Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Tin ngày 07/11/2012

Obama đã thắng cử, Romney chấp nhận thua

Barack Obama

Obama đã trải qua những ngày hết sức vất vả
Đương kim Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tái đắc cử nhiệm kỳ hai, các hãng tin và các kênh truyền hình trên thế giới đồng loạt loan báo.
Đây mới là lần thứ hai trong vài thập niên qua mà một ứng viên Dân chủ có thể trụ hai nhiệm kỳ ở Nhà Trắng.
Theo ước đoán dựa trên kết quả kiểm phiếu ở một số bang còn chưa xong đến giờ này thì Obama giành được ít nhất 290 phiếu cử tri đoàn, vượt 4 phiếu so với số cần thiết để đánh bại đối thủ Cộng hòa là ông Mitt Romney.
Trong khi đó ông Romney đã có được 203 phiếu cử tri đoàn.
Tiểu bang Alaska vẫn chưa bỏ phiếu xong. Đây là bang được dự đoán về phe Cộng hòa.
Mitt Romney vừa lên tiếng nhận thua và cho biết ông đã gọi điện cho Obama chúc mừng chiến thắng.
Obam vẫn chiến thắng bất chấp bất mãn dai dẳng trong lòng công chúng với tình hình kinh tế Mỹ và thách thức to lớn từ phía ông Romney rủng rỉnh tiền bạc.
Nhiều bang vẫn còn kiểm phiếu chưa xong cho nên hiện chưa rõ ông Obama giành cách biệt với bao nhiêu phiếu.
Chiến thắng quyết định
Tổng thống vẫn giữ được các bang thành trì lâu nay của Đảng Dân chủ và thêm vào một số bang đứng giữa. Chiến thắng sít sao của ông ở Ohio, một tiểu bang then chốt vùng Trung Tây, đã đem lại cho ông chiến thắng chung cuộc.
Các bang trung dung khác mà ông Obama giành được là Iowa, Pennsylvania, Michigan, Minnesota và Wisconsin.
Ông đã để mất hai bang mà ông đã giành được hồi năm 2008 là North Carolina và Indiana vào tay Romney. Tuy nhiên, ứng viên Cộng hòa đã không thể thắng nổi ở Ohio, tiểu bang mà bất cứ ứng viên Cộng hòa nào cũng buộc phải thắng nếu muốn trở thành tổng thống.
Một vài bang lưng chừng, trong đó có các bang quan trọng với nhiều phiếu đại cử tri như Florida và Virginia, vẫn chưa có kết quả cuối cùng.
Theo Hiếp pháp Mỹ, bầu cử tổng thống liên bang là cuộc bầu cử dựa trên cơ sở lá phiếu các tiểu bang chứ không phải lá phiếu phổ thông.
Mỗi tiểu bang được quy ra một số phiếu cử tri đoàn nhất định tùy theo số dân của mình. Ứng viên giành chiến thắng ở bang nào thì được toàn bộ phiếu cử tri đoàn của bang đó.
Người dân ăn mừng chiến thắng của ông Obama
Người dân Mỹ đã có một đêm không ngủ
Các tiểu bang tính kết quả theo kiểu ‘được ăn cả, ngã về không’, chỉ cần một ứng viên giành nhiều phiếu hơn không cần biết nhiều hơn bao nhiêu thì cũng được thưởng toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang.
Hiện giờ thì số phiếu phổ thông, vốn chỉ quan trọng về mặt biểu tượng và chính trị nhưng không có tính quyết định, vẫn đang rất khít khao nên chưa biết được rõ ràng ai nhiều phiếu hơn.
Bên cạnh lá phiếu bầu tổng thống, người dân Mỹ còn chọn 11 thống đốc bang, một phần ba số ghế Thượng viện và bầu mới Hạ viện.
Phe Cộng hòa được dự đoán sẽ tiếp tục nắm Hạ viện trong khi Đảng Dân chủ được cho là vẫn làm chủ Thượng viện.
Ông Obama vẫn được nước Mỹ lựa chọn bất chấp thất nghiệp cao liên miên – đứng ở mức 7,9% vào ngày bầu cử và tăng trưởng kinh tế yếu ớt.
Tuy nhiên cử tri Mỹ lại đánh giá cao việc ông cứu trợ nền công nghiệp ô-tô hồi năm 2009 bên cạnh các thành tích khác và tưởng thưởng ông về việc đã hạ lệnh cho lực lượng biệt kích tiêu diệt trùm khủng bố Osama Bin Laden ở Pakistan hồi năm ngoái.
Obama bước vào nhiệm kỳ hai ở Nhà Trắng đối diện với khoản thâm hụt ngân sách hàng năm lên đến 1.000 tỷ đô la, gánh nặng nợ công 16.000 tỷ đô và các chương trình phúc lợi xã hội tốn kém cần sửa đổi.
 Đa số dân Trung Quốc bất mãn nạn lạm quyền (RFI) - Theo thăm dò ý kiến do báo Thanh Niên Trung Quốc thực hiện thì đại đa số dân Hoa Lục xem hố sâu bất bình đẳng giàu nghèo và nạn quan chức lạm quyền là những mối đe dọa nghiêm trọng cho tương lai Trung Quốc. Hơn 11.400 người sử dụng internet tham gia phát biểu ý kiến trước thềm Đại hội đảng Cộng sản.
  • Bầu cử tổng tống Mỹ trong mắt báo chí Pháp (RFI) - Hôm nay, nước Mỹ bước vào cuộc bầu cử tổng thống với hai ứng cử viên Barack Obama thuộc Đảng Dân Chủ và ông Mitt Romney của Đảng Cộng Hòa. Báo Pháp hôm nay khá tập trung về chủ đề này. Nhật báo Le Monde dành bài xã luận trên trang nhất so sánh giữa hai ông Obamma và Romney.
  • Thượng đỉnh ASEM bày tỏ quan ngại về tăng trưởng thế giới (RFI) - Trong bản tuyên bố kết thúc hội nghị thượng đỉnh ASEM lần thứ 9 tại Viêng Chăng, Lào, hôm nay, 06/11/2012, các lãnh đạo châu Âu và châu Á nhấn mạnh còn rất nhiều yếu tố “ vô định” về tăng trưởng kinh tế của thế giới. Các lãnh đạo Âu-Á ghi nhận rằng tăng trưởng thế giới đã chậm lại, với việc tồn tại nhiều yếu tố vô định, có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của hai khối.
  • Hàn Quốc tặng huy chương cho ca sĩ Psy vì quảng bá "Gangnam Style" (RFI) - Bộ Văn hóa Hàn Quốc hôm nay 06/11/2012 sẽ trao tặng một trong những huy chương cao quý nhất cho ca sĩ Psy, tác giả bản nhạc “Gangnam Style” nay đã được rất nhiều người biết đến, và clip video đã được xem nhiều triệu lần trên mạng internet.
  • Hai lính Mỹ bị truy tố vì hãm hiếp một phụ nữ Nhật (RFI) - Hai người lính Mỹ bị nghi ngờ là đã cưỡng hiếp một phụ nữ Nhật hồi giữa tháng 10, vào hôm nay 06/11/2012 đã bị tư pháp ở đảo Okinawa truy tố. Theo hãng thông tấn Nhật Bản Jiji, công tố viên trưởng Okinawa đã truy tố thủy thủ Christopher Browning và hạ sĩ Skyler Dozierwalker, cả hai đều 23 tuổi, vì tội “hiếp dâm và gây thương tích”.
  • Biểu tình và khiếu kiện tập thể tại Hà Nội chống tịch thu đất đai (RFI) - Tại Hà Nội, từ mấy ngày nay nhiều thương binh từ Hà Tĩnh đã biểu tình trước trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng, phản đối việc chính quyền trưng thu đất. Bên cạnh đó hôm nay 06/11/2012 còn có cuộc biểu tình của nông dân Văn Giang trước trụ sở Mặt trận Tổ quốc, và nhiều người dân từ các tỉnh khiếu kiện đất đai cũng tập trung về Hà Nội kêu đòi công lý.
  • Bầu cử tổng thống Mỹ bất phân thắng bại đến giờ phút chót (RFI) - Hôm nay 06/11/2012 tại Hoa Kỳ, trên tổng số 200 triệu cử tri, ít nhất 120 triệu người đã và đang xếp hàng chờ đi  bầu tổng thống. Theo các kết quả thăm dò mới nhất, hai ứng cử viên Dân chủ và Cộng hòa vẫn sát nút nhau, tuy rằng chênh lệch rất nhỏ này có phần thuận lợi hơn cho ông Obama.
  • Giải văn học Médicis về tay Emmanuelle Pireyre (RFI) - Sau giải Femina hôm qua, đến lượt giải văn học Médicis 2012 được trao tặng vào hôm nay 06/11/2012. Giải này vừa được trao cho tác phẩm Féerie générale (nhà xuất bản L'Olivier). Đây là quyển tiểu thuyết thứ tư của nhà văn nữ Emmanuelle Pireyre, năm nay 43 tuổi.
  • Phe cải cách kêu gọi giới hạn quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc (RFI) - Độc tài chuyên chế vừa chà đạp quyền con người vừa tác hại đến vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản. Với nhận định này, tuần báo Người quan sát kinh tế kêu gọi phải giới hạn quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc bị xem là hủ lậu không kém triều đình nhà Thanh. Tác giả lời yêu cầu là ông Hồ Đức Bình, con trai của cố tổng bí thư Hồ Diệu Bang mà cái chết vào năm 1989 đã gây ra phong trào Thiên An Môn.
  • Pháp loan báo kế hoạch tăng sức cạnh tranh của các công ty (RFI) - Hôm nay, 06/11/2012, chính phủ Pháp đã loan báo một kế hoạch nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các công ty Pháp, dựa trên những đề nghị do nhà công nghiệp Louis Gallois đưa ra trong bản báo cáo đệ trình thủ tướng  Pháp hôm qua. Theo lời thủ tướng Jean-Marc Ayrault, kế hoạch vừa được đề ra « mở đường cho việc đưa nước ta và nền kinh tế nước ta khỏi khủng hoảng ».
  • Mỹ chỉ trích việc Lào xây đập Xayaburi (RFI) - Theo Washington Post, hôm qua 05/11/2012 Hoa Kỳ đã chỉ trích quyết định xây đập Xayaburi của Lào vì lo ngại tác động về mặt sinh thái. Các nhà bảo vệ môi trường cảnh báo, đập thủy điện đầu tiên trên dòng chính của sông Mêkông có thể ảnh hưởng đến sinh kế của hàng chục triệu con người, và kích thích việc xây một loạt đập khác trên dòng sông hùng vĩ nhất Đông Nam Á.
  • Thể thức bầu cử tổng thống Mỹ (RFI) - Tại Hoa Kỳ, cử tri không bầu trực tiếp tổng thống mà bầu gián tiếp thông qua một cử tri đoàn gồm 538 « đại cử tri » được bầu theo từng bang. Các đại cử tri này được bầu chọn từ những nghị sĩ địa phương và những nhân vật thân cận với các ứng cử viên ( nhưng không phải là nghị sĩ Quốc hội ), thường là do các đảng chỉ định.
  • Tranh chấp Nhật-Trung : Nissan dự báo bán xe ít hơn (RFI) - Trong dự báo số xe hơi bán tại Trung Quốc đưa ra vào ngày hôm nay 06/11/2012, hãng Nissan đã giảm bớt 175 ngàn chiếc, hậu quả của xung đột ngoại giao Nhật – Trung do vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông.
  • Obama và Romney chờ phán quyết của 200 triệu cử tri (RFI) - Chiếc ghế tổng thống Mỹ do cử tri định đoạt trong ngày hôm nay 06/11/2012, ngày bầu cử chính thức. Sau cuộc chạy đua nước rút chỉ tạm gián đoạn 48 giờ vì cơn bão Sandy, hai ứng cử viên Barack Obama (đảng Dân chủ) và Mitt Romney (đảng Cộng hoà) đang chờ phán quyết của 200 triệu cử tri.
  • Bộ trưởng Quốc phòng Nga bị cách chức do tai tiếng gian lận (RFI) - Hôm nay 06/11/2012, đài truyền hình Nga loan tin là tổng thống Vladimir Putin vừa cách chức Bộ trưởng Quốc phòng Anatoli Serdioukov do một vụ tai tiếng gian lận hàng triệu euro. Ông Putin đã chỉ định ngay tân Bộ trưởng Quốc phòng, đó là ông Serguei Choigou, nguyên là Bộ trưởng Tình trạng khẩn cấp và là một nhân vật thân tín của tổng thống Nga.
  • Dân Mỹ đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử (VOA) - Cử tri tại Hoa Kỳ đang đi bỏ phiếu để quyết định người thắng trong cuộc tranh cử tổng thống xít xao giữa Tổng thống Obama và ứng cử viên Cộng hoà Mitt Romney
  • Thế giới theo dõi bầu cử Mỹ (BBC) - Hàng trăm triệu người trên thế giới chờ xem kết quả bỏ phiếu ở Mỹ sẽ chọn lại ông Barack Obama hay Mitt Romney vào ghế tổng thống.
  • Giá dầu Mỹ tiếp tục giảm mạnh (BBC) - Giá dầu tiếp tục giảm trước nguồn cung lẫn đồng đôla Mỹ tăng mạnh sau bão Sandy và tâm lý thị trường trước bầu cử tổng thống Mỹ.
  • Give Someone a Leg up (BBC) - Cụm từ "to give someone a leg up" nghĩa là gì và cách dùng cụm từ này, đồng thời phân biệt với cụm từ "to pull someone’s leg".
  • Nhật-Trung khẩu chiến về tranh chấp đảo tại ASEM (BaoMoi) - Kyodo đưa tin, các nguồn tin Chính phủ Nhật Bản cho biết, nước này và Trung Quốc ngày 6/11 đã có cuộc đấu khẩu về tranh chấp bắt nguồn từ tuyên bố chủ quyền của hai bên đối với quần đảo Senkaku (Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư) trên Biển Hoa Đông tại Hội nghị cấp cao Á-Âu tổ chức ở thủ đô Vientiane của Lào.
  • Nhật muốn Thái ủng hộ về tranh chấp với Trung Quốc (BaoMoi) - Hãng Kyodo đưa tin, ngày 6/11, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda đã kêu gọi Thái Lan thấu hiểu lập trường của nước này trong cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do nước này kiểm soát ở Biển Hoa Đông.
  • Á - Âu chia sẻ kinh nghiệm kinh tế (BaoMoi) - Giải quyết nợ công và đẩy mạnh phát triển kinh tế là những chủ đề hàng đầu được thảo luận tại Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu tại thủ đô Vientiane, Lào.
  • Nhật- Ấn hợp tác ứng phó với Trung Quốc (BaoMoi) - TPO-Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda đang thúc đẩy liên minh an ninh giữa Tokyo và New Delhi, bao gồm các cuộc tập trận hải quân chung như một phần trong kế hoạch chống lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc lên Senkaku/Điếu Ngư.
    Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh bắt tay hợp tác.
  • Khi mâu thuẫn cốt lõi chưa được giải quyết (BaoMoi) - Cuộc khủng hoảng chủ quyền quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật và Trung Quốc đã kéo dài hơn 2 tháng cùng rất nhiều diễn biến xung quanh. Đã có nhiều "kênh" đối thoại khác nhau nhưng cho đến giờ có thể khẳng định rằng cốt lõi của mối tranh chấp này chưa được giải quyết: Nhật Bản không thừa nhận có tồn tại tranh chấp tại quần đảo này trong khi "tham vọng" bước đầu của Bắc Kinh là điều ngược lại.
  • Tàu Trung Quốc tiếp tục áp sát lãnh hải Nhật Bản (BaoMoi) - Lực lượng Tuần duyên Nhật Bản (JCG) ngày 6/11 cho biết tàu Trung Quốc tiếp tục hoạt động ngay sát lãnh hải Nhật Bản gần quần đảo Senkaku (Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư) ở Biển Hoa Đông trong ngày thứ 18 liên tiếp.
  • 1/4 doanh nghiệp Nhật sẽ bỏ Trung Quốc (BaoMoi) - (Petrotimes) - Theo một cuộc điều tra được hãng tin Reuters tiến hành sau những căng thẳng gần đây giữa Nhật Bản và Trung Quốc xung quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư, có khoảng 1/4 số doanh nghiệp Nhật Bản tại Trung Quốc đang lên kế hoạch di dời sang các nước ASEAN.
  • Noda, Ôn Gia Bảo chen vai, chạm trán không thèm chào nhau (BaoMoi) - (GDVN) - Tờ QQ News ngày 6/11 đưa tin, trong khuôn khổ tham dự hội nghị Thượng đỉnh Á Âu (ASEM) họp tại Viêng Chăn, Lào ngày hôm qua 5/11, Thủ tướng Nhật Bản và Trung Quốc chạm trán nhau mà mỗi người nhìn về một hướng, không ai nói với ai câu nào. Những bức ảnh mà tờ báo này đăng tải cho thấy lãnh đạo hai nước đã "chạm trán" nhau nhưng cố lờ đi, trong khi ông Noda "phồng má" thì ông Ôn Gia Bảo cố gắng bước qua thật nhanh, nét mặt đầy căng thẳng. Những leo thang tranh chấp chủ quyền trên nhóm đảo Senkaku gần đây đã khiến quan hệ ngoại giao Tokyo - Bắc Kinh đang diễn biến ngày một xấu đi mà chưa có dấu hiệu nào cho thấy hai bên nỗ lực cải thiện.
  • Thời tiết hôm nay (BaoMoi) - Tin gió mùa Đông Bắc: Không khí lạnh đã và đang tiếp tục ảnh hưởng đến các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ. Do ảnh hưởng của không khí lạnh, ở các tỉnh Bắc và Trung Trung Bộ có mưa, mưa rào rải rác và có nơi có dông. Ở vịnh Bắc Bộ và phía bắc Biển Đông tiếp tục duy trì gió Đông Bắc mạnh cấp 5, có lúc cấp 6, giật cấp 7. Biển động.
  • Báo nước ngoài bàn về “cách chơi tàu ngầm” của Việt Nam (BaoMoi) - Theo tờ “Nhà Ngoại giao”, việc Hải quân Việt Nam sẽ được bổ sung hạm đội tàu ngầm gồm 6 chiếc Kilo mua từ Nga cho thấy Việt Nam cũng đang theo đuổi chiến lược “chống tiếp cận” và điều này khiến Biển Đông trở thành miền đất dữ đối với Hải quân Trung Quốc bất chấp họ có một tiềm lực mạnh hơn hẳn so với Việt Nam.
  • Không thể mãi lịch sự với kẻ cướp! (BaoMoi) - “Khi có tên cướp đột nhập vào nhà cướp tài sản.Nếu không đủ sức và không thể nện cho tên cướp một trận, tôi sẽ báo cơ quan công an đến can thiệp, giải quyết theo pháp luật”... Một bạn đọc đã gửi ý kiến như trên sau khi đọc bài "Trung Quốc lộ rõ mưu đồ xâm phạm Hoàng Sa”, đăng trên báo điện tử Người Lao Động ngày 5-11.
  • Nhật Bản bắt đầu tập trận với Mỹ (BaoMoi) - TTO - Nhật Bản và Mỹ đã bắt đầu cuộc tập trận chung từ đầu tuần này, trong bối cảnh quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc vẫn còn căng thẳng vì tranh chấp ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông.
  • Trung Quốc tập trận đổ bộ ở biển Đông (BaoMoi) - (NLĐO) - Hạm đội Nam Hải Trung Quốc mới đây đã thực hiện cuộc tập trận đổ bộ tại biển Đông trong động thái đe dọa khiến tình hình khu vực thêm phức tạp và căng thẳng
  • Trung Quốc tập trận chiếm đảo ở Biển Đông (BaoMoi) - Hạm đội Nam Hải Trung Quốc mới đây thực hiện cuộc tập trận đổ bộ chiếm đảo trên Biển Đông với sự tham gia của các tàu khu trục, tàu bảo vệ, xuồng đổ bộ và nhiều vũ khí, thiết bị hiện đại.
  • Philippines đưa vấn đề biển Đông tại Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu (BaoMoi) - (GD&TĐ) – Hôm qua (5.11), tại Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu diễn ra tại Lào, Philippines đã đưa ra lời kêu gọi cộng đồng quốc tế có một giải pháp đối với những tuyên bố chủ quyền chồng chéo nhau ở biển Đông và cho rằng đường hàng hải quan trọng của cả thế giới đang gặp nguy hiểm.
  • Căng thẳng Trung-Nhật: Ra uy, đàm phán, kêu gọi (BaoMoi) - (Phunutoday) - Trong khi hải quân TQ phô trương thanh thế trước Nhật, hai nước này vẫn đồng ý tiếp tục đối thoại xung quanh mâu thuẫn về chủ quyền, TQ gấp rút hoàn thiện cái gọi là “Tam Sa” là tin tức thời sự chính ngày 5/11.
  • Châu Âu ủng hộ giải pháp quốc tế về Biển Đông (BaoMoi) - (Petrotimes) – Bên lề Hội nghị Á – Âu (ASEAM) đang diễn ra tại Lào, Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã nêu các vấn đề tranh chấp hàng hải và tranh chấp lãnh thổ giữa Philippines với Trung Quốc, đặc biệt là ở bãi cạn Scarborough, trong cuộc gặp với các nhà lãnh đạo Na Uy, Thụy Sỹ và Liên minh châu Âu (EU).
  • Nhật sẽ tăng cường sức mạnh phòng vệ biển? (BaoMoi) - Cáo buộc tàu thuyền Trung Quốc thường xuyên “xâm phạm lãnh hải của Nhật Bản quanh quần đảo Senkaku”, tờ Yomiuri Shimbun hôm 5/11 đã kêu gọi chính phủ Tokyo củng cố sức mạnh của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển.
  • Châu Âu muốn gì ở châu Á? (BaoMoi) - (Petrotimes) - Hàng chục nhà lãnh đạo Á-Âu hiện có mặt tại thủ đô Vientiane, Lào, ngày 5/11 để tham dự hội nghị thượng đỉnh ASEM lần thứ 9. Đến với hội nghị lần này, lãnh đạo châu Âu muốn tìm chỗ đứng trước sự dấn thân ngày càng nhiều của Mỹ vào các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng ở châu Á.
  • Bạn bè vì hòa bình, đối tác vì thịnh vượng (BaoMoi) - TT - Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu lần 9 (ASEM 9) đã diễn ra chiều 5-11 tại thủ đô Vientiane, Lào trong bối cảnh khủng hoảng ở châu Âu và những căng thẳng về lãnh thổ ở châu Á.
  • Mỹ - Nhật 'vung kiếm' dọa Trung Quốc (BaoMoi) - Quân đội Mỹ và Nhật Bản hôm qua bắt đầu tiến hành cuộc tập trận chung quy mô lớn Keen Sword ở khu vực biển Hoa Đông trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng căng thẳng.
  • Thế giới 24h: Giải pháp quốc tế cho Biển Đông (BaoMoi) - Philippines kêu gọi một giải pháp quốc tế cho các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông; Xuất hiện tin đồn những phần tử cực đoan định ám sát cựu Thủ tướng Thái Lan Thaksin... là các tin nóng trong ngày.
  • Mỹ-Nhật tập trận rầm rộ răn đe hàng xóm (BaoMoi) - Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản và quân đội Mỹ hôm qua (5/11) đã khởi động một cuộc tập trận hải quân và không quân rầm rộ ở gần quận Okinawa, Bộ Quốc phòng Nhật Bản và báo chí địa phương cho biết. Cuộc tập trận này diễn ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc đang leo thang vì tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Bản tin tiếng Anh
  • Yiwu: Santa's China factory (Washington Post) - If there is a place you could call the Christmas capital of "middle earth", it's most likely this - Yiwu, a very integral part of Santa's supply chain.
  • Food safety on the menu (Washington Post) - Food companies in China and abroad have stepped up their efforts to guarantee quality, especially with regard to identifying its source.
  • iPhone 5 on shelf, Apple still highly sought after (Washington Post) - Employees at Shenzhen's newly opened Apple store cheer and give presents to customers as they enter the store on Nov 3, 2012. Apple opened its 7th store on the Chinese mainland in the southern boomtown of Shenzhen on Nov 3. Apple fans were enthusiastic about the new store, forming long lines before its opening. Some customers had to wait for half an hour before they could enter the store.
  • Have work, need help (Washington Post) - The uncoordinated creation of job opportunities with the supply of workers has already presented a tough challenge for the development of SMEs in China.
  • Pick-me-up for groggy weightlifters (Washington Post) - Business is beginning to look up again for foreign crane makers in China as the country loads more money into large-scale infrastructure projects.
  • UK 'welcomes' Chinese capital (Washington Post) - The British Ambassador to China told an audience in Beijing on Friday that his government continues to welcome investment from China.
  • Zhang Lan cooks up beautiful success (Washington Post) - South Beauty Group, an upscale Chinese dining chain that has tasted success in the domestic market, plans to become the "Louis Vuitton" of the global dining market.
  • Exports facing tough 2013 (Washington Post) - China may suffer an even worse environment for exports next year, in the wake of sluggish global demand, especially in the United States and Japan.
  • North China blizzard kills third Japanese (Washington Post) - The body of a third Japanese tourist was retrieved Monday after a group of six people disappeared on a snow-covered mountain in Hebei province.
  • Most Chinese women exposed to second-hand smoke (Washington Post) - Nearly two-thirds of women of reproductive age in China are exposed to second-hand tobacco smoke at home and over half are exposed in the workplace, which raises the risk of complications in pregnancy, including stillbirths and infant death.
  • Storm strands tourists at Great Wall, killing 3 (Washington Post) - Many parts of North China were hit by heavy snowfall on Sunday, leaving cars stranded on highways and leading to the deaths of three tourists who were stranded overnight on the Great Wall.
  • Changing his tune (Washington Post) - Songwriter, author and social commentator Gao Xiaosong says his drunken driving arrest has inspired him to rethink about his life and work.
  • The Tao of tea (Washington Post) - Started in 1991 to sell fine tea blends to connoisseurs directly from farmers on the Chinese mainland, LokCha has grown from a small tea retail shop into a center promoting Chinese tea and culture.
  • China's English ability lagging behind (Washington Post) - A recent survey shows that China has a low proficiency in English, according to Education First's English Proficiency Index, a ranking of English-language abilities worldwide.
  • Divorcee remarries her ex to save him (Washington Post) - A divorcee who remarried her ex-husband to donate part of her liver to save his life can leave the hospital in a week after a successful 15-hour operation in Beijing.
  • Migrant worker group ready for first congress (Washington Post) - Among more than 2,200 delegates, 26 migrant workers have become a focus as this is the first time they will appear at the National Party Congress as a group.
  • Chinese premier urges Asia-Europe cooperation (Washington Post) - Chinese Premier Wen Jiabao put forward a four-point proposal for promoting steady growth of the global economy in an address delivered at the ninth Asia-Europe Meeting (ASEM) summit on Monday.
  • CPC delegates arrive in Beijing (Washington Post) - Delegates of the 18th National Congress of the Communist Party of China (CPC) from Tibet Autonomous Region arrive in Beijing, capital of China, on Nov 5, 2012.
  • China, Laos pledge to enhance strategic partnership (Washington Post) - Chinese Premier Wen Jiabao and Lao Prime Minister Thongsing Thammavong pledged here Monday to strengthen bilateral cooperation in various fields to promote their countries' comprehensive strategic partnership of cooperation.
  • Handicapped CPC delegate serves villages (Washington Post) - Ma Gongzhi, a handicapped delegate of the 18th CPC National Congress, is a film projectionist in rural areas of Bolin town, Yongxing county, Hunan province.
  • Sandstorm hits parts of NW China (Washington Post) - Strong wind brought a sandy weather and sharp drop of temperature to parts of northwest China on Nov 2, 2012.
  • US jobless rate edges higher in October (Washington Post) - The US unemployment rate rose a notch to 7.9 percent in October, but employers picked up hiring and work force continued to expand. 

Thông điệp của chính quyền

Năm 2011, chính quyền Việt Nam kết án tổng cộng 95,5 năm tù trong 10 vụ án cho 21 nhà hoạt động hoạt động xã hội, dân chủ, nhân quyền và tôn giáo[1]. Năm nay cho đến thời điểm này, 18 người trong 9 vụ án đã bị kết án tổng cộng 118,5 năm tù[2]. Nếu đến cuối năm, 11 thanh niên Công giáo bị bắt từ giữa năm ngoái[3]22 người bị coi là thuộc Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn bị bắt đầu năm nay bị đưa ra xét xử thì số người bị kết án sẽ lên đến trên 50 người với tổng cộng ít nhất 200 năm tù. Năm 2011 chỉ có một bản án nặng (11 năm), năm 2012 có tới 3 bản án nặng (12 năm, 11 năm và 10 năm).
Về nhân thân, 3 trong số 39 người bị kết án là cựu đảng viên cộng sản[4]. Ngoài một người là giáo viên trung học, tất cả đều làm nghề tự do, không thuộc diện cán bộ, công chức hay nhân viên ăn lương nhà nước[5]. 8 người sống ở các tỉnh miền Bắc, 8 người ở miền Trung – đặc biệt tập trung ở Nghệ An, và nhiều nhất ở miền Nam: 23 người. Năm 2011, người trẻ nhất bị kết án 25 tuổi, người cao tuổi nhất 71, tuổi trung bình 48. Có 2 người dưới 30 tuổi. Năm 2012 người trẻ nhất 23, người cao tuổi nhất 63, tuổi trung bình 41. Có 5 người dưới 30 tuổi.
Mười chín vụ án đã xét xử trong hai năm qua cho thấy một số đặc điểm:
Điều 88 
Ngoài một vụ truy tố theo điều 258 BLHS (tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân), một vụ theo điều 226 (tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet), một vụ theo điều 87 (tội phá hoại chính sách đoàn kết), ba vụ theo điều 79 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,) còn lại mười ba vụ đều theo điều 88 (tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam).
Chiến công rực rỡ nhất trong sứ mệnh trấn áp những người bất đồng chính kiến của Bộ Luật Hình sự Việt Nam như vậy thuộc về điều 88, biểu tượng hai chiếc còng, như thể khi soạn thảo và đánh số người ta đã tiên liệu rằng số tù nhân dự khuyết theo điều luật này ở Việt Nam có thể lên tới hàng triệu. Điều 88 của Việt Nam đứng trong một hệ gia phả quốc tế khét tiếng, với những điều luật như điều 58 khoản 10 của Liên Xô trước đây (tội vận động và tuyên truyền chống chính quyền Xô-viết) và điều 102 của Trung Quốc hiện tại (tội vận động và tuyên truyền phản cách mạng). Những điều luật như thế tồn tại là để khóa trái cửa tự do ngôn luận, vì bất kể một phát ngôn nào không trùng khít với lập trường chính thống cũng cấu thành tội phạm, trừ khi người ta nói thầm với hai đầu gối của mình. Nhưng trong thực tế, việc ai lúc nào sẽ rời danh sách dự khuyết để chính thức trở thành một tội phạm được quyết định bởi những yếu tố khác[6].
Bóng ma tổ chức
Trừ ngoại lệ duy nhất là nhà bất đồng chính kiến độc lập Cù Huy Hà Vũ mà sự nổi tiếng và lòng quả cảm khiến ông có tầm ảnh hưởng vượt khỏi phạm vi cá nhân, tất cả những người còn lại đều bị cáo buộc đã tham gia hay có liên hệ với một tổ chức. Đó là những Khối 8406, Đảng Thăng Tiến, Đảng Tự do Dân chủ Việt Nam, Đảng Vì dân, Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, Diễn đàn “Việt Nam và những vấn đề hôm nay”…, gần đây nhất là Nhóm Tuổi trẻ Yêu nước, và nổi bật là Đảng Việt Tân – được nhà nước Việt Nam xếp đầu bảng, ở hạng “tổ chức khủng bố”.
Tôi cho đây là thông điệp căn bản của chính quyền.
Những người cộng sản đang cầm quyền hiểu rõ hơn ai hết vai trò của tổ chức và sức mạnh của công tác vận động quần chúng. Họ đã thành công, dù ở thời họ còn phải hoạt động bí mật, dân trí, ý thức xã hội, năng lực và phương tiện liên kết của người Việt Nam so với ngày nay chắc chắn thấp hơn nhiều bậc. Không có điều gì khiến nhà cầm quyền ở các chế độ độc tài lo ngại hơn việc các công dân bé nhỏ và rời rạc bỗng có tổ chức, bỗng biết tổ chức và biết nhân sức mạnh của mình qua tổ chức, tất nhiên là tổ chức độc lập với chính quyền. Tổ chức là hai chữ cấm kị triệt để nhất, vẫn còn nguyên hiệu lực của nó trong một đất nước Việt Nam đã mở ra khá nhiều cánh cửa trước kia vốn khép kín, sau một phần tư thế kỉ tuyên bố chính sách đổi mới và hòa nhập với thế giới. Tổ chức, nếu không phải là công cụ của chính quyền thì bất kì lúc nào cũng có thể bị quy về cái mẫu số chung hắc ám là chống đối và lật đổ. Danh hiệu “có móc nối với các tổ chức phản động” hay do các tổ chức này “hậu thuẫn, giật dây, lợi dụng” bất kì lúc nào cũng có thể được đem ra phân phát không cần bình bầu. Các tổ chức bị xếp loại thù địch này thường ở nước ngoài, tất nhiên với não trạng đầy hận thù và túi đầy những đồng tiền bẩn thỉu, trước kia thế nào cũng phải mang hình thù gớm ghiếc của CIA, bây giờ thế nào cũng phải thấp thoáng bóng ngôi sao đen Việt Tân, Lời văn mở đầu nổi tiếng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản 1848 có thể viết lại như sau: “Một bóng ma đang ám ảnh toàn cõi nước CHXHCN Việt Nam: Bóng ma tổ chức“.
Liên minh thần thánh của Hà Nội để trừ khử bóng ma ấy không ở đâu xa. Là liên minh với chính nỗi sợ bóng ma này trong phần lớn chúng ta. Khi chúng ta bênh vực quyền biểu lộ lòng yêu nước của những Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… nhưng né tránh quyền đứng trong một tổ chức chính trị của họ, ái ngại cho sự “dại dột” của họ và tìm cách minh oan cho họ, như thể những người đầu xanh tuổi trẻ ấy thừa bồng bột mà thiếu trí khôn. Khi chúng ta với tất cả trí khôn của mình phó thác toàn bộ vận mệnh mình cho một tổ chức duy nhất, Đảng Cộng sản, và chấp nhận việc nó thẳng tay đàn áp mọi tổ chức khác từ trong trứng nước như một định mệnh không thể thay đổi. Khi ngay cả những người vốn sáng suốt và không dễ sợ bóng sợ gió, hễ thấy mùi của một tổ chức nào đó là lập tức đeo khẩu trang. Khi những người giầu khí phách, có thể kiêu hãnh chọc trời khuấy nước, cũng luôn chỉ muốn là những anh hùng cá nhân, không ràng buộc, không tổ chức. Bản thân tôi, người viết những dòng này, đã nhiều lần tự hỏi, liệu lí do khiến mình cho đến nay không gia nhập một tổ chức nào có thật sự chỉ là để bảo vệ chỗ đứng độc lập của người cầm bút?
Đối thủ tôn giáo
17 trong số 39 người bị kết án là người theo tôn giáo: Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo và Pháp Luân công, trong đó khối Công giáo được chiếu cố hơn cả.
Có lẽ nhà thờ ở Việt Nam mong duy trì một hiệp ước bất khả xâm phạm với chính quyền, thành quả của nhiều thập kỉ nỗ lực và chịu đựng, hơn là đóng một vai trò chủ động và thậm chí tiên phong trong công cuộc phản kháng chế độ độc tài như ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Nhưng cộng đồng sáu triệu tín đồ Công giáo Việt Nam chắc chắn sở hữu hai phẩm chất quan trọng mà những người cộng sản từng có, từng coi là bảo bối cho sự nghiệp được coi là bách chiến bách thắng của mình và nay đã đánh mất: thứ nhất, sức mạnh của đức tin, hay nói theo ngôn ngữ đời là sức mạnh của niềm tin, lí tưởng và thứ hai, sức mạnh của đoàn kết. Đó là chưa kể sức mạnh của nhánh hiệp thông thứ ba: hiệp thông với các tổ chức và cộng đồng Thiên chúa giáo thế giới, điều tương tự mà những người cộng sản cũng đã đánh mất với sự phá sản của phong trào cộng sản quốc tế. Nếu những quan sát của tôi không nhầm thì ngoài ra cộng đồng thiểu số này còn chứng tỏ những ưu thế khác so với xã hội bao quanh nó mà đa số là một hỗn hợp của vô thần và mê tín. Nền tảng đạo đức trong giáo dân dường như vững chắc hơn và ý thức xã hội cao hơn mặt bằng chung, trong khi những người lãnh đạo họ dường như thua xa giới lãnh đạo xã hội bên ngoài về thành tích dốt nát, tham nhũng và lộng quyền. Điểm yếu của nhà thờ, xuất phát từ một giai đoạn quá khứ từng tháp tùng chủ nghĩa thực dân, là chỗ đứng tương đối chênh vênh của nó trong tình tự dân tộc. Song nếu có một tổ chức đối lập thật sự đáng gờm cho độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản với gần bốn triệu đảng viên thì đó chính là nhà thờ Công giáo với sáu triệu tín đồ. Cuộc đối đầu tiềm năng giữa hai bên là mã số của nhiều vụ án không chỉ trong hai năm qua.
Những nội dung nhạy cảm
Bốn nội dung chính xuất hiện trong các vụ án kể trên, theo thứ tự tần suất từ cao nhất trở xuống, là:
1) đòi hỏi dân chủ và nhân quyền, đòi hỏi thay đổi hệ thống và mô hình chính trị, chống độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
2) bảo vệ quyền lợi của dân oan và chống tham nhũng;
3) đòi hỏi tự do và bình đẳng tôn giáo, tín ngưỡng;
4) bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biển đảo.
Nội dung thứ nhất xuyên suốt phần lớn các vụ và rõ ràng đóng vai trò quyết định.
Trái với không ít người, tôi cho rằng phẫn nộ về việc Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải bị tổng cộng 26 năm tù chỉ vì đã tham gia biểu tình chống Trung Quốc, Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang bị tổng cộng 10 năm tù chỉ vì mấy bản nhạc yêu nước, hay Nguyễn Phương Uyên bị bắt chỉ vì một bài thơ ghét Tàu là một thái độ vừa không đủ khách quan vừa né tránh sự thật và có phần vô hại hóa hoặc thậm chí tầm thường hóa sự dấn thân của họ.
Họ đã đi xa hơn. Bất chấp thông điệp hà khắc của chính quyền.
Tháng 11 6, 2012

Phạm Thị Hoài
© 2012 pro&contra

[1] Theo thứ tự thời gian, những người bị kết án là Vi Đức Hồi, Cù Huy Hà Vũ, Cao Văn Tỉnh, Dương Kim Khải, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Thành Tâm, Phạm Ngọc Hoa, Phạm Văn Thông, Trần Thị Thúy, Phạm Minh Hoàng, Lư Văn Bảy, Phạm Thị Phượng, Nguyễn Ngọc Cường, Nguyễn Ngọc Tường Thy, Phạm Thị Bích Chi, Vũ Đức Trung, Lê Văn Thành, Nguyễn Văn Lía, Trần Hoài Ân, Hồ Thị Bích Khương và Nguyễn Trung Tôn.
[2] Đó là Nguyễn Văn Thanh, Võ Thị Thu Thủy, Nguyễn Công Chính, Chu Mạnh Sơn, Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đức, Trần Hoàng Phong, Phan Ngọc Tuấn, Đinh Văn Nhượng, Đỗ Văn Hoa, Nguyễn Kim Nhàn, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải, Trần Vũ Anh Bình, Võ Minh Trí (Việt Khang).
[3] Đó là: Nguyễn Đình Cương, Lê Văn Sơn, Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh, Nguyễn Xuân Anh, Hồ Văn Oanh, Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung.
[4] Ông Vi Đức Hồi, ông Đinh Đăng Định và bà Tạ Phong Tần
[5] Ông Phạm Minh Hoàng là giảng viên hợp đồng ở đại học, tức ngoài biên chế nhà nước.
[6] Blogger Người Buôn Gió ghi nhận: “Chúng ta, những người viết blog sẽ có thể bị bắt bất cứ lúc nào khi mà cơ quan an ninh muốn. Không phải ngày hôm nay chúng ta ngừng viết, chúng ta không sờ đến bàn phím nữa, chúng ta sẽ yên lành. Chúng ta đều ở trong rọ, đến thời hạn cần thăng chức, lên lon, xét duyệt, thời điểm cần vụ án chính trị  để phục vụ mục đính chính trị. Người ta thò tay vào rọ và chọn ai đó trong số chúng ta… Chúng ta, những người viết blog ‘lề bên trái’, những người chưa bị bắt chỉ là ‘của để dành’ khi người ta cần lập chiến công nhân dịp xét duyệt phong hàm, chức hay phục vụ quan hệ với một nước nào đó.”

Kami - Giải pháp để buộc đảng CSVN phải tuân thủ pháp luật

Việc xây dựng một nhà nước dân chủ pháp trị, với một xã hội dân sự như hoàn cảnh Việt nam hiện nay cũng có các phương án mà không nhất thiết là phải đập bỏ để thay đổi toàn bộ. Mà trên nền tảng hiện tại, chúng ta có thể cải tạo từ từ, mà trọng tâm là cải cách về mặt luật pháp. Như vậy sẽ đảm bảo sự chuyển đổi hòa bình không đổ máu và đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên. Sửa đổi Hiến pháp là một trong những bước quan trọng nhất làm nền tảng thay đổi các vấn đề liên quan về bộ máy nhà nước.

Ở Việt nam, người ta thường hô hào khẩu hiệu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, mọi người bình đẳng trước luật pháp v.v... đã nhiều chục năm nay, đặc biệt là sau khi đảng CSVN tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vào năm 1986. Thực ra những người lãnh đạo đảng và chính quyền phần nào hiểu  được tầm quan trọng, sự cần thiết của việc thượng tôn luật pháp trong việc quản lý nhà nước đối với một quốc gia. Nhưng ở một đất nước, mà thực tế cho thấy nền kinh tế Việt nam dần thoát ra khỏi quy luật kinh tế của chủ nghĩa Marx-Lenin để đi theo nền kinh tế thị trường. Tuy vậy nếu Việt nam chỉ tiến hành cải cách kinh tế, mà không cải cách chính trị thì gặp phải muôn vàn trở ngại, mà thực tế cho thấy sự khủng hoảng của nền kinh tế Việt nam hiện nay là hậu quả của các chính sách kinh tế chính trị không đồng bộ. Nhưng điều trở ngại cơ bản dễ nhận thấy nhất là sự chuyển đổi từ việc sử dụng nền chuyên chính vô sản thay cho luật pháp để quản lý nhà nước kéo dài nhiều chục năm như ở Việt nam.

Trong nghị quyết Đại hội đảng CSVN toàn quốc lần thứ XI đã ghi rõ “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền” và nghị quyết trên cũng xác định phải “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Như vậy khi Đảng đã đặt mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, nghĩa là bước đầu đã định hướng mọi tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo pháp luật.

Từ trước đến nay, người Việt nam chúng ta nói chung chưa có thói quen tuân thủ pháp luật một cách triệt để, cũng bởi bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn đang ở dạng nhân trị chứ chưa phải pháp trị, người ta hay mang cái tình (suy nghĩ của cá nhân) để áp đặt lên cái lý (luật pháp) từ đó nảy sinh ra tình trạng “phép vua thua lệ làng”, và do tình trạng này kéo dài dẫn đến tình trạng phép nước thua chỉ thị của đảng . Ví dụ như cán bộ địa phương thì vẫn rất ngại đụng đến quyết định của lãnh đạo địa phương mình, cho dù biết ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo sai luật, thậm chí chỉ thị của lãnh đạo mình là vi phạm pháp và trái pháp luật họ cũng phải chấp hành. Cũng vì sự chồng chéo giữa các quy định của đảng và quy định của pháp luật nhiều khi buộc các càn bộ của đảng cảm thấy mình có trách nhiệm thực hiện các quy định của Điều lệ đảng hơn là quy định của luật pháp.

Lý do chính bởi nó chịu ảnh hưởng của một hệ thống tổ chức chính trị nhà nước theo trục dọc, với đảng CSVN là cơ quan lãnh đạo nhà nước và xã hội theo điều 4 của Hiến pháp. Đảng CSVN là tổ chức lãnh đạo toàn diện, đứng trên cả ba hệ thống hành pháp – tư pháp – lập pháp. Đồng thời trong ngành tư pháp, các cơ quan tư pháp cũng tổ chức theo trục dọc từ trung ương đến địa phương, theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. Đây là vấn đề bất cập, nếu có một phương án nào đó giải quyết tháo gỡ các vướng mắc trên mà vẫn đảm bảo đảng CSVN là cơ quan lãnh đạo nhà nước và xã hội theo điều 4 của Hiến pháp. Mà vẫn đảm bảo cơ chế kiểm soát, giám sát các cơ quan của đảng đồng thời bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Trên thực tế, mọi người đều có một sự thống nhất chung rằng các lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN và chính quyền của họ khi hết chức, hết quyền và nghỉ hưu thì phát biểu góp ý với đảng và chính quyền hết sức mạnh mẽ. Đồng thời các góp ý của họ rất chính xác, phản ảnh được dư luận xã hội về các vấn đề mà người dân quan tâm. Điều này là chuyện chắc chắn và có thực và mọi người đều có chung một thắc mắc là vì sao khi còn tại chức, các quan chức đó không lên tiếng? Nguyên nhân cũng như đã nói ở trên, đó là sự chồng chéo giữa các quy định của đảng và quy định của pháp luật nhiều khi buộc các càn bộ của đảng cảm thấy mình có trách nhiệm thực hiện các quy định của Điều lệ đảng hơn là quy định của luật pháp. Hơn nữa, nếu khi đang tại chức mà ai đó mà phát biểu thì họ luôn nghĩ rằng sẽ đụng chạm đến cái ghế lãnh đạo của mình. Như đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết đã bộc bạch rằng chúng tôi chỉ dám nói khi biết mình đã ở nhiệm kỳ cuối.

Điều đó chứng tỏ rằng các quan chức ở Việt nam hiện nay đều biết rõ các bất cập trong cơ chế quản lý, điều đã khiến cho đời sống, kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt nam lâu nay cứ bùng nhùng không có lối thoát. Tất cả đều vì một nguyên nhân cơ bản đó là các quan chức hay đại biểu của dân chỉ biết đặt quyền lợi của bản thân lên trên lợi ích của đất nước và nhân dân. Điều mà chỉ khi họ hết quyền lực mới được thể hiện qua các bài báo, bài trả lời phỏng vấn. Điển hình là ông Nguyễn Văn An nguyên Chủ tịch Quốc hội, hay ông Hữu Thọ nguyên trưởng ban Tổ chức Trung ương v.v... mà những ý kiến của họ được dư luận xã hội hết sưc ủng họ và hưởng ứng.

Vây tại sao chúng ta không nghĩ đến việc sử dụng tiềm năng số cán bộ đã nghỉ hưu này, để tạo một cơ chế kiểm soát, giám sát các cơ quan của đảng, đồng thời bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”? Nếu họ - những cán bộ quan chức cao cấp đã nghỉ hưu được hoạt động trong các cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát luật pháp kể cả các cơ quan của đảng như Tòa án Hiến pháp, Thượng nghị viện v.v... thì hết sức hiệu quả. Vì cái được lớn nhất sẽ là giám sát, bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, đồng thời vẫn đảm bảo sự trung thành của họ đối với đảng CSVN.

Chức năng của cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát luật pháp kể cả các cơ quan của đảng như Tòa án Hiến pháp, Thượng nghị viện sơ bộ như sau:

Tòa án Hiến pháp

Qua nghiên cứu sơ bộ các mô hình cơ quan bảo hiến ở một số nước, có thể thấy mô hình cơ quan bảo hiến châu Âu – tức là thành lập Tòa án Hiến pháp để bảo vệ Hiến pháp là tối ưu. Tòa án Hiến pháp có những quyền hạn như: Giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, văn bản luật pháp dưới luật, điều ước quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật khác; Giải thích Hiến pháp; Giải quyết khiếu nại đối với văn bản, hành vi vi phạm Hiến pháp của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với nhau; giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan địa phương.

Điều đặc biệt, Tòa án Hiến pháp có quyền giải quyết tranh chấp trong các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân; Xem xét các vấn đề liên quan đến việc miễm nhiệm nghị sỹ và cách chức các quan chức cấp cao của Nhà nước; Tham gia luận tội các quan chức cấp cao của nhà nước…

Thượng nghị viện

Sửa Hiến pháp có thể bổ xung việc tạo ra một Quốc hội lưỡng viện, Thượng nghị viện và Hạ nghị viên. Theo đó Hiến pháp quy định việc chấp thuận của cả hai viện lập pháp là cần thiết để phê chuẩn luật. Mục đích chính là với ý muốn có hai viện lập pháp để trông coi, kiểm soát lẫn nhau. Hạ nghị viên là cơ quan lập pháp được lập lên là một cơ quan của đại biểu nhân dân, thông qua đó phản ánh các ý kiến của công chúng thông qua các văn bản pháp luật. Thượng nghị viện là một cơ quan lập pháp và là một diễn đàn thông thái, ưu tú có tính cách bàn luận của các chuyên gia hay những người có hiểu biết và uy tín xã hội lớn. Thượng nghị viện  kiểm soát và thẩm định việc ban hành các văn bản pháp luật của Hạ nghị viện đã thông qua trước khi đưa vào sử dụng hơn mà nơi đó các thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ sáu năm sẽ không bị chi phối bởi ý kiến của công chúng. Nhưng có thể bị truất phế khi có quyết định của Tòa án Hiến pháp.

Các cơ quan kể trên với chức năng chính là để giám sát, thông qua một lần nữa các dự luật, hoặc thẩm định tính hợp hiến của các Văn bản luật, quy phạm pháp luật. Hay giải quyết các tranh chấp liên quan đến tính pháp lý của các cá nhân, doanh nghiệp đối với các cơ quan đảng và chính quyền. Điều đó về cơ bản sẽ đảm bảo tính công bằng của luật pháp, tính thượng tôn của pháp luật trong đời sống xã hội, đồng thời vẫn đảm bảo phần nào sự lãnh đạo của đảng CSVN. Sở dĩ chỉ nói một phần vì những quan chức nếu được bổ nhiệm vào những chức vụ trong các cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát như nói ở trên cộng với một số quy định về quyền hạn trách nhiệm của họ như: không bị bãi miễn, được hưởng lương và các chế độ phụ cấp đặc biệt cho đến hết đời (trừ chức danh Thượng nghị sĩ do dân bầu theo nhiệm kỳ quy định.

Cho dù giải pháp nêu ở trên không phải là giải pháp đúng đắn và đầy đủ nhất, nhưng nó cũng là giải pháp cần thiết nên có để kiểm soát và cân bằng quyền lực của đảng CSVN, bắt buộc đảng CSVN phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật trong thời gian hiện tại. Đồng thời nó cũng là bước đầu để tiến hành cải cách tư pháp, để tạo tiền đề cho một nhà nước pháp quyền và một xã hội dân sự. Nhưng quan trọng nhất, đây là biện pháp để chấm dứt tình trạng đảng đứng trên pháp luật như hiện nay ở Việt nam.

Ở thời điểm này, khi báo chí nói rất nhiều về vấn đề sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thiết nghĩ đề nghị nhỏ này sẽ được nghiên cứu xem xét và đưa vào nghiên cứu cụ thể để áp dụng. Giải pháp nêu trên an toàn, mà vẫn đảm bảo sự lãnh đạo của đảng CSVN, dễ dàng tiến hành được ngay sau khi bổ xung các điều khoản liên quan trong Hiến pháp mới. Đây là vấn đề cần thiết và quan trọng, vì "Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới sự tha hóa tuyệt đối". Không những thế, giải pháp này sẽ giúp tăng cường uy tín của đảng CSVN đã và đang ngày một bị bào mòn đến mức không còn gì để nói nữa.

Ngày 06 tháng 11 năm 2012
© Kami
(Blog RFA's)

Ngân hàng Thế giới khuyến nghị Việt Nam sửa đổi luật đất đai

Hôm 5/11, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã công bố Khuyến nghị chính sách “Sửa đổi Luật Đất đai để thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam” trước thềm các phiên thảo luận của Quốc hội Việt Nam về thay đổi Luật Đất đai, tập trung vào các cải cách cần thiết để giải quyết các kẽ hở và thiếu sót hiện thời.
Nghiên cứu của World Bank cung cấp những ý tưởng về cải cách thể chế quan trọng để cải thiện hệ thống quản lý đất đai của Việt Nam, giảm bớt bất ổn liên quan đến tranh chấp đất
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nói: "Điều quan trọng là sửa đổi Luật Đất đai cần tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho việc quản lý đất đai một cách hiệu quả, công bằng và bền vững hơn về môi trường đối với nguồn tài nguyên đất đai khan hiếm."
Một số các đối tác phát triển, trong đó có Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cũng đang chuẩn bị một khuyến nghị chính sách với nhưng thông điệp chính tương tự.
Bà Pratibha Mehta, Điều phối viên Quốc gia của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, cho rằng đối xử công bằng giữa các đối tượng sử dụng đất là rất quan trọng đối với tăng trưởng công bằng hơn và phát triển con người ở Việt Nam.
Các vấn đề liên quan đến đất đai tiếp tục chiếm áp đảo trong số các khiếu nại mà chính phủ nhận được, và tham nhũng liên quan đến các vấn đề đất đai được xem là phổ biến rộng rãi.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cung cấp những ý tưởng về cải cách thể chế quan trọng để cải thiện hệ thống quản lý đất đai của Việt Nam, giảm bớt bất ổn liên quan đến tranh chấp đất đai, và kiểm soát tham nhũng tốt hơn.
Nghiên cứu này đưa ra các cải cách liên quan đến bốn chủ đề chính: sử dụng đất nông nghiệp, minh bạch và công bằng trong thu hồi đất và bồi thường, quyền sử dụng đất của các nhóm dễ bị tổn thương, và quản lý quy hoạch đất đai.
Nghiên cứu cho rằng một cơ chế hiệu quả và minh bạch để xác định giá đền bù đất khi đất bị Nhà nước thu hồi là một ưu tiên hàng đầu.
Nguồn: World Bank, VNA

An ninh và TTXVN có vi phạm điều 88 không?

Sài Gòn – Chiều và tối thứ bảy, 03.11.2012, đồng loạt các báo đài và ti vi ở Việt Nam đưa tin cô sinh viên 20 tuổi tên Nguyễn Phương Uyên, người Bình Thuận và anh kỹ thuật viên vi tính Đinh Nguyên Kha, người Long An đã “cấu kết với nhau rải truyền đơn có nội dung chống phá Nhà nước Việt Nam tại cầu vượt Quang Trung (quận 12, TP HCM), vi phạm Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về tội tuyên truyền chống Nhà nước” (theo VOV).
Thông tin này được các phương tiện thông tin đại chúng tại Việt Nam cho biết do Sở công an tỉnh Long An phối hợp với Sở công an và Sở thông tin truyền thông Tp.HCM phổ biến trong cuộc họp báo cùng ngày. Theo VOV, trong cuộc họp báo, “Đại tá Nguyễn Sáu – Phó Giám đốc Công an tỉnh Long An cho biết: “Hai đối tượng này, qua điều tra, chúng tôi có đủ cơ sở và chứng cứ để khẳng định chúng vi phạm Điều 88, Bộ Luật Hình sự. Hành vi của đối tượng là làm ra, tán phát tài liệu có nội dung chống lại Nhà nước. Trong vụ án còn một số dấu hiệu của tội khủng bố. Chúng tôi sẽ tiếp tuc điều tra”.
Sau đó, chúng tôi vào website của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) để kiểm chứng thông tin, tại www.vietnamplus.vn và thấy ở đây cung cấp thông tin khá đầy đủ, nhất là có cả hình tờ truyền đơn.
Trên tờ truyền đơn được đăng trên website của TTXVN viết như sau:

Dưới hình tờ truyền đơn này có ghi chú: “Truyền đơn của Uyên và Kha. (Ảnh Hà Huy Hiệp/Vietnam+)”
Bài báo đăng trên TTXVN có đoạn viết: “Theo cơ quan an ninh điều tra, vào lúc 3 giờ 45 phút ngày 10/10, Uyên và Kha đóng giả là đôi tình nhân, từ Long An chở một thùng cạc tông chứa 2.000 tờ truyền đơn phản động và cờ ba sọc từ Long An đến Cầu vượt An Sương, TP Hồ Chí Minh, cài điện thoại hẹn giờ để đến 7 giờ 15 phút truyền đơn đã được rải xuống đường dưới cầu.
Các truyền đơn này mang nội dung xuyên tạc, bịa đặt chính sách Tôn giáo, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta cũng như quan điểm lệch lạc về Trường Sa-Hoàng Sa và biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc; quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam tha hóa, phản động… không lo cho dân và kêu gọi, kích động nhân dân đứng lên biểu tình chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Các tờ truyền đơn được dán với một tờ tiền Việt Nam với mệnh giá 5.000 đ, 10.000 đ và 20.000 đồng” [các chữ "2.000 tờ truyền đơn" do chúng tôi nhấn mạnh - NV].
Đó là thông tin mà ai ở Việt Nam quan tâm đến thông tin dù là của lề đảng hay lề dân gì cũng đều đã biết.
Vấn đề chúng tôi đặt ra ở đây là: Tại sao công an tại Long An và Tp.HCM cùng Sở thông tin truyền thông lại cung cấp hình bản truyền đơn bị kết án là “tài liệu có nội dung chống lại Nhà nước”, và TTXVN lại đăng nguyên hình tờ truyền đơn mà họ giải thích là: “mang nội dung xuyên tạc, bịa đặt chính sách Tôn giáo, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta cũng như quan điểm lệch lạc về Trường Sa-Hoàng Sa và biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc; quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam tha hóa, phản động… không lo cho dân và kêu gọi, kích động nhân dân đứng lên biểu tình chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam”?
Theo chúng tôi được biết, mỗi ngày tối thiểu có hơn 100.000 lượt người truy cập vào website này của TTXVN. Nếu so sánh số 100.000 người đọc được bản truyền đơn này trên Vietnam+ với số 2000 tờ truyền đơn do Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên rải (nếu chính xác là có, vì tới giờ phút này Tòa án chưa xác nhận điều đó, mà chỉ là thông tin một chiều do công an cung cấp. Trong quá khứ, nhất là vụ PMU 18, công an đã cung cấp tông tin sai sự thật), thì việc phát tán thông tin gọi là phản động, đáng kết tội theo điều 88 của Bộ luật hình sự (BLHS) thì TTXVN với sự tiếp tay của an ninh địa phương và cơ quan có chức năng giám định nội dung văn bản đã phát tán tài liệu này nhiều gấp 50 lần Nguyên Kha và Phương Uyên.
Như vậy, công an Long An và Tp.HCM, Thông tin truyền thông Sài Gòn và TTXVN có vi phạm điều 88 cách rất nghiêm trọng (khoản 2) của BLHS hay không?
* Chúng tôi sợ sau khi đặt vấn đề này ra thì bài báo đó của TTXVN bị kéo xuống để xóa bằng chứng, nên chúng tôi đã chụp hình lại, và xin trình cho cả làng được rõ:

Ông Trương Tấn Sang: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân

Tại phiên thảo luận về phòng chống tham nhũng sáng ngày 1.11, Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng an ninh Trần Đình Nhã lên tiếng kêu gọi tuyên chiến với tham nhũng.

  (Minh họa: Vũ Toản)
 (Minh họa: Vũ Toản)
Vậy là trong mấy ngày liên tiếp, nghị trường nóng ran với những lời vạch mặt tham nhũng, lên án tham nhũng và tuyên chiến với tham nhũng. Sự phẫn nộ của các vị đại biểu cũng chính là lòng oán giận của nhân dân đối với quốc nạn này. Đồng tiền mồ hôi xương máu của nhân dân đã bị bàn tay tham nhũng vét đến độ ngân khố không còn tiền để thực hiện cam kết tăng lương. Tham lam bòn rút tiền của nhà nước mà nếu đem so sánh thì có thể xây dựng được nhiều trường học, bệnh xá phục vụ đời sống, sinh hoạt, học tập và chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.

Dân biết tỏng các gương mặt tham nhũng nhưng lôi cổ được chúng ra vành móng ngựa quá khó khăn. Nói như cách ví von của đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng), con mèo ăn vụng cục mỡ thì tóm để quật được, còn con hổ bắt cả con heo thì chẳng ai dám bén mảng đến can thiệp. Bằng chứng là tham nhũng tràn lan, số tiền tham nhũng bị mượn danh thất thoát, lãng phí khổng lồ, nhưng án tham nhũng rất ít, toàn chuyện vặt. Thế mới đại nguy.


Đại nguy ở chỗ nào vậy? Chính là chỗ thách thức sự kiên nhẫn và lòng bao dung của nhân dân. Một khi dân đã không còn sức chịu dựng được nữa thì cực kỳ nguy hiểm. Còn nhớ đợt tiếp xúc cử tri TPHCM ngày 17.10 vừa qua, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhắc lại lời nói bất hủ của Nguyễn Trãi: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”.


Bàn về sự thách thức đó, đại biểu Trần Đình Nhã nói: “"Nghị quyết của Đảng nói rằng tham nhũng đang thách thức sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Tôi muốn nói thêm là tham nhũng cũng đang thách thức Quốc hội, nguy hiểm hơn là thách thức sự kiên nhẫn, sự chịu đựng của nhân dân". Xin lưu ý ở đây là hai chữ “nguy hiểm”.


Một đất nước một thời “ra ngõ gặp anh hùng” giờ đây chỗ nào cũng thấy bóng dáng tham nhũng, hỏi không cay đắng sao được. Giặc ngoại xâm nào dù to lớn mấy cũng đánh thắng được, riêng giặc “nội xâm” thì càng đánh càng thấy giặc đông hơn, mạnh hơn. Sợ nhất là có những tên giặc nội xâm lại núp bóng trong đội quân chống tham nhũng.



Nhưng chẳng lẽ bàn hoài, kêu gọi chống mãi để rồi mỗi kỳ Quốc hội lại đưa ra phân tích, mổ xẻ. Điều mà dân chờ đợi chính là diệt trừ được tham nhũng và dân đã chờ quá lâu, chờ đến mức mất dần kiên nhẫn. Đại biểu Trần Đình Nhã thẳng thắn: “Xin Quốc hội hãy tỏ rõ thái độ của mình không chỉ bằng lời nói". Và theo ông Nhã, thái độ cụ thể là Quốc hội lập cơ quan độc lập chuyên trách điều tra tội phạm tham nhũng. Cơ quan này chỉ tập trung vào điều tra các tội tham ô, hối lộ và lợi dụng chức vụ quyền hạn.


Hy vọng Quốc hội sẽ lắng nghe đề xuất này để có một cơ quan thực hiện quyền lực của Quốc hội trong việc phòng chống tham nhũng..
Lê Chân Nhân
(Dân trí) 

Điều kỳ lạ ở ĐH Tân Tạo của gia đình ông Đặng Thành Tâm

Trường Đại học Tân Tạo (TTU) được Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ký văn bản chính thức chấp thuận cho Trường Đại Học Tân Tạo (TTU) thành lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2010. Và do bà Đặng Thị Hoàng Yến làm Chủ tịch Hội đồng quản trị của TTU. Lúc thành lập bà Yến từng khẳng định: mang lại một nền giáo dục tiêu chuẩn quốc tế cho những sinh viên tài năng, bất kể hoàn cảnh tài chính của các em. Bà khẳng định: ĐH Tân Tạo sẽ là một trường ĐH tư thục phi lợi nhuận. Sự thật có phải vậy không?
Thế nhưng đến nay, thực tế không phải thế! Không những không phi lợi nhuận mà trường này còn đưa ra mức học phí hàng nghìn USD/năm. Điều này chứng tỏ, những gì bà nói từng nói về ĐH Tân Tạo của bà là “phi lợi nhuận” chỉ là trò mị dân và để đánh bóng tên tuổi của bà ta mà thôi.

Ngày khai trương ĐH Tân Tạo, VIP đến thăm và bà cựu Nghị Yến đã chỉ thẳng vào mặt VIP....nói gì?
Để dụ người ta vào học tại TTU, bà Yến đã đưa ra chiêu bài dùng tiền để câu mồi. Chiêu thức mà bà đưa ra là tất cả sinh viên trúng tuyển vào đại học Tân Tạo năm đầu tiên đều được cấp học bổng toàn phần “Vì tương lai” trị giá 3.000 USD để theo học năm thứ nhất tại trường. Còn các năm sau, sinh viên vẫn phải tự đóng học phí. Bởi để sinh viên đạt được yêu cầu của bà để có thể tiếp tục nhận được học bổng là vô cùng hóc búa: Học bổng năm thứ hai phụ thuộc vào kết quả điểm trung bình học tập của các em ở năm trước. Từ 3.5/4 trở lên (theo hệ chấm điểm 5) nhận 100% học bổng; từ 3.0 – dưới 3.5: nhận 75% học bổng; từ 2.5 – dưới 3.0 nhận 50% học bổng; dưới 2.5: không được cấp học bổng. Với những quy định như vậy, thử hỏi được bao nhiêu sinh viên có thể nhận được học bổng các năm tiếp theo?.
Quay trở lại vấn đề Trường Đại học Tân Tạo của bà Yến có phải phi lợi nhuận hay không? Tôi khẳng định là không! Bởi nếu là một ĐH phi lợi nhuận thì sao sinh viên vào học phải đóng tiền, sao không cho học miễn phí? Không những thế mà mức tiền học phí còn khá cao: 3000 USD/năm. Có lẽ vì thế mà cũng chẳng có “ma” nào vào học ở một trường ĐH được bà Yến gọi là “đẳng cấp quốc tế” nhưng nằm tít ở huyện Đức Hòa, ngay vùng đất ngập nặng phèn "trồng cây gì, con gì"...cũng chết. 
Để tôi đưa ra dẫn chứng cho quý vị xem trường “đẳng cấp quốc tế” của bà Yến bị xã hội lãng quên như thế nào nhé: Kỳ thi tuyển sinh năm 2012 chỉ tiêu của trường là 500 chỉ tiêu nhưng chi có 73 thí sinh dự thi. Và đến thời điểm này, kể cả số thí sinh thi đậu vào trường và số thí sinh bị “dụ” trong đợt xét tuyển nguyện vọng bổ sung thì nay chỉ có 29 tân sinh viên nhập học. Trong đó ngành kinh doanh quốc tế có số sinh viên nhập học đông nhất là 16, ngành quản trị kinh doanh 6 sinh viên... Rõ ràng thiên hạ đã tỏ chiêu bài của cái gọi là "đại học phi lợi nhuận" của bà Yến như thế nào!
Trường được nói là ĐẠI HỌC PHI LỢI NHUẬN nhưng các bạn hãy nghĩ xem: Ở đời có qua có lại, làm gì có ai cho không ai cái gì bao giờ. Thử nghĩ đi đã là đại học DÂN LẬP thì đằng nào cũng thu phí và thu lợi nhuận. Phàm ở đời khi người ta cho không bạn cái gì cũng thu lại bạn cái khác hoặc chỉ khi là cái vỏ bọc được tạo ra để hoạt động nhằm mục đích khác mà thôi. Vế sau thì chắc các bạn đã rõ trong những kỳ trước khi thám tử CÒ đã chứng minh cái "kinh khủng" ấy.

Sự hào nhoáng  ban đầu của ĐH Tân Tạo khiến ai cũng "lé" con mắt....





Dãy nhà dừng thi công và bỏ hoang trong khuôn viên ĐH Tân Tạo 
Và cổng chào của trường ĐH Tân Tạo thì như thế này 
Đặc biệt hơn, đại học Tân Tạo là thuộc tập đoàn Tân Tạo. Một khi tập đoàn này phá sản (chắc phá sản trong nay mai thôi!) thì trường cũng bị giải tán và mọi sinh viên sẽ đi đâu? Theo tâm sự của một học viên trường này trên diễn đàn http://www.aotrangtb.com/t8369-topic thì: Cơ sở vật chất chưa hoàn thiện mà đã thông báo tuyển sinh, đã thế còn tự cho rằng trường có 64 tòa nhà lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Sinh viên học tới đâu thì xây nhà đến đó.
Chất lượng kém vô cùng. Thậm chí họ còn lập ra trường trung học phổ thông Năng Khiếu Tân Tạo: học sinh năm đầu được trường chu cấp toàn bộ tiền ăn, tiền ở kí túc xá và thậm chí là học phí và năm sau sẽ được cấp học bổng nếu điểm trung bình đạt 7.0. Nếu tính sơ sơ chỉ riêng trường cấp 3 này đã cấp cho 1 học sinh/năm/20triệu đồng, thế thì 500 người sẽ là bao nhiêu nhỉ??? Và cuối cùng học viên này khuyên “Kinh doanh thì không có lời có lãi, kinh doanh làm gì. Tóm lại mọi người nên cẩn thận khi quyết định thi vào trường này để tránh bị "dính chưởng".
Điều đáng nói nữa về trường ĐH Tân Tạo của bà Yến là: Trong thời gian từ 11/11/2011 đến 27/3/2012, hai công ty đều do bà Đặng Thị Hoàng Yến làm Chủ tịch Hội đồng quản trị là Công ty cổ phần Đại học Tân Tạo và Công ty Đầu tư Công nghiệp Tân Tạo (ITA) do bà Yến làm Chủ tịch Hội đồng quản trị đã bán chui cổ phiếu.
Tại Công ty cổ phần đại học Tân Tạo, Công ty cổ phần Đầu tư Công nghiệp Tân Tạo góp vốn 601,54 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ sở hữu 13,47%. Theo đó, Đại học Tân Tạo đã bán 22,115 triệu cổ phiếu của Công ty Đầu tư Công nghiệp Tân Tạo (ITA). Trong thời gian trên, Đại học Tân Tạo giao dịch bán nhiều lần làm thay đổi tỷ lệ sở hữu vượt quá 1% số lượng chứng khoán ITA đang lưu hành nhưng không báo cáo về thay đổi sở hữu cổ đông lớn. Ngoài ra, Đại học Tân Tạo cũng không còn là cổ đông lớn tại ITA nhưng không công bố thông tin. Trước đó, theo Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM, đại học này là cổ đông lớn của Công ty cổ phần Đầu tư Công nghiệp Tân Tạo.
Lý giải về việc bán cổ phiếu chui như trên, bà Yến nói rằng: “Trường phải bán bớt cổ phiếu ITA để có tiền trả lương giáo sư và nuôi sinh viên được cấp học bổng 100%”. Suy đi, ngẫm lại câu nói của bà thấy nực cười: đã đầu tư xây dựng trường và còn có chủ trương là “phi lợi nhuận” vậy mà lại không có tiền trả lương, không có tiền cấp học bổng. Chắc có lẽ lúc bà thành lập trường do cao hứng quá nên mới nói hố ra như vậy, nên giờ hết tiền đành phải bán cổ phiếu chui lủi!.
Cần phải nói thêm rằng, hiện nay tại ĐH Tân Tạo đang nuôi nguyên một nhóm người Mỹ mà gốc tích của họ cũng đã được sáng tỏ phần nào khi có quan hệ với CIA.
Thế họ là ai?
Đó là TS. Trần Xuân Thảo, Phó hiệu trưởng, vốn là nhân vật cấp cao của Phòng Thông tin Văn hóa, Đại Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Ông Malcolm Gillis: hoạt động dưới vỏ bọc Chủ tịch Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF), từng hoạt động ở Bắc Triều Tiên dưới vỏ bọc hiệu trưởng của trường Đại học Khoa học-Công nghệ Pyongyang (CHDCND Triều Tiên).
Ông Peter Lange: chuyên gia cấp cao về khoa học chính trị của CIA, có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu tình hình chính trị và kinh tế chính trị để đưa ra tham vấn cho Mỹ trong việc gia tăng ảnh hưởng ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, còn hàng chục người khác cũng là người Mỹ mà bà Yến đã quan hệ, chưa đủ điều kiện kiểm chứng thông tin. Không biết những vị giáo sư, tiến sĩ này đến ĐH Tân Tạo của bà Yến làm gì khi trường này chỉ với vài chục sinh viên như thế???
Người Sài Thành
(Ba cây gậy)

Không thể để ông Đặng Thành Tâm làm "ảo thuật gia"

Ông Đặng Thành Tâm từng công bố bên lề tại Kỳ họp Quốc hội XIII vừa rồi về số nợ của gia ông và người chị Đặng Thị Hoàng Yến lên đến 500 triệu USD (tương đương khoảng 10.000 tỷ đồng). Số tiền này nếu ngân hàng cho vay thì mỗi ngày lãi lên đến hơn 3 tỷ đồng. Và nếu tính theo tháng thì lên đến hơn 90 tỷ đồng… Không thể để ông Tâm và bà Yến cứ ôm cục nợ như thế mãi khi mà hàng nghìn cán bộ công chức của chúng ta đang phải sống với đồng lương ít ỏi, công nhân thì bữa đói, bữa no. Cần phải có biện pháp xử lý nghiêm ông Tâm và bà Yến, buộc họ phải trả nợ. Hiện nay, không ai biết được đến khi nào chị em gia đình họ Đặng mới trả hết số nợ trên. Hay là tìm cách để cuối cùng chơi chiêu bài… “chuồn”.
 Hình ảnh ông Tâm trở lại Quốc hội một cách đầy diễu cợt
Từ trước tới nay, Ông Tâm được coi như là một doanh nhân thành đạt nhưng thực chất đó chỉ là cái mác của ông. Bởi ông chỉ toàn dùng chiêu thức đầu tư ảo, chạy dự án để kiếm tiền bỏ vào túi riêng. Hàng loạt dự án do ông và Tân Tạo đầu tư chỉ có lễ khởi công nhưng không triển khai mà nằm im để tìm kiếm đối tác bán lại, hưởng chệnh lệch. Tính đến nay, tổng số tiền đầu tư tại các dự án mà Công ty Cổ phần đầu tư Sài Gòn – SGI - Tâm làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị đã công bố lên trên 16 tỉ USD. Theo báo Cựu Chiến Binh thì: Theo đánh giá của giới đầu tư, đây là con số ảo, hoàn toàn không có và cũng chưa có ai kiểm tra mà chỉ đơn thuần là công bố của ông Đặng Thành Tâm. Vì thực chất hầu hết các dự án mà SGI đã khởi công xây dựng từ trước đến nay đều không có vốn đầu tư. Hình thức là bằng các mối quan hệ cũng như lấy mác là có quan hệ với VIP, ông Tâm đã chạy dự án và chỉ khởi công nhưng không triển khai mà để nằm im để tìm kiếm đối tác bán lại, hưởng chệnh lệch. Chưa hết, ông Đặng Thành Tâm còn sang nước bạn Lào với chiêu bài hứa hẹn cho tiền hàng triệu USD để xin đất rồi khởi công dự án nhưng sau đó lại chờ để sang nhượng cho các doanh nghiệp khác .
Cũng theo báo Cựu Chiến Binh thì tại tỉnh Quảng Ngãi, SGI có ba dự án thì 2 đã bị thu hồi giấy phép đầu tư. Từ năm 2008, Tập đoàn Tân Tạo xúc tiến 3 dự án đầu tư lớn tại tỉnh Quảng Ngãi với số vốn đăng ký lên đến 50 triệu USD và 1.485 tỉ đồng. Tuy nhiên, sau nhiều năm được cấp phép, hầu hết các dự án vẫn “án binh bất động”. 3 dự án đó là Khu thương mại-dịch vụ-phim trường Vina Universal Paradise ở huyện Sơn Tịnh với diện tích khoảng 60 ha, có tổng vốn đầu tư 949,6 tỷ đồng. Dán sẽ được thực hiện trong thời gian 4 năm, từ năm 2008 – 2011. Dù dự án được khởi công vào đầu năm 2009, nhưng sau khi khởi công xong dự án bỏ đó cho đến nay và khả năng dự án sẽ không được tiếp tục triển khai theo cam kết của ông Đặng Thành Tâm. Còn lại hai dự án khác cũng nằm im lìm.Đó là dự án khu du lịch phim trường Vina Universal, vốn đầu tư 50 triệu USD, thực hiện trên diện tích gần 2.600 ha tại huyện Đức Phổ; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN Phổ Phong (huyện Đức Phổ) có diện tích trên 157 ha, vốn đầu tư trên 285 tỉ đồng. Tháng 6-2011, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định thu hồi dự án khu du lịch phim trường Vina Universal. Còn dự án KCN Phổ Phong cũng… im re. Tỉnh tổng hết các dự án mà SGI đầu tư thì hiện có 11 dự án của SGI đầu tư khởi công rồi nằm im để chờ sang tay cho đối tác kiếm tiền chênh lệch. Ấy chưa nói đến những hồ sơ các dự án này đã được dùng để vay ngân hàng làm nguồn tài chính hoạt động cho SGI và các mục đích khác có "dzính dzắc" ảnh hưởng đến hoạt động an ninh quốc gia của Việt Nam.
Tại Ngân hàng Phương Tây (Western Bank- Trụ sở chính đặt tại thành phố Cần Thơ), Ông Đặng Thành Tâm là một trong các cổ đông chủ chốt của ngân hàng này, ông Tâm cũng đang có hàng loạt sai phạm. Theo báo Năng Lượng Mới (Petrotimes): đến quý I/2012, Ngân hàng Phương Tây  là ngân hàng mất khả năng thanh khoản và bị đặt trong tình trạng giám sát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cũng đã tiến hành thanh tra và chỉ đạo tái cơ cấu tổ chức dẫn tới sự thay đổi lớn của thành phần cổ đông giúp Ngân hàng Phương Tây hiện nay đã hoạt động bình thường. Tuy nhiên, trước đó, tại đây đã xảy ra hàng loạt sai phạm: Vi phạm nghiêm trọng Điều 55 khoản 3, Luật Các Tổ chức Tín dụng: quy định, cổ đông và người có liên quan cổ đông đó không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Trong khi đó, cổ đông Nguyễn Thị Kim Thanh, là vợ của ông Đặng Thành Tâm và người có liên quan là anh, chị, em ruột… sở hữu 35,78% vốn điều lệ của Ngân hàng Phương Tây. Nghiêm trọng hơn, trong vòng 3 tháng, từ tháng 5 đến tháng 8/2011, 3 khoản tiền lớn Ngân hàng Phương Tây chuyển cho các khách hàng Vũ Thùy Hương (160 tỉ), Công ty Cổ phần chứng khoán Sài Gòn (280 tỉ) và Công ty Đầu tư Sài Gòn (212,3 tỉ) theo các hợp đồng đầu tư ủy thác. Ngay sau đó cả 3 khách hàng này đã chuyển toàn bộ số tiền trên vào tài khoản cá nhân của ông Đặng Thành Tâm. Đây là điều khuất tất nghiêm trọng cần phải được điều tra làm rõ.
Hoạt động bất thường tài chính ở ngân hàng Phương Tây (Western bank) do một số cá nhân và tổ chức sáng lập liên quan đến gia đình của ông Tâm, trong đó có cả sự tăng vốn  bất thường. Từ ổ tài chính này, nó liên quan đến hoạt động tài chính của các "con" của SGI là Công cổ phần khoáng sản Sài Gòn - Quy Nhơn (SQC); Tổng công ty phát triển Đô thị Kinh  Bắc (KBC)....Mà,  những hoạt động này đang trên đường...vỡ nợ!
Cũng liên quan đến tài chính, theo báo Cựu Chiến Binh Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc được ông Đặng Thành Tâm công bố là hoạt động hiệu quả trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, có vốn điều lệ gần 3.000 tỉ đồng, số vốn hóa là 10.000 tỉ đồng. Thế nhưng lợi nhuận hàng tháng tính từ công việc chính của đơn vị là trên dưới 150 triệu đồng, trong khi đó phần vốn lưu động hiện tự kê khai là 5.400 tỉ đồng. Tổng tài sản có khoảng 10.200 tỉ đồng, tài sản tự có là 4.000 tỉ đồng, nợ gần 6.000 tỉ đồng. Như vậy, với doanh thu hiện có thì công ty này có rất nhiều vấn đề về tài chính. Đơn cử với 6.000 tỉ đồng đang nợ, trong đó 2.500 tỉ đồng nợ ngắn hạn đơn vị này sẽ bị áp lực về nguồn lãi vay khoảng 90 tỉ đồng, chưa kể tiền gốc. Lĩnh vực công nghệ viễn thông mà ông Tâm đang theo đuổi cũng không phải là ngoại lệ. công ty thành viên của SGI là SaigonTel (SGT) đã lỗ hơn 113 tỉ đồng năm 2011 và lỗ tiếp 57 tỉ đồng sau nửa năm 2012.
Trong tháng 9, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã bắt 2 thuộc cấp của ông Đặng Thành Tâm là ông Nguyễn Duy Hưng, Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Cổ phần đầu tư Sài Gòn (SGI) ở Hà Nội về hành vi "Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước" theo điều 263 Bộ luật Hình sự và bà Nguyễn Thị Bích Trang nhân viên của Công ty Cổ phần đầu tư và công nghiệp Tân Tạo (ITACO) ở TP Hồ Chí Minh vì Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự.
ITACO là công ty thuộc Tập đoàn Tân Tạo do chị ông Tâm, bà Đặng Thị Hoàng Yến, làm chủ tịch. Những thông tin về các sai phạm của ông Đặng Thành Tâm trong lĩnh vực làm kinh tế cần mau chóng được các cơ quan chức năng làm rõ và xử lý nghiêm minh, để đem lại niềm tin vào công lý của người dân. Cần phải sớm điều tra những sai phạm của ông Tâm và xử lý nghiêm chứ không nên để ông tiếp tục gắn mác doanh nhân thành đạt đi lừa tiền của xã hội như hiện nay!
Người Việt
(Ba cây gậy)

Không thể mãi lịch sự với kẻ cướp!

“Khi có tên cướp đột nhập vào nhà cướp tài sản.Nếu không đủ sức và không thể nện cho tên cướp một trận, tôi sẽ báo cơ quan công an đến can thiệp, giải quyết theo pháp luật”... Một bạn đọc đã gửi ý kiến như trên sau khi đọc bài "Trung Quốc lộ rõ mưu đồ xâm phạm Hoàng Sa”, đăng trên báo điện tử Người Lao Động ngày 5-11.
 
Bài báo đã thu hút hơn 9.000 lượt người truy cập, gần 500 bạn đọc đã gửi ý kiến, bày tỏ thái độ của mình trước việc Trung Quốc liên tiếp vi phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, thực hiện các mưu đồ biến đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa thành cái gọi là thành phố Tam Sa.  Với nhiều bạn đọc, hành động ngang ngược trên chẳng khắc nào của một kẻ cướp.

Phần lớn ý kiến bạn đọc cho rằng, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục đường lối ngoại giao mềm mỏng nhưng kiên định trong  giải quyết tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc. Nhưng chúng ta càng mềm mỏng Trung Quốc càng lấn tới. Với thái độ bức xúc, bạn đọc Vũ Bằng cho rằng: “Không phải đến bay giờ Trung Quốc mới lộ rõ mưu đồ xâm phạm Hoàng Sa. Thực tế năm 1974 Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng sa rồi. Chẳng những xâm chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc còn đánh chiếm một số đảo, bãi đá ngầm Trường Sa của ta và còn tuyên bố thành lập cái gọi là thành phố Tam sa với ý đồ trong tương lai sẽ thôn tính nốt các đảo còn lại trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam”. Bạn đọc Dang nói thêm: “ Từ ngàn năm, dân tộc Việt Nam có bao giờ đuợc sống yên ổn với người láng giềng phương Bắc? Lịch sử còn đó, bao nhiêu cuộc chiến tranh xương máu bảo vệ đất nước vẫn còn đó”.
Giữ gìn chủ quyền biển đảo ở đảo Sinh Tồn Đông. Ảnh: Huỳnh Nga
Nếu search vào google tên “thành phố Tam Sa”, chỉ trong 0,39 giây sẽ cho ra 4,1 triệu kết quả, ngược lại “đảo Phú Lâm” là 4,67 kết quả và “Hoàng Sa” là 13,6 triệu kết quả. Hầu hết các kết quả trên đều chỉ dẫn đảo Phú Lâm hay quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trên thực tế, lịch sử hai nước cũng như các tài liệu có giá trị quốc tế cũng đã chứng minh quần đảo Hoàng Sa, trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam chứ không phải Trung Quốc. Như vậy, cái gọi là thành phố Tam Sa rõ ràng chỉ là một thành phố “chui”, không có giá trị pháp lý quốc tế. Trớ trêu thay, Trung Quốc với “đường lưỡi bò” do mình tự vẽ đang mưu đồ biến tất cả các vùng tranh chấp trên biển Đông thành cái của riêng mình.

Dù nhận thức rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam nhưng mọi người dân Việt Nam yêu nước đều hiểu rằng giải quyết tranh chấp với Trung Quốc không đơn giản như cách xử của chủ nhà với một kẻ cướp. Đây là quá trình đấu tranh lâu dài và quan điểm của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam là nỗ lực ngoại giao để buộc Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế, thực hiện nghiêm túc Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển,  Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc.

"Chúng ta có lòng tự tôn dân tộc. Chúng ta không thể mãi “lịch sự” với kẻ cướp vào nhà mình". Đó là lý do mà nhiều bạn đọc cho rằng Việt Nam cần phải có những hành động thực tế, mạnh mẽ hơn.
Duy Quốc
(Người lao động)

Thư trao đổi của GS. Tương Lai: Nếu chúng ta không cháy lên

Anh Hồng Lê Thọ thân mến,
Nhận được trả lời của anh về đề nghị đưa THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC ngày 30.10. 2012 chưa kịp trả lời thì tiếp đó nhận được thư anh trao đổi về cuộc họp báo của Công An Long An về vụ Nguyễn Phương Uyên với "lời nhận tội và xin khoan hồng" của cháu cùng với bài viết trên báo Nhân Dân ngày 5.11.2012 của ông Nguyễn Trần Minh Trí, tôi xin được trình bày như sau :
Trước hết, chúng tôi chẳng có gì bất ngờ về cuộc họp báo này cả. Khi ký tên vào THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC, chúng tôi đã dự liệu sẽ có diễn biến tương tự như thế này, vì thế mà càng tiếc rằng chúng tôi gửi thư chậm quá.
Nhưng “lực bất tòng tâm”, chỉ đến ngày 30.10.2012 mới tạm có đủ thông tin, vì báo chí được phép lưu hành công khai và bày bán trên các sạp báo thì vẫn giữ một sự “im lặng đáng sợ” trong việc đưa tin về vụ viêc cô sinh viên trường ĐHCNTP Tp HCM bị CA bắt và mẹ của cô, rồi cả gia đình cô nháo nhác chạy đi hỏi tin vì sao con gái mình bị bắt, ai bắt, chứ đâu có nhanh nhạy và đồng loạt đưa tin về vụ họp báo của CA Long An loan tin về việc “bắt giữ Phương Uyên “đúng quy trình của pháp luật” và công bố “tội trạng” của cô như vừa rồi. 
Giá mà sau ngày 14.10.2012 báo chí loại này cũng nhanh nhạy đưa tin như thế về vụ Phương Uyên thì thuận tiện cho chúng tôi biết bao, chúng tôi khỏi phải mày mò tìm thông tin trên mạng, tin của báo đài nước ngoài được phép hành nghề và đưa tin tại nước ta theo thông lệ quốc tế mà nước ta đã ký kết.
Chính vì vậy, qua lời vị lãnh đạo CA Long An trong cuộc họp báo thì quả thật là chúng tôi rất mừng. Trước hết là mừng cho mẹ Phương Uyên, cho gia đình cháu vơi bớt đi nỗi lo con mình “mất tích”, thậm chí lo bị “thủ tiêu”. Dù sao thì họ đã thấy được con mình cho dù chỉ qua màn hình của buổi họp báo đưa tin, nhưng dù sao, qua nét mặt, qua giọng nói nội dung mấy câu đọc lời viết sẵn của Phương Uyên, người mẹ, người cha và những người thân trong gia đình và bạn bè thân thiết của cháu cũng phần nào biết được tâm trạng của con mình, bạn mình qua lời “nhận tội” để mong được nhanh chóng về nhà và tiếp tục đi học để thành “người hữu ích cho xã hội”.
Và mừng còn vì sự trả lời thật nhanh chóng của CA trước sức ép phẫn nộ của công luận trên cả nước, mừng vì điều mà chúng tôi mong muốn khi ký tên vào Thư Gửi Chủ Tịch Nước để đề nghị “đòi cơ quan có trách nhiệm phải công khai giải thích về việc bắt giam cháu Nguyễn Phương Uyên một cách tùy tiện, trái pháp luật . Cũng đã từng có những vụ bắt bớ không theo đúng quy định của pháp luật mà vụ này là thô bạo và trắng trợn nhất, gây phẫn nộ trong công luận trên cả nước và thế giới. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Chủ tịch có chỉ thị cụ thể cho việc xử lý có tình, có lý đối với hành vi yêu nước của một cô gái 20 tuổi đã dám biểu tỏ bằng hành động cụ thể tinh thần dân tộc và lòng căm thù quân xâm lược cho dù hành động đó có bị quy kết vào bất cứ tội trạng nào”.
Từ nỗi mừng đó, chúng tôi hy vọng rằng, những kiến nghị chúng tôi nêu lên trong lá thư nói trên rồi sẽ có cơ may được thực hiện dần : “xem xét, rà soát lại những bản án đã xử rất nặng những người yêu nước biểu tỏ sự bất đồng chính kiến bằng tư tưởng mà không có hành vi bạo động nào nguy hại đến lợi ích quốc gia như người ta đã quy kết. Những bản án đó chính là sự phá hoại uy tín của Nhà nước, bôi xấu hình ảnh của Việt Nam trước thế giới hơn bất cứ hành động phá hoại nào mà Công an đang ra sức truy lùng và đàn áp. Chúng tôi nghĩ, bạo lực và trấn áp không thể nào là phương thuốc chữa trị những yếu kém của tình hình đất nước hiện nay thay vì thực hiện một cách trung thực lời dạy của Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của thế giới, nhà chính trị lỗi lạc bậc nhất của nước ta : "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Càng quay cuồng với bạo lực và trấn áp càng bộc lộ tính phi nhân nghĩa và không thể nào an dân khi mà lòng dân đang hết sức bất an trước họa xâm lăng, trước bầy sâu tham nhũng đang nhung nhúc đục khoét cơ thể đất nước, khi một "bộ phận không nhỏ những người cầm quyền đang thoái hóa biến chất" chưa bị xử lý để lấy lại lòng tin của dân.
Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật đau xót đó để có những quyết sách an dân khi lòng dân đang phẫn nộ, đặc biệt là thế hệ trẻ, chứ không thể bằng biện pháp "phát xít hóa" đã từng là giải pháp bế tắc mà lịch sử đã cho thấy đó là cách giải khát bằng thuốc độc!
Vì sao tôi nói vậy?
Vì những chính trị gia khôn ngoan không dại gì đứng đối lập với dân, càng không dại dột chọn ứng xử quay lưng lại với trí thức. Khi chúng tôi ký tên vào thư gửi Chủ tịch nước là chúng tôi muốn biểu tỏ sự phản ứng quyết liệt trước những hành xử của một nhóm những người đang là công cụ đắc lực thực thi những sách lược chính trị một cách thô bạo, thiếu cân nhắc mà những chính trị gia lão luyện phải thấy ra sự dại dột của họ theo kiểu đổ thêm dầu vào ngọn lửa, khiến cho đốm lửa có nguy cơ bùng lên thành ngọn lửa.
Điều này thì Luật sư Ngô Ngọc Trai trong "ĐƠN KIẾN NGHỊ" ngày 4.11.2012 gửi CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG- QUỐC HỘI VIỆT NAM- BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN TRẦN ĐẠI QUANG- THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN ĐIỀU TRA CÁC CẤP- CÁC LUẬT SƯ VIỆT NAM và - CÁC CƠ QUAN BÁO CHÍ đã nói khá rõ :
"Bắt tạm giam là một biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, mục đích là nhằm ngăn chặn bị can bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp việc bắt tạm giam đã biến tướng thành một hình thức truy bức nhục hình, và thực chất đó chính là một hình thức truy bức nhục hình.
Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 6 quy định: Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình...
Thực tế lâu nay một số cơ quan điều tra đã lạm dụng việc bắt tạm giam gây phản ứng bất bình. Vụ việc nhà báo Hoàng Khương bị khởi tố điều tra về tội đưa hối lộ, là một nhà báo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu gì sẽ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, có thể áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng cơ quan điều tra cũng bắt giam.
Gần đây cô gái Nguyễn Phương Uyên bị bắt giam về hành vi tuyên truyền chống nhà nước. Một cô gái sinh viên mới 20 tuổi có gương mặt hiền lành xinh xắn, có nhân thân và nơi cư trú rõ ràng, không có gì cho thấy cô gái sẽ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, chỉ cần giao cho địa phương và cấm đi khỏi nơi cư trú là được, việc gì phải bắt giam?
Vụ việc cô Nguyễn Thị Bích Trang nhân viên của trường Đại học Tân Tạo bị bắt giam về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ cũng bộc lộ sự lạm dụng của cơ quan điều tra...
Hiện tượng lạm dụng việc bắt giam xuất phát từ quy định pháp luật mang nặng yếu tố bạo lực không phù hợp với các giá trị của luật pháp văn minh. Với điều kiện giam giữ như nêu trên và thời gian giam giữ kéo dài sẽ khiến bị can tuyệt vọng buông xuôi, lợi dụng tình trạng đó để lấy lời khai đó chính là lạm dụng việc bắt giam, nhiều trường hợp dẫn đến oan sai".
Tôi thiết nghĩ, với nội dung trích dẫn trên, có lẽ đã đủ dữ kiện để "Suy ngẫm từ hành vi của công dân Nguyễn Phương Uyên" mà không phải dài lời về bài viết nói trên vì nói thêm nữa thì có khi lại thừa! Xin dành thời gian để gợi lại một bài học kinh nghiệm. Đó là bài học của cá nhân tôi về một nội dung mà vị luật sư đã phân tích giúp tôi rất rành rọt :
 Năm 1997, tỉnh Thái Bình bùng nổ chuyện khiếu kiện đông người, trong 7 huyện thì có 5 huyện có khiếu kiện dẫn tới những đụng độ có nguy cơ trở thành bạo động. Giọt nước tràn ly là khi lực lượng CA huyện Quỳnh Phụ xua chó bẹc giê ra đe dọa dân. Thế là cả dãy tường trước Viện Kiểm sát huyện bị dân đạp đổ, lấy gạch đá chọi nhau với CA và với chó bẹc giê.
Có mặt sau đó mấy ngày để tiến hành một khảo sát tình hình nhằm hình thành một báo cáo riêng dưới góc nhìn của những người làm công tác nghiên cứu xã hội học theo yêu cầu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Tôi không nhắc lại nội dung bản báo cáo khảo sát tại Thái Bình dạo ấy, chỉ gợi lại một kỷ niệm về lời nhắc nhở của cố vấn Phạm Văn Đồng khi ông nghe chúng tôi báo cáo về cuộc khảo sát ấy. Ông nói “Đây là mâu thuẫn giữa một bên là những người cầm quyền hư hỏng, thoái hóa biến chất đè nén, áp bức để dân không còn chịu được nữa, và bên kia là người dân phải vùng dậy đấu tranh. Có phân tích như vậy mới tìm ra được giải pháp đúng”!
Ông chỉ vào mấy bức hình chúng tôi chụp tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ đang còn bày trên bàn làm việc. Câu chuyện này tôi đã có dịp nhiều lần viết lên báo hồi còn sinh thời ông và cả sau khi ông mất sau đó 2 năm, năm 2000. Gần đây, trong bài báo "Từ sự kiện Thái Bình 1997 đến sự kiện Tiên Lãng 2012" và bài "Từ sự kiện Tiên Lãng nhớ lại và suy ngẫm" đăng trên một số báo, [trong số đó tôi còn lưu lại được tạp chí "Xưa và Nay" số 399, tháng 3/2012] tôi đã viết về điều này. Không hiểu cái câu “Trăm con măt đều nhìn vào, trăm ngón tay đều chỉ vào” mà ông viết trên báo Nhân Dân, bài báo cuối cùng của Phạm Văn Đồng, có liên quan gi tới bức hình ấy không.
Đấy là bức hình chụp cái hiện trường giả [tôi sẽ kèm theo dưới đây] mà CA xã và Bí thư Đảng ủy xã An ninh dựng lên nhằm quy cho dân “đập phá tượng Bác Hồ tại Hội trường Ủy Ban xã An Ninh huyện Quỳnh Phụ”  tức là nhằm quy tội cho dân là phản động, định “lật đổ chế độ”! Bí thư Đảng ủy Xã còn nói với tôi : “Xin mời lên  Hội trường để chứng kiến bộ mặt phản động của chúng nó. Nhưng, nêu chúng muốn lật đổ chế độ thì chúng phải bước qua xác tôi”. Thật ra, khi dân kéo đến thì ông đang cởi trần, mặc quần đùi, đã lủi xuống ao bèo sau nhà, rồi chạy thẳng một mạch lên huyện, hôm sau mới cùng CA huyện về lại xã!

Tượng thạch cao bị vỡ từ trong kho đem ra
 
"thủ thuật dựng HIỆN TRƯỜNG GIẢ”
Lên Hội trường, chúng tôi chụp tượng Bác Hồ bằng thạch cao bị vỡ để dưới gầm bàn, nhưng cách mép bàn gần 1m lại có một bệ gỗ cao, trên đó vẫn còn một tượng Bác Hồ áp sát lá cờ phủ kín cả một mảng tường của hội trường ủy ban! Tôi hỏi, “sao một phòng họp như thế này mà để đến hai tượng Bác Hồ”, được Phó Chủ tịch xã trả lời :  “Dạ, để cho long trọng ạ”! “Thế sao tượng kia không bị đập? “Dạ, chắc chúng không dám hoặc chưa kịp”. Người dân ở đây cho biết là cái tượng bị vỡ kia thì “đã vỡ từ lâu, vứt trong kho, nay người ta vừa đem ra đặt vào đấy để vu vạ cho chúng tôi đấy, họ lừa các bác chứ lừa sao được chúng tôi”!
Tại một xã ở nơi thôn cùng xóm vắng kia mà cũng sử dụng được chiêu “dựng hiện trường giả” cho dù quá thô thiển thì cái chiêu bẩn về hai “bao cao su” trong một vụ án động trời dạo nọ thì có gì đáng ngạc nhiên đâu! Chỉ xấu hổ cho đất nước thôi, một đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào khu vực và thế giới mà lại biến pháp luật thành một trò đùa thì quả thật là đau đớn, tủi nhục. Chính vì thế, chúng tôi càng thấy những vấn đề đặt ra trong thư gửi Chủ tịch Nước càng có ý nghĩa hơn khi Công An Long An đã họp báo và báo chí, truyền thông trong nước đã nhanh nhạy đồng loạt đưa tin về vụ Phương Uyên.
Tại sao lại nói vậy?
Trong thư gửi Chủ tịch Nước, chúng tôi đã nhắc lại thời trai trẻ của một số trong chúng tôi, khi theo tiếng gọi của đất nước, tham gia cách mạng đã thuộc nằm lòng câu thơ "dấn thân vô là phải chịu tù đày, là gươm kề tận cổ , súng kề tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa" , vì vậy "Dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu" như những dòng thơ giục giã tuổi trẻ có lương tri, biết sống cuộc sống có ý nghĩa, không chỉ "hiền ngoan" để trở thành phường "giá áo túi cơm", khuất phục trước cường quyền, áp bức và bất công. Nhắc lại điều này, chúng tôi muốn từ "THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC" mà nhắc nhở động viên thế hệ trẻ phải sống có hoài bão cao đẹp, biết rèn luyện phẩm chất và trí tuệ để trở thành người hữu ích cho xã hội.
Chừng nào Biển Đông còn dập dồn những con sóng xâm lược của các thế lực hiếu chiến trong giới cầm quyền Bắc Kinh thì tuổi trẻ Việt Nam phải nung nấu và tỏ rõ tinh thần yêu nước, khí phách quật cường của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi, Nguyễn Huệ từng viết nên những trang sử vàng của dân tộc, từng khắc trên cánh tay hai chữ Sát Thát, đánh tan tác quân xâm lược. Phải thường xuyên nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay phải biết căm ghét, phỉ nhổ những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống do "úy tử tham sinh", muốn "ngôi cao, lộc lớn" đã hèn nhát cúi đầu theo giặc, treo một tấm gương nhơ bẩn trong lịch sử, muôn đời bị nhân dân nguyền rủa.
Chính vì thế, nhân sự kiện Phương Uyên, sự kiện Việt Khang… từ  "THƯ GỬI CHỦ TỊCH nhầy NƯỚC", chúng tôi muốn cổ vũ một lý tưởng sống cho con em chúng ta, không chạy theo lối sống gấp, thực dụng theo nghĩa chỉ chăm lo cho riêng mình, hoặc đắm chìm ăn chơi trác táng trong các vũ trường, trong thế giới của các “người mẫu chân dài”, các “quý tử” tiêu tiền như rác, thay đổi mốt ô tô đời mới như cơm bữa và tự hào với những biệt danh kệch cỡm, lố bịch biểu tượng của nhiều đôla, nhiều vàng đeo trên tay, trên cổ nhưng lại được báo chí tốn không ít giấy mực để “lăng xê” đầy trên các sạp báo. Chúng tôi mong muốn họ phải dấn thân vì một lý tưởng cao đẹp, dám quên mình vì sự nghiệp cao cả của dân tộc, căm thù quân xâm lược không chỉ bằng lời nói suông mà bằng hành động cụ thể tỏ rõ tinh thần yêu nước.
Chúng tôi ao ước thế hệ thanh niên hôm nay, con em của thế hệ cha anh đã từng dám hy sinh thân mình vì đại nghĩa cứu nước, cứu dân để làm nên Cách mạng Tháng Tám, làm nên thắng lợi của 3 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Đại Hán để có một Việt Nam Độc lập, non sông quy vào một mối như hôm nay phải biết sống như thế nào xứng đáng với cha anh mình, biết đặt ra câu hỏi :  "Nếu tôi không cháy lên, Nếu anh không cháy lên, Nếu chúng ta không cháy lên, Thì làm sao / Bóng tối / Có thể trở thành / Ánh sáng?".
Qua thông tin từ cuộc họp báo của CA Long An và tin của báo chí truyền thông trong nước về "lời thú tội" của nữ sinh viên Phương Uyên được đưa ra trong cuộc họp báo, bằng những thực tế đã trải nghiệm, chúng tôi mong được trực tiếp gặp gỡ Phương Uyên để hiểu rõ về những sai lầm mà cháu đã phải (hay buộc phải) thừa nhận, nhằm biết chính xác tâm trạng, động cơ đấy cháu đến những sai lầm như vị đại tá CA đã công bố trong cuộc họp báo. Để làm gì ? Để góp phần cùng gia đình và nhà trường giáo dục cháu, và cũng để rút kinh nghiệm cho việc thu thập thông tin của chúng tôi trên mạng và trên báo đài nước ngoài, vì báo chí truyền thông trong nước thì đều đã đồng loạt đưa tin, để liệu xem có thể biết được một cách thật khách quan về tính trung thực đạt được đến đâu trong những tin đã đưa. Dự định này cũng tương tự như cách đây mấy tuần, một vài trong chúng tôi, những người đã ký tên vào THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC, đã đến tòa báo Tuổi Trẻ để tỏ rõ thái độ của chúng tôi về sự kiện Hoàng Khương trong một kiến nghị gửi đến những cơ quan có trách nhiệm.
 Ngay cả khi vị đại diện của trường Đại học Công nghiệp thực phẩm TPHCM, tại cuộc họp báo cho biết là “trước đó đã nhận được thông báo của Công An tỉnh Long An về việc bắt tạm giam Nguyễn Phương Uyên và “cũng đã làm rõ văn bản được cho là của các sinh viên trường đề nghị trả tự do cho Phương Uyên…” chúng tôi muốn được gặp các vị để hỏi thêm cho rõ, tại sao đã biết được như vậy rồi mà các vị lại không động viên an ủi bà mẹ của Phương Uyên khi bà hoang mang, lo sợ cho con gái mình bị bắt đem đi, không biết ai bắt và vì sao bắt? Hỏi thêm cho rõ vì quả thật nếu đúng như vậy thì không hiểu lãnh đạo trường Đại học CNTP tpHCM định nêu một tấm gương thế nào trước xã hội, trước nỗi đau một người mẹ của sinh viên đã đến cầu cứu họ?
Một số trong chúng tôi cũng từng đứng trên bục giảng của trường Đại học, càng nghĩ phải có trách nhiệm trực tiếp gặp gỡ Phương Uyên, trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với sinh viên bạn bè của Phương Uyên, và trực tiếp gặp gỡ các đồng nghiệp của mình tại trường Đại học Công nghiệp thực phẩm TPHCM để hiểu rõ ngọn ngành, nhằm lấy lại lòng tin vào các cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ việc Phương Uyên mà thú thật chúng tôi chưa thể an lòng được vì tính thiếu công khai, thiếu minh bạch của những việc họ đã làm và đang làm để buộc tội một nữ sinh viên như cô gái 20  tuổi này !
Chính vì thế, nếu được ghi thêm vào nội dung THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC, có lẽ chúng tôi phải đề nghị Chủ tịch chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm tạo điều kiện cho một số chúng tôi, những người đã ký tên gửi thư đến Chủ tịch, thực hiện được những điều vừa nói trên , anh Thọ nghĩ có nên không?
Anh Hồng Lê Thọ ạ, tôi chưa dám nhận mình là người trí thức theo nghĩa đích thực của nó, nhưng tôi nhớ câu của Edward Said trong quyển sách của ông "Về trí thức và quyền lực":   
"Người trí thức, như tôi hiểu, không phải là người làm hòa dịu, cũng không phải là người tạo dựng sự đồng thuận, mà là người dấn hết thân mình, hứng mọi hiểm nguy, luôn luôn lấy phê phán làm cơ sở; trí thức là người từ chối, dù phải trả với giá nào, những công thức dễ dãi, những tư tưởng nhàm cũ, những kết luận chiếu lệ nơi lời nói và hành động của những người có quyền hoặc của những đầu óc máy móc.
           
Đâu phải họ chỉ từ chối một cách thụ động mà thôi: họ còn tích cực, công khai nói lên tiếng nói của họ. Lựa chọn cốt yếu mà người trí thức phải đối phó là: hoặc liên minh với sự bền vững của người thắng trận, người chế ngự, hoặc - và đây là con đường khó khăn nhất - xem sự bền vững đó như đáng cảnh báo, như một tình thế có cơ nguy đưa người yếu và người thua cuộc đến chỗ diệt vong. Nghĩ đến kinh nghiệm lệ thuộc của kẻ yếu và kẻ thua, người trí thức không quên những tiếng nói và những người đã bị lãng quên".
Khi ký tên vào THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC" ngày 30.10.2012 tôi nghĩ đến những ý ấy của Edward Said.
Thư đã dài, mong anh tiếp tục làm "NGƯỜI LÓT GẠCH" cho những dặm đường còn nhiều gian truân, nhưng anh Thọ ơi, trên mặt đất vốn không có đường, người ta đi lâu thì thành đường thôi. Vậy thì chúng ta vẫn cứ phải mỗi người lót một viên gạch cho thế hệ trẻ vững vàng đi tới.
Rất thân mến
TP HCM ngày 6.11.2012
Tương Lai
(Blog NLG)

Trung Quốc ngăn cản ASEM đề cập đến tranh chấp biển đảo

Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại diễn đàn ASEM 19 tại Lào ngày 5/11/2012. (REUTERS/Sukree Sukplang)

Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) họp trong hai ngày, 05 và 06/11/2012, tại Viên Chăn, thủ đô Lào. Các cuộc thảo luận tập trung vào cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính tại châu Âu, về phát triển bền vững, vấn đề an ninh lượng thực và năng lượng. Nhiều cuộc gặp song phương diễn ra bên lề Thượng đỉnh. Đây là cơ hội thuận lợi để Trung Quốc khẳng định vai trò của mình như là một cường quốc.

Theo giới quan sát, Thượng đỉnh ASEM lần này diễn ra trong bối cảnh châu Âu, do bị khủng hoảng tài chính và nợ công, rơi vào thế yếu. Các nước châu Á, tuy cũng chịu tác động của khủng hoảng, nhưng vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng khả dĩ. Đặc biệt, đây là cơ hội thuận lợi để Trung Quốc khẳng định vai trò của mình như là một cường quốc.

Thông tín viên trong khu vực Đông Nam Á, Arnaud Dubus phân tích:

« Đây là một Thượng đỉnh quan trọng, bởi vì Trung Quốc có cơ hội để khẳng định mình như là một cường quốc tất yếu và có trách nhiệm. Cuộc khủng hoảng nợ công trong một số nước châu Âu và áp lực đối với đồng euro đã buộc Liên Hiệp Châu Âu, cho dù vừa được trao tặng giải Nobel Hòa bình, phải khiêm tốn. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng ở châu Âu đã ảnh hưởng đến các nền kinh tế tại châu Á, kể cả Trung Quốc. Với sức mạnh kinh tế và tiền tệ, Trung Quốc biết rằng phản ứng của họ trước các khó khăn kinh tế và tài chính của châu Âu có ý nghĩa quyết định.


Bắc Kinh cũng biết là các nước châu Âu sẽ biết ơn, nếu Trung Quốc chấp nhận hợp tác để làm giảm bớt những khó khăn kinh tế-tài chính của châu Âu. Do đó, đây là dịp để Bắc Kinh củng cố vị trí của mình tại diễn đàn Âu-Á và trong tương lai, Trung Quốc có thể yêu cầu châu Âu hỗ trợ khi cần, ví dụ nhưng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington ».

Từ nhiều tháng qua, tình hình tại Biển Đông và biển Hoa Đông trở nên căng thẳng do các tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và nhiều nước trong khu vực. Do Hoa Kỳ không hiện diện ở diễn đàn này, Trung Quốc sẽ tìm mọi cách ngăn chặn ASEM chính thức đề cập đến các hồ sơ này. Trung Quốc đã từng làm được ép Cam Bốt, chủ tịch ASEAN 2012, không ra thông cáo chung sau Hội nghị Ngoại trưởng các nước Đông Nam Á. Thông tín viên Arnaud Dubus nhận định:

« Bắc Kinh biết là một số nước như Philippines hay Việt Nam sẽ nếu các vấn đề này trong các cuộc gặp song phương. Nhưng điều cơ bản đối với Trung Quốc là những vấn đề này không được nêu ra trong phiên họp toàn thể của Hội nghị Thượng đỉnh và nhất là không có một câu chữ liên quan nào được đưa vào thông cáo chung cuối cùng của Thượng đỉnh. Chính vì thế, Bắc Kinh tìm mọi cách hướng chương trình nghị sự của Hội nghị vào hồ sơ kinh tế, thế mạnh của Trung Quốc.


Lập luận của Bắc Kinh như sau : Thủ tướng Ôn Gia Bảo tới dự Thượng đỉnh, vài ngày trước khi khi mạc Đại hội toàn quốc đảng Cộng sản Trung Quốc, một cử chỉ quan trọng mà ban lãnh đạo Lào đánh giá rất cao. Sự kiện này lại càng có ý nghĩa hơn, vì đây là lần đầu tiên, Lào tổ chức một Thượng đỉnh có quy mô lớn như vậy và chính quyền Viên Chăn sẽ cố làm mọi cách để tránh làm cho Thượng đỉnh thất bại. Dường như Trung Quốc hiện trong vị thế làm chủ được chương trình nghị sự của Thượng đỉnh ASEM. Điều này trái ngược hẳn với các Thượng đỉnh ASEM trước đây khi mà châu Âu ở trong thế mạnh, đưa ra những bài học cho châu Á ».

Sự chuyển hướng chiến lược của Hoa Kỳ, chú ý hơn đến châu Á-Thái Bình Dương đã làm cho Trung Quốc khó chịu. Do vậy, ASEM là nơi để Bắc Kinh khai thác quan hệ với châu Âu, củng cố vị thế của Trung Quốc trong cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ.

« Nhiều yếu tố cho thấy là gần đây, có một sự đối đầu ngấm ngầm nhưng có thực, giữa hai siêu cường kinh tế và quân sự là Trung Quốc và Mỹ tại Đông Nam Á. Chuyến công du châu Á, hồi tháng Chín, của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, cho thấy quyết tâm của Hoa Kỳ tái khẳng định vị trí của mình như là một siêu cường tại vùng Thái Bình Dương, sau một thập niên sao nhãng do chiến tranh tại Afghanistan và Irak.

Sự gần gũi của phe đối lập Miến Điện – có thể lên nắm quyền lãnh đạo đất nước vào năm 2015 – với Hoa Kỳ làm cho Trung Quốc lo ngại. Quân đội Miến Điện tham gia cuộc tập trận Cobra Gold do Mỹ và Thái Lan tổ chức, đồng thời, chính quyền Miến Điện đình hoãn nhiều dự án đầu tư lớn của Trung Quốc.

Trong bối cảnh đó, châu Âu đóng vai trò tác nhân thứ ba, ít chống đối Trung Quốc hơn và thậm chí đôi khi còn nghi ngại Mỹ. Do vậy, duy trì quan hệ gần gũi với Liên Hiệp Châu Âu – thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc – tỏ ra là một chiến lược đúng ».
Đức Tâm (RFI)

Thách thức kinh tế chờ đợi tân tổng thống Mỹ

« Thắng đã vậy, múa gậy làm sao » ? Bất luận ứng cử viên đảng Cộng hòa hay Dân chủ trở thành tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ 2012-2016, thách thức kinh tế đối với chủ nhân Nhà Trắng vẫn là giải quyết nợ công và tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế số 1 của thế giới.

Hơn 200 triệu cử tri Mỹ được kêu gọi đi bầu. Cả thế giới đang hồi hộp chờ đợi xem ông Mitt Romney hay Barack Obama sẽ là người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ. Bên cạnh cuộc bầu cử tổng thống, cử tri còn bỏ phiếu để bầu lại toàn bộ 435 dân biểu tại Hạ viện, 1/3 thượng nghị sĩ ở Thượng viện, 11 thống đốc của các bang và hơn 6000 dân biểu cấp vùng ở 44 tiểu bang khác nhau.

Bên cạnh những khó khăn thuần túy về kinh tế, tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ tới còn phải san bằng những bất đồng với Quốc hội lưỡng viện để đẩy mạnh các biện pháp hòng đem lại tăng trưởng và việc làm cho người dân Hoa Kỳ. Đâu là những thách thức đăng đặt ra cho vị tổng thống có trọng trách lãnh đạo nước Mỹ trong 4 năm sắp tới ? Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từng bước trả lời câu hỏi trên.

RFI : Xin kính chào anh Nghĩa. Sau khi kết quả bầu cử tại Hoa Kỳ được xác nhận tổng thống Mỹ phải làm những gì để giải quyết các vấn đề kinh tế?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Trong cuộc tranh cử năm nay, người hạnh phúc nhất là cố vấn chính trị của hai liên danh Dân Chủ và Cộng Hoà vì chỉ có một mục tiêu cụ thể là giúp phe mình đắc cử. Sau khi thắng cử, người khổ sở nhất chính là cố vấn kinh tế vì "thắng rồi đã vậy, múa gậy làm sao" ? Ngược với ấn tượng của nhiều người, kể cả các ứng cử viên đòi lãnh đạo Hành pháp, tổng thống Mỹ không có toàn quyền về kinh tế hay xã hội.

Quyền hạn Tổng thống bị chi phối bởi Lưỡng viện Quốc hội, Ngân hàng Trung ương và bởi cả tỷ người trên thị trường kinh tế toàn cầu lẫn những chuyện bất lường, theo định nghĩa là bất ngờ nên chả ai đoán trước được. Vì thế, cùng với việc kiểm phiếu sau một cuộc tranh cử quá dài, người ta cần nhìn vào kết quả bầu cử Quốc hội khóa 113, xem đảng nào kiểm soát được Hạ viện và Thượng viện, tới mức độ nào, và có muốn hợp tác cùng tổng thống không? Đó là về bối cảnh hiến chế của nước Mỹ.

Bên cạnh bài toán kinh tế, Hoa Kỳ còn bị khủng hoảng về chính trị vì nhiều mâu thuẫn khó dung hòa giữa hai đảng trong Quốc hội khóa 112 và vì khả năng tác động rất thấp của người lãnh đạo Hành pháp. Cho nên, lợi dụng sự lạc quan hồ hởi của dư luận sau cuộc tổng tuyển cử, tổng thống Mỹ chỉ có thể xác định được các ưu tiên về kinh tế xã hội và kêu gọi sự hợp tác của Quốc hội để cấp tốc ban hành biện pháp cứu nguy và thông qua các đạo luật cải cách sau này.

RFI: Đâu là các ưu tiên về kinh tế của người sẽ lãnh đạo Hành pháp Hoa Kỳ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Chúng ta có thể nhìn ra ưu tiên về thời cơ, hoặc ưu tiên về quan hệ hữu cơ, kể cả tương quan nhân quả giữa các vấn đề. Về ưu tiên thời cơ thì mùng hai Tháng Giêng tới, là 18 ngày trước khi Tổng thống nhậm chức, kinh tế Mỹ sẽ sụt vào cái hố ngân sách do ách tắc chính trị từ năm 2011. Đó là đạo luật Quốc hội khóa 112 mà Tổng thống Barack Obama phải ban hành hôm mùng hai Tháng Tám năm ngoái.

Trên nguyên tắc, nó mặc nhiên giảm chi ngân sách và đồng loạt tăng thuế, tổng cộng gần 700 tỷ đô la trong năm tới. Cho một nền kinh tế có sản lượng gần 15 ngàn tỷ thì đây là số tiền rất lớn với hậu quả có thể đánh sụt sản xuất cả ngàn tỷ, tùy cách tính. Khi kinh tế còn trì trệ với đà tăng trưởng chỉ có 2% là mừng, thì biện pháp "phản kích thích" ấy lập tức gây ra suy trầm và đẩy mạnh thất nghiệp, điều này, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng đã cảnh báo cách nay hai tuần.

Vì vậy, cùng Quốc hội sẽ mãn nhiệm đầu năm tới và lãnh đạo của Quốc hội mới, Tổng thống tân cử phải dàn xếp giải pháp dung hoà. Trước hết là hạ mức cắt giảm công chi và tăng thuế xuống chừng 80 hay 100 tỷ để tránh cái họa suy trầm mà bên này gọi là "Tận thế Thuế khóa". Thứ hai, là nhân cái tuần trăng mật chính trị này mà trấn an thị trường và tranh thủ dư luận để gây lại niềm tin và vận động Lập pháp Mỹ chấp nhận một kế hoạch cải cách toàn diện hầu giải quyết loại vấn đề cực kỳ phức tạp mà tôi gọi là "hữu cơ".

RFI: Còn các vấn đề hữu cơ ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm năm 2008-2009 và tại Hoa Kỳ thì đã chấm dứt vào Tháng Bảy năm 2009 mà chưa hồi phục mạnh, thất nghiệp vẫn mấp mé 8%. Đã vậy, năm tới kinh tế Mỹ có thể bị suy trầm nữa, dù có ra khỏi vực thẳm tài chánh mà ta vừa nói.

Lý do là dù giới tiêu thụ đã tin tưởng hơn, thị trường gia cư và kỹ nghệ xây cất có vẻ khởi sắc sau khi suy sụp trong bốn năm liền, các doanh nghiệp vẫn ngần ngại và thực tế còn giảm đầu tư và tiếp tục thải người trong khi vẫn ngồi trên cả ngàn tỷ đô la mà không dám rớ tới. Nguyên do của tình trạng éo le này là :

- thứ nhất, họ không tin vào mức doanh thu sẽ đạt được như ta đã thấy mấy tuần qua khi thị trường cổ phiếu tuột giá mạnh.

- thứ hai, các doanh nghiệp loại nhỏ và vưa thì e ngại những bất trắc về luật lệ đã dồn dập ban hành trong mấy năm qua, đây là loại doanh nghiệp có khả năng tuyển dụng cao nhất và sẽ góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và nâng cao lợi tức của giới tiêu thụ, tức là nâng cao mãi lực của thị trường.

- thứ ba, quan trọng hơn cả, các doanh nghiệp không yên tâm về mức bội chi ngân sách quá cao và vay tiền quá nhiều nên có thể đẩy mạnh phân lời trái phiếu, tức là nâng sao phí tổn tài chánh sau này.

RFI : Anh cho rằng nạn bội chi ngân sách và nợ công là một vấn đề quan trọng hàng đầu cho các doanh nghiệp mà tổng thống vừa đắc cử tại Mỹ sẽ phải ưu tiên giải quyết ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Không. Đấy là vấn đề trầm trọng và nan giải, cũng tương tự như những gì ta đã thấy tại Âu Châu và Nhật, nhưng không là trầm trọng nhất. Vấn đề nghiêm trọng là hệ thống kinh tế chính trị không thể giải quyết nổi bài toán này.

Khi kinh tế trôi vào chu kỳ suy trầm thì theo thông lệ, nhằm giảm thiểu hậu quả bất lợi người ta có hai loại biện pháp ứng phó. Về ngân sách là tăng chi hay giảm thuế, về tiền tệ là hạ lãi suất và bơm tiền. Hoa Kỳ đã ào ạt tăng chi và bị bội chi hơn ngàn tỷ một năm mà chưa đẩy lui nạn trì trệ, lại còn chất thêm một núi nợ kỷ lục nay đã gần bằng tổng sản lượng cả năm. Khi đó, vì ách tắc chính trị, chỉ còn Ngân hàng Trung ương với biện pháp tiền tệ để cứu nguy. Sau khi cắt lãi suất tới số không, định chế này ba lần bơm tiền với hậu quả là mỗi lẫn làm nguyên nhiên vật liệu, kể cả xăng dầu và thực phẩm, đều tăng giá mà vẫn không có hiệu quả.

Nguyên nhân của tình trạng bất thường này là sau mấy chục năm vay nợ quá sức, Hoa Kỳ đến ngày trả nợ. Tư nhân thu vén chi tiêu để trả nợ thì nhà nước phải tăng chi để kích cầu và bù vào sự thiếu hụt đó nên gánh nợ vẫn là mối nguy ở trên đầu vì sẽ ụp xuống cả nước. Y như trong cái "Hố đen" của thiên văn học, kinh tế Hoa Kỳ đang mấp mé hố nợ là nơi mà mọi quy luật kinh tế bình thường đều không có hiệu quả mà chỉ đào sâu khủng hoảng chính trị, tương tự như những gì đã thấy tại Âu Châu và sẽ thấy tại Nhật Bản.

RFI: Trường hợp Hoa Kỳ có giống với Âu Châu hay Nhật Bản chăng ? Nếu cứ tiết giảm bội chi mà không lo cho tăng trưởng thì sản xuất không tăng, lấy đâu ra thuế mà quân bình lại ngân sách?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Mỗi người có thể đi vào địa ngục bằng một cửa ! Mỗi quốc gia trong khối công nghiệp hoá có thể bị bội chi và đi vay theo một cách, và bị khiếm hụt ngân sách ở mức độ khác nhau mà nói chung thì nếu quá 90% tổng sản lượng là đều rất khó xoay trở. Bây giờ, ngần ấy quốc gia lâm nạn đều phải thắt lưng buộc bụng trong nhiều năm để chấn chỉnh chi thu và xây dựng lại nền móng kinh tế quân bình hơn. Nhưng, có ai đắc cử bằng lời hứa kiêng khem? Cử tri thì chỉ muốn ai đó gánh vác thiệt hại để cho mình vẫn duy trì được mức sống cũ vì vậy mà sau ba năm chật vật, chưa xứ nào thoát. Nếu so sánh thì dù sao Hoa Kỳ vẫn có nền kinh tế giàu mạnh nhất và nhìn xa hơn thì nền kinh tế thứ nhì thế giới là Trung Qu ốc thì cũng mấp mé khủng hoảng vì ào ạt bơm tín dụng từ năm 2008 nay cũng mắc nợ mà xấu tới cỡ nào họ cũng chưa rõ.

Trở lại chuyện Hoa Kỳ, tổng thống tân cử sẽ phải thuyết phục được Quốc hội, thị trường và nhất là quần chúng, rằng Hoa Kỳ sẽ phải giảm chi và tăng thuế, tức là chấp nhận khắc khổ trong bốn năm quý, quãng hơn một năm, thì mới có nền móng vững bền hơn cho tương lai. Tôi nghĩ rằng đấy là một ưu tiên của mọi ưu tiên. Vì nếu không kịp thì qua năm 2014 nước Mỹ lại có bầu cử Quốc hội nữa, là khi mà các ứng cử viên lại hứa hẹn điều viển vông và gây tai họa khác.

Khi đã tạm dựng lại nền móng, tổng thống tân cử phải đề nghị Quốc hội cải tổ toàn bộ chế độ thuế khóa hiện hành, vừa bất công vừa đầy lỗ hổng cho các đại tổ hợp và tỷ phú lách thuế. Đây là nguyên nhân chính khiến khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ bị giảm sút từ nhiều năm nay nếu so với các nước công nghiệp hóa khác vì nó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa, các cơ sở sản xuất tân lập với đầy sáng kiến mới. Một dự án nghiên cứu của Đại học Harvard, đã cảnh báo như vậy từ tháng Ba rồi mà các ứng cử viên của cả hai đảng đều tránh nói đến.

RFI : Câu hỏi cuối, thưa anh, còn hồ sơ xã hội nữa. Tổng thống tân cử phải làm những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Khi các chính khách muốn moi phiếu của dân thì họ đều nói đến chuyện xã hội, đề tài hấp dẫn mà mơ hồ vì cái gì cũng là xã hội cả.

-Nạn suy trầm và hồi phục èo uột trong ba năm liền khiến lợi tức dân đều giảm và 47 triệu người phải sống nhờ trợ cấp lương thực. Đấy là vấn đề xã hội lệ thuộc vào giải pháp kinh tế ta vừa nói. Hoa Kỳ cũng bị nạn lão hóa dân số dù ít trầm trọng như Âu Châu hay Nhật Bản nhờ có di dân, nhưng gánh nặng hưu bổng và y tế ngày càng cao cũng là vấn đề xã hội vĩ đại mà thế hệ kế tiếp sẽ lãnh vì các chính trị gia của thế hệ này chỉ lo tái đắc cử nên cứ hứa hẹn và dọa nạt lung tung.

Nói về di dân, cánh cửa chính thức ở trên thì bị đảng Cộng Hoà khép lại vì sợ sức cạnh tranh của di dân có chuyên môn cao, trong khi đảng Dân Chủ mở toang cánh cửa bất hợp pháp để hốt phiếu cử tri Latino và thiểu số. Đấy cũng là vấn đề xã hội và chính trị cho một quốc gia hình thành từ di dân mà các chính quyền Cộng Hoà hay Dân Chủ đều muốn giải quyết. Mà không nổi như ông Bush năm 2005 hoặc chẳng dám như ông Obama suốt ba năm qua dù ông ta rất chú ý đến mục tiêu cải tạo xã hội. Sau cùng, ngoài hồ sơ hưu bổng, y tế, di dân, Mỹ còn có vấn đề xã hội lau dài là trình độ giáo dục sút kém ở mức trung tiểu học. Ít ai dám rớ tới chuyện này vì thế lực quá mạnh của các nghiệp đoàn giáo chức, nên tương lai nước Mỹ thật ra khó khá!

RFI : Nói chung thì hình như anh không mấy lạc quan về chuyện bầu bán này tại Hoa Kỳ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi xin được kết luận như thế này thì có lẽ thực tế hơn cả Người ta đặt quá nhiều kỳ vọng vào tổng thống Mỹ và cứ nghĩ là cuộc bầu cử sẽ giải quyết được vấn đề. Thật ra, tổng thống chỉ có thể nương theo các thế lực và chuyển động chung quanh để cải tiến được một phần của thực tại là đã khá rồi. Thứ hai, trong lịch sử Hoa Kỳ từ gần 200 năm nay, đa số tổng thống chỉ được khoảng phân nửa cử tri ủng hộ. Được 60% là cực kỳ hãn hữu và có 18 người đắc cử với số cử tri ít hơn 50%, lần cuối là ông Bill Clinton. Tức là dù hứng khởi đến mấy, ta không nên quên là gần phân nửa cử tri đã chọn người khác và nếu tổng thống có hưởng kết quả bất ngờ thì cũng lãnh hậu quả bất lường của các chính quyền tiền nhiệm, rồi chỉ hai năm sau khi đắc cử là đã nghĩ đến cuộc bầu cử tới. Vì vậy, mọi sự đều chỉ là tương đối thôi, chứ chẳng có gì là đáng lạc quan.

Ban Việt ngữ đài RFI xin cám ơn chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

Vào năm 2008 ông Barack Obama lên cầm quyền vào 6,5 % dân số Mỹ trong tuổi lao động không có việc làm. Dưới tác động của khủng hoảng tài chính mùa thu năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã vượt ngưỡng tâm lý 10 % vào tháng 10/2009 trước khi được giảm xuống dưới mức 8 % vào tháng 9 năm nay.

Nếu nhìn vào GDP của Mỹ thì ông Obama bước vào Nhà Trắng trong lúc Hoa Kỳ đang trải qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong lịch sử kể từ năm 1929. GDP của Mỹ đang từ 13 200 tỷ đô la năm 2007 rơi xuống còn có 12 800 tỷ mà thôi. Về mặt chính thức, khủng hoảng tài chính 2008-2009 đã thuộc về quá khứ, nhưng trong hai năm 2011 và 2012 Washington không thể hy vọng có được tỷ lệ tăng trưởng trên 2 %.

Trong lĩnh vực xã hội, thu nhập trung bình của người dân Hoa Kỳ đã giảm sút trong lúc tỷ lệ người nghèo khó thì lại lên đến 15 %, mức cao nhất trong 20 năm trở lại đây. Để khắc phục hậu quả của khủng hoảng nợ công của Hoa Kỳ vốn đã phình trong 8 năm dưới nhiệm kỳ của tổng thống Bush ( 5 700 tỷ đô la vào năm 2000 và 10 600 tỷ đô la vào năm 2008) không ngừng tăng thêm. Hiện tại nợ công của chính phủ liên bang lên tới 16 000 tỷ đô la, và như vậy là đã tăng thêm 51 % trong 4 năm dưới nhiệm kỳ của ông Barack Obama.

Theo một số các nhà phân tích, bài toán kinh tế đang đặt ra cho tổng thống tân cử Hoa Kỳ khá nan giải. Đành rằng, trong bốn năm qua, tổng thống Obama đã không đẩy lui được thất nghiệp, không bảo đảm được một tỷ lệ tăng trưởng cao cho người dân. Nhưng theo nhận định của tạp chí Anh, The Economist, ít ra Barack Obama cũng đã tránh để kinh tế của nước Mỹ rơi vào vực thẳm.
Thanh Hà (RFI)
 

Hạ Đình Nguyên - Sự vô nghĩa của từ “hợp tác”

Hợp tác với Trung Quốc tuy chỉ là ngôn từ ngoại giao nhưng Việt Nam luôn thiệt thòi ngay cả trong những hoạt động nhỏ bé bình thường nhất.
(AFP photo) Từ trái qua: Thủ tướng TQ Ôn Gia Bảo, Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan bên lề Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN +3 tại Hà Nội hôm 29/10/2010

Vấn đề đặt ra không phải ở chỗ nên hay không nên hợp tác nhưng hợp tác bằng cách nào để không trở thành thất thế, một chiều.

Dưới cái bóng Trung Quốc

Sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế lẫn quân sự yếu kém của Việt Nam được Trung Quốc khai thác bằng nhiều thủ thuật, trong đó có những điều được gọi là hợp tác. Mới đây Bộ trưởng công an Trung Quốc sang thăm Việt Nam và hai bên đã có những hợp tác rất cụ thể về kinh nghiệm khống chế tội phạm chính trị hay những người bất đồng chính kiến.

Một sự hợp tác khác nhằm che bớt sức nóng của nồi lửa Biển Đông chưa lúc nào ngưng sôi tuy có tiếng là thể hiện giữa hai nước nhưng thực tế cho thấy chỉ có Hà Nội là tận tình áp dụng còn Trung Quốc có phổ biến cho dân chúng của họ về các hợp tác ấy hay không chưa bao giờ được kiểm chứng.

Mới nhất và đang bị dư luận chú ý là sự kiện hợp tác báo chí. Ông Ngô Bằng Quyền, Tổng biên tập Nhân Dân nhật báo TQ, được ông Đinh Thế Huynh, trưởng ban Tuyên giáo Trung ương tiếp kiến trong kế hoạch hợp tác báo chí đã tuyên bố:

"Các ấn phẩm của hai báo phải gương mẫu tuyên truyền giáo dục nhân dân về tình cảm hu nghị, chống lại những luận điệu tuyên truyền, sai trái, phá hoại sự nghiệp cách mạng của mỗi nước, gây phương hại đến quan hệ hu nghị giữa hai nước, hai đảng ,và nhân dân hai nước”.

Tuyên bố hợp tác này có thể hiểu là một chiều vì không một người dân Trung Quốc nào chống đối, xỉ vả Việt Nam mà bị chế tài, bắt bớ hay thậm chí bị cảnh cáo bởi chính quyền Trung Quốc. Ngược lại khi dân chúng Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc thì hậu hoạn sẽ xảy ra.  Ông Hạ Đình Nguyên, một nhà tranh đấu có tiếng thời kỳ sinh viên trước năm 1975 cho biết nhận xét của ông về vấn đề này:

"Tôi nghĩ đây là cách tuyên truyền của phía Trung Quốc nhưng nhà nước Việt Nam không hiểu tại sao lại để ảnh hưởng một cách kỳ lạ như vậy? Tự nhiên lại đi mời người ta về để giáo dục nhân dân mình thì quá lạ. Còn nói về chuyện liên kết Chủ nghĩa xã hội thì cũng kỳ luôn vì chẳng có nước nào giống nước nào hết mà lại đi hợp tác giáo dục thì cả một sự nghịch lý, nghịch cả truyền thống. Tại sao lại để họ sang giáo dục mình?

Khi nhà nước Việt Nam ra luật biển thì họ đã bảo rằng là một trò hề lố bịch. Nhà nước mình không nói gì lại hết. Tờ báo Hoàn cầu bằng tiếng Anh của Trung Quốc cũng đã chửi bới Việt Nam vậy thì mình làm gì để giáo dục được bên kia?"

Coi thường người dân

000_Hkg7588590-250.jpg
Công an ngăn chặn người dân biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội hôm 22/7/2012. AFP photo
Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi, một trí thức nhiều năm trời kiên trì với trang mạng Bauxite Việt Nam chỉ với mục đích đánh động với chính phủ và người dân cả nước về hiểm họa Trung Quốc cho biết nhận xét của ông về sự hợp tác này:
"Vấn đề là các mục tiêu hợp tác ấy trên quan điểm lợi ích nào? Nếu như lợi ích của đảng cộng sản thì mục tiêu hợp tác ấy đối với họ là hợp lý. Nhưng nếu chúng ta nhìn ở mục tiêu dân tộc, tức là mục tiêu bảo vệ lợi ích tối cao của 90 triệu người Việt Nam và bảo vệ sự vẹn toàn của đất nước thì mục tiêu hợp tác đặt ra là sai lệch bởi vì lợi ích của chúng ta xét về mọi phương diện hiện nay đang không có một cái gì tương đồng với lợi ích của đảng cộng sản Trung Quốc hết.

Trong khi đảng cộng sản Trung Quốc ra sức mang chủ nghĩa bành trướng, ăn cướp đất nước ta, xâm chiếm biển đảo của chúng ta. Về phương diện kinh tế thì họ đang tìm mọi cách để làm lụn bại nền kinh tế của chúng ta. Họ cố moi móc tài nguyên của nước ta bằng mọi cách để nền kinh tế nước ta suy sụp.
Khi nhà nước Việt Nam ra luật biển thì họ đã bảo rằng là một trò hề lố bịch. Tờ báo Hoàn cầu bằng tiếng Anh của Trung Quốc cũng đã chửi bới Việt Nam vậy thì mình làm gì để giáo dục được bên kia? - Ông Hạ Đình Nguyên
Rõ ràng đối với họ mà chúng ta cứ hợp tác, nói những lời ca ngợi họ, không được phép phê phán tất cả những luận điệu điên cuồng chống phá sự vẹn toàn và tinh thần yêu nước của dân tộc ta như thế thì sự hợp tác có lợi về phía nào thì chúng ta đều đã thấy. Vì thế chúng tôi không thấy mục tiêu hợp tác như ông Đinh Thế Huynh nói không có cái gì gọi là chân lý cả."


Dư luận cho rằng ông Đinh Thế Huynh đã vượt quá giới hạn của một người làm tuyên huấn khi công khai tuyên bố “nhân dân phải được giáo dục”. Ngôn ngữ được xem là xấc xược này cộng với yếu tố Trung Quốc vốn nhạy cảm trong lòng người dân đã tạo một luồng sóng bất bình trong dư luận. Ông Hạ Đình Nguyên nguyên là chủ tịch Ủy ban tranh đấu Tổng hội sinh viên Sài Gòn chia sẻ điều mà ông cho là xúc phạm:

"Tôi nghĩ ông ấy dùng từ như thế là quá sức bậy bạ bởi vì làm sao dùng chữ giáo dục cho được? Tôi không hiều tại sao đảng lại có thể dùng chữ ấy được. Ngay cả chuyện dùng trong nước “giáo dục nhân dân” đã là tầm bậy rồi, huống chi chuyện người khác, nuớc khác đến giáo dục mình? Cho nên tôi nghĩ họ quá sức bậy bạ khi sử dụng cái từ đó".

Thái độ độc tôn nước lớn

image.jpg
Tấm bảng tuyên truyền chính sách của ĐCSVN chụp tại TPHCM hôm 29/9/2011. AFP
Ngoại giao trong thời đại toàn cầu hóa không cho phép một nước lớn khinh bỉ hay chèn ép nước nhỏ một cách lộ liễu. Bản sắc một dân tộc dù vị trí địa lý nhỏ bé tới đâu cũng có niềm kiêu hãnh riêng trong quá trình dựng nước. Ngoại giao luôn có ngôn ngữ của văn hóa, trí thức và thứ ngôn ngữ hiện đại nhất của ngoại giao là sự thông minh, sắc sảo lấy sự thuyết phục nước khác bằng cứ liệu cùng hành vi mềm mỏng chính trị làm phương châm chứ không thể bằng sự nhu nhược của những  cái cúi đầu của một nền chính trị thái thú.
Trung Quốc luôn tỏ thái độ giận dữ khi bất cứ nước nào biểu tình chống đối họ khi tranh chấp về vấn đề nào đó kể cả ngoại giao. Văn hóa độc tôn ăn sâu vào nếp nghĩ của lãnh đạo cộng với sự hãnh tiến nước lớn mới nổi khiến ngay cả dân chúng của họ cũng tỏ ra khó thể kềm chế khi nước khác phản ứng đối với thái độ sai trái của chính phủ nước họ.

Thái độ giận dữ, nạt nộ ấy tỏ ra không hiệu quả đối với những nước khác điển hình gần nhất là Philippines hay Nhật Bản. Bất kể thái độ phản ứng của Bắc Kinh, người dân Manila vẫn được phép bày tỏ sự không bằng lòng của mình trước cách hành xử thiếu thước tấc của một nước như Trung Quốc. Kết quả mà cả thế giới thấy là Trung Quốc chỉ có thể khẩu chiến chứ chưa thể tiến xa hơn trong tư thế dằng co với nước này.

Việt Nam không chấp nhận cho phép người dân biểu tình chống Trung Quốc như Philippines vì như lời ông Đinh Thế Huynh quan ngại sẽ bất lợi cho hai đảng vốn bị yếu tố Chủ Nghĩa Xã hội ràng buộc. Ông Hạ Đình Nguyên phản bác lập luận này:

"Việt Nam cứ phải đi theo đuôi ảnh hưởng của Trung Quốc. Tại sao họ làm gì thì mình phải làm theo? Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc thì đã rõ rồi và sự liên kết này không thể mang đến chuyện dân giàu nước mạnh. Tôi cứ thắc mắc tại sao có thể thấy đựơc nhưng họ không thấy mà cứ đi mãi con đường này?
Tại sao họ làm gì thì mình phải làm theo? Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc thì đã rõ rồi và sự liên kết này không thể mang đến chuyện dân giàu nước mạnh. - Ông Hạ Đình Nguyên
Chủ nghĩa xã hội chỉ còn được nhắc đến trong những kỳ đại hội đảng của Trung Quốc còn trong dân chúng khái niệm này đã tê cứng từ lâu trong những khu vực thương mại sầm uất của các thành phố nổi tiếng, hay tại những nơi mà người nông dân không còn mấy ai tin vào chủ nghĩa xã hội sẽ kéo họ ra khỏi vũng lầy của nền nông nghiệp chưa thoát khỏi sự thô sơ, lạc hậu cố hữu.

Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tin vào cụm từ kỳ bí này. Nó như phép mầu cứu vãn tình hữu nghị của hai dân tộc và xoa dịu luôn lòng tham chiếm cứ biển Đông của người đồng chí phương Bắc, có lẽ vì vậy mà nhiều người tin rằng mọi nỗ lực góp ý của trí thức, của những người trẻ yêu nước chẳng những không được nhà nước chú ý mà đôi khi còn gây tù tội, o ép, sách nhiễu vì đi ngược lại ý chí của lãnh đạo hai nước anh em.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Phương Uyên có quyền khai hoặc không

Cuối tuần qua, Cơ quan An ninh điều tra - CA TP.HCM và CA tỉnh Long An đã công bố việc khởi tố, bắt tạm giam 4 tháng với sinh viên Nguyễn Phương Uyên với cáo buộc “rải truyền đơn có nội dung chống phá Nhà nước Việt Nam”, vi phạm điều 88 BLHSVN.

(Files photo) Sinh viên Nguyễn Phương Uyên "nhận tội" trên truyền hình VN.

Truyền thông loan tin sinh viên này đã “nhận tội” và xin khoan hồng. Khi được hỏi rằng liệu Phương Uyên có quyền giữ im lặng trong quá trình điều tra, LS Trần Đình Triển (VP Luật sư Vì Dân) trả lời với Quỳnh Chi như sau:

LS Trần Đình Triển: Đó là một câu hỏi hay. Trong qui định BLHS, TTHS của nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam thì bị can bị cáo không buộc phải chứng minh mình có tội và lời khai báo đó phải phù hợp với những chứng cứ khách quan mới được coi là chứng cứ. Nếu họ khai báo trung thực thì họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ còn nếu không khai mà cố tình che giấu thì bị tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, người ta cũng qui định bị can bị cáo có quyền khai hoặc không khai.

Trong trường hợp này (của SV Nguyễn Phương Uyên) thì đây là vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia. Theo pháp luật qui định khi bị khởi tố về tội xâm phạm an ninh quốc gia trong chương đó thì cơ quan điều tra có quyền chưa cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư cho đến khi nào kết thúc điều tra. Tuy nhiên nếu có luật sư hay không có luật sư thì bị can bị cáo vẫn có quyền khai hay không khai; chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng là chứng minh có tội hay không.

Quỳnh Chi: Ông vừa đề cập đến một sự đối trọng giữa quyền của cơ quan điều tra và quyền của bị can bị cáo trong trường hợp bị cáo buộc xâm phạm an ninh quốc gia. Việc này làm gây ra quan ngại là người bị can bị cáo có thể bị ép cung trong quá trình điều tra. Ông nhận xét thế nào?

LS Trần Đình Triển: Pháp luật qui định cấm bức cung, mớm cung, dụ cung, nhục hình… nhưng trong thực tiễn thì có những trường hợp như vậy (ép cung) xảy ra. Cho nên đòi hỏi phải có một sự đối trọng. Theo quan điểm của tôi để cải thiện việc đó thì hệ thống giam giữ… phải trực thuộc Bộ Tư pháp; không thể để thuộc Bộ Công an (như hiện nay) mà dân thường cho rằng “vừa đá bóng vừa thổi còi. Thứ hai là phải thực hiện đúng qui định pháp luật là khi bị khởi tố, bị can bị cáo có quyền mời luật sư.

Và trong trường hợp mà người thân họ mời luật sư khi họ bị tạm giam thì cũng nên sửa luật tố tụng hình sự cho phép luật sư có mặt trong trại để trực tiếp hỏi bị can bị cáo có chấp nhận luật sư không. Để tránh trường hợp người bị tạm giam từ chối luật sư (được mời bởi gia đình) vì bị ép buộc. Để hạn chế trường hợp đó thì Bộ luật TTHS phải sửa đổi.

Bắt giữ có đúng luật?

Quỳnh Chi: Dư luận đang quan ngại về điều mà họ gọi là “thiếu minh bạch” trong công tác bắt giữ, điều tra. Đối với trường hợp của SV Nguyễn Phương Uyên thì sự quan ngại này có cơ sở không thưa luật sư?

LS Trần Đình Triển: Pháp luật qui định khi bắt giữ một người thì luật cũng qui định trong thời hạn nhất định phải thông báo cho thân nhân biết tình trạng tạm giam tạm giữ và nơi chốn. Còn việc qui định cho thân nhân gặp hay không là pháp luật qui định là tùy thuộc vào kết quả điều tra để phòng tránh việc thông cung hoặc đưa thông tin ra ngoài làm ảnh hưởng công tác điều tra.

Quỳnh Chi: Tin tức cho biết sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị truy tố về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 BLHS Việt Nam. Theo ông, điều luật này có những điểm tích cực và hạn chế như thế nào?

LS Trần Đình Triển: Cá nhân tôi cho rằng BLHS nước CHXHCN Việt Nam cũng có những nội dung rất cơ bản góp phần phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh tổ quốc và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong qui định của những điều luật đó thì có những điều cần phải sửa đổi. Ví dụ trong khung hình phạt điều 88 qui định từ 3 năm đến 12 năm.
Pháp luật qui định khi bắt giữ một người thì luật cũng qui định trong thời hạn nhất định phải thông báo cho thân nhân biết tình trạng tạm giam tạm giữ và nơi chốn.
LS Trần Đình Triển
Và đối với điều luật này thì người ta qui định đây là tội cấu thành hình thức, nghĩa là người ta không đo lường thiệt hại vậy thì lấy cơ sở nào để áp dụng hình phạt 3 năm, 4 năm hay 12 năm? Cụ thể nó ra chứ không thể để như vậy – yêu thì cho thấp mà ghét thì cho cao. Và chống phá nhà nước là chống phá ở cấp nào? Cấp phường xã cũng là nhà nước, cấp huyện cũng là nhà nước, cấp tỉnh cũng là nhà nước và cấp trung ương cũng là nhà nước, hội đồng nhân dân cũng là nhà nước, cơ quan hành pháp hay các bộ quản lý chuyên ngành cũng là nhà nước.

Phải định hình nó được chứ để chung chung như thế là không ổn. Còn có những qui định mà tôi cho là xử ai cũng được. Ví dụ đối với điều 88 thì thế nào là tuyên truyền, thế  nào là chống phá? Phải qui định rõ hành vi nào được cho phép và hành vi nào bị cấm? Nếu cho rằng ai nói ngược là chống thì tôi cho rằng xử ai cũng được. Nếu như thế thì tốt nhất xã hội nên im lặng tất cả để giữ cho tròn bản thân mình. Mà đã như thế thì xã hội phát triển thế nào được. Và tôi cho rằng cũng cần thực hiện đúng hiến pháp là quyền tự do ngôn luận.

Quỳnh Chi: Xin cám ơn ông.

Song Chi. - Khi đã không chính danh thì chẳng có cái gì họ không dám làm

Sau khi 157 trí thức nhân sĩ ký tên vào lá thư khẩn gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu trả tự do cho cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên vào ngày 1 tháng 11, thì ngày 3 tháng 11 công an TP.HCM và công an tỉnh Long An tổ chức họp báo công bố thông tin khởi tố, bắt tạm giam Nguyễn Phương Uyên cùng với một thanh niên khác, là Đinh Nguyên Kha, vì “có dấu hiệu của tội Tuyên truyền chống Nhà nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.

Hành vi của cả hai, theo công an là có liên hệ với một tổ chức “phản động” là Tuổi trẻ yêu nước, qua một nhân vật có tên Nguyễn Thiện Thành, từ đó cùng bàn bạc để thả truyền đơn ở cầu vượt An Sương, Sài Gòn. Cũng theo công an, tang vật gồm có nhiều truyền đơn, cờ vàng ba sọc đỏ. “Nội dung của những truyền đơn này được cho là đã “xuyên tạc, bịa đặt chính sách tôn giáo, chính sách đất đai của Nhà nước cũng như quan điểm lệch lạc về Trường Sa-Hoàng SA và biên giới đất liền giữa Việt Nam với Trung quốc, kêu gọi người dân đứng lên biểu tình chống lại đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam…”

Ngoài ra, Kha còn bị công an Long An điều tra về hành vi khủng bố vì thanh niên 24 tuổi này còn bị cho là đã “được Thành giao nhiệm vụ mua 2,45 kg hóa chất để tạo thuốc nổ cài vào tượng đài Hồ Chí Minh ở Cần Thơ”. (“Nữ sinh bị điều tra tội chống nhà nước”, báo VNExpress).

Sau buổi họp báo, hàng chục bài báo đồng loạt đưa tin giống nhau về sự việc do được mớm tin từ cùng một nguồn là công an, và có những bài báo chưa gì đã giật những cái tít nặng nề, kết án những người bị bắt khi chưa đưa ra tòa xét xử. Không có một nhà báo nào được phép gặp gỡ cô bé sinh viên và người bạn kia, gặp gỡ người thân, bạn bè của cả hai để đưa tin theo một chiều hướng khác. Trước đó, dù Nguyễn Phương Uyên bị bắt giữ một cách âm thầm, nói thẳng ra là bắt cóc giữa ban ngày ban mặt từ ngày 14 tháng 10, báo chí bên ngoài, các trang blog đưa tin liên tục nhưng toàn bộ 700 tờ báo chính thống không hề nhúc nhích, bởi chưa được phép mở mồm. Làm báo dưới chế độ cộng sản ưu việt là khốn khổ khốn nạn như thế đấy.

Khi vụ việc bị tung lên mạng, báo chí bên ngoài lên tiếng um sùm, thấy không thể giấu kín được nữa, lúc bấy giờ công an mới thừa nhận đã bắt Nguyễn Phương Uyên.

Và nếu các em sinh viên lớp 10 CDTP1 trường đại học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM không cùng nhau viết bức thư chung ngày 20 tháng 10 cầu cứu khẩn cấp lên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về việc bạn của mình 'mất tích', tiếp theo, hàng loạt nhân sĩ trí thức hàng đầu VN lại gửi kiến nghị lên Chủ tịch nước yêu cầu trả tự do cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên, như một hành động “nhằm hậu thuẫn cho đề nghị chính đáng của sinh viên", thì có lẽ sẽ chưa có cuộc họp báo vội vàng của công an cùng với những lời buộc tội nặng nề, quy kết thành tội khủng bố như đã thấy. Kể cả màn nhận tội của Nguyễn Phương Uyên.

Cái trò này, ai cũng biết, là một màn dàn dựng quen thuộc của giới công an và nhà cầm quyền VN trong những vụ án có yếu tố chính trị.

Tất cả những người bị bắt những năm gần đây hầu hết đều xuất phát từ sự quan tâm đến vận mệnh đất nước, đến mối quan hệ bất tương xứng và có hại về nhiều mặt giữa hai đảng, hai nhà nước VN-TQ. Người thì viết blog, làm nhạc, làm thơ, người đi biểu tình, người tọa kháng tại nhà…nhưng đều có chung hai điểm: bức xúc, phản đối âm mưu bành trướng và chính sách hung hăng gây hấn của TQ đối với VN cũng như sự khao khát về một cuộc sống tốt đẹp hơn cho xã hội VN.

Đảng và nhà nước cộng sản VN thừa hiểu rằng tử huyệt của họ chính là mối quan hệ bất tương xứng này, là thái độ, chính sách của họ trước một nước láng giềng đã và đang gây ra quá nhiều thiệt hại cho VN và đang tiến dài trong quá trình lệ thuộc hóa VN.

Đảng và nhà nước cộng sản VN thừa hiểu rằng người dân VN vốn bao dung, giỏi chịu đựng, đã và đang chịu đựng tất cả những chính sách sai lầm tệ hại về đối nội, đối ngoại, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội của họ khiến cho VN thụt lùi hàng chục hàng trăm năm so với các nước khác và đời sống người VN quá thiệt thòi, khổ sở. Nhưng người dân VN sẽ không bao giờ tha thứ cho tội bán nước. Bị kết án “một nhà cầm quyền bán nước’ cũng có nghĩa là ngày tàn của họ.

Chính vì thế, mặc dù mọi vụ án có liên quan đến yếu tố chính trị đều dính dáng đến tâm trạng của người bị bắt đối với Bắc Kinh, đến sự kiện Trường Sa Hoàng Sa, bao nhiêu kilomet đường biên giới phía Bắc, Ải Nam Quan, một phần thác Bản Giốc.. bị mất vào tay TQ, đến cách hành xử lấn lướt hung hăng của TQ trên biển Đông…nhưng nhà cầm quyển luôn luôn tìm cách lơ yếu tố TQ đi. Và lái sang các tội danh “tuyên truyền chống phá” hoặc “có âm mưu lật đổ” nhà nước VN.

Hơn 6 thập niên cầm quyền, trong đó có 37 năm độc quyền lãnh đạo trên toàn đất nước, đảng cộng sản VN đã quá dạn dày kinh nghiệm trong việc đàn áp, dập tắt mọi mầm mống phản kháng từ trong trứng nước.

Vốn dĩ giành được chính quyền bằng con đường không chính danh, không hề qua bất cứ cuộc bầu cử, trưng cầu dân ý nào, rồi lại giữ được chính quyền cũng chỉ bằng con đường công an trị, bạo lực, ngu dân và sợ hãi, trong thâm tâm, nhà cầm quyền VN luôn luôn lo sợ cái ngày nhân dân bừng tỉnh giấc, nổi dậy và lật đổ họ. Đó là nỗi sợ lớn nhất của họ. Lớn hơn mọi nỗi lo mất biển, đảo, mất nước vào tay TQ, hay nỗi lo đất nước bị tụt hậu, nhân dân khổ sở đói nghèo, kinh tế bị sụp đổ... Họ phải giữ được chế độ. Bằng mọi giá.

Đã có trong tay cả quân đội, công an, cả bộ máy chính quyền từ trên xuống dưới, cả bộ máy tư pháp, truyền thông báo chí…nhưng họ vẫn sẵn sàng sử dụng mọi trò bẩn mà không ai có thễ ngờ nổi, để giữ cho được sự tồn tại của chế độ.

Những trò bẩn đó thì thiên biến vạn hóa, từ việc hù dọa xách nhiễu, cắt đường mưu sinh…tất cả những ai cất tiếng nói phản đối họ, và nếu người đó bị bắt, thì công an sẽ tìm đủ cách ép cung, tạo chứng cứ giả, quy kết, chụp mũ…cộng với bôi nhọ trước dư luận, và cuối cùng là những bản án bất chấp pháp luật, bất chấp lý lẽ, phản ứng của người dân và thế giới.

Nếu vụ án nào ít người quan tâm thì còn đỡ, còn nếu càng nhiều người quan tâm, hay thế giới cũng lên tiếng, ví dụ như vụ của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, luật sư Lê Công Định và nhóm bạn, vụ 3 blogger của CLB Nhà báo tự do, hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình hay mới nhất, là vụ của cô bé sinh viên Nguyễn Phương Uyên thì họ sẽ càng tìm cách chống đỡ với dư luận. Bằng cách bôi nhọ người bị bắt, gắn những tội danh nặng nề từ chống phá chế độ, âm mưu lật đổ cho đến…tội khủng bố.

Nếu chúng ta nhìn lại hành trình cướp chính quyền của đảng cộng sản VN trước đây, khi VN còn là hai nước bị chia cắt với hai thể chế chính trị khác nhau, chúng ta dễ dàng nhớ lại cách thức hồi đó đảng cộng sản đã sử dụng để gây nhiễu dư luận, lũng đoạn thông tin (đặc biệt là với dư luận báo chí truyền thông quốc tế) kết hợp với phá hoại chế độ miền Nam Cộng hòa bẳng đủ mọi cách.

Khi chưa giành được chính quyền thì đảng cộng sản tìm mọi cách để “tô hồng”, tạo tính chính danh cho đảng bằng cách gán cho chế độ miền Nam là bán nước, Mỹ là xâm lược cướp nước nên đảng cộng sản phải lãnh đạo nhân dân phát động chuốc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cũng từ đó, mọi huyền thoại về những con người anh hùng do đảng tô vẽ lên đã ra đời, từ Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Kim Đồng…thời chống Pháp cho tới Nguyễn Văn Trỗi, Quách Thị Trang, Võ Thị Lớn, Nguyễn Văn Bé…trong đó, có bao nhiêu phẩn trăm là sự thật, bao nhiêu phần trăm là dối trá, bịa đặt?

Và nếu nhìn lại hành động của đảng cộng sản hồi đó, đặc biệt "các lực lượng đặc công và du kích ở các căn cứ vùng ngoại ô, phối hợp với các đơn vị biệt động thành hoạt động bí mật trong thành phố, hoặc các tổ chức ngoại vi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGP)" thì không phải họ mới xứng đáng được gọi là tổ chức khủng bố hơn ai hết hay sao? (Xem "Danh sách những vụ tấn công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam", Wikipedia tiếng Việt). Có bao nhiêu vu tấn công đã rơi trúng vào những “chung cư sĩ quan và mục tiêu dân sự như nhà hát, khách sạn, cầu cống, đường xe lửa, trường học, sân vận động...” làm chết bao nhiêu người dân vô tội?

Nếu thời điểm bây giờ, thế kỷ XXI mà còn có đảng chính trị nào có những cuộc tấn công kiểu như vậy thì chắc chắn thế giới sẽ gọi đó là tổ chức khủng bố. “Vậy mà cho đến bây giờ, một số vụ tấn công vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam ca ngợi như những huyền thoại của cuộc chiến.” (theo Wikipedia, tư liệu đã dẫn). Mới đây, những kẻ ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, người chuẩn bị nắm chức Thủ tướng Sài Gòn vào ngày 10 tháng 11 năm 1971 còn lên báo kể lại thành tích này! ("Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn", báo Dân Việt).

Vậy mà bây giờ họ lại gán tội danh khủng bố cho người khác.

Có hai điều đảng cộng sản, vốn rất sở trường trong việc sử dụng những biện pháp ngược lại thời chưa giành được chính quyền trên cả nước, hiểu rất rõ: là bôi nhọ những người bị bắt vì những vụ án có liên quan đến yếu tố chính trị, và gán cho những tội danh nặng nề.

Nội dung bôi nhọ thì vô cùng phong phú, thường là bôi nhọ đời tư, kiểu như hai cái bao cao su đã qua sử dụng trong vụ án Cù Huy Hà Vũ hay tội trốn thuế, từng đánh vợ cũ gây chấn thương sọ não trong trường hợp Điếu Cày…Bôi nhọ hành vi lý tưởng của người bị bắt, không còn là những người yêu nước, những người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động dân chủ mà là những kẻ bị lôi kéo, lợi dụng bởi những tổ chức phản động ở nước ngoài, làm việc này việc kia vì tiền, có âm mưu bạo động lật đổ nhà nước, cuối cùng là những kẻ khủng bố.

Bằng vào sự bôi nhọ, và gán cho những tội danh khiến ai cũng sợ như “khủng bố”, nhà cầm quyền hy vọng sẽ khiến cho người dân nói chung và họ hàng, người thân, bạn bè của những người bị bắt tránh xa họ, hiểu lầm về nhân cách của họ.

Cái trò này đã từng rất hiệu quả vào cái thời mà người dân VN còn chưa biết đến internet, thông tin từ thế giới bên ngoài, nhất là khi sự thật về “cuộc sống nghìn lần tốt đẹp hơn dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng ta” còn chưa bị tan rã ra thành từng mảng bong bóng xà phòng.

Thực tế cuộc sống xã hội tồi tệ về mọi mặt dưới sự lãnh đạo của nhà cầm quyền mới là yếu tố chính làm lòng dân bất mãn, và khi bất mãn, thì người ta không còn muốn nghe, muốn tin vào nhà cầm quyền nữa. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của internet và thông tin từ bên ngoài.

Bôi nhọ cô bé sinh viên Nguyễn Phương Uyên và người bạn, chụp lên đầu cả hai tội có âm mưu lật đổ nhà nước, tội khủng bố, với bằng chứng là hình ảnh cả hai cúi đẩu nhận tội, giới công an và nhà cần quyền VN hẳn cho rằng cú đánh thế là trúng đích, vừa lái dư luận từ sự kiện một nữ sinh bị bắt vì có tinh thần phản đối TQ thành kẻ phạm tội, vừa một lúc chết ba con chim nhạn: Một là hai đứa nhỏ tuổi hai mươi mặt mũi phờ phạc sợ hãi sau những ngày bị giam cầm, hành hạ, ép cung…Hai là tất cả đám sinh viên, những người trẻ tuổi nào còn có ý định biểu tình, phản đối TQ hay phản đối nhà cầm quyền. Và cuối cùng là tất cả nhân sĩ trí thức hàng đầu đã đứng vể phía cô bé, hòng làm mất uy tín họ.

Lác đác trên mạng đã có những lời tanh tưởi khoái trá, bôi nhọ các trí thức về vụ này, cho là bị hố, “bị nhét cứt gà sáp vào mồm”.

Nhưng họ có nhận ra những tín hiệu khác không?

Hãy lướt qua các trang blog, trang mạng xã hội, đọc những lời bình luận của mọi người về sự việc, thậm chí đi làm những cuộc phỏng vấn bỏ túi người dân xem có bao nhiêu người còn tin vào những chứng cứ, luận điểm do công an đưa ra trong những vụ án kiểu như thế này hay không? Một lần bất tín vạn lần bất tin. Những lời nói hùng hồn của viên Trung tướng Hoàng Kông Tư, Thủ trưởng Cơ quan ANĐT Bộ Công an tại một cuộc họp báo kết tội Cù Huy Hà Vũ"có đời sống dâm ô trụy lạc" vẫn còn đó để rồi sau khi ra tòa chính quan tòa cũng phải lờ tịt chuyện hai cái bao cao su vì nó quá bẩn thỉu rác rưởi. Hay cả một đài truyền hình quốc gia VTV mới hôm nào còn to mồm tuyên bố những người đi biểu tình là có nhận tiền của các tổ chức nước ngoài kia

Dân vẫn còn nhớ cả đấy.

Hãy nhìn phản ứng của các em học sinh bạn bè của Phương Uyên, giữa lúc bị vây bủa, chịu đủ sức ép từ phía công an và nhà trường, vẫn nghĩ tốt về bạn mình, cha mẹ Phương Uyên vẫn nghĩ tốt về con mình, còn cha của Nguyễn Thiện Thành thì đã lên tiếng phản bác trên BBC về việc con ông đã lôi kéo, và kết nối Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đồng thời trợ giúp tiền cho cả hai mua vũ khí (“Con tôi không móc nối Phương Uyên”,BBC).

Người dân đã bớt sợ hãi, đã dám lên tiếng và nếu so sánh, đối chiếu mọi luồng tin từ nhiều phía, người ta sẽ hiểu sự thật nằm ở đâu.

Vậy ai sẽ mất uy tín? Các trí thức nhân sĩ hay một lần nữa, công an và nhà cầm quyền phải mất mặt trước thế giới?

Chẳng có cái gì là bền vững mãi đâu, huống hồ là một chế độ độc tài có quá nhiều sai lầm và gây ra quá nhiều tội ác với dân tộc, đất nước như đảng cộng sản VN.

Chỉ muốn nhắn rằng tất cả những ai đang rất tin tưởng vào sự bền vững muôn năm của chế độ dẫn tới những hành động bất chấp luật pháp, lương tri, lương tâm con người hãy nghĩ cho kỹ. Từ những “nhà báo” viết bài theo thông tin được mớm sẵn từ công an nhưng lại quá hăm hở phụ họa kết tội người khác, những tay công an quá nhiệt tình với phương châm “còn đảng còn mình” đã sử dụng mọi biện pháp để khủng bố tinh thẩn người bị bắt, ép cung, tạo chứng cứ giả, những kẻ vô lương tâm buông lời tanh tưởi khích bác những người đứng về phía tiến bộ, những chánh án làm theo những bản án bỏ túi được gợi ý từ công an, và cuối cùng là toàn bộ những người đang nắm quyền lãnh đạo đảng và nhà nước này, hãy nghĩ cho kỹ và dừng tay lại.

Bởi vì rồi sẽ có ngày họ không có chỗ đứng trong một nước VN tự do dân chủ mới, sẽ có ngày người dân lùng tìm họ để bắt trả giá về tất cả những gì họ đã làm.
Song Chi RFA

Lê Diễn Đức - Trò dàn dựng "nhận tội, xin khoan hồng" cũ rích hoàn toàn bị phá sản

Nguyễn Phương Uyên với tấm biểu ngữ có dòng chữ viết bằng máu:"Tàu Khựa cút khỏi biển Đông".

Ngày 3/11/2012, công an thành phố Sài Gòn kết hợp với công an tỉnh Long An họp báo về việc bắt giữ Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi, nữ sinh viên năm thứ ba thuộc trường đại học Công nghệ Thực Phẩm Sài Gòn.

Nguyễn Phương Uyên bị công an tạm giam điều tra với cáo buộc "vi phạm Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) về tội tuyên truyền chống Nhà nước", cùng Đinh Nguyên Kha, vì đã "rải truyền đơn có nội dung chống phá Nhà nước VN tại cầu vượt Quang Trung (quận 12, Sài Gòn)" - theo thông tin từ cuộc họp báo.

Như vậy, các tuyên bố từ buổi họp báo này phải được xem là quan điểm chính thức của nhà đương cục CSVN.

Dối trá chính danh!

Trong cuộc họp báo, Nguyễn Sáu, đại tá, Thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra tỉnh Long An, khẳng định:

"Chúng tôi thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Một ngày sau khi khởi tố và bắt tạm giam bị can Nguyễn Phương Uyên, cơ quan điều tra gửi thông báo cho gia đình Uyên ở Bình Thuận. Từ lúc cơ quan điều tra gửi thông báo gia đình bị can Uyên nhận phải mất vài ngày chứ không phải không thông báo như một số thông tin trên mạng đã nêu".

Một người có cấp bậc đại tá, tuyên bố truớc công luận lẽ ra phải hội đủ sự thuyết phục dưới góc độ pháp luật, nhưng đại tá Sáu đã bộc lộ, hoặc là một người khoác mã đại diện pháp luật nhưng trong não bộ trống rỗng kiến thức về pháp luật, hoặc là một kẻ trơ tráo, vô liêm sỉ và coi thường dư luận. Một sự dối trá chính danh, được ký tên đóng dấu!

Từ điều 80 đến điều 86, Chương VI, Bộ luật Tố tụng Hình sự (LTTHS) năm 1992 (bổ sung năm 2003) quy định cụ thể về các trường hợp bắt và tạm giữ người, kể cả trong trường hợp bắt khẩn cấp.

Điều 80 - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;

b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;

c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;

d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.

Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.(...)

Điều 84 - Biên bản về việc bắt người

1. Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.

Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.

Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.

Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.

2. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.

Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.

Tất cả những quy định trên đây đều đã bị công an chà đạp thô bạo trong trường hợp Nguyễn Phương Uyên.

Nguyễn Phương Uyên bị bắt cùng ba bạn khác sống chung tại phòng trọ vào lúc hơn 11 giờ sáng ngày 14/10.

Lực lượng công an gồm khoảng chục người vừa mặc sắc phục, vừa thường phục, áp giải Phương Uyên và ba bạn cùng phòng tới đồn công an phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Sài Gòn, chỉ nói là để xác minh một số vấn đề.

Ba bạn cùng phòng trọ được trả về là những nhân chứng sống trong việc công an bắt giữ Phương Uyên và "mất tích" luôn sau đó.

Dư luận sôi động về sự "mất tích", "bắt cóc", bởi vì khi gia đình của Phương Uyên và bạn học tới công an phường Tây Thạnh hỏi thăm thì được công an trả lời không biết gì về vụ việc và không bắt giam ai cả!? - Chị Nguyễn Thị Nhung, mẹ của Phương Uyên, hoang mang kể lại với BBC Việt ngữ.

Vào ngày 19/10, trong khi vẫn bặt âm vô tín từ phía nhà chức trách, thì cộng đồng mạng đã loan báo Phương Uyên đang bị giam ở buồng số 12 (trong một phòng cùng với hơn 10 phạm nhân khác) tại nhà giam của Công an quận Tân Phú, địa chỉ 516/4 - 615/4 đường Bình Long, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Sài Gòn.

Mãi đến ngày 20/10, tức 6 ngày sau khi Phương Uyên bị bắt, Cơ quan An ninh Điều tra thuộc Công an tỉnh Long An, mới ra Thông báo Số 3 do Thượng tá Nguyễn Thanh Sơn ký,gửi gia đình Phương Uyên về việc bắt giữ Phương Uyên vì "có hành vi tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN" và cho biết nơi Uyên bị giam là "trại tạm giam công an tỉnh Long An, số 159 đường Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Tân An, tỉnh Long An".

Rõ ràng thực tế đã diễn ra khác hoàn toàn với tuyên bố "thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Một ngày sau khi khởi tố và bắt tạm giam bị can Nguyễn Phương Uyên, cơ quan điều tra gửi thông báo cho gia đình" của đại tá Nguyễn Sáu trong cuộc họp báo. Tuyên bố/khẳng định này không gì khác hơn là sự ma giáo, đổi trắng thay đen trắng trợn, bằng hành động cũng như ngôn từ.

Gắp lửa bỏ tay người

Một sự bất tín, vạn sự bất tin. Sự ma giáo, đổi trắng thay đen trắng trợn của người đứng đầu Cơ quan an ninh điều tra trong cuộc họp báo, cho thấy toàn bộ kịch bản nhuốm màu sắc bất lương ngay từ đầu.

Từ đó, người ta không thể không nghi ngờ về những cái gọi là "tang vật thu được của vụ án gồm hơn 700 truyền đơn và cờ của chế độ Ngụy quyền, hơn 2kg hoá chất tạo thuốc nổ cùng một số tang vật khác" và "trong vụ án còn một số dấu hiệu của tội khủng bố"

Trước hết, một điều quá dễ hiểu rằng, công an sẽ không có gì khó khăn khi muốn tạo dựng tang vật. Bởi vì công đoạn khám xét nơi ở của Nguyễn Phương Uyên cũng đã diễn ra mờ ám, trái pháp luật.

Điều 141 Bộ LTTHS sự quy định:

"Khi khám chỗ ở phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến".

Không tuân thủ các quy định trên, công an đã tuỳ tiện về phòng trọ của Phương Uyên lục soát, mặc sức làm mưa làm gió, cho nên không thể loại trừ khả năng công an đã chơi trò "gắp lửa bỏ tay người". Để biến một cô gái sinh viên thơ trẻ, học giỏi, hiền lành, được bạn bè quý mến, thành một tên khủng bố, chỉ cần quẳng vào hiện trường vài ký thuốc nổ hay vũ khí, lập biên bản xác nhận với nhau, rồi có thể công bố có trong tay "tang vật"!

Những tang vật mang tính lưu manh, giả trá này không giá trị pháp lý, khi việc khám xét bất chấp các quy định của pháp luật, không có sự hiện diện của người trong cuộc và nhân chứng khách quan.

Trong một cuộc họp báo, theo thông lệ, nguời ta thường chứng minh cho công luận thấy "tang vật" thu được bằng cách thức nào, ở đâu, trong bối cảnh nào. Đã không hề thấy động tác này trong cuộc họp báo hôm 3/11. Chỉ thấy kiểu lấy thịt đè người, đăng lấy được trên các báo lề đảng.

Sự thất bại của màn dàn dựng

Kịch bản dàn dựng của nhà cầm quyền CSVN buộc những người yêu nước, những người bất đồng chính kiến, tranh đấu dân chủ trong hoàn cảnh lao tù phải đọc bản nhận "tội", "xin khoan hồng", đã quá nhàm trong con mắt dư luận. Còn trong trường hợp của nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên nhà cầm quyền CSVN đã hoàn toàn thất bại.

Hình ảnh nhận"tội" của Phương Uyên trên TV và các phương tiện truyền thông lề đảng đã không giúp đuợc gì nhà cầm quyền ý đồ bôi xấu, hạ nhục những người yêu nước, mà chỉ làm dư luận căm phẫn, khinh miệt thêm thái độ hèn nhát, ác độc của kẻ mạnh trước người yếu thế, bị huỷ diệt mọi khả năng lựa chọn trước các đòn khủng bố và đe doạ.

Chúng ta đã chứng kiến phản ứng của dư luận trong trường hợp "nhận tội", "xin khoan hồng" vào tháng 6 năm 2009 của Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Kim Anh. Vì họ là những người ở tuổi từng trải, có lý tưởng, dấn thân cho các hoạt động dân chủ, giữ vai trò nhất định trong tổ chức chính trị (đảng Dân Chủ), nên dư luận đã có những luồng đánh giá khác nhau, hoặc cảm thông, hoặc bất bình, gây tranh cãi. Thậm chí bà Trần Thị Huệ, em gái ông Trần Anh Kim, nói về hành động “nhận tội” của anh trai rằng "Chết vinh còn hơn sống nhục. Đã thấy việc mình làm là đúng, thì dù có chết, cũng không nên làm như thế”, và nhìn hình ảnh anh trai xin khoan hồng, bà cảm thấy “mất mát trong lòng“.Bài viết của tôi lúc bấy giờ "Những nhà dân chủ thich sống nhục" trên diễn đàn Talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài đã gây nên tranh luận sôi động và gay gắt.

Nhưng, với Nguyễn Phương Uyên, tình cảm dành cho cô sinh viên mới ở tuổi 20, dường như nhất quán. Đó là sự chia sẻ, thông cảm sâu sắc. Những người hiểu biết, trong đó có cả những người vốn né tránh các chuyện chính trị nhạy cảm, đều thương mến Phương Uyên nhiều hơn cả trước khi cô gái "nhận tội". Người ta thấy ở Phương Uyên hình ảnh của một con gà con ngơ ngác giữa một bầy diều hâu hung dữ.

Những "tội" mà Phương Uyên "nhận" được nhà cầm quyền trưng ra, show off, đã chẳng gây nên chút ấn tượng nào. Những người có lương tri, sáng suốt, nhìn thấy một trò hạ cấp, lố bịch. Trò này chỉ có thể lừa mị được những kẻ ngốc nghếch, hoặc kích dâm chính trị đám sai nha bệnh hoạn "đang tâm làm tay sai cho Tàu".

Phản ứng của người thân trong gia đình Phương Uyên cũng rõ ràng, dứt khoát. Trả lời BBC Việt ngữ trong ngày 4/11, ông Nguyễn Duy Linh, cha của Phương Uyên, không tin vào những gì mà con gái ông bị cáo buộc hay "nhận tội". Ông bày tỏ lòng "cảm phục" và "hãnh diện" về con gái, hiểu được con gái bị tù tội chỉ vì lòng yêu nước, chống xâm lược Trung Quốc, và cho rằng, kịch bản dàn dựng "nhận tội" không gì khác hơn là hành động của nhà cầm quyền nhằm mục đich răn đe, dập tắt tinh thần yêu nước trong giới sinh viên, học sinh.

Nhà văn Phạm Đình Trọng ngày 05/11/2012 trong bài "Cần lên tiếng tiếp về vụ Phương Uyên" gửi giáo sư Nguyễn Huệ Chi và giáo sư Tương Lai, những người nằm trong danh sách 144 vị nhân sĩ, trí thức ký tên trong thư khẩn cấp gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề nghị trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên, viết:

- "Nhiều công dân lớn tuổi đã mang cả cuộc đời làm việc ra cống hiến cho Đảng và Nhà nước này khi ký Kiến nghị về những vấn đề của xã hội còn bị công an đến tận nhà truy hỏi, bắt rút tên khỏi Kiến nghị thì các cháu sinh viên non nớt sau khi bị cả một hệ thống quyền lực đang nắm vận mệnh, tương lai các cháu đến truy hỏi, đe dọa, các cháu phải chối bỏ việc ký tên trong Thư gửi Chủ tịch nước kêu xin cho Phương Uyên là điều dễ hiểu.

Làm việc đó, cả hệ thống quyền lực, từ bộ Giáo dục Đào tạo, nhà trường đến công an, chính quyền địa phương đã vi phạm trắng trợn Quyền Công dân.

- Trong ngột ngạt nhà giam, trong phũ phàng đe dọa và trong ngọt ngào hứa hẹn, Phương Uyên phải viết lời nhận tội cũng là điều dễ hiểu.

- Điều này cũng tố cáo về cách điều tra làm án không lương thiện, phản sự thật, phản con người của công an".

Lời kết

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà bất đồng chính kiến từng chịu bản án 5 năm tù, 3 năm quản chế, chỉ vì dịch bài "Thế nào là dân chủ" lấy từ trang web của đại sứ quán Hoa kỳ tại Việt Nam, viết trên trang Facebook của mình:

"Một lần nữa cho thấy chính quyền độc tài luôn kiên trì để dựng bằng được chân dung của những người đang dấn thân vì tiến bộ hiện nay rút cục chỉ là những người bồng bột, kém chịu đựng, và/hoặc chỉ là những kẻ cực đoan bạo động muốn gây đổ máu mà thôi. Đây chính là hai mục tiêu nòng cốt nhằm làm tan rã một phong trào đấu tranh bất bạo động trong thời đại ngày nay, chứ không hẳn là những án tù dài dằng dặc hay những bạo lực tàn ác".

"Một phong trào bị trấn áp thẳng tay bằng những án tù dài hay bạo lực tàn ác vẫn có thể phát triển và thành công, vì sự trấn áp luôn làm gia tăng thiện cảm, sự chia sẻ của công chúng cho phong trào và càng làm cho bộ mặt của chính quyền thêm phần khó chấp nhận".

Hoàn toàn chính xác! Dư luận đã hiểu sâu rộng "mục tiêu nòng cốt" của nhà cầm quyền CSVN mà bác sĩ Phạm Hồng Sơn nói tới và mặt thật đểu cáng của trò hề dàn dựng, ép buộc "nhận tội, xin khoan hồng".

Màn dàn dựng cũ rích, sặc mùi khủng bố con tin của tổ chức Al Qaeda, đã bị nhận diện và hoàn toàn phá sản. Rất rõ qua trường hợp cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên!

Ngày 5/11/2012
© 2012 Lê Diễn Đức - RFA Blog

Lãng phí cái ghế Chủ tịch (nước)

Sự đồng thuận tuyệt đối trong việc tăng quyền cho Chủ tịch nước tại QH hôm qua, không phải bởi để tránh lãng phí, dù đó đang là một cái ghế to, đang được dùng để “tượng trưng”.

Đương thời, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết có lần yêu cầu Mặt trận mở cuộc vận động hỏa táng, để tiết kiệm đất, và hát quốc ca, để giáo dục lòng yêu nước. Những điều đó là cần thiết, nhưng dường như đó không phải là việc xứng với tầm vóc của mấy chữ “nguyên thủ quốc gia”.

Đã từ rất lâu, trước dân chúng, chế định Chủ tịch nước rất đơn giản chỉ là người đọc vài câu “gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước” mỗi đêm giao thừa, xuất hiện trong những bản tin tiếp khách lễ tân; tới trao huân chương, dự lễ khánh thành. Sang hơn tí nữa thì ký ban hành luật. Và đó là một bộ luật đã được Chính phủ đệ trình và Quốc hội thông qua.

Rất ít điểm nhấn, như việc Chủ tịch nước cưỡi tàu ra Bạch Long Vĩ để khẳng định chủ quyền biển đảo. Hoặc Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định quyết tâm chống tham nhũng.

Đến ngay một công việc đã được quy định trong Hiến pháp, rằng Chủ tịch nước có quyền dự các phiên họp của Chỉnh phủ, thực ra, cũng chưa từng được thực hiện. Ngày hôm qua, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo băn khoăn vừa hỏi vừa tự trả lời: Trước đây quy định Chủ tịch nước được quyền tham dự các buổi họp của Chính phủ. Nhưng quy định này là chưa rõ ràng. Có một cái ghế chủ tọa thì Thủ tướng ngồi rồi. Vậy thì Chủ tịch nước ngồi ở đâu!?”. Vấn đề mà ông Thảo nói, chắc chắn không phải là vì “thiếu một cái ghế”. Mà ở việc “kê thêm ghế”, và “chỗ đặt ghế”.

Cái ghế Chủ tịch nước, trong Hiến pháp, là nguyên thủ quốc gia, nhưng thực tế, lại rất “tượng trưng”- Đây là từ mà ĐBQH Nguyễn Thị Quốc Khánh đã sử dụng. Theo bà Khánh, chế định Chủ tịch nước chỉ có thực quyền trong thời kỳ đầu khi Hiến pháp quy định Chủ tịch nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Tuy nhiên, “càng về sau, chế định Chủ tịch nước, dù vị trí rất quan trọng nhưng chỉ mang tính chất tượng trưng”. Sau khi nhắc đi nhắc lại rằng : “Chúng ta phải thừa nhận thực tế như vậy”, sau khi ngập ngừng mất vài giây, bà Khánh sau đó đã quả quyết dùng chữ “lãng phí”: “Và điều đó là rất lãng phí”.

Ngày hôm qua, ĐBQH nào phát biểu liên quan đến chế định Chủ tịch nước đều tán thành việc cần tăng quyền lực cho chức danh này. Đây là một sự đồng thuận tuyệt đối hiếm thấy tại Quốc hội.

Viện trưởng Đinh Xuân Thảo nói: Hiến pháp quy định rõ những gì gắn với chức năng của Chủ tịch nước thì chế định này có quyền yêu cầu triệu tập phiên họp Chính phủ. Chủ tịch nước là Thống lĩnh lực lượng vũ trang, Chủ tịch HĐ quốc phòng an ninh. Được phong quân hàm cấp tướng từ thiếu tướng trở lên, chuẩn đô đốc hải quân trở lên. Chủ tịch nước được quyền bãi bỏ văn bản của chính phủ, Thủ tướng chính phủ. Chủ tịch nước có quyền đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Đình Quyền, người tự nhận “nói thẳng quá nên giờ người ta không mời góp ý cho Hiến pháp nữa” cũng để nghị: “Cần xem xét vai trò của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với Quốc hội, đặc biệt là đối với Chính phủ khi trong Hiếp pháp 1992, quy định về mỗi quan hệ này là rất mờ nhạt”.

Và bà Khánh đương nhiên đặc biệt tán đồng bởi theo bà : “Tăng quyền cho Chủ tịch nước chính là việc tăng cường kiểm soát quyền lực của nhau (các chế định khác)”.

Nhưng rõ ràng, sự đồng thuận tuyệt đối tại QH hôm qua, không phải bởi để tránh lãng phí.

Bởi nếu để tránh lãng phí thực sự, và không chỉ là một “cái ghế”, thì Hiến pháp đáng lẽ phải tái lập chế định Chủ tịch nước như bản hiến pháp đầu tiên năm 1946, theo đó Chủ tịch nước vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Và trả lại quyền kiểm tra, giám sát, bổ nhiệm, miễn nhiệm, hủy bỏ cho Quốc hội. Huống chi, ở Việt Nam còn có chế định “Đảng cộng sản” cũng được ghi trong Hiến pháp.
Theo Đào Tuấn

Đào Tuấn - “Đuổi Chính phủ”

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đơn giản hơn nhiều, có khi chỉ là việc trả lại cái quyền “đuổi Chính phủ” cho nhân dân.

Trước nghị trường, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến phát biểu về cái “thước đo cán bộ”: “Ai cũng đạo đức tốt, học hành, bằng cấp đầy đủ cả. Ngoài thước đo năng lực, phẩm chất, còn cần xét hiệu quả công việc. Có người đạo đức tốt nhưng hiệu quả công việc lại không tốt nếu chỉ cứ “tròn vo” để không phải đụng chạm, mất lòng ai, không có gì thay đổi và không có sản phẩm đầu ra. Đánh giá cán bộ là khâu khó nhất và điều quan trọng nhất là phải đánh giá trên kết quả, sản phẩm đầu ra”.

“Sản phẩm đầu ra” đó, đã được ĐBQH Chu Sơn Hà nêu ví dụ: Bộ Y tế buông lỏng quản lý nhà nước về dược liệu, khi quá trình kiểm tra 400 mẫu dược liệu có loại thuốc bốc nhầm, có loại trộn cả xi măng, có loại ngâm tẩm hóa chất độc hại gây ung thư, có cả các loại hóa chất không rõ nguồn gốc.

Dường như “nói không đi đôi với làm” là loại bệnh nan y của nền hành chính. Chưa kể tới căn bệnh trọng đã di căn “cấp trên nói cấp dưới không nghe” mà ví dụ điển hình là câu chuyện “Phó thủ tướng cũng bó tay” được nói ra trước Quốc hội. Có thể gọi đó gì nếu không phải là một “nền hành chính họ nhà tôm”!

Nhưng “đầu ra” của nền hành chính không chỉ là hiệu quả của sự “tròn vo”. Mà còn là những “tệ nạn”. Đó là nạn tham ô, tham nhũng. Nạn chạy chức chạy quyền. Thái độ quan liêu, hách dịch cửa quyền, nịnh trên nạt dưới. Nếu lấy mốc là bản Hiến pháp 1946, khi lần đầu tiên khái niệm “tổ chức bộ máy nhà nước” xuất hiện ở Việt Nam, thì chưa khi nào nền hành chính với chiều dài hơn 60 năm lại nhiều vấn đề như hiện nay. Nó thể hiện bằng mấy chữ “bộ phận không nhỏ”, kèm theo vô số những tính từ, mà NQ TƯ 4 đã xác định.

60 năm trước, ông Cụ đã khẳng định hoạt động của nền hành chính nhà nước trước hết phải phục vụ cho “độc lập – tự do – hạnh phúc”. Đó cũng là tiêu ngữ gắn dưới định danh nhà nước cho mọi văn bản hành chính. Và chính vì thế, ông Cụ xác định: Chính phủ dân chủ cộng hòa là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ…Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.

Cái quyền “đuổi Chính phủ” mà ông Cụ nói, thực ra chính là quyền được bầu, và kiểm tra, xem xét những gì mà các đày tớ nhân dân đã và đang làm có phải là phục vụ dân hay không, có tốt không, có đúng không.

“Phật giáo giải thích sầu não, đau khổ bằng 5 lý do, bằng tham, sân, si, mạn, nghi, ác  kiến. Còn Khổng tử dạy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tôi tin rằng, nếu như hấp thụ được những tinh hoa đó để giáo dục nhân cách con người thì một người có nhân nghĩa không đi trộm cắp, một người có liêm sỉ không bao giờ mua bằng, mua chức, mua cấp để leo cao, chui sâu”. Nếu không chú thích, nhiều người sẽ không tin đây là phát biểu nghị trường của một ĐBQH. Ông Lê Thanh Vân sau đó còn đề xuất: Nên đầu tư nghiên cứu những giá trị nêu trên để đưa vào dạy cho trẻ em ngay từ cấp học đầu tiên. Ở TP HCM, máy “chấm điểm” cán bộ đã được “phủ sóng” khắp 10 phường của Quận 1. Ở Hà Nội, Chủ tịch HĐND TP Ngô Thị Doãn Thanh cho biết sẽ phát phiếu điều tra xã hội học về thái độ của cán bộ trong việc tiếp dân tại 5 sở “nhạy cảm”. Rồi “học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Rồi “Xây dựng văn hóa từ chức”. Và ở tầm vĩ mô hơn, vấn đề lấy phiếu tín nhiệm đối với 49 chức danh quan trọng nhất của đất nước đang được đưa ra bàn thảo trước Quốc hội. Trong chỉ một tuần, vô khối những biện pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy nhà nước từ vi mô tới vĩ mô đã được đưa ra.

Tất cả những điều đó đều là cần thiết cho một mục tiêu chung: Xây dựng nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Nhưng sẽ là vô nghĩa nếu việc “chấm điểm” chỉ là cái cớ cho việc chạy chọt. Sẽ làm nản lòng dân nếu như “điều tra xã hội học” chỉ để điều tra. Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đơn giản hơn nhiều, có khi chỉ là việc trả lại cái quyền “đuổi Chính phủ” cho nhân dân nếu những quan chức trong chính quyền không những không phục vụ, mà còn áp bức nhân dân, lừa dối nhân dân. Thậm chí vừa áp bức, vừa lừa dối.
Theo Đào Tuấn

Làm thế nào để góp phần xây dựng Xã hội Dân sự tại Việt nam?

(Bài góp ý nhân cuộc Hội thảo ngày 3 tháng 11 tại thành phố Santa Ana, Orange County miền Nam California)
Được sự đồng ý của Ban Tổ chức cuộc Hội thảo, tôi xin hạn chế việc trình bày vào khía cạnh thực hành của công cuộc Xây dựng Xã hội Dân sự (XHDS) tại Việt nam trong giai đọan hiện nay vào đầu thế kỷ XXI.
I – Để bắt đầu, xin điểm qua về tình hình sinh họat của XHDS tại Việt nam hiện nay.
A – Như ta đã biết XHDS là một khu vực thứ ba mà cùng với khu vực Nhà nước và khu vực Thị trường Kinh doanh hợp thành cái Không gian Xã hội do con người sống hợp quần với nhau trong xã hội mà tạo lập ra. Định nghĩa này có thể viết ngắn gọn dưới dạng một công thức như sau :
Không gian Xã hội = Nhà nước + Thị trường Kinh doanh + XHDS.
( The Social Space = the State + the Marketplace + the Civil Society)
Như vậy, XHDS bao gồm mọi tổ chức, đơn vị nào mà đều có 3 tính chất sau đây :
a/ phi chính phủ (non-governmental)
b/ bất vụ lợi (non-profit)
c/ tự nguyện (voluntary)
Và trong mối tương quan đối với chính quyền Nhà nước, thì XHDS vừa đóng vai trò làm Đối tác (counterpart) – như trong lãnh vực từ thiện nhân đạo – và vừa làm Đối trọng (counterbalance) – như trong việc bảo vệ công bằng xã hội, bảo vệ nhân phẩm nhân quyền của người công dân.
Trước năm 1975, thì tại miền Nam Việt nam vẫn tồn tại một khu vực XHDS có những đặc tính như trên – mặc dù vì hòan cảnh chiến tranh nên có những hạn chế này nọ vì lý do chính trị quân sự.
B – Tại Việt nam hiện nay, thì vì chính sách độc tài tòan trị của đảng cộng sản (totalitarian dictatorship) bao trùm lên mọi lãnh vực chính trị, kinh tế và cả văn hóa tư tưởng nữa – nên khu vực XHDS cũng bị đảng cộng sản lũng đọan thao túng thông qua những tổ chức “ngọai vi của đảng” – cụ thể điển hình như Hội Liên hịệp Phụ nữ, Đòan Thanh niên Cộng sản, Mặt trận Tổ quốc, Hội Nhà văn v.v… Kể cả trong lãnh vực tôn giáo, thì cũng có đủ thứ tổ chức do đảng trực tiếp dật giây điều khiển mà nhân gian gọi là các thứ “Phật giáo quốc doanh”, “Công giáo quốc doanh” v.v…
Từ khi nắm được chính quyền trong tay, thì đảng cộng sản Việt nam đã luôn luôn áp dụng hòan tòan theo mô hình của Liên Xô, Trung cộng là : “Đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt đối và tòan diện” – như họ đã ghi rõ ràng trong điều 4 Bản Hiến pháp.
II – Vậy thì chúng ta phải làm thế nào để góp phần vào công cuộc xây dựng XHDS ở Việt nam?
Xin quý vị chú ý :  Câu hỏi này nêu chủ điểm là “Góp phần vào công cuộc xây dựng XHDS”, đó là bàn về vai trò của chúng ta là trên 4.5 triệu người Việt hải ngọai mà hiện đang sinh sống phân tán ở trên 60 quốc gia tại khắp thế giới. Cho nên công việc xây dựng XHDS chính yếu đó là phải do 90 triệu người dân hiện đang sinh sống tại quê hương Việt nam đóng vai trò chủ động đích thực – còn người ở hải ngọai như chúng ta đang ở đây, thì chỉ có thể đóng vai trò phụ họa yểm trợ cho công cuộc xây dựng vô cùng lớn lao đó mà thôi (supporting role).
A – Trước hết là rút kinh nghiệm xây dựng cụ thể thiết thực của cha ông chúng ta được thể hiện trong truyền thống dân tộc từ ngàn xưa.
Từ xa xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nói : “Phép vua thua lệ làng” – tức là xác nhận một tình trạng thực tế là : Chính quyền trung ương dù bao trùm lên tòan thể quốc gia, thì cũng phải nhường bước cho chính quyền địa phương tại các thôn xã. Tình trạng này, người ta gọi là chế độ địa phương tự trị (local autonomy) – tức là địa phương có thẩm quyền riêng biệt của mình, mặc dầu vẫn chịu sự chi phối và lãnh đạo của chính quyền trung ương.
Mà như ta đã biết, từ nhiều thế kỷ trước tại nước ta chỉ có nền kinh tế nông nghiệp với năng suất rất thấp kém, nên ngân sách của chính quyền trung ương cũng như địa phương cũng rất hạn chế eo hẹp. Do đó mà không thể cung ứng cho nhu cầu họat động mạnh mẽ của guồng máy chính quyền như trong các quốc gia phát triển ngày nay. Vì thế, tại mỗi thôn xã thời trước như vào đầu thế kỷ XIX, thì chính quyền địa phương cũng chỉ có dăm ba người được trả lương để lo việc điều hành mọi công việc hành chánh thông thường của làng xã mà thôi. Và hầu hết các việc khác, thì do những vị kỳ mục, những vị tôn trưởng – là những người nằm ngòai guồng máy công quyền mà lại có uy tín đức độ tại địa phương -  đứng ra tổ chức vận động bà con góp công sức và tiền của ra để cùng nhau thực hiện những dự án cụ thể có ích lợi thiết thực cho tòan thể cộng đồng thôn xã đó.
Trong bài viết trước đây nhan đề là “XHDS tại Nông thôn Việt nam thời xưa”, tôi đã có dịp phân tích chi tiết về tình hình sinh họat trong xã hội cổ truyền tại các vùng nông thôn trước đây. Nay tôi chỉ xin nhắc sơ qua về mấy đặc điểm của XHDS vào thời xa xưa tại Việt nam.
Điều đáng chú ý nhất là vai trò lãnh đạo cộng đồng do các vị tôn trưởng đảm nhận. Các vị tôn trưởng này gồm những vị có uy tín, được sự tin cậy yêu mến của dân làng – mà điển hình là những thầy đồ dậy dỗ hướng dẫn các môn sinh tại địa phương, những vị lãnh đạo tinh thần trong các tổ chức tôn giáo, những thân hào nhân sĩ xuất thân từ các “danh gia vọng tộc” v.v… Họ vừa có tài năng trí tuệ, vừa có đức độ và nhiều vị còn có tài sản tương đối khá giả để mà “người góp sáng kiến, góp công sức – người góp của” để cùng nhau hòan thành những dự án cụ thể có ích lợi cho bà con trong cộng đồng. Đặc biệt các cụ đồ nho, thì ngay các vị quan lại ở địa phương cũng phải nể trọng vì đó là sư phụ của chính bản thân mình hay của các bạn cũng làm quan lại đồng liêu với mình.
Đó là các vị sĩ phu, những nhà trí thức vừa cùng sinh sống chung với quần chúng nhân dân, chia sẻ mọi nỗi khó khăn vất vả của các thành viên trong tập thể xóm làng – và vừa dấn thân nhập cuộc trong những công việc thường ngày cùng với dân làng ngay tại hạ tầng cơ sở ở địa phương. Bởi thế, mà giới kẻ sĩ luôn luôn được xã hội trọng vọng và được xếp vào bậc cao nhất trong tập thể như dân gian vẫn thường gọi : “Sĩ, Nông, Công, Thương”. Cụ Nguyễn Công Trứ vào hồi đầu thế kỷ XIX đã ghi rõ vai trò tiêu biểu đáng kính đáng trọng của kẻ sĩ trong xã hội cổ truyền trong bài “Kẻ Sĩ” – như chúng ta đều đã được học ở nhà trường dưới chế độ Việt nam Cộng hòa trước năm 1975. Những vị sĩ phu có công với xóm làng thì thường được người dân biết ơn và lập miếu thờ trong các cơ sở gọi là “Miếu Tiên Hiền”.
Nhưng điều thật đáng buồn là ngày nay tại Việt nam, sau gần 70 năm dưới chế độ độc tài chuyên chế của đảng cộng sản, thì qua các chiến dịch như “Cải cách Ruộng đất”, “Tập thể hóa Nông nghiệp” – tất cả khu vực nông thôn của chúng ta đều đã bị tàn phá tan hoang với tầng lớp lãnh đạo bị tiêu diệt tòan bộ. Và thay vào đó là các đảng viên, các công an, cán bộ Nhà nước tạo thành một “guồng máy kềm kẹp” rất chặt chẽ khắc nghiệt – khiến làm tê liệt mọi sáng kiến cải thiện xã hội mà tầng lớp kẻ sĩ thời xưa vẫn ra tay thi thố để góp phần xây dựng sự an vui hưng thịnh của xóm làng.
Do vậy, mà gần như đại bộ phận giới sĩ phu trí thức của Việt nam hiện nay, thì đều là những người sinh sống tại các thành thị. Lớp người này được tiếp cận với thế giới văn minh ở bên ngòai nhiều hơn – đặc biệt là có thể sử dụng internet để trao đổi tin tức với bà con bạn hữu ở khắp nơi trên thế giới. Nhờ đó mà họ cũng bớt được sự sợ hãi đối với cơ quan an ninh mật vụ của nhà nước, điển hình như nhiều người trẻ đã dám trực diện tranh đấu đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho người dân Việt nam. Nhất là họ còn tỏ thái độ chống đối với quân xâm lược Trung quốc, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của chính quyền cộng sản hiện nay đang là tay sai của chế độ bành trướng bá quyền ở Bắc kinh.
Và điều đáng phấn khởi hơn nữa, đó là hiện đang có hàng ngàn các bloggers xuất hiện trên các trang mạng on-line để phổ biến thông tin và quan điểm suy nghĩ nhận định của mình cung ứng cho khối quần chúng mỗi ngày một thêm đông đảo – có thể lên tới con số hàng triệu người – trong cái không gian mạng lưới điện tử hiện đại (cyberspace) – mà công an cộng sản dù tinh vi thâm độc đến mấy đi nữa, thì cũng không thể làm sao ngăn chặn phá phách tiêu diệt cho hết được nữa. (Tình trạng này đã được nói đến trong bài “XHDS trong thời đại Internet” phổ biến vài năm trước đây).
Đó quả thật là một khía cạnh lạc quan cho công cuộc tranh đấu cho sự Tòan vẹn Lãnh thổ, cho Tự do, Dân chủ, cho sự Công bằng Xã hội, cũng như cho Nhân phẩm và Nhân quyền của nhân dân Việt nam chúng ta vào đầu thế kỷ XXI ngày nay vậy.
B – Kinh nghiệm học được từ các quốc gia dân chủ tiến bộ trên khắp thế giới ngày nay.
Người Việt hải ngọai hiện nay đang sinh sống tại khắp các châu lục, như tại Nhật bản, Đại Hàn, Đài Loan ở Á châu, ở Úc châu, ở Đông Âu, ở Tây Âu, ở Bắc Mỹ châu và cả ở châu Mỹ La tinh. Hầu hết đó là các quốc gia có chế độ dân chủ vững mạnh, có nền kinh tế phát triển phồn thịnh, cũng như có truyền thống văn hóa nở rộ khởi sắc. Và đặc biệt, tại các quốc gia này, thì đều có một khu vực XHDS sinh họat rất phong phú đa dạng – mà không hề bị chính quyền tìm cách hạn chế kiềm hãm hay gây chuyện làm khuynh lóat lũng đọan – như ta thấy hiện nay ở các nước cộng sản như Bắc Triều Tiên, Trung quốc và dĩ nhiên là ở cả Việt nam nữa.
1 – Lấy thí dụ riêng tại nước Mỹ là nơi chúng ta có đến gần 2 triệu người Việt đang cư ngụ sinh sống (trong số này phần lớn đều đã có quốc tịch Mỹ) – thì hiện có đến hàng triệu các tổ chức phi-chính phủ (NGO =non- governmental organisations) và hàng 3 triệu các nhóm nhỏ (small groups). Các NGO đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước để được hưởng quy chế miễn thuế (tax-exempt). Còn các nhóm nhỏ, thì không cần phải đăng ký, vì họ cũng khộng cần được miễn thuế – lý do đơn giản là họ chi tiêu rất ít.  Người Việt Tỵ nạn chúng ta được tự do tổ chức thành các hội đòan đủ mọi lọai – chuyên về sinh họat tương trợ ái hữu, văn hóa, tôn giáo, xã hội và cả về mặt chính trị nữa. Chúng ta đều có tự do họat động thỏai mái như bất kỳ người công dân Mỹ nào – mà không hề bị ảnh hưởng của nạn kỳ thị phân biệt vì lý do chủng tộc, tôn giáo hay vì bất cứ lý do gì khác.
Khi gặp điều gì bất đồng ý hay bị đối xử bất công áp bức, thì chúng ta có thể áp dụng nhiều hình thức tranh đấu hợp pháp và bất bạo động nhằm đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho cá nhân hay cho tập thể của mình. Ta có thể dùng phương thức “vận động hành lang” (lobby) để kêu gọi sự hỗ trợ của giới chức trong cơ quan lập pháp cũng như hành pháp và tư pháp của chính quyền Liên bang hay Tiểu bang – để họ cứu xét lại những đòi hỏi chính đáng của chúng ta. Người dân cũng có thể phát biểu trên cơ quan báo chí truyền thông, với các tổ chức bảo vệ nhân quyền – điển hình như với ACLU (Hiệp hội Nhân quyền Mỹ = American Civil Liberties Union), Human Rights Watch, Amnesty International v.v…
Cái kinh nghiệm thực tế sinh động này cần được phổ biến sâu rộng đến với bà con ở bên quê nhà để họ tham khảo và tùy nghi áp dụng trong các họat động xây dựng tích cực và cụ thể trong hòan cảnh đặc thù của mỗi địa phương tại Việt nam.
2  – Trường hợp của các nước ở Đông Âu cũng rất đáng chú ý.
Các quốc gia này đã rũ bỏ được chế độ độc tài cộng sản từ cuối năm 1989 với sự sụp đổ của Bức tường Bá Linh. Và trong hơn 20 năm qua, người dân ở vùng này đã dần dần khôi phục lại được khu vực XHDS một cách rất vững vàng ngọan mục. Và công cuộc chuyển hóa dân chủ tại đây đã dứt khóat trở thành một quá trình không thể nào mà lại có thể đảo ngược lại được nữa (irreversible processus) – tức là không thể nào mà trở lại với chế độ độc tài chuyên chế cộng sản như dưới thời sắt máu của Stalin được nữa.
Nói chung, thì sự thành công của người dân tại Đông Âu như vậy là nhờ vào sự tranh đấu bền bỉ kiên cường trong nhiều thập niên trước đó – điển hình như những cuộc nổi dậ liên tiếp ở Hungary năm 1956, ở Tiệp khắc năm 1968 (được gọi là Mùa Xuân Praha), rồi đến các Phong trào Đòan kết Solidarnosc ở Ba lan, Phong trào Hiến chương 77 ở Tiệp khắc vào cuối thập niên 1970 v.v…
Trên phương diện quốc tế, ta cần ghi nhớ ảnh hưởng của Thỏa ước Helsinki được ký kết vào năm 1975 giữa các quốc gia Âu châu, kể cả các nước trong khối Xô Viết, thì thỏa ước này đã tạo ra được một cơ sở pháp lý và chính trị rất thuận lợi cho sự phát triển của phong trào tranh đấu Nhân quyền ngay tại các nước độc tài cộng sản – để rồi đưa tới thắng lợi cuối cùng vào năm 1989 như chúng ta đã thấy.
Kinh nghiệm “Xây dựng và Phục hồi XHDS” quý báu này từ các nước “cựu cộng sản” ở Đông Âu cũng như ở 15 quốc gia tách biệt ra từ Liên bang Xô Viết cũ sẽ rất có ích cho Việt nam chúng ta trong giai đọan “hậu cộng sản” sắp tới vậy.
III – Để tóm lược lại.
Việc xây dựng XHDS là công trình rộng lớn của tòan thể khối quần chúng nhân dân – thông qua hàng ngàn, hàng vạn những tổ chức và đơn vị có đủ cả 3 tính chất : phi chính phủ, bất vụ lợi và tự nguyện. Đó là một quá trình liên tục, lâu dài và gian khổ nữa – chứ đó không thể là một việc làm đơn giản dễ dãi như chuyện trở bàn tay ra mà thành công được.
Ngay từ hồi đầu thế kỷ XX, cách nay cỡ 100 năm, nhà cách mạng ái quốc Phan Châu Trinh đã hô hào tòan dân phải cùng dấn thân nhập cuộc vào cả 3 mặt trận rộng lớn được tóm gọn trong khẩu hiệu : “ Nâng cao Dân trí + Chấn hưng Dân khí + Cải tiến dân sinh”. Thì cả ba mặt trận đó vẫn còn có giá trị rõ rệt cho công cuộc xây dựng và phục hồi lại XHDS trên quê hương đất nước ta ngày nay vào thế kỷ XXI vậy.
Cụ thể, chúng ta phải chuẩn bị gấp rút ngay từ lúc này – dù đất nước hiện vẫn còn đang bị sự kềm kẹp ngặt nghèo thâm độc của đảng cộng sản ngoan cố với chủ trương phản dân bán nước. Cũng như cụ Phan đã lên tiếng kêu gọi ngay giữa lúc nước Việt nam đang bị thực dân Pháp xâm chiếm đô hộ và áp đặt một chế độ đàn áp dã man tàn bạo.
Nói cho rõ ràng và ngắn gọn hơn, thì người Việt hải ngọai chúng ta cần  tiếp tục hỗ trợ tích cực hơn nữa đối với mọi dự án cụ thể thiết thực của bà con trong nước trong lãnh vực tranh đấu chống kẻ thù ngọai xâm là Trung cộng, cũng như chống bè lũ nội xâm là Việt cộng. Cũng như sát cánh với công cuộc tranh đấu đòi Công bằng Xã hội, đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của đại khối dân tộc là bà con máu mủ ruột thịt thân yêu của tất cả mọi người chúng ta.
Dĩ nhiên là chúng ta vẫn nên tiếp tục hỗ trợ những công việc xã hội từ thiện nhân đạo – cụ thể như cứu trợ nạn nhân thiên tai bão lụt, giúp đỡ người bị tật bệnh nan y như bệnh phong cùi, bệnh HIV/AIDS, hỗ trợ các đồng bào sắc tộc thiểu số, giúp đỡ về y tế giáo dục, về dậy nghề cho người dân ở những vùng sâu vùng xa kém phát triển v.v…
Hàng ngũ cộng sản hiện đang có dấu hiệu suy thóai rệu rã – do nạn bè phái tham nhũng đã trở thành căn bệnh quá nặng nề trầm trọng – do sự bất tín nhiệm của đa số quần chúng nhân dân trước sự gian trá lường gạt tầy đình của giới lãnh đạo của đảng. Và nhất là còn do sự xâu xé mâu thuẫn đấu đá lẫn nhau trong nội bộ của đảng mà hiện đã đến mức độ không còn có thể hàn gắn cứu chữa được nữa.
Đó là cơ hội đang chín mùi, rất thuận lợi cho công cuộc tranh đấu nhằm giải thể lọai trừ vĩnh viễn cái chế độ vô luân, bất nhân và thất đức đã hòanh hành tàn phá đất nước ta từ gần 70 năm qua vậy./

Costa Mesa, Tháng Mười Một 2012
© Đoàn Thanh Liêm
© Đàn Chim Việt

Chu Chi Nam - Tại sao Việt Nam vẫn chưa có cách mạng?

Đây là một đề tài tôi đã suy nghĩ nhiều năm, nếu không muốn nói là hàng bao chục năm, và đã viết rất nhiều lần; nhưng nay tôi vẫn phải viết lại, vì Việt Nam vẫn chưa có cách mạng. (1)
Cách mạng vẫn chưa xẩy ra ở Việt Nam như đã xẩy ra ở Liên sô, Đông Âu, ở các nước Ả rập, mà tiêu biểu là Tunisie, Ai cập, Lybie và hiện đang xẩy ra ở Syrie, Miến điện; nhưng vẫn còn chưa xẩy ra tại Việt Nam, là vì rất nhiều nguyên do. Đây tôi chỉ nêu lên một vài nguyên do chính, theo thiển nghĩ của tôi:
I) Vì phe đối lập cộng sản không có tổ chức, nhiều khi bị lâm vào cảnh: “Nhiệt tình mà không có tổ chức thành ra phá hoại”.
Sự quan trọng của tổ chức, đây là điều mà Tôn Tử và ngay cả Lénine, mặc dầu là người cộng sản, chúng ta không thích, đã ý thức từ lâu.
Chúng ta thấy Tôn Tử, dùng những người phụ nữ, tỳ thiếp của vua Hạp Lư, huấn luyện, tổ chức hóa, để trở thành những người chiến sĩ, mà lúc đó chỉ giành cho nam giới.
Chính Lénine nói: “Tổ chức, tổ chức và tổ chức”.
Vậy tổ chức là cái gì?
Theo chữ Tây phương, chữ “Organisation" đến từ chữ "Organes" có nghĩa là những bộ phận của con người, gồm có đầu (bộ óc), tim, bụng và chân tay. Mỗi bộ phận có một nhiệm vụ riêng, nhưng liên quan, hỗ trợ với nhau. Một con người chỉ có óc tim cũng không được, mà chỉ có bụng, chân tay không cũng không xong.
Chính vì vậy mà khi nói đến tổ chức là người ta nói đến sự huấn luyện, chỉ huy và liên hệ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
Thật vậy, Tôn Tử đã dùng những mỹ nhân trong cung của vua Hạp Lư gồm 180 người, huấn luyện thành lính, thành tổ chức.
Khi huấn luyện, xắp đặt hàng ngũ xong, Tôn Tử nói: “Quân đã chỉnh tề, nhà vua có thể xuống coi, rồi tùy nhà vua muốn dùng vào việc gì thì dùng, dẫu bảo họ dẵm vào nước vào lửa cũng được.” ( Theo Tôn Ngô binh pháp - bản dịch Ngô văn Triện ).
Theo tư tưởng Tây phương, với những triết gia như Socrate, Platon và Aristote, những người đã suy nghĩ nhiều về tổ chức, suy nghĩ về việc làm thế nào để tổ chức một xã hội tốt đẹp, sống có hạnh phúc, thì họ đã lấy cách cấu tạo của con người, gồm cái đầu, bụng và tứ chi rồi suy rộng ra, nhất là theo Platon.
Theo ông này, một xã hội cũng vậy, cái đầu của một xã hội chính là giai tầng triết gia, luật gia, làm ra những quan niệm sống, những luật lệ căn bản để điều hành xã hội, quan niệm nhà lãnh đạo đồng thời phải là một triết gia (Leader – philosophe), là quan niệm của Platon; tứ chi của xã hội chính là giai tầng quân nhân, chiến sĩ có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho xã hội, bảo toàn lãnh thổ, chống lại sự đe dọa, xâm lấn của ngoại bang; giai tầng làm kinh tế chính là cái bụng của xã hội lo việc sinh sống hàng ngày. Ba gia tầng này hợp tác với nhau, cộng hưởng và hòa hợp với nhau để điều hành xã hội. Chữ Cộng Hòa (la République), có nghĩa là cộng tác và hòa hợp với nhau, và đồng thời là tên quyển sách của Platon, mà nhiều triết gia, nhà tư tưởng chính trị sau này cho rằng những hiến pháp hiện nay, nhưng tư tưởng xã hội chỉ là những bản sao chép của quyển sách này.
Ở đây, chúng ta thấy quan niệm của Socrate, thầy của Platon, của Platon, thầy của Aristote, khác hẳn quan niệm của Karl Marx.
Các ông trên chủ trương hợp tác giai cấp, thay vì đấu tranh giai cấp như Marx.
Kinh nghiệm gần 100 năm áp dụng quan niệm của Marx bị thất bại đã cho chúng ta thấy điều đó.
Ở đây tôi xin mở ngoặc nói về một số sử gia Việt Nam và ngay cả ngoại quốc cho rằng Hồ chí Minh là người cộng hòa ; điều này chứng tỏ họ chẳng hiểu gì về lý thuyết, triết lý chính trị. Họ Hồ chủ trương đấu tranh giai cấp, đâu có chủ trương hợp tác giai cấp như Platon, thì làm sao là cộng hòa được.
Trở về vấn đề tổ chức, con người gần như không thể một mình mà làm lên việc lớn, mà cần phải 2, 3 và rất nhiều người khác, nhất là trong lãnh vực đấu tranh chính trị. Vì vậy nên cần phải có tổ chức, có đường lối đấu tranh để qui tụ người khác.
Chúng ta có thể ví những cố gắng đấu tranh của mỗi cá nhân như những hạt mưa, đường lối đấu tranh như kim chỉ nam, và tổ chức đấu tranh như một dòng suối. Những hạt mưa phải được kim chỉ nam hướng về dòng suối, mới có thể tạo nên sức mạnh, mới có thể cuốn đi những rác rưởi của dòng lịch sử dân tộc, nếu không thì những hạt mưa chỉ ngấm vào lòng đất, không tạo nên sức mạnh mong muốn.
II) Vì cộng sản ý thức rõ điều này, nên tìm cách phá hủy tất cả những tổ chức đối lập ngay từ trong trứng nước, theo kiểu: “Đánh rắn phải đánh dẹp đầu”
Thật vậy, vì ý thức rõ vai trò quan trọng của tổ chức, nên cộng sản đã tìm đủ mọi cách để phá vỡ những tổ chức đối lập, bằng cách cô lập hay tiêu diệt những thành phần lãnh đạo đối lập, hoặc chia rẽ tối đa những người đấu tranh, chẳng khác nào một con người mà không có óc, hay nếu có óc thì không có chân tay.
Chính sách ngu dân hay bắt dân phải nghĩ theo lề lối đã được qui định bởi đảng là như vậy.
Chính vì vậy, mà giới lãnh đạo cộng sản cố biến xã hội loài người thành loài sâu bọ, con người không có đầu óc, chỉ biết sống, mà không biết suy nghĩ hay suy nghĩ theo lề lối định sẵn bởi đảng.
Ông Yakolek, cựu Ủy Viên Bộ Chính trị, cố vấn của ông Gorbatchev, cha đẻ của Chính Sách Tái cấu trúc (Pérestroïka) và Trong sáng (Glasnost), đã nói:
“Cộng sản là loài sâu bọ, con mới đẻ đè lên xác con già, con già đạp lên con trẻ; nhưng trong đó có con khỏe nhất, leo lên chỗ cao nhất. Tuy nhiên để được như vậy, thì nó đã phải dẵm lên xác không biết bao con khác”.
Chúng ta cứ quan sát 2 đảng cộng sản còn lại của 2 nước tiêu biểu là Trung cộng và Việt Nam thì rõ: Trung Ương đảng, Bộ Chính trị, chúng tìm cách “Trát cứt lên mặt nhau", như người dân thường nói, người này tố cáo kẻ kia tham nhũng, Trương tấn Sang, Nguyễn phú Trọng tố cáo Nguyễn tấn Dũng và ngược lại; cũng như đảng cộng sản Trung cộng: Bạc hy Lai bị tố cáo tham nhũng hối lộ và chuyển nhiều tỷ US Đô la ra ngoại quốc, vợ còn bị tố cáo giết người, ngày hôm nay thì phe cánh của họ Bạc đưa ra những nguồn tin gia đình của Ôn gia Bảo, đương kim Thủ tướng có gia sản đến gần 3 tỷ $, mặc dầu họ Ôn lúc nào cũng tự nhận là trong sạch. Ngay cả người sắp lên chức Chủ tịch đảng là Tập cận Bình, đã được thăng tiến nhờ thành tích chống tham nhũng tại Chiết Giang, cũng luôn tự nhận mình xuất thân nghèo nàn và trong sạch. Nhưng theo bản tin của Blooberg, tổng số tài sản của gia tộc ông đến cả 2 tỷ đô la, gồm 376 triệu đầu tư tại nhiều công ty, 1,73 tỷ đầu tư gián tiếp vào các công ty đất hiếm và 20,2 triệu vào một công ty công nghệ khác.
Người này tố cáo người kia, nhưng thực ra chúng đều là sâu bọ, hại dân, mọt nước.
Chúng không còn liêm sỉ. Người xưa có câu: “Nhân vô liêm sĩ hà như vật dã!" (Con người không có liêm sỉ thì chỉ là con vật).
Nhìn vào Hội nghị Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam vừa qua, chúng phê bình và tự phê, rồi chúng cùng nhau đưa ra Hội nghị toàn thể Trung Ương, nhưng kết quả chúng ta thấy gì: Chúng nhận lỗi, xin lỗi rồi chẳng có ai bị kỷ luật. Chuyện này không phải mới đây mà từ thời Phạm văn Đồng làm thủ tướng, họ Phạm cũng từng nhận lỗi « Tôi có lỗi, anh có lỗi, chúng ta đều có lỗi « rồi bọn chúng, cá mè một lứa, lại bao che cho nhau, bảo vệ địa vị để tiếp tục hút máu mủ, tham ô tài sản của dân chúng.
Hãy nhìn những nước tự do, dân chủ, có đạo đức, liêm sỉ, như Nam Hàn, mặc dầu mới dân chủ, nhưng đương kim tổng thống, ông Lee Myung-bak, vào tháng 7/2012 đã phải xin lỗi trước quốc dân vì anh trai đang bị điều tra về tham nhũng với số tiền là 525.000 $, vì sự kiện này đã làm xấu đi hình ảnh của đất nước. Chúng ta cũng không quên vào năm 2009, cựu tổng thống Nam Hàn, ông Roh Moo Hyun, đã nhảy xuống vực xâu tự tử sau khi biết được phu nhân ông đã nhận hối lộ 1.224.000 $.
Tinh thần liêm sỉ là như vậy.
Trong khi đó giới lãnh đạo cộng sản Tàu và Việt Nam, xin lỗi dân không biết bao nhiêu lần, nhưng tật nào vẫn tật đó.
Chính vì vậy mà người dân Việt có câu ca dao:
“Sửa sai thì cứ sửa sai. Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai"
Tuy nhiên, nên nhớ, lâu dài mọi thứ sẽ được phơi bày ra ánh sáng, không có một tội lỗi nào có thể bỏ qua và không bị xét xử: nếu người khác quên, thì chính người gây tội sẽ nhớ; nếu tòa án công cộng, pháp lý không xét xử, thì tòa án lương tâm sẽ xét xử.
Ngoài những thảm họa do cộng sản gây ra cho quốc gia và dân tộc, cố tình ngăn chặn cuộc cách mạng tự do, dân chủ xẩy ra, nhìn con người và xã hội Việt Nam, chúng ta còn thấy những khuyết điểm sau và cũng là trở lực ngăn cản cách mạng:
Đó là truyền thống quân chủ phong kiến “Trên đội dưới đạp", “Học để có bằng cấp, để làm quan", ngày hôm nay thì “Khiếp sợ quan quyền", những thứ này đã quá ăn sâu vào đầu óc dân Việt.
Một nhà tư tưởng chính trị, cách mạng có nói:
“Để làm cách mạng thì cần đến giai tầng bình dân; nhưng để cho cách mạng thành công, thì cần đến giai tầng sĩ phu, trí thức".
Giai tầng bình dân Việt Nam hiện nay đã trở thành “Vô cảm", “Bị thịt”, không có phản ứng. Phải chăng đã quá ê chề sau một thời gian dài chiến tranh và bị phỉnh gạt bởi cộng sản, và ngày hôm nay chỉ biết ăn chơi và hưởng thụ.
Không nói đâu xa, nói ngay đến những người Việt ở hải ngoại, mới ngày nào vượt biên, con hay vợ bị hải tạc hãm hiếp, chết dở, sống dở, ngày hôm nay có tý tiền, đã trở về Việt Nam tìm thú vui, mang tiền tiếp máu cho cộng sản.
Giai tầng trí thức thì phần lớn là trí thức bằng cấp, học để được ra làm quan, theo kiểu “Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng", trên đội, dướp đạp, ngày xưa thì đội triều đình, ngày nay thì đội bạo quyền, chân thì đạp dân, mặc kệ dân, theo kiểu chủ nghĩa “Mackeno", mặc kệ nó, nói chi đến hướng dẫn, tổ chức dân làm cách mạng.
Cộng thêm vào đó có bản tính của chính người dân Việt:
Người Việt chúng ta: kiến thức thì nông cạn; nhưng lúc nào cũng tự cho mình hiểu biết mọi sự, mọi việc, lấy những cái khôn vặt làm sự hiểu biết chính; thua kém mọi người, nhưng lúc nào cũng tự nghĩ mình hơn mọi người; nặng vì tình, nhẹ về lý, vì vậy phần lớn cách suy nghĩ, hành động thường được đo bằng thước: “Trực giác nóng lạnh, tình cảm giận hờn", lúc đầu thì vồn vã, thắm thiết, nhưng sau thì cắn quái lẫn nhau; giữa những người Việt, ít có những chương trình, kế hoặch lâu dài, trong đủ mọi lãnh vực, ngay cả buôn bán, thám hiểm, du lịch, nên khó đi đến tổ chức lâu bền. Có lẽ vì vậy, mà trong nền văn học Việt Nam, chúng ta chỉ thấy những nhà văn, nhà thơ, tả tình, tả cảnh, chứ không thấy những nhà tư tưởng về chính trị, xã hội, những triết gia.
Người Việt chúng ta có một bản năng sinh tồn rất mạnh: gặp khó khăn nào cũng cố vượt qua, gặp hoàn cảnh nào cũng cố thích ứng, nhưng một khi khó khăn được khuất phục, hoàn cảnh được thích ứng, thì đã vội tự mãn. Có lẽ vì vậy mà người Việt thành công nhiều ở mức độ trung bình; nhưng ít có ai vượt trội hẳn lên ở mức độ cao.
Và từ đó, một câu hỏi đến với chúng ta: Làm thế nào để cách mạng tự do, dân chủ sớm đến Việt Nam?
Câu trả lời: Đó là hãy cách mạng bản thân trước tiên, sau mới cách mạng xã hội.
Cách mạng bản thân đây là khắc phục tất cả những thói hư, tật xấu, những khó khăn gặp phải, phải sống can đảm, không sợ hãi bạo quyền, sống lạc quan, luôn tin rằng đời sống của chính mình, của gia đình mình, của dân tộc mình sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn, thay vì lúc nào cũng bi quan, than thân trách phận chán, rồi đi đến chỗ trách người khác, không thể tạo dựng được tổ chức, hay vì có tinh thần “Không ăn thì đạp đổ”, mới cùng nhau gây dựng lên một tổ chức, nay chỉ vì một sự bất đồng nhỏ, đã đạp đổ, vứt bao công trình đã gầy dựng trước đây, xuống sông, xuống biển.
Để tạo ra tổ chức, một trong những điều kiện chính là những người thành lập, nhất là lúc đầu, phải có tinh thần kỷ luật tự giác.
Có lẽ đây là điều thiếu xót lớn của nhiều người Việt chúng ta, chỉ thích kỷ luật áp đặt, do ông chủ, do bạo quyền đưa xuống, hoặc áp đặt cho người khác, chứ không thích tự áp đặt cho mình kỷ luật. Vì vậy, người Việt chúng ta phần lớn thích đi làm công hơn là tự mình làm chủ.
Sống đạo đức, can đảm, lạc quan, độc lập và hy vọng, đó chính là đức tính của con người dân chủ.
Và chỉ khi nào mỗi người Việt chúng ta đều thấm nhuần được những đức tính đó, thì cuộc cách mạng dân chủ, tự do, nhân quyền mới sớm đến với Việt Nam,
Vì tôn trọng nhân quyền bắt đầu bằng tôn trọng quyền của chính mình, không sống hèn hạ, khiếp sợ, để cho những quyền căn bản của mình bị cường quyền chà đạp, sống vô lương tâm, vô liêm sỉ, vô trách nhiệm, miễn sao yên thân, theo kiểu chủ nghĩa “mặc kệ nó", của một số trí thức ở trong và ngoài nước, hay: “Nhà hàng xóm cháy thì kệ họ, miễn nhà mình không cháy là được rồi”.
Chính vì vậy, mà khi mới nhậm chức vào năm 1978, Đức Giáo hoàng Jean Paul I I, về viếng thăm quê hương, ngài đã đọc một bài diễn văn trước dân tộc Ba lan, trong đó có mấy câu quan trọng sau:
“Hãy can đảm, đừng sợ hãi và hãy hy vọng!"
Câu nói này đã là một trong những nguyên do chính đưa đến cuộc cách mạng dân chủ, nhân quyền tại Ba Lan.
Paris ngày 06/11/2012
Chu Chi Nam  

Chủ thuyết chính trị Việt Nam trong thời đại ngày nay

(QĐND) - Chủ thuyết chính trị Việt Nam thời đại ngày nay là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển từ hơn 80 năm nay và mãi từ nay về sau.
I. Sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lê-nin dấy lên từ nhiều phía. Kẻ thù của chủ nghĩa Mác từng vu cáo, xuyên tạc, bác bỏ học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động suốt một thế kỷ rưỡi nay, giờ đây như có được cơ hội vàng, chúng càng ra sức xuyên tạc, hòng chôn vùi nó vĩnh viễn.

Cách mạng Tháng Mười- cuộc Cách mạng của quảng đại quần chúng lao động. Nguồn: Internet
Trước tình hình đó, nhiều người hoang mang, dao động về lý tưởng, có người khuyên Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, bởi theo họ, thời thế (thời đại) đã thay đổi. Cá biệt có người cho rằng sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa đã sai từ đầu, rằng giá như lúc đó (cuối những năm 20 thế kỷ XX) đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, hao tổn biết bao xương máu.
Vậy phải chăng lịch sử đang lặp lại: Đầu thế kỷ XXI dân tộc ta phải làm lại cái việc “tìm đường”, “chọn đường” như đầu thế kỷ XX?
Không thể chấp nhận cái thuyết “chọn sai đường” và “giá như…”. Vấn đề ở đây thật ra không phụ thuộc ý tưởng chủ quan một cá nhân ai, mà suy cho cùng là quyết định khách quan của lịch sử.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các phong trào Đông Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành v.v.. các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp đều đã đưa ra và được lịch sử khảo nghiệm-từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản. Đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng theo hệ tư tưởng tư sản tưởng chừng có cái mới, tích cực nhất lúc bấy giờ, nhưng qua khởi nghĩa Yên Bái bùng lên đã tắt ngấm vĩnh viễn chỉ còn để lại dư âm câu nói vô vọng của lãnh tụ Nguyễn Thái Học “sát thân thành nhân”. Rõ ràng “tình hình đen tối như không có đường ra”(1).
Trong lúc đó, cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu nổi lên như một điển hình tiêu biểu, một tấm gương phản chiếu tập trung và cô đọng con đường cứu nước mà dân tộc ta đã trải qua ở đầu thế kỷ. Cụ đi từ chủ trương cứu nước thuần túy đến quân chủ lập hiến, đến yêu cầu ngoại viện, đến ý tưởng dân chủ chung chung, cuối cùng đến cảm hứng về Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga 1917. Phan Bội Châu đi vào lịch sử như một tiêu điểm giao thời, một nhịp cầu nối giữa hai thời đại lịch sử của dân tộc, ở chỗ Cụ là người phát ngôn cho nhu cầu lịch sử dân tộc phải chuyển sang thời đại mới của cuộc đấu tranh giải phóng. Phan Bội Châu còn xa mới hiểu thật rõ bản chất chủ nghĩa xã hội và Cách mạng Tháng Mười. Dù sao, khi nghe tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười, Cụ đã có những cảm nghĩ thật xúc động: “May thay! Đương giữa lúc khói đục, mây mù, thình lình mà có một luồng gió xuân thổi tới; đương giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình mà có một tia thái dương mọc ra, luồng gió xuân ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy”(2).
Nhưng con đường mới mà Cụ Phan Bội Châu chỉ dự cảm được ở cuối đời sau khi trải qua “một trăm thất bại không một thành công” (lời Cụ than thở), khi thân đã tàn, sức đã kiệt, thì chính Nguyễn Ái Quốc cùng thời không chỉ cảm thấy mà đã nhận chân một cách vững chắc, khoa học. Và, chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(3). Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-đường lối đã đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta một lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân ta đã phải tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Chưa hết, 4 năm sau đó quân dân ta phải tiếp tục đổ máu từ chiến tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975 đến 1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Song cũng trong thời gian này, Đảng ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành “những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự thật lịch sử, thì chắc không ai đặt lại vấn đề về con đường xã hội chủ nghĩa, mà dân tộc ta đang đi. Cũng từ đó góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.
II. Thế giới đổi thay, thời đại không thay đổi
Nhận thức sâu sắc những đặc điểm lớn này của thời thế là tiền đề không thể thiếu, làm cơ sở để giữ vững niềm tin ở con đường lịch sử dân tộc ta đã lựa chọn, để tiếp tục con đường Đảng ta, dân tộc ta đang đi. Làm rõ vấn đề này, điều hết sức quan trọng nữa là từ đó rút ra những bài học cần thiết cho sự nghiệp chúng ta, những bài học đầy giá trị hào hùng, cả không ít bài học cay đắng. Đây là một đại tổng kết lịch sử và lý luận, đại tổng kết thực tiễn có ý nghĩa quan trọng quyết định để đưa con đường cách mạng và phát triển của dân tộc ta tiếp tục vững chắc đi lên.
“Thế giới đổi thay”nói ở đây chủ yếu liên quan đến sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ XX đưa đến sự đảo lộn cả trật tự thế giới. Còn “Thời đại không thay đổi” là nói, mặc cho thế giới đã đổi thay, nhưng thời đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) thì không thay đổi.
1. Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự kiện bi thảm nhất ở thế kỷ XX là một tổn thất lớn chưa từng có đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập tự do trên toàn thế giới. Nó làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng trên quy mô toàn cầu giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, bất lợi cho các lực lượng cách mạng. Các thế lực đế quốc phương Tây hí hửng tuyên bố “chủ nghĩa xã hội đã cáo chung, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chết”!!! Họ không giấu giếm ý đồ thiết lập “trật tự thế giới mới” do Mỹ đứng đầu và không còn nước nào đủ khả năng đối trọng.
Song, lịch sử trả lời rằng: Hoàn toàn không có chuyện “cáo chung”. Bước tiến của cách mạng chậm lại, song không thế lực nào có thể quay ngược bánh xe lịch sử.
Khi Liên Xô sụp đổ, Đảng ta đã sớm chỉ ra hai loại nguyên nhân: Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.
Nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu vĩ đại, đã có những khiếm khuyết, nhược điểm nghiêm trọng về mô hình xây dựng và phát triển chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ kinh tế-xã hội, dẫn tới khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhân danh cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Đó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một số nhân vật lãnh đạo cao nhất. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế vốn không lúc nào ngừng âm mưu, hành động chống Cộng, chống chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, họ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng chủ nghĩa đế quốc đã không đánh mà thắng. Dĩ nhiên, chúng không thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu 20 triệu đảng viên Cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không để nội bộ “tự diễn biến” khiến cho bọn xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Đảng; nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.
Xác định mô hình của chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề khó nhất và phức tạp nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã từng dự báo về điều này. Ngay trước Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin đã viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(4).
Đánh giá mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở Liên Xô là vấn đề rất không đơn giản, đòi hỏi quan điểm lịch sử, biện chứng và thật cụ thể. Một số người thông qua phê phán “mô hình” với ý đồ xóa toẹt mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội và phủ nhận bản thân chủ nghĩa xã hội, cả hiện thực, lẫn lý luận.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt. Từ sau Cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kỳ khó khăn phức tạp: Nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đến là nội chiến, rồi chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, bị bao vây về kinh tế và về mọi mặt v.v.. Mặc dù vào đầu những năm 20, V.I.Lê-nin sáng suốt đã đề ra Chính sách kinh tế mới, nhưng sau khi Người qua đời, đường lối đúng đắn này không được quán triệt thực hiện. Hơn nữa, chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20 đầu những năm 30, triệu chứng cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh ấy, phải nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ tình trạng lạc hậu, vừa để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh đang đến gần. Giải quyết vấn đề này và giải quyết cho được trong một thời gian ngắn nhất trở thành mệnh lệnh sống còn đặt ra trước vận mệnh Tổ quốc Xô-viết và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong những điều kiện nghiệt ngã như vậy, Nhà nước Xô-viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế cho phép huy động tối đa các lực lượng xây dựng, sáng tạo. Như được biết, Liên Xô đã hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, quá nửa thời gian trong đó là nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Chỉ có phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được kỳ tích như vậy. Không thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn, vai trò không thể thay thế của mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên này.
Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự trì trệ là chậm phát hiện và chậm sửa chữa những khuyết tật của mô hình, duy trì quá lâu mô hình đó nhất là khi nền kinh tế đã cạn khả năng phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi phải chuyển sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu, khi mà cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật mới đã đạt được những thành tựu vượt bậc, khi chủ nghĩa tư bản triệt để khai thác những thành tựu ấy để tiếp tục tồn tại và phát triển.
Khuyết tật lớn của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô là tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tuyệt đối hóa nguyên tắc tập thể, coi nhẹ vai trò chủ động và sáng kiến cá nhân, chối từ một cách chủ quan duy ý chí nền sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động. Hậu quả của việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp là nền kinh tế Liên Xô từng đạt không ít đỉnh cao thế giới, đã lâm vào tình trạng trì trệ, tốc độ phát triển chậm dần, sức sản xuất ngày càng tụt hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng thua kém các nước tư bản, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi gặp khó khăn về kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất này phải dành một tỷ lệ ngân sách quá lớn cho quốc phòng trước sự thách thức chạy đua vũ trang của Mỹ.
Sai lầm, khuyết tật gắn với mô hình cũ biểu hiện không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà còn thể hiện ở hệ thống chính trị, ở phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, ở quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Một trong những khuyết điểm lớn của mô hình cũ là không phát huy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan liêu hoàn toàn trái ngược với bản chất chủ nghĩa xã hội, nhưng với cơ chế cũ thì không có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính trị và mối quan hệ gắn bó với nhân dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển thì giữa những năm 70 tình hình diễn ra theo hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động. Mà đây lại là yếu tố, như V.I. Lê-nin nói, xét đến cùng, quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy lãnh đạo dẫn tới chậm phát hiện sai lầm. Người ta cũng đã thi hành một vài cải cách, nhưng những cải cách đó không cơ bản, không giải quyết trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mới về chính trị, kinh tế, trượt từ tả sang hữu.
Những sai lầm chủ quan nói trên là nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là những sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lê-nin sinh ra, trái lại do quan niệm giáo điều, chủ quan duy ý chí đi ngược lại tinh thần duy vật biện chứng, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chúng tôi cho rằng, trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm, khuyết tật của mô hình cũ thì cải tổ nhằm thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa là tất yếu. Cải tổ là tất yếu, nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ, cải tổ thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. Lịch sử không có chữ “nếu”, nhưng lịch sử cung cấp những bài học hào hùng hoặc cay đắng không thể bỏ qua. Nếu cải tổ được thực hiện theo một đường lối đúng đắn, thật sự Mác - Lê-nin-nít về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không phạm những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng như đã diễn ra thì làm sao Liên bang Xô-viết có thể sụp đổ? Mọi ý kiến khẳng định về cái gọi là “sự cáo chung” của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sự kết thúc” thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, chỉ là võ đoán hoàn toàn vô căn cứ.
2 - Thảm họa sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy rằng, sự ra đời của một chế độ mới không bao giờ là một quá trình suôn sẻ, êm thấm, trơn tru. Nó ra đời trong sự liên tục tìm tòi và thể nghiệm bản thân, trong cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt và dai dẳng giữa cái mới và cái cũ, trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những thế lực thù địch bên ngoài, bên trong, những kẻ luôn tìm cách xóa bỏ nó. Trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và đấu tranh ấy, có khi do sai lầm chủ quan, có khi do tương quan lực lượng, có khi do bối cảnh chung không thuận lợi, có khi do tác động kết hợp cả mấy nhân tố ấy mà chế độ mới tạm thời phải lùi bước hoặc thất bại. Cách mạng tư sản, điển hình là cách mạng Pháp cũng đã diễn ra như vậy. Kể từ năm 1789, trải qua bao biến cố thăng trầm, phục hồi và chống phục hồi chế độ quân chủ, khi nghiêng tả, khi ngả sang hữu (theo chuẩn tư sản lúc đó) cuối cùng phải đến tháng 2-1848, nghĩa là mất gần 60 năm, nền chuyên chính tư sản mới được xác lập tuyệt đối và hoàn toàn. Lịch sử ra đời chế độ tư bản đã vậy, thì đối với chế độ xã hội chủ nghĩa lại càng như vậy, bởi chủ nghĩa xã hội là một chế độ mới và khác về chất so với mọi chế độ bóc lột.
V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử, với tư cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”(5). Đối với phong trào cách mạng thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng ta đã quen như thấy một mạch đi lên, cao trào nối tiếp cao trào, ba dòng thác cách mạng không ngừng tiến công. Một thời gian dài chúng ta chỉ thấy tình hình thuận buồm xuôi gió, do đó khi cách mạng gặp trắc trở, lại là trắc trở to lớn như sự đổ vỡ cả một mảng lớn chủ nghĩa xã hội, thì ở nhiều người, cú sốc thật kinh hoàng ghê gớm! Đây là bài học hết sức lớn về nhận thức chính trị.
Trong giai đoạn rất phức tạp hiện nay của tiến trình lịch sử thế giới, người cộng sản kiên định vẫn khẳng định thế giới đổi thay nhưng thời đại không thay đổi, nội dung cơ bản, tính chất của nó vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Học giả Mỹ gốc Nhật Phu-cu-y-a-ma (Fukuyama) cho rằng, Liên Xô sụp đổ có nghĩa “lịch sử đã kết thúc” với sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó đã sớm bị chính giới khoa học phương Tây bác bỏ, bởi nó thể hiện sự hấp tấp vội vàng, quá ư vô căn cứ. Lịch sử xã hội loài người không ngừng vận động tiến lên thông qua những mâu thuẫn, mà xét cho cùng là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chừng nào còn chủ nghĩa tư bản, còn những mâu thuẫn nan giải của chủ nghĩa tư bản như hiện nay và, cùng với quá trình chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn toàn cầu hóa, những mâu thuẫn ấy ngày càng trở nên sâu sắc và mở rộng hơn, thì lịch sử vẫn không ngừng vận động và, theo quy luật lịch sử-tự nhiên, chỉ có thể vận động theo hướng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ tiêu vong và được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội.
Lại có ý kiến cho rằng, với thực trạng thế giới hiện nay, sau khi Liên Xô tan rã, không cần nhắc lại định nghĩa thời đại nữa, vì chủ nghĩa xã hội trên thế giới còn rất xa vời, khẳng định thời đại lúc này không ích gì, trái lại dễ gây ảo tưởng chủ quan, phiêu lưu trong hành động thực tế. Quan điểm này không có sức thuyết phục. Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta cũng mất luôn cơ sở lịch sử xã hội thế giới khách quan và những người cách mạng mất đi một cơ sở vững chắc cho niềm tin lý tưởng ở quy luật lịch sử và tiền đồ cách mạng. Quan điểm thời đại nếu không rõ ràng, chính xác thì không thể có phương hướng cách mạng rõ ràng, chính xác. Sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển đi lên của các dân tộc sẽ không thể giành thắng lợi nếu thiếu tầm nhìn xa trông rộng và nếu không được đặt đúng quỹ đạo thời đại. Trên phương diện này, dân tộc Việt Nam ta đã có bài học lịch sử mang tính kinh điển. Thất bại nối tiếp thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc chống Pháp, những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nguyên nhân sâu xa ở chỗ, các sĩ phu trí thức cầm đầu các phong trào hồi bấy giờ, mặc dù nhiệt huyết yêu nước và chí khí đấu tranh có thừa, nhưng nhận thức về thế giới còn hạn hẹp, người thì vẫn tưởng như thời đại phong kiến đang còn, người thì coi thời đại tư sản vẫn đang lên, người thì chỉ biết chỗ dựa là nông dân một vùng nghèo rừng núi, không thấy thiên hạ đại cục v.v..
Trong khi đó, Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp thế giới để quan sát và tìm đường cứu nước, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ nghĩa đế quốc và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức đúng thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, từ đó Người chủ trương đưa Cách mạng Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời đại. Chúng tôi nghĩ rằng, cùng với luận điểm “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6), là luận điểm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh; nếu ai quên điều đó, thì căn bản không thể hiểu được nguyên lý cơ bản nhất của Cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý ấy là nền tảng của Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của Cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua.
Trái với quan điểm rằng, ngày nay không cần và không nên nhắc lại định nghĩa về thời đại, chúng tôi cho rằng trong tình hình thế giới cực kỳ rối ren, phức tạp, và đầy những biến động bất trắc hiện nay càng cần khẳng định lại một cách mạnh mẽ nội dung và tính chất căn bản của thời đại, nếu không cách mạng sẽ mất phương hướng, sẽ phải mò mẫm, vấp váp và không tránh khỏi thất bại. Tất nhiên, việc nhận thức nội dung, tính chất của thời đại cần kết hợp tính kiên định và nguyên tắc chiến lược với sự tinh tế, mềm dẻo, khôn ngoan trong sách lược thực tiễn.
Quả là đang có ý kiến cho rằng, phải có quan niệm mới về thời đại thay cho quan niệm cũ đã lạc hậu, đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Thời đại hiện nay, theo những đại biểu của ý kiến này, là thời đại hậu công nghiệp, cũng gọi là thời đại văn minh hậu công nghiệp, thời đại khoa học công nghệ hay thời đại kinh tế tri thức, văn minh tin học, văn minh trí tuệ v.v.. Tất nhiên, không có gì sai ở bản thân các khái niệm đó. Những khái niệm này rất có ý nghĩa và đầy đủ nội dung bổ ích khi dùng đúng chỗ, nhất là trong các công trình nghiên cứu kinh tế cụ thể, xã hội học cụ thể. Những người mác-xít tuyệt đối không xem nhẹ cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, ý thức rõ ràng rằng, thiếu những cái đó không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Có điều cần phân biệt rõ: Khái niệm thời đại văn minh trong các trường hợp nêu trên thực chất và chủ yếu là nói về văn minh kỹ thuật, chúng chưa đưa lại bức tranh xã hội toàn vẹn về sự vận động lịch sử xã hội loài người như một tổng thể, chưa thể xác định tính chất các chế độ xã hội. Cách tiếp cận theo nền văn minh không cho phép đi vào bản chất, nguồn gốc sâu xa, các động lực thực sự của sự chuyển biến hợp quy luật từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác, từ thời đại lịch sử này lên thời đại lịch sử khác cao hơn. Nói “tiến cùng thời đại” mà không xuất phát từ nội dung, bản chất định nghĩa thời đại cũng là một cách nói mơ hồ, không rõ tiến cùng thời đại nào!
Chỉ có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy vật lịch sử mới có thể giúp nhận thức thâm nhập sâu vào bên trong quá trình lịch sử, từ đó phát hiện ra lô-gích của lịch sử và trên cơ sở đó mới giúp nhận thức tái hiện được một cách thật sự khoa học bản chất các thời đại lịch sử xã hội thế giới. Chủ nghĩa Mác xuất phát từ chỗ, trong hoạt động sản xuất xã hội, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn có những quan hệ nhất định, tất yếu với những con người khác, tức quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hợp thành phương thức sản xuất, tạo nên cơ sở kinh tế trên đó mọc lên kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hóa v.v... Và chính biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực cơ bản của sự vận động lịch sử, là nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội, đưa đến sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này lên hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn. Lý luận mác-xít về năm hình thái kinh tế-xã hội chính là kết quả khái quát quá trình vận động tiến lên của lịch sử thế giới, là lô-gíc của lịch sử xét trên quy mô toàn cầu thế giới (tất nhiên có những trường hợp ngoại lệ). Lịch sử thế giới không gì khác là lịch sử ra đời, phát triển, rồi suy vong của các hình thái kinh tế-xã hội, là lịch sử thay thế lẫn nhau hợp quy luật giữa các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao. Đó chính là cơ sở khách quan, khoa học, cơ sở thực tiễn và lý luận để nói về thời đại, để xác định các thời đại lịch sử. Bàn về thời đại lịch sử xã hội, do đó, không thể không xuất phát từ cách tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội. Phương pháp tiếp cận này không đối lập, không loại trừ phương pháp tiếp cận theo nền văn minh, trái lại chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chẳng phải Ph.Ăng-ghen đã từng đề cập tới thời đại mông muội, thời đại dã man, thời đại văn minh trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước đó sao! Tuy hai phương pháp tiếp cận hình thái và tiếp cận theo nền văn minh có thể bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng khi bàn về thời đại lịch sử xã hội thế giới thì căn bản phải dựa vào phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội, dựa vào phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp khoa học duy nhất, không gì có thể thay thế.
Định nghĩa thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học đó.
III- Tiếp tục đi con đường thời đại, kiên định, đổi mới, sáng tạo
Ý kiến bác bỏ sự khẳng định rằng, thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, là một bước lùi về lập trường chính trị cơ bản, một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Bởi vì, nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước Việt Nam chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào? Và nếu vậy, thì phải chăng Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã lỗi thời, không còn căn cứ thời đại!
1- "Chuyển đổi" sang con đường tư bản chủ nghĩa chăng? Đã có "kiến nghị" như thế. Tuy nhiên, nhân dân không thể đồng tình. Đúng là sau thảm họa sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, chủ nghĩa tư bản căn bản chiếm lĩnh phần lớn trận địa thế giới. Nhưng vận mệnh và tiền đồ chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào?
Chủ nghĩa tư bản đã có lịch sử 500 năm. Nó đã có đóng góp to lớn cho lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất không những đồ sộ mà ngày càng hiện đại, tinh xảo, tinh vi, những máy móc "thông minh", những vật liệu, năng lượng kỳ diệu v.v... Với nền đại công nghiệp, nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các địa phương và các dân tộc vốn trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Do xâm chiếm thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, chủ nghĩa tư bản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính thế giới. Chính chủ nghĩa tư bản đã có công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Nhưng đó là thế giới gì?
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đó toàn thị là thế giới tư bản bao gồm các "chính quốc" và cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Từ sau Tháng Mười năm 1917 đến 1991, thế giới phân chia thành hai hệ thống đối lập. Sau khi mô hình của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu giải thể, chủ nghĩa tư bản chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế giới thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng "kết thúc" ở chủ nghĩa tư bản, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới "hậu Xô-viết" đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Một điều cần ghi nhận: Ngày nay ít ai còn mang ảo tưởng chủ nghĩa tư bản sắp chết đến nơi. Nhưng, rõ ràng là số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản cũng ngày càng ít dần. Xem ra đa số đánh giá: Chủ nghĩa tư bản còn lâu mới tiêu vong nhưng cuối cùng nhất định không tránh khỏi tiêu vong.
Thật ra sức sống còn lại của chủ nghĩa tư bản mà đôi khi có người choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một sự thật nữa cũng đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỉ của phương Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là nhất thời. Sau đó, khi không còn địch thủ đáng gờm phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt của các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân chủ nghĩa tư bản, đã kịp thời cảnh báo: Coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh của chủ nghĩa tư bản vốn không phải từ phía chủ nghĩa xã hội, từ Liên Xô, mà chính từ ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản cũng đang "tự phản tỉnh", "tự phê phán", đang thấy khó mà tự duy trì nếu không có phép gì màu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự điều chỉnh, thích nghi. Những khái niệm "xã hội hậu tư bản", hay "chủ nghĩa tư bản mới", "chủ nghĩa tư bản nhân dân" v.v... mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt. Nó vừa là một sự ngụy biện rằng chủ nghĩa tư bản đã không còn là chủ nghĩa tư bản nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là-về khách quan-mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống, nguyên xi như bản thân nó đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh. Có nghĩa là, bản thân các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính chủ nghĩa tư bản, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang gõ cửa chủ nghĩa tư bản. Qua các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế vừa diễn ra, một số chính khách lớn phương Tây cũng dao động, giảm sút niềm tin ở chính chủ nghĩa tư bản. Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di phải nói đến cải tổ chủ nghĩa tư bản và "đạo đức hóa" chủ nghĩa tư bản! Ông ta có bức ảnh chụp đang đọc "Tư bản luận" của C.Mác. Bộ trưởng Tài chính Đức đang tìm hiểu chủ nghĩa Mác mong tìm lối ra cho khủng hoảng. Một đạo diễn người Đức có ý định làm phim về C.Mác. Một số học giả Mỹ và châu Âu nói "chủ nghĩa tư bản đang ở thế thoái trào". Dẫn ra những hiện tượng trên, nhật báo Kinh tế Thụy Điển khẳng định: "Chính do khủng hoảng hiện nay mà sự hồi sinh chủ nghĩa Mác trở thành tất yếu". Tất nhiên, chúng ta không ảo tưởng rằng họ đã đi đến từ bỏ chủ nghĩa tư bản.
2- Vậy là thế giới đổi thay, nhưng thời đại không thay đổi. Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại-con đường xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng kiên định nhưng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp những thay đổi của thực tiễn thế giới đang không ngừng thay đổi.
Nắm vững thời đại không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung, mà trong mỗi thời điểm lịch sử cần nhận rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ nào, với những đặc điểm gì. Mặt khác, không thể chỉ thấy hiện tại mà không thấy triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt mà không thấy xu thế cơ bản lâu dài, không thể chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã sáng suốt chỉ ra một tầm nhìn, một tư tưởng chiến lược cơ bản rất đúng đắn, sâu sắc: "Chủ nghĩa xã hội hiện nay đang đứng trước những khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử".
Mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện đã khác trước nhiều. Đó không còn là mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới đối lập, nhưng cũng không phải sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ một mảng lớn, thì mâu thuẫn đó biến mất. Ngoài một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, khá có trọng lượng, phải kể đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, độc lập và chủ quyền dân tộc, vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Những phong trào này vẫn là lực lượng xã hội chủ nghĩa hoặc đồng minh tự nhiên của chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, cần tính đến những yếu tố mầm mống đang tồn tại trong lòng chủ nghĩa tư bản mà xu hướng khách quan của chúng là ngày càng lớn lên theo chiều phủ định những quan hệ tư bản chủ nghĩa. Học thuyết duy vật lịch sử chứng minh rằng, sự phát triển của loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển về khách quan mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới-chế độ xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, chế độ xã hội mới không thể ra đời mà không thông qua những biến đổi cách mạng về chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, đấu tranh vũ trang hay bạo lực hòa bình, đấu tranh nghị trường kết hợp nổi dậy của quần chúng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả sở hữu tư bản thành những hình thức "chủ nghĩa tư bản tập đoàn" của các nhà tư bản kếch xù, thậm chí siêu quốc gia.
Rõ ràng, cái vỏ tư nhân tư bản chủ nghĩa đã quá chật chội so với nội dung sức sản xuất đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật chội cả với hình thức sở hữu tư bản độc quyền tư nhân. Chính chủ nghĩa tư bản-một cách khách quan-đang tự phủ định mình và đang "làm việc" chuẩn bị cho tương lai chủ nghĩa xã hội.
Từ tính chất xã hội hóa cao của sản xuất và lực lượng sản xuất, cũng xuất hiện trong các nước tư bản phát triển ngày càng nhiều nhân tố mầm mống của những quan hệ xã hội tương lai. Chẳng hạn các công ty cổ phần trong đó có sự tham gia của người lao động vào sở hữu và quản lý. Hình thức công ty cổ phần có loại thuộc những "nhà tư bản tập thể" (Ph.Ăng-ghen) hoặc "trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội… đối lập với tư bản tư nhân"(7); có loại "nửa nọ nửa kia", một nửa thuộc các chủ tư bản vừa và nhỏ, một nửa cổ đông là những người lao động. Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể. Lại có những doanh nghiệp tự quản thuộc sở hữu của những người lao động. Ví dụ, ở Mỹ có tài liệu cho biết hơn 11 triệu người lao động đang là đồng sở hữu những doanh nghiệp này; ở Thái Lan và nhiều nước tư bản Bắc Âu, hợp tác xã của những người lao động rất phổ biến trong nông nghiệp, trong thương nghiệp, trong vận tải v.v... Vậy là, tình hình diễn ra đúng như V.I.Lê-nin từng hình dung: Ngày nay thì chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta từ tất cả các khung cửa chủ nghĩa tư bản hiện đại; chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở chủ nghĩa tư bản hiện đại ấy.
Một câu hỏi thường được nêu ra hiện nay là, phải đánh giá thế nào về chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa? Có người cho rằng chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay có sức sống hơn bao giờ hết. Nhận định ấy nhiều lắm chỉ đúng một nửa, còn một nửa không đúng, lại là cái nửa thuộc bản chất của sự vật và quá trình. Toàn cầu hóa khi vai trò chủ đạo thuộc chủ nghĩa tư bản thì về bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết, vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước lớn tư bản chủ nghĩa, với một bên là chủ quyền và lợi ích của các quốc gia dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa phương Bắc với phương Nam, phân cực giàu nghèo ngày càng tăng ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tình trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác với đấu tranh. Đã hội nhập thì có hai mặt, vừa cạnh tranh quyết liệt mà vẫn phải hợp tác, bản thân hợp tác cũng lại là đấu tranh, là kết quả của đấu tranh. Một mâu thuẫn nữa đặc trưng cho các nước như Việt Nam là ngoài độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, còn có con đường xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản khống chế, với sức ép đi con đường tư bản chủ nghĩa bằng tự do hóa, tư nhân hóa kinh tế, dân chủ, nhân quyền, truyền bá tư tưởng phản động, từ đó chuyển hóa dần tổ chức, cán bộ và chế độ chính trị. Cùng với những mâu thuẫn xã hội nói trên, ngày càng nổi lên một mâu thuẫn lớn giữa xã hội với giới tự nhiên biểu hiện ở hiểm họa ngày càng tăng đối với đời sống con người do ô nhiễm và tàn phá môi trường sống, hậu quả của cuộc chạy đua vì lợi nhuận mà thủ phạm chính là các lực lượng thị trường tư bản chủ nghĩa hoặc chạy theo chủ nghĩa tư bản.
Toàn cầu hóa kinh tế, xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố quan trọng của tiến bộ lịch sử, bởi lịch sử xã hội loài người, suy cho cùng, là từ trình độ kỹ thuật này tiến lên trình độ kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản xuất cao, đưa đến những nấc thang cao hơn của tiến bộ xã hội và khiến "lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới" (C.Mác), mà đỉnh cao sẽ là xã hội cộng sản văn minh. Thế nhưng, toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình đầy mâu thuẫn như đã đề cập.
Tóm lại, về phương diện lý thuyết, chủ nghĩa tư bản giai đoạn toàn cầu hóa tưởng như có thêm sức sống, nhưng không thể kéo dài mãi vận mệnh của nó như suy luận của một số người; trái lại, chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa ngày càng tích lũy thêm mâu thuẫn mới trên phạm vi toàn cầu cho tới khi mâu thuẫn tích tụ tới đỉnh điểm. Biện chứng "vật cực tắc phản" (Lão Tử) tất sẽ đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong, đến chỗ được thay thế bằng chế độ xã hội mới tiến bộ, văn minh hơn. Có thể đến ngày nào đó, giả thuyết của C.Mác về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong hàng loạt nước sẽ có cơ hội dễ hình dung hơn. Đồng thời, với hệ thống thế giới toàn cầu hóa phát triển rất không đều và đầy rẫy những bất bình đẳng, bất công và bất trắc, lý thuyết của V.I.Lê-nin về khả năng bùng nổ cách mạng trước hết ở những "khâu yếu trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc" càng có cơ sở. Xu thế tả hóa và hướng đến "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" đang nổi lên ở các nước Mỹ La-tinh là một điển hình nổi bật thức tỉnh nhiều người, và chắc chắn sẽ còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong tạp chí Die Woche của Đức, số ra ngày 28-1-2000, tác giả Jan Puhl đã viết: "Trong vòng 20 năm qua, sự bần hàn và sự thừa thãi luôn đồng hành. Sự chênh lệch ngày càng tăng có thể trở thành ngòi nổ đối với nền dân chủ (=chế độ tư bản) trên phạm vi toàn cầu". Theo ông, "quá trình toàn cầu hóa đã hợp nhất những người vô sản trên toàn thế giới vào cuộc đấu tranh mang tính toàn cầu".
Chủ tịch Câu lạc bộ Rô-ma, ông Ricardo Diez Hochleitner (người Tây Ban Nha) đã viết: "Nghèo đói không chỉ là một vấn đề nghiêm trọng đối với những người bị đụng chạm trực tiếp. Khi tình trạng bần cùng hóa vẫn tiếp diễn như hiện nay, thì có nguy cơ sẽ nổ ra một cuộc cách mạng có thể đụng chạm đến các nước giàu. Khi khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng, thì một ngày nào đó có thể sẽ xuất hiện một ông Mác và một ông Lê-nin mới với khẩu hiệu "Những người nghèo trên toàn thế giới hãy liên kết lại". (Thông tin tư liệu số 7-2000 của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
IV- Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đã lựa chọn
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930 đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách mạng nhất quán của Việt Nam, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Chủ thuyết này đã đưa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đi từ thắng lợi lịch sử này đến thắng lợi lịch sử khác, hoàn thành giải phóng dân tộc, đưa cả nước quá độ từng bước lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, không bảo thủ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí.
Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khách quan lịch sử mà nói, một chủ thuyết chính trị khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dù có tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc thực chất không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc thực dân bên ngoài.
Trong khi khẳng định chỗ mạnh cơ bản của chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, bên cạnh nhiều thuận lợi lớn, chúng ta vẫn không quên rằng trên con đường đi tới đích còn vô vàn khó khăn và thách thức phải đối mặt, thậm chí có những nguy cơ tiềm ẩn không thể xem thường. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội khóa VII (tháng 1-1994) nêu lên còn đó, bây giờ nhắc lại cũng không thừa. Có nguy cơ được giảm thiểu chừng nào, có nguy cơ vẫn giữ nguyên, có nguy cơ tăng thêm, và xem ra 4 nguy cơ còn kết chặt với nhau hơn. Với Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về chỉnh đốn Đảng, cực kỳ quan trọng trong thực hiện di chúc Bác Hồ nhưng qua nhiều lần tổng kết cho thấy việc thực hiện chưa đạt yêu cầu. Nay Nghị quyết Trung ương 4 (Đại hội XI) đang tích cực triển khai để kiên quyết thực hiện kỳ được.
Đi đôi với chống các nguy cơ, hoạt động cơ bản của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay và lâu dài phải hướng chủ yếu vào xây dựng, sáng tạo. Về độc lập dân tộc còn vấn đề không? Còn và còn từ hai mặt chiến lược gắn kết với nhau là vừa bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, vừa xây dựng, phát triển đất nước. Phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và phải nhớ lời dạy của Bác Hồ: Độc lập rồi mà dân không được tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì. Nghĩa là, theo Bác, phải xây dựng cho được chủ nghĩa xã hội mới có độc lập dân tộc thực sự và vững bền.
Độc lập dân tộc ngày nay phải dựa trên căn bản kinh tế. Kinh tế không mạnh thì quốc phòng tất nhiên cũng yếu. Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Tình trạng này nếu không được vượt qua thì rồi độc lập dân tộc cũng lâm vào nguy cơ. Ngay bây giờ, dù đã qua bao công sức xây dựng và đổi mới nhưng kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, "làm thuê" cho nước ngoài. Ta chưa có nền công nghiệp chế tạo, chế biến công nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất với công nghệ cao, trong khi thế giới đang đi vào kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế toàn cầu. Trong điều kiện đó, nếu không bứt phá lên thật nhanh thì kinh tế nước ta còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, không thể nào có độc lập tự chủ chẳng những về kinh tế mà cả về các mặt khác, ngay cả mặt chính trị. Có người nói trong toàn cầu hóa đa mô hình thì định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là một. Không có nước nào duy nhất chỉ có chủ nghĩa xã hội cũng như không có nước nào duy nhất chỉ có chủ nghĩa tư bản. Bởi vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đích thực đã tìm rất nhiều mô hình để có thể tổng tích hợp vào nhau. Ý kiến này thật quá mơ hồ.
Toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình đầy rẫy những mâu thuẫn như đã nói ở các phần trên, nhưng không nước nào có thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Nước ta đã và đang chủ động tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với ý thức đầy đủ tranh thủ mặt lợi, tránh những tác động tiêu cực, có hại. Tuyệt đối hóa một cách phiến diện mặt nào cũng không đúng. Về mặt tích cực, nước ta thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cho được lợi thế của nước đi sau, kế thừa cho được những thành quả văn minh loài người được tạo ra dưới chế độ tư bản. V.I.Lê-nin sẵn sàng đổi một tá người cộng sản không biết làm việc lấy một chuyên gia tư sản giỏi và Người chỉ cho nước Nga: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + ? (tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa xã hội"8. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, tư tưởng đó của V.I.Lê-nin có điều kiện thực thi rộng rãi chưa từng có nhất là đối với các nước lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.
So với các nước phát triển, ở các nước kém phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa bắt đầu có thể tương đối dễ, nhưng để đưa đến đích cuối cùng, trọn vẹn chủ nghĩa xã hội, thì khó khăn hơn rất nhiều. Nước ta, trải qua những cách làm sai trước thời kỳ đổi mới (1986), đã đem lại những bài học thấm thía cho thấy không được ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan.
Trọng tâm trong chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam hiện nay là quá độ từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước lạc hậu về kinh tế, V.I.Lê-nin nhấn mạnh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất lâu dài, rằng trong cả thời kỳ quá độ phải có hàng loạt bước quá độ. Rõ ràng, với nền kinh tế nhiều thành phần, nước ta phải trải qua rất nhiều bước đẩy mạnh lực lượng sản xuất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải trải qua nhiều bước cụ thể, thích hợp, vững chắc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới, từ đó mới có được phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đích thực. Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phải đẩy rất mạnh, thậm chí đi trước một bước trong phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định thực hiện thành công chủ thuyết chính trị cách mạng và phát triển vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh "dĩ bất biến ứng vạn biến", kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thông minh tính kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay-đó là bí quyết thành công trong sự nghiệp vĩ đại thực hiện chủ thuyết chính trị của Đảng ta và dân tộc ta.
GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị- Nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
-------------------
(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (t.10, tr3).
(2). Trích cuốn “Xã hội chủ nghĩa”-Phan Bội Châu toàn tập, Nxb Thuận Hóa, 1990, t4, tr.132.
(3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9 tr3 và t.10 tr.128.
(4). V.I.Lê-nin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb Tến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t.34, tr.152-153.
(5). V.I.Lê-nin. Toàn tập, SĐD, t.36, tr.235
(6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, SĐD, t.9, tr.314
(7). C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, phần I, t25, tr.667
(8). V.I.Lê-nin, toàn tập, SĐD, t.36, tr.684

Người được cho lại gỗ huê tang vật bị cướp là... bí thư huyện ủy

Quảng Trị: Ai cướp gỗ huê tang vật?  
Như Lao Động đã đưa tin, lãnh đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BCH BĐBP) tỉnh Quảng Trị (QT) vừa có báo cáo với thường trực Tỉnh ủy QT về vụ gỗ huê tang vật bị thất thoát trong chương trình kiểm điểm “Những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”.
Ngoài số gỗ huê tang vật bị “cướp” (LĐ ngày 30.10 đã phản ánh), báo cáo của BCH BĐBP tỉnh cho biết, đã cho lại đối tượng bị tịch thu một lượng gỗ huê có trị giá gần 1 tỉ đồng. Người được cho lại gỗ huê- theo báo cáo, là ông Hồ Xuân Nhờ -  Bí thư Huyện ủy Hướng Hóa tại thời điểm đó. Phóng viên LĐ đã liên lạc qua điện thoại với ông Nhờ ngày 31.10 để kiểm chứng thông tin, ông Nhờ hẹn làm việc vào ngày 1.11. Tuy nhiên, đúng hẹn, ông Nhờ đã khóa máy điện thoại.
Tại trụ sở Huyện ủy Hướng Hóa, một vị lãnh đạo trong cơ quan này cho biết: “Ông Hồ Xuân Nhờ vừa thôi giữ chức Bí thư Huyện ủy mấy tháng, hiện vẫn đang sinh hoạt Đảng tại cơ quan Huyện ủy”. Về thông tin cho lại gỗ huê tang vật mà người được cho là ông Nhờ, vị lãnh đạo này nói, theo hồ sơ thì ông Nhờ có bị mất gỗ huê trong vụ bắt giữ đó đâu mà cơ quan BĐBP cho lại ông Nhờ. Liên tục trong các ngày 3 và 4.11, PV Lao Động vẫn nỗ lực liên lạc với ông Nhờ để kiểm chứng xem ông có nhận số gỗ huê trị giá gần 1 tỉ đồng mà BĐBP tỉnh nói là đã cho ông không, nhưng rất tiếc là không thể liên lạc được.
Trong một tài liệu được lập vào ngày 30.12.2010 tại Trạm kiểm soát A Roòng (Đồn biên phòng Sen Bụt), đã ghi nhận: “Lúc 19 giờ ngày 29.12.2010, cán bộ chiến sĩ trạm đã bắt giữ lô lâm sản vận chuyển trái phép gồm 18 khúc gỗ huê, trọng lượng 850,9kg”. Về vụ việc này, đoàn đặc nhiệm miền Trung (ĐNMT, đóng tại TP.Đà Nẵng) thuộc Cục PCTP ma túy BĐBP đã có nhiều hoạt động kiểm tra, giám sát theo điện chỉ đạo từ Cục PCTP ma túy BĐBP. 10 ngày sau khi xảy ra vụ bắt giữ tại QT, đoàn ĐNMT đã đến làm việc với Phòng PCTP ma túy BĐBP QT. Tại đây, đoàn ghi nhận số gỗ huê tang vật bị bắt giữ là 18 khúc, khoảng 0,72m3 (văn bản báo cáo đề ngày 10.1.2011). Như vậy là, với hai bằng chứng mới này, đã góp phần khẳng định quan điểm của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy QT rằng, số lượng gỗ huê tang vật bị thất thoát lớn hơn số lượng gỗ huê tang vật còn lại được đem ra đấu giá (425kg = gần 5 tỉ đồng) hoàn toàn là sự thật.
(Lao động) 

Khổ như người già ở Việt Nam

Có một thực trạng xảy ra với nhóm người này là sống rất cô đơn, buồn bã mặc dù ở ngay giữa “con đàn cháu đống”.

Theo đánh giá của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ chưa từng có trong lịch sử: Nếu năm 1999 có 3.000 cụ hơn 100 tuổi thì đến năm 2009 có hơn 7.200 cụ, tăng nhanh nhất so với bất kỳ nhóm dân số nào khác. Đại diện Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc cho biết: “Để chuyển từ giai đoạn dân số vàng (tức là cứ 2 người trong độ tuổi lao động mới có 1 người trong độ tuổi phụ thuộc) sang dân số già, Pháp cần 115 năm, Thụy Điển mất 70 năm nhưng Việt Nam chỉ mất 15 năm, khoảng thời gian quá ngắn để chuyển đổi cơ cấu dân số. Như vậy, trước tình trạng già hóa dân số, thách thức lớn nhất đặt ra cho cơ quan hữu trách là chính sách, chế độ chăm sóc cho người già như thế nào?
Cô đơn giữa “con đàn cháu đống”
Hiện nay, tại Việt Nam cứ 10 người thì có 1 người 60 tuổi - được tính là người cao tuổi. Có một thực trạng xảy ra với nhóm người này là sống rất cô đơn, buồn bã mặc dù ở ngay giữa “con đàn cháu đống”. Nhiều người già phàn nàn rằng, đáng lẽ ra càng về già càng phải cảm thấy vui vẻ, thoải mái với đại gia đình gồm 2-3 thế hệ của mình thì đằng này ngược lại, đông người bao nhiêu, họ lại càng thấy lẻ loi bấy nhiều.
Điều này tưởng như mâu thuẫn nhưng có lẽ không sai khi những người như bà Nguyễn Thị Tâm, ở Nguyễn Phong Sắc, quận Cầu Giấy tâm sự: Sinh được 3 người con, trong đó có 2 trai, 1 gái. Khi các con lớn khôn, chỉ nghĩ đến việc được sống quây quần với con, cháu giữa tiếng trẻ thơ ríu rít của cháu nội và ngoại là vợ chồng bà Tâm vui lắm rồi. Nhất là khi ấy, ông bà đã nhàn tản, nghỉ hưu không còn phải lo lắng, bận bịu với công sở hay đầu tắt mặt tối với cuộc sống mưu sinh. Do mảnh đất hương hỏa tổ tiên để lại rộng rãi đủ để chia cho các con mỗi người một căn nhà xung quanh căn hộ của mình nên ông bà càng vui hơn khi mường tượng ra cảnh đó. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng chiều lòng người, ngay cả khi sự sắp đặt đã diễn ra như ý. Vì có quá nhiều điều chi phối do nhịp sống, guồng quay công việc lúc nào cũng gấp gáp, bộn bề khiến con người dường như không thể thoát ra được...
Lúc các cháu nội ngoại mới sinh, vì mải mê chăm bẵm, nuôi dưỡng các cháu cùng với bố mẹ chúng nên vợ chồng bà Tâm chẳng có thời gian đâu để buồn. Mà đối với người già đó lại là niềm vui chứ không phải nỗi buồn! Nhưng cứ mỗi lần đứa cháu nội hay ngoại nào đi học là y như rằng vợ chồng bà Tâm cảm nhận rõ nỗi buồn tăng dần lên theo số cháu đi học đó. Vì các cháu đi học, nhà ông bà vắng hoe, không còn âm thanh rộn rã của con trẻ. Dâu, rể, trai, gái - con của ông bà thì đi làm cả, tối mịt mới về. Mà khi về thì ai nấy đều chẳng nói chẳng rằng, chỉ muốn yên thân một chỗ vì kết thúc một ngày làm việc mệt mỏi. Chưa kể đến gia đình nào có con đi học phổ thông thì đúng là những thành viên trong nhà đó, vợ chồng bà Tâm khó mà gặp nổi vì 24 tiếng/ngày có khi còn không đủ đối với họ. Mới đầu, vợ chồng bà Tâm cũng “sốc” trước cảnh hiu hắt đó nhưng lâu dần cũng quen, hay nói đúng hơn là không còn cách nào khác.
Nhưng càng quen thì bà Tâm càng nhận ra một điều, gia đình lớn của bà hình như ngày càng cách xa nhau - không chia sẻ, thiếu sự quan tâm đến nhau, kể cả khi ông bà ốm đau. Cùng lắm, các con bà chỉ hỏi được mỗi câu: “Bố (hoặc mẹ) ốm à?”. Quan tâm nữa thì đưa cho mẹ ít tiền là xong, không hỏi han, chia sẻ… Vì điều này, bà Tâm buồn và nỗi buồn tưởng như không thể gọi tên, định hình ấy cứ mỗi ngày gặm nhấm bà một ít để rồi đến lúc bà có cảm giác lạc lõng, cô đơn ngay giữa các con. Lúc ông mất đi do bạo bệnh thì cảm giác ấy càng lớn, thậm chí bà như cái bóng trong nhà, không có ai để chia sẻ, tâm sự. Cả ngày, bà quanh quẩn đi lên đi xuống rồi lại đi xuống đi lên ngôi nhà 2 tầng gác của mình nhiều khi chẳng để làm gì, chỉ để thấy mình vẫn... tồn tại. Những câu chuyện bà nói chẳng ai nghe vì các con bà không mấy để tâm và cũng không thể hiểu rõ. Bà Tâm bảo: “Tôi đang chết dần chết mòn vì cô đơn ngay giữa đám con cháu của mình”.
Sống mà... như chết
Đó là câu nói của ông Đào Vĩnh Bảo, ở quận Ba Đình, Hà Nội. Ông bảo cuộc đời ông chẳng khác nào như thế. Ông Bảo có 1 con gái 2 con trai. Cái thời người ta phải ăn cơm độn ngô, khoai, sắn thì nhà ông ăn gạo trắng nước trong, áo quần đẹp đẽ. Bởi làm ở Bộ Ngoại giao, cứ theo nhiệm kỳ, ông lại công cán ra nước ngoài và sống ở đó một thời gian dài. Dẫu ở nước ngoài, nhưng nhờ có quan hệ, điều kiện kinh tế, ông đã thu xếp được cho hai cậu con trai xuất khẩu lao động sang Nga (Liên Xô cũ) và Đức.
Thời đó, gia đình nào mà có những hai con đi xuất khẩu lao động là hiếm và “oách” lắm. Còn cô con gái ông để ở nhà chăm sóc mẹ. Bù lại, ông sắm sửa cho đủ thứ: từ xe máy Java, Babeta đến áo lông Đức rồi cả đồ trang sức đắt tiền... Sắp xếp đâu vào đó, ông nghĩ rằng đến lúc về nước và đến tuổi nghỉ hưu, ông sẽ yên tâm dưỡng già, vui vẻ với con cháu. Nào ngờ, đúng lúc hết nhiệm kỳ công tác ở nước ngoài, về nước chưa kịp bù đắp cho vợ vì những tháng ngày xa cách thì bà lâm trọng bệnh và bỏ ông ở lại. “Chuyện trăm năm biết kể cùng ai”, ông bơ vơ và sống độc thân khi mãn chiều xế bóng.
Người xưa có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Nhưng trong cuộc sống hiện đại với đầy toan tính, tất bật như hiện nay, thì người già không cậy được con nữa, ngay cả đời sống tinh thần.
Trong gia đình, bao nhiêu công to việc nhỏ lại đến tay ông. Nhưng cũng từ đây, bi kịch bắt đầu đến với ông khi con trai lớn về nước trong tình trạng trắng tay do bao nhiêu tiền kiếm được đã “nướng” hết vào cờ bạc để đến nỗi, lúc lấy vợ, sinh con không có đồng nào ông lại phải lo toan hết. Không những thế, lúc bị bắt nợ vì vay tiền đánh cờ bạc, con trai ông về bắt ông bán nhà và dọa nếu không bán sẽ “tự tử”.
Vậy là thương con, hơn nữa, nếu không bán nhà thì con trai ông lấy đâu ra tiền để trả nợ nên ông quyết định bán nhà, lấy số tiền đó sau khi trả nợ, chia làm 3 phần, cho con gái và con trai thứ 2 phần. Một phần ông mua ngôi nhà nhỏ cạnh nhà gia đình con gái ông để ông và vợ chồng người con trai lớn ở. Nhưng dường như “họa” nối “họa”, ngôi nhà ông mới mua chưa kịp sửa chữa khang trang thì lại có người đến siết nợ vì con ông đã cá cược mấy trận bóng đá bằng cả ngôi nhà. Không còn cách nào khác, ông lại phải trả nợ cho con trai. Con dâu ông thấy cảnh chồng như vậy, quá chán đành ôm con bỏ về nhà mẹ đẻ. Còn ông, thuê bãi đất hoang ở cuối ngõ để dựng tạm ngôi nhà cấp 4 cho hai bố con ở. Nhưng ở được một thời gian, con ông bỏ đi đâu không rõ.
Lại nói đến người con trai thứ ở Đức, kể từ sau giỗ đầu mẹ thì không liên lạc với ông nữa, cũng không một lời hỏi thăm hay động viên vào những ngày tết; giỗ chạp ông bà, tổ tiên... như nhiều người xa gia đình khác. Ngay cả khi nhận được tiền thừa hưởng từ việc bán nhà mà ông gửi cho, người con trai này cũng không biết nói lời cảm ơn hay bày tỏ thái độ, hành động tương tự. Có lúc ông đã tự than thân trách phận: không biết ông đã làm gì để rồi sinh ra hai “nghịch tử” không biết đâu là “thờ cha kính mẹ”. Thật là vô phúc!
Còn con gái ông, tưởng rằng con gái “chấy rận” sau này sẽ chăm sóc ông lúc về già, sẽ “có bát canh cần nó cũng mang cho”. Nhưng hóa ra, như hai thằng em trai, lúc lấy chồng, sinh con đẻ cái xong, con gái ông cũng quên mất: có một người cha không những sinh ra mà còn cho mình cuộc sống sung túc. Lắm khi huyết áp và tiểu đường của ông tăng, ông muốn nhờ con gái chợ búa, cơm nước nhưng nghĩ đến câu: “Con bận đi làm” mà con gái ông vẫn hay trả lời mỗi khi ông định nhờ vả thì ông chán không buồn nhờ nữa. Ông thấy cuộc sống của mình trôi qua mỗi ngày một cách nặng nề, không có niềm vui, không có ai để chia sẻ. Thậm chí, có lúc ông thèm một tiếng nặng lời của con về bất kể điều gì trong cuộc sống của ông để thấy rằng, ông đang được con quan tâm. Nhưng tất cả chỉ là... im lặng. Nhiều khi ông muốn chia sẻ nhưng hàng xóm của ông tọc mạch nhiều hơn là đồng cảm nên ông chẳng thể nói gì với họ. Chính quyền địa phương cũng không có phong trào gì mạnh mẽ để ông hào hứng tham gia. Thực sự, ông thấy mình sống mà như... chết!
Gia đình không còn là “hệ thống an sinh”

Hiện nay, số người cao tuổi chiếm khoảng 10% dân số và tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng tăng lên trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm. Có thể nói đây là thành tựu đáng kể của ngành y tế Việt Nam, đồng thời đánh dấu sự phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ông Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình nhận định, người cao tuổi của ta chưa được quan tâm, chăm sóc chu đáo về đời sống tinh thần, cụ thể như chưa có những phong trào hoạt động mạnh mẽ dành cho người cao tuổi để sống vui, sống khỏe. Nếu có, cũng là tự phát và chỉ có một số ít người cao tuổi tham gia.
Cho nên theo thống kê của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình: Mới chỉ có 20% người cao tuổi có đời sống tinh thần thoải mái. Còn lại nhiều cụ cũng có đời sống trắc trở. Có tới 61% người cao tuổi sống trong tình trạng cô đơn, không có vợ hoặc chồng, đặc biệt là người cao tuổi là nữ giới do ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ kéo dài hơn 30 năm, các quan niệm lạc hậu đã khiến phụ nữ phải chịu sự bất bình đẳng giới trong hôn nhân… Người ta đã tính số người cao tuổi là nữ giới nhiều hơn nam giới từ 22-132 người, tức là càng về già số người cao tuổi là nữ càng nhiều hơn nam giới do tuổi thọ của nam giới thấp hơn.
Theo một nghiên cứu khoa học thì đối với người già, gia đình là hệ thống an sinh của họ. Không khí hòa thuận trong gia đình cùng với sự chăm sóc của con cháu sẽ là động lực giúp người cao tuổi vui vẻ, lạc quan. Thế nhưng cuộc sống gấp gáp, bận rộn hiện nay cùng với sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội đã làm cho “hệ thống an sinh” này đang bị mai một, thậm chí mang hậu quả ngược 1800 cho người cao tuổi. Và không ít người già lâm vào cảnh như vậy.
Để thay đổi tình trạng này, ông Dương Quốc Trọng cho rằng: Để đời sống tinh thần của người cao tuổi được thoải mái, vui vẻ, tất cả những người trong cộng đồng phải chung tay chăm sóc, trước hết bằng chính thái độ biết tôn trọng và chia sẻ với người già. Đó chính là biện pháp không những giúp cho tuổi thọ của người Việt tăng lên nữa mà còn làm cho đời sống kinh tế, xã hội được tốt hơn.
  Xuân Bách
(Ptrotimes)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét