Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Thái tử Nguyễn Thanh Nghị - Vì sao TT Obama cần thăm Việt Nam?


Thái tử Nguyễn Thanh Nghị

 
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên  bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh “quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]

Tính chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu” về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành, chúng ta cần bắt đầu từ nhân vật mà, danh chính ngôn thuận, kẻ o hay người được bế ấy không thể không thề thốt học hỏi thật lòng, học đến tận cuối cuộc đời. Đó là cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, người mà họ phải một điều hai điều “cha già dân tộc”.

Cố lãnh tụ ấy, sinh thời, khá là sắt son trong việc học tập “cha già”… nước Mỹ, cố Tổng thống George Washington. Khỏi phải đào sâu trong Hồ Chí Minh tuyển tập dày cộm, chỉ liếc sơ qua đã thấy ông học vị tổng thống đầu tiên nước Mỹ như thế nào rồi, từ việc hệ trọng quốc gia đến việc hệ trọng đời người. Ông học trong Tuyên ngôn độc lập. [2] Rồi ông học việc gia phả, tông đường. [2] Tiểu sử chính thống cho biết ông không vợ không con nên không người kế thừa quyền lực. Mà theo những tiểu sử phi chính thống loại “phản động” nhất thì, ít ra, ông cũng có một đứa con trai vô thừa nhận. [3] Đằng nào cũng vậy, ông giống hệt Washington ở khoản không người kế tục quyền hành.

Nếu không học Washington thì, như là nhà chính trị đầy viễn kiến, có thể nhìn trước thời đại theo một số lời ca tụng, rất có thể ông đã tiên nghiệm được điều mà Stephen Kinzer đã viết vào năm 2011, giữa những diễn biến nóng bóng của Mùa Xuân Ả Rập: các nhà độc tài không nên có con trai. Trong bài “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed” (Con cái những nhà độc tài, từ Ai Cập đến Libya, đều tận số), đăng trên trang mạng The Daily Beast ngày 2 tháng Chín năm 2011, Kinzer khuyên các nhà độc tài rằng họ không nên có con trai, nếu lỡ có ra thì hãy siết cổ trừ hậu họa [4]. Kinzer viết, xin lược dịch:

Con cái của những bạo chúa thường góp phần gia tốc tiến trình sụp đổ của cha mình. Chỉ cần hỏi Mubarak. Tổng thống Hosni Mubarak ở Ai Cập mất sạch quyền lực trong ô nhục phần nào là do ông ta không lưu ý đến một bài học ẩn khuất trong lịch sử, đó là các nhà độc tài không nên có con trai. Nhưng phần lớn đám độc tài này lại có. Điều đó lại góp phần thúc đẩy việc đánh mất quyền lực của họ hay sự sụp đổ đất nước của họ.

  
Người Ai Cập có thể nén lòng cam chịu thêm một thời gian nữa nếu như ông Mubarak già nua không huỵch toẹt tuyên bố rằng ông muốn trao quyền lại cho con trai mình, Gamal Mubarak. Trong toàn bộ những hành vi kiêu ngạo của ông Mubarak thì không có gì sỉ nhục người dân Ai Cập bằng cách cho rằng trong 80 triệu dân chỉ có Gamal Mubarak mới xứng đáng làm nhà lãnh đạo đất nước. Chỉ đơn giản vì ông ta muốn nên Gamal sẽ lên cầm quyền, chả cần đến lá phiếu của người dân.

Chưa đầy một tuần sau các vụ phản đối ở Ai Cập, Tổng thống Ali Abdullah Saleh ở Yemen phải ra mặt thề thốt là, có ra đi, ông ta sẽ không đưa con trai mình, Ahmed, lên làm tổng thống. Cùng lúc, Quốc vương Abdullah ở Jordan, mới vừa kế vị cha mình, đã ra tay giải tán chính phủ trong nỗ lực củng cố chế độ. Xem ra hiện tại triều đại Abdullah này có vẻ vững chãi cũng giống như ở Saudi Arabia, thế nhưng càng ngày quan niệm cho rằng con trai có quyền thừa kế quyền hành hầu như tuyệt đối của cha mình, càng mất dần sự ủng hộ.

 Một số ít con cái các nhà độc tài vẫn tiếp tục giữ được quyền lực kế thừa từ cha ông, như Bashar al-Assad ở Syria và Kim Jong Il ở Bắc Hàn. Nhưng đa số chế độ khác thì thất bại thê thảm. Đặc biệt là Phi châu với rất nhiều thí dụ. Con trai của Idi Amin, Daniel Arap Moi, và Jomo Kenyatta không thể giữ quyền lực mà cha họ cố trao lại. Gần nước Mỹ hơn, Jean-Claude ‘Baby Doc’ Duvalier, nhậm chức Tổng thống Haiti sau khi cha qua đời nhưng không thể nào giữ được; các nỗ lực giành lại chính quyền của ông ta trong thời gian qua đã bị ngăn cản rất nhiều vì trí nhớ người dân không chỉ in hằn sự tham nhũng và tàn bạo dưới thời ông ta mà cả của thời của cha ông ta nữa. […]

Các  nhà độc tài phải làm gì để thoát khỏi lời nguyền này? Có ba chọn lựa. Một là ‘sợi dây lụa’ từng được các giáo vương của Ðế quốc Ottoman ưa chuộng. Họ cho giết con trai của mình – siết cổ bằng sợi dây lụa để tránh đổ máu vì máu hoàng tộc quá thiêng liêng – để trừ hậu hoạ. Trông thì tàn bạo thật nhưng giới ủng hộ truyền thống này cho rằng số người chết vì nó quá nhỏ so với số người thiệt mạng trong các cuộc chiến giành ngôi ở Âu châu.

[…] Giải pháp thứ hai là không có con. Ðó là con đường của George Washington – một số sử gia cho rằng việc mắc bệnh đậu mùa lúc thiếu thời khiến ông tuyệt tự – và điều này có thể có một ảnh hưởng lớn lao với lịch sử Mỹ. Tư tưởng quân chủ vẫn rất mạnh trong thời Washington và ông nhận được sự sùng bái của công chúng đến nỗi nếu có con trai, có thể sẽ có nhiều áp lực để đưa người con lên làm tổng thống. Ðiều đó có thể đã đưa nước Mỹ đi theo một hướng hoàn toàn khác.

Khi thắc mắc là tại sao Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia thịnh vượng nhất trong thế giới Hồi giáo tại Trung Ðông, chúng ta không nên bỏ qua sự thể là lãnh tụ khai quốc, ông Kemal Ataturk, cũng không có con. Cũng giống như Washington, ông được cả nước ngưỡng mộ và có thể dễ dàng cho con trai mình kế nghiệp. Thay vào đó, cũng như Washington, ông ta nhẹ nhàng rút lui khỏi quyền lực để dân chủ rộ nở trên đất nước mình.

Còn có giải pháp thứ ba: đẻ con gái thay vì con trai. Lịch sử cho thấy rằng con gái của các nhà độc tài có khuynh hướng trở thành những nhà lãnh đạo giỏi, nhiều khả năng. Trong số này, ta có thể kể bà Megawati Sukaroputri ở Indonesia, bà Benazir Bhutto ở Pakistan, bà Sheikh Hasina ở Bangladesh, và bà Indira Gandhi ở Ấn Ðộ. Có vẻ như họ thừa hưởng được khả năng lãnh đạo và vận dụng quyền lực của cha mình, và dẫu không vượt qua thói tham nhũng, họ có khuynh hướng cởi mở hơn, dễ dàng chấp nhận thoả hiệp hơn và không bị lôi kéo vào những trò chơi đầy kích thích tố như đua xe, ma túy và tra tấn.

Ðáng tiếccho Mubarak là đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.

Tính đến lúc đó, tháng Chín năm 2011, thì đã quá trễ cho Mulbarak nhưng nếu tính đến bây giờ, tháng Ba năm 2014, có trễ chút nào đối với cha con nói trên, và với bộ máy quyền lực của họ hay không?

Không đoái hoài đến lời khuyên của Kinzer đã đành, nhưng khi mà phong trào “Học tập Bác” đã ầm ĩ từ bao nhiêu năm nay, lẽ nào họ không mảy may biết rằng người khai sinh ra chế độ mình đã thực sự ngộ được điều ấy, y như là người khai sinh nước Mỹ?  Như là những học trò “xuất sắc” của Bác, ắt họ phải biết. Biết Bác mà không chịu học Bác thì, ắt hẳn, họ đã tìm ra bài học khác hay hơn; thứ bài học như là bảo bối, một “anti-dote” có thể xoá sạch “lời nguyền con trai”, bảo đảm rằng con trai của những nhà chuyên chế cũng có thể nối ngôi và góp phần bảo vệ quyền lực của nhà mình.

Trên khía cạnh này chúng ta hãy có thể nhìn ra “công năng” của Nguyễn Thanh Nghị qua lời khuyên mà Matt Ford đã đưa ra trong những ngày sôi động tại Ukraine vào trung tuần tháng Hai. [5] Trong bài “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square and the revolutionary dimensions of public spaces.” (“Hướng dẫn của những nhà độc tài về thiết kế đô thị – Quảng trường Độc lập của Ukraine và những chiều hướng cách mạng của những không gian công cộng”, đăng trên tờ The Alantic 21.2. 2014, tác giả này nhận định:

“Ukraine có kích thước tương đương với tiểu bang Texas của Mỹ nhưng trong suốt ba tháng qua phong trào phản kháng ngày càng lan rộng của nó, phần lớn, dồn ứ vào không gian của 10 khối phố.
 
Tên của phong trào, Euromaidan, là một từ mới hình thành từ tiền tố euro, thể hiện thái độ nhích lại gần hơn với EU và tách xa nước Nga của phe đối lập, với từ maidan trong tiếng Ukraine (gốc từ tiếng Ba Tư và Ả Rập), có nghĩa là quảng trường. Và thuật ngữ này không chỉ biểu lộ vị trí của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Độc lập của thành phố Kiev. Ukraine thuộc về châu Âu về mặt địa lý nhưng những người biểu tình còn coi Âu châu như một tư tưởng, hàm ý một ‘nền dân chủ thực sự, với một lực lượng cảnh sát đáng tin và thực tâm tôn trọng nhân quyền’.

Cái tên ấy nói lên một hiện tượng ngày càng phổ biến: quảng trường công cộng đóng vai tâm chấn cho sự bày tỏ dân chủ và tinh thần phản kháng, và việc thiếu một nơi như vậy – hoặc các hành động có chủ đích về một không gian như vậy – là cách thức để những nhà chuyên chế dập tắt các nhóm bất đồng chính kiến thông qua việc thiết kế đô thị.

 Không phải trung tâm của tất cả các cuộc cách mạng đều ngự tại quảng trường, nhưng những cuộc cách mạng mới đây đã diễn ra như thế, kể cả các cựu cộng hoà Xô viết. Cuộc Cách mạng Hoa hồng Gruzia lật đổ Tổng thống Eduard Shevardnadze năm 2003 đã xuất phát từ Quảng trường Tự do ở Tbilisi. Năm 2005 những người phản kháng Kyrgyzstan đã chiếm lấy Quảng trường Ala-Too từ tay cảnh sát rồi mau chóng tiến vào dinh tổng thống gần đó, lật đổ Tổng thống lâu năm Askar Akayev. Cuộc Cách mạng Cam của Ukraine năm 2004 cũng diễn ra tại Quảng trường Độc lập, ngay tại nơi mà người biểu tình hiện tại đang đụng độ một cách đẫm máu với lực lượng chính phủ, gây áp lực đòi Tổng thống Viktor Yanukovych phải tổ chức bầu cử sớm và trở lại với hiến pháp 2004.

 
Tính biểu tượng của quảng trường đã nảy nở thêm tiềm năng mới trong Mùa Xuân Ả Rập. Viết trong những ngày ngây ngất của cách mạng Ai Cập, một thời gian ngắn sau sự sụp đổ của Hosni Mubarak năm 2011, một tiểu luận gia đã hùng hồn giải thích việc Quảng trường Tahrir thể hiện sự đàn áp rộng lớn hơn đối với xã hội dân sự Ai Cập như thế nào. Quảng trường này được xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ 19, dựa trên một thiết kế kiểu ‘Paris bên bờ sông Nile’ cho Cairo, sau đổi tên thành Quảng trường Tahrir (Giải phóng) khi nó trở thành tiêu điểm cho các cuộc cách mạng Ai Cập vào năm 1919 và 1952:
‘Trên thực tế, trong những tuần qua, Tahrir đã thực sự trở thành một quảng trường. Trước kia nó chỉ là một vòng xoay giao thông rộng lớn và bận rộn – và lại nữa – hạn chế của nó là hệ quả của việc thiết kế chính trị, từ chính sách không chỉ ngăn ngừa mà còn cấm ngặt việc tụ tập đông người. Theo luật khẩn cẩp – ban hành từ khi Mubarak nhậm chức vào năm 1981 và vẫn chưa được xoá bỏ – thì việc tụ tập chỉ một vài người lớn tại nơi công cộng cũng có thể dẫn đến việc bắt bớ. Như hết thảy những chính quyền chuyên chế, chính quyền Mubarak hiểu được sức mạnh của một quảng trường thực sự, nơi mà các công dân có thể gặp nhau, dạo chơi, tản bộ, tụ họp, phản đối, trình diễn và chia sẻ ý tưởng, và hiểu rằng một midan thực sự – quảng trường kiểu Ả Rập – chính là bản tuyên ngôn vật thể của nền dân chủ.
Ở Tahrir điều này ngụ ý việc dựng hàng rào và phân chia thành những bãi cỏ và lối đi dễ quản lý. Hãy nêu ra một thí dụ nổi bật: cho đến thập niên 60 thì phần lớn quảng trường nằm ở trước mặt Bảo tàng Ai Cập là một bãi cỏ rộng với những lối đi đan chéo và một đài phun nước lớn. Tại đây các gia đình và sinh viên có thể tụ tập cả ngày và, với những đôi tình nhân, nó còn là điểm hẹn hò nổi tiếng giữa trái tim thành phố. Nhưng từ thập nhiên 70 chính quyền đã dựng hàng rào quây kín mà không chịu giải thích rõ số phận của điểm hẹn ưa thích này. Người Cairo suy đoán rằng khu này bị quây lại để xây dựng tuyến xe điện ngầm Cairo Metro hay những dự án hạ tầng cơ sở khác. Đâu đó trong thập niên trước một tấm bảng xuất hiện, thông báo việc xây dựng một bãi đậu xe ngầm nhiều tầng bên dưới. Trong những cuộc phản đối tại Quảng trường Tahrir Square, những người biểu tình đã giỡ hàng rào ra rồi sử dụng làm tấm khiên bảo vệ, ngăn cản các vụ tấn công của đám lưu manh ủng hộ Mubarak — và việc tháo giỡ này cho thấy chẳng có một công trình xây dựng nào như hứa hẹn. Quả là một di sản đô thị của Mubarak.’

 Bề mặt của Cairo đã biến Quảng trường Tahrir trở thành một địa điểm lý tưởng để tung ra một cuộc cách mạng. Toạ lạc tại trung tâm thành phố lớn nhất của Ai Cập, Tahrir nằm sát quốc hội, tổng hành dinh đảng chính trị của Mubarak, dinh tổng thống, nhiều toà đại sứ nước ngoài, và các khách sạn đầy phóng viên quốc tế để có thể truyền phát hình ảnh của các cuộc biểu tình đến với khán giả khắp thế giới. Sau khi Mubarak bị hạ bệ, các quảng trường rộng rãi ở các thủ đô Ả Rập khác cũng đã trở thành các đấu trường cách mạng tương tự. […]

Trong nhiều đường hướng thì người Pháp đã đi đầu trong việc áp dụng việc thiết kế đô thị với mục tiêu chính trị. Vào những năm đầu thế kỷ 19 thì về căn bản Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ, ngộp thở với sự chật chội và thiếu thốn hạ tầng. Tiến trình cải tạo đô thị của Baron Haussmann dưới triều Napoleon Đệ Tam vào các thập niên 1850 và 1860 đã mang lại cho Kinh thành Ánh Sáng một hệ thống cống rãnh hiện đại, các công viên ngoại ô xinh đẹp và một hệ thống trạm xe lửa. Ông ta cũng chộp lấy cơ hội này để triệt phá các khu ổ chuột ô hợp, tống khứ những cư dân cùng khổ về vùng ngoại ô và thay thế những ngả hẻm chật hẹp bằng những đại lộ thoáng đãng. Trong trường hợp xảy ra nổi dậy, như đã diễn ra trong những năm 1789, 1830, và 1848, nhà cầm quyền Pháp hy vọng rằng những con đường rộng hơn sẽ vừa làm khó những nhà cách mạng Paris trong nỗ lực thiết lập hàng rào chướng ngại, vừa tạo thuận lợi để các đội hình binh lính Pháp tiến vào đàn áp.

Kiểu tính toán đó vẫn tiếp tục cho đến tận hôm nay. Năm 2005, nhóm quân phiệt cầm quyền Miến Điện dời trụ sở chính quyền từ Yangon, một thành phố rực rỡ sắc màu của 5 triệu người, tới Naypyidaw nằm sâu trong nội địa với mục đích an ninh. Biệt lập với các khu dân cư khác, dân số Naypyidaw – chủ yếu là các giới chức chính quyền và quân sự – chỉ dành thời gian tối thiểu ở thành phố hoang vắng kỳ lạ này. Các giới chức Miến tuyên bố gần một triệu người sống ở đây, dù con số thực sự có thể thấp hơn thế, rất nhiều.

Hai năm sau đó, năm 2007, khi cuộc Cách mạng màu Vàng Nghệ nổ ra thì các cuộc biểu tình lớn làm rung chuyển các thành phố Miến Điện khác không bao giờ diễn ra ở Naypyidaw, và những tên quân phiệt vẫn tiếp tục nắm quyền lực sau một cuộc đàn áp nhanh chóng nhưng tàn bạo. Thậm chí cả khi dân số thành phố đã đủ lớn cho các cuộc biểu tình thì chúng sẽ diễn ra ở đâu? Những đại lộ rộng rãi phân ranh giới các khu dân cư dành riêng cho quan chức, không có quảng trường công cộng hoặc một nơi chống để làm trung tâm tụ tập cho những người dân cứng cổ hay hiền lành. Thậm chí dinh tổng thống còn được bao quanh bằng một hào sâu và một ký giả đã mô tả thành phố này như là một ‘nền độc tài trên phương diện bản đồ học’.

Trong khi đó thì Tổng thống Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan lại dời ghế ngồi quyền lực của mình về Astana, sâu trong thảo nguyên Kazakh, thành phố tràn ngập những đường nét kiến trúc vị lai khiến khách viếng thăm hoa cả mắt. Tổng thống Nga Vladimir Putin thì tìm cảm hứng trong quá khứ: từ năm 2008 ông ta đã khôi phục truyền thống duyệt binh hoành tráng của thời Xô viết ở Hồng trường của Moskva nhằm biểu dương sức mạnh. Vẫn chưa rõ ý ư? Chính quyền Arab Saudi sử dụng Quảng trường Deera ở Riyadh để tiến hành các các vụ chặt đầu, công khai và chính thức.

Những nơi khác thì tinh vi hơn. Ở Bình Nhưỡng, thủ đô hà khắc của nhà nước toàn trị cuối cùng trên thế giới, sự tuân phục răm rắp đã lộ ra theo từng khối bê tông kềnh càng thô vụng. Chỉ những công dân trung thành nhất của Bắc Hàn mới được phép cư ngụ trong những chung cư giống hệt nhau của thành phố, đặc điểm chung của phong cách thiết kế đô thị Stalinist. Thành phố lớn nhất của Bắc Hàn định hình với ‘những tượng đài lớn của một thứ thẩm mỹ đầy khả nghi rải khắp thành phố, nối với nhau bằng những đại lộ kiểu Haussman rộng một cách vô nghĩa lý và những quảng trường khổng lồ nhưng trống rỗng, không một bóng người. Không gian công cộng chỉ tồn tại để tôn sùng nhà nước và cá nhân những lãnh tụ họ Kim.

Nếu sự trương phì quá mức của không gian công cộng có thể là điều xấu thì Quảng trường Thiên An Môn của Trung Quốc là vi phạm tệ hại nhất. Như một nghịch lý, quảng trường lớn thứ tư trên thế giới này có thể xem như là ‘sự đối lập với không gian công cộng’ như Tim Waterman và Ed Wall đã viết trong cuốn sách của họ về kiến trúc cảnh quan. ‘Quy mô toàn trị’ của Thiên An Môn đã khiến ‘các cá nhân trở nên nhỏ bé và buộc họ cảm thấy phục tùng quyền lực nhà nước. Đó là không gian phù hợp nhất cho việc duyệt binh với súng đạn chứ không phải để công chúng thưc sự tham gia vào đời sống thường nhật của đô thị.’ Cuộc đàn áp bằng xe tăng đối với các nhà dân chủ tại quảng trường này vào năm 1989 là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng những cuộc biểu tình quy mô lớn có thể thất bại như thế nào.

Không phải nhà độc tài nào cũng thành thạo việc thiết kế đô thị. Việc tái thiết kế đại quy mô thủ đô Bucharest của lãnh tụ độc tài Nicolae Ceauşescu ở Rumani trong những năm 1980 đã xoá sạch một phần năm diện tích thành phố lịch sử này để dựng nên một mớ hổ lốn những cấu kiện bê tông, bao gồm cái trụ sở quốc hội lớn nhất thế giới chiếm ngự cả đường chân trời của Bucharest. Không một yếu tố nào trong đó ngăn cản được đám đông vĩ đại phản kháng ông ta sau bài phát biểu tại Quảng trường Cách mạng vào tháng 12 năm 1989. Vài ngày sau đó, Ceauşescu bị tóm cổ, bị kết án, và bị xử bắn. […]”

“Quy hoạch” hay “cơ cấu” để con cái tiếp tục làm vua có thể khiến cho công chúng nổi giận và vấn đề, như Ford đã nêu, không phải là đầu hàng mà là “quy họach” và “cơ cấu” lại không gian đô thị như thế nào để có thể dập tắt cơn giận ấy, tránh khỏi vết xe đổ của Mubarak và Ceauşescu?

Có lẽ, những nhân vật chịu trách nhiệm cao nhất cho tuổi thọ của chế độ toàn trị tại Hà Nội đã tính đến điều này khi ẵm cậu trưởng nam của ngài Thủ tướng đặt vào những cái ghế ngồi quyền lực. Có thể lắm. Tính được cả việc khiêu vũ để ngăn cản một nhúm người hoài cổ, muốn đặt vòng hoa trong ngày kỷ niệm chiến tranh thì, với chuyện hệ trọng như mạng số của chế độ mình, có gì mà họ không thể tính tới? Mà cũng không cần phải tính nhiều lắm, chỉ cần liếc sơ qua cái toát yếu lý lịch, có thể thấy rằng cậu quý tử ấy hội đủ điều kiện để giúp cha cậu, hay chế độ của cha con cậu, không giẫm lên vêt xe đổ nói trên.

Thì cậu ta tốt nghiệp kiến trúc tại Việt Nam. Thì, cậu ta tốt nghiệp tiến sĩ civil engineering tại Mỹ. Ngành đó, ngày xưa, một nửa nước Việt Nam gọi là “công chánh”, và như một chuyên viên công chánh, cậu ta cũng là đồng nghiệp bề trên của những ông những trùm khủng bố cỡ lớn như Osama bin Laden hay Yasser Arafat, vốn là hai kỹ sư công chánh. Đến chết thì bin Laden vẫn còn là một tên khủng bố còn Arafat thì, trước khi gác chất nổ lúc gần cuối cuộc đời, từng là mối ám ảnh khủng bố của thế giới trong thập niên 70 và 80. Như là những chuyên viên công chánh, họ có hiểu biết chuyên môn cần thiết để xác định đâu là nơi phải đặt bom và phải đặt bom như thế nào thì mới đạt tới hiệu suất khủng bố cao nhất.

Tiến sĩ công chánh Nguyễn Thanh Nghị được bế vào những bệ phóng quyền lực, có lẽ, cũng được bế với chủ tâm “hiệu suất khủng bố cao nhất” ấy.

Không phải ngẫu nhiên mà “Mùa Xuân Ả Rập” lại… “diễn biến” thành “Mùa Xuân Nguyễn Thanh Nghị” tại cái nơi mà nhà cầm quyền đang ngay ngáy “chống diễn biến”. Không khí cách mạng ở bên kia càng hực nóng bao nhiêu, đường hoạn lộ của Nguyễn Thanh Nghị ở bên này càng thênh thang bấy nhiêu. Hãy nhớ lại những ngày ê chề của cậu ta trong cuộc đua vào Thành ủy TPHCM trong Đại hội 9 của Đảng bộ này vào thượng tuần tháng Mười năm 2010. Đường đường là trưởng nam của một ủy viên Bộ Chính trị vai vế, cậu ta bị lọai khỏi cuộc chơi một cách nhục nhã khi chỉ nhận được có 17 phiếu trong tổng số 400 phiếu bầu. Đó là chặng đua đầu, là cửa ải bắt buộc trước cuộc chạy đua vào Trung ương theo nguyên tắc “dân chủ tập trung” và, với cậu, tình thế xem ra đã hết đường.

Nói theo các nhà tướng số thì cái mà cậu ta cần lúc này là một “quý nhân giúp đỡ” và ai cũng dễ dàng chụp mũ rằng “quý nhân” ấy phải là người cha quyền lực của cậu mà không chịu để ý đến “Mùa Xuân Ả Rập”. Giữa cuộc đấu đá quyết liệt chốn thâm cung ấy ông cha vai vế cũng chẳng xoay xở được gì nhiều nếu không có cuộc Cách mạng Hoa Lài. Sự không may của cha con những gia đình nhà độc tài Ả Rập lại là cái may của cha con cậu: cha cậu khó mà ẵm cậu vào ngai vàng nếu cách mạng không bùng phát tại vùng đất xa cách ấy.

Chỉ vài tuần sau thất bại ê chề “17 phiếu” ấy thì cách mạng nổ ra. Ngày 18 tháng Mười Hai năm 2010, cuộc nổi dậy tại Tunisia bùng nổ thành cuộc cách mạng và từ đây làn sóng dân chủ lan tràn sang các nước làng giềng, Algeria, Jordan, Ai Cập và Yemen. Chỉ trong vòng mấy tháng đã có mấy chính phủ bị lật hay ít ra hay rung rinh,  xuống nước; đã có hàng lọat lãnh tụ từng được xem là bất khả xâm phạm phải lưu vong, bị tước hết quyền hành hay kết liễu sinh mạng một cách thê thảm. Sự dồn dập của không khí cách mạng khiến các chế độ độc tài khác lo sợ và báo động. Bắc Kinh lo sợ và báo động. Hà Nội, cũng lo sợ, báo động và, từng bước từng bước, họ nghĩ lại, họ ẵm cậu ta lên những nấc thang quyền lực cao hơn.

Đầu tiên, tháng Giêng năm 2011, chỉ vài tuần sau khi cách mạng nổ ra tại Tusina, Đại hội toàn Đảng ở Hà Nội đã ẵm Nguyễn Thanh Nghị bế thằng vào Trung ương như một ủy viên dự khuyết, bất chấp nguyên tắc “dân chủ tập trung”. Không khí cách mạng từ những quảng trường Ả Rập càng nóng lên, cậu ta càng được chú ý, càng được “cơ cấu” và “quy hoạch” cao hơn, đúng với… công năng “quy hoạch” và “cơ cấu” của một chuyên gia công chánh. Tháng Mười Một năm 2011, từ một chân Ủy viên Trung ương “đậu vớt”, hoàn toàn không có kinh nghiệm công quyền, cậu ta được bế vào nội các như một Thứ trưởng chuyên trách việc  “chỉnh trang đô thị”. [7]

Điều làm họ nghĩ lại, ắt hẳn, phải là mẫu số chung giữa những “không gian cách mạng” tại các xứ sở như Ai Cập và “công năng” của một chuyên gia có khả năng khủng bố bằng… bê tông.

Thật vậy. Khi bin Laden hay Arafat dùng chất nổ phá tung những khối bê tông, họ đã đánh vào tâm lý của đối thủ, buộc đối thủ phải triền miên sống trong cảnh nhấp nhỏm, bất an. Nhưng khi những nhà cầm quyền Miến Điện, Bắc Hàn, Kazakhstan, Trung Quốc v.v.  cho đổ những mẻ bê tông trong các dự án “cơ cấu” hay “quy họach” thủ đô, họ cũng tiến hành cái công việc khủng bố ấy không hơn không kém.  Như những nhà cầm quyền nhấp nhổm bất an, họ tìm mọi cách để áp chế sức công phá từ trái tim con người, để đè nén những không gian ở đó con nguời có thể tập hợp lại với nhau, có thể truyền cảm hứng và nuôi dưỡng khát vọng cho nhau. Những đám đông như thế cần sống cho nhau và cho đất nước của mình, nhưng cái mà thể chế bạo quyền đòi hỏi là đám đông kia phải sống cho họ, vì họ, vì riêng cái thể chế của họ.

Chắc hẳn bộ máy cai trị đang nhấp nhổm bất an tại Hà Nội đã ý thức được rằng họ không thể mãi mãi bảo vệ “nhà nước pháp quyền” của mình bằng cách đơn thuần trông cậy những trò du kích đá cá lăn dưa. Họ không thể mãi mãi trông cậy vào những bô cứt hay lọ mắm tôm thối ném vào đám đông hay những cái “condom đã qua sử dụng” ném vào khách sạn. Họ không thể vĩnh viễn trông cậy vào đám đông nhếch nhác, “tùng tam tụ ngũ” mấy ông già hom hem mệnh danh “cựu binh” hay “thương binh”, mồm sặc sụa mùi rượu, lưỡi dẻo quánh những tiếng chửi thề. Và họ cũng không thể vĩnh viễn dựa vào đám “vũ viên” trâng tráo, vừa nhón gót trên những trang sử thương đau nhất, vừa láo ngoáy mông trước mặt một trong những vị vua công lao nhất.

Quá khứ Maoist và kiểu cách mạng “nông thôn bao vây thành thị” đã lùi xa. Mạch sống mới đang bùng nổ tại thành thị với sự trưởng thành của giai tầng trung lưu và khát vọng cháy bỏng về một xã hội dân sự. Mà, với Facebook, với các hình thức cà phê dân chủ, ở quán cóc vỉa hè hay quán ảo Internet, không gian đô thị Việt Nam đang  nhân lên đa chiều, rộng hơn mà đậm đặc hơn, sâu hơn mà cao hơn, tiềm tàng sức bật cho một cuộc cách mạng  đô thị. Và đó là điều đã khiến những nhà toàn trị tại Hà Nội nhấp nhổm bất an và họ, nói theo ngôn ngữ của chính họ, nhận ra nhu cầu phải “nâng” cái chiến thuật cũ nát của mình lên “một tầm cao mới”. Từ tính chất phi quy ước và tủn mủn xưa cũ, họ phải hướng tới một tầm cỡ “quy ước “ hơn. Họ phải “quy hoạch”  và  “cơ cấu” lại đô thị để tạo ra những kiến trúc đô thị mang tính “phản cách mạng” hay “phản giải phóng”, không giẫm lại vết xe ở Bucharest hay tại Cairo, có thể bảo đảm rằng Mubarak vẫn có thể tiếp tục cầm quyền cho dù nhân dân Ai Cập đùng đùng nổi giận trước việc “quy họach” hay “cơ cấu” Gamal Mubarak làm người kế vị.

Từ đầu chúng ta đã nhắc đến “công năng chủ nghĩa”. Và chúng ta đang nhắc đến “kiến trúc đô thị” nên, do đó, không thể không nhắc đến Le Corbusier, một trong những nhà kiến trúc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, cha đẻ của trường phái Functionalism với phát biểu nổi tiếng “Nhà là một cái máy để ở”. Nếu nhà là một thứ máy để ở thì đô thị, với các nhà toàn trị, và có thể thấy qua những gì đã trình bày ở trên, sẽ là một thứ “máy” để đàn áp và khủng bố. Nếu “cỗ máy đàn áp – khủng bố” của chế độ toàn trị đã chằng chịt với những bộ máy đoàn thể, tuyên truyền, công an, mật vụ nhà tù  hay cái condom và bô cứt v.v. thì nay sẽ có thêm những mẻ bê tông, với ông thứ trưởng bê tông đang được ẵm vào một bệ  phóng chính trị khác để từ đó còn lên cao hơn nữa.

Đó chính là tính chất “công năng chủ nghĩa” trong việc ẵm bế chính trị bất kể nguyên lý dân chủ tập trung.

Trong bài viết trên Kinzer đã tiếc thay cho Mubarak là “đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”. Nhưng trai hay gái, đó là số phận, là trời cho chứ không phải là chọn lựa và, hôm nay là thế kỷ 21, không một người dân nước nào thể chấp nhận một lãnh tụ siết cổ con mình. Có tiếc, Mubarak chỉ nên tiếc là đã không cho con trai học nghề khủng bố bằng bê tông như cậu trưởng nam của ông  Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

[7]

Nhưng tiếc cái học của con chỉ là chuyện nhỏ và đáng ra thì Mubarak phải tiếc cho cái học của mình. Tiếc đã không khiêm tốn. Tiếc chỉ nhắm mắt tin tưởng vào ưu thế chính trị phù du trước mắt mà không chịu nhìn trước nhìn sau, không chịu nhìn cùng khắp thế giới và nhìn sâu trong lịch sử để học, để mang lại những cái hậu hay hơn, riêng cho mình và chung cho đất nước, cho nhân dân của mình.

Cái đó, chúng ta gọi là “vô hậu”. Mà, trong lối chửi nhau của người Việt, đặc biệt là với người Huế vốn khét tiếng chửi có tích tuồng và bài bản thì “vô hậu” là tiếng chửi cay nghiệt nhất, độc ác nhất.

Và đau đớn nhất….

19.3.2014
  
Thuận Văn
 ___________

Chú thích

[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư: “luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.

[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington, tại New York City ngày 9.7.1776.

[3] Bùi Tín, “Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007

[4] Stephen Kinzer. “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011

[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em mình – đặc  biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm 1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm trong cấm cung.

[6] Matt Ford, “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014

[7]http://amc.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-thoi-su-chuyen-nganh/669-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi.html

[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn & pro&contra

Vì sao TT Obama cần thăm Việt Nam?

TT Obama dự kiến công du Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines vào cuối tháng Tư
Chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tới Việt Nam hẳn sẽ là một ân huệ dành cho vị thủ tướng “tứ bề thọ địch” của nước này.

Tuy nhiên, một chuyến công du như vậy còn lâu mới là ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Obama, trừ phi đổi lại ông có thể đạt được một điều gì đó cụ thể.

Thông tấn xã Việt Nam hôm 15/3 cho biết “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc trao đổi qua điện thoại với ông Denis McDonough, Chánh Văn phòng Nhà Trắng theo ủy quyền của Tổng thống Barack Obama hôm 14/3, theo đề nghị của phía Hoa Kỳ.”

Bản tin trên cho biết: “Hai bên đã trao đổi các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như tăng cường phối hợp trong tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP."

"Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ và cùng tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh hợp tác song phương trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, đầu tư cũng như tăng cường trao đổi, tiếp xúc cấp cao.”

Theo một nguồn tin không kiểm chứng mà chúng tôi có được hôm 10/3 từ Hoa Thịnh Đốn thì Tòa Bạch Ốc cũng đang cân nhắc khả năng công du Việt Nam của Tổng thống Barack Obama trong bối cảnh Trung Quốc liên tục gia tăng sức ép trên Biển Đông và đặc biệt đối với Việt Nam.

Tranh chấp lãnh hải ở biển Đông vẫn là một chủ đề gay gắt giữa các quốc gia trong khu vực
Tổng thống Obama dự kiến sẽ công du đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines vào cuối tháng Tư này như một phần nỗ lực của Hoa Kỳ để tăng cường chính trị, ngoại giao, thỏa thuận kinh tế và an ninh của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Tuy không có chỉ dấu nào vào thời điểm này cho thấy Tổng thống Obama sẽ đưa Việt Nam vào lịch trình chuyến đi, nhưng có thể sẽ có thay đổi tùy theo hoàn cảnh khi Tổng thống buộc phải thay đổi.

Cải thiện hình ảnh

Một chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam trong thời điểm đặc biệt này sẽ giúp Thủ tướng Việt Nam đạt được ít nhất là hai điều.

Thứ nhất, ông ta sẽ được dịp sánh vai với Tổng thống Obama. Thứ hai, ông sẽ được dịp tận dụng cơ hội để cho thiên hạ thấy là mình có một “người bạn” trong Nhà Trắng.

Đối với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhiệm kỳ thứ hai của ông quả là đầy rẫy những thách thức, trong đó có một nền kinh tế trì trệ trầm kha và một loạt vụ bê bối liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ.

Trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên tại Quốc hội ngày 10/6/2013, màn trình diễn hiếm hoi về “văn hoá đối lập” trong nội bộ đảng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạt kết quả rất thấp là đứng thứ tư từ dưới lên. Trước đó, ông đã bị một Đại biểu Quốc hội hối thúc từ chức.




Đối với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhiệm kỳ thứ hai của ông quả là đầy rẫy những thách thức, trong đó có một nền kinh tế trì trệ trầm kha và một loạt vụ bê bối liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ."
Bất chấp việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa làm gì đáng kể để giảm bớt quan ngại của cộng đồng quốc tế về thành tích nhân quyền tồi tệ của Hà Nội, điển hình mới nhất là các vụ xử án quý ông Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào.

Ngài Thủ tướng nắm quyền trong một giai đoạn mà các nhà hoạt động chính trị và nhân quyền, đặc biệt là các bloggers, bị đàn áp ngày càng gia tăng.

Việc được Tổng thống Obama ghé thăm Hà Nội sẽ là một thắng lợi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về mặt quan hệ cộng đồng.

Hình ảnh Thủ tướng sánh vai cùng Tổng thống Obama ngay tại Hà Nội sẽ cho thấy tầm vóc chính trị của ông, bất kể đó là thực tế hay tưởng tượng.

Cho dù có thể bị đủ thứ khó khăn bủa vây, ít nhất ông cũng có thể khẳng định là mình từng thu xếp thành công một chuyến công du của một Tổng thống Hoa Kỳ - chuyến thăm gần nhất của Tổng thống George W. Bush ngày 17/11/2006, trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông.

Trong bối cảnh phải đương đầu với áp lực trong nước và tính chất bấp bênh của cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên Biển Đông thì việc có được một “người bạn” là Tổng thống Hoa Kỳ sẽ là một “quân bài quan trọng trong trường hợp khẩn cấp”.

Một lý do tốt để chuyến thăm diễn ra.

Mối quan tâm của Hoa Kỳ

Có rất nhiều lý do giải thích tại sao Tổng thống Obama lại không có ý kéo dài hành trình bay tới Hà Nội.

Ngoài những mối quan tâm về tình hình trong nước, cuộc khủng hoảng ở Ukraine/Crimea đã cho thấy là một nỗi ám ảnh không cần thiết đối với Nhà Trắng, ấy là còn chưa nói đến cuộc nội chiến dai dẳng ở Syria và những thách thức mà Hoa Kỳ phải đối mặt khi rút quân khỏi Afghanistan.

Hơn thế nữa, Hoa Thịnh Đốn còn có những bận tâm khác gần như thường trực và không kém phần quan trọng trong các “hồ sơ nguyên tử” của Iran và Bắc Hàn.

Dù vậy, lý do thích đáng nhất có lẽ là ở chỗ Ngài Tổng thống, và suy rộng ra là Hoa Kỳ, thật khó có thể từ bỏ chuyến thăm mà vẫn đạt được bất kỳ cam kết cụ thể nào từ những nhà lãnh đạo Việt Nam.




TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa làm gì đáng kể để giảm bớt quan ngại của cộng đồng quốc tế về thành tích nhân quyền tồi tệ của Hà Nội, điển hình mới nhất là các vụ xử án quý ông Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào."
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các đồng chí của ông trong Bộ Chính trị hoàn toàn có thể dễ dàng phóng thích các tù nhân chính trị như một cử chỉ đầy thiện chí trong khi vẫn khước từ cải cách nhân quyền thực chất, một vấn đề luôn hết sức nhạy cảm trong quan hệ Việt - Mỹ.

Tuy nhiên, một chuyến công du tới Việt Nam sẽ cho phép Tổng thống Obama tận mắt thăm viếng đất nước này và gặp gỡ người dân.

Mục tiêu và lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam không phản ánh chính xác mục tiêu và lợi ích của Nhân Dân Việt Nam, và ngài Tổng thống cần gặp gỡ người dân Việt Nam để hiểu rõ hơn mong muốn và nguyện vọng của họ.

Ngoài ra, một chuyến công du như thế sẽ tạo cơ hội hiếm hoi để Ngài Tổng thống gặp gỡ, tạo quan hệ cá nhân trực tiếp với các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Mặc dù Ngoại trưởng John Kerry vẫn làm tốt chức trách là tiếng nói của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, song chỉ Tổng thống Obama mới là người duy nhất có thể làm sáng tỏ tầm nhìn của Hoa Kỳ về tương lai của quan hệ Mỹ - Việt.

Cơ hội cho Việt Nam?

Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không phải là người duy nhất mà Tổng thống Obama cần đầu tư phần lớn thời gian và công sức của ông.

Với việc vị thế của Ngài Thủ tướng trong nội bộ Đảng Cộng sản đã suy yếu bởi tín nhiệm thấp, Tổng thống Obama hẳn sẽ được khuyên là nên tiếp cận với phần còn lại trong ban lãnh đạo cấp cao của Bộ Chính trị Việt Nam.

Ngoài Ngài Thủ tướng, số lãnh đạo trên bao gồm Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (uy tín không ngừng tăng lên của nhân vật này kéo theo mức độ tín nhiệm ngày càng thấp của Thủ tướng), và Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng (xu hướng thân Trung Quốc của người này có thể bị xói mòn bởi chiến dịch tấn công bằng thiện cảm của Hoa Kỳ).

Nếu Tổng thống Obama thăm Việt Nam, ông chắc chắn sẽ không đến tay không.




Sự đảm bảo Việt Nam sẽ được dành một chỗ trong Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), cùng sự ủng hộ (mạnh mẽ nhưng ngấm ngầm) của Hoa Kỳ đối với một giải pháp hoà bình và đa phương cho tranh chấp Biển Đông, sẽ là quá đủ để làm hài lòng các nhà lãnh đạo Việt Nam"
Sự đảm bảo Việt Nam sẽ được dành một chỗ trong Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), cùng sự ủng hộ (mạnh mẽ nhưng ngấm ngầm) của Hoa Kỳ đối với một giải pháp hoà bình và đa phương cho tranh chấp Biển Đông, sẽ là quá đủ để làm hài lòng các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Vấn đề lúc này là Việt Nam có thể làm được những gì để đáp lại Hoa Kỳ.

Ngoài một “lộ trình tiệm tiến cải cách tiến tới tự do, dân chủ hóa Việt Nam” với cam kết rõ ràng, thật khó mà hình dung ra những gì người Mỹ đòi hỏi từ Việt Nam.

Tuy nhiên, thành công lại không nhất thiết phải được đánh giá qua những thành quả cụ thể và ngắn hạn.

Ban lãnh đạo hiện nay của Việt Nam thì bảo thủ – họ không muốn cải cách, ngập ngừng khi phóng tầm nhìn ra ngoài “tấm lưới an toàn” mang tên Trung Quốc, và thận trọng khi giao thiệp với Hoa Kỳ .

Nếu Tổng thống Obama có ý định thay đổi suy nghĩ của họ thì ông không thể làm điều đó từ Nhà Trắng hay cử Ngoại trưởng John Kerry đi thay mình.

Ở một nơi mà ký ức thường kéo dài và quan hệ cá nhân đóng vai trò quan trọng như Việt Nam, Tổng thống Obama phải thực hiện chuyến công du và xác định vị trí của Mỹ trong tương lai của Việt Nam.

Với chính sách xoay trục của Hoa Kỳ sang Châu Á – Thái Bình Dương, một mối quan hệ đối tác với Hà Nội, hay chí ít là một mối quan hệ hữu hảo, có thể cho thấy là thực sự hữu ích.

Mặt khác, đối với Hà Nội, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng trở thành một thế lực chi phối ở Đông Nam Á, mối quan hệ Việt - Mỹ không phải là món quà tự nhiên mà có.

Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một luật sư sống tại Ottawa, Canada.


Luật sư Vũ Đức Khanh
Theo BBC

'Trừng phạt Nga có thể bị phản ứng ngược'

Tổng thống Nga Putin tỏ ra cương quyết trong việc sáp nhập Crimea vào Nga

Chuyện sáp nhập Crimea của Ukraine vào Liên bang Nga coi như đã xong, một cách êm thắm, hoà bình, hợp pháp và thể hiện đúng ý dân ở đó – theo cách nhìn của Tổng thống Nga Vladimir Putin.

Khi kết quả trưng cầu dân ý hôm 16/3 được công bố, với 97% phiếu đồng ý tách Crimea khỏi Ukraine, ngay sau đó nước Nga chính thức đón nhận Crimea trở về với đất mẹ

Điều ông Putin muốn thực hiện đã thành công, dù có cảnh báo trước nếu làm thế sẽ bị Hoa Kỳ và các nước trong Liên hiệp châu Âu EU trừng phạt.

Hoa Kỳ và EU coi việc sáp nhập Crimea là vi phạm hiến pháp Ukraine và luật quốc tế nên không công nhận kết quả.

Cuộc đối đầu giữa Nga với Mỹ và với khối EU cho đến nay mới chỉ là ngôn từ ngoại giao, kèm với biện pháp chế tài vài chục nhân vật người Ukraine và người Nga.

Sau khi Nga công nhận chủ quyền độc lập của Crimea, hôm 17/3 Tổng thống Barack Obama ký sắc lệnh phong tỏa tài khoản ngân hàng và ngăn cấm không cho vào Mỹ 11 nhân vật đã gây ra khủng hoảng Ukraine.




Ngay cả một nhân vật Nga đối lập với Tổng thống Putin là ông Aleixe Navalny cũng cho rằng cách trừng phạt của Mỹ “chỉ làm những kẻ lừa đảo vui lên và khuyến khích họ thêm"
Trong số đó có tổng thống đã bị truất nhiệm Viktor Yanukovych, vài cố vấn thân tín của Tổng thống Putin như Dmitry Rogozin, Vladislov Surkov và Sergei Glazyev.

EU cũng có biện pháp tương tự với 10 chính khách và 3 sĩ quan quân đội Nga, 7 người Crimea và một chỉ huy hạm đội Hắc Hải Ukraine đã đào thoát sang Nga.

Quyết định của Tổng thống Obama bị một số nhân vật trong chính giới Mỹ cho là quá yếu, biểu lộ sự thiếu cương quyết của Mỹ trong việc đối đầu với Nga.

Trong bài bình luận trên báo Wall Street Journal ngày 18/3, cựu ứng viên tổng thống Mitt Romney cho rằng từ năm năm qua chính sách ngoại giao của Tổng thống Obama đã đặt Hoa Kỳ vào thế yếu, không còn được thế giới tin tưởng, qua một số sự kiện như “lằn đỏ” ở Syria hay việc Iran chế vũ khí hạt nhân mà Hoa Kỳ đã không có những biện pháp mạnh hơn.

Khi Nga nhìn ra thế yếu và sự thiếu cương quyết từ Mỹ, khủng hoảng Ukraine đưa tới việc sáp nhập Crimea là hệ quả của chính sách ngoại giao “reset - đặt lại quan hệ” của Tổng thống Obama, ông Romney nhận định.

Thượng Nghị sĩ Lindsey Graham mạnh mẽ chỉ trích Tổng thống Obama chỉ hù dọa mà không có những hành động cụ thể khiến thế giới coi đó là sự yếu kém của Hoa Kỳ.

Còn cựu ngoại trưởng Condoleezza Rice cho rằng chủ trương của chính quyền Obama là Hoa Kỳ nay không còn đóng vai trò cảnh sát thế giới nên đưa đến những hệ quả hiện tại.

Bộ trưởng Quốc phòng Israel mới đây cũng có nhận xét nước Mỹ đã tỏ ra yếu mềm trong việc ngăn chặn Iran chế tạo vũ khí hạt nhân.

'Khuyến khích họ thêm'

Trước những trừng phạt của Mỹ, các quan chức Nga có tên trong danh sách coi việc này như chuyện hài.

Nga cũng tuyên bố các biện pháp đáp trả trừng phạt với phương Tây.
Phó Thủ tướng Dmitry Rogozin có lời nhắn qua Twitter khi hay tin bị Mỹ trừng phạt: “Một nhân vật diễu hài nào đó đã viết sắc lệnh này cho Tổng thống Mỹ. LOL”

Ngay cả một nhân vật Nga đối lập với Tổng thống Putin là ông Aleixe Navalny cũng cho rằng cách trừng phạt của Mỹ “chỉ làm những kẻ lừa đảo vui lên và khuyến khích họ thêm.”

Đến ngày 20/3 Tổng thống Obama ký thêm một sắc lệnh nhắm vào chánh văn phòng của ông Putin là Sergei Ivanov và 19 nhân vật thân tín nữa như Arkady Rotenberg, Gennady Timchenko.

Sắc lệnh mới cũng ngăn cấm giao dịch với Ngân hàng Rossiya của Nga được coi là nơi kinh tài của ông Putin và thuộc cấp.

Về phía EU, Thủ tướng Đức Angela Merkel nói rằng nhóm G-8, là nhóm gồm những cường quốc kinh tế trong đó có Nga, đã bị khai tử và hội nghị thượng đỉnh EU-Nga cũng sẽ không diễn ra.

Đáp lại, Nga ban hành lệnh cấm nhập cảnh với chín chính khách Mỹ, gồm ba phụ tá cố vấn an ninh Bạch Ốc, ba dân cử Đảng Cộng hoà và ba thuộc Đảng Dân chủ.

Khi biết bị cấm đến Nga, Thượng Nghị sĩ John McCain viết trên Twitter: “Tôi hãnh diện bị Putin trừng phạt và sẽ không bao giờ ngưng những nỗ lực và cống hiến cho tự do và độc lập của Ukraine, bao gồm cả vùng Crimea.”

Một dân cử khác, Thượng Nghị sĩ Robert Menendez cũng viết qua Twitter: “Nếu yểm trợ cho nền dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine đưa đến việc bị Putin trừng phạt, tôi sẽ chọn điều đó.”

'Chiến tranh lạnh trở lại?'




Với khủng hoảng Ukraine còn kéo dài, liệu chiến tranh có bùng nổ? Giới quan sát dự đoán là không, vì kinh tế EU và Nga ngày nay lệ thuộc nhiều vào nhau, vì Ukraine không là thành viên NATO và vì Hoa Kỳ nay không còn muốn trực tiếp can dự vào những giải pháp quân sự ở nước ngoài.
Với khủng hoảng Ukraine ngày càng nóng lên và hiện tại mới chỉ có những biện pháp kinh tế. Tuy nhiên, có lo ngại rằng Chiến tranh Lạnh đã trở lại vì không chỉ căng thẳng ở Ukraine mà cùng lúc Trung Quốc đang trỗi dậy ở phương Đông cũng để đối đầu với Hoa Kỳ qua xung đột trên biển, qua sự kiện Bắc Kinh vẽ đường lưỡi bò và xác định vùng phòng không.

Trong biến cố Crimea, một nghị quyết không công nhận kết quả trưng cầu dân ý ở Crimea được biểu quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc với 13 phiếu thuận, phiếu chống duy nhất của Nga và Trung Quốc bỏ phiếu trắng.

Lá phiếu trắng khiến những nước đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc quan ngại nước này có thể cũng sẽ có hành động lấn chiếm hay sáp nhập vùng tranh chấp và Nga cũng sẽ đồng tình im lặng.

Với khủng hoảng Ukraine còn kéo dài, liệu chiến tranh có bùng nổ? Giới quan sát dự đoán là không, vì kinh tế EU và Nga ngày nay lệ thuộc nhiều vào nhau, vì Ukraine không là thành viên NATO và vì Hoa Kỳ nay không còn muốn trực tiếp can dự vào những giải pháp quân sự ở nước ngoài.

Tổng thống George W. Bush, dù đã khởi động hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan với lý do bảo vệ an ninh Hoa Kỳ, cũng đã không can thiệp khi Nga đem quân vào Georgia năm 2008.

Hơn phần tư thế kỷ qua, quan hệ giữa các cường quốc, bất kể thể chế chính trị, đã thay đổi theo chiều hướng ràng buộc nhau qua hiện tượng “toàn cầu hoá”. Nếu có chiến tranh, ảnh hưởng xấu về kinh tế sẽ bao trùm thế giới.

Sau những đối đầu quân sự ở Việt Nam trong thập niên 1960, Afghanistan và Campuchia thập niên 1980, các cường quốc đều muốn tránh chiến tranh.

Có người ước nước Mỹ có một tổng thống mạnh mẽ như thời ông George W Bush.
Trước cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu – thời điểm còn Chiến tranh Lạnh – và trước khi quan hệ giữa Mỹ-Trung chính thức mở ra năm 1979 thì quan hệ thương mại hầu như đóng khung trong các định chế chính trị gần như cứng nhắc.

Các nước kinh tế thị trường buôn bán với nhau, các nước xã hội chủ nghĩa giao thương với nhau mà không có nhiều trao đổi thương mại giữa hai khối.

Thời Chiến tranh Lạnh, Hồng quân Nga đã tiến vào Budapest, vào Prague khiến Mỹ tăng cường phòng thủ quân sự ở Tây Âu qua Liên minh NATO để đối đầu với sự bành trướng của Liên Xô.

Ở châu Á, Mỹ đưa quân vào Nam Việt Nam, có Liên minh quân sự SEATO để phòng thủ, ngăn chặn Trung Quốc.

Khi Hoa Kỳ đã tạo dựng quan hệ kinh tế với Trung Quốc vào đầu thập niên 1970, Mỹ quyết định rút khỏi Đông Dương và khối SEATO tan rã.




EU chi một năm 550 tỉ đôla để nhập xăng dầu và hơi đốt, một phần ba từ Nga. Nếu Nga trả đũa, liệu Hoa Kỳ và các nước sản xuất dầu khí khác có khả năng giúp EU đủ nhiên liệu để giữ vững mức phát triển kinh tế?"
Cuối thập niên 1970 lại bùng nổ chiến tranh. Việt Nam xâm lăng Campuchia, Trung Quốc tấn công Việt Nam, Liên Xô đem quân vào Afghanistan.

Khi xe tăng Liên Xô tiến vào thủ đô Kabul của Afghanistan cuối năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter có lệnh trừng phạt kinh tế, sau đó là tẩy chay Olympic 80 ở Moskva.

Kết quả không buộc được Hồng quân rút về và năm 1984, Liên Xô cùng các nước Đông Âu đáp trả bằng cách tẩy chay Olympic 84 ở Los Angeles.

Khi Ronald Reagan lên làm tổng thống, Mỹ giúp vũ khí cho các lực lượng Mujahideen để giải phóng Afghanistan và cuộc chiến này kéo dài một thập niên cho đến khi Liên Xô rút lui năm 1989.

Với bộ đội cộng sản Việt Nam chiếm đóng Campuchia, Hoa Kỳ cũng áp dụng biện pháp phong toả kinh tế với Hà Nội, cùng lúc yểm trợ các lực lượng vũ trang mở cuộc chiến tranh du kích cho đến khi Việt Nam rút quân và một giải pháp hoà bình được ký kết năm 1993.

'Không muốn đương đầu'

Các cuộc điều quân vào một nước khác đều làm hao tốn ngân sách, nhân mạng: Mỹ tại Việt Nam, Nga ở Afghanistan, Việt Nam ở Campuchia. Cũng như trong thập niên trước Hoa Kỳ đưa quân vào Iraq và Afghanistan.

Tổng thống Obama đang đưa ra những biện pháp trừng phạt mạnh đối với Nga.
Qua những trải nghiệm đó của nhiều quốc gia, việc đối đầu quân sự kéo dài không còn là đáp án cho những xung đột. Nếu có chỉ là can thiệp nhanh chóng như ở Kosovo, Somalia, ở Lybia.

Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc với Đông Âu dân chủ hoá và Liên bang Sô-viết tan rã, cùng lúc Trung Quốc mở cửa, phát triển thương mại với nhiều nước, từ đó trao đổi thương mại thế giới tăng nhanh nhờ các hiệp ước được ký kết song phương hay giữa các khối như EU ở châu Âu, ASEAN ở châu Á, NAFTA ở Bắc Mỹ và WTO cho toàn cầu.

Ngày nay mối quan hệ giữa các nước là một ràng buộc chằng chịt, lệ thuộc vào nhau trong quan hệ kinh tế, thương mại nên các cường quốc như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật, Nam Hàn – nhiều nước có vũ khí hạt nhân – không muốn phải đối đầu qua chiến tranh, vì nếu xảy ra, ảnh hưởng của nó không chỉ tác động cục bộ mà lây lan toàn cầu.

Không muốn đối đầu với chiến tranh nên chế tài kinh tế, phong toả giao thương đang được áp dụng.

Dù trong nội các của chính phủ Obama có ý kiến muốn Hoa Kỳ phản ứng quyết liệt hơn, nhưng lãnh đạo thương mại và tài chánh của Mỹ đã ngần ngại trừng phạt nặng đối với Nga vì sợ sẽ ảnh hưởng xấu đến kinh tế của EU nếu Nga đáp trả, từ đó lây lan sang kinh tế Mỹ.

EU chi một năm 550 tỉ đôla để nhập xăng dầu và hơi đốt, một phần ba từ Nga. Nếu Nga trả đũa, liệu Hoa Kỳ và các nước sản xuất dầu khí khác có khả năng giúp EU đủ nhiên liệu để giữ vững mức phát triển kinh tế?

Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một nhà báo tự do hiện sinh sống tại California, Hoa Kỳ.
Bùi Văn Phú
Theo BBC

Ðòn kinh tế của Mỹ với Nga

Ðể chiếm lại Crimea đem về cho nước Nga, Putin phải trả giá rất đắt. Năm ngoái, ngân sách chính quyền Crimea được chính phủ Ukraine trợ cấp $850 triệu. Năm tới trở đi, ông Putin sẽ phải chi. Chính phủ ở Kiev cũng chi gần tỷ Mỹ kim trả tiền hưu bổng cho những người lớn tuổi trong vùng Crimea. Mai mốt họ sẽ ngưng trả, lấy lý do vùng này ly khai bất hợp pháp; và họ có thể nêu vấn đề này trong các cuộc mặc cả kinh tế sắp tới với ông Putin.

Crimea hiện nay được Ukraine tiếp tế nước (90%), điện (80%) và hơi đốt (65%). Chính phủ Nga có thể thay chân tiếp tế, nhưng phải mất hàng năm xây dựng hạ tầng cơ sở. Trong ba bốn tháng tới, dân Crimea sẽ thấy một hậu quả trước mắt: Vắng bóng du khách. Năm ngoái, hai triệu dân Crimea được đón tiếp 6 triệu du khách, trong đó hơn 4 triệu là người Ukraine. Cả du khách khác từ Âu Châu, năm nay còn ai muốn đến thăm một xứ bất ổn như vậy nữa? Phải mất nhiều năm số du khách Nga mới đến thay thế được. Trong mấy năm tới ông Putin sẽ phải chi mỗi năm vài tỷ Mỹ kim để nuôi vùng Crimea.

Nhưng đó không phải là hậu quả kinh tế quan trọng nhất của hành động “tái nhập Crimea” vào nước Nga. Các chính phủ Mỹ và Châu Âu sẽ đưa ra những đòn phong tỏa, trong một cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên mặt trận kinh tế. Ông Putin đã và sẽ trả đũa, hai bên sẽ ghìm nhau, chờ phản ứng của bên kia trước khi leo thang. Cuộc chiến tranh lạnh kinh tế sẽ diễn ra từ từ, từng bước một, Obama cấm visa một số nhân vật Nga thì Putin cũng cấm một số người Mỹ. Obama phong tỏa một số xí nghiệp và ngân hàng Nga thì Putin cũng đáp lại tương xứng. Hai bên sẽ gờm gờm nhìn nhau, chiến tranh lạnh có thể kéo dài hai, ba năm hoặc lâu hơn.

Phong tỏa kinh tế có khi hiệu quả, có khi không; mà chắc chắn cả hai bên đều gây thiệt hại cho nhau. Trong cuộc đấu sức, bên nào dai sức, chịu đựng được lâu hơn, thì cuối cùng sẽ thắng thế. Hiện nay, kinh tế Nga đang trong cơn suy yếu; trong khi kinh tế Âu Châu và Mỹ đang bắt đầu hồi phục; cho nên nếu hai bên cứ tiếp tục leo thang thì chắc Nga sẽ đuối. Nhớ lại, Iran bắt đầu bị Châu Âu phong tỏa kinh tế từ năm 2012; sau khi Mỹ đã bắt đầu trước; với cách không mua dầu lửa, phong tỏa trương mục ngân hàng của các công ty và đại gia Iran ở ngoại quốc, chưa đầy hai năm Iran đã chịu không nổi, vì năm ngoái tổng sản lượng của Iran giảm 6%, trong khi lạm phát lên gần 40%. Trước đây, Iran là nước xuất cảng dầu thô nhiều thứ tu trên thế giới.

Tuần tới, Tổng Thống Obama sẽ gặp thủ lãnh các nước kinh tế hàng đầu G-7 (Nga đứng hàng thứ tám, không được mời). Ông Obama sẽ đề nghị những biện pháp phong tỏa đồng loạt và mạnh hơn. Các nước Âu Châu sẽ dè dặt, vì họ ràng buộc với Nga chặt chẽ. Cho nên, khi Phó Tổng Thống Mỹ Joe Biden sang thăm các nước Ba Lan và ba nước miền Baltic tuần rồi, tất cả mới thoát ách “đô hộ” của Nga từ năm 1990, nhưng cả bốn nước đều dè dặt không muốn bàn vấn đề phong tỏa kinh tế Nga bây giờ. Ba nước vùng Baltic, cũng như Thụy Ðiển, Phần Lan, nhập cảng 100% hơi đốt sử dụng từ Nga; còn Ðức, Ba Lan cũng tùy thuộc từ 40% đến 60%.

Nhưng khi nói ràng buộc, chúng ta phải hiểu bao giờ cũng có hai chiều, tôi bị ràng buộc với anh nghĩa là anh cũng bị ràng buộc với tôi. Nếu Nga ngưng xuất cảng dầu lửa và hơi đốt sang Âu Châu thì kinh tế sẽ nghẹt thở, vì sẽ mất một số khách hàng quá lớn. Trong năm 2012 dầu và hơi đốt chiếm 70% số hàng xuất cảng của Nga, và cung cấp 52% ngân sách của chính phủ Nga. Liên Hiệp Âu Châu (EU) bán 169 tỷ đô la hàng hóa sang Nga, nhưng một nửa hàng hóa Nga xuất cảng bán sang Châu Âu (gần 300 tỷ đô la Mỹ), là 15% Tổng Sản lượng nội địa (GDP) gần hai ngàn tỷ đô la của nước Nga.

Ông Obama được tự do, có thể tấn công ông Putin mạnh hơn, vì quan hệ kinh tế Mỹ với Nga không quá chặt chẽ. Trong số các nước bán hàng cho dân Mỹ xài, nước Nga, với số nhập cảng 27 tỷ Mỹ kim, đứng hàng thứ 20. Nhưng Mỹ là nước đứng thứ năm trong số các nước bán hàng cho Nga, dù số thương vụ chỉ có 11 tỷ Mỹ kim. Cho nên nếu ông Obama leo thang mà ông Putin trả đũa đến cùng, chỉ một số công ty Mỹ bị thiệt hại, nhiều nhất là Boeing, Exxon, và Ford Motors.

Nga dễ bị thương tổn nếu cuộc chiến tranh kinh tế kéo dài, vì nền kinh tế Nga tùy thuộc quá nhiều trên việc xuất cảng tài nguyên thiên nhiên; đặc biệt là dầu và hơi đốt. Năm ngoái, tỷ lệ tăng trưởng của GDP chỉ có 1.3%. Sau khi lính Nga không đeo phù hiệu chiếm đóng Crimea, đồng rúp và thị trường chứng khoán Nga tụt giảm mạnh vì người ta đã dự đoán sẽ có phong tỏa kinh tế. Trong ngày 3 Tháng Ba vừa rồi, cổ phần ghi trên thị trường Micex tụt giá, tổng cộng mất 60 tỷ đô la, cao gấp tám lần ngân sách chi cho Thế Vận Hội Mùa Ðông trước đó. Hôm qua, sau khi Mỹ công bố thêm tên những công ty, ngân hàng, và nhân vật bị cấm vận, cổ phiếu của tất cả các công ty liên hệ tới họ đều xuống từ 2 đến 5%.

Việc phong tỏa tài sản các đại gia thân cận của ông Putin không có ảnh hưởng bao nhiêu đến họ, vì họ đã chuẩn bị rút tiền, chuyển tài sản từ các nước Âu Châu, Canada, Úc và Mỹ đi tới những nước an toàn hơn. Ảnh hưởng tai hại lớn là trên toàn thể nền kinh tế, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, nếu ông Obama đi thêm bước nữa. Hai công ty thẩm lượng tín dụng, S&P và Fitch, đã cắt điểm tín nhiệm của Nga, một hậu quả là từ nay nhiều xí nghiệp và ngân hàng Nga sẽ vay tiền với lãi suất cao hơn. S&P cũng ước định tỷ lệ tăng trưởng của kinh tế Nga năm nay xuống gần sát với số không, nghĩa là không lên thêm được. Công ty này còn cho biết trong ba tháng đầu năm 2014 các đại gia đã chuyển ra khỏi nước Nga số vốn khoảng 60 tỷ Mỹ kim, cao gần bằng số tiền vốn bỏ chạy trong cả năm 2013.

Những hành động khuấy động rồi chiếm Crimea của ông Putin cũng là một cách làm lạc hướng dư luận dân Nga để họ bớt nghĩ đến nền kinh tế đang suy yếu. Nay mai, ông Putin còn có thể đổ hết trách nhiệm kinh tế suy yếu cho Mỹ và các nước Châu Âu! Kinh tế Nga không suy yếu từ khi có khủng hoảng tại Ukraine, mà đã bắt đầu sẵn từ trước. Khi giá trị đồng rúp tụt xuống vì vụ Crimea, Ngân Hàng Trung Ương Nga lại tăng lãi suất để giữ giá đồng bạc, khiến cho giới kinh doanh Nga càng khó vay tiền hơn. Việc phong tỏa không cho các xí nghiệp và ngân hàng Nga sử dụng đầy đủ hệ thống tài chánh và ngân hàng thế giới sẽ khiến kinh tế Nga càng bị cô lập, khó gây vốn trong thị trường quốc tế. Hiện nay, Châu Âu và Mỹ mới nhắm vào việc phong tỏa các đại gia và cố vấn thân cận của ông Putin, nhưng nếu mở rộng ra các xí nghiệp và ngân hàng lớn thì hậu quả sẽ nặng nề hơn.

Nhưng một “vũ khí” lợi hại nhất mà ông Obama có thể sử dụng là tấn công ngay vào thị trường dầu, khí, nguồn vú sữa đang nuôi sống kinh tế Nga cũng như cả nhóm đại gia “quả đầu” chung quanh ông Putin. Ngày hôm qua, nhật báo Wall Street Journal, đại biểu cho khuynh hướng bảo thủ trong đảng Cộng Hòa, đã thúc giục: “Tổng Thống Obama nên báo hiệu cho thế giới biết ông sẽ tích cực chấm dứt vai trò thống ngự của Nga trên nguồn năng lượng của Châu Âu; bằng cách chấp thuận ngay các dự án xin thiết lập các bến tàu chuyên dùng để xuất cảng hơi đốt.” Các đại biểu Quốc Hội Mỹ, đặc biệt là thuộc đảng Cộng Hòa cũng đang thúc đẩy chính phủ xúc tiến việc xuất cảng dàu, khí sang Châu Âu để giúp các đồng minh thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Nga.

Ðây là biện pháp nguy hiểm nhất, ảnh hưởng lâu dài trên kinh tế cả nước Nga. Nhưng có thể dùng để đe dọa chính quyền Putin ngay bây giờ hay không?

Nước Mỹ hiện nay đã vượt qua Nga để thành quốc gia sản xuất hơi đốt nhiều nhất, và trong dăm năm nữa Mỹ sẽ vượt qua Á Rập Saudi về số sản xuất dầu thô lớn nhất. Ðó là nhờ những phát kiến kỹ thuật khai thác mới ở Mỹ, được phát triển trong vòng dăm năm qua, khoan ống hàng dọc và hàng ngang, dùng sức ép của nước đẩy dầu và khí phun lên. Luật lệ ở Mỹ không cho phép xuất cảng hơi đốt, trừ cho một số nước có hiệp định tự do mậu dịch; ngoài ra muốn xuất cảng đi nước khác phải xin phép. Hơi đốt xuất cảng phải được biến sang thể lỏng, chuyển sang Châu Á hay Châu Âu bằng tàu thủy. Vì vậy, phải xây dựng những “cầu tàu” đặc biệt, là nơi biến hơi đốt ra thể lỏng, có bến đậu an toàn cho loại tàu lớn đến nhận hơi đốt lỏng. Hiện có mấy chục đơn xin lập những cầu tàu như vậy, còn chờ chính phủ Mỹ duyệt xét. Nếu chính phủ Obama tuyên bố sẽ tiến hành việc cho phép nhanh chóng hơn, và cứu xét việc cho phép xuất cảng dầu và khí đốt sang Châu Âu, đặc biệt là sang Ukraine, thì các thị trường dầu, khí, than đá, nói chung các loại năng lượng, sẽ chuyển động ngay!

Tuy nhiên, đây không phải là một mối đe dọa tức thời đối với chính quyền Nga. Hiện nay, Mỹ chỉ có đủ cơ sở và phương tiện có sẵn để bán dầu và hơi đốt cho Ukraine, nếu họ bị Nga đe dọa cắt. Ở Châu Âu đã có sẵn bến cảng tiếp nhận được hơi đốt lỏng ở Tây Ban Nha, một nước không mua dầu, khí của Nga. Những ống dẫn dầu khí nối liền các nước Châu Âu có thể cho chạy ngược chiều, đem hơi đốt từ Tây Âu sang Ukraine hoặc Ba Lan. Mùa Ðông vừa qua không lạnh lắm, cho nên các nước Châu Âu đều còn dư khí đốt dự trữ, đủ dùng hàng năm nữa. Nhưng việc hoàn tất các cầu tầu để đưa hơi đốt lỏng đi, hoặc để đón nhận hơi đốt tới, đều phải kéo dài hai, ba năm hoặc lâu hơn. Ngoài ra, việc xuất cảng dầu, khí sang nước nào là quyết định của các công ty thương mại chứ không phải của chính phủ Mỹ. Hiện nay dầu, khí bán cho các nước Á Châu được trả giá cao hơn ở Châu Âu rất nhiều. Cho nên dù ông Obama có đưa ra một “tín hiệu” như bên đảng Cộng Hòa yêu cầu, thì hậu quả đối với việc Nga cung cấp dầu, khí cho Châu Âu cũng còn lâu mới thành sự thực.

Nói như vậy, nhưng chính quyền Putin cũng khó ngủ yên nếu tín hiệu được đưa ra cho thế giới biết. Giá dầu lửa và hơi đốt khắp nơi sẽ hạ thấp, khi mọi người biết có một nguồn cung cấp lớn từ nước Mỹ sẽ gia nhập thị trường. Năm 2000, khi ông Putin mới lên cầm quyền, ông gặp may vì đúng lúc đó giá dầu lửa bắt đầu tăng lên, lần đầu tiên lên trên 100 đô la một thùng. Nước Nga chỉ đào đất lên lấy dầu và quặng mỏ đem bán là đủ sống. Nhưng vận may này chỉ kéo dài cho tới năm 2008, khi kinh tế thế giới xuống dốc, giá dầu khí và các nguyên liệu cũng xuống theo. Với một nửa ngân sách quốc gia tùy thuộc vào dầu khí xuất cảng, nếu giá dầu xuống thì ngân sách sẽ khiếm hụt nặng nề. Kinh tế cả nước tùy thuộc vào dầu khí, tất cả sẽ bị ảnh hưởng.

Kinh tế Nga sẽ tới lúc đuối sức nếu cuộc chiến tranh lạnh mới kéo dài, nhưng chưa chắc ông Putin đã nhường một bước nào. Trong khi các chính phủ Âu Châu lo làm sao không để cho dân mình nghèo hơn vì chiến tranh kinh tế, thì ông Putin không quan tâm. Ông đã bám chắc ngai tổng thống 2 nhiệm kỳ, trong 10 năm tới, trừ khi ông muốn ngồi hơn! Một nhà bình luận trên hệ thống CNN còn đề nghị các nước Tây phương hãy hô nhau tẩy chay giải bóng tròn thế giới (World Cup) năm 2018 ở Nga, để trừng phạt việc chiếm Crimea. Có lẽ hành động này sẽ làm dân chúng thấy những việc ông Putin làm chỉ gây tổn thương cho uy tín của dân tộc Nga!

Khi ông Obama sang Châu Âu tuần tới, ông sẽ đề nghị khối NATO tăng cường phòng vệ các nước từ Ba Lan lên miền biển Baltic; để các nước khác yên lòng. Nhưng việc đó sẽ giúp ông Putin kích thích tự ái của dân Nga, khiến uy tín của ông lên cao hơn. Nếu trước khi đi ông Obama mạnh dạn công bố dự định bán dầu, khí của Mỹ sang Châu Âu, đồng thời cô lập các ngân hàng Nga trong hệ thống tài chánh quốc tế, rồi phong tỏa các dòng luân lưu rửa tiền của các đại gia Nga, thì hiệu quả có thể nhanh chóng hơn nhiều. Trong suốt thời gian trước và sau cơn khủng hoảng ở Ukraine, ông Obama đóng vai thụ động, chỉ chống đỡ các đòn do ông Putin phóng ra. Ðối với ông Putin thì chiến thuật trả đũa từng bước chỉ chứng tỏ một thế yếu kém. Bây giờ là lúc ông Obama phải đổi thế cờ, tấn công trước, và tấn công một cách toàn diện, dù chỉ trên mặt trận kinh tế.
Ngô Nhân Dụng
Theo Người Việt

Báo Nhật: JTC hối lộ quan chức đường sắt VN 80 triệu yen

JTC là công ty chuyên ngành tư vấn xây dựng đường sắt, với hơn 50 năm kinh nghiệm ở Nhật Bản. Ảnh website JTC
(TBKTSG Online) – Chủ tịch Công ty tư vấn giao thông Nhật Bản (Japan Transportation Consultants – JTC) thừa nhận JTC đã hối lộ cho quan chức ở ba nước Việt Nam, Indonesia và Uzbekistan để giành được hợp đồng tư vấn xây dựng đường sắt sử dụng vốn ODA Nhật Bản tại các nước này, báo Nhật Yomiuri Shimbun cho biết.
Theo các nguồn tin mà báo Yomiuri Shimbun trích đăng liên tiếp trong hai ngày 20 và 21-3-2014, ông Tamio Kakinuma, 65 tuổi, Chủ tịch JTC, thừa nhận JTC đã đưa hối lộ 130 triệu yen Nhật để được tư vấn cho 4 dự án đường sắt có tổng trị giá 7,8 tỉ yen Nhật.
Ông Kakinuma cũng khai rõ với đội điều tra đặc biệt của Văn phòng Công tố Tokyo đưa tiền lúc nào, bao nhiêu tiền dù ông nói ông không biết rõ về tình trạng hối lộ này. Tuy nhiên, ông Kakinuma đã ký bản nhận tội, theo báo Yomiuri Shimbun.
Trong số tiền này, JTC đã hối lộ cho một quan chức cao cấp về quản lý dự án ngành Đường sắt Việt Nam 80 triệu yen (hơn 16 tỉ đồng) để được thực hiện tư vấn dự án trị giá 4,2 tỉ yen; hối lộ quan chức đường sắt Indonesia 30 triệu yen để thực hiện dự án 2,9 tỉ yen và hối lộ quan chức Uzbekistan 20 triệu yen cho một dự án trị giá 700 triệu yen. Tất cả các dự án này đều được thực hiện bằng vốn vay hỗ trợ chính thức (ODA) của Chính phủ Nhật Bản, được tính bằng đồng yen Nhật.

Sơ đồ miêu tả đường đi của đồng tiền hối lộ. Nguồn: báo Yomiuri Shimbun

Việc đưa tiền hối lộ được tiến hành khoảng 40 lần, trong thời gian từ năm 2008 đến 2012.

Hành động hối lộ này bị phát hiện lần đầu trong cuộc thanh tra thuế của Cục Thuế khu vực Tokyo vào tháng 4 năm ngoái. Cục Thuế Tokyo đã tìm thấy các khoản chi bất hợp pháp trị giá 100 triệu yen núp bóng các khoản phí dịch vụ và đã phạt Công ty JTC 40 triệu yen vì tội “che giấu chi phí của doanh nghiệp”. Tuy nhiên, ngoài khoản này, Cục Thuế còn phát hiện có 30 triệu yen khác được “treo” trong sổ sách; mà 1/3 số đó, khoảng 10 triệu yen, đã được dùng để đưa hối lộ ngay trong lúc cuộc thanh tra thuế đang diễn ra.

Báo Yomiuri Shimbun, cho biết Văn phòng Công tố Tokyo sẽ tiến hành điều tra hình sự đối với vụ hối lộ này với tội danh vi phạm Luật Phòng chống Cạnh tranh không công bằng của Nhật Bản, qua việc đưa hối lộ cho quan chức chính phủ nước ngoài.

JTC là công ty tư vấn chuyên ngành về khảo sát, thiết kế đường sắt, từ năm 2000 đến nay đã đảm nhiệm tư vấn cho khoảng 19 dự án đường sắt ở nước ngoài với tổng vốn ODA khoảng 25 tỉ yen Nhật.

Được biết Dự án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc-Nam của Việt Nam, có tổng chiều dài là 1.555 km, kinh phí lên đến 55,8 tỉ đô-la Mỹ đã được giao cho do Liên danh tư vấn Việt Nam-Nhật Bản (VJC) khảo sát, nghiên cứu và lập báo cáo vào năm 2009.

Công ty Tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) chính là một trong các thành viên của liên danh này bao gồm Công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng Giao thông Vận tải (TRICC) cùng 3 đối tác của Nhật là JTC, Hiệp hội dịch vụ kỹ thuật đường sắt Nhật Bản (JARTS) và Công ty trách nhiệm hữu hạn NIPPON KOEI (NK).

Đây là vụ tai tiếng thứ hai của các công ty tư vấn Nhật Bản liên quan tới các dự án ODA trong lĩnh vực giao thông ở Việt Nam, sau vụ Công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (Pacific Consultants International – PCI) đưa hối lộ cho ông Huỳnh Ngọc Sĩ, nguyên trưởng ban quản lý dự án Đại lộ Đông-Tây, để thắng thầu dự án xây dựng đại lộ Võ Văn Kiệt ở TPHCM năm 2008. Dù kêu oan, ông Huỳnh Ngọc Sĩ bị kết án chung thân, sau đó tại phiên tòa phúc thẩm, được giảm xuống còn 20 năm tù giam về tội “nhận hối lộ”.

(Thời báo Kinh tế Sài Gòn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét