Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

HOT - THỜI SỰ TRONG NGÀY

 Thông điệp của chính quyền

Năm 2011, chính quyền Việt Nam kết án tổng cộng 95,5 năm tù trong 10 vụ án cho 21 nhà hoạt động hoạt động xã hội, dân chủ, nhân quyền và tôn giáo[1]. Năm nay cho đến thời điểm này, 18 người trong 9 vụ án đã bị kết án tổng cộng 118,5 năm tù[2]. Nếu đến cuối năm, 11 thanh niên Công giáo bị bắt từ giữa năm ngoái[3]22 người bị coi là thuộc Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn bị bắt đầu năm nay bị đưa ra xét xử thì số người bị kết án sẽ lên đến trên 50 người với tổng cộng ít nhất 200 năm tù. Năm 2011 chỉ có một bản án nặng (11 năm), năm 2012 có tới 3 bản án nặng (12 năm, 11 năm và 10 năm).
Về nhân thân, 3 trong số 39 người bị kết án là cựu đảng viên cộng sản[4]. Ngoài một người là giáo viên trung học, tất cả đều làm nghề tự do, không thuộc diện cán bộ, công chức hay nhân viên ăn lương nhà nước[5]. 8 người sống ở các tỉnh miền Bắc, 8 người ở miền Trung – đặc biệt tập trung ở Nghệ An, và nhiều nhất ở miền Nam: 23 người. Năm 2011, người trẻ nhất bị kết án 25 tuổi, người cao tuổi nhất 71, tuổi trung bình 48. Có 2 người dưới 30 tuổi. Năm 2012 người trẻ nhất 23, người cao tuổi nhất 63, tuổi trung bình 41. Có 5 người dưới 30 tuổi.
Mười chín vụ án đã xét xử trong hai năm qua cho thấy một số đặc điểm:
Điều 88 
Ngoài một vụ truy tố theo điều 258 BLHS (tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân), một vụ theo điều 226 (tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet), một vụ theo điều 87 (tội phá hoại chính sách đoàn kết), ba vụ theo điều 79 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,) còn lại mười ba vụ đều theo điều 88 (tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam).
Chiến công rực rỡ nhất trong sứ mệnh trấn áp những người bất đồng chính kiến của Bộ Luật Hình sự Việt Nam như vậy thuộc về điều 88, biểu tượng hai chiếc còng, như thể khi soạn thảo và đánh số người ta đã tiên liệu rằng số tù nhân dự khuyết theo điều luật này ở Việt Nam có thể lên tới hàng triệu. Điều 88 của Việt Nam đứng trong một hệ gia phả quốc tế khét tiếng, với những điều luật như điều 58 khoản 10 của Liên Xô trước đây (tội vận động và tuyên truyền chống chính quyền Xô-viết) và điều 102 của Trung Quốc hiện tại (tội vận động và tuyên truyền phản cách mạng). Những điều luật như thế tồn tại là để khóa trái cửa tự do ngôn luận, vì bất kể một phát ngôn nào không trùng khít với lập trường chính thống cũng cấu thành tội phạm, trừ khi người ta nói thầm với hai đầu gối của mình. Nhưng trong thực tế, việc ai lúc nào sẽ rời danh sách dự khuyết để chính thức trở thành một tội phạm được quyết định bởi những yếu tố khác[6].
Bóng ma tổ chức
Trừ ngoại lệ duy nhất là nhà bất đồng chính kiến độc lập Cù Huy Hà Vũ mà sự nổi tiếng và lòng quả cảm khiến ông có tầm ảnh hưởng vượt khỏi phạm vi cá nhân, tất cả những người còn lại đều bị cáo buộc đã tham gia hay có liên hệ với một tổ chức. Đó là những Khối 8406, Đảng Thăng Tiến, Đảng Tự do Dân chủ Việt Nam, Đảng Vì dân, Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, Diễn đàn “Việt Nam và những vấn đề hôm nay”…, gần đây nhất là Nhóm Tuổi trẻ Yêu nước, và nổi bật là Đảng Việt Tân – được nhà nước Việt Nam xếp đầu bảng, ở hạng “tổ chức khủng bố”.
Tôi cho đây là thông điệp căn bản của chính quyền.
Những người cộng sản đang cầm quyền hiểu rõ hơn ai hết vai trò của tổ chức và sức mạnh của công tác vận động quần chúng. Họ đã thành công, dù ở thời họ còn phải hoạt động bí mật, dân trí, ý thức xã hội, năng lực và phương tiện liên kết của người Việt Nam so với ngày nay chắc chắn thấp hơn nhiều bậc. Không có điều gì khiến nhà cầm quyền ở các chế độ độc tài lo ngại hơn việc các công dân bé nhỏ và rời rạc bỗng có tổ chức, bỗng biết tổ chức và biết nhân sức mạnh của mình qua tổ chức, tất nhiên là tổ chức độc lập với chính quyền. Tổ chức là hai chữ cấm kị triệt để nhất, vẫn còn nguyên hiệu lực của nó trong một đất nước Việt Nam đã mở ra khá nhiều cánh cửa trước kia vốn khép kín, sau một phần tư thế kỉ tuyên bố chính sách đổi mới và hòa nhập với thế giới. Tổ chức, nếu không phải là công cụ của chính quyền thì bất kì lúc nào cũng có thể bị quy về cái mẫu số chung hắc ám là chống đối và lật đổ. Danh hiệu “có móc nối với các tổ chức phản động” hay do các tổ chức này “hậu thuẫn, giật dây, lợi dụng” bất kì lúc nào cũng có thể được đem ra phân phát không cần bình bầu. Các tổ chức bị xếp loại thù địch này thường ở nước ngoài, tất nhiên với não trạng đầy hận thù và túi đầy những đồng tiền bẩn thỉu, trước kia thế nào cũng phải mang hình thù gớm ghiếc của CIA, bây giờ thế nào cũng phải thấp thoáng bóng ngôi sao đen Việt Tân, Lời văn mở đầu nổi tiếng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản 1848 có thể viết lại như sau: “Một bóng ma đang ám ảnh toàn cõi nước CHXHCN Việt Nam: Bóng ma tổ chức“.
Liên minh thần thánh của Hà Nội để trừ khử bóng ma ấy không ở đâu xa. Là liên minh với chính nỗi sợ bóng ma này trong phần lớn chúng ta. Khi chúng ta bênh vực quyền biểu lộ lòng yêu nước của những Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… nhưng né tránh quyền đứng trong một tổ chức chính trị của họ, ái ngại cho sự “dại dột” của họ và tìm cách minh oan cho họ, như thể những người đầu xanh tuổi trẻ ấy thừa bồng bột mà thiếu trí khôn. Khi chúng ta với tất cả trí khôn của mình phó thác toàn bộ vận mệnh mình cho một tổ chức duy nhất, Đảng Cộng sản, và chấp nhận việc nó thẳng tay đàn áp mọi tổ chức khác từ trong trứng nước như một định mệnh không thể thay đổi. Khi ngay cả những người vốn sáng suốt và không dễ sợ bóng sợ gió, hễ thấy mùi của một tổ chức nào đó là lập tức đeo khẩu trang. Khi những người giầu khí phách, có thể kiêu hãnh chọc trời khuấy nước, cũng luôn chỉ muốn là những anh hùng cá nhân, không ràng buộc, không tổ chức. Bản thân tôi, người viết những dòng này, đã nhiều lần tự hỏi, liệu lí do khiến mình cho đến nay không gia nhập một tổ chức nào có thật sự chỉ là để bảo vệ chỗ đứng độc lập của người cầm bút?
Đối thủ tôn giáo
17 trong số 39 người bị kết án là người theo tôn giáo: Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo và Pháp Luân công, trong đó khối Công giáo được chiếu cố hơn cả.
Có lẽ nhà thờ ở Việt Nam mong duy trì một hiệp ước bất khả xâm phạm với chính quyền, thành quả của nhiều thập kỉ nỗ lực và chịu đựng, hơn là đóng một vai trò chủ động và thậm chí tiên phong trong công cuộc phản kháng chế độ độc tài như ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Nhưng cộng đồng sáu triệu tín đồ Công giáo Việt Nam chắc chắn sở hữu hai phẩm chất quan trọng mà những người cộng sản từng có, từng coi là bảo bối cho sự nghiệp được coi là bách chiến bách thắng của mình và nay đã đánh mất: thứ nhất, sức mạnh của đức tin, hay nói theo ngôn ngữ đời là sức mạnh của niềm tin, lí tưởng và thứ hai, sức mạnh của đoàn kết. Đó là chưa kể sức mạnh của nhánh hiệp thông thứ ba: hiệp thông với các tổ chức và cộng đồng Thiên chúa giáo thế giới, điều tương tự mà những người cộng sản cũng đã đánh mất với sự phá sản của phong trào cộng sản quốc tế. Nếu những quan sát của tôi không nhầm thì ngoài ra cộng đồng thiểu số này còn chứng tỏ những ưu thế khác so với xã hội bao quanh nó mà đa số là một hỗn hợp của vô thần và mê tín. Nền tảng đạo đức trong giáo dân dường như vững chắc hơn và ý thức xã hội cao hơn mặt bằng chung, trong khi những người lãnh đạo họ dường như thua xa giới lãnh đạo xã hội bên ngoài về thành tích dốt nát, tham nhũng và lộng quyền. Điểm yếu của nhà thờ, xuất phát từ một giai đoạn quá khứ từng tháp tùng chủ nghĩa thực dân, là chỗ đứng tương đối chênh vênh của nó trong tình tự dân tộc. Song nếu có một tổ chức đối lập thật sự đáng gờm cho độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản với gần bốn triệu đảng viên thì đó chính là nhà thờ Công giáo với sáu triệu tín đồ. Cuộc đối đầu tiềm năng giữa hai bên là mã số của nhiều vụ án không chỉ trong hai năm qua.
Những nội dung nhạy cảm
Bốn nội dung chính xuất hiện trong các vụ án kể trên, theo thứ tự tần suất từ cao nhất trở xuống, là:
1) đòi hỏi dân chủ và nhân quyền, đòi hỏi thay đổi hệ thống và mô hình chính trị, chống độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
2) bảo vệ quyền lợi của dân oan và chống tham nhũng;
3) đòi hỏi tự do và bình đẳng tôn giáo, tín ngưỡng;
4) bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biển đảo.
Nội dung thứ nhất xuyên suốt phần lớn các vụ và rõ ràng đóng vai trò quyết định.
Trái với không ít người, tôi cho rằng phẫn nộ về việc Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải bị tổng cộng 26 năm tù chỉ vì đã tham gia biểu tình chống Trung Quốc, Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang bị tổng cộng 10 năm tù chỉ vì mấy bản nhạc yêu nước, hay Nguyễn Phương Uyên bị bắt chỉ vì một bài thơ ghét Tàu là một thái độ vừa không đủ khách quan vừa né tránh sự thật và có phần vô hại hóa hoặc thậm chí tầm thường hóa sự dấn thân của họ.
Họ đã đi xa hơn. Bất chấp thông điệp hà khắc của chính quyền.
Tháng 11 6, 2012

Phạm Thị Hoài
© 2012 pro&contra

[1] Theo thứ tự thời gian, những người bị kết án là Vi Đức Hồi, Cù Huy Hà Vũ, Cao Văn Tỉnh, Dương Kim Khải, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Thành Tâm, Phạm Ngọc Hoa, Phạm Văn Thông, Trần Thị Thúy, Phạm Minh Hoàng, Lư Văn Bảy, Phạm Thị Phượng, Nguyễn Ngọc Cường, Nguyễn Ngọc Tường Thy, Phạm Thị Bích Chi, Vũ Đức Trung, Lê Văn Thành, Nguyễn Văn Lía, Trần Hoài Ân, Hồ Thị Bích Khương và Nguyễn Trung Tôn.
[2] Đó là Nguyễn Văn Thanh, Võ Thị Thu Thủy, Nguyễn Công Chính, Chu Mạnh Sơn, Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đức, Trần Hoàng Phong, Phan Ngọc Tuấn, Đinh Văn Nhượng, Đỗ Văn Hoa, Nguyễn Kim Nhàn, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải, Trần Vũ Anh Bình, Võ Minh Trí (Việt Khang).
[3] Đó là: Nguyễn Đình Cương, Lê Văn Sơn, Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh, Nguyễn Xuân Anh, Hồ Văn Oanh, Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung.
[4] Ông Vi Đức Hồi, ông Đinh Đăng Định và bà Tạ Phong Tần
[5] Ông Phạm Minh Hoàng là giảng viên hợp đồng ở đại học, tức ngoài biên chế nhà nước.
[6] Blogger Người Buôn Gió ghi nhận: “Chúng ta, những người viết blog sẽ có thể bị bắt bất cứ lúc nào khi mà cơ quan an ninh muốn. Không phải ngày hôm nay chúng ta ngừng viết, chúng ta không sờ đến bàn phím nữa, chúng ta sẽ yên lành. Chúng ta đều ở trong rọ, đến thời hạn cần thăng chức, lên lon, xét duyệt, thời điểm cần vụ án chính trị  để phục vụ mục đính chính trị. Người ta thò tay vào rọ và chọn ai đó trong số chúng ta… Chúng ta, những người viết blog ‘lề bên trái’, những người chưa bị bắt chỉ là ‘của để dành’ khi người ta cần lập chiến công nhân dịp xét duyệt phong hàm, chức hay phục vụ quan hệ với một nước nào đó.”

 

 Kami - Giải pháp để buộc đảng CSVN phải tuân thủ pháp luật

Việc xây dựng một nhà nước dân chủ pháp trị, với một xã hội dân sự như hoàn cảnh Việt nam hiện nay cũng có các phương án mà không nhất thiết là phải đập bỏ để thay đổi toàn bộ. Mà trên nền tảng hiện tại, chúng ta có thể cải tạo từ từ, mà trọng tâm là cải cách về mặt luật pháp. Như vậy sẽ đảm bảo sự chuyển đổi hòa bình không đổ máu và đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên. Sửa đổi Hiến pháp là một trong những bước quan trọng nhất làm nền tảng thay đổi các vấn đề liên quan về bộ máy nhà nước.

Ở Việt nam, người ta thường hô hào khẩu hiệu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, mọi người bình đẳng trước luật pháp v.v... đã nhiều chục năm nay, đặc biệt là sau khi đảng CSVN tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vào năm 1986. Thực ra những người lãnh đạo đảng và chính quyền phần nào hiểu  được tầm quan trọng, sự cần thiết của việc thượng tôn luật pháp trong việc quản lý nhà nước đối với một quốc gia. Nhưng ở một đất nước, mà thực tế cho thấy nền kinh tế Việt nam dần thoát ra khỏi quy luật kinh tế của chủ nghĩa Marx-Lenin để đi theo nền kinh tế thị trường. Tuy vậy nếu Việt nam chỉ tiến hành cải cách kinh tế, mà không cải cách chính trị thì gặp phải muôn vàn trở ngại, mà thực tế cho thấy sự khủng hoảng của nền kinh tế Việt nam hiện nay là hậu quả của các chính sách kinh tế chính trị không đồng bộ. Nhưng điều trở ngại cơ bản dễ nhận thấy nhất là sự chuyển đổi từ việc sử dụng nền chuyên chính vô sản thay cho luật pháp để quản lý nhà nước kéo dài nhiều chục năm như ở Việt nam.

Trong nghị quyết Đại hội đảng CSVN toàn quốc lần thứ XI đã ghi rõ “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền” và nghị quyết trên cũng xác định phải “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Như vậy khi Đảng đã đặt mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, nghĩa là bước đầu đã định hướng mọi tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo pháp luật.

Từ trước đến nay, người Việt nam chúng ta nói chung chưa có thói quen tuân thủ pháp luật một cách triệt để, cũng bởi bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn đang ở dạng nhân trị chứ chưa phải pháp trị, người ta hay mang cái tình (suy nghĩ của cá nhân) để áp đặt lên cái lý (luật pháp) từ đó nảy sinh ra tình trạng “phép vua thua lệ làng”, và do tình trạng này kéo dài dẫn đến tình trạng phép nước thua chỉ thị của đảng . Ví dụ như cán bộ địa phương thì vẫn rất ngại đụng đến quyết định của lãnh đạo địa phương mình, cho dù biết ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo sai luật, thậm chí chỉ thị của lãnh đạo mình là vi phạm pháp và trái pháp luật họ cũng phải chấp hành. Cũng vì sự chồng chéo giữa các quy định của đảng và quy định của pháp luật nhiều khi buộc các càn bộ của đảng cảm thấy mình có trách nhiệm thực hiện các quy định của Điều lệ đảng hơn là quy định của luật pháp.

Lý do chính bởi nó chịu ảnh hưởng của một hệ thống tổ chức chính trị nhà nước theo trục dọc, với đảng CSVN là cơ quan lãnh đạo nhà nước và xã hội theo điều 4 của Hiến pháp. Đảng CSVN là tổ chức lãnh đạo toàn diện, đứng trên cả ba hệ thống hành pháp – tư pháp – lập pháp. Đồng thời trong ngành tư pháp, các cơ quan tư pháp cũng tổ chức theo trục dọc từ trung ương đến địa phương, theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. Đây là vấn đề bất cập, nếu có một phương án nào đó giải quyết tháo gỡ các vướng mắc trên mà vẫn đảm bảo đảng CSVN là cơ quan lãnh đạo nhà nước và xã hội theo điều 4 của Hiến pháp. Mà vẫn đảm bảo cơ chế kiểm soát, giám sát các cơ quan của đảng đồng thời bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Trên thực tế, mọi người đều có một sự thống nhất chung rằng các lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN và chính quyền của họ khi hết chức, hết quyền và nghỉ hưu thì phát biểu góp ý với đảng và chính quyền hết sức mạnh mẽ. Đồng thời các góp ý của họ rất chính xác, phản ảnh được dư luận xã hội về các vấn đề mà người dân quan tâm. Điều này là chuyện chắc chắn và có thực và mọi người đều có chung một thắc mắc là vì sao khi còn tại chức, các quan chức đó không lên tiếng? Nguyên nhân cũng như đã nói ở trên, đó là sự chồng chéo giữa các quy định của đảng và quy định của pháp luật nhiều khi buộc các càn bộ của đảng cảm thấy mình có trách nhiệm thực hiện các quy định của Điều lệ đảng hơn là quy định của luật pháp. Hơn nữa, nếu khi đang tại chức mà ai đó mà phát biểu thì họ luôn nghĩ rằng sẽ đụng chạm đến cái ghế lãnh đạo của mình. Như đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết đã bộc bạch rằng chúng tôi chỉ dám nói khi biết mình đã ở nhiệm kỳ cuối.

Điều đó chứng tỏ rằng các quan chức ở Việt nam hiện nay đều biết rõ các bất cập trong cơ chế quản lý, điều đã khiến cho đời sống, kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt nam lâu nay cứ bùng nhùng không có lối thoát. Tất cả đều vì một nguyên nhân cơ bản đó là các quan chức hay đại biểu của dân chỉ biết đặt quyền lợi của bản thân lên trên lợi ích của đất nước và nhân dân. Điều mà chỉ khi họ hết quyền lực mới được thể hiện qua các bài báo, bài trả lời phỏng vấn. Điển hình là ông Nguyễn Văn An nguyên Chủ tịch Quốc hội, hay ông Hữu Thọ nguyên trưởng ban Tổ chức Trung ương v.v... mà những ý kiến của họ được dư luận xã hội hết sưc ủng họ và hưởng ứng.

Vây tại sao chúng ta không nghĩ đến việc sử dụng tiềm năng số cán bộ đã nghỉ hưu này, để tạo một cơ chế kiểm soát, giám sát các cơ quan của đảng, đồng thời bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”? Nếu họ - những cán bộ quan chức cao cấp đã nghỉ hưu được hoạt động trong các cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát luật pháp kể cả các cơ quan của đảng như Tòa án Hiến pháp, Thượng nghị viện v.v... thì hết sức hiệu quả. Vì cái được lớn nhất sẽ là giám sát, bắt buộc các cơ quan của đảng thực hiện theo quy định của điều 4 Hiến pháp đó là “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, đồng thời vẫn đảm bảo sự trung thành của họ đối với đảng CSVN.

Chức năng của cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát luật pháp kể cả các cơ quan của đảng như Tòa án Hiến pháp, Thượng nghị viện sơ bộ như sau:

Tòa án Hiến pháp

Qua nghiên cứu sơ bộ các mô hình cơ quan bảo hiến ở một số nước, có thể thấy mô hình cơ quan bảo hiến châu Âu – tức là thành lập Tòa án Hiến pháp để bảo vệ Hiến pháp là tối ưu. Tòa án Hiến pháp có những quyền hạn như: Giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, văn bản luật pháp dưới luật, điều ước quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật khác; Giải thích Hiến pháp; Giải quyết khiếu nại đối với văn bản, hành vi vi phạm Hiến pháp của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với nhau; giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan địa phương.

Điều đặc biệt, Tòa án Hiến pháp có quyền giải quyết tranh chấp trong các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân; Xem xét các vấn đề liên quan đến việc miễm nhiệm nghị sỹ và cách chức các quan chức cấp cao của Nhà nước; Tham gia luận tội các quan chức cấp cao của nhà nước…

Thượng nghị viện

Sửa Hiến pháp có thể bổ xung việc tạo ra một Quốc hội lưỡng viện, Thượng nghị viện và Hạ nghị viên. Theo đó Hiến pháp quy định việc chấp thuận của cả hai viện lập pháp là cần thiết để phê chuẩn luật. Mục đích chính là với ý muốn có hai viện lập pháp để trông coi, kiểm soát lẫn nhau. Hạ nghị viên là cơ quan lập pháp được lập lên là một cơ quan của đại biểu nhân dân, thông qua đó phản ánh các ý kiến của công chúng thông qua các văn bản pháp luật. Thượng nghị viện là một cơ quan lập pháp và là một diễn đàn thông thái, ưu tú có tính cách bàn luận của các chuyên gia hay những người có hiểu biết và uy tín xã hội lớn. Thượng nghị viện  kiểm soát và thẩm định việc ban hành các văn bản pháp luật của Hạ nghị viện đã thông qua trước khi đưa vào sử dụng hơn mà nơi đó các thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ sáu năm sẽ không bị chi phối bởi ý kiến của công chúng. Nhưng có thể bị truất phế khi có quyết định của Tòa án Hiến pháp.

Các cơ quan kể trên với chức năng chính là để giám sát, thông qua một lần nữa các dự luật, hoặc thẩm định tính hợp hiến của các Văn bản luật, quy phạm pháp luật. Hay giải quyết các tranh chấp liên quan đến tính pháp lý của các cá nhân, doanh nghiệp đối với các cơ quan đảng và chính quyền. Điều đó về cơ bản sẽ đảm bảo tính công bằng của luật pháp, tính thượng tôn của pháp luật trong đời sống xã hội, đồng thời vẫn đảm bảo phần nào sự lãnh đạo của đảng CSVN. Sở dĩ chỉ nói một phần vì những quan chức nếu được bổ nhiệm vào những chức vụ trong các cơ quan cơ chế kiểm soát, giám sát như nói ở trên cộng với một số quy định về quyền hạn trách nhiệm của họ như: không bị bãi miễn, được hưởng lương và các chế độ phụ cấp đặc biệt cho đến hết đời (trừ chức danh Thượng nghị sĩ do dân bầu theo nhiệm kỳ quy định.

Cho dù giải pháp nêu ở trên không phải là giải pháp đúng đắn và đầy đủ nhất, nhưng nó cũng là giải pháp cần thiết nên có để kiểm soát và cân bằng quyền lực của đảng CSVN, bắt buộc đảng CSVN phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật trong thời gian hiện tại. Đồng thời nó cũng là bước đầu để tiến hành cải cách tư pháp, để tạo tiền đề cho một nhà nước pháp quyền và một xã hội dân sự. Nhưng quan trọng nhất, đây là biện pháp để chấm dứt tình trạng đảng đứng trên pháp luật như hiện nay ở Việt nam.

Ở thời điểm này, khi báo chí nói rất nhiều về vấn đề sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thiết nghĩ đề nghị nhỏ này sẽ được nghiên cứu xem xét và đưa vào nghiên cứu cụ thể để áp dụng. Giải pháp nêu trên an toàn, mà vẫn đảm bảo sự lãnh đạo của đảng CSVN, dễ dàng tiến hành được ngay sau khi bổ xung các điều khoản liên quan trong Hiến pháp mới. Đây là vấn đề cần thiết và quan trọng, vì "Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới sự tha hóa tuyệt đối". Không những thế, giải pháp này sẽ giúp tăng cường uy tín của đảng CSVN đã và đang ngày một bị bào mòn đến mức không còn gì để nói nữa.

Ngày 06 tháng 11 năm 2012
© Kami
(Blog RFA's)

 

 An ninh và TTXVN có vi phạm điều 88 không?

Sài Gòn – Chiều và tối thứ bảy, 03.11.2012, đồng loạt các báo đài và ti vi ở Việt Nam đưa tin cô sinh viên 20 tuổi tên Nguyễn Phương Uyên, người Bình Thuận và anh kỹ thuật viên vi tính Đinh Nguyên Kha, người Long An đã “cấu kết với nhau rải truyền đơn có nội dung chống phá Nhà nước Việt Nam tại cầu vượt Quang Trung (quận 12, TP HCM), vi phạm Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về tội tuyên truyền chống Nhà nước” (theo VOV).
Thông tin này được các phương tiện thông tin đại chúng tại Việt Nam cho biết do Sở công an tỉnh Long An phối hợp với Sở công an và Sở thông tin truyền thông Tp.HCM phổ biến trong cuộc họp báo cùng ngày. Theo VOV, trong cuộc họp báo, “Đại tá Nguyễn Sáu – Phó Giám đốc Công an tỉnh Long An cho biết: “Hai đối tượng này, qua điều tra, chúng tôi có đủ cơ sở và chứng cứ để khẳng định chúng vi phạm Điều 88, Bộ Luật Hình sự. Hành vi của đối tượng là làm ra, tán phát tài liệu có nội dung chống lại Nhà nước. Trong vụ án còn một số dấu hiệu của tội khủng bố. Chúng tôi sẽ tiếp tuc điều tra”.
Sau đó, chúng tôi vào website của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) để kiểm chứng thông tin, tại www.vietnamplus.vn và thấy ở đây cung cấp thông tin khá đầy đủ, nhất là có cả hình tờ truyền đơn.
Trên tờ truyền đơn được đăng trên website của TTXVN viết như sau:

Dưới hình tờ truyền đơn này có ghi chú: “Truyền đơn của Uyên và Kha. (Ảnh Hà Huy Hiệp/Vietnam+)”
Bài báo đăng trên TTXVN có đoạn viết: “Theo cơ quan an ninh điều tra, vào lúc 3 giờ 45 phút ngày 10/10, Uyên và Kha đóng giả là đôi tình nhân, từ Long An chở một thùng cạc tông chứa 2.000 tờ truyền đơn phản động và cờ ba sọc từ Long An đến Cầu vượt An Sương, TP Hồ Chí Minh, cài điện thoại hẹn giờ để đến 7 giờ 15 phút truyền đơn đã được rải xuống đường dưới cầu.
Các truyền đơn này mang nội dung xuyên tạc, bịa đặt chính sách Tôn giáo, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta cũng như quan điểm lệch lạc về Trường Sa-Hoàng Sa và biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc; quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam tha hóa, phản động… không lo cho dân và kêu gọi, kích động nhân dân đứng lên biểu tình chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Các tờ truyền đơn được dán với một tờ tiền Việt Nam với mệnh giá 5.000 đ, 10.000 đ và 20.000 đồng” [các chữ "2.000 tờ truyền đơn" do chúng tôi nhấn mạnh - NV].
Đó là thông tin mà ai ở Việt Nam quan tâm đến thông tin dù là của lề đảng hay lề dân gì cũng đều đã biết.
Vấn đề chúng tôi đặt ra ở đây là: Tại sao công an tại Long An và Tp.HCM cùng Sở thông tin truyền thông lại cung cấp hình bản truyền đơn bị kết án là “tài liệu có nội dung chống lại Nhà nước”, và TTXVN lại đăng nguyên hình tờ truyền đơn mà họ giải thích là: “mang nội dung xuyên tạc, bịa đặt chính sách Tôn giáo, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta cũng như quan điểm lệch lạc về Trường Sa-Hoàng Sa và biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc; quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam tha hóa, phản động… không lo cho dân và kêu gọi, kích động nhân dân đứng lên biểu tình chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam”?
Theo chúng tôi được biết, mỗi ngày tối thiểu có hơn 100.000 lượt người truy cập vào website này của TTXVN. Nếu so sánh số 100.000 người đọc được bản truyền đơn này trên Vietnam+ với số 2000 tờ truyền đơn do Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên rải (nếu chính xác là có, vì tới giờ phút này Tòa án chưa xác nhận điều đó, mà chỉ là thông tin một chiều do công an cung cấp. Trong quá khứ, nhất là vụ PMU 18, công an đã cung cấp tông tin sai sự thật), thì việc phát tán thông tin gọi là phản động, đáng kết tội theo điều 88 của Bộ luật hình sự (BLHS) thì TTXVN với sự tiếp tay của an ninh địa phương và cơ quan có chức năng giám định nội dung văn bản đã phát tán tài liệu này nhiều gấp 50 lần Nguyên Kha và Phương Uyên.
Như vậy, công an Long An và Tp.HCM, Thông tin truyền thông Sài Gòn và TTXVN có vi phạm điều 88 cách rất nghiêm trọng (khoản 2) của BLHS hay không?
* Chúng tôi sợ sau khi đặt vấn đề này ra thì bài báo đó của TTXVN bị kéo xuống để xóa bằng chứng, nên chúng tôi đã chụp hình lại, và xin trình cho cả làng được rõ:

 

 Chủ thuyết chính trị Việt Nam trong thời đại ngày nay

(QĐND) - Chủ thuyết chính trị Việt Nam thời đại ngày nay là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển từ hơn 80 năm nay và mãi từ nay về sau.
I. Sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lê-nin dấy lên từ nhiều phía. Kẻ thù của chủ nghĩa Mác từng vu cáo, xuyên tạc, bác bỏ học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động suốt một thế kỷ rưỡi nay, giờ đây như có được cơ hội vàng, chúng càng ra sức xuyên tạc, hòng chôn vùi nó vĩnh viễn.

Cách mạng Tháng Mười- cuộc Cách mạng của quảng đại quần chúng lao động. Nguồn: Internet
Trước tình hình đó, nhiều người hoang mang, dao động về lý tưởng, có người khuyên Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, bởi theo họ, thời thế (thời đại) đã thay đổi. Cá biệt có người cho rằng sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa đã sai từ đầu, rằng giá như lúc đó (cuối những năm 20 thế kỷ XX) đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, hao tổn biết bao xương máu.
Vậy phải chăng lịch sử đang lặp lại: Đầu thế kỷ XXI dân tộc ta phải làm lại cái việc “tìm đường”, “chọn đường” như đầu thế kỷ XX?
Không thể chấp nhận cái thuyết “chọn sai đường” và “giá như…”. Vấn đề ở đây thật ra không phụ thuộc ý tưởng chủ quan một cá nhân ai, mà suy cho cùng là quyết định khách quan của lịch sử.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các phong trào Đông Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành v.v.. các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp đều đã đưa ra và được lịch sử khảo nghiệm-từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản. Đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng theo hệ tư tưởng tư sản tưởng chừng có cái mới, tích cực nhất lúc bấy giờ, nhưng qua khởi nghĩa Yên Bái bùng lên đã tắt ngấm vĩnh viễn chỉ còn để lại dư âm câu nói vô vọng của lãnh tụ Nguyễn Thái Học “sát thân thành nhân”. Rõ ràng “tình hình đen tối như không có đường ra”(1).
Trong lúc đó, cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu nổi lên như một điển hình tiêu biểu, một tấm gương phản chiếu tập trung và cô đọng con đường cứu nước mà dân tộc ta đã trải qua ở đầu thế kỷ. Cụ đi từ chủ trương cứu nước thuần túy đến quân chủ lập hiến, đến yêu cầu ngoại viện, đến ý tưởng dân chủ chung chung, cuối cùng đến cảm hứng về Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga 1917. Phan Bội Châu đi vào lịch sử như một tiêu điểm giao thời, một nhịp cầu nối giữa hai thời đại lịch sử của dân tộc, ở chỗ Cụ là người phát ngôn cho nhu cầu lịch sử dân tộc phải chuyển sang thời đại mới của cuộc đấu tranh giải phóng. Phan Bội Châu còn xa mới hiểu thật rõ bản chất chủ nghĩa xã hội và Cách mạng Tháng Mười. Dù sao, khi nghe tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười, Cụ đã có những cảm nghĩ thật xúc động: “May thay! Đương giữa lúc khói đục, mây mù, thình lình mà có một luồng gió xuân thổi tới; đương giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình mà có một tia thái dương mọc ra, luồng gió xuân ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy”(2).
Nhưng con đường mới mà Cụ Phan Bội Châu chỉ dự cảm được ở cuối đời sau khi trải qua “một trăm thất bại không một thành công” (lời Cụ than thở), khi thân đã tàn, sức đã kiệt, thì chính Nguyễn Ái Quốc cùng thời không chỉ cảm thấy mà đã nhận chân một cách vững chắc, khoa học. Và, chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(3). Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-đường lối đã đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta một lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân ta đã phải tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Chưa hết, 4 năm sau đó quân dân ta phải tiếp tục đổ máu từ chiến tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975 đến 1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định. Song cũng trong thời gian này, Đảng ta đã phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã tự phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là mốc lịch sử rất quan trọng trên con đường xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mới đã giành “những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự thật lịch sử, thì chắc không ai đặt lại vấn đề về con đường xã hội chủ nghĩa, mà dân tộc ta đang đi. Cũng từ đó góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.
II. Thế giới đổi thay, thời đại không thay đổi
Nhận thức sâu sắc những đặc điểm lớn này của thời thế là tiền đề không thể thiếu, làm cơ sở để giữ vững niềm tin ở con đường lịch sử dân tộc ta đã lựa chọn, để tiếp tục con đường Đảng ta, dân tộc ta đang đi. Làm rõ vấn đề này, điều hết sức quan trọng nữa là từ đó rút ra những bài học cần thiết cho sự nghiệp chúng ta, những bài học đầy giá trị hào hùng, cả không ít bài học cay đắng. Đây là một đại tổng kết lịch sử và lý luận, đại tổng kết thực tiễn có ý nghĩa quan trọng quyết định để đưa con đường cách mạng và phát triển của dân tộc ta tiếp tục vững chắc đi lên.
“Thế giới đổi thay”nói ở đây chủ yếu liên quan đến sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ XX đưa đến sự đảo lộn cả trật tự thế giới. Còn “Thời đại không thay đổi” là nói, mặc cho thế giới đã đổi thay, nhưng thời đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) thì không thay đổi.
1. Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự kiện bi thảm nhất ở thế kỷ XX là một tổn thất lớn chưa từng có đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập tự do trên toàn thế giới. Nó làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng trên quy mô toàn cầu giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, bất lợi cho các lực lượng cách mạng. Các thế lực đế quốc phương Tây hí hửng tuyên bố “chủ nghĩa xã hội đã cáo chung, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chết”!!! Họ không giấu giếm ý đồ thiết lập “trật tự thế giới mới” do Mỹ đứng đầu và không còn nước nào đủ khả năng đối trọng.
Song, lịch sử trả lời rằng: Hoàn toàn không có chuyện “cáo chung”. Bước tiến của cách mạng chậm lại, song không thế lực nào có thể quay ngược bánh xe lịch sử.
Khi Liên Xô sụp đổ, Đảng ta đã sớm chỉ ra hai loại nguyên nhân: Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.
Nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu vĩ đại, đã có những khiếm khuyết, nhược điểm nghiêm trọng về mô hình xây dựng và phát triển chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ kinh tế-xã hội, dẫn tới khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhân danh cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Đó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một số nhân vật lãnh đạo cao nhất. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế vốn không lúc nào ngừng âm mưu, hành động chống Cộng, chống chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, họ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng chủ nghĩa đế quốc đã không đánh mà thắng. Dĩ nhiên, chúng không thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu 20 triệu đảng viên Cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không để nội bộ “tự diễn biến” khiến cho bọn xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Đảng; nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.
Xác định mô hình của chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề khó nhất và phức tạp nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã từng dự báo về điều này. Ngay trước Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin đã viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(4).
Đánh giá mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở Liên Xô là vấn đề rất không đơn giản, đòi hỏi quan điểm lịch sử, biện chứng và thật cụ thể. Một số người thông qua phê phán “mô hình” với ý đồ xóa toẹt mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội và phủ nhận bản thân chủ nghĩa xã hội, cả hiện thực, lẫn lý luận.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt. Từ sau Cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kỳ khó khăn phức tạp: Nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đến là nội chiến, rồi chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, bị bao vây về kinh tế và về mọi mặt v.v.. Mặc dù vào đầu những năm 20, V.I.Lê-nin sáng suốt đã đề ra Chính sách kinh tế mới, nhưng sau khi Người qua đời, đường lối đúng đắn này không được quán triệt thực hiện. Hơn nữa, chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20 đầu những năm 30, triệu chứng cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh ấy, phải nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ tình trạng lạc hậu, vừa để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh đang đến gần. Giải quyết vấn đề này và giải quyết cho được trong một thời gian ngắn nhất trở thành mệnh lệnh sống còn đặt ra trước vận mệnh Tổ quốc Xô-viết và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong những điều kiện nghiệt ngã như vậy, Nhà nước Xô-viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế cho phép huy động tối đa các lực lượng xây dựng, sáng tạo. Như được biết, Liên Xô đã hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, quá nửa thời gian trong đó là nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Chỉ có phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được kỳ tích như vậy. Không thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn, vai trò không thể thay thế của mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên này.
Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự trì trệ là chậm phát hiện và chậm sửa chữa những khuyết tật của mô hình, duy trì quá lâu mô hình đó nhất là khi nền kinh tế đã cạn khả năng phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi phải chuyển sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu, khi mà cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật mới đã đạt được những thành tựu vượt bậc, khi chủ nghĩa tư bản triệt để khai thác những thành tựu ấy để tiếp tục tồn tại và phát triển.
Khuyết tật lớn của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô là tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tuyệt đối hóa nguyên tắc tập thể, coi nhẹ vai trò chủ động và sáng kiến cá nhân, chối từ một cách chủ quan duy ý chí nền sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động. Hậu quả của việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp là nền kinh tế Liên Xô từng đạt không ít đỉnh cao thế giới, đã lâm vào tình trạng trì trệ, tốc độ phát triển chậm dần, sức sản xuất ngày càng tụt hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng thua kém các nước tư bản, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi gặp khó khăn về kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất này phải dành một tỷ lệ ngân sách quá lớn cho quốc phòng trước sự thách thức chạy đua vũ trang của Mỹ.
Sai lầm, khuyết tật gắn với mô hình cũ biểu hiện không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà còn thể hiện ở hệ thống chính trị, ở phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, ở quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Một trong những khuyết điểm lớn của mô hình cũ là không phát huy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan liêu hoàn toàn trái ngược với bản chất chủ nghĩa xã hội, nhưng với cơ chế cũ thì không có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính trị và mối quan hệ gắn bó với nhân dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển thì giữa những năm 70 tình hình diễn ra theo hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động. Mà đây lại là yếu tố, như V.I. Lê-nin nói, xét đến cùng, quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy lãnh đạo dẫn tới chậm phát hiện sai lầm. Người ta cũng đã thi hành một vài cải cách, nhưng những cải cách đó không cơ bản, không giải quyết trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mới về chính trị, kinh tế, trượt từ tả sang hữu.
Những sai lầm chủ quan nói trên là nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là những sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lê-nin sinh ra, trái lại do quan niệm giáo điều, chủ quan duy ý chí đi ngược lại tinh thần duy vật biện chứng, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chúng tôi cho rằng, trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm, khuyết tật của mô hình cũ thì cải tổ nhằm thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa là tất yếu. Cải tổ là tất yếu, nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ, cải tổ thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. Lịch sử không có chữ “nếu”, nhưng lịch sử cung cấp những bài học hào hùng hoặc cay đắng không thể bỏ qua. Nếu cải tổ được thực hiện theo một đường lối đúng đắn, thật sự Mác - Lê-nin-nít về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không phạm những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng như đã diễn ra thì làm sao Liên bang Xô-viết có thể sụp đổ? Mọi ý kiến khẳng định về cái gọi là “sự cáo chung” của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sự kết thúc” thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, chỉ là võ đoán hoàn toàn vô căn cứ.
2 - Thảm họa sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy rằng, sự ra đời của một chế độ mới không bao giờ là một quá trình suôn sẻ, êm thấm, trơn tru. Nó ra đời trong sự liên tục tìm tòi và thể nghiệm bản thân, trong cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt và dai dẳng giữa cái mới và cái cũ, trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những thế lực thù địch bên ngoài, bên trong, những kẻ luôn tìm cách xóa bỏ nó. Trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và đấu tranh ấy, có khi do sai lầm chủ quan, có khi do tương quan lực lượng, có khi do bối cảnh chung không thuận lợi, có khi do tác động kết hợp cả mấy nhân tố ấy mà chế độ mới tạm thời phải lùi bước hoặc thất bại. Cách mạng tư sản, điển hình là cách mạng Pháp cũng đã diễn ra như vậy. Kể từ năm 1789, trải qua bao biến cố thăng trầm, phục hồi và chống phục hồi chế độ quân chủ, khi nghiêng tả, khi ngả sang hữu (theo chuẩn tư sản lúc đó) cuối cùng phải đến tháng 2-1848, nghĩa là mất gần 60 năm, nền chuyên chính tư sản mới được xác lập tuyệt đối và hoàn toàn. Lịch sử ra đời chế độ tư bản đã vậy, thì đối với chế độ xã hội chủ nghĩa lại càng như vậy, bởi chủ nghĩa xã hội là một chế độ mới và khác về chất so với mọi chế độ bóc lột.
V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử, với tư cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”(5). Đối với phong trào cách mạng thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng ta đã quen như thấy một mạch đi lên, cao trào nối tiếp cao trào, ba dòng thác cách mạng không ngừng tiến công. Một thời gian dài chúng ta chỉ thấy tình hình thuận buồm xuôi gió, do đó khi cách mạng gặp trắc trở, lại là trắc trở to lớn như sự đổ vỡ cả một mảng lớn chủ nghĩa xã hội, thì ở nhiều người, cú sốc thật kinh hoàng ghê gớm! Đây là bài học hết sức lớn về nhận thức chính trị.
Trong giai đoạn rất phức tạp hiện nay của tiến trình lịch sử thế giới, người cộng sản kiên định vẫn khẳng định thế giới đổi thay nhưng thời đại không thay đổi, nội dung cơ bản, tính chất của nó vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Học giả Mỹ gốc Nhật Phu-cu-y-a-ma (Fukuyama) cho rằng, Liên Xô sụp đổ có nghĩa “lịch sử đã kết thúc” với sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó đã sớm bị chính giới khoa học phương Tây bác bỏ, bởi nó thể hiện sự hấp tấp vội vàng, quá ư vô căn cứ. Lịch sử xã hội loài người không ngừng vận động tiến lên thông qua những mâu thuẫn, mà xét cho cùng là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chừng nào còn chủ nghĩa tư bản, còn những mâu thuẫn nan giải của chủ nghĩa tư bản như hiện nay và, cùng với quá trình chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn toàn cầu hóa, những mâu thuẫn ấy ngày càng trở nên sâu sắc và mở rộng hơn, thì lịch sử vẫn không ngừng vận động và, theo quy luật lịch sử-tự nhiên, chỉ có thể vận động theo hướng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ tiêu vong và được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội.
Lại có ý kiến cho rằng, với thực trạng thế giới hiện nay, sau khi Liên Xô tan rã, không cần nhắc lại định nghĩa thời đại nữa, vì chủ nghĩa xã hội trên thế giới còn rất xa vời, khẳng định thời đại lúc này không ích gì, trái lại dễ gây ảo tưởng chủ quan, phiêu lưu trong hành động thực tế. Quan điểm này không có sức thuyết phục. Nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta cũng mất luôn cơ sở lịch sử xã hội thế giới khách quan và những người cách mạng mất đi một cơ sở vững chắc cho niềm tin lý tưởng ở quy luật lịch sử và tiền đồ cách mạng. Quan điểm thời đại nếu không rõ ràng, chính xác thì không thể có phương hướng cách mạng rõ ràng, chính xác. Sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển đi lên của các dân tộc sẽ không thể giành thắng lợi nếu thiếu tầm nhìn xa trông rộng và nếu không được đặt đúng quỹ đạo thời đại. Trên phương diện này, dân tộc Việt Nam ta đã có bài học lịch sử mang tính kinh điển. Thất bại nối tiếp thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc chống Pháp, những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nguyên nhân sâu xa ở chỗ, các sĩ phu trí thức cầm đầu các phong trào hồi bấy giờ, mặc dù nhiệt huyết yêu nước và chí khí đấu tranh có thừa, nhưng nhận thức về thế giới còn hạn hẹp, người thì vẫn tưởng như thời đại phong kiến đang còn, người thì coi thời đại tư sản vẫn đang lên, người thì chỉ biết chỗ dựa là nông dân một vùng nghèo rừng núi, không thấy thiên hạ đại cục v.v..
Trong khi đó, Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp thế giới để quan sát và tìm đường cứu nước, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ nghĩa đế quốc và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức đúng thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, từ đó Người chủ trương đưa Cách mạng Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời đại. Chúng tôi nghĩ rằng, cùng với luận điểm “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6), là luận điểm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh; nếu ai quên điều đó, thì căn bản không thể hiểu được nguyên lý cơ bản nhất của Cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý ấy là nền tảng của Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của Cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua.
Trái với quan điểm rằng, ngày nay không cần và không nên nhắc lại định nghĩa về thời đại, chúng tôi cho rằng trong tình hình thế giới cực kỳ rối ren, phức tạp, và đầy những biến động bất trắc hiện nay càng cần khẳng định lại một cách mạnh mẽ nội dung và tính chất căn bản của thời đại, nếu không cách mạng sẽ mất phương hướng, sẽ phải mò mẫm, vấp váp và không tránh khỏi thất bại. Tất nhiên, việc nhận thức nội dung, tính chất của thời đại cần kết hợp tính kiên định và nguyên tắc chiến lược với sự tinh tế, mềm dẻo, khôn ngoan trong sách lược thực tiễn.
Quả là đang có ý kiến cho rằng, phải có quan niệm mới về thời đại thay cho quan niệm cũ đã lạc hậu, đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Thời đại hiện nay, theo những đại biểu của ý kiến này, là thời đại hậu công nghiệp, cũng gọi là thời đại văn minh hậu công nghiệp, thời đại khoa học công nghệ hay thời đại kinh tế tri thức, văn minh tin học, văn minh trí tuệ v.v.. Tất nhiên, không có gì sai ở bản thân các khái niệm đó. Những khái niệm này rất có ý nghĩa và đầy đủ nội dung bổ ích khi dùng đúng chỗ, nhất là trong các công trình nghiên cứu kinh tế cụ thể, xã hội học cụ thể. Những người mác-xít tuyệt đối không xem nhẹ cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, ý thức rõ ràng rằng, thiếu những cái đó không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Có điều cần phân biệt rõ: Khái niệm thời đại văn minh trong các trường hợp nêu trên thực chất và chủ yếu là nói về văn minh kỹ thuật, chúng chưa đưa lại bức tranh xã hội toàn vẹn về sự vận động lịch sử xã hội loài người như một tổng thể, chưa thể xác định tính chất các chế độ xã hội. Cách tiếp cận theo nền văn minh không cho phép đi vào bản chất, nguồn gốc sâu xa, các động lực thực sự của sự chuyển biến hợp quy luật từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác, từ thời đại lịch sử này lên thời đại lịch sử khác cao hơn. Nói “tiến cùng thời đại” mà không xuất phát từ nội dung, bản chất định nghĩa thời đại cũng là một cách nói mơ hồ, không rõ tiến cùng thời đại nào!
Chỉ có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy vật lịch sử mới có thể giúp nhận thức thâm nhập sâu vào bên trong quá trình lịch sử, từ đó phát hiện ra lô-gích của lịch sử và trên cơ sở đó mới giúp nhận thức tái hiện được một cách thật sự khoa học bản chất các thời đại lịch sử xã hội thế giới. Chủ nghĩa Mác xuất phát từ chỗ, trong hoạt động sản xuất xã hội, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn có những quan hệ nhất định, tất yếu với những con người khác, tức quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hợp thành phương thức sản xuất, tạo nên cơ sở kinh tế trên đó mọc lên kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hóa v.v... Và chính biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực cơ bản của sự vận động lịch sử, là nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội, đưa đến sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này lên hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn. Lý luận mác-xít về năm hình thái kinh tế-xã hội chính là kết quả khái quát quá trình vận động tiến lên của lịch sử thế giới, là lô-gíc của lịch sử xét trên quy mô toàn cầu thế giới (tất nhiên có những trường hợp ngoại lệ). Lịch sử thế giới không gì khác là lịch sử ra đời, phát triển, rồi suy vong của các hình thái kinh tế-xã hội, là lịch sử thay thế lẫn nhau hợp quy luật giữa các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao. Đó chính là cơ sở khách quan, khoa học, cơ sở thực tiễn và lý luận để nói về thời đại, để xác định các thời đại lịch sử. Bàn về thời đại lịch sử xã hội, do đó, không thể không xuất phát từ cách tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội. Phương pháp tiếp cận này không đối lập, không loại trừ phương pháp tiếp cận theo nền văn minh, trái lại chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chẳng phải Ph.Ăng-ghen đã từng đề cập tới thời đại mông muội, thời đại dã man, thời đại văn minh trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước đó sao! Tuy hai phương pháp tiếp cận hình thái và tiếp cận theo nền văn minh có thể bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng khi bàn về thời đại lịch sử xã hội thế giới thì căn bản phải dựa vào phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội, dựa vào phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp khoa học duy nhất, không gì có thể thay thế.
Định nghĩa thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học đó.
III- Tiếp tục đi con đường thời đại, kiên định, đổi mới, sáng tạo
Ý kiến bác bỏ sự khẳng định rằng, thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, là một bước lùi về lập trường chính trị cơ bản, một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Bởi vì, nếu thời đại hiện nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nữa, thì đất nước Việt Nam chúng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nay sẽ đi theo con đường nào? Và nếu vậy, thì phải chăng Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã lỗi thời, không còn căn cứ thời đại!
1- "Chuyển đổi" sang con đường tư bản chủ nghĩa chăng? Đã có "kiến nghị" như thế. Tuy nhiên, nhân dân không thể đồng tình. Đúng là sau thảm họa sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, chủ nghĩa tư bản căn bản chiếm lĩnh phần lớn trận địa thế giới. Nhưng vận mệnh và tiền đồ chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào?
Chủ nghĩa tư bản đã có lịch sử 500 năm. Nó đã có đóng góp to lớn cho lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất không những đồ sộ mà ngày càng hiện đại, tinh xảo, tinh vi, những máy móc "thông minh", những vật liệu, năng lượng kỳ diệu v.v... Với nền đại công nghiệp, nó đã tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng biệt lập trước đó của các địa phương và các dân tộc vốn trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Do xâm chiếm thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, chủ nghĩa tư bản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính thế giới. Chính chủ nghĩa tư bản đã có công làm cho lịch sử biến thành lịch sử thế giới. Nhưng đó là thế giới gì?
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đó toàn thị là thế giới tư bản bao gồm các "chính quốc" và cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Từ sau Tháng Mười năm 1917 đến 1991, thế giới phân chia thành hai hệ thống đối lập. Sau khi mô hình của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu giải thể, chủ nghĩa tư bản chiếm lĩnh đa phần thế giới, bản đồ chính trị thế giới thay đổi căn bản. Lịch sử phải chăng "kết thúc" ở chủ nghĩa tư bản, tột đỉnh của văn minh loài người? Thực tiễn thế giới "hậu Xô-viết" đã sớm bác bỏ kết luận sai lầm ấy. Một điều cần ghi nhận: Ngày nay ít ai còn mang ảo tưởng chủ nghĩa tư bản sắp chết đến nơi. Nhưng, rõ ràng là số người tin tuyệt đối vào sức sống vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản cũng ngày càng ít dần. Xem ra đa số đánh giá: Chủ nghĩa tư bản còn lâu mới tiêu vong nhưng cuối cùng nhất định không tránh khỏi tiêu vong.
Thật ra sức sống còn lại của chủ nghĩa tư bản mà đôi khi có người choáng ngợp, một phần do nó vốn chưa thật cạn kiệt, còn một phần rất quan trọng là do những yếu kém, sai lầm dẫn đến sụp đổ cay đắng một mảng lớn chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một sự thật nữa cũng đáng lưu ý là tâm trạng hoan hỉ của phương Tây trước sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là nhất thời. Sau đó, khi không còn địch thủ đáng gờm phải đối mặt, thì những đầu óc ít nhiều tỉnh táo, sáng suốt của các học giả và chính khách phương Tây bình tĩnh quay về nhìn lại bản thân chủ nghĩa tư bản, đã kịp thời cảnh báo: Coi chừng nguy cơ đe dọa vận mệnh của chủ nghĩa tư bản vốn không phải từ phía chủ nghĩa xã hội, từ Liên Xô, mà chính từ ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản cũng đang "tự phản tỉnh", "tự phê phán", đang thấy khó mà tự duy trì nếu không có phép gì màu nhiệm hơn những phép đã dùng gần như cạn kiệt để tự điều chỉnh, thích nghi. Những khái niệm "xã hội hậu tư bản", hay "chủ nghĩa tư bản mới", "chủ nghĩa tư bản nhân dân" v.v... mà một số học giả phương Tây ưa dùng nói lên hai mặt. Nó vừa là một sự ngụy biện rằng chủ nghĩa tư bản đã không còn là chủ nghĩa tư bản nữa vì nó không còn bóc lột; vừa là-về khách quan-mặc nhiên thừa nhận chế độ tư bản đích thực, truyền thống, nguyên xi như bản thân nó đã hết lý do tồn tại, đã hết khả năng tự biện minh. Có nghĩa là, bản thân các nhà tư tưởng tư sản cũng đã mất niềm tin ở chính chủ nghĩa tư bản, đã mặc nhiên và gián tiếp phải nói đến một chế độ mới đang gõ cửa chủ nghĩa tư bản. Qua các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế vừa diễn ra, một số chính khách lớn phương Tây cũng dao động, giảm sút niềm tin ở chính chủ nghĩa tư bản. Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di phải nói đến cải tổ chủ nghĩa tư bản và "đạo đức hóa" chủ nghĩa tư bản! Ông ta có bức ảnh chụp đang đọc "Tư bản luận" của C.Mác. Bộ trưởng Tài chính Đức đang tìm hiểu chủ nghĩa Mác mong tìm lối ra cho khủng hoảng. Một đạo diễn người Đức có ý định làm phim về C.Mác. Một số học giả Mỹ và châu Âu nói "chủ nghĩa tư bản đang ở thế thoái trào". Dẫn ra những hiện tượng trên, nhật báo Kinh tế Thụy Điển khẳng định: "Chính do khủng hoảng hiện nay mà sự hồi sinh chủ nghĩa Mác trở thành tất yếu". Tất nhiên, chúng ta không ảo tưởng rằng họ đã đi đến từ bỏ chủ nghĩa tư bản.
2- Vậy là thế giới đổi thay, nhưng thời đại không thay đổi. Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta, nhất quyết tiếp tục đi con đường thời đại-con đường xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng kiên định nhưng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp những thay đổi của thực tiễn thế giới đang không ngừng thay đổi.
Nắm vững thời đại không thể dừng lại ở bản chất thời đại nói chung, mà trong mỗi thời điểm lịch sử cần nhận rõ cách mạng đang đứng ở đâu, ở thời kỳ nào, với những đặc điểm gì. Mặt khác, không thể chỉ thấy hiện tại mà không thấy triển vọng, không thể chỉ thấy trước mắt mà không thấy xu thế cơ bản lâu dài, không thể chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã sáng suốt chỉ ra một tầm nhìn, một tư tưởng chiến lược cơ bản rất đúng đắn, sâu sắc: "Chủ nghĩa xã hội hiện nay đang đứng trước những khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử".
Mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện đã khác trước nhiều. Đó không còn là mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới đối lập, nhưng cũng không phải sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ một mảng lớn, thì mâu thuẫn đó biến mất. Ngoài một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, khá có trọng lượng, phải kể đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, độc lập và chủ quyền dân tộc, vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Những phong trào này vẫn là lực lượng xã hội chủ nghĩa hoặc đồng minh tự nhiên của chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, cần tính đến những yếu tố mầm mống đang tồn tại trong lòng chủ nghĩa tư bản mà xu hướng khách quan của chúng là ngày càng lớn lên theo chiều phủ định những quan hệ tư bản chủ nghĩa. Học thuyết duy vật lịch sử chứng minh rằng, sự phát triển của loài người, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác, suy đến cùng, luôn được thực hiện trên cơ sở phát triển nền sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất của xã hội. Ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang sinh ra những xu hướng phát triển về khách quan mang tính đối kháng với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời tự phát tạo ra những cơ sở và tiền đề dẫn tới chế độ mới-chế độ xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, chế độ xã hội mới không thể ra đời mà không thông qua những biến đổi cách mạng về chế độ chính trị dưới hình thức này hay hình thức khác, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, đấu tranh vũ trang hay bạo lực hòa bình, đấu tranh nghị trường kết hợp nổi dậy của quần chúng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở giai đoạn xã hội hóa ngày càng cao hiện nay đang thúc đẩy những quá trình tập trung, sáp nhập, liên kết ngày càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên quy mô thế giới, không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả sở hữu tư bản thành những hình thức "chủ nghĩa tư bản tập đoàn" của các nhà tư bản kếch xù, thậm chí siêu quốc gia.
Rõ ràng, cái vỏ tư nhân tư bản chủ nghĩa đã quá chật chội so với nội dung sức sản xuất đồ sộ mà nó chứa đựng; thậm chí quá chật chội cả với hình thức sở hữu tư bản độc quyền tư nhân. Chính chủ nghĩa tư bản-một cách khách quan-đang tự phủ định mình và đang "làm việc" chuẩn bị cho tương lai chủ nghĩa xã hội.
Từ tính chất xã hội hóa cao của sản xuất và lực lượng sản xuất, cũng xuất hiện trong các nước tư bản phát triển ngày càng nhiều nhân tố mầm mống của những quan hệ xã hội tương lai. Chẳng hạn các công ty cổ phần trong đó có sự tham gia của người lao động vào sở hữu và quản lý. Hình thức công ty cổ phần có loại thuộc những "nhà tư bản tập thể" (Ph.Ăng-ghen) hoặc "trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội… đối lập với tư bản tư nhân"(7); có loại "nửa nọ nửa kia", một nửa thuộc các chủ tư bản vừa và nhỏ, một nửa cổ đông là những người lao động. Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể. Lại có những doanh nghiệp tự quản thuộc sở hữu của những người lao động. Ví dụ, ở Mỹ có tài liệu cho biết hơn 11 triệu người lao động đang là đồng sở hữu những doanh nghiệp này; ở Thái Lan và nhiều nước tư bản Bắc Âu, hợp tác xã của những người lao động rất phổ biến trong nông nghiệp, trong thương nghiệp, trong vận tải v.v... Vậy là, tình hình diễn ra đúng như V.I.Lê-nin từng hình dung: Ngày nay thì chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta từ tất cả các khung cửa chủ nghĩa tư bản hiện đại; chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở chủ nghĩa tư bản hiện đại ấy.
Một câu hỏi thường được nêu ra hiện nay là, phải đánh giá thế nào về chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa? Có người cho rằng chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay có sức sống hơn bao giờ hết. Nhận định ấy nhiều lắm chỉ đúng một nửa, còn một nửa không đúng, lại là cái nửa thuộc bản chất của sự vật và quá trình. Toàn cầu hóa khi vai trò chủ đạo thuộc chủ nghĩa tư bản thì về bản chất là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết, vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước lớn tư bản chủ nghĩa, với một bên là chủ quyền và lợi ích của các quốc gia dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa phương Bắc với phương Nam, phân cực giàu nghèo ngày càng tăng ngay trong lòng các nước tư bản phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tình trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác với đấu tranh. Đã hội nhập thì có hai mặt, vừa cạnh tranh quyết liệt mà vẫn phải hợp tác, bản thân hợp tác cũng lại là đấu tranh, là kết quả của đấu tranh. Một mâu thuẫn nữa đặc trưng cho các nước như Việt Nam là ngoài độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, còn có con đường xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản khống chế, với sức ép đi con đường tư bản chủ nghĩa bằng tự do hóa, tư nhân hóa kinh tế, dân chủ, nhân quyền, truyền bá tư tưởng phản động, từ đó chuyển hóa dần tổ chức, cán bộ và chế độ chính trị. Cùng với những mâu thuẫn xã hội nói trên, ngày càng nổi lên một mâu thuẫn lớn giữa xã hội với giới tự nhiên biểu hiện ở hiểm họa ngày càng tăng đối với đời sống con người do ô nhiễm và tàn phá môi trường sống, hậu quả của cuộc chạy đua vì lợi nhuận mà thủ phạm chính là các lực lượng thị trường tư bản chủ nghĩa hoặc chạy theo chủ nghĩa tư bản.
Toàn cầu hóa kinh tế, xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố quan trọng của tiến bộ lịch sử, bởi lịch sử xã hội loài người, suy cho cùng, là từ trình độ kỹ thuật này tiến lên trình độ kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản xuất cao, đưa đến những nấc thang cao hơn của tiến bộ xã hội và khiến "lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới" (C.Mác), mà đỉnh cao sẽ là xã hội cộng sản văn minh. Thế nhưng, toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình đầy mâu thuẫn như đã đề cập.
Tóm lại, về phương diện lý thuyết, chủ nghĩa tư bản giai đoạn toàn cầu hóa tưởng như có thêm sức sống, nhưng không thể kéo dài mãi vận mệnh của nó như suy luận của một số người; trái lại, chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa ngày càng tích lũy thêm mâu thuẫn mới trên phạm vi toàn cầu cho tới khi mâu thuẫn tích tụ tới đỉnh điểm. Biện chứng "vật cực tắc phản" (Lão Tử) tất sẽ đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong, đến chỗ được thay thế bằng chế độ xã hội mới tiến bộ, văn minh hơn. Có thể đến ngày nào đó, giả thuyết của C.Mác về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong hàng loạt nước sẽ có cơ hội dễ hình dung hơn. Đồng thời, với hệ thống thế giới toàn cầu hóa phát triển rất không đều và đầy rẫy những bất bình đẳng, bất công và bất trắc, lý thuyết của V.I.Lê-nin về khả năng bùng nổ cách mạng trước hết ở những "khâu yếu trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc" càng có cơ sở. Xu thế tả hóa và hướng đến "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" đang nổi lên ở các nước Mỹ La-tinh là một điển hình nổi bật thức tỉnh nhiều người, và chắc chắn sẽ còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong tạp chí Die Woche của Đức, số ra ngày 28-1-2000, tác giả Jan Puhl đã viết: "Trong vòng 20 năm qua, sự bần hàn và sự thừa thãi luôn đồng hành. Sự chênh lệch ngày càng tăng có thể trở thành ngòi nổ đối với nền dân chủ (=chế độ tư bản) trên phạm vi toàn cầu". Theo ông, "quá trình toàn cầu hóa đã hợp nhất những người vô sản trên toàn thế giới vào cuộc đấu tranh mang tính toàn cầu".
Chủ tịch Câu lạc bộ Rô-ma, ông Ricardo Diez Hochleitner (người Tây Ban Nha) đã viết: "Nghèo đói không chỉ là một vấn đề nghiêm trọng đối với những người bị đụng chạm trực tiếp. Khi tình trạng bần cùng hóa vẫn tiếp diễn như hiện nay, thì có nguy cơ sẽ nổ ra một cuộc cách mạng có thể đụng chạm đến các nước giàu. Khi khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng, thì một ngày nào đó có thể sẽ xuất hiện một ông Mác và một ông Lê-nin mới với khẩu hiệu "Những người nghèo trên toàn thế giới hãy liên kết lại". (Thông tin tư liệu số 7-2000 của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
IV- Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đã lựa chọn
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930 đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách mạng nhất quán của Việt Nam, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Chủ thuyết này đã đưa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đi từ thắng lợi lịch sử này đến thắng lợi lịch sử khác, hoàn thành giải phóng dân tộc, đưa cả nước quá độ từng bước lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, không bảo thủ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí.
Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khách quan lịch sử mà nói, một chủ thuyết chính trị khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dù có tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc thực chất không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc thực dân bên ngoài.
Trong khi khẳng định chỗ mạnh cơ bản của chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, bên cạnh nhiều thuận lợi lớn, chúng ta vẫn không quên rằng trên con đường đi tới đích còn vô vàn khó khăn và thách thức phải đối mặt, thậm chí có những nguy cơ tiềm ẩn không thể xem thường. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội khóa VII (tháng 1-1994) nêu lên còn đó, bây giờ nhắc lại cũng không thừa. Có nguy cơ được giảm thiểu chừng nào, có nguy cơ vẫn giữ nguyên, có nguy cơ tăng thêm, và xem ra 4 nguy cơ còn kết chặt với nhau hơn. Với Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về chỉnh đốn Đảng, cực kỳ quan trọng trong thực hiện di chúc Bác Hồ nhưng qua nhiều lần tổng kết cho thấy việc thực hiện chưa đạt yêu cầu. Nay Nghị quyết Trung ương 4 (Đại hội XI) đang tích cực triển khai để kiên quyết thực hiện kỳ được.
Đi đôi với chống các nguy cơ, hoạt động cơ bản của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay và lâu dài phải hướng chủ yếu vào xây dựng, sáng tạo. Về độc lập dân tộc còn vấn đề không? Còn và còn từ hai mặt chiến lược gắn kết với nhau là vừa bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, vừa xây dựng, phát triển đất nước. Phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và phải nhớ lời dạy của Bác Hồ: Độc lập rồi mà dân không được tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì. Nghĩa là, theo Bác, phải xây dựng cho được chủ nghĩa xã hội mới có độc lập dân tộc thực sự và vững bền.
Độc lập dân tộc ngày nay phải dựa trên căn bản kinh tế. Kinh tế không mạnh thì quốc phòng tất nhiên cũng yếu. Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Tình trạng này nếu không được vượt qua thì rồi độc lập dân tộc cũng lâm vào nguy cơ. Ngay bây giờ, dù đã qua bao công sức xây dựng và đổi mới nhưng kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, "làm thuê" cho nước ngoài. Ta chưa có nền công nghiệp chế tạo, chế biến công nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất với công nghệ cao, trong khi thế giới đang đi vào kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế toàn cầu. Trong điều kiện đó, nếu không bứt phá lên thật nhanh thì kinh tế nước ta còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, không thể nào có độc lập tự chủ chẳng những về kinh tế mà cả về các mặt khác, ngay cả mặt chính trị. Có người nói trong toàn cầu hóa đa mô hình thì định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là một. Không có nước nào duy nhất chỉ có chủ nghĩa xã hội cũng như không có nước nào duy nhất chỉ có chủ nghĩa tư bản. Bởi vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đích thực đã tìm rất nhiều mô hình để có thể tổng tích hợp vào nhau. Ý kiến này thật quá mơ hồ.
Toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chủ đạo là một quá trình đầy rẫy những mâu thuẫn như đã nói ở các phần trên, nhưng không nước nào có thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Nước ta đã và đang chủ động tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với ý thức đầy đủ tranh thủ mặt lợi, tránh những tác động tiêu cực, có hại. Tuyệt đối hóa một cách phiến diện mặt nào cũng không đúng. Về mặt tích cực, nước ta thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cho được lợi thế của nước đi sau, kế thừa cho được những thành quả văn minh loài người được tạo ra dưới chế độ tư bản. V.I.Lê-nin sẵn sàng đổi một tá người cộng sản không biết làm việc lấy một chuyên gia tư sản giỏi và Người chỉ cho nước Nga: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + ? (tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa xã hội"8. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, tư tưởng đó của V.I.Lê-nin có điều kiện thực thi rộng rãi chưa từng có nhất là đối với các nước lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.
So với các nước phát triển, ở các nước kém phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa bắt đầu có thể tương đối dễ, nhưng để đưa đến đích cuối cùng, trọn vẹn chủ nghĩa xã hội, thì khó khăn hơn rất nhiều. Nước ta, trải qua những cách làm sai trước thời kỳ đổi mới (1986), đã đem lại những bài học thấm thía cho thấy không được ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan.
Trọng tâm trong chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam hiện nay là quá độ từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước lạc hậu về kinh tế, V.I.Lê-nin nhấn mạnh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất lâu dài, rằng trong cả thời kỳ quá độ phải có hàng loạt bước quá độ. Rõ ràng, với nền kinh tế nhiều thành phần, nước ta phải trải qua rất nhiều bước đẩy mạnh lực lượng sản xuất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải trải qua nhiều bước cụ thể, thích hợp, vững chắc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới, từ đó mới có được phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đích thực. Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phải đẩy rất mạnh, thậm chí đi trước một bước trong phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài để thúc đẩy phát triển kinh tế.
                                                           *
                                                        *    *
Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định thực hiện thành công chủ thuyết chính trị cách mạng và phát triển vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh "dĩ bất biến ứng vạn biến", kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thông minh tính kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay-đó là bí quyết thành công trong sự nghiệp vĩ đại thực hiện chủ thuyết chính trị của Đảng ta và dân tộc ta.
GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị- Nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
-------------------
(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (t.10, tr3).
(2). Trích cuốn “Xã hội chủ nghĩa”-Phan Bội Châu toàn tập, Nxb Thuận Hóa, 1990, t4, tr.132.
(3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9 tr3 và t.10 tr.128.
(4). V.I.Lê-nin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t.34, tr.152-153.
(5). V.I.Lê-nin. Toàn tập, SĐD, t.36, tr.235
(6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, SĐD, t.9, tr.314
(7). C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, phần I, t25, tr.667
(8). V.I.Lê-nin, toàn tập, SĐD, t.36, tr.684

Khổ như người già ở Việt Nam

Có một thực trạng xảy ra với nhóm người này là sống rất cô đơn, buồn bã mặc dù ở ngay giữa “con đàn cháu đống”.

Theo đánh giá của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ chưa từng có trong lịch sử: Nếu năm 1999 có 3.000 cụ hơn 100 tuổi thì đến năm 2009 có hơn 7.200 cụ, tăng nhanh nhất so với bất kỳ nhóm dân số nào khác. Đại diện Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc cho biết: “Để chuyển từ giai đoạn dân số vàng (tức là cứ 2 người trong độ tuổi lao động mới có 1 người trong độ tuổi phụ thuộc) sang dân số già, Pháp cần 115 năm, Thụy Điển mất 70 năm nhưng Việt Nam chỉ mất 15 năm, khoảng thời gian quá ngắn để chuyển đổi cơ cấu dân số. Như vậy, trước tình trạng già hóa dân số, thách thức lớn nhất đặt ra cho cơ quan hữu trách là chính sách, chế độ chăm sóc cho người già như thế nào?
Cô đơn giữa “con đàn cháu đống”
Hiện nay, tại Việt Nam cứ 10 người thì có 1 người 60 tuổi - được tính là người cao tuổi. Có một thực trạng xảy ra với nhóm người này là sống rất cô đơn, buồn bã mặc dù ở ngay giữa “con đàn cháu đống”. Nhiều người già phàn nàn rằng, đáng lẽ ra càng về già càng phải cảm thấy vui vẻ, thoải mái với đại gia đình gồm 2-3 thế hệ của mình thì đằng này ngược lại, đông người bao nhiêu, họ lại càng thấy lẻ loi bấy nhiều.
Điều này tưởng như mâu thuẫn nhưng có lẽ không sai khi những người như bà Nguyễn Thị Tâm, ở Nguyễn Phong Sắc, quận Cầu Giấy tâm sự: Sinh được 3 người con, trong đó có 2 trai, 1 gái. Khi các con lớn khôn, chỉ nghĩ đến việc được sống quây quần với con, cháu giữa tiếng trẻ thơ ríu rít của cháu nội và ngoại là vợ chồng bà Tâm vui lắm rồi. Nhất là khi ấy, ông bà đã nhàn tản, nghỉ hưu không còn phải lo lắng, bận bịu với công sở hay đầu tắt mặt tối với cuộc sống mưu sinh. Do mảnh đất hương hỏa tổ tiên để lại rộng rãi đủ để chia cho các con mỗi người một căn nhà xung quanh căn hộ của mình nên ông bà càng vui hơn khi mường tượng ra cảnh đó. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng chiều lòng người, ngay cả khi sự sắp đặt đã diễn ra như ý. Vì có quá nhiều điều chi phối do nhịp sống, guồng quay công việc lúc nào cũng gấp gáp, bộn bề khiến con người dường như không thể thoát ra được...
Lúc các cháu nội ngoại mới sinh, vì mải mê chăm bẵm, nuôi dưỡng các cháu cùng với bố mẹ chúng nên vợ chồng bà Tâm chẳng có thời gian đâu để buồn. Mà đối với người già đó lại là niềm vui chứ không phải nỗi buồn! Nhưng cứ mỗi lần đứa cháu nội hay ngoại nào đi học là y như rằng vợ chồng bà Tâm cảm nhận rõ nỗi buồn tăng dần lên theo số cháu đi học đó. Vì các cháu đi học, nhà ông bà vắng hoe, không còn âm thanh rộn rã của con trẻ. Dâu, rể, trai, gái - con của ông bà thì đi làm cả, tối mịt mới về. Mà khi về thì ai nấy đều chẳng nói chẳng rằng, chỉ muốn yên thân một chỗ vì kết thúc một ngày làm việc mệt mỏi. Chưa kể đến gia đình nào có con đi học phổ thông thì đúng là những thành viên trong nhà đó, vợ chồng bà Tâm khó mà gặp nổi vì 24 tiếng/ngày có khi còn không đủ đối với họ. Mới đầu, vợ chồng bà Tâm cũng “sốc” trước cảnh hiu hắt đó nhưng lâu dần cũng quen, hay nói đúng hơn là không còn cách nào khác.
Nhưng càng quen thì bà Tâm càng nhận ra một điều, gia đình lớn của bà hình như ngày càng cách xa nhau - không chia sẻ, thiếu sự quan tâm đến nhau, kể cả khi ông bà ốm đau. Cùng lắm, các con bà chỉ hỏi được mỗi câu: “Bố (hoặc mẹ) ốm à?”. Quan tâm nữa thì đưa cho mẹ ít tiền là xong, không hỏi han, chia sẻ… Vì điều này, bà Tâm buồn và nỗi buồn tưởng như không thể gọi tên, định hình ấy cứ mỗi ngày gặm nhấm bà một ít để rồi đến lúc bà có cảm giác lạc lõng, cô đơn ngay giữa các con. Lúc ông mất đi do bạo bệnh thì cảm giác ấy càng lớn, thậm chí bà như cái bóng trong nhà, không có ai để chia sẻ, tâm sự. Cả ngày, bà quanh quẩn đi lên đi xuống rồi lại đi xuống đi lên ngôi nhà 2 tầng gác của mình nhiều khi chẳng để làm gì, chỉ để thấy mình vẫn... tồn tại. Những câu chuyện bà nói chẳng ai nghe vì các con bà không mấy để tâm và cũng không thể hiểu rõ. Bà Tâm bảo: “Tôi đang chết dần chết mòn vì cô đơn ngay giữa đám con cháu của mình”.
Sống mà... như chết
Đó là câu nói của ông Đào Vĩnh Bảo, ở quận Ba Đình, Hà Nội. Ông bảo cuộc đời ông chẳng khác nào như thế. Ông Bảo có 1 con gái 2 con trai. Cái thời người ta phải ăn cơm độn ngô, khoai, sắn thì nhà ông ăn gạo trắng nước trong, áo quần đẹp đẽ. Bởi làm ở Bộ Ngoại giao, cứ theo nhiệm kỳ, ông lại công cán ra nước ngoài và sống ở đó một thời gian dài. Dẫu ở nước ngoài, nhưng nhờ có quan hệ, điều kiện kinh tế, ông đã thu xếp được cho hai cậu con trai xuất khẩu lao động sang Nga (Liên Xô cũ) và Đức.
Thời đó, gia đình nào mà có những hai con đi xuất khẩu lao động là hiếm và “oách” lắm. Còn cô con gái ông để ở nhà chăm sóc mẹ. Bù lại, ông sắm sửa cho đủ thứ: từ xe máy Java, Babeta đến áo lông Đức rồi cả đồ trang sức đắt tiền... Sắp xếp đâu vào đó, ông nghĩ rằng đến lúc về nước và đến tuổi nghỉ hưu, ông sẽ yên tâm dưỡng già, vui vẻ với con cháu. Nào ngờ, đúng lúc hết nhiệm kỳ công tác ở nước ngoài, về nước chưa kịp bù đắp cho vợ vì những tháng ngày xa cách thì bà lâm trọng bệnh và bỏ ông ở lại. “Chuyện trăm năm biết kể cùng ai”, ông bơ vơ và sống độc thân khi mãn chiều xế bóng.
Người xưa có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Nhưng trong cuộc sống hiện đại với đầy toan tính, tất bật như hiện nay, thì người già không cậy được con nữa, ngay cả đời sống tinh thần.
Trong gia đình, bao nhiêu công to việc nhỏ lại đến tay ông. Nhưng cũng từ đây, bi kịch bắt đầu đến với ông khi con trai lớn về nước trong tình trạng trắng tay do bao nhiêu tiền kiếm được đã “nướng” hết vào cờ bạc để đến nỗi, lúc lấy vợ, sinh con không có đồng nào ông lại phải lo toan hết. Không những thế, lúc bị bắt nợ vì vay tiền đánh cờ bạc, con trai ông về bắt ông bán nhà và dọa nếu không bán sẽ “tự tử”.
Vậy là thương con, hơn nữa, nếu không bán nhà thì con trai ông lấy đâu ra tiền để trả nợ nên ông quyết định bán nhà, lấy số tiền đó sau khi trả nợ, chia làm 3 phần, cho con gái và con trai thứ 2 phần. Một phần ông mua ngôi nhà nhỏ cạnh nhà gia đình con gái ông để ông và vợ chồng người con trai lớn ở. Nhưng dường như “họa” nối “họa”, ngôi nhà ông mới mua chưa kịp sửa chữa khang trang thì lại có người đến siết nợ vì con ông đã cá cược mấy trận bóng đá bằng cả ngôi nhà. Không còn cách nào khác, ông lại phải trả nợ cho con trai. Con dâu ông thấy cảnh chồng như vậy, quá chán đành ôm con bỏ về nhà mẹ đẻ. Còn ông, thuê bãi đất hoang ở cuối ngõ để dựng tạm ngôi nhà cấp 4 cho hai bố con ở. Nhưng ở được một thời gian, con ông bỏ đi đâu không rõ.
Lại nói đến người con trai thứ ở Đức, kể từ sau giỗ đầu mẹ thì không liên lạc với ông nữa, cũng không một lời hỏi thăm hay động viên vào những ngày tết; giỗ chạp ông bà, tổ tiên... như nhiều người xa gia đình khác. Ngay cả khi nhận được tiền thừa hưởng từ việc bán nhà mà ông gửi cho, người con trai này cũng không biết nói lời cảm ơn hay bày tỏ thái độ, hành động tương tự. Có lúc ông đã tự than thân trách phận: không biết ông đã làm gì để rồi sinh ra hai “nghịch tử” không biết đâu là “thờ cha kính mẹ”. Thật là vô phúc!
Còn con gái ông, tưởng rằng con gái “chấy rận” sau này sẽ chăm sóc ông lúc về già, sẽ “có bát canh cần nó cũng mang cho”. Nhưng hóa ra, như hai thằng em trai, lúc lấy chồng, sinh con đẻ cái xong, con gái ông cũng quên mất: có một người cha không những sinh ra mà còn cho mình cuộc sống sung túc. Lắm khi huyết áp và tiểu đường của ông tăng, ông muốn nhờ con gái chợ búa, cơm nước nhưng nghĩ đến câu: “Con bận đi làm” mà con gái ông vẫn hay trả lời mỗi khi ông định nhờ vả thì ông chán không buồn nhờ nữa. Ông thấy cuộc sống của mình trôi qua mỗi ngày một cách nặng nề, không có niềm vui, không có ai để chia sẻ. Thậm chí, có lúc ông thèm một tiếng nặng lời của con về bất kể điều gì trong cuộc sống của ông để thấy rằng, ông đang được con quan tâm. Nhưng tất cả chỉ là... im lặng. Nhiều khi ông muốn chia sẻ nhưng hàng xóm của ông tọc mạch nhiều hơn là đồng cảm nên ông chẳng thể nói gì với họ. Chính quyền địa phương cũng không có phong trào gì mạnh mẽ để ông hào hứng tham gia. Thực sự, ông thấy mình sống mà như... chết!
Gia đình không còn là “hệ thống an sinh”

Hiện nay, số người cao tuổi chiếm khoảng 10% dân số và tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng tăng lên trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm. Có thể nói đây là thành tựu đáng kể của ngành y tế Việt Nam, đồng thời đánh dấu sự phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ông Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình nhận định, người cao tuổi của ta chưa được quan tâm, chăm sóc chu đáo về đời sống tinh thần, cụ thể như chưa có những phong trào hoạt động mạnh mẽ dành cho người cao tuổi để sống vui, sống khỏe. Nếu có, cũng là tự phát và chỉ có một số ít người cao tuổi tham gia.
Cho nên theo thống kê của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình: Mới chỉ có 20% người cao tuổi có đời sống tinh thần thoải mái. Còn lại nhiều cụ cũng có đời sống trắc trở. Có tới 61% người cao tuổi sống trong tình trạng cô đơn, không có vợ hoặc chồng, đặc biệt là người cao tuổi là nữ giới do ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ kéo dài hơn 30 năm, các quan niệm lạc hậu đã khiến phụ nữ phải chịu sự bất bình đẳng giới trong hôn nhân… Người ta đã tính số người cao tuổi là nữ giới nhiều hơn nam giới từ 22-132 người, tức là càng về già số người cao tuổi là nữ càng nhiều hơn nam giới do tuổi thọ của nam giới thấp hơn.
Theo một nghiên cứu khoa học thì đối với người già, gia đình là hệ thống an sinh của họ. Không khí hòa thuận trong gia đình cùng với sự chăm sóc của con cháu sẽ là động lực giúp người cao tuổi vui vẻ, lạc quan. Thế nhưng cuộc sống gấp gáp, bận rộn hiện nay cùng với sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội đã làm cho “hệ thống an sinh” này đang bị mai một, thậm chí mang hậu quả ngược 1800 cho người cao tuổi. Và không ít người già lâm vào cảnh như vậy.
Để thay đổi tình trạng này, ông Dương Quốc Trọng cho rằng: Để đời sống tinh thần của người cao tuổi được thoải mái, vui vẻ, tất cả những người trong cộng đồng phải chung tay chăm sóc, trước hết bằng chính thái độ biết tôn trọng và chia sẻ với người già. Đó chính là biện pháp không những giúp cho tuổi thọ của người Việt tăng lên nữa mà còn làm cho đời sống kinh tế, xã hội được tốt hơn.
 
Xuân Bách
(Ptrotimes)

Chiến tranh Biên giới phía bắc 1979: Ai đem bom đạn cày nát đất Tổ

“...đất nước Việt Nam khéo có một biên giới thiên nhiên từ Đông qua Tây, nếu Trung Quốc chiếm cứ được núi cao tại biên giới, đương nhiên Việt Nam tự nó biến thành chư hầu... Tôi ghi chép tỉ mỉ, có cả hình ảnh đính kèm, chỉ rõ từng sự việc tại chiến trường Hà Giang Việt Nam. Nhờ cuốn nhật ký này, tôi tự làm một thống kê tổn thất về phía Việt Nam và Trung Quốc, từ ngày 17 tháng 02 năm 1979 đến ngày 16 tháng 03 cùng năm, có thể nói rằng con số tổn thất chính xác 90%.” - Đại tá TQ Hoa Chí Cường.

Mấy giờ liền tôi phỏng vấn tên Đại tá Hoa Chí Cường. Y trình bày về chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào năm 1979, mọi diễn biến tại chiến trường trong lãnh thổ Việt Nam rất tỉ mỉ, y là nguyên sĩ quan Tư lệnh phó Sư đoàn 40 thuộc Quân đoàn 14, y đón tiếp chúng tôi qua cung cách kính trọng. Phần tôi hình dung không khác nào tư cách đại diện của Bộ tư lệnh Quân ủy Vân Nam thuộc Quân khu Côn Minh, đang lắng nghe một thuộc cấp báo cáo về chiến trường.
Tôi nhếch môi cười thầm, tự trách:
- Tại sao, bỗng dưng ăn theo Nhất Biến để trở thành nhân vật có tầm cở bành trướng Bác Kinh, thời gian này không đáng là bao, thế mà trong tôi phải chịu đựng tên Cường nói về đau đớn trên quê hương mình, ngồi đây chỉ còn hy vọng y tiết lộ vài bí mật "phản công tự vệ" tôi cần biết. Và sáng mai đương nhiên tôi trở về vị trí đời thường, mang theo nỗi buồn quê hương khói lửa, bị mất trộm phần đất biên giới của Ông Cha vào tay Trung Quốc!
Xe tăng và Trung đội pháo binh 56 của Quân đoàn 14 Trung Quốc tiến qua đầu nguồn biên giới sông Lô thuộc tỉnh Hà Giang. Nguồn: Hoa Chí Cường.
Hoa Chí Cường đứng lên, đi đến kệ sách lấy một cuốn sổ dày cộm, luôn tay lấy một vò rượu và ba ống cây trúc, dài nhỏ, nói:
- Thưa quý anh, đây là vò rượu, cất bằng gạo cẩm của nông dân Việt Nam thường dùng trong dịp giao tế hay lễ lạt, quý anh, uống thử rượu đặc biệt mà người Việt Nam gọi rượu Cần nồng độ cao, uống vào cảm nhận được mọi hương vị cay, đắng, đậm đà, sau khi uống để lại một vấn vương thơm, kính mời hai anh.
Hoa Chí Cường vừa hút lên một ngụm rượu, uống ực một hơi vào miệng, khà... tay cằm cuốn nhật ký nói tiếp:
- Tôi ghi chép tỉ mỉ, có cả hình ảnh đính kèm, chỉ rõ từng sự việc tại chiến trường Hà Giang Việt Nam. Nhờ cuốn nhật ký này, tôi tự làm một thống kê tổn thất về phía Việt Nam và Trung Quốc, từ ngày 17 tháng 02 năm 1979 đến ngày 16 tháng 03 cùng năm, có thể nói rằng con số tổn thất chính xác 90%.
Sau ngày 16 tháng 03 năm 1979 đến 1987 con số tổn thất cao vòi vọi, vẫn tiếp tục chạy đua với thời gian trên chiến trường Việt Nam. Tôi cũng đã làm một thống kê khác trong nhật ký, nếu có dịp sẽ gửi tặng quý anh.
Cuộc xâm lược của 10 Quân đoàn, Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc trong lãnh thổ Việt Nam, tháng 2/197917/20/1979. Nguồn: Hoa Chí Cường.
Miệng của Hoa Chí Cường liên tục nói, và đôi tay mở ra trang đầu nhật ký, đọc:
- Ngày 17/02/1979, Sư đoàn 40 tiến công vào lãnh thổ Việt Nam, trước mắt có những cản trở bởi dân quân các làng xã thuộc thị trấn Thanh Thủy, Hà Giang Việt Nam. Cùng ngày, trước sau 4 Quân đoàn gồm 10 Sư đoàn của Trung Quốc đồng tiến công.
Thương vong, thiệt hại của Việt Nam, từ ngày 17/02/1979 đến ngày 16/03/1979.
1 – Dân quân, thường dân Việt Nam cam chịu, kẹt trong cuộc chiến:
Ngày 17-12/02/1979. Dân quân Hà Giang Việt Nam có 3.240 tử vong. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
Thường dân Việt Nam tị nạn chiến tranh, tạm trú trong các hang động miền núi. Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, đem ra hành quyết tập thể, vào ngày 24 tháng 2 năm 1979. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
Ngày 25/02/1979. Bộ đội Trung Quốc hãm hiếp phụ nữ, già trẻ và bé gái. Cuối cùng họ bị hành quyết chôn vùi tập thể tại những hầm hố đạn đại pháo hai bên lề Quốc lộ 4C. Mỗi mồ từ 7 đến 20 tử thi. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
Ngày 27/02/1979, Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bắt 548 nông dân làm tù binh, thấy không lợi, lập tức hành quyết tập thể. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
Ngày 25/02/1979. Dân quân Hà Giang Việt Nam, tử vong. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường
Ngày 20/02/1979, thường dân tử vong tại thị trấn Tân Sơn, trên Quốc lộ 4C. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
Ngày 23/02/1979. Một dân quân tử trận nằm kế bên mộ tập thể của 62 Bộ đội Việt Nam tử trận tại Vị Xuyên, trên Quốc lộ 2C. Nguồn ảnh: Hoa Chí Cường.
2 – Những khu công nghiệp nhà máy bị phá hủy100%.
3 – Tỉnh Hà Giang có 196 đơn vị cấp xã, bao gồm 5 phường, 13 thị trấn bị phá hủy 84%.
4 – Tài sản tư nhân, 170.931 nhà cửa thường dân tại thành phố, do đại pháo phá hủy 75%..
5 – Tài sản tư thường dân nông thôn bị phá hủy 349.560 ngôi nhà 90%..
6 – Cánh đồng lúa cháy 100%.
7 – Núi rừng, Lâm nghiệp tổng số phá hủy 83%.
8 – Tư liệu sản xuất nông thôn, bị cướp 251.973 trâu, bò và các loại gia súc khác bị mất tổng số: 460.800 con 80%..
9 – Kinh tế, tài sản công cộng của thị xã, thị trấn bị phá hủy 350.760 ngôi nhà, cơ sở Giáo dục, Bệnh viện, Bệnh xá, Thương mại, Nông trường, Trang trại, Lâm trường, Xí nghiệp, Hầm mỏ, Điện lực, Văn hóa v.v... 98%.
10 – Dân số 4,5 triệu của 6 tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sản xuất sinh sống. 
Tính trên tổn thất từ ngày 17/02/ đến 16/3/1979.
Nhất Biến cười nói:
- Tôi nghe anh đọc như một thực đơn bi ai, tôi ăn bằng cái đầu qua con số, người dân vô can gặp chiến tranh phải trả giá quá cao, ngoài trí lực của con người, con số mà anh Cường vừa đọc nó rất giá trị đối với chúng ta, nhưng không giá trị đối với những kẻ bàng quan, và hai đảng CSVN-TQ vô lương tâm, họ bịt mắt dư luận bằng những con số thấp nhất, do hành động dối trá.
Hoa Chí Cường thở dài phê phán:
- Chúng ta phải nói đảng CSVN-TQ lưu manh, không bao giờ công bố một tổng kết sự thật, họ sợ nói lên con số tổn thất, nghĩa là chỉ dấu thua trận, điểm yếu của một bè đảng CSVN-TQ là ở chỗ ấy, chiến tranh là như vậy, ai cũng cho mình thắng trận, địch tổn thất 10 (Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000), ta tổn thất khoảng 20.000 v.v...
Tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权). Nguồn Ảnh: Hoa Chí Cường.
Một công bố khác của tên tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), nguyên phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, phụ trách tình báo ngoại giao. Y lừa dối dư luận thế giới, công bố quân số của Trung Quốc có 20.000 tử vong. Nếu y làm số nhân: 20.000 x 4 = 800.000 tử vong, mới đúng sự thật. Tháng 4 năm 1979, "Tạp chí Quân đội Nhân dân" của Việt Nam loan tải, quân đội Trung Quốc có 62.500 người thương vong. Theo tôi con số này bất đắc dĩ chấp nhận được.
Ngũ Tu Quyền (伍修权) còn công bố hư hao vũ khí có hơn 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy. Y lại một lần nữa lếu láo, thay vì phải nhân: 500 x 3 = 1.500.
Y còn khoe bắt được 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Trong khi ấy bộ tư lệnh Quân Khu Nam Ninh thống kê con số tù binh ngoạn mục: Tù binh Việt Nam gồm quân chủ lực 800, dân quân 200, thường dân 600. Cho thấy tên tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权) công bố tào lao "râu ông nọ, cắm cầm bà kia" không giống ai cả!
Hoa Chí Cường lại thở dài một lần nữa, đôi mắt ngó xuống nhật ký đọc tiếp:
Việt Nam công bố kết quả chiến đấu của họ như sau:
1 – Mặt trận Lai Châu: diệt 16.000 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp, 12 xe quân sự, và đánh thiệt hại nặng tương đương Sư đoàn, 38 khẩu pháo-cối.
2 – Mặt trận Lào Cai : diệt 17.000 lính TQ, phá hủy 41 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự, tiêu diệt 24 tiểu đoàn, thiệt hại nặng 52 khẩu pháo-cối.
3 – Mặt trận Hà Giang: diệt 11.000 lính TQ, phá hủy 32 xe tăng, thiết giáp, 45 xe quân sự, tiêu diệt 10 tiểu đoàn, thiệt hại nặng 14 khẩu pháo-cối.
4 – Mặt trận Lạng Sơn: diệt 13.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt 3 trung đoàn, thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
5 – Mặt trận Cao Bằng: diệt 12.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp, 23 xe quân sự, tiêu diệt 7 tiểu đoàn, thiệt hại nặng 61 khẩu pháo-cối.
6 – Mặt trận Quảng Ninh: diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt 3 tiểu đoàn, thiệt hại nặng 32 khẩu pháo-cối.
Tổng kết: Trung Quốc tử vong 83.000, phá hủy xe tăng, thiết giáp 353, 188 xe quân sự, 292 khẩu pháo-cối.
Hoa Chí Cường nói tiếp:
- Phân thắng bại còn chờ ngày kết thúc chiến tranh.
Về lâu dài, đã hơn 8 năm xung đột vũ trang dọc theo biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, dấu hiệu hậu quả nền kinh tế xấu. Sản xuất của người dân vùng biên giới xuống cấp nghiêm trọng. Ngoài ra, Trung Quốc chủ trương di chuyển hay phá hủy cột mốc biên giới, tương lai gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này. 
Điều đáng trách, kẻ xâm lăng không nên tạo sự căm phẫn trong lòng dân bản xứ, dù bất cứ người dân ở quốc gia nào cũng phải tôn trọng họ, không được cướp mạng sống hay vật chất của họ. Trừ phi nhà nước đương cuộc lấy thường dân làm lá chắn, đem dân ra thử đạn pháo, thì mình đành chịu thôi. Trường hợp này bất khả kháng theo qui luật chiến tranh không còn cách nào để từ chối.
Về người nghe, cảm nghĩ của tôi:
- Quân số Trung Quốc có hơn 3,5 triệu, chỉ có một Hoa Chí Cường mẫu người bản lĩnh, đứng thẳng trước thượng cấp không hề nao núng, cá tính sống vì mọi người, phân biệt thế nào là địch-thù, quan trọng không kéo thường dân vào chiến cuộc, tuy nhiên tôi có một suy nghĩ khác: ‒ Ngày nay Hoa Chí Cường quân hàm Đại tá, nếu mai này làm Đại tướng cũng không thể khác hai tên tướng Dương Đắc Chí và Hứa Thế Hữu, vì Hoa Chí Cường quên rằng trong người của ông ta có huyết thống Hán 100%. 
Nhất Biến tranh thủ thời gian, liền hỏi:
- Thưa, anh Cường tiếp tục phỏng vấn nhé?
- Vâng, tôi xin trình bày tiếp. Về chiến lược phải phù hợp với chiến thuật để khi thoái quân an toàn không bị tổn thất. Chính tên Đại tướng Dương Đắc Chí cũng hờ hững về chiến thuật thoái quân, chiến trường Việt Nam địa lý thiên nhiên có quá nhiều núi cao, hiểm trở khó tiến công, thoái quân cũng khó, tuy quân đội Trung Quốc lập được ba chiến lũy sâu trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không giá trị, nếu địch thủ chọn những điểm núi cao kiểm soát ba chiến lũy, tức thì quân đội Trung Quốc như một con Hổ nhốt trong rọ, quân đội Việt Nam sẽ rót đại pháo xuống đầu, không có đường nào để thoái binh. Quả thực đất nước Việt Nam khéo có một biên giới thiên nhiên từ Đông qua Tây, trong chiến tranh nếu Trung Quốc chiếm cứ được núi cao tại biên giới, đương nhiên Việt Nam tự nó biến thành chư hầu.
Kéo đại pháo lên núi cao. Nguồn Ảnh: Hoa Chí Cường
Trước đây tôi chọn một đồi núi cao để hổ trợ cho Sư đoàn 40, thì ngay sau đó tên Dương Đức Chí ý thức được việc phối trí binh bị của tôi, ý có hỏi: "Nguyên nhân nào đưa đến cách phối trí đại pháo trên núi cao". Tôi trả lời: "Biên giới Việt Nam là nơi hiểm yếu, có khả năng chôn 40 Quân đoàn của ta, nếu không biết chiến thuật, tức là mình khinh địch, trước khi khởi binh tôi cho trinh sát đi trước vẽ họa đồ, tọa độ, lập tổ liên lạc, từ lúc khởi binh cho lúc đến điểm tập kết dùng mật mã nhiễu sóng truyền tin, và lập pháo đài trong thời gian nhanh nhất.
Những nguyên nhân vừa rồi đủ chứng cứ, cho phép tên Dương Đắc Chí đưa tôi vào phạm luật quân kỷ. Ấy mà nào ai biết trước, trong sự hung có sự lành, nhờ vậy tôi mới thoát chết qua kẽ tóc, về tội khinh quân kỷ trên chiến trường. Nói chung tôi được Quân ủy Vân Nam dùng lại xem như cố vấn.
Phần tôi, thấy độ dày cuốn nhật ký hơn 450 trang giấy A4, và có nhiều hình ảnh chú thích, Hoa Chí Cường đọc mới vài trang mà như trong tôi có cảm tưởng còn rất nhiều bí mật khác của chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, tôi cần phải biết nội dung cuốn nhật ký này, nếu có điều kiện, bằng mọi cách làm chủ nó.
Đôi mắt của Nhất Biến cũng không rời cuốn nhật ký của Hoa Chí Cường, vừa ngó chăm chăm và hỏi:
- Thưa, anh Cường có thể nào cho tôi mượn cuốn nhật ký đọc tại chỗ được không ?
Hoa Chí Cường không suy nghĩ, cũng không ngạc nhiên, trên mặt có vẽ tự hào, nhếch môi cười, vui vẻ đáp:
- Đối với anh Cát Thuần, đúng là cuốn nhật ký của tôi đi tìm tri kỷ, anh chờ một chút nhé?
Hoa Chí Cường đi đến kệ sách lấy một gói, không biết loại sách gì mà bề ngoài bao lại bằng giấy dầu, trao cho Cát Thuần nói:
- Tôi xin tặng anh ba thực đơn tinh thần, nhật ký thứ nhất viết từ ngày 10/02/1979 đến 16/03/1979, cuốn thứ hai viết từ ngày 17/03/1979 đến năm 1986. Trong cuốn thứ hai nội dung quan trọng nhất là trận chiến 1984. Và một cuốn Bản đồ tự tay tôi vẽ cùng một số bạn bè cung cấp, quan trọng của nó là những điểm núi cao có chú thích tọa độ và ngày tháng chiến tranh tại 6 tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh củaViệt Nam và biên giới Trung Quốc.
Tôi suy nghĩ thầm và tự hỏi:
- Tại sao trong tôi bị khích thích, tăng khao khát những gì vừa nghe và thấy, như một chứng nhân chiến tranh? Hay tôi đang cần một thứ lương thực chỉ no cái đầu? Cũng có thể thứ mà tôi đang sinh hoạt trong phiêu lưu, chính nó thôi thúc tôi tìm những gì của quê hương bị bào mòn, bởi thế tôi phải cần biết ba hồ sơ trên tay của Nhất Biến.
Nhất Biến cầm ba hồ sơ trên tay nói:
- Đa tạ anh Cường, tuy nhiên anh tặng như thế này thì mai sau khi cần tìm đâu ra?
- Anh, Cát Thuần cứ an tâm, tôi có đến hai bản, bản chính tặng anh, tôi giữ lại bản phụ, tặng anh bản chính xem như tôi là bạn thân thiết ở bên anh.
Nhất Biến cảm động nói:
- Quả nhiên tri kỷ có khác, một lần nữa đa tạ, ghi vào tim. À, thưa anh trong dân gian có nói "được voi đòi tiên", ngày mai tôi phải lên đường cho kịp thời gian, xin anh cho mượn một chiếc xe để di chuyển trong 10 ngày, tôi gửi ở đây chiếc xe đạp, hy vọng anh đồng ý.
- Tưởng mượn vợ, mượn con thì không được, còn mượn xe thì đương nhiên không có vấn đề, ngày mai anh Cát Thuần lấy xe BJ-212A của tôi mà di chuyển, bao giờ đưa về đây cũng được. Anh đừng đổi xe đạp lấy xe hơi là tin nhau rồi.
Mọi người đồng cười, một ngày trôi qua, đêm đã khuya mà cuộc phỏng vấn chưa kết thúc, Nhất Biến hỏi Hoa Chí Cường:
- Thưa, anh Cường còn thiếu nợ của tôi ba vấn đề đấy nhé, như "nguyên do nào Không quân Trung Quốc không tham chiến, đã từng trải qua bao lần kỹ luật, và dự kiến nào cho tương lai đời mình? ". Mười ngày sau chúng ta phỏng vấn tiếp, tuy nhiên nếu trong nhật ký của anh có ghi các điều trong câu hỏi, xem như cuộc phỏng vấn này đến đây là kết thúc.
Hoa Chí Cường đáp:
- Tôi trả lời những câu phỏng vấn của anh, đều có ghi hết trong ba nhật ký vừa tặng anh, tuy nhiên người được phỏng vấn trả lời mọi sự kiện, như được sống lại trong cuộc chiến tranh năm tháng ấy, bởi tất cả hiển nhiên hiện về trong trí nhớ. Còn nhật ký này xem như hồ sơ tham khảo.
- Anh, Cường nói thế chỉ đúng một phần, riêng tôi đọc mỗi chữ, anh viết trong nhật ký không khác nào chúng ta đang nói chuyện với nhau, và lúc nào tôi cũng đem theo bên mình, trước khi đọc một trang nhật ký phải niệm thần chú "Nam mô… đại ca Hoa Chí Cường".
Qua câu nói hài hước chân tình của Nhất Biến, mọi người và tôi đồng tham gia vào chuỗi cười thú vị. Đêm cũng đã khuya khoắt, chúng tôi chúc nhau an lành.
Huỳnh Tâm  
(Danlambao)

Tướng Trần Văn Đôn: Chuyên gia trở cờ

Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế.
Trong cái gọi là  "biên niên sử" của chế độ Sài Gòn, Trần Văn Đôn cũng bị xếp vào loại "bẩn tướng" như Trung tướng Đặng Văn Quang (xem ANTG CT số tháng 1/2008). Trả lời câu hỏi: Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên "trở cờ"?", ông Quách Tòng Đức, người từng làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và đã nhìn thấy quá nhiều tấn trò nhem nhuốc trên sân khấu chính trị Sài Gòn một thuở đã khẳng định ngay: "Đó là Trần Văn Đôn!".
Kỳ nhông đặc biệt
Gia tộc Trần Văn Đôn là đại điền chủ ở Nam Bộ. Cha của ông ta sang Pháp học y khoa và Trần Văn Đôn đã được sinh ra tại Cauderan, Bordeaux ngày 19/8/1917.
Trong gia tộc mang quốc tịch và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng thờ Pháp này, Trần Văn Đôn là người con út. Lớn lên, ông ta được gia đình cho sang Pháp để du học.
Năm 1939, Trần Văn Đôn tốt nghiệp Trường Thương mại cao cấp Hautes Etudes Commerciales (HEC) ở Paris. Tiếp đó, ông ta gia nhập quân đội Pháp khi chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu và theo học Trường Quân sự đặc biệt Saint Cyr (École spéciale militaire de Saint-Cyr). Rồi Trần Văn Đôn trở lại Việt Nam, cầm súng cho Pháp chống lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Ông ta từng là sĩ quan tình báo.
Tới năm 1955, Trần Văn Đôn đã đeo quân hàm đại tá. Cùng với Dương Văn Minh (lúc đó cũng mới là đại tá), Trần Văn Đôn đã phò tá Ngô Đình Diệm trong những nỗ lực thâu tóm quyền lực ở miền Nam với sự hậu thuẫn của Mỹ. Sau khi góp tay dẹp những lực lượng chống đối Ngô Đình Diệm, cả Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh đã được đeo quân hàm tướng của chế độ Sài Gòn.
Tướng Trần Văn Đôn và cuộc di tản tháng 4/1975
Năm 1956, tướng Trần Văn Đôn còn được giao cho chức Tổng Tham mưu trưởng của quân đội Sài Gòn. Để có thể ngồi trên vị trí cũng vào loại chóp bu này, Trần Văn Đôn đã công khai bày trò đốt quốc tịch Pháp của mình, không ngại mang tiếng ăn cháo đái bát.
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã rất hài lòng với sự trở cờ đó của Trần Văn Đôn. Tuy nhiên, cho tới cuối đời, Trần Văn Đôn vẫn bị dư luận Sài Gòn coi là một anh Tây con, ăn chơi đàng điếm. "Dấu ấn của quỷ" gắn lên trán ông ta từ thời trẻ đã không bao giờ mờ phai.
Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế. Ông ta cùng với Dương Văn Minh và Tôn Thất Đính chính là những nhân vật trụ cột trong âm mưu đảo chính năm 1963 hạ bệ Ngô Đình Diệm với sự hậu thuẫn của các điệp viên CIA.
Cùng chung tay vào cuộc chính biến khá đẫm máu này còn có những viên tướng Sài Gòn như Mai Hữu Xuân, Lê Kim Xuân (người anh em đồng hao với Trần Văn Đôn) và cả Đỗ Mậu…
Tuy nhiên, khác với nhiều đồng sự từng cùng dính líu với vụ đảo chính năm 1963 (họ thường là bị đẩy ra ngoài cuộc rất nhanh chóng và phải tìm nơi dung thân ở hải ngoại), tướng Trần Văn Đôn đã đổi màu như kỳ nhông rất kịp thời và không bao giờ bị mất phần béo bở. Và ông ta đã trụ được trong bộ máy chính quyền Sài Gòn cho tới khi chế độ này sụp đổ tháng 4/1975, khi ông ta buộc phải vội vã bỏ tổ quốc cứu mạng sống cá nhân trên một chiếc trực thăng của Mỹ. Trong nội các cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Trần Văn Đôn từng được giữ ghế Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng.
Dấu tích ô danh
Nguyễn Văn Ngân, phụ tá tin cẩn một thời của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khi được yêu cầu nói lên sự đánh giá của mình đối với các tướng lĩnh của chế độ Sài Gòn, đã chua chát và gay gắt nói: "Hầu hết các tướng lĩnh đều thoát thai từ một môi trường xấu, nguyên phục vụ trong những đội quân phụ thuộc của quân đội viễn chinh Pháp, là những đội quân thiếu truyền thống. Họ không có lý tưởng chính trị và cũng không có lương tâm trách nhiệm của một người lính chuyên nghiệp.
Vì không thể tiến thân bằng con đường học vấn nên họ đã phải vào quân đội để kiếm sống. Do sự bành trướng của quân đội nên họ được thăng cấp rất nhanh nhưng thiếu kinh nghiệm chiến trường, không biết hoặc không cần biết tới nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy. Đa số đều tham nhũng, nuôi dưỡng tình trạng lính ma, lính kiểng, đã làm băng hoại cả một quân đội...".
Trần Văn Đôn cũng là một trong những viên tướng như thế. Ông ta từng chịu nhiều ân huệ của chế độ Ngô Đình Diệm. Khi tướng Lê Văn Tỵ bị ung thư phổi phải sang Mỹ chữa trị, Trần Văn Đôn, lúc đó là Tư lệnh Lục quân, đã được Ngô Đình Diệm cho giữ chức Quyền Tổng Tham mưu trưởng thay ông này từ ngày 27/7/1963.
Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, khi gió đã đổi chiều, ông ta không ngại tham gia những hoạt động chống lại anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, mặc dù trong thâm tâm, ông ta có thể chưa chắc đã muốn cho hai người này phải chết bất đắc kỳ tử như đã xảy ra.
Vụ đảo chính bắt đầu từ ngày 1/11/1963. Vào lúc 13h30’ ngày hôm đó, một số sĩ quan cao cấp của chế độ Sài Gòn được mời tới tham dự một cuộc họp tại một sở chỉ huy ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Tại đây, tướng Trần Văn Đôn đã thông báo về việc cái gọi là Hội đồng cách mạng quân sự đã lên nắm quyền.
Mọi thành viên tham gia cuộc họp đều tỏ ra phấn khởi, duy chỉ có viên Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt, người rất thân cận và trung thành với gia tộc Ngô Đình và vì thế, đã bị đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lúc đó là Henry Cabot Lodge ra lệnh cho những viên tướng lãnh đạo đảo chính cho tên vào danh sách cần bị thủ tiêu, đã không đứng dậy vỗ tay hoan hô thông báo này. Lập tức đại tá Tung bị bắt giữ và bị Nguyễn Văn Nhung (khi đó là đại úy) đưa sang một căn phòng khác ở trong sở chỉ huy này,
Mặc dầu thất thế nhưng Tung vẫn hét to được một câu: "Hãy nhớ ai đã gắn sao cho tụi bay!". Đêm hôm đó, Nguyễn Văn Nhung chở đại tá Tung và người em của ông ta là Thiếu tá Lê Quang Triệu đến một nơi bên ngoài doanh trại và bắn chết cả hai.
Sáng hôm sau, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chạy thoát khỏi Dinh Độc Lập qua một đường hầm bí mật và trốn ở một ngôi nhà tại Chợ Lớn. Trần Văn Đôn bằng các mối quan hệ riêng đã liên lạc được với anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, hứa sẽ bảo toàn mạng sống cho họ và để họ đi ra nước ngoài một cách an toàn nếu họ thuận tình trao quyền một cách yên ả cho những viên tướng làm đảo chính.
Tuy nhiên, mọi sự lại không diễn ra theo hướng này. Viên đại uý Nguyễn Văn Nhung đã dẫn một toán sỹ quan cùng lính tráng đến nơi trú ẩn của anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại Nhà thờ St. Francis được xây thời Pháp và bắt giữ họ. Một đoàn xe gồm một xe bọc thép M-113 và 4 chiếc xe Jeep cùng nhiều binh lính do tướng Mai Hữu Xuân cầm đầu đã tức tốc tới nơi anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đang bị bắt giữ.
Đại uý Nguyễn Văn Nhung và Thiếu tá Dương Hữu Nghĩa ngồi chung với anh em Ngô Đình Diệm trong chiếc xe bọc thép quay lại Sài Gòn. Khi đoàn xe dừng lại tại một điểm giao cắt với đường sắt thì thấy, anh em họ Ngô đã bị giết chết trước đó. Theo hồi ký của Trần Văn Đôn, thì một cuộc điều tra do ông ta ra lệnh tiến hành đã xác định rằng chính Dương Hữu Nghĩa đã bắn anh em họ Ngô bằng một phát đạn súng bán tự động, còn Nguyễn Văn Nhung đã bắn hàng loạt đạn khắp thân thể hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu. Nguyễn Văn Nhung cũng là người đã đâm nhiều nhát dao vào thân thể hai anh em họ Ngô (sau "chiến tích" này, Nguyễn Văn Nhung được thăng lên cấp thiếu tá nhưng rồi y cũng bị thủ tiêu bởi một phát súng bắn vào sau gáy).
Theo lời Trần Văn Đôn kể lại sau này, ông ta cùng nhiều sỹ quan khác đã kinh ngạc khi thấy xác hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại sở chỉ huy của lực lượng đảo chính. Trần Văn Đôn tức tốc gặp Dương Văn Minh trong văn phòng của ông này và to tiếng về cái chết của hai anh em họ Ngô. Trong lúc họ đang cãi nhau, Mai Hữu Xuân đi vào phòng, đứng nghiêm trước Dương Văn Minh và báo cáo: "Mission accomplie" (nhiệm vụ đã hoàn thành)!
Tướng Trần Văn Đôn về sau đã tốn khá nhiều công sức để thanh minh về trách nhiệm của ông ta đối với cái chết thê thảm của anh em họ Ngô. Trần Văn Đôn cũng tiết lộ rằng CIA đã chi cho các viên tướng chủ trì đảo chính 42 nghìn USD để họ hạ sát anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu.
Còn theo thông tin của ông Nguyễn Văn Ngân, trong cuộc đảo chính tháng 11/1963, CIA cũng đã sử dụng Trần Văn Đôn, mặc dù không tin con người tráo trở này chỉ vì lý do đơn giản là lúc đó, Trần Văn Đôn đang giữ chức vụ quyền Tổng tham mưu trưởng thay tướng Lê  Văn Tỵ đang đi Mỹ trị ung thư (không có được sự đồng ý của nhân vật này khó có thể điều hành được các đơn vị quân đội một cách suôn sẻ).
Và các quan thầy Mỹ cũng đã loại Trần Văn Đôn khỏi vị trí quan trọng trên trong vụ chỉnh lý ngày 30/1/1964. Tuy nhiên, với sự khéo léo của một kẻ hoạt đầu, sau đó Trần Văn Đôn đã lấy lòng được Nguyễn Văn Thiệu và được viên Tổng thống này trọng dụng cho tới khi chính ông ta cũng phải ê chề bỏ nước ra đi vì thất thế.
Sau này ở hải ngoại, trong các bài trả lời phỏng vấn với báo chí và trong các tập hồi ký của mình, Trần Văn Đôn đã không tiếc lời phê phán Nguyễn Văn Thiệu cũng như các chiến hữu cũ, đổ cho họ phần lớn trách nhiệm về những chuyện xấu xa và đổ vỡ của chế độ Sài Gòn
(CAND) 

10 vấn đề lớn của đảng Cộng sản Trung Quốc

Đảng Cộng sản TQ sắp họp đại hội lần thứ 18, sẽ khai mạc vào sáng ngày 8-11 tới. Cứ qua 2 đại hội, nghĩa là 10 năm, đảng lại thay một thế hệ lãnh đạo, thay một loạt các nhân vật đứng đầu bộ máy đảng và bộ máy nhà nước.
Dự kiến tại đại hội 18, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào sẽ về nghỉ hưu, ông Tập Cận Bình lên thay làm tổng bí thư đồng thời kiêm chức chủ tịch nước; sau đó Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng về nghỉ, ông Lý Khắc Cường lên thay.
Thường vụ Bộ chính trị từ 9 sẽ giảm xuống là 7 người, gồm có các ông Tập Cận Bình, Lý Khắc Cường và 5 người mới vốn đã là ủy viên bộ chính trị hiện gồm 25 người.
Về đường lối chính sách sẽ có những thay đổi gì đáng kể, đang là vấn đề được bàn luận nhiều trong công luận Trung Quốc và thế giới.
Tháng 10 vừa qua, trên tạp chí Học Tập của đảng CS xuất bản ở Bắc Kinh, nhà nghiên cứu Đặng Duật Văn viết một bài luận văn, nêu lên “10 vấn đề lớn của đảng CS Trung Quốc”, cũng là 10 vấn nạn đảng đang phải đối mặt giải quyết, trong quá trình hiện đại hóa đất nước còn đang dang dở.
Bài báo chỉ ra những vấn đề lớn đầy thử thách đang tồn tại, giúp bạn đọc hiểu tầm quan trọng cũng như tính phức tạp của các vấn đề quốc kế dân sinh của nước khổng lồ hơn 1,3 tỷ dân, vấn đề gay nhất là hiện vẫn còn đèo bòng học thuyết Mác và chế độ xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế chỉ huy đã không còn động lực nào, như những cục ung bướu chưa dám cắt bỏ.
Xin điểm qua 10 vấn đề lớn đã được bài luận văn bổ ích này nêu lên.
1-Cơ cấu kinh tế còn méo mó chưa hài hòa. Các yếu kém nổi lên rõ rệt là kỹ thuật công nghiệp còn thấp, chưa đạt mức tiền tiến của thế giới, lại nặng về xuất khẩu, coi nhẹ thị trường tiêu thụ nội địa. Cần chuyển mạnh sang nền kinh công nghiệp kỹ thuật cao và coi trọng thị trường trong nước.
2-Tầng lớp trung lưu không được phát triển đúng mức, còn bị chèn ép, các cơ sở kinh doanh vừa và nhỏ không những không được khuyến khích, còn bị chèn ép bởi các tập đoàn quốc doanh nên bị phá sản hàng loạt. Nguyên tắc tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng bị vi phạm có hệ thống, do đó nền kinh tế không hài hòa, thiếu cơ sở vững, dân tình không ổn định, kinh doanh không phấn chấn.
3-Nông thôn, nông nghiệp, nông dân bị coi nhẹ, khác hẳn các thành phố đô thị, về tất cả các mặt sản xuất, năng xuất, môi trường, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội.
4-Vấn đề dân số, hậu quả của chế độ một con, với số con trai nhiều hơn con gái, sẽ còn kéo dài, ảnh hưởng đến cân bằng dân số, mức tăng và phẩm chất dân số, lao động, ảnh hưởng đến chính sách xã hội.
5-Nền giáo dục, nghiên cứu khoa học vẫn chậm tiến, các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu chưa đạt trình độ quốc tế, rất ít sáng chế, phát minh, sáng tạo có tầm cỡ.
6-Môi trường bị phá hoại nhanh, rộng, ô nhiễm nguồn nước, không khí lan rộng.
7-Năng lượng đang là vấn đề nghiêm trọng cả trước mắt và lâu dài. Khai thác năng lượng mới chỉ đang ở bước sơ khai.
8-Đạo đức xã hội suy thoái, ý thức hệ lâm vào khủng hoảng, bế tắc, lòng dân không yên.
9-Nền ngoại giao không có tầm nhìn thoáng, rộng, thiếu một nhãn quan chiến lược.
10-Vấn đề gốc là cải cách chính trị chập chờn, mơ hồ, không rõ rệt, chế độ dân chủ không đồng bộ, mới thử nghiệm ở cơ sở, dở dang.
Bài luận văn vẽ nên bức tranh khá chuẩn xác và ngay thật. Thành tích của 10 năm qua còn hạn chế. Hai sự kiện lớn gần đây là vụ bí thư thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai và vợ bị truy tố về tội sát nhân, tham nhũng lớn, và vụ thủ tướng Ôn Gia Bảo nổi tiếng thanh liêm, thông thoáng về chính trị, từng ủng hộ các nhà cải cách Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương…bị báo Mỹ New York Times phơi bày tài sản gia đình thân thuộc lên đến 2,7 tỷ đôla - một mức không ai tưởng tượng nổi, là những tiếng chuông cảnh cáo vang động gửỉ đến đại hội 18.
Theo tình hình trên đây, có thể thấy ngụ ý của tác giả là chỉ ra một sự lựa chọn dũng cảm về chính trị, cải cách theo hướng thay đổi cả hệ thống, trở về với nhân dân và dân tộc, hòa nhập với thế giới dân chủ, chủ động cùng nhân dân làm một cuộc cách mạng ôn hòa về thể chế. Đó là chìa khóa để giải quyết trôi chảy cả 10 vấn đề lớn trên đây. Một nước Trung Hoa mới với tiềm lực vô biên sẽ xuất hiện, làm chuyển biến sâu rộng thế giới theo hướng hoà bình, dân chủ, hữu nghị và phồn vinh.
Được như vậy sẽ là một tin mừng vô hạn cho nhân dân Việt Nam, một gương sáng, một thôi thúc gắn bó 2 nước láng giềng chung ý thức hệ vì dân, chung chế độ chính trị dân chủ, chung mô hình tự do cho toàn dân, đoạn tuyệt với những gì là trì trệ, thoái hóa và bất công.
Thế nhưng triển vọng trên đây vẫn như còn xa vời, khi đến gần đại hội 18, một nhân vật nổi lên như một ngôi sao sáng trong giới lãnh đạo Trung Quốc là bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Uông Dương, người từng giải quyết cuộc xung đột giữa nông dân và nhóm “quan chức ăn đất” ở Ô Khảm một cách công minh, dân chủ, sẽ không được cử vào thường vụ bộ chính trị như đã dự định từ gần 1 năm nay. Có vẻ như sau các sự kiện bi đát Bạc Hy Lai và Ôn Gia Bảo, làm uy tín của đảng vốn đã thấp lại suy giảm thêm, nhóm lãnh đạo có ý định co cụm lại nhằm chống đỡ dư luận theo xu thế bảo thủ cực đoan, trì hoãn mọi cuộc cải cách lớn như đã hẹn, e sợ rằng sẽ là một cuộc phiêu lưu chính trị nguy hiểm khi lòng dân xáo động.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy nhóm lãnh đạo hiện tại, phần lớn đã là nhà “tư bản đỏ”, triệu phú đến tỷ phú đôla, vẫn vụ lợi riêng, kết phe nhóm, đua nhau vơ vét theo “gương” ông Ôn, ông Bạc, trì hoãn mọi bước cải cách. Bị lòng tham vô hạn khống chế, họ liều trơ mặt ra cho nhân dân ta thán, nguyền rủa, khinh thị, gắng gượng tồn tại thêm 5, thêm 10 năm nữa, “sau ta là nạn Hồng thủy cũng được”, như câu châm ngôn phương Tây – "après moi le Déluge", nói về tính vị kỷ cực đoan của những kẻ bám chặt chủ nghĩa cá nhân làm lý tưởng, bất chấp đồng bào và đồng loại.

05.11.2012

Bùi Tín

* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Diễn văn chiến thắng của Obama

Tổng thống Obama đọc bài diễn văn ngay trong tối 6/11 (giờ Mỹ), sau khi kết quả bỏ phiếu cho thấy ông được tái đắc cử. Đất Việt online trích dịch bài diễn văn nay.

Cảm ơn. Cảm ơn. Cảm ơn các bạn rất nhiều.

Đêm nay, hơn 200 năm sau thuộc địa cũ giành quyền tự định đoạt số phận, nhiệm vụ hoàn thành một liên minh lại phải tiếp tục tiến về phía trước.

Tiến về phía trước vì các bạn. Tiến về phía trước vì các bạn đã xác nhận một lần nữa tinh thần đã giúp chúng ta chiến thắng cả chiến tranh và suy thoái, tinh thần đã đưa đất nước khỏi vực sâu thất vọng tới đỉnh cao hy vọng. Niềm tin rằng trong khi mỗi chúng ta sẽ theo đuổi một giấc mơ riêng, thì chúng ta vẫn là một gia đình Mỹ và chúng ta đi lên hay thất bại cùng nhau với tư cách một quốc gia, một dân tộc.

Trong cuộc bầu cử tối nay, các bạn, những người Mỹ, nhắc nhở chúng ta rằng con đường vẫn còn chông gai, trong khi hành trình của chúng ta vẫn còn dài, chúng ta phải tự nâng mình dậy để tranh đấu, và từ trong trái tim chúng ta biết rằng điều tốt đẹp nhất vẫn chưa đến với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Tổng thống Obama và gia đình trong lễ diễn văn. (Nguồn: Yahoo News)
Tôi muốn cảm ơn mọi người dân Mỹ đã tham gia vào cuộc bầu cử, dù các bạn được bỏ lá phiếu đầu tiên hay phải xếp hàng dài chờ đợi.

Nhân đây, chúng ta cần khẳng định rõ rằng, dù các bạn giơ khẩu hiệu ủng hộ Obama hay Romney, thì các bạn cũng đã làm cho tiếng nói của mình được lắng nghe.

Và các bạn đã tạo ra sự khác biệt. Tôi vừa có cuộc đàm thoại với Thống đốc Romney để chúc mừng ông ấy và ông Paul Ryan về chiến dịch quyết liệt mà các ông ấy đã thực hiện. Chúng tôi đã tranh đấu dữ dội, nhưng chỉ vì chúng tôi thực sự yêu đất nước này. Và chúng tôi thực sự quan tâm tới tương lai của chúng ta.

Từ George tới Lenore tới con trai Mitt, gia đình Romney đã lựa chọn cách đền đáp người dân Mỹ thông qua con đường dịch vụ công. Đó là di sản mà chúng ta chân trọng và hoan nghênh trong đêm nay. Trong những tuần tới, tôi mong sẽ có dịp ngồi với Thống đốc Romney để bàn thảo về vấn đề liệu chúng tôi có thể làm việc cùng nhau để đưa đất nước này đi lên hay không. Tôi muốn cảm ơn một người bạn và là người đã chung vai sát cánh với tôi trong suốt 4 năm qua, một chiến binh của nước Mỹ, một phó tổng thống mà bất kỳ ai cũng mong đợi: Joe Biden.

Và tôi sẽ không thể trở thành một người đàn ông như ngày hôm nay nếu không có người phụ nữ đã đồng ý lấy tôi làm chồng cách đây 20 năm. Tôi muốn nói trước mọi người rằng, Michelle Anh yêu em hơn bao giờ hết. Anh chưa bao giờ cảm thấy tự hào hơn hôm nay khi thấy người Mỹ yêu quý em với tư cách đệ nhất phu nhân.

Sasha và Malia trước mặt các bạn đang lớn lên để trở thành những người phụ nữ thông minh và xinh đẹp, giống như mẹ các con. Bố rất tự hào về các con.

Tổng thống cũng dành những lời tốt đẹp nhất tới những tình nguyện viên và nhóm thực hiện chiến dịch tranh cử đã làm việc quên mình để giúp ông giành chiến thắng. Tổng thống bày tỏ dù còn nhiều khác biệt về quan điểm chính trị, những vấn đề còn gây nhiều tranh cãi.

Nhưng bất chấp mọi khác biệt, phần lớn chúng ta đều có chung hy vọng về tương lai của nước Mỹ. Chúng ta muốn con cái chúng ta trưởng thành ở một đất nước với những trường học tốt nhất, thầy cô giáo tốt nhất. Một đất nước được thừa hưởng địa vị đứng đầu thế giới về công nghệ, khám phá và cải tiến, với tất cả những công việc và doanh nghiệp tốt nhất mà không bị gánh nặng nợ nần hay yếu dần bởi sự bất công. Đất nước đó không bị đe dọa bởi mối hiểm nguy từ việc hành tinh ấm lên. Chúng ta muốn truyền lại một đất nước được coi trọng và ngưỡng mộ bởi mọi người khắp nơi trên thế giới. Một dân tộc được bảo vệ bởi quân đội hùng mạnh nhất trên trái đất và những đội quân thiện xạ nhất từng được biết đến. Đó cũng là đất nước đang đi lên với sự tự tin rằng chiến tranh cần bị gạt bỏ để làm nên một nền hòa bình. Đất nước đó được xây dựng trên những chân giá trị của mọi con người.

Tổng thống Mỹ nói rằng nước Mỹ hào phóng, giàu lòng trắc ẩn và vị tha sẽ tạo điều kiện để những người dân nhập cư, những người công nhân, dân thường được đi học, được nuôi dưỡng và hiện thực ước mơ trở thành kỹ sư, nhà khoa học, doanh nhân… Và dù con đường đi tới đích còn chưa thống nhất, nhưng mọi người đều có chung niềm tin và nhiệm vụ phải đưa đất nước đi lên.

Và dù tôi có được các bạn bỏ phiếu hay không, thì lâu nay tôi vẫn lắng nghe các bạn. Tôi đã học được rất nhiều từ các bạn và các bạn đã làm nên một Tổng thống tốt hơn. Từ đó, tôi trở lại Nhà Trắng với quyết tâm cao hơn và nhiệt huyết lớn hơn bao giờ hết để tiếp tục công việc ở đó. Các bạn bầu chúng tôi để tập trung vào công việc của các bạn, chứ không phải cho chúng tôi.

Trong những tháng tới, tôi mong sẽ làm việc với lãnh đạo của các hai đảng để cùng bàn cách giải quyết các vấn đề: giảm thâm hụt, cải tổ luật thuế, nâng cấp hệ thống quản lý nhập cư, giảm phụ thuộc vào dầu nhập khẩu nước ngoài, và nhiều công việc khác.

Nhưng không phải công việc của chúng tôi chỉ có thế. Vai trò của công dân trong nền dân chủ của chúng ta không chỉ kết thúc ở lá phiếu bầu. Nước Mỹ chưa bao giờ dừng lại ở những việc được làm cho chúng ta, mà là những việc chúng ta có thể làm cùng nhau, dù khó khăn và chông gai, nhưng cần thiết cho một chính phủ tự trị. Đó là nguyên tắc mà chúng ta đã tạo nên.

Đất nước này có nhiều của cải hơn bất kỳ quốc gia nào, nhưng chúng ta không giàu vì điều đó. Chúng ta có quân đội mạnh nhất trong lịch sử, nhưng điều đó không khiến chúng ta hùng mạnh. Những trường đại học, nền văn hóa của chúng ta đều khiến thế giới ghen tỵ nhưng lại không làm thế giới sát lại gần chúng ta. Điều giúp nước Mỹ trở nên khác biệt chính là mối liên kết vững vàng trong một quốc gia đa dạng nhất trên trái đất, niềm tin về một sứ mệnh chung. Để có điều đó, chúng ta phải chấp nhận những nghĩa vụ nhất định đối với nhau và các thế hệ tương lai để vì nền tự do của người Mỹ. Đó là điều khiến nước Mỹ trở nên vĩ đại.

Tổng thống Obama thể hiện sự chân trọng, cảm thông đối với những doanh nghiệp gia đình thà cắt giảm thu nhập còn hơn sa thải hàng xóm, những người lính vẫn đăng ký tòng quân sau khi mất chân, tay, những quan chức quên mình giúp người dân khắc phục hậu quả bão lụt, hay gia đình có em bé bị bệnh bạch cầu khốn khổ vì công ty bảo hiểm ngừng chi trả chi phí chữa bệnh.

Và tối nay, bất chấp rất nhiều khó khăn mà chúng ta đang trải qua, bất chấp mọi niềm thất vọng của Washington, tôi cảm thấy lạc quan về tương lai hơn bao giờ hết.

Tôi đề nghị các bạn giữ lấy niềm hy vọng đó. Tôi không nói về niềm hy vọng mù quáng. Tôi không nói về chủ nghĩa duy tâm mơ tưởng khiến chúng ta bị gạt ra rìa hoặc trốn tránh nhiệm vụ.

Hỡi nước Mỹ, tôi tin chúng ta có thể đi lên từ những tiến bộ mà chúng ta đã tạo dựng, và tiếp tục phấn đấu để tạo thêm công ăn việc làm và những cơ hội mới và sự bảo đảm vững chắc hơn cho tầng lớp trung lưu.
Tôi tin rằng chúng ta có thể giữ lời hứa với những người đã lập nên đất nước này. Nếu bạn sẵn sàng làm việc chăm chỉ, thì vấn đề bạn là ai, bạn ở đâu tới, bạn trông như thế nào hay bạn yêu nơi nào không có ý nghĩa gì cả. Bạn là người da trắng hay da đen, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay châu Á, người Mỹ bản địa, người già hay trẻ, giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay khuyết tật, đồng tính hay không đồng tính đều không có ý nghĩa gì.

Tôi tin rằng chúng ta có thể cùng nhau nắm lấy tương lai. Vì chúng ta không bị chia rẽ như trong chính trị. Chúng ta vĩ đại hơn tất cả những tham vọng của từng con người.

Và chúng ta không chỉ là tập hợp của những bang xanh và đỏ. Chúng ta đang và sẽ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Với sự trợ giúp của các bạn và của Chúa, chúng ta sẽ tiếp tục hành trình phía trước. Và nhắc nhở thế giới rằng tại sao chúng ta sống trong một quốc gia vĩ đại nhất trên trái đất. Cảm ơn các bạn. Chúa phù hộ các bạn. Chúa phù hộ nước Mỹ.
(ĐVO)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét