Trích đoạn, từ cuốn "Cuộc tranh đua
của thế kỷ: Kỷ nguyên cạnh tranh mới với Trung Quốc, và cách để Mỹ
chiến thắng" ("The Contest of the Century: The New Era of
Competition with China--and How America Can Win") của Geoff
A.Dyer.
Đào Anh Dũng dịch, theo:
http://www.viet-studies.info/kinhte/SwordLake_Dyer.htm
Hồ Gươm
Lần đầu tiên tôi đến thăm Việt Nam là với tư
cách khách du lịch; trong một hai ngày gì đó, tôi và vợ đã tới những
nơi có lẽ là chúng tôi biết nhiều nhất ở Hà Nội. Chúng tôi tản bộ
dọc các con phố lớn - vẫn song hành với những hàng cây mà Pháp đã
trồng khi còn là thế lực thực dân, và có một buổi chiều thư giãn
trong các quán cà-phê mặt phố. Khách sạn chúng tôi ở, Metropole, là
một công trình thời thực dân trông rất ấn tượng với mặt tiền màu
trắng, cánh cửa sổ màu xanh lá cây, và ốp gỗ vốn là điểm nhấn của xã
hội Pháp ở Hà Nội vào những năm 1920 và 1930. Khách sạn rất tự hào
với bánh sừng bò sạch được nướng cho bữa sáng. Ngày tiếp theo, chúng
tôi tới "Hanoi Hilton" hay nhà tù Hỏa Lò, nơi John McCain đã ở
khoảng 5 năm rưỡi với tư cách một tù nhân chiến tranh, sau khi máy
bay của ông ấy bị bắn hạ trong Chiến tranh Việt Nam. Nhà tù ban đầu
do Pháp xây dựng, nhưng Bắc Việt đã dùng nó như một trong những địa
điểm chính để tạm giữ các binh lính Mỹ bắt được. Bây giờ nó là một
bảo tàng, trên tường treo những tấm ảnh McCain, với mái tóc đã sớm
bạc trong điều kiện bị giam cầm.
Mất khoảng một ngày để chúng tôi kiểm nghiệm
lại vài điều mà chúng tôi có lẽ đã biết nếu tò mò hơn một chút trước
khi đến Việt Nam. Dù không ít người Việt Nam vẫn căm ghét chủ nghĩa
thực dân Pháp, và dù vài triệu người đã chết trong cuộc chiến với
Mỹ, thì đấy rốt cuộc cũng là những sự kiện đã qua trong một lịch sử
dài lâu hơn nhiều để bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong lịch sử dài
lâu hơn đó, kẻ thù chủ yếu là Trung Quốc. Cách khách sạn chúng tôi ở
nửa dặm là hồ Hoàn Kiếm, một cái ao long lanh đầy hoa súng, tạo
thành điểm nhấn cho trung tâm thành phố. Nó cũng là một đài tưởng
niệm nhạt nhòa về cuộc chiến chống lại Trung Quốc. Cái tên Hồ Gươm
nghĩa là "Hồ trả lại Gươm", liên hệ với truyền thuyết rằng Hoàng đế
Lê Lợi đã được trao một thanh gươm thần và dùng để đánh đuổi quân
Trung Quốc xâm lược, suốt triều đại nhà Minh ở đầu thế kỷ 15. Gần bờ
phía Đông có một đảo nhỏ với lối vào là một cây cầu đỏ. Nó tên là
đền Ngọc Sơn, được xây cách đây 200 năm để tôn vinh một vị tướng ở
thế kỷ 13 đã góp công đánh bại triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc.
Cách đó 2 dặm là khu phố Hai Bà Trưng, được đặt tên theo hai chị em
gái đã dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị của Trung Quốc ở
thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên. Khi chúng tôi nói rằng mình đã sống
ở Trung Quốc thì một vài người ngay lập tức kể cho chúng tôi nghe
Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam bao nhiêu lần, dù họ thỉnh thoảng
đưa ra các con số khác nhau.
Trong biên niên sử đế chế của Trung Quốc, Việt
Nam là một nước vuột khỏi tay. Tới thế kỷ 2 trước Công Nguyên,
triều đại nhà Hán đã đánh chiếm phần lớn diện tích Việt Nam hiện
nay, và Trung Quốc vẫn kiểm soát Việt Nam suốt gần 1000 năm tiếp đó.
Cuối cùng Việt Nam cũng tự vùng thoát khỏi cái ôm của Trung Quốc,
song lịch sử dài đó để lại Trung Quốc những dấu vết về tâm thế làm
chủ Việt Nam. Một chú thích tại Bảo tàng Lịch sử Thiểm Tây ở Tây An,
nơi có một trong những bộ sưu tập đồ cổ quý giá nhất của Trung Quốc,
ghi: "Cho tới cách đây 200 năm, Việt Nam vẫn là một phần của Trung
Quốc, và thậm chí hiện nay trong các ngôi nhà của Việt Nam bạn vẫn
có thể thấy những chữ Trung Quốc". Giống như mọi câu chuyện lịch sử
loại đó, mối liên hệ Việt Nam-Trung Quốc đầy tình tiết phức tạp và
những sự đứt đoạn. Mặc dù chiến thắng của Lê Lợi ở thế kỷ 15 trước
quân Minh xâm lược đã củng cố nền độc lập của Việt Nam, song vài
thập kỷ sau chiến thắng của ông ấy lại là giai đoạn hưng thịnh nhất
của văn hóa Nho Giáo tại Việt Nam. Nhưng những điểm du lịch tại Hà
Nội lại cho thấy rõ giai đoạn hưng thịnh ấy - một lát cắt đáng kể
của cá tính Việt Nam hiện đại, đã bắt rễ trong các cuộc đấu tranh
gìn giữ sự tự chủ trước Trung Quốc. Theo một nghĩa nào đấy thì những
lo ngại dấy lên ở Việt Nam trước sự trỗi dậy của Trung Quốc là đối
lập trực tiếp với phản ứng ở Australia. Trong khi Australia sợ cái
kết của một thời đại lịch sử mà họ được hưởng lợi, còn Việt Nam sợ
sự tái diễn một hình mẫu lịch sử cũ mà họ muốn tránh.
Vì thế Việt Nam là một trong những đường phay
thú vị nhất bên cạnh sự trỗi dậy của Trung Quốc. Trong các quốc gia
trên thế giới, Việt Nam là nước có hệ thống chính trị giống Trung
Quốc nhất - với một đảng toàn quyền vẫn theo những nguyên lý của
Lenin song từ bỏ Marx, và chào đón thị trường với mong muốn hiện đại
hóa nền kinh tế và xã hội. Sự gắn bó giữa hai Đảng Cộng Sản là sâu
bền. Có một cái gì đó rất đáng sợ khi mà tinh thần đoàn kết chính
trị anh em, mà Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc ông Dương Khiết Trì
đang kêu gọi ấy, lại xuất hiện trong bài công kích của ông ấy ở Hà
Nội. Việt Nam cũng biết rằng nền kinh tế Trung Quốc là một trong
những động cơ phát triển tiềm năng nhất và có thể truyền lực giúp
Việt Nam thịnh vượng. Các khoản đầu tư công khổng lồ ở Tây-Nam Trung
Quốc đang mở ra những liên kết đường bộ và đường sắt xuống phía Bắc
Việt Nam, thúc đẩy quan hệ kinh tế còn tiến xa hơn nữa. Một đường
tàu cao tốc sẽ sớm nối Hà Nội với Nam Ninh - thủ phủ tỉnh biên giới
Quảng Tây. Thế nhưng, Việt Nam là quốc gia mà hành động giương oai
sức mạnh vĩ đại của Trung Quốc khiến nỗi sợ hãi đang có càng sâu sắc
hơn bất kỳ nơi nào khác, khi mà một thời đại địa-chính trị mới lại
xung đột với một số câu chuyện lịch sử rất cũ ở châu Á. Vì thế Việt
Nam là một phong vũ biểu quan trọng cho sự giận dữ dâng cao ở châu Á
chống lại Trung Quốc và cho cán cân quyền lực phức tạp đang dần định
hình ở châu Á. Hà Nội tin rằng họ có thể vừa hợp tác phát triển nền
kinh tế của mình với Trung Quốc, vừa tìm ra những người bạn mới để
kiềm chế Trung Quốc. Việt Nam đang làm việc nhằm đạt được cả hai
điều ấy.
Trung Quốc phủ bóng lo ngại lên mọi vấn đề của
Việt Nam. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam có các tuyên bố chủ quyền
quan trọng ở biển Nam Trung Hoa, gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Hà Nội cũng theo dõi, với nỗi lo sợ đang lên, sự tăng cường hải
quân của Trung Quốc. Với Việt Nam, tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam
Trung Hoa quan trọng hơn nhiều so với việc chỉ kiểm soát một số đảo.
Trừ China, Việt Nam là nước kiểm soát nhiều diện tích nhất, tính
theo đường bờ biển dài 3620 km - một số người Việt Nam mô tả vị trí
của họ như "một cái ban công nhìn ra Thái Bình Dương". Kế hoạch kinh
tế dài hạn của Việt Nam nói sẽ thu 50% GDP từ các hoạt động trên
biển, bao gồm đánh bắt hải sản và khai thác tài nguyên tự nhiên
trong vùng mà họ tuyên bố chủ quyền. Số phận khiến những bãi đá và
bãi cạn ở biển Nam Trung Hoa chen vào giữa cái nhìn của Việt Nam về
tương lai kinh tế của mình.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng chịu rủi ro
thường trực khi bị lên án rằng bán đất cho Trung Quốc. Sau khi các
tàu Trung Quốc cắt cáp 2 tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam vào giữa
năm 2011, những cuộc biểu tình lớn chống Trung Quốc đã nổ ra ở cả Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Lo sợ bị chỉ trích vì nhượng bộ Trung
Quốc, các nhà cầm quyền Việt Nam để cho biểu tình tiếp diễn vào mỗi
Chủ Nhật trong suốt 12 tuần - đó là khoảng thời gian rất dài cho các
cuộc biểu tình ở một đất nước độc-đảng. Những người biểu tình đã mặc
áo phông và đội mũ lưỡi trai với biểu tượng "No-U" - liên hệ tới bản
đồ của Trung Quốc về biển Nam Trung Hoa. Những người khác giương cao
khẩu hiệu "Nói không với đường lưỡi bò". Có lần đoàn biểu tình bị
dập tắt bởi nhà cầm quyền, thì sau đó một số người lập ra câu lạc bộ
bóng đá "No-U" chơi vào mỗi Chủ Nhật.
Những đường phay của chủ nghĩa dân tộc chống
Trung Quốc cắt ngang trật tự Việt Nam. Năm 2011, 20 gương mặt nổi
tiếng trong xã hội Việt Nam - họ tự gọi mình là "những người yêu
nước" - đã gửi một bức thư tới Bộ Chính Trị đưa ra quan điểm rằng Hà
Nội đã "quá mềm yếu" trước Trung Quốc. Họ gồm có thiếu tướng Nguyễn
Trọng Vĩnh, người từng là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc. Ông Vĩnh
cũng là nhà chỉ trích công khai về dự án khai thác gây tranh cãi của
Trung Quốc ở khu vực Tây Nguyên - rõ ràng là cái cột thu lôi những
sợ hãi về sự thống trị kinh tế của Trung Quốc. Ông Vĩnh tham gia
phản đối bên cạnh một gương mặt còn danh tiếng hơn nhiều, đó là
tướng Võ Nguyên Giáp - nhà cầm quân tối cao trong chiến thắng Pháp
tại Điện Biên Phủ năm 1954 và trong cuộc chiến chống Mỹ, khiến ông
ấy trở thành một trong những chân dung quân sự nổi tiếng nhất của
Việt Nam. Trong giới lãnh đạo Việt Nam cũng có nhân tố hậu thuẫn
Trung Quốc, và một vài nhà lãnh đạo cao cấp nhất được cho là ủng hộ
Bắc Kinh. Thế mà các nhà phân tích nói rằng cả trong Đảng Cộng Sản
Việt Nam lẫn trong quân đội đều có những thành viên trẻ muốn gắn bó
hơn với Mỹ. Quan điểm chống Trung Quốc còn mạnh mẽ hơn nữa trong
những cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ. Theo
một vài nghĩa nào đó, cảnh tượng ác mộng đối với các nhà lãnh đạo
Việt Nam là khi những lực lượng này xích lại gần nhau do tranh chấp
với Trung Quốc - chủ nghĩa dân tộc rộng khắp, nhân tố chống Trung
Quốc nằm trong giới tinh hoa và một bộ phận đáng kể người Việt Nam ở
nước ngoài. Một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng với Trung Quốc có thể
kéo theo một thách thức chết người cho tính chính danh của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
Phản ứng của Việt Nam trước hành xử của Trung
Quốc là không có gì đáng ngạc nhiên: vấn đề lại trở về các vùng
biển. Hà Nội không có nguồn lực để xây dựng lực lượng hải quân đáng
kể, mặc dù ngân sách quốc phòng tăng nhanh nhưng họ chỉ có thể mua
những trang thiết bị vũ khí giúp họ trở thành thách thức "bất cân
xứng" với Trung Quốc. Năm 2009, Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm lớp
Kilo từ Nga - được hải quân Mỹ mệnh danh là "hố đen" bởi lớp vỏ cao
su đặc biệt cho phép nó tránh bị phát hiện bởi kỹ thuật sonar. Những
tàu ngầm này sẽ giúp Việt Nam giám sát các động thái của những tàu
Trung Quốc trong các vùng tranh chấp và ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào
của Trung Quốc hòng chớp lấy các đảo mà Việt Nam đang chiếm giữ. Để
có thể hình dung về thách thức quân sự nghiêm trọng mà Việt Nam gặp
phải từ phía Trung Quốc, cần thấy rằng đề nghị mua tàu ngầm được đưa
ra trong tâm bão khủng hoảng tài chính, khi công nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam bị sụt giảm đáng kể. Và với một đất nước tầm vóc nhỏ
như Việt Nam thì lượng tàu ngầm đó là không hề rẻ - giá chào hàng là
3,2 tỷ USD, bằng toàn bộ ngân sách quốc phòng cho 1 năm.
Mùa Hè năm 2010, khu trục hạm USS John S.McCain
của hải quân Mỹ đã thả neo ở cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Chiếc tàu
được đặt tên theo cả bố và ông nội của Thượng nghị sĩ John McCain,
cả hai đều là đô đốc 4 sao: ông nội McCain là thuyền trưởng một hàng
không mẫu hạm trong Chiến tranh Thái Bình Dương, còn bố McCain là
chỉ huy của hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Việt Nam không chỉ đang
đầu tư cho hải quân mà còn đang ra sức kết bạn với những cường quốc
hải quân quan trọng khác, nhất là Mỹ. Chuyến thăm của USS McCain
đánh dấu một trong những sự đảo chiều ấn tượng nhất của trật tự
chính trị châu Á trong vài năm gần đây. Nhiều vùng đất ở Việt Nam
vẫn chưa sử dụng được vì chưa thể vô hiệu hóa những quả bom mà máy
bay Mỹ ném xuống. Thế nhưng chỉ 3 thập kỷ sau khi Mỹ tháo dỡ đại sứ
quán của họ tại Sài Gòn, Việt Nam đã quay sang tìm sự ủng hộ của Mỹ.
Quan hệ ấy bắt đầu một cách dè dặt vào cuối những năm 1990 song đã
tăng tốc khi xét tới một Trung Quốc vừa trỗi dậy. Năm 2009, Việt Nam
tiến một bước quan trọng khi một số quan chức cấp cao của họ đã tham
quan hàng không mẫu hạm USS John C.Stennis, để quan sát hoạt động
của nó tại biển Nam Trung Hoa. Sự xuất hiện của USS McCain đánh dấu
lần đầu tiên hai nước cùng tham gia những hoạt động hải quân, trong
đó có một bài huấn luyện và một bài diễn tập tìm kiếm-cứu nạn. (Họ
cũng trao đổi vài câu chuyện về việc nấu nướng trên tàu hải quân).
Nếu chất liệu như thế có vẻ hơi ít, thì thông điệp của Trung Quốc
lại không đồng tình: đó là lời khẳng định mạnh mẽ rằng Việt Nam coi
sự hiện diện của hải quân Mỹ trong khu vực là chính danh và quan
trọng. Một nhà ngoại giao cấp cao Việt Nam đã nói với tôi: "Trung
Quốc phàn nàn rằng Mỹ đang làm nghiêm trọng thêm vấn đề, nhưng chúng
tôi nghĩ sự gia tăng hiện diện của Mỹ tại khu vực là quan trọng và
giúp ổn định tình hình."
Trung Quốc liên tục chỉ trích rằng bất cứ bài
tập nào của thế lực quân sự Mỹ tại khu vực cũng là minh chứng cho
"tâm thế Chiến tranh Lạnh" và cho chiến lược "kiềm chế" Trung Quốc,
như Mỹ đã từng làm với Liên bang Xô-Viết. Quan hệ thân thiện mới của
Washington với Việt Nam là bằng chứng rõ ràng hơn đối với nhiều
người Trung Quốc, rằng Washington quyết tâm duy trì ngôi vị bá chủ
của họ. Song sự giận dữ của Trung Quốc lại quên mất hai điểm quan
trọng nhất trong sự đồng thuận của Việt Nam với Mỹ: lý do tại sao nó
lại đang diễn ra, và bản chất sự hợp tác quân sự của họ là gì. Sự
thật không hề dễ chịu cho Trung Quốc là quan hệ hợp tác với Mỹ không
phải do Mỹ gây áp lực lên Việt Nam, mà do được đề xuất. Bắc Kinh
cũng bỏ qua sự khôn khéo của Việt Nam khi làm việc với Trung Quốc.
Thay vì tránh né hàng xóm của mình, Hà Nội cố gắng thử lòng và lôi
kéo Bắc Kinh, bằng một màn khiêu vũ nhẹ nhàng mà trở ngại được pha
trộn cẩn thận vào lời hội thoại. Tất nhiên lịch sử ngột ngạt của
Việt Nam với Trung Quốc là một trường hợp hết sức đặc biệt, nhưng
cách thức ấy của Việt Nam cũng phù hợp với nhiều quốc gia khác trong
khu vực. Châu Á giờ đây là một lục địa của những nhà nước-quốc gia
đầy tự tin - đang gìn giữ sự tự chủ mà họ giành được trong thời kỳ
hậu-thuộc địa, và muốn tận dụng hầu hết các cơ hội mà toàn cầu hóa
mang tới, trong đó có sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng họ muốn trải
nghiệm thời đại mới này theo ý chí của chính mình chứ không phải
theo ý chí "người anh cả" của ai đó. Với Hà Nội, việc gác xung đột
thời chiến với Mỹ sang một bên là cái giá phải trả để có thể xây
dựng con đường riêng của mình. Đây không phải sự kiềm chế: Việt Nam
coi sự hiện diện của Mỹ là một cách để đưa quan hệ với Trung Quốc đi
đúng hướng.
Hà Nội cân nhắc kỹ lưỡng sao cho không đẩy Bắc
Kinh ra quá xa. Bất cứ khi nào Việt Nam diễn tập quân sự với Mỹ thì
trước hoặc sau đó họ cũng thường làm điều tương tự với Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc có một đường dây nóng về quốc phòng mà họ có
thể sử dụng trong giai đoạn căng thẳng. Hai Đảng Cộng Sản cũng thành
lập một ủy ban điều phối chung, để những quan chức của cả hai nước
có thể gặp gỡ nhau định kỳ và tìm cách tháo gỡ các vấn đề. Sự gắn bó
đảng-đảng cho phép hai nước hội đàm thân thiện, đấy là điều mà chỉ
vài quốc gia khác có thể có được với Trung Quốc. Các đại biểu là
những chuyên gia cứng rắn về chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội, đi
qua đi lại giữa hai thủ đô, cùng vui mừng vì cơ hội hiếm hoi được
trao đổi ý kiến ở một nước khác. Ngay cả khi quan điểm chống Trung
Quốc dâng cao trong nước, Việt Nam vẫn thể hiện sự tự tin nhất định
vào năng lực giải quyết ổn thỏa trước một Trung Quốc đang trỗi dậy,
kiểu tự tin đến từ kinh nghiệm. Năm 2012, khi Trung Quốc và
Phillipines cùng mắc vào bế tắc căng thẳng vì bãi cạn Scarborough,
một khu vực tranh chấp khác ở biển Nam Trung Hoa, thì một quan chức
Việt Nam nói với tôi bằng giọng điệu hơi bất cần: "Chúng tôi đã đối
phó ổn thỏa trước Trung Quốc suốt 2000 năm. Chúng tôi biết chính xác
phải làm việc với họ thế nào". Những lời ấy một phần nhắm vào
Phillipines, quốc gia mà xét theo nhiều khía cạnh có nguy cơ đi tới
một cuộc chiến với Bắc Kinh mà họ không thể chiến thắng, song cũng
một phần nhắm vào Mỹ. Đây là oái oăm lớn của Việt Nam hiện đại. Hà
Nội là chính phủ có những kênh liên lạc tinh vi nhất để nói chuyện
với Bắc Kinh. Nhưng nền chính trị dễ cháy của họ và sự bất mãn có
tính lịch sử đã hằn sâu khiến Việt Nam trở thành quốc gia dễ liên
tưởng nhất tới một cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Sự phức tạp này đặt ra những hạn chế đáng kể đối
với Mỹ khi tiến vào các vùng nước như vậy. Washington nên tiến bước
cẩn thận, nên nhận thực đầy đủ rằng sự đồng thuận của họ với Việt
Nam có lẽ bị Trung Quốc nhìn thấy. Một trong những cách chắc chắn
nhất - để Mỹ biến một cuộc đua tranh đầy triển vọng với Trung Quốc
thành sự thù địch đầy giận dữ - là tăng cường nhanh chóng sự gắn bó
quân sự với Việt Nam. Nếu Mỹ đã bắt đầu bố trí những hạng mục quân
sự căn bản ở đó chẳng hạn, thì Trung Quốc sẽ bắt đầu nghĩ rằng đấy
là sự mở màn tấn công lãnh thổ của họ. Một cựu quan chức cấp cao của
Mỹ nói: "Việt Nam với Trung Quốc như Cu Ba với chúng ta. Khi Xô-Viết
lật tung Cu Ba, chúng ta đã nhất quyết rằng nó ảnh hưởng nghiêm
trọng tới an ninh quốc gia. Suýt chút nữa điều đó đã dẫn tới ngày
tận thế".
Nếu thúc đẩy quan hệ quá mạnh cũng làm Hà Nội e
ngại. "Chúng tôi không muốn bị sở hữu bởi bất kỳ ai" - nhà ngoại
giao Việt Nam kể trên nói với tôi. Sự gắn bó sâu hơn với Mỹ sẽ đem
lại cho Việt Nam một cái nêm để khỏi bị cuốn vào quỹ đạo của Trung
Quốc, song Hà Nội không hứng thú với việc trở thành một nước chư hầu
mới của Mỹ tại khu vực. Họ muốn Mỹ giúp đỡ vừa đủ chứ không quá
nhiều. Hà Nội vẫn rất nhạy cảm với sự hiện diện quân sự Mỹ tại Việt
Nam: các lính Mỹ tham gia tìm kiếm những người bị mất tích trong
Chiến tranh Việt Nam phải mặc những bộ quần áo dân sự khi họ ở ngoài
khu vực ngoại giao của Mỹ. Chỉ có duy nhất một lần họ ở trong khu
vực ngoại giao và họ được mặc đồng phục. Hà Nội cũng rất thận trọng
với việc sử dụng căn cứ hải quân Cam Ranh, một cảng nước sâu tự
nhiên gần vị trí cổ họng chiến lược của biển Nam Trung Hoa. Việt Nam
cho phép các tổ chức nước ngoài và các tàu du lịch tới thăm cảnh,
trừ các tàu chiến. Leon Panetta, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tới
Cam Ranh năm 2012 trong một chuyến thăm cấp cao, có lẽ là một bước
tiến quan trọng của sự gắn bó quân sự giữa hai quốc gia. Nhưng tàu
mà ông ấy ghé thăm là USNS Richard E.Byrd, một tàu vận tải. Vì với
Việt Nam, những chi tiết nhỏ như vậy lại là vấn đề lớn.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dường như là có một
không hai về cường độ và tính phức tạp của lịch sử, song nó đặt ra
những khuôn mẫu lớn hơn vốn đang bắt đầu định hình trật tự chính trị
châu Á. Đằng sau chính sách ngoại giao sôi sục của Việt Nam là khát
vọng mãnh liệt tránh bị cuốn vào vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Thế
nhưng người Việt Nam coi Mỹ thuần túy là một sức mạnh đối trọng với
Trung Quốc chứ không phải một đồng minh, hay một quốc gia thống trị
khu vực, hay một đối tác kiềm chế Trung Quốc. Đối với cả Việt Nam và
Australia, điểm mấu chốt không phải là trốn tránh Trung Quốc và nền
kinh tế đang bùng nổ của họ, mà là tìm ra cách để làm việc với Trung
Quốc theo ý chí của chính mình. Hợp tác quân sự với Mỹ không phải
một bài tập kiềm chế mới, mà là một cách để cảm thấy thoải mái khi
tiến sát Trung Quốc hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét