ hai
ông chưa nghĩ sâu rằng: nếu một Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm rặt những
đảng viên cộng sản cũ thì cái Đảng Xã hội-Dân chủ đó có thể bảo đảm thực
hiện đúng tinh thần và thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực
hay không? Hay một thời gian nào đó, đảng ấy sẽ mất đi tính đối lập mà
quay trở lại thỏa hiệp với đảng cầm quyền? Một Đảng Xã hội-Dân chủ kiểu
đó có khả năng thâm nhập được vào đại chúng không? Hay nó chỉ tự đóng
mình trong câu lạc bộ “các cụ lão thành cựu đảng viên CS”? Vì sao hai
ông không đặt vấn để rộng rãi hơn, không kêu gọi các tầng lớp khác,
thanh niên, công nhân, lao động, trí thức, nông dân, doanh nhân, trại
chủ cùng tham gia Đảng Xã hội-Dân chủ? Chính những lớp người này không
bị những nếp nghĩ theo lối CS hằn sâu trong óc, không bị nhiễm sâu trong
máu những tư tưởng, phong cách CS mới có khả năng tiếp thụ chủ nghĩa xã
hội-dân chủ đích thực, mới có khả năng cạnh tranh với ĐCS và ít khuynh
hướng thỏa hiệp với ĐCS. Cạnh tranh thật sự với ĐCS, đối lập chính trị
thật sự với ĐCS thì mới có hy vọng thay đổi chính quyền qua các cuộc bầu
cử tự do, chứ nếu cứ nghĩ rằng “cùng hợp tác (với ĐCS) để thúc đẩy xây
dựng dân chủ cho nước Việt Nam” thì e rằng chẳng mấy chốc Đảng Xã
hội-Dân chủ chỉ gồm các cựu đảng viên CS sẽ trở thành “cái đuôi” của
ĐCS!
Dù chúng tôi có nhiều thiện cảm với chủ nghĩa xã hội-dân chủ, nhưng
để đấu tranh với ĐCS, chúng tôi nghĩ rằng không nhất thiết đảng đối lập
phải là (hoặc chỉ là) Đảng Xã hội-Dân chủ mà còn cần đến nhiều đảng khác
nữa, nhiều tổ chức, nhiều phong trào, nhiều diễn đàn, nhiều mặt trận,
nhiều liên minh, ngay cả nhiều hội đoàn có hay không có tính chính trị
nữa. Mỗi đảng, mỗi tổ chức đại biểu cho một lớp người có ý hướng, có
quyền lợi, có mục tiêu, có sở thích… giống nhau, tất cả những cái đó
hình thành một xã hội dân sự mạnh mẽ mới có khả năng đối lập với ĐCS và
chính quyền CS.
Dù rằng trong nhận thức, quan niệm hoặc cách diễn đạt hai ông Lê Hiếu
Đằng và Hồ Ngọc Nhuận còn có chỗ bất cập, thiếu sót, nhưng hai ông đã
can đảm gióng lên tiếng nói chính nghĩa trong lúc nhiều người còn mê
ngủ. Điều đó thật đáng hoan nghênh. Nguyễn Minh Cần, ngày 01/09/2013 *Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
_____
1. Người viết cố ý không dùng tên Nguyễn Ái Quốc, vì đó là một bút
danh tập thể của một nhóm người mà ông Nguyễn Tất Thành đã chiếm làm của
riêng.
2. Trích từ sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
3. Trích từ bài “Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lenin” của Hồ Chí Minh.
4. Lời của Hồ Chí Minh được nhắc lại trong bài “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” của Lữ Phương.
Ý kiến: Cần trả lại món nợ lịch sử
Như chúng ta đều biết, việc chép sử và tuyên truyền nội dung lịch sử
từ xưa đến nay luôn phụ thuộc vào hai nhân tố chi phối: ý chí của cộng
đồng dân tộc và ý chí của nhà cầm quyền.
Ở một xã hội tiến bộ, dân chủ được phát huy cao độ như Tây Âu, Mỹ và Úc thì ý chí của dân tộc và sự thật được đề cao nhiều hơn.
Ý chí của nhà cầm quyền tuy có nhưng phản ảnh không quá nặng, thậm chí không thể tìm ra.
Nhưng ở những quốc gia độc đảng, tập quyền như Việt Nam, Trung Quốc,
Triều Tiên thì vấn đề dạy sử và viết sử quả đã bị xuyên tạc đến mức nguy
hiểm.
Có thể nói, chúng ta đang nợ giới trẻ tương lai quá nhiều việc chưa làm.
Ở xã hội châu Á xưa, với nền quân chủ tập quyền chuyên chế ở mức cao độ,
sử gia phải là những bậc chí sĩ dũng cảm lắm mới dám nói sự thật.
Trong số đó, có nhiều sử gia đã bị kẻ cầm quyền giết hại. Điển hình như ở
Trung Quốc, thời Xuân Thu, loạn thần Thôi Trữ giết vua để tiếm ngôi.
Rồi hắn ép một sử quan phải bỏ không đề cập sự kiện đó. Sử quan này là
người chính trực, thà bị giết còn hơn ghi sai. Thôi Trữ đưa người em của
sử gia đó lên thay, ông này vẫn ghi “Thôi Trữ giết vua” và lại bị giết.
Cứ như thế, hắn giết cả ba sử quan một lúc. Nhưng thử hỏi có mấy sử gia dũng cảm như thế?
Do vậy, lịch sử bị chép sai theo ý chí của nhà cầm quyền là điều khá phổ biến ở các quốc gia châu Á.
Và sang thế kỷ 20, hiện tượng chi phối nội dung lịch sử là khá phổ biến ở
những nước cộng sản châu Á, cụ thể là ở Việt Nam và Trung Quốc, nơi mà
nhà cầm quyền dùng truyền thông và hệ thống giáo dục để nói tốt cho
mình.
Bởi thế, muốn đọc sử châu Á cho rõ ràng chân tướng thì phải khảo cứu
nhiều tài liệu, nhiều năm và sau một thời gian dài khi sự kiện đó diễn
ra. Có thể thời gian đó là 100 năm hoặc lâu hơn nữa.
'Tìm hiểu sự thực'
Chúng ta không ai có thể phủ nhận rằng, tiến tới chân thiện mỹ, vươn tới sự đúng đắn là nhu cầu chung của loài người.
Thời phong kiến TQ cũng có các sử gia không sợ hoàng đế
Chân lý có thể bị che khuất ở một thời đoạn nào đó nhưng trước sau gì cũng sẽ lộ ra.
Giới làm sử Trung Quốc hiện nay, do thành quả của đấu tranh dân chủ,
đang nghiên cứu để làm rõ về những nhân vật và sự kiện bị Đảng Cộng
sản Trung Quốc bóp méo hoặc thổi phồng.
Chẳng hạn như họ đang muốn trả lại vị trí đúng của Mao Trạch Đông, Lỗ
Tấn, lấy lại công bằng cho ông Tưởng Giới Thạch và các chiến sỹ Quốc Dân
Đảng, đánh giá lại tầm nhìn tư tưởng của Tôn Trung Sơn.
Ở Việt Nam, làn sóng ngầm cũng diễn ra tương tự trên các mạng xã hội và
các trang blog nổi tiếng. Có thể nói, đấu tranh đòi trả lại sự thật cho
lịch sử vừa là thành quả của tiến trình dân chủ, vừa là công cụ để đấu
tranh dân chủ.
Nội dung lịch sử Việt Nam mà giới đấu tranh phản biện tập trung vào là
từ sau năm 1911, thời điểm Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Việt Nam để đi - đi
cứu nước hay không thì còn khá nhiều tranh cãi.
Có thể nói xét giai đoạn từ năm 1911 đến tận hôm nay, các sử gia Việt
Nam còn quá nhiều việc phải làm. Chúng ta đang nợ giới trẻ quá nhiều sự
thật phải trả cho sòng phẳng.
Có những điều có thể sòng phẳng ngay, có những điều cần nhiều thời gian hơn nữa nhưng tôi xin tổng kết các “món nợ” đó như sau:
Thứ nhất, đánh giá lại công lao và tài năng của các ông Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, và các trí thức yêu nước khác trong những phong trào
đấu tranh nghị trường thời Pháp thuộc.
Thứ hai, không che dấu, không tâng bốc vai trò của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1945.
Viết rõ những sai lầm trong đường của Đảng Cộng sản Việt Nam thời Trần Phú và Hà Huy Tập.
"Ở Trung Quốc và Việt Nam nhà cầm quyền dùng truyền thông và hệ thống giáo dục để nói tốt cho mình"
Chỉ rõ lỗi sai vô cùng nguy hiểm của Đảng Cộng Sản trong tiếng trống Xô
Viết Nghệ Tĩnh, Cải cách Ruộng đất, Tết Mậu Thân, quản lý kinh tế và
thất thoát nhân tài thời hậu chiến đến nay.
Thứ ba, riêng cá nhân Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh cũng quá nhiều điều
chưa rõ ràng và đã được tô vẽ vĩ đại hơn sự thật. Trong xã hội Việt Nam
hôm nay, đây vẫn còn là một chủ đề lớn và cực kỳ nhạy cảm, chưa ai dám
hé môi công khai bàn đến.
Thứ tư, vai trò can thiệp rất lớn và quyết định của Trung Quốc và Liên
Xô trong cuộc chiến chống Pháp (1946 - 1954) và cuộc chiến thứ hai (1964
- 1975) mà có người gọi là nội chiến Việt Nam, có người gọi là kháng
chiến chống Mỹ.
Và cả cái được, cái mất của dân Việt Nam trong hai cuộc chiến đó.
Thứ năm, Chính quyền Sài Gòn (1954 - 1975) không thể bị gọi là “ngụy
quyền”. Người Mỹ xuất hiện ở Việt Nam (1964 - 1972) không thể gọi là “kẻ
xâm lược” mà là “kẻ can thiệp”.
Dân chủ và lịch sử
Tất nhiên những vấn đề đó không thể được giải quyết một lúc mà phải có lộ trình song hành với thành quả đấu tranh dân chủ.
Các nhà sử học và các nhà giáo dục đã đến lúc cần cất lên tiếng nói của mình.
Nếu không, giới trẻ Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị “ngộ độc” bởi những luận điệu cũ rích và lạc lõng.
Có thể nói đến hôm nay, thế kỷ 20 ở Việt Nam, tuyên truyền chính trị vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong nhà trường chứ không phải là giáo dục và khoa
học.
Chủ nghĩa dân tộc bốc đồng và sự ồn ào, ngây thơ về chiến thắng 'Hai Đế quốc to'.
Ngoài những vấn đề kể trên, trách nhiệm của các nhà làm sử nói riêng,
trách nhiệm của giới giáo dục nói chung là phải hạn chế bớt các nội dung
nhấn mạnh thái quá vào tự tôn dân tộc.
Theo cố sử gia Trần Quốc Vượng, điều này diễn ra khá phổ biến ở các dân tộc châu Á và nặng nhất là ở Việt Nam và Trung Quốc.
Hai dân tộc này luôn cho mình là tuyệt vời, vĩ đại và cao đẹp, anh dũng, yêu thương nhau, thông minh và kiệt xuất.
Ở thế kỷ XIX, ông Nguyễn Đình Chiểu và dân Việt còn gọi người Pháp là “mọi trắng”, “Bạch Quỷ”.
Bây giờ hiểu ra họ văn minh hơn hẳn ta, ta chẳng có gì đáng tự hào thì đành bám lấy lịch sử, ăn vay lịch sử chiến tranh.
Nhiều năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn nghèo, thiếu thành tựu tầm cỡ thế giới
Bây giờ dân Việt chỉ còn biết lôi “đánh thắng Nguyên Mông, đánh thắng phong kiến Tàu” ra làm cứu cánh.
Về niềm tự hào “đánh tan tác hai đế quốc to Pháp, Mỹ” họ cố tình quên
rằng nếu Bắc Việt không có trợ giúp của Nga Xô và Trung Quốc thì sẽ ra
sao, nếu người Mỹ không bỏ miền Nam từ đầu năm 1973 sau Hiệp định Paris
thì thế nào.
Cuộc nội chiến đó, sau năm 1973, Bắc Việt vẫn có Trung Quốc và Liên Xô trợ lực mà Nam Việt thì không còn nhờ được Mỹ.
Tấn công Mùa Xuân năm 1975 là hoàn toàn không hề cân sức giữa hai phe Nam – Bắc.
Như chúng ta đều biết, người Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam không phải vì họ
thua Việt Nam trong một cuộc đối đầu toàn diện, mà họ tự rút lui vì cân
nhắc giữa được và mất nếu tiếp tục sa lầy.
Nhưng ngay cả khi những trận thắng đó dù là có thật thì chúng cũng bị
giáo khoa lịch sử Việt Nam hiện nay nhìn nhận phiến diện và phủ lên một
tấm màn tự tôn dân tộc quá dày.
Màn đó dày đến nỗi nhiều người Việt quên rằng đã hơn 30 năm sau chiến
tranh, Việt Nam vẫn xếp vào hạng những nước kém phát triển nhất thế
giới, không có một thành tựu kinh tế, khoa học, kỹ thuật nào tầm cỡ thế
giới.
Họ cũng quên đi rằng Việt Nam, lúc ít lúc nhiều, chưa bao giờ hết thuộc vào Trung Quốc dù chỉ một giây.
Bản sắc, phong tục dân tộc nên giữ và phát huy nhưng tự tôn dân tộc,
theo tôi được biết, chỉ nên hạn chế và kiềm chế chứ không cần nhấn mạnh
trong giáo dục.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu
nước chỉ đem lại đố kỵ và kìm hãm sự phát triển. Nó là nguyên nhân chính
của các cuộc chiến tranh và xung đột trên thế giới.
Huống chi ở châu Á, tự tôn dân tộc như ngọn lửa ngùn ngụt, trách nhiệm
của chúng ta là vặn nhỏ nó lại chứ không phải như Đảng Cộng Sản Việt
Nam đang khêu nó lên ngùn ngụt trong sách giáo khoa và truyền thông để
làm giới trẻ bị “nhập đồng”.
Nguyễn Tâm Thức
Gửi tới (BBC) từ Nghệ An Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Nguyễn Tâm Thức, một bạn đọc BBC ở Việt Nam.
Nguyễn Vạn Phú - Cách chức bà bộ trưởng sẽ có tác dụng xốc lại ngành y tế đang rệu rã tinh thần.
Nhiều người nói vai trò người đứng đầu ở Việt Nam mờ nhạt lắm, cho dù có
tài giỏi đến đâu trong cơ chế hiện nay thì cũng khó lòng xoay xở. Nói
vậy có thể đúng trong trường hợp muốn tìm kiếm sự đột phá, sự bức lên
khác thường. Còn trong quản lý sự vụ hàng ngày, để bộ máy vận hành trơ
tru, để tránh sai sót thì vai trò người đứng đầu cực kỳ quan trọng.
Thiết nghĩ trong ngành nghề nào cũng phải có những quy trình, thủ tục
bắt buộc phải tuân thủ. Ví dụ trong nghề báo, có những quy trình mà nếu
bỏ qua, sai sót rất dễ xảy ra. Có lẽ ngành y cũng vậy. Tôi không biết rõ
nhưng đoán chắc rằng khi y tá chích thuốc thì phải tuân thủ một số quy
trình, thủ tục nhất định như xem tên lọ thuốc, đối chiếu với y lệnh,
kiểm tra tên bệnh nhân, vân vân. Trong vụ chích nhầm từ Oxytocin thành
vắc-xin viêm gan B gây tử vong cho ba trẻ sơ sinh ở Quảng Trị cách đây
mấy tháng mà kết quả điều tra vừa được công bố, chắc chắn quy trình
chủng ngừa đã bị vi phạm, bỏ sót. Trách nhiệm của người đứng đầu là làm
sao bảo đảm quy trình được tuân thủ bằng nhiều biện pháp. Không làm được
điều đó thì không xứng đáng làm người đứng đầu.
Ngành y tế liên tục xảy ra nhiều sự cố khắp cả nước mà chủ yếu cũng do
không tuân thủ quy trình. Như vậy trách nhiệm của người bộ trưởng là
phải đốc thúc hệ thống, xem tuân thủ quy trình là mệnh lệnh phải theo.
Nếu bà bộ trưởng chỉ cần kiểm tra đột xuất một số nơi, một số địa phương
để kiểm tra việc tuân thủ, chắc chắn tình hình đã chuyển biến theo
hướng tốt lên, bệnh viện ắt biết ngay khi bác sĩ của mình mở thẩm mỹ
viện không phép. Giả thử bà bộ trưởng không có thẩm quyền cách chức giám
đốc bệnh viện, giám đốc sở y tế đi nữa, bà còn thiếu gì cách khác để
cấp dưới phải nể sợ mà tuân thủ, kể cả dùng sức ép của công luận dồn lên
kẻ sai phạm. Trong khi đó, cái tâm lý của bà bộ trưởng từ trước cho đến
nay vẫn là chối bỏ (theo kiểu denial) và đổ lỗi, gần đây nhất là đổ lỗi
cho báo chí không làm tốt chuyện tuyên truyền người tốt việc tốt!
Cách chức bà bộ trưởng sẽ có tác dụng xốc lại ngành y tế đang rệu rã
tinh thần. Tìm người đứng đầu mới, với ưu tiên kỷ luật sắt trong áp dụng
đúng quy trình khám chữa bệnh, công khai cho người dân biết để kiểm
tra, chứ chưa cần tầm nhìn gì to lớn, chắc chắn ngành y sẽ khá hơn hiện
nay.
Nguyễn Vạn Phú
(Quê Choa)
Chính sách xoay trục về Châu Á của Mỹ đang gia tốc
Chuẩn Đô đốc Mark Montgomery, Tư lệnh Đội tác chiến tàu sân bay USS George Washington
25.10.2013
Một tư lệnh hải quân cấp cao của Hoa Kỳ tuyên bố Mỹ đang tăng cường đáng
kể số tàu chiến và máy bay bố trí tại Châu Á bất chấp những thách thức
về ngân sách hiện nay, tăng thêm lực đẩy cho chính sách của Mỹ chuyển
trọng tâm về khu vực này.
Chuẩn đô đốc Mark Montgomery, Tư lệnh Đội tác chiến tàu sân bay USS
George Washington, nói sự tăng cường hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại
Châu Á sẽ có tác dụng xoa dịu cho các căng thẳng sôi sục và những tranh
chấp chủ quyền tại khu vực.
Trả lời phỏng vấn AFP hôm 23/10 từ tàu sân bay USS George Washington
trên Biển Đông, thiếu tướng hải quân Montgomery nói chiến lược tái cân
bằng đã dẫn tới việc tăng mạnh số tàu và máy bay chiến đấu hỗ trợ công
tác tác chiến ở khắp khu vực Tây Thái Bình Dương. Ông Montgomery khẳng
định thêm tàu chiến nghĩa là thêm sự hiện diện quân sự và thêm lực lượng
mạnh mẽ tại khu vực.
Ông cho biết hoạt động của quân đội Mỹ tại Châu Á không hề bị ảnh hưởng
bởi việc cắt giảm ngân sách quốc phòng và vụ chính phủ Mỹ đóng cửa gần
đây. Chuẩn đô đốc Mark Montgomery khẳng định chính sách tái cân bằng lực
lượng của Hoa Kỳ tại Châu Á vẫn được thực hiện ráo riết và có đủ ngân
sách cho các hoạt động trong khu vực.
Năm ngoái, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã tuyên bố tại
Singapore rằng tới năm 2020 Ngũ Giác Đài sẽ chuyển 60% hạm đội của Mỹ
về khu vực Thái Bình Dương trong khuôn khổ chiến lược chuyển trục xoay
về Châu Á của Washington.
Thiếu tướng Montgomery cho biết tàu và máy bay chiến đấu từ San Diego,
California và Trân Châu Cảng ở Hawaii đang được điều động sang Châu Á
trong thời gian tới 8 tháng, một nỗ lực trong sách lược tái cân bằng của
Mỹ ở khu vực này.
Tôi chào đời tại Sài Gòn, và vô cùng hãnh diện về nơi sinh trưởng của mình. Chính Từ thành phố này Người đã ra đi.
Nói thế nghe (chừng) hơi nịnh. Không dám nịnh đâu. Thường
dân cỡ tôi làm sao mà bợ cao dữ vậy. Hơn nữa, trong “zụ” này,
ở môi trường XHCN thì đâu có bao giờ thiếu những thiên tài.
Không tin, và nếu rảnh xin (ghé qua wikipedia) đọc chơi vài câu cho biết:
Khi tôi còn là hạt bụi
Người đã lên tàu đi xa
Hay:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
Chuyện xưa (như thế) đã đành nhưng hai phần ba thế kỷ sau
vẫn còn có người “ngơ ngẩn” về chuyến xuất dương (tìm đường
cứu nước) của Bác:
Đó là cuộc ra đi một mình, giữa bốn biển năm châu, giữa đại
dương sóng cả… Sau sáu năm trên khắp các lục địa anh mới về Paris… Ở
Paris, kể từ 1919, khi trình Hội Quốc Liên (tức Liên Hiệp Quốc bây giờ)
bản Yêu sách tám điểm của nhân dân Việt Nam, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc,
Nguyễn đã bắt đầu một sự nghiệp viết nhằm lên án chủ nghĩa thực dân,
cảnh tỉnh thế giới phương Tây, thức tỉnh thế giới thuộc địa. Một sự
nghiệp viết gắn bó và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc kể từ
Bản yêu sách tám điểm – 1919, qua Tuyên ngôn độc lập – 1945, đến Di chúc
– 1969 có độ dài 50 năm.
GS Phong Lê
viết những dòng chữ (hơi lủng củng) ghi trên, tại Huế, vào hôm
26 tháng 5 năm 2011. Hai năm sau, vào hôm 26 tháng 9 năm 2013, từ
Luân Đôn, BBC loan tin:
Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh,
nhất là trong thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại… Trao đổi với BBC hôm
23/9/2013 từ Hà Nội, ông Hiển (phó giáo sư sử học Vũ Quang Hiển – ghi chú của tnt) cho
rằng nhiều tư liệu có thể đang được lưu trữ ở các trung tâm lưu trữ hải
ngoại, hoặc cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp,
Nga, Trung Quốc.
Giời ạ, đâu có “cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp, Nga, Trung Quốc…” làm chi cho thêm phiền. Giới học giả Việt Nam (Trần Quốc Vượng, Nguyễn Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu…)
đã trưng dẫn “nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhất là trong
thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại…” – từ lâu – nhưng nó không “khớp”
với sử (riêng) của Đảng và tự truyện của Bác nên đều bị
phớt lờ hết ráo.
Cái kim (nhỏ xíu) trong bọc còn giấu không được hoài thì
nói chi đến tiểu sử của một con người (vỹ đại) cỡ bác Hồ.
Và nói đâu xa xôi, ngay trên một trang web rất bình thường (Sức khoẻ và Đời sống – Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế)
ở trong nước cũng đã có người “khẳng định” – một cách rất
tế nhị, từ năm 2007 – rằng Bác không có dính dáng gì (nhiều)
đến bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam”:
… Phan Văn Trường là người soạn thảo Yêu sách và trên thực tế
văn bản này mang đậm dấu ấn của ông với nhãn quan của một nhà luật học.
Thực vậy, Điểm 2 nêu rõ: ‘Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách
cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật
như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ
để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam’;
hay Điểm 7 ‘Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật’.
Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định rằng tiến sĩ luật học Phan Văn Trường
là kiến trúc sư của Yêu sách của nhân dân Việt Nam, một sự kiện tạo nên
bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam
trong thế kỷ 20.
Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc
sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, đều có chủ đích rõ
ràng. Và ông không hề ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và
những công trình không phải của ông. Trong phạm vi khảo luận này… chỉ
chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian
này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên
Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh…
Tất Thành chỉ là người được nhóm An Nam Yêu Nước chỉ định đem
bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đến Hội nghị Hoà bình Versaillles. (Thụy Khuê. Nhân văn Giai phẩm & Vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virginia 2012).
Những vụ trộm cắp (lặt vặt) cỡ này, nói nào ngay, không hiếm trong cuộc đời hoạt động của bác Hồ hay bác Tôn nên đâu có chi quan trọng lắm để mà phải làm rầm rĩ. Ông Hà Sĩ Phu
nghĩ một cách khoáng đạt hơn rằng: “… điều quan trọng đối với xã
hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ
ấy được thực hiện như thế nào.”
Ý niệm rất nới này cũng được GS Vũ Quang Hiển nhiệt liệt tán đồng – theo như bản tin (thượng dẫn) của BBC:
Nguồn gốc ở đâu, chuyện đời tư, chuyện cá nhân không quan trọng,
mà cái quan trọng là ở sự nghiệp, mỗi con người đều có những nét riêng,
thậm chí nét khuất trong đời tư, nhưng điểm quan trọng nhất là sự
nghiệp mà họ theo đuổi.
Thôi thì cứ bỏ qua vài “nét khuất trong đời tư” của Bác, cứ
giả dụ chính ổng (chớ còn ai nữa) là tác giả bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đi.
Vậy thử nhìn xem: Bác, và các đồng chí lãnh đạo (từ khi
giành được chính quyền về tay nhân dân đến nay) đã thực hiện 8
điểm yêu sách này ra sao?
Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại
Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản
xứ.
Tuần tự xét hết tám điểm kể trên chắc phải tới Tết, hay
không chừng (dám) tới chết luôn. Xin chỉ xem qua một điểm – điểm
thứ nhất thôi – cho nó lẹ rồi đi ngủ: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
Không dám ân xá đâu. Từ ngữ này (e) không có trong tự điển của nước VNDCCH hay CHXHCNVN, nơi mà trại lính trại tù người đi không ngớt (người về thưa thớt năm ba) và mọi công dân đều có thể là một người tù ngoại trú, hay dự khuyết.
Coi: chỉ trong một tuần lễ, tuần thứ ba của tháng 10 năm
2013 thôi, công luận đã ghi nhận những sự kiện (dồn dập) như sau
– xin ghi lại theo thứ tự thời gian:
Kính gửi quý vị lá đơn của bà Nguyễn Thị Nga gửi trại giam số 6,
Nghệ An, đề nghị cho chồng bà là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được đi chữa
bệnh. Nhưng thay vì giải quyết yêu cầu chính đáng của bà thì chính
quyền đã bí mật chuyển nhà văn NXN đến trại An Điềm, Đà Nẵng. Đây là một
hành động rất không minh bạch và có thể coi như một tội ác. Không chỉ
đối với nhà văn mà đối với gia đình, việc thăm nuôi sẽ rất khó khăn, tốn
kém về tài chính cũng như về sức khỏe. Theo mong muốn của bà Nga, là
phổ biến lá đơn (đã gửi ngay cho trại 6 khi viết) rộng rãi trên mạng. Bà
cũng bày tỏ mong muốn được công luận, các tổ chức nhân quyền quan tâm
đến trường hợp của chồng bà, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhất là kể từ
khi khi ông bất chấp nguy hiểm, báo tin chuyện ông Điếu Cày tuyệt thực
ra ngoài, ông luôn bị trù dập. Xin thay mặt bà Nguyễn Thị Nga, gửi lời
cảm ơn tới quý vị.
Ngày 17 tháng 10, RFA loan tin: Mục sư Nguyễn Công Chính thường xuyên bị đánh đập trong tù. Mục
sư Tin lành Lutheran Nguyễn Công Chính, người bị kết án 11 năm tù giam
với cáo buộc có những hoạt động chia rẽ sự đoàn kết dân tội, nói xấu
chính quyền, thường xuyên bị đánh đập trong tù vì không chịu nhận tội.
Sáng nay, 17/10/2013, tại bệnh viện 30/4 Bộ Công an đã xảy ra
một cuộc trấn áp của lực lượng an ninh, công an, dân phòng đối với gia
đình thầy giáo Đinh Đăng Định. Phía lực lượng an ninh viện lý do là cô
con gái của thầy Định chụp hình, quay phim để bắt vợ con thầy về đồn
công an làm việc. Tuy nhiên, vợ con thầy đã chứng minh cho lực lượng an
ninh thấy rằng điện thoại của họ chỉ có chức năng nghe gọi, nhắn tin,
không có khả năng quay phim, chụp hình. Sau đó, phía an ninh yêu cầu gia
đình thầy xuất trình giấy CMND và một mực cưỡng ép về gia đình về đồn
làm việc.
Tin từ gia đình cho biết, hai tù nhân chính trị, Đoàn Huy Chương
và Sơn Nguyễn Thanh Điền đã tuyệt thực 3 ngày nay để phản đối chính
sách giam giữ khắc nghiệt của trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai).
Sơn Nguyễn Thanh Điền, bị bắt năm 2000, án 17 năm. Đoàn Huy
Chương bị bắt năm 2010, án 7 năm. Cả hai tù nhân chính trị đang bị giam
tại phân trại số 2, trại giam Xuân Lộc.
Trại giam Xuân Lộc, nơi giam giữ hàng trăm tù nhân chính trị.
Vừa qua trại giam Xuân Lộc đã chuyển 05 tù nhân chính trị đi trại giam
Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) vì cho rằng 05 tù nhân chính trị có liên
quan đến vụ nổi loạn tại phân trại số 1, trại giam Xuân Lộc vào sáng
ngày 30/6/2013. 05 tù nhân chính trị là Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn
Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Huỳnh Anh Trí và Nguyễn Ngọc Cường. Mặc
dù, lãnh đạo Tổng cục Trại giam và trại giam Xuân Lộc khẳng định trên
báo chí rằng các tù nhân chính trị không có liên quan vụ nổi loạn của tù
thường phạm. Tuy nhiên, tối ngày 30/6/2013, 05 tù nhân bị chuyển trại,
sau đó họ bị biệt giam, cùm chân tại trại giam Xuyên Mộc.
Đầu tháng 10/2013, hai nữ tù nhân chính trị đang trong mang
trọng bệnh là Mai Thị Dung và Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị chuyển đi bằng xe
tù trên quãng đường dài gần 2.000 km đến trại giam Thanh Xuân (Hà Nội),
tay chân bị còng, bà Dung đang tuyệt thực. Chuyến đi dài đã làm hai nữ
tù nhân kiệt sức và ngất xỉu nhiều lần.
Việc giam giữ khắc nghiệt, giam xa gia đình… là biện pháp vô
nhân đạo mà trong Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền, công ước quốc tế về
quyền Dân sự và Chính trị đã cấm áp dụng. Việt Nam đã tham gia hai công
ước này và chuẩn bị ký công ước chống tra tấn tù nhân vào cuối năm 2013.
Nhiêu đó thôi đủ thấy sự nghiệp của Bác (nói riêng) và
của cả Đảng (nói chung) không chỉ là một con số không, mà là
một con số trừ âm không nhỏ:
Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!
Theo báo Dân Việt, ngày 21-10-2013 Huỳnh Uy Dũng, đã gửi đơn đến Thủ
tướng chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền, tố cáo ông Lê Thanh Cung ,
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương về hành vi không phê duyệt quy hoạch chi
tiết 1/500 khu chức năng thuộc cụm công nghiệp Sóng Thấn 3, nơi Huỳnh Uy
Dũng đã bỏ ra 1.000 tỷ đồng mua từ năm 2004.
Một lần nữa, chỉ trong thời gian ngắn, vị đại gia cựu đại biểu Quốc hội
đã "gặt hái" bởi triết lý sống nhân bản: "Lấy vật chất làm của, của sẽ
rời xa ta / Lấy phúc đức làm của, của theo ta vạn đời”. Và chính những
hành động của Huỳnh Uy Dũng lại gây xôn xao dư luận cũng do cái gốc động
cơ sống chỉ vì của cải, lấy của cải làm ‘đòn xoay’ danh vọng...
Ông Lê Thanh Cung (trái) và ông Huỳnh Uy Dũng - Ảnh: T.D
Trước đó Huỳnh Uy Dũng (tên cũ của hắn là Huỳnh Phi Dũng) đã treo giải
thưởng 100 tỷ đồng cho ai chứng minh được vợ mình là Nguyễn Phương Hằng
thiếu nợ, sau đó ký văn bản trao toàn bộ tài sản cho đứa con trai đúng
dịp thôi nôi (1 tuổi), rồi tuyên bố sẽ xây dựng 17 ngôi đền trên toàn
quốc và viết tâm thư gửi khắp bốn phương ...
Lần này xem ra vấn đề rất nghiêm trọng, bởi không chỉ là việc riêng của
Huỳnh Uy Dũng, hoặc liên quan đến một vài người thấp cổ bé họng, mà là
với ông Chủ tịch tỉnh và cơ quan quyền lực nhà nước. Ông Dũng lại chọn
đúng lúc Quốc hội họp để tố cáo.
Tôi hơi băn khoăn tự hỏi báo Dân Việt có nhầm khi dùng từ “Tố cáo” ? Bởi
vì, trong trường hợp UBND tỉnh Bình Dương chậm giải quyết việc phê
duyệt quy hoạch chi tiết như ông Dũng đã nêu, thì từ ngữ ông nên dùng là
“Khiếu nại”. Tố cáo mang một nội hàm khác, chỉ dùng khi có những hành
vi như: Tham nhũng, ăn hối lộ, gây trọng tội, pam pháp rõ nts…Còn ở đây
chỉ là việc hành chính
Phương ngôn có câu “Cháy nhà ra mà chuột!” Có lẽ đây sẽ là dịp để phát
lộ thêm những khuất tất chăng? Qủa thật Huỳnh Phi Dũng trước kia, Huỳnh
Uy Dũng bây giờ, con người mà nhà sử học Dương Trung Quốc gọi là một “Kỳ
nhân” càng ngày càng nổi tiếng.
Huỳnh Phi Dũng sinh ra và lớn lên ở Bình Định, chưa tốt nghiệp trung học
phổ thông thì đi nghĩa vụ quân sự tham gia chiến đấu ở Campuchia mấy
năm, ra xuất ngũ, sinh sống ở Bình Dương. Huỳnh Phi Dũng kết hôn với chị
Trần Thị Tuyết, lớn hơn mình 7 tuổi, là con gái của ông Ba Thu, một cán
bộ cấp cao của tỉnh Sông Bé (lúc đó chưa tách tỉnh). Ông Ba Thu đã xin
cho rể vào làm việc tại phòng tổ chức cán bộ Công an tỉnh , và cho chiếc
xe HonDa cũ làm phương tiện đi lại, đó là tài sản duy nhất của vợ chồng
Huỳnh Phi Dũng (với bà Tuyết) hơn ba chục năm trước.
Huỳnh Phi Dũng làm ở phòng tổ chức cán bộ không lâu thì chuyền sang
phòng hậu cần, phụ trách việc nung vôi, nên mang biệt danh “Dũng lò
vôi”., “Dũng vôi”.
Ngày ấy cơ sở sản xuất kinh doanh vôi của công an Bình Dương phát đạt,
và người trực tiếp quản lý lò vôi trở nên nổi tiếng. Từ đó Huỳnh Phi
Dũng đã được điều sang làm giám đốc công ty xuất nhập khẩu Thanh Lễ,
tiền thân là công ty sơn mài Thành Lễ trước giải phóng.
Huỳnh Phi Dũng bắt đầu phất lên nhờ độc quyền kinh danh xăng dầu, nhưng
để thành một đại gia thì nhờ đất. Chính nguồn tài nguyên vô cùng quý giá
sở hữu toàn dân do nhà nước độc quyền quản lý này đã biến nhiều người
thành tỷ phú. Huỳnh Phi Dũng không chỉ là tỷ phú mà là đại tỷ phú, vì có
“tả phù hữu bật”... Người ta chẳng những ưu tiên cho Huỳnh Phi Dũng
những khu đất vàng đất bạc trong quy hoạch, mà còn hợp thức hóa những
“việc đã rồi” cho Huỳnh Phi Dũng. Trong bài này, tôi chỉ xin nhắc lại
một vài ví dụ mà báo lề phải đã nêu:
Ở Bình Dương có khu vực Sóng Thần, huyện Thuận An là đất Quốc phòng, do
Quân đoàn 4 trực tiếp quản lý. Tháng 3-1993, trong kết luận về quy hoạch
, quản lý đất quốc phòng, Thủ tướng chính phủ đã nêu rõ : “Trong khi
Thủ tướng Chính phủ chưa có quyết định thì Bộ quốc phòng và UBND địa
phương nhất thiết không được tự ý cấp đất cho một tổ chức hay cá nhân
nào sử dụng”.
Bất chấp kết luận đó , Huỳnh Phi Dũng đã lập dự án khu công nghiệp trong
căn cứ Sóng Thần. Và tháng 7-1994, với cương vị giám đốc Công ty Thanh
Lễ, Huỳnh Phi Dũng đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần Phi Long liên kết
kinh doanh đầu tư cơ sở hạ tầng 160 héc ta , gọi là : “ Khu công nghiệp
Sóng Thần 1” tỷ lệ chia lợi nhuận 50/50. Công ty Thanh lễ là doanh
nghiệp nhà nước do Huỳnh Phi Dũng là giám đốc. Công ty Phi Long là doanh
nghiệp tư nhân của gia Huỳnh Phi Dũng. Người ta nói Huỳnh Phi Dũng một
tay ký đại diện nhà nước, một tay ký đại diện gia đình mình trong một
bản hợp đồng có lẽ không sai.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương thừa biết sử dụng đất Quốc phòng như vậy
là vi phạm pháp luật, cũng thừa biết Huỳnh Phi Dũng đang là cán bộ nhà
nước mà chân trong chân ngoài như vậy là trái quy định. Nhưng chẳng
những không ngăn chặn, mà ngay sau đó, tháng 8-1994, ông Hổ Minh Phương ,
chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã ký quyết định giao 160 hec-ta đất tại
căn cứ Sóng Thần cho công ty Thanh Lễ để hợp thưc hóa cái dự án và bản
hợp đồng liên kết của Huỳnh Phi Dũng đã làm trước đó .
Một năm sau, tháng 9-1994, Huỳnh Phi Dũng tiến thêm bước nữa, lập tờ
trình UBND tỉnh, xin triển khai phương án sử dụng đất trong đó “ đề nghị
chấp thuận thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho các cá nhân và doanh
nghiệp”. Ông Hồ Minh Phương lại dễ dãi đặt bút ký đánh soẹt.
Có bửu bối trong tay, Huỳnh Phi Dũng đã phân lô 160 hec ta đất, ký 57
hợp đồng chuyển nhượng mặt bằng sản xuất công nghiệp, mà thực chất là
chuyển quyền sử dụng đất cho 13 đơn vị cá nhân ( Chủ yếu Minh Phụng- Ep
cô) thu 130 tỷ tương đương 118 triệu đô la, trong đó công ty Phi Long
của gia đình Huỳnh Phi Dũng được gần 30 triệu đô la.
Xong dự án Sóng Thần 1 , đến Sóng Thần 2, cũng cách làm tương tự, với sự
ưu ái đặc biệt của Chủ tịch tỉnh Hồ Minh Phương, người mà Huỳnh Phi
Dũng gọi thân mật là “cậu út ” , công ty Phi Long của gia đình Huỳnh Phi
Dũng đã được chia 177 tỷ đồng (Nguồn báo Tuổi trẻ)
Ơ xã Tân Định , huyện Bến Cát , có khu đất cấp cho các hộ sản xuất nông
nghiệp từ sau năm 1975. Hầu hết là dân nghèo , từng tham gia kháng chiến
. Tháng 11-1994, UBND huyện Bến Cát làm tờ trình đề nghị UBND tỉnh chấp
thuận quy hoạch xây dựng khu công nghiệp trên đất nông nghiệp xã Tân
Định.
Cũng như ở Sóng Thần, đấy chỉ là động tác nhằm hợp thức hóa giúp Huỳnh
Phi Dũng mà thôi. Thực tế, Huỳnh Phi Dũng đã hoàn thành thủ tục sang
nhượng, và chuyển đổi mục dích sử dụng đất 44,19 hec-ta một cách êm thấm
từ tháng 5 năm đó rồi.
Không biết vì cái gì mà chính quyền từ dưới lên trên nhiệt tình đến thế?
Chỉ trong ngày 19-5-1994, chủ tịch xã Tân Định lúc đó là Châu Văn Diễn,
đã bút phê hàng chục bộ hồ sơ sang nhượng đất cùng một nội dung: “ Chủ
sử dụng hợp pháp, nhà nước cấp từ năm 1975, trực canh đến nay, thuận cho
chuyển nhượng”. Và 9 hôm sau, ngày 28-5-1994, phó chủ tịch huyện Bế Cát
lúc đó là Nguyễn Công Thanh đã ký 14 giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
cho 8 thành viên trong gia đình Huỳnh Phi Dũng.
Theo báo cáo cáo của Cục thuế tỉnh Bình Dương , cà hai lần chuyển mục
đích sử dụng đất nêu trên số tiền mà các thành viên trng gia đình ông
Dũng phải nộp và đã nộp vào ngân sách chỉ khoảng 318 triệu đồng. (Nguồn
Báo Tiền Phong)
Ngày 20-11-2001, báo Tuổi Trẻ đã viết : “ Sự thật về những vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong quản lý , sử dụng đất ở Bình Dương liên quan đến
ông Huỳnh Phi Dũng , nguyên Tổng giám đốc Công ty thương mại xuất nhập
khẩu Thanh lễ đã được phơi bày trong báo cáo của Bộ công an.”
Tuy nhiên Huỳnh Phi Dũng vẫn là Chủ tịch hiệp hội xuất nhập khẩu tỉnh Bình Dương, vẫn là Đại biểu Quốc hội khóa X.
Huỳnh Phi Dũng trước kia Huỳnh Uy Dũng bây giờ là như thế. Uy thế số một
ở Bình Dương , và là một nhân vật lừng lẫy cả nước. Chì cần nhìn tên
tuổi những người tặng lẵng hoa bày trên bàn thờ Đại Nam đủ biết mối quan
hệ của Huỳnh Phi Dũng sâu rộng cỡ nào?
Nhờ uy dũng như thế , Huỳnh Phi Dũng có khu công nghiệp riêng, và đã mua
bán, sang nhượng hàng ngàn héc ta đất, làm các thủ tục chuyển đổi mục
đích sử dụng đất mau chóng, lập các dự án dễ như trở bàn tay. Có lẽ ùng
vi thế, người ta nói: “Con đường làm giàu của Huỳnh Phi Dũng luôn được
trải thảm đỏ!”.
Năm 2004, Huỳnh Phi Dũng bỏ ra 1.000 tỷ mua 535 héc ta đất đâu chỉ để
giúp tỉnh Bình Dương trả nợ , mà tính toán thu về một món lợi khổng lồ.
Với 535 héc ta đất trong khu công nghiệp Sóng Thần, mua 1.000 tỷ, vị chi
186.000 đồng một mét vuông là quá rẻ trong thời điểm đó. Theo ông
Nguyễn Hữu Phước, phó tổng giám đốc công ty Đại Nam, năm 2008-2009, công
ty này đã huy động vốn của công nhân với giá từ 1,03 triệu đến 1,6
triệu đồng một mét vuông, nghĩa gấp từ 5 đến 8 lần giá mua. Đó là ưu
tiên công nhân nghèo, còn giá kinh doanh thì cao hơn nhiều, nghe đâu
200-300 đô la m2. Cứ trừ đi 50% diện tích cây xanh, đường xá, công trình
công cộng theo quy định, cộng các khoản chi phí, thì lợi nhuận trong vụ
mua bán đất này rất khủng. Bất cứ ai trong nghề kinh doanh bất động sản
đều hiểu như thế.
Huỳnh Phi Dũng đinh ninh sẽ đầu xuôi đuôi lọt như những lần trước. Và như ông nói, chính quyền lúc đó cũng hứa như thế.
Nhưng “Từ khi ông Lê Thanh Cung về làm phó chủ tịch thường trực tỉnh
Bình Dương kiêm Trưởng ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam –Singapore,
thì Công ty cổ phần Đại Nam liên tục gặp khó khăn” .
Vậy là ông Lê Thanh Cung đã rấp gai lên con đường trải thảm đỏ của Huỳnh
Phi Dũng. Tại sao lại như thế? Phải chăng ông Lê Thanh Cung đã nhận ra
sai lầm của những người tiền nhiệm vì quá ưu ái Huỳnh Phi Dũng, ký quyết
định cấp hơn 535 hec ta đất khu công nghiệp Sóng Thần 3 cho Công ty Đại
Nam xây dựng kho bãi, trong đó có 61 héc ta nhà ở là vi phạm pháp luật,
gây dư luận bất bình trong nhân dân ? Phải chăng vì nhóm lợi ích khác ?
Hay, như một người thân của Huỳnh Phi Dũng nói với người viết bài này:
“Chú Chín rắn quá anh Dũng không mua được!”
Rất nhiều câu hỏi và câu trà lời còn ở phía trước.
Hồi đầu năm tôi có viết bài báo “Ân oán còn lâu” kể lại những việc mắt
thấy tai nghe, phê phán đạo đức , lối sóng của Huỳnh Uy Dũng, với mong
muốn góp phần làm cho xã hội tránh tham lam, thực dụng lừa đảo, có lối
sống chuẩn mực hơn. Sau khi bài báo đó đăng trên trang Blog buivabong,
thì bà Hằng phát đơn kiện tôi là "vu khống"? Chỉ vậy thôi mà tôi được
mời gặp và trả lời thẩm vẫn tại Cảnh sát điều tra Bộ Công an. Và cũng
ngay sau đó, có kẻ đã đã mạo danh viết những bài báo bịa đặt bôi nhọ tôi
trên một trang nguyentandung.org và vài trang cá nhân khác.
Bằng thái độ rất nghiêm túc, có trách nhiệm, tôi đã trình bày toàn bộ
nhân chứng, bằng chứng trước cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an, để
chứng mình không hề bịa đặt, vu khống nhằm xúc phạm ông bà Huỳnh Phi
Dũng, cũng không mưu cầu danh lợi. Trước sự thật đó, cơ quan công an
không gây cho tôi bất kỷ khó khăn nào. Sau đó bà Hằng gọi điện thoại cho
tôi, hỏi: “Bây giờ anh muốn gì?”. Tôi trả lời bà Hằng như sau: “ Anh
chỉ muốn Huỳnh Phi Dũng sống tốt hơn!”
Bài báo này tôi cũng chỉ muốn góp lời nói thật, để mọi người hiểu sự
việc đã và đang xảy ra một cách công bằng. Tôi sẵn sàng trao đổi với bạn
đọc trên tinh thần xây dựng.
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)
Đại vệ Chí Dị: Bạo và Vương giảng hoà
Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ 68.
Mùa thu năm ấy khai quốc công thần đại lão tướng quân họ Vũ lìa đời.
Nhà Sản tổ chức quốc tang, nhưng ngắt mất phần bắn thần công tiễn biệt.
Dân chúng đổ xô nhau đi đưa tang đại tướng quân. Hàng nghìn người nhỏ lệ.
Bấy giờ có cái cây gần nhà đại tướng, bỗng nhiên lá vàng úa. Ở hồ Lục
Thủy giữa kinh thành, có con rùa già sống mấy trăm năm cũng ngoi đầu
lên mặt nước.
Ai cũng cho đấy là điềm trời thương xót tướng quân.
Lại nói bấy giờ cũng trong lúc quốc tang đại tướng, kho đạn quân nhu ở
trấn Tây Bắc phát nổ long trởi, lở đất, chết mấy chục mạng người. Ngay
đó bão lớn gây lũ lụt khắp miền Trung quê hương đại tướng, cảnh tang
thương chết chóc chồng lên nhau. Đau đớn không biết bao nhiêu mà kể.
Tiếng khóc mất người thân vang từ miền núi đến miền biển. Khiến đất trời trở lạnh đột ngột.
Tháng Nhâm Tuất, năm Quý Tỵ, năm Vệ Kinh Vương thứ ba.
Thầy thuốc họ Nguyễn mở phòng mạch lậu đồ sộ giữa kinh thành. Một hôm lỡ làm chết bệnh nhân, nửa đêm mang xác ra sông vất đi.
Quan coi việc chữa tàu biển thủ mấy trăm ngàn lượng vàng mua nhà cho vợ lẽ.
Người dân tộc thiểu số kéo về kinh thành kêu oan, dầm mưa dãi nắng ở vườn hoa kinh thành.
Nước Vệ lâm vào cảnh bi thảm. Đạo đức bá tính băng hoại, dân chúng
lầm than, quan lại nhũng nhiễu, thóc cao gạo kém, thất nghiệp, đổ nợ lan
tràn.
Trước cảnh đó, Vệ Kính Vương mới cho người sang phủ chúa, mời Bạo tể tướng cùng thiết triều bàn chuyện quốc gia đại sự.
Gặp Bạo, Vương nói:
- Nay tình trạng đất nước ta có nhiều điều không hay, tể tướng có cách gì chăng?
Bạo đáp:
- Vua, chúa không đồng lòng. Việc lớn khó mà giải quyết được.
Vương biết tể tướng hàm ý trách chuyện Vương phủ mấy năm nay có ý
không bằng lòng với phủ Chúa. Tỏ vẻ khoan hòa, nhã nhặn, Vương nói:
- Con đường đi lên xã nghĩa của nhà Sản, tất phải có những mâu thuẫn
nội tại. Đó là chuyện không lớn, khi xưa tiên vương nói khi gặp chuyện
bất hòa phải lấy chữ đoàn kết làm đầu, giữ đoàn kết như giữ con ngươi
trong mắt mình. Nay đất nước khó khăn, tể tướng là người anh minh lỗi
lạc, lại đương là rường trụ quốc gia. Chớ nên vì chuyện nhỏ mà làm hỏng
đại sự.
Bạo thấy Vương có ý hòa hoãn, cũng tạm gác qua hiềm khích. Kéo ghế ngồi ngang hàng nói:
- Vậy thì nay mỗi người lo phận của mình cho tốt. Bên Vương lo chuyện
trấn an dân tình, vỗ về để lòng người không oán thán. Khiến cho lòng
dân còn tin vào triều đình, tránh chuyện bất tín mà sinh ra trễ nải làm
ăn, thất thu ngân sách triều đình. Tránh dùng tuyên truyền thiếu nhất
quán vạch vòi những chuyện chính sách kinh tế, chẳng những không giải
quyết việc gì, gây xáo trộn niềm tin thêm.
Vương gật đầu:
- Chuyện ấy Vương phủ sẽ cho làm ngay, còn lại chuyện lo cho đất nước qua cơn khó khăn kinh tế này, trăm sự nhờ tay phủ Chúa.
Bạo phán:
- Đàm Cận làm quan bao năm, một lòng tận tụy, trên bảo sao làm vậy.
Triều đình không có ý kiến. Nhưng Phạm Gia làm thượng thư bộ lễ, thân
sinh trước kia coi bộ này có nhiều điều khiến Tề mất lòng, đưa lên phó
tể tướng sợ người Tề không ưng. Cái này để triều đình cân nhắc.
Bạo đứng dậy cáo từ:
Vương ngồi án thư, lôi bản dự thảo hiến pháp ra xem lại, sửa vội mấy
chữ, chỉnh dấu chấm phẩy. Rồi soạn công văn gửi bộ Học. Chỉ dụ bộ Học
phải ca ngợi rằng bản dự thảo này là thể hiện cho ý chí hào hùng của
nhân dân ra dưới thời kỳ mới, đồng thời phải nhấn mạnh con đường đi lên
thiên đường xã nghĩa vẫn còn dài toàn dân, toàn quân phải phấn đấu chịu
đựng gian khổ nhiều hơn nữa.
Lại nói về Bạo tể tướng, khi về phủ lập tức soạn công văn chỉ đạo tăng giá, tăng phí và tăng khai tháng khoáng sản.
Mưu sĩ có người thắc mắc chuyện tăng phí, giá e sẽ khiến dân tình thêm khó khăn mà oán hận.
Bạo nói:
- Như thế bọn phủ Vương mới chuyên tâm vào việc đối phó dư luận.
Không nhòm ngó việc nhà Chúa được. Hơn nữa chúng ta theo dõi phản ứng
dân chúng đến đâu, sẽ điều chỉnh. Cái này để đánh lạc hướng tất các dư
luận, để chúng ta tập trung cấp tốc gia tăng khai thác sản lượng tài
nguyên, lo tìm cách mượn tiền bên ngoài. Đó mới là cách lớn để giải
quyết vấn đề.
Lời bàn
Nhà Sản phước lớn, lúc nào cũng có nhân tài trị nước. Đừng tưởng việc
nói cho dân nghe là việc dễ, cũng đừng tưởng việc tăng giá, thuế và đào
tài nguyên muốn là được. Nói sao cho dân tin, làm sao cho dân không
biết. Đó mới là nghệ thuật cai trị độc đáo của nhà Sản.
Tại sao Chính phủ phải nhận nợ thay Vinashin và các Tập đoàn Kinh tế Nhà nước khác?
Mới
đây Phó TT Vũ Văn Ninh vẫn tuyên bố: “Chính phủ không nhận nợ thay cho
Vinashin, mà chỉ… nhận bảo lãnh khoản nợ”. Thật là nực cười khi một quan
kinh tế hàng đầu nhà nước (cựu bộ trưởng tài chính, đương kim PTT phụ
trách tài chính) lại coi thường và lừa bịp dân và “Cuốc hội” (trả lời
phỏng vấn bên lề QH) thô thiển đến như thế!
Định
không viết gì thêm về các khoản nợ không thể trả của các TĐKTNN đã đang
và sẽ gây ra cho đất nước nữa, nhưng sự dối trá thô thiển như thế của
ông Ninh khiến tôi không im lặng được. Quốc hội thì có thể im, và chắc
chắn sẽ im, vì đảng chỉ đạo thế, con dân thì không thể im được mãi. Và
tôi là dân như thế.
Bất kỳ sinh viên kinh tế
nào, chưa cần là những người tham gia hoạt động thanh toán ngoại hối,
đều biết Bảo lãnh nợ hay thanh toán là Cam kết trả nợ/thanh toán vô điều kiện
bởi người Bảo lãnh (ở đây là chính phủ) thay người Được bảo lãnh (ở đây
là Vinashin hay các TĐKTNN khác) cho chủ nợ hay người Thụ hưởng (các
định chế Tài chính Quốc tế) bất kỳ khi nào người được bảo lãnh không thực hiện cam kết và trách nhiệm trả nợ và thanh toán của họ vì bất kỳ lý do gì… Đó
là nội dung phải có và bất di bất dịch của mọi chứng thư Bảo lãnh thanh
toán hay trả nợ, để chủ nợ chấp nhận. Một Thư bảo lãnh như thế thường
chỉ dài khoảng 1 đến 2 trang A4 mà đến ¾ là dành cho địa chỉ pháp lý của
các bên liên quan, và câu cam kết đó. Như thế, nhận bảo lãnh nợ hay nhận nợ thay
thì có khác gì nhau? Thực tế người ta gọi thư Bảo lãnh trả nợ là thư
người bảo lãnh nhận trả nợ thay “nếu Con nợ có mệnh hệ gì”. Ở đây, con
nợ là Vinashin thì “mệnh hệ” của nó là… đã “shink”, tức “chìm”, từ lâu
rồi, và 4-5 năm nay không thấy sủi tăm sau tái cơ cấu như chính phủ đã
tuyên bố (bởi một ông PTT khác lúc đó, Nguyễn Sinh Hùng) đại ý “sau 3
năm Vinashin sẽ làm ăn có lãi và sẽ tự trả nợ các khoản tự vay...”
Sự
lừa bịp của ông Hùng, rồi ông Ninh (thay mặt Chính phủ) với dân chúng
ta thế là đã rõ. Xưa nay họ luôn làm thế và sẽ còn làm thế với dân –
“những ông chủ” của họ, và cả “Cuốc hội” –“sếp” của họ, cũng đã rõ.
Nhưng tại sao họ phải làm thế? Ở đời có ai muốn cứ đi “lừa thầy phản bạn” hoài? Đó là điều tôi muốn chỉ ra ở đây.
Lần
bảo lãnh của Chính phủ cho Vinashin là chỉ dấu mới để chúng ta suy xét:
Thứ nhất, đây là món nợ 600 tr.USD Vinashin tự vay, không có bảo lãnh
từ trước của Chính phủ như món nợ trái phiếu Chính phủ 750 tr.USD trước
đó mà Chính phủ đã hoàn toàn phải đứng ra gánh chịu. Như vậy, tại sao
biết thế mà Chính phủ vẫn PHẢI làm, ngược với các tuyên bố trước đó về
cách giải quyết các khoản nợ của Vinashin?
Thứ
hai, khi bảo lãnh thế, đó sẽ là tiền lệ để Chính phủ sẽ phải bảo lãnh
trả nợ thay cho các món nợ khác “tự vay” của các TĐKTNN khác – có nhiều
TĐKTNN còn quan trọng hơn VNS nhiều. Tại sao biết thế mà Chính phủ vẫn
phải làm?
Thứ ba, đó có phải cũng chính là cách
mà chính phủ đang xử lý các khoản nợ xấu ngân hàng, bất động sản, nợ
nước ngoài… (khoảng 1,3 triệu tỷ VNĐ hay khoảng trên 60 tỷ USD) của các
TĐKTNN và các doanh nghiệp nhà nước khác mà Chính phủ đang làm thông qua
cái gọi là Công ty Mua bán Nợ VAMC? Tại sao vẫn là “cách đó” và phải là
cách đó: Chính phủ đứng ra “trả nợ thay”!? Tôi nói “trả nợ thay” trong
ngoặc kép, tức là Chính phủ tròng lên cổ dân ta những khoản nợ đó, nhưng
lần này “dân ta” không phải là tôi hay các bạn đang nói về chuyện này,
mà là con cháu chúng ta – những thế hệ trẻ Việt Nam còn đang ăn học hay
chưa được sinh ra! Vì thế, nên coi công ty VAMC của chính phủ như một
loại VAMPIR để hút máu dân nuôi đảng thì chính xác hơn.
Tôi xin trả lời những câu hỏi “Tại sao?” đó qua ví dụ Vinashin để chúng ta cùng thấy rõ.
Thời
còn đang “tinh tướng”, khoảng 2000-2005, Vinashin có một dự án lớn được
quảng bá và triển khai rầm rộ là xuất khẩu sang Iraq thiết bị, phương
tiện nổi (xà lan, tầu hút bùn, tàu kéo…) được chính phủ chi cho hàng
nhiều nghìn tỷ đồng để thực hiện. Gặp ông P.T.Bình (cựu TGĐ VNS) tôi
khen: “Anh giỏi thế, sang Iraq với “các cụ“ có một chuyến mà đã ký được
hợp đồng bán tàu thuyền trị giá mấy trăm triệu USD!” Hắn cười khoái chí
vênh mặt lên, không thèm nói cho tôi chiêu tiếp thị của mình là gì mà
tài thế! Nhưng rồi tôi cũng phát hiện ra “tuyệt chiêu” bán hàng lô đó
của Vinashin: VNS nhận trả nợ thay Chính phủ ta cho chính
phủ Iraq lúc đó (của Saddam Hussein), bằng các phương tiện hàng hải mà
họ cần. Các bạn có thấy “quen quen” với “nhận trả nợ thay” không? Như
vậy, trước khi Chính phủ nhận trả nợ thay Vinashin vỡ nợ hiện nay thì từ
lâu Vinashin đã nhận trả nợ thay Chính phủ “vỡ nợ” trước đó!
Tôi cũng phát hiện ra hai sự thật và thực tế ghê tởm nữa liên quan đến hay đằng sau các khoản nhận trả nợ thay Chính phủ của các TĐKTNN như VNS.
Đó
là, hồi đó – từ những năm 1990, các tổng công ty nhà nước rất đói rách
và họ ra sức tranh nhau “chạy” các dự án trả nợ của nhà nước ta cho các
nhà nước khác, tất nhiên để kiếm lời rất lớn từ đó cho mình. Các khoản
nợ này là do “đảng ta” đã vay các nước “anh em” XHCN như LX, Đông Âu,
TQ… để đánh nhau (trong chiến tranh), nay hết chiến tranh rồi phải trả
nợ họ. Như vậy “chiến thắng” xong, đảng hưởng chiến công (cầm quyền bằng
điều 4 Hiến pháp, sở hữu đất đai “toàn dân”, biến quân đội thành của
riêng mình đảng…) và giao cho các TĐKTTNN nhiệm vụ bòn rút dân để trả nợ
cho các chủ nợ “chiến thắng” đó! Tức là, cuối cùng thì dân ta là người
trả nợ cho các chiến thắng “vẻ vang” của đảng từ trong chiến tranh.
Còn
khoản nợ vay các nước như Iraq của Saddam Husein là sau chiến thắng -
các khoản vay hậu chiến thắng. Saddam đã cho cộng sản VN vay 1,5 triệu
tấn dầu tương đương khoảng trên 300 triệu USD lúc đó (nay khoảng 1 tỷ
USD) sau khi tặng không 400 nghìn tấn. Tại sao có các khoản vay này thì
chúng ta biết rõ rồi: “bên thắng cuộc” vốn chỉ biết vay nợ để thắng thì
cũng chỉ còn biết vay nợ tiếp để tồn tại sau chiến thắng từ 1975 đến
khảng 1995, vì mải trả thù “bên thua cuộc” đến cùng suốt mấy chục năm,
vì các nước anh em không cho vay nữa nên không biết sống bằng gì, dân
tình đói khát, cả nền kinh tế kiệt quệ bị đẩy lùi vào quá khứ hàng trăm
năm so với các nước láng giềng.
Sự thật thứ hai
là cách “trả nợ thay chính phủ” rất không minh bạch đã làm giàu cho các
quan chức chính phủ được phân công phụ trách công việc “trả nợ” đó (hồi
đó là Nguyễn Sinh Hùng, Nguyến Tấn Dũng, Phan Văn Khải…), và tất nhiên,
đã làm giàu cho các doanh nghiệp được các quan lớn đó “giao trọng trách
vẻ vang”.
Ở Vinashin, chỉ có ai cánh hẩu với
sếp lớn mới được tham dự vào các dự án trả nợ Iraq và Liên Xô. Họ thả
sức bịa ra và đổ mọi chi phí khống vào các dự án đó, báo cáo chính phủ
“tỷ lệ vốn đã đầu tư” thực hiện các nhiệm vụ đó (bạn học ông Bình “phụ
trách” Iraq, em gái ông “phụ trách” LX…). Khi Vinashin chuẩn bị phải bàn
giao tầu kéo, xà lan, tầu hút bùn… sang Iraq để trả nợ rồi mà tất cả
những thứ đó đều như những đống sắt vụn không thể hoạt động được. Thậm
chí tầu “Bạch Đằng Giang” được hoán cải chỉ để chở “tầu hút bùn mới
đóng” sang Iraq trả nợ nhưng chưa chở gì thì đã bị chìm ở Vịnh Hạ Long…
Và, lịch sử thật trớ trêu, Saddam Husein và cả chế độ độc tài đã tan rã
trước khi VNS có thể mang đồ sang trả nợ, làm VNS vui sướng hơn dân Iraq
ủng hộ chính phủ mới sau chiến tranh vùng Vịnh của ông Bush. Nhưng
trong các báo cáo của các quan lên Chính phủ thì… VNS đã thay mặt Chính
phủ thực hiện hết các trách nhiệm trả nợ “chính phủ Iraq”…(ông Hussein
hào phóng với CSVN lúc đó đã bị treo cổ, tội nghiệp, mà vẫn giúp chính
phủ VN gánh được bao chi phí “đã trả nợ”…).
Điều
tương tự cũng đã xảy ra với các Tổng Công ty nhà nước khác khi nhận trả
nợ thay chính phủ cho anh cả Đỏ Liên Xô khi anh cả này tan rã năm 1991
và số nợ “chuyển sang” nước Nga của Putin hiện nay. Nước Nga thì vẫn
không đòi được “nợ” (vì không có bảo lãnh nợ!) và cũng không tha thiết
lắm với việc đó, nhưng trong báo cáo của Chính phủ thì “chúng ta vẫn
liên tục trả nợ cho nước bạn”… và số tiền dân ta phải trả nợ đó đã chui
hết vào túi các quan chức chính phủ và các công ty nhà nước (với các
chân rết là các công ty tư nhân) được “giao trách nhiệm trả nợ” của họ.
Từ đó sinh ra lớp đại gia Maphia đỏ của Việt Nam tại Nga rồi nay họ về
Việt Nam tiếp tục trở thành sân sau và chỗ đứng, chỗ dựa hùng mạnh cho
các quan chức chính phủ hiện nay.
Đến đây, cả ba
câu hỏi trên đều đã được trả lời: Tại sao chính phủ phải trả nợ thay
các tập đoàn KTNN dù họ có làm sai và làm lỗ lã thế nào? Vì họ đã thay
mặt nhà nước trả các nợ chiến tranh mà nhờ đó đảng ta cướp được chính
danh lãnh đạo đất nước, và qua đó họ đã làm giàu các quan chức biến họ
thành các tư bản đỏ. Các tập đoàn kinh tế khác tự vay nợ có được nhà
nước “bảo lãnh trả nợ thay” như Vinashin không? Tất nhiên là có. Cách
giải quyết nợ của VAMC có được chính phủ bảo lãnh không? Dĩ nhiên. Tất
cả các món nợ của đảng và nhà nước sẽ được đảng và chính phủ truyền cho
dân Việt trả, qua Bảo lãnh trả nợ, qua VAMC, qua trái phiếu Chính phủ,
hay qua các khoản vay các dạng khác có bóng chính phủ. Cái bóng của
chính phủ chính là các doanh nghiệp nhà nước… Nhà nước là cái bóng mà
chính phủ nấp vào, mạo danh thế để hành động tùy tiện. Thế nên tôi mới
nói VAMC là VAMP…
Điều này dẫn đến vấn đề tiếp
theo là, Chính phủ ta lấy tiền đâu để trả các món nợ chiến tranh và hậu
chiến tranh? Xin thưa: từ các khoản vay quốc tế, mà như tôi đã nói, các
thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả nợ tiếp trong tương lai.
Như
vậy, có thể thấy, cùng một món nợ “chiến thắng” chính phủ cộng sản đã
bắt nhân dân ta phải trả nợ ba lần: lần đầu, họ chiếm công lao chiến
thắng của toàn dân tộc đó cho mình rồi trèo lên ngai cai trị vĩnh viễn
và chiếm đoạt vĩnh viễn tự do hạnh phúc của dân tộc, bằng hiến pháp (lót
dưới cương lĩnh đảng) của họ, như tình trạng thể chế đất nước hiện nay.
Lần thứ hai, đã đang xảy ra, là mấy chục năm nay họ dùng các doanh
nghiệp nhà nước để vơ vét, phá hoại, làm nghèo đất nước, làm đói khổ
dân, để “trả nợ thay chính phủ” - như vụ Vinashin trả nợ Iraq thay chính
phủ trên. Và lần thứ ba, họ bắt các thế hệ Việt Nam sau này sẽ phải trả
nợ cho thế giới các khoản vay quốc tế mà họ đã và đang vay vẫn là để
“trả nợ chiến thắng” của họ, thực ra là củng cố địa vị, vơ vét thêm của
cải cho họ.
Lịch sử thật là tàn nhẫn với dân tộc
ta bởi chính dân tộc ta chấp nhận điều đó. Một lần đưa chân sai (theo
cộng sản) là phải trả nợ ba lần, suốt năm bảy đời chưa xong!
Nhưng,
nếu lần thứ ba đã thấy rõ rồi – đã quá tam - mà vẫn không học được bài
học (bị cộng sản lừa) đó thì dân tộc ta sẽ phải trả giá lần thứ tư! Lần
này với cái giá đắt nhất, là “không có gì quí hơn độc lập tự do”.
Vâng,
tôi muốn nói đến món “nợ chính phủ” của CSVN với TQ. Từ sau chiến
tranh, chính phủ TQ không “đòi nợ” như một số “anh em” khác, và chính
phủ ta vì thế đã không phải cử các TĐKTNN sân sau trả nợ TQ thay mình.
Thậm chí, họ còn chính phủ ta cho vay thêm. Nhưng có thật các khoản nợ
đó TQ không đòi và cộng sản VN không phải trả?
Cái
họ thực sự muốn “đòi” và đang đòi lớn hơn rất nhiều. Và CSVN dường như
đã âm thầm chịu chấp nhận phản bội dân tộc để trả món nợ đó. Đó là, họ
đang và sẽ dâng cả đất nước Việt Nam này cho TQ! Sát nhập VN vào TQ và
các món nợ khủng của cộng sản VN với TQ biến mất!
Nhưng dân tộc Việt nam có chịu “trả nợ thay chính phủ” như thế nữa hay không? Đó lại là một việc khác.
Cả
dân tộc không phải là các tập đoàn kinh tế, không thể được “định hướng”
XHCN, càng không thể tự ăn thịt chính mình. Dân tộc ta sẽ tự hướng về
những giá trị mà cả dân tộc xứng đáng có, nhất định đó không phải những
thứ mà đảng CSVN đã “bôi bác” ra trên dải đất này suốt hơn nửa thế kỷ
nay.
Phan Châu Thành Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Văn hóa phê bình
TCCSĐT - Tự phê bình và phê bình là vấn đề rất quan trọng trong nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Vậy phê bình như thế nào là “phê bình
có văn hóa”?
Ông Q. là cán bộ lãnh đạo cấp phó của một cơ quan thuộc khối tư tưởng -
văn hóa của tỉnh L. Về năng lực, ông thuộc loại trung bình. Còn về tính
cách cá nhân, ông thuộc loại kiêu căng, chẳng coi cấp trên ra gì và
thường xuyên quát nạt cấp dưới. Đặc biệt, ông rất công thần, luôn khoe
mình xuất thân từ một gia đình giàu truyền thống cách mạng, cha mẹ đều
nguyên là những cán bộ cao cấp của Đảng. Con người ông Q. là như thế,
cho nên đối với cấp trên, ông không được tín nhiệm, còn đối với cấp
dưới, ông không được nể trọng. Chính vì vậy mà đã nhiều năm nay, ông chỉ
ngồi ở cái ghế cấp phó. Mới đây, đồng chí thủ trưởng cơ quan ông được
đề bạt lên một chức vụ cao hơn. Ông hy vọng mình sẽ là người thay thế.
Nhưng cấp trên không đề bạt ông mà lại đưa một đồng chí còn trẻ ở nơi
khác về.
Không được toại nguyện, ông Q. sinh ra bất mãn. Ông phê phán tất cả đội
ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh từ Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Phó Bí thư Thường trực đến các đồng chí ủy viên khác trong Ban
Thường vụ Tỉnh ủy. Đặc biệt, đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo là đối tượng
bị ông phê phán mạnh nhất, bởi vì ông cho rằng, đồng chí này là vật
chướng ngại chính trên con đường phát triển của mình. Thế rồi ông viết
đơn, thư tố cáo sai sự thật về họ và gửi đi khắp nơi. Trong các đơn, thư
tố cáo đó, ông nói rằng cán bộ lãnh đạo của tỉnh là một nhóm lợi ích,
chuyên tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền. Trong công tác cán bộ, họ chỉ
dựa vào việc thích hay không thích, yêu hay ghét và người cán bộ đó có
biết vâng lời hay không, hoặc hối lộ họ bao nhiêu... Ông còn bịa ra đủ
các thứ tội mà họ không có.
Tự phê bình và phê bình là vấn đề rất quan trọng trong nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt của Đảng. Đảng yêu cầu mọi tổ chức đảng và mọi đảng
viên đều phải thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, trong đó, phải đặc
biệt chú ý tự phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên. Đảng cũng
nhắc nhở: phê bình không phải là sỉ vả, xúc phạm danh dự của nhau mà là
sự thể hiện tình cảm đồng chí trong sáng, chân thành. Phê bình là để
giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ và để đoàn kết tốt
hơn. Phê bình phải mang tính khách quan, vô tư, có lý, có tình, cổ vũ ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm, nhược điểm. Phê bình phải trên nguyên tắc
tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải, chống thổi phồng hoặc bóp méo sự
thật; phải biết phân tích ưu điểm, khuyết điểm của đồng chí mình theo
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể... Chỉ có phê bình như
thế mới là phê bình chân chính và mới có tác dụng. Ngược lại, chẳng
những phản tác dụng mà còn làm cho người bị phê bình khó tiếp thu và bản
thân người phê bình cũng sẽ trở nên tầm thường. Tinh thần cơ bản này
của tự phê bình và phê bình đã được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”.
Chắc chắn ông Q. thừa hiểu những điều nêu trên. Song, có lẽ “cái tôi”
trong ông quá lớn nên làm ông mất khôn. Cách làm của ông sao có thể gọi
là “phê bình có văn hóa” được. Đó chỉ là sự chửi bới, lăng mạ. Những
người có văn hóa không bao giờ làm như vậy./.
Nhà nước hiện có chính sách cộng điểm ưu tiên cho một số nhóm
đối tượng khi họ thi vào đại học. Về cơ bản, các nhóm được ưu tiên có
thể chia thành bốn loại đó là: (i) ưu tiên vì họ là họ – đó là những
người có cha/mẹ là người dân tộc thiểu số; (ii) ưu tiên vì họ sinh ra ở
một nơi nào cụ thể – đó là những người sống và học tập ở vùng sâu, vùng
xa khó khăn; (iii) ưu tiên vì cha mẹ họ đã làm gì (có công) trong quá
khứ - đó là con của thương binh, liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng. (iv)
ưu tiên vì họ làm trong những nghề cụ thể – đó là quân nhân, công an
nhân dân, giáo viên và cán bộ ý tế. Số điểm ưu tiên giao động từ 0,5 đến
2 điểm tùy vào tiêu chuẩn. Nếu một thí sinh có nhiều tiêu chuẩn thì
điểm ưu tiên được cộng dồn.
Như
vậy, một thí sinh rơi vào diện ưu tiên sẽ có lợi thế hơn các thí sinh
khác trong cuộc tranh đua vào đại học. Ví dụ, một thí sinh người Kinh ở
Hà Nội có thể bị một thí sinh người Thái ở Sơn La loại cho dù điểm làm
bài thi của thí sinh ở Hà Nội cao hơn (có nghĩa học lực tốt hơn). Hoặc
một thí sinh học hết cấp ba có hộ khẩu ở TP. Hồ Chí Minh sẽ bị một thí
sinh đi nghĩa vụ quân sự về loại cho dù điểm thi đầu vào bằng nhau. Điều
này có đồng nghĩa với sự bất công cho những người không thuộc diện ưu
tiên?
Về cơ bản các thí sinh không thể lựa chọn các đặc điểm mang
lại sự ưu tiên cho mình (trừ yếu tố ưu tiên thứ tư). Cụ thể, thí sinh
không thể chọn cha mẹ mình là người Kinh hay người dân tộc thiểu số,
mình sinh ra trong gia đình có công với cách mạng hay không, hoặc mình
sinh ra ở thành phố hay nông thôn. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng,
việc dựa vào những yếu tố mà thí sinh không tự kiểm soát được để loại họ
ra khỏi cổng trường đại học có nghĩa đã đối xử bất công với họ.
Nhiều
người khác cho rằng, việc cộng điểm ưu tiên là cần thiết vì nó giúp
khắc phục hoặc đền bù những bất bình đẳng mà các nhóm đối tượng này gặp
phải. Ví dụ, học sinh người dân tộc thiểu số thì sống ở vùng núi khó
khăn nên điều kiện học tập không thể bằng học sinh người Kinh ở thành
thị. Do đó, điểm thi đầu vào không thể hiện hết năng lực học tập của họ,
vì thế việc cộng thêm điểm là hợp lý. Đây cũng là lý do tương tự để
giải trình cho việc cộng điểm cho thí sinh ở vùng nông thôn, hoặc làm ở
một số ngành nghề mà điều kiện học tập không bằng các thí sinh khác.
Tuy
nhiên, nhiều thí sinh có bố/mẹ là người dân tộc thiểu số nhưng sống ở
khu vực thành thị và có điều kiện học tập ngang bằng với học sinh người
Kinh khác. Như vậy, việc lấy tiêu chí có bố/mẹ là người dân tộc thì
không hoàn toàn chính xác với mục tiêu “đền bù sự bất bình đẳng về điều
kiện học tập” của các thí sinh này. Tương tự như vậy, không phải người
nào đang thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc làm công an nhân dân, hoặc cha
mẹ có công với cách mạng đều có điều kiện học tập khó khăn. Chính vì
vậy, việc cộng điểm cho họ tạo ra sự bất công cho những thí sinh khác.
Tuy
nhiên ngoài sứ mệnh đào tạo những cử nhân hoặc kỹ sư giỏi cho xã hội,
các trường đại học còn thực thi các sứ mệnh xã hội khác như đào tạo trí
thức cho người dân tộc thiểu số để đảm bảo sự bình đẳng trong phát triển
giữa các nhóm dân tộc, hoặc trả ơn những người đã hy sinh hoặc cống
hiến cho cách mạng, hoặc khuyến khích một số ngành nghề quan trọng cho
xã hội như quân đội hoặc công an. Sứ mệnh này thường do nhà nước quy
định như trong trường hợp cộng điểm ưu tiên đầu vào này.
Đến
đây, chúng ta gặp phải một câu hỏi lớn, đó là sứ mệnh của các trường đại
học nên là gì? Liệu các trường đại học chỉ nên tập trung vào đào tạo,
tạo môi trường học thuật tốt nhất cho sinh viên, và cho ra lò những con
người tài giỏi nhất, có ích nhất cho xã hội; hay trường đại học cũng nên
thực thi các chính sách xã hội và phúc lợi của nhà nước?
Ở các
nước phát triển, các trường đại học, đặc biệt là trường tư, thường đưa
ra sứ mệnh riêng cho mình, đó là tạo ra môi trường học tập tốt nhất cho
sinh viên. Họ cũng có những tiêu chí mang tính “áp đặt” trong tuyển
sinh, ví dụ như sự đa dạng của sinh viên về sắc tộc, giới tính, hoặc
vùng miền để đảm bảo sinh viên được tiếp xúc và trao đổi với nhiều kinh
nghiệm khác nhau nhất. Những ưu tiên cho nhóm đối tượng này, hay nhóm
đối tượng khác không phải vì mục đích “phân biệt đối xử” mà vì nó phục
vụ tốt nhất cho sứ mệnh giáo dục của nhà trường. Còn các chính sách xã
hội hoặc phúc lợi được nhà nước thực hiện thông qua các chương trình
riêng, chứ không thông qua việc cộng điểm đầu vào như ở Việt Nam.
Như
vậy, việc đặt câu hỏi có nên tiếp tục duy trì cộng điểm ưu tiên cho các
nhóm xã hội hay không chỉ trả lời được sau khi bàn về việc sứ mệnh của
các trường đại học là gì. Nếu các trường đại học vẫn được coi là các
công cụ để thực hiện ý chí và chính sách của nhà nước thì việc cộng điểm
ưu tiên như hiện tại có thể hiểu được. Còn nếu các trường đại học là
nơi đào tạo con người để họ phát triển tự do và cống hiến tốt cho xã
hội, thì có lẽ cơ sở cho việc cộng điểm ưu tiên cần phải xem lại.
Bình Lê
(Diễn Ngôn)
Những chuyện "Cười ra nước mắt" ở Bệnh viện
Nói đến chuyện bệnh viện ở VN nhiều quá rồi, thật tình tôi không muốn
nhắc đến nữa. Nhưng còn những chuyện vượt quá sức tưởng tượng của con
người giữa thời đại này và có lẽ ngay cả ở thời đại y khoa còn non trẻ
lạc hậu cũng không ai dám ngờ tới. Ở đây không phải do khoa học kỹ thuật
mà do chính con người. Những con người được dạy dỗ, đào tạo bài bản cả
về trình độ chuyên môn đến lương tâm trong sáng và được mang danh là
những nhà trí thức, được mọi người vì nể quý trọng. Nhưng tiếc rằng họ
đã bỏ quên lương tâm là thứ mà bất cứ một con người nào từ anh vô học
đến anh “đại trí thức” đều phải có mới xứng đáng làm người.
Trong tuần vừa qua, cả nước rộ lên nguồn tin về những sai phạm hay nói
thẳng ra là những vụ “ăn bẩn” của các ông chủ chốt tại hai bệnh viện lớn
nhất thành phố Sài Gòn là Bệnh Viện Bình Dân và Bệnh Viện Chấn Thương –
Chỉnh Hình. Nói đến 2 bệnh viện (BV) này hầu như toàn bộ người dân miền
Nam VN không ai không biết và may mắn lắm mới có gia đình chưa có ai
phải qua hai BV lớn đó.
Nói thẳng ra, lâu nay đa số người dân đã có những bàn tán, kêu ca, nghi
ngờ về sự phục vụ và cách “kiếm tiền” của các vị bác sĩ ở từng khoa
trong 2 BV này, tất nhiên nói như thế không phải là tất cả các vị BS đều
mang tiếng xấu, có chăng người tốt bị vạ lây. Chỉ cần vài ông thiếu
lương tâm là người ta có thể nói đến cả cái BV đó rồi.
Nhưng trước khi tường thuật những chuyện động trời vừa được công bố của 2
BV lớn này, mời bạn đọc xem qua những chuyện “nhỏ” nhưng rất lạ, rất
quái đản, tôi tin rằng các bạn khó có thể hình dung ra nổi. Mà nếu có ai
kể lại, bạn có thể nghi anh ta “phịa” hoặc thứ chuyện khôi hài, bịa đặt
với mục đích hay ác ý nào đó, chứ không thể có thật. Đây là những
chuyện có thật 100% xảy ra trong những ngày tháng gần đây.
1. Sản phụ và chồng suýt tự vẫn vì BV thông báo nhầm nhiễm HIV
Theo lời kể của bà Phạm Thị Hương (phường Đông Thọ, TP Thanh Hóa), rạng
sáng ngày 23/8/2013, con gái bà là chị Lê Thị Oanh (21 tuổi) có dấu hiệu
chuyển dạ nên được gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa thành phố Thanh
Hóa chờ sinh. Bác sĩ đưa chị Oanh đi khám, lấy mẫu xét nghiệm, trong đó
có thử nghiệm máu.
Chị Oanh vừa sinh xong thì gia đình nhận được hung tin, chị dương tính với HIV.
Bà Hương kể, “Nhận tờ kết quả xét nghiệm của con gái từ nữ y tá, tôi như
chết lặng rồi òa khóc. Dù rất hoang mang nhưng chúng tôi cố trấn tĩnh
không để con gái biết chuyện vì sợ cháu bị sốc mà nghĩ quẩn.”
Gia đình sản phụ Oanh trao đổi với GĐ Bệnh viện thành phố Thanh Hóa.
Các bác sĩ cũng bàn tán khiến mọi người xa lánh
Nhưng theo bà Hương, câu chuyện con gái bà bị nhiễm căn bệnh thế kỷ được
các y bác sĩ trong bệnh viện bàn tán khắp nơi. Thậm chí nhiều bệnh nhân
cùng phòng biết chuyện nên tìm cách xa lánh, khiến sau đó mọi chuyện
đến tai chị Oanh.
Bà Hương tâm sự, “Con gái tôi từ khi biết tin mình bị nhiễm HIV cứ một
mực đòi cắn lưỡi mà chết. Gia đình phải thường xuyên cử người túc trực
bên giường bệnh để an ủi, khuyên giải. Mất nhiều ngày, cháu nó mới bình
tâm trở lại nhưng tỏ ra rất đau đớn vì án tử lơ lửng trên đầu.” Bà cho
biết các bác sĩ đề nghị gia đình đem nhau thai về chôn, để ở viện sẽ làm
ô nhiễm và tăng nguy cơ lây bệnh.
Trước tình trạng bệnh nhân có dấu hiệu ra nhiều máu, sức khỏe xấu đi,
phần vì không tin kết quả xét nghiệm của Bệnh Viện Đa Khoa thành phố
Thanh Hóa nên người nhà đã chuyển chị Oanh đến Bệnh viện Phụ sản Thanh
Hóa để theo dõi đồng thời lấy máu đi xét nghiệm lại.
Xét nghiệm lầm
Tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, qua hai lần xét nghiệm, kết quả đều khẳng định, bệnh nhân Lê Thị Oanh âm tính với HIV.
Anh Trọng chồng chị Oanh nói lúc đó tôi chỉ nghĩ đến việc đưa vợ con ra sông tự tử
Trong tâm trạng rối bời, anh Lê Duy Trọng, chồng chị Oanh cho biết,
những ngày qua, gia đình sống trong không khí vô cùng nặng nề. Anh Trọng
nói, “Mấy bữa trước, trong đầu tôi cứ lởn vởn ý nghĩ sẽ đưa vợ con ra
sông tự tử vì cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì. Hai bên nội ngoại và bạn
bè đều nhìn vợ chồng chúng tôi với một cái nhìn ghẻ lạnh. Đi đâu tôi
cũng nghe bàn tán về chuyện tai ương nhà mình, thật không tài nào chịu
đựng nổi.”
Chỉ là sai sót nhỏ
Trả lời báo chí về việc này, chiều 27/8, ông Lê Tiến Toàn, giám đốc Bệnh
Viện Đa Khoa thành phố Thanh Hóa cho rằng đây là sơ suất đáng tiếc của
nhân viên bệnh viện. Tuy nhiên ông này khẳng định đó “chỉ là sai sót
nhỏ,” sẽ chấn chỉnh, rút kinh nghiệm.
Ông Lê Tiến Toàn, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa TP Thanh Hóa cho rằng đây là “sai sót nhỏ”
Khi được đề cập việc bồi thường cho chị Oanh, bác sĩ Toàn cho rằng,
“Hiện nay bệnh viện không có cơ chế bồi thường thiệt hại trong trường
hợp chị Oanh. Việc bồi thường về vật chất thì không bởi bệnh viện không
có kinh phí.”
Thưa bạn đọc, bạn có thể ngờ được chuyện đó lại xảy ra trong một BV cấp
tỉnh. Và hơn thế ông giám đốc BV lại cho rằng “chỉ là sai sót nhỏ.” Vậy
thế nào mới là sai sót lớn? Có lẽ là khi cả 2 vợ chồng anh Trọng, chị
Oanh và cháu nhỏ cùng ôm nhau nhảy xuống sông tự vẫn mới là lớn? Câu trả
lời vô trách nhiệm như thế thì BV ấy còn dẫn đến nhiều “sai sót nhỏ”
nữa. Chưa biết chừng đã từ lâu, những sai sót này xảy ra nhưng người
bệnh không biết hoặc chết rồi, không lên tiếng được nữa. Họ chỉ còn cách
đợi các ông BS này ở đầu con đường đến địa ngục ở thế giới bên kia.
2. Gãy chân phải, bác sĩ bó bột chân trái
Câu chuyện thứ hai cũng ly kỳ không kém, có lẽ chỉ có ở VN mới làm được.
Anh Trần Văn Hợi (bố cháu Thạch) bị bệnh đang điều trị nên ngày 17/5,
chị Phạm Thị Ca (mẹ cháu Thạch) đã nhờ người thân chở cháu Thạch đến
Bệnh viện Đa khoa huyện Hương Sơn điều trị. Sau khi chụp X - Quang và
làm các thủ tục gây tê, cháu Thạch được bó bột điều trị. Người trực tiếp
điều trị cho cháu Thạch là bác sỹ chuyên khoa Trần Xuân Hạnh, Trưởng
Khoa ngoại của bệnh viện.
Cháu Thạch gãy chân phải, bác sĩ bó bột chân trái
Sau khi bó bột xong, cháu Thạch được xuất viện, chuyển về gia đình điều
trị ngoại trú. Tuy nhiên, khi về đến nhà, cháu Thạch hết thuốc tê nên
kêu khóc ầm ĩ. Lúc này, chị Ca mới phát hiện ra sự việc, bác sỹ đã bó
bột và điều trị nhầm chân cho con trai mình. Chân phải của cháu bị gãy
nhưng bột lại bó ở chân trái. Lúc này, chị Ca chở con ra bệnh viện gặp
lại bác sỹ. BS Hạnh đã thừa nhận lỗi “cẩu thả” và mong gia đình thông
cảm. BS này lý giải, vì do vội vàng chuẩn bị cho một ca mổ sinh nên dẫn
đến sơ suất.
3. Vỡ xương tay phải, bó bột tay trái
Anh Trần Ngọc Thạch (25 tuổi) ở phường Nghĩa Lộ, TP Quảng Ngãi cho biết,
ngày 26-9, anh bị tai nạn, chụp phim bị vỡ xương thuyền tay phải và
nhập viện điều trị tại Khoa Ngoại chấn thương Bệnh viện đa khoa Quảng
Ngãi.
Thay vì bó bột tay phải, nhưng kỹ thuật viên bệnh viện lại bó bột tay
trái. Sau đó bác sĩ khoa kiểm tra lại thấy anh Thạch bị bó nhầm nên đã
chỉ định bó lại tay phải, nhưng nhân viên khoa này không chịu tháo bột
tay trái bị bó nhầm cho anh Thạch mà cứ để luôn vậy. Thật khó hiểu!
Anh Trần Ngọc Thạch bị bó bột nhầm tay
Chỉ cần đọc ba “chuyện vặt” đó trong các BV ở VN, chắc chắn bạn đọc đã
có thể hình dung ra được những nguy hiểm chết người rình rập đủ mọi loại
bệnh nhân bởi sự “sai sót nhỏ” của các vị “lương y như từ mẫu” là thế
nào. Nhưng những chuyện như vậy còn là “hạng nhẹ.” Có nhiều chuyện nặng
nề hơn, cả một tập đoàn “lãnh đạo” ở một số BV VN bất chấp tính mạng của
bệnh nhân, vơ vét cho đầy túi tham. Gần đây đã có nhiều vụ được chính
các nhân viên làm việc trong BV tố cáo, lúc đó “cơ quan chức năng” mới
biết vào cuộc điều tra. Sau vụ tai tiếng rùm trời về vụ nhân bản giấy
xét nghiệm tại BV Hoài Đức Hà Nội, lại đến vụ tráo đổi thủy tinh thể tại
BV mắt Hà Nội cũng khiến dư luận của người dân VN vô cùng phẫn nộ.
Vụ đánh tráo thủy tinh thể
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thủy (làm việc tại BV Mắt Hà Nội), đã tố cáo BV
này với 7 điểm khuất tất hay có thể gọi thẳng là gian lận. Ở đây, tôi
chỉ tóm tắt một nội dung chính là việc BV này đã tráo đổi thủy tinh thể
cho bệnh nhân đến mổ mắt kiếm lời bất chính nhiều tỉ đồng.
Từ năm 2011, BV Mắt HN đã mổ cho khoảng 3.000 ca (giá mỗi ca mổ khoảng
6.5 triệu đồng, chừng $308 Mỹ kim). Với số tiền này, lẽ ra người bệnh
phải được dùng toàn bộ chất liệu của Mỹ. Nhưng trên thực tế, Giám đốc BV
Vũ Thị Thanh đã cho đấu thầu các chất liệu rẻ tiền, từ dịch nhầy, đến
thể thủy tinh nhân tạo để tráo đổi lúc phẫu thuật.
Mỗi ống dịch nhầy của Ấn Độ- 245,000 đồng /hộp (lẽ ra là của Mỹ- 600,000
đồng/ hộp), dùng cho một người bệnh, lại được chia ra, dùng cho 4-5
người bệnh (có khoảng 3,000 ca) bị tráo dịch nhầy. Chưa kể, trước khi
mổ, bệnh nhân không được xét nghiệm HIV, viêm gan B, nguy cơ lây nhiễm
rất cao. Ước tính trong năm 2011, có khoảng 3,000 ca mổ với số tiền thu
được là 6.5 triệu đồng/ca... (VietNamNet, ngày 27/09)
Sáng 6-10-2012, Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức gặp gỡ báo chí chính thức
thông tin về sự việc đánh tráo thủy tinh thể tại Bệnh viện (BV) Mắt Hà
Nội. Buổi họp báo có sự tham gia của ông Phan Đăng Long, phó trưởng Ban
Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội; Ban Giám đốc Sở Y tế Hà Nội; đại diện BV Mắt
Hà Nội và BV Mắt Trung ương. Bà Nguyễn Thu Hương - Phó Giám đốc BV Mắt
Hà Nội: BV đã “thanh minh thanh nga” rằng không có sự đánh tráo thủy
tinh thể trong khi phẫu thuật cho bệnh nhân. Đây là sự hiểu lầm và đây
là lỗi về hành chính của phòng tài chính.... Ông Nguyễn Văn Yên - Phó
Giám đốc Sở Y tế Hà Nội cũng đồng ý với lời thanh minh này. Tuy nhiên có
vài câu hỏi của giới báo chí, bà Phó Giám đốc đã từ chối trả lời.
Một sự việc lạ lùng hơn, không cho người tố cáo đối chất.
BS Nguyễn Thị Thu Thủy người tố cáo BV mắt Hà Nội không được đối chất trong cuộc họp báo. Vì lý do gì?
Cũng trong buổi họp báo sáng 6-10, người tố cáo là BS Nguyễn Thị Thu
Thủy đã liên lạc với Sở Y tế mong muốn được đối chất để nói lên sự thực,
nhưng Sở Y tế từ chối. Nói với phóng viên, chị Thủy cho biết đã đợi
nhiều giờ liền để được vào cuộc họp nhưng bảo vệ không cho vào, mặc dù
có một số phóng viên bảo lãnh.
Nói với giới báo chí, bác sĩ Thủy tiếp tục khẳng định có sự gian lận,
tráo đổi thủy tinh thể của BV Mắt Hà Nội đối với người bệnh chứ không
phải là sự chỉ định phù hợp cho bệnh nhân như giải thích của lãnh đạo
BV. BS Thủy rất phẫn nộ, “Đây là một sai phạm nghiêm trọng có ảnh hưởng
rất lớn đến sức khỏe và quyền lợi của người bệnh.” Không dám cho người
tố cáo đối chất trước công luận, phải chăng BV đã run sợ, đã gián tiếp
công nhận những sự thật như đơn tố cáo? Chưa biết vụ này có “qua sông
đắm đò” không.
Nhưng bỏ qua những tai tiếng của mấy BV ở Hà Nội. Trong thời gian này,
người dân TP Sài Gòn đang bàn tán rùm beng về những sai phạm tầy đình
của hai BV lớn nhất TP và của cả miền Nam VN như tôi đã đề cập ở phần
đầu bài.
Sai phạm động trời tại hai bệnh viện lớn tại Sài Gòn
Chiều ngày 7/10, lãnh đạo sở Y tế TP. Sài Gòn đã công bố kết luận chính
thức thanh tra bệnh viện Chấn thương chỉnh hình và bệnh viện Bình Dân.
Theo tường thuật của phóng viên Quốc Ngọc (báo Dân Việt), việc thanh tra
được thực hiện sau khi có đơn tố cáo từ các bác sĩ làm việc tại đây bày
tỏ sự bất bình trước tình trạng bệnh nhân bị “móc túi” hàng tỷ đồng mỗi
năm, nhưng không một ai dám lên tiếng.
Nhóm lợi ích tại Bệnh Viện Bình Dân
Thanh tra Sở Y Tế TP Sài Gòn phát hiện hành loạt sai phạm trong việc
liên doanh, liên kết với tư nhân bên ngoài nhằm đặt máy móc, thiết bị
tại bệnh viện để thu lợi vào túi cá nhân hàng tỷ đồng.
Theo đó, mỗi bác sĩ khi chỉ định một bệnh nhân đi siêu âm, chụp
X-quang... từ các máy liên doanh, liên kết này sẽ được hưởng 50,000
đồng, bác sĩ đọc kết quả hưởng 40,000 đồng.
Bệnh viện Bình dân nơi phát hiện hàng loạt sai phạm
Tất nhiên, một số thành viên ban giám đốc bệnh viện còn được hưởng số
tiền chênh lệch lớn từ sự liên kết đặt máy này. Cụ thể “nhóm lợi ích”
(hay nói cho rõ hơn đó là nhóm tham nhũng) gồm bác sĩ Nguyễn Chí Hùng -
Giám đốc mới về hưu của Bệnh viện Bình Dân - được hơn 1,16 tỷ đồng, BS
Nguyễn Văn Vĩnh - Phó Giám đốc bệnh viện - được hơn 723 triệu đồng, BS
Vũ Lê Chuyên - Phó Giám đốc bệnh viện - được hơn 415 triệu đồng, bà Trần
Thị Xuyến - Trưởng phòng Tài chính - được hơn 531 triệu đồng và BS
Hoàng Vĩnh Chúc - Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp - được hơn 254 triệu
đồng.
Bệnh viện vi phạm mua sắm trang thiết bị y tế không qua đấu thầu, gây
lãng phí 53.7 tỷ đồng. Mua 2 máy tiệt khuẩn nhiệt độ thấp và 2 máy cắt
đốt nội soi u xơ tiền liệt tuyến nhưng để “trùm mền” không sử dụng được,
gây lãng phí hơn 1.7 tỉ đồng. (1 tỉ đồng VN tương đương $47,500 Mỹ
kim).
Ngoài các sai phạm trên, Bệnh Viện Bình Dân còn thực hiện không đúng quy
trình tuyển dụng lao động theo Bộ Luật Lao động; cho thuê chỗ làm bãi
giữ xe, căng tin, đặt máy ATM, nhà vệ sinh, máy photocopy đều không có
căn cứ pháp lý, đấu thầu; vi phạm về công tác đấu thầu, cung ứng thuốc;
vi phạm công tác thực hiện quy chế chuyên môn trong khám chữa bệnh và
công tác phòng, chống tham nhũng.
Thanh tra Sở Y Tế đã đề nghị thu hồi số tiền gần 3.4 tỷ đồng sai phạm
nộp ngân sách Nhà nước, yêu cầu bệnh viện chấn chỉnh hoạt động, xem xét
tổ chức kiểm điểm và xử lý trách nhiệm các cá nhân đã có sai phạm trong
kết luận thanh tra.
Ăn phim X-quang, ép bệnh nhân mổ dịch vụ
Tại Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình, qua kiểm tra 32,033 phim chụp
X-quang trong các tháng 10-2010, tháng 10-2011 và tháng 6-2012, Thanh
tra Sở Y tế TP Sài Gòn phát hiện có đến 6.688 phim sai, phim cắt xén để
hưởng phần chênh lệch vật tư tiêu hao.
Bệnh nhân ngồi chờ đợi tại BV Chấn thương chỉnh hình
Cụ thể, khi có bệnh nhân được chỉ định chụp X-quang loại phim A (kích
thước 35 x 43 cm) thì kỹ thuật viên sẽ phù phép cắt đôi phim khi chụp,
cho ra hình ảnh X-quang với tấm phim chỉ còn kích thước 35 x 21,5 cm.
Ngoài “chiêu” cắt xén, kỹ thuật viên còn dùng thêm thủ thuật tráo đổi
phim, bằng cách sử dụng phim B (kích thước 26 x 36 cm) có đơn giá 23,000
đồng/tấm thay cho loại phim A có đơn giá 42,000 đồng/tấm. Qua kiểm tra
1.126 phim chụp cho bệnh nhân ngoại trú còn lưu trữ trong tháng 10,2011,
thanh tra phát hiện có 444 trường hợp đổi phim A thành B, chiếm tỉ lệ
hơn 39,4%.
Bằng các thủ đoạn cắt xén, tráo đổi và ghép phim X-quang như trên, nhiều
năm nay, một số cá nhân tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình đã “móc
túi” nhiều tỷ đồng từ hàng chục ngàn bệnh nhân.
Theo Thanh tra Sở Y tế, ước tính số tiền sai lệch trên tổng số phim sử
dụng hàng năm của bệnh viện là hơn 3.3 tỷ đồng. Riêng trong 5 tháng cuối
năm 2011, việc cắt, ghép phim tạo ra số lượng “phim thừa” là 12,630
phim, tương đương gần 320 triệu đồng.
6.688 tờ phim "mang tội gian lận" bị thanh tra Sở tạm giữ
Do còn có những sai phạm chưa có cơ sở làm rõ, Thanh tra Sở Y tế đã đề
nghị chuyển hồ sơ Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình cho Thanh tra TP Sài
Gòn tiếp tục thanh tra toàn diện bệnh viện này.
Một loạt sai phạm ở Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn
Bên cạnh 2 “ông lớn,” một BV nhỏ hơn là BV Nguyễn Tri Phương, Thanh tra
Sở Y tế cũng xác định tình trạng gian lận phim xảy ra tại bệnh viện này.
Có 2 bác sĩ gây ra “vụ việc tiêu cực” này đã phải bồi hoàn hơn 600
triệu đồng và đã nộp đơn xin nghỉ việc. (Rất tiếc tên tuổi của 2 vị bác
sĩ “khả kính” này chưa được tiết lộ).
Nguồn tin mới nhất còn cho biết: Chỉ định mổ dịch vụ những bệnh nhân cấp
cứu, các bác sĩ Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, còn bị cho là đã "rút
ruột" hàng chục ngàn tấm phim để hưởng lợi.
Ngoài việc “ăn” 18,000 tấm phim, đến tháng 7/2012, khoa chẩn đoán hình
ảnh còn bị Ban giám đốc bệnh viện phát hiện đã “rút ruột” 135 lọ thuốc
cản quang.
Thanh tra TP Sài Gòn còn phát hiện bệnh viện này có tình trạng “nhập
nhằng” giữa điều trị dịch vụ và điều trị công. Bệnh viện này đã thực
hiện hoạt động dịch vụ "cả trong và ngoài giờ hành chính,” bác sĩ vừa
hưởng lương nhà nước vừa hưởng tiền công từ điều trị dịch vụ. Trong đó,
tỷ lệ điều trị dịch vụ năm 2011 chiếm hơn 53%, năm 2012 khoảng 47% tổng
số ca phẫu thuật thủ thuật toàn bệnh viện (cả trong và ngoài giờ hành
chính).
Qua các vụ việc xảy ra tại các bệnh viện trên, Thanh tra Sở Y tế cho
biết sẽ có kế hoạch tiếp tục thanh tra toàn diện các bệnh viện tại
TP.Sài Gòn trong thời gian tới nhằm chấn chỉnh hoạt động tại các đơn vị
này.
Hãy chờ những cuộc thanh tra tiếp theo
Hiện Thanh tra Chính phủ đang hoàn thiện kết luận 20 cuộc thanh tra nữa.
Trong đó có các tập đoàn, các ngân hàng như: Thanh tra việc chấp hành
quy định của pháp luật trong quản lý sử dụng vốn, tài sản tại Tập Đoàn
Điện Lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Cao Su Việt Nam (VRG); thanh tra tại
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (Agribank) và nhiều cuộc
thanh tra khác đang được thực hiện.
Hãy chờ đợi những cuộc thanh tra này đưa dẫn tới đâu và những “quan lớn”
nào sẽ bị vạch mặt chỉ tên cho nhân dân cả nước được biết. Người dân
rất muốn biết những vấn đề cụ thể như ông Dương Chí Dũng, nguyên Chủ
tịch Hội đồng Quản trị Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, Bộ
Giao Thông Vận tải đã nâng khống số tiền mua ụ nổi để tham ô 1,6 triệu
USD. Ngoài ra, ông Dương Chí Dũng bỏ túi 10 tỷ đồng trong thương vụ “béo
bở” hơn. Đó là vụ mua u nổi cũ, 43 năm tuổi có giá thực tế hơn 2 triệu
USD nhưng ông Dương Chí Dũng vẫn đồng ý mua với giá gấp gần 10 lần, bỏ
túi hơn 10 tỷ đồng do bên môi giới “lại quả.” Việc làm của ông Dũng gây
thiệt hại cho nhà nước hơn 300 tỷ đồng.
Lần theo số tiền này, cơ quan điều tra phát hiện Dương Chí Dũng đã sử
dụng số tiền tham ô để mua nhà cho “bồ nhí,” người đã có con riêng với
Dương Chí Dũng, 2 căn nhà, một căn tại tầng 29 tòa tháp B, tòa nhà
Skycity, Láng Hạ, Hà Nội; một căn tại tòa nhà Pacific, Lý Thường Kiệt,
Hà Nội. Nếu tính theo giá bán căn nhà cao cấp này trên thị trường, giá
trị tài sản lên đến khoảng gần 17,4 tỷ đồng. Rất có thể hai căn nhà này
sẽ bị phong tỏa kê biên. (Tôi sẽ tường thuật chi tiết vụ tham nhũng “vĩ
đại” và chạy trốn rất bài bản này trong một bài khác).
Đó là điều cụ thể mà người dân muốn biết và có quyền được biết. Người
dân lúc này không còn muốn nghe “một bộ phận cán bộ tham nhũng” hoặc một
“một số nơi, một số địa phương yếu kém,” nói theo kiểu “huề cả làng.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét