" Từ điển từ và từ ngữ Việt Nam", mục chữ cái nào cũng có sai sót
Góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng
Việt
Hoàng
Tuấn Công
NQL: Giáo sư Nguyễn Lân là thầy của nhiều đàn anh khả kính của bọ Lập. Giáo sư đã qua đời mà mình cứ đem cuốn sách của giáo sư ra nói thật không đành. Nhưng đây không phải cuốn sách bình thường, nó là cuốn từ điển, quan trọng hơn nữa nó là cuốn từ điển từ và ngữ Việt Nam. Do đó, những sai sót của nó không thể không nhắc đến, cũng là để góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng Việt như tác giả Hoàng Tuấn Công đã nói chữ không có ý gì khác.
Từ điển từ và ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân. Xuất bản lần đầu năm 2000, tái
bản lần 1 năm 2006, 2.119 trang; tập hợp 51.700 từ và ngữ - Nhà xuất bản Tổng
hợp TP Hồ Chí Minh.
Lời
Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (dịp tái
bản lần thứ nhất) cho ta biết: “Sau khi
cuốn sách ra mắt bạn đọc, Tác giả và Nhà xuất bản đã nhận được nhiều ý kiến hoan
nghênh công trình này, đồng thời tác giả cũng đã kịp thời sửa chữa, bổ sung
những chỗ còn sai sót của lần xuất bản đầu tiên trước khi qua đời 7/8/2003”
và “… công trình này của GS Nguyễn Lân dù
có cố gắng đến đâu vẫn không thể tránh khỏi sai sót, khiếm khuyết …và rất mong
nhận được sự ủng hộ và chỉ giáo của quý bạn đọc gần xa”. Trong “Đôi lời tâm sự thay lời tựa” GS Nguyễn
Lân viết: “Trong năm năm qua, mặc dầu tôi
đã để toàn tâm toàn ý vào việc biên soạn bộ từ điển này gồm 51.700 từ và ngữ,
nhưng vì tuổi cao, có thể có những sai sót, dám mong các độc giả sách này vui
lòng chỉ bảo cho”.Với tinh thần xây
dựng, chúng tôi xin đáp lời ngỏ ý của GS Nguyễn Lân và Nhà xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh về cuốn Từ điển từ
và ngữ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất đã
được sửa chữa bổ sung của tác giả).
Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin được lược trích một phần nhỏ những sai sót theo mục chữ cái (từ A đến Y) của Từ
điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân:
A
A hành ác nghiệp
(A: dựa theo; hành: làm; ác: ác; nghiệp: kiếp trước)
Nói
người độc ác hành hạ người khác:Người
mẹ chồng a hành ác nghiệp.
Không
đúng ! Thứ nhất: nghiệp không phải là kiếp trước. Phật học từ điển (Đoàn
Trung Còn) giải nghĩa “ác nghiệp: nghiệp dữ. Những sự tạo tác dữ mà mình đã
gây ra từ những đời trước hoặc trong đời nầy (….) Ác nghiệp là nhơn duyên, còn
cảnh khổ đời này và cành khổ đời sau là quả báo”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa chữ “nghiệp”: “Cái nhân, như: nghiệp chướng 業障
- nhân ác làm chướng ngại”. Như thế, “nghiệp” đây
không phải là “kiếp trước” mà là cái nhân. Có “ác nghiệp” (nhân ác) và
“thiện nghiệp” (nhân lành). Có thể hiểu là hành vi, việc làm của người ta nó
giống như hạt giống, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Mặt khác, “a” ở đây không phải “dựa theo” mà nghĩa là hùa theo.“A hành” là hùa theo người
khác. A hành ác nghiệp là hùa theo
người khác để làm điều ác chứ không phải “nói
người độc ác hành hạ người khác” như cách giải thích của GS.
Á
nguyên (Á: sau một bậc; nguyên: bắt
đầu) Như á khôi.
“Nguyên”
ở đây là đứng đầu chứ không phải là “bắt đầu”. Mục từ “á nguyên” được tác giả chú “như
á khôi”. Mà chữ “khôi” ở ngay
trang trước đã được chính soạn giả chú nghĩa là “đứng đầu” đấy thôi.
Ái nam, ái nữ. Có cả hai bộ phận sinh dục ngoài
của nam và nữ.
Nếu
theo cách mô tả của GS Nguyễn Lân có lẽ đây là một ca sinh đôi có “cả hai bộ phận sinh dục ngoài” của một
người nam và một người nữ nhưng chung một cơ thể chăng ? Theo Việt
Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức “Ái nam. Tiếng gọi
đàn ông hay đàn bà không đủ bộ
phận sinh dục. Có khi gọi ái nam, ái nữ,
cũng là người bán nam, bán nữ”. Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng
Phê giải nghĩa: “Ái nam, ái nữ. Có bộ phận
sinh dục ngoài không giống của nam, cũng không giống của nữ”. Như vậy
cách “hình dung” về bộ phận sinh dục người ái nam, ái nữ của soạn giả không
đúng và nghe thật đáng sợ !
Anh hùng nhất khoảnh
(khoảnh: thời gian ngắn) Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người
trong một thời gian: Ở bến xe có
tên lưu manh tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh.
Chữ
“khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán
này tự dạng là (頃), có
nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc... Ở đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng100 mẫu)
được hiểu là một vùng, một địa phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải
khoảnh khắc (chỉ thời gian) như GS lầm tưởng. Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng
hùng, xưng bá, làm mưa làm gió trong một khu
vực nhất định. Cái “bến xe” mà
tên lưu manh tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của GS chính là“nhất khoảnh” (chỉ không gian) đấy thôi.
Ă
Ăn lông ở lỗ (ở
lỗ tức là cởi truồng) Nói cuộc sống của người nguyên thuỷ.
Thực
ra “lỗ” đây có nghĩa là hang hốc, hang động. Ý nói chuyện ăn và ở, chứ không
nói chuyện ăn và mặc: ăn thì ăn sống nuốt tươi (còn cả lông của thịt thú rừng)
ở thì chưa có nhà cửa mà ở lỗ (hang động).
Ăn ít ngon nhiều. Nói một món ăn chỉ cần ăn ít cũng đã thấy
ngon:
món tôm này ăn ít ngon nhiều.
Sai
sót này cũng thuộc dạng được “copy” từ cuốn Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam sang mà chúng tôi đã nói đến trong bài “Những sai lầm mang tính hệ thống của Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”.
Â
Âm phủ (âm:
chết; phủ: dinh thự) Chỗ người chết ở theo mê tín.
Sai
! Ở đây "âm" là thế giới của người chết chứ không phải “chết”, “phủ” là là cõi chứ không
phải “dinh thự”.
Âm sắc
(âm: tiếng; sắc: màu) Tính chất khác nhau giữa hai âm cùng độ cao
và độ to hơn: Âm sắc của hai nhạc
cụ khác nhau.
Thực
ra “sắc” đây nghĩa là sắc thái, tính chất chứ không phải là “màu”, cho dù hai nghĩa đều xuất phát từ
chữ sắc có cùng tự dạng là (色).
Âm vị (âm: tiếng; vị: nói) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt
ý nghĩa của từ.
Thực
ra "vị" đây có nghĩa là đơn vị, tự dạng là (位)
chứ không phải tự dạng vị (謂)
là nói (bảo). Chính soạn giả đã giảng
“âm vị” là “đơn vị ngữ âm nhỏ nhất...”
cơ mà ?
Ân trạch (ân:
ơn; trạch: ân huệ) Ơn huệ thấm nhuần (Ân trạch của Hồ Chủ tịch đối với nhân dân).
Thực ra “trạch”
(澤) đây là thấm ướt chứ không phải là "ân huệ". Thế nên Thiều Chửu
mới giải thích “Ân trạch: làm sự lợi ích
(ân đức thấm tới mọi người)” và Giáo sư mới giảng thành "Ơn huệ thấm nhuần" chứ ?
B
Bạch hổ. Con cọp trắng vẽ trong các tranh
tôn giáo.
Giải
thích như vậy là phiến diện. Bởi cọp trắng không chỉ xuất hiện trong tranh thờ
mà nó còn là con vật có thật, sống hoang dã. Theo Bách khoa toàn thư mở “Hổ trắng hay Bạch
hổ là hổ với
một gen lặn
tạo ra những màu sắc nhạt. Một đặc tính di truyền làm cho các sọc của hổ rất
nhạt; trắng”. Ấy là chưa
nói việc soạn giả bỏ quên Bạch Hổ
với tư cách địa danh nổi tiếng - một mỏ dầu lớn ngoài khơi thuộc vùng biển Vũng
Tàu nước ta.
Bát dật
(bát: tám; dật: yên vui) Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám
người: Múa bát dật trong cung
điện.
Đội múa có tới 64 người tham gia quả là vui thật. Mà có yên thì mới vui, mới bày đặt ra chuyện múa may...Nghe thật có lý ! Thế nhưng “dật” (佾) ở đây không phải là “yên
vui” mà có nghĩa là hàng. Không
biết chữ "dật" với nghĩa "yên vui" có tự dạng như thế
nào và soạn giả căn cứ vào sách nào ? Hán Việt tự điển của Thiều Chửu cho biết: "Dật
佾 : Hàng dật. Trong lễ định vua Thiên tử được bắt sáu mươi
tư người múa bài hát, mỗi hàng tám người gọi là múa bát dật". Chính soạn giả đã thừa nhận“bát dật” là “Lối múa xưa, có tám hàng,
mỗi hàng tám người” đấy thôi.
Bắc thần
(bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi
sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính
bắc.
Sai
nghiêm trọng. Chữ thần (辰) ở
đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Ví dụ “Vi
chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư
kỳ sở nhi chúng tinh củng chi:為政以德,譬如北辰,居其所而眾星拱.Nghĩalà: Dùng đạo đức để giải quyết việc nước thì
cũng ví như ngôi sao Bắc cực, ở yên một chỗ mà các ngôi sao khác đều chầu về (Luận
ngữ - Vi chính). Chữ thần (辰) này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng -
chi thứ năm trong thập nhị chi. Còn
chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (神), không liên quan gì đến bắc thần (北辰).
Ở đây chữ thần (辰) phải
có
nghĩa là trăng sao thì “bắc thần” mới
nghĩa là "ngôi sao sáng nhất"
thuộc chùm tiểu hùng tinh ở phía Bắc như chính GS Nguyễn Lân đã giảng chứ ? Nếu
"thần" là “tinh thần” thì "bắc thần" lại nghĩa là "tinh thần phương Bắc"
hay phương nào đó rồi !
Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra:Phòng khi bất chắc dụng binh
(Tú-mỡ)
Người
Việt chỉ nói không chắc chứ không
dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả
đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự GS Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không chắc và bất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú
Mỡ. Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm
không phân biệt “ch” và “tr” dẫn
đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.
Bón đón đòng.
Bón
phân cho lúa khi sắp trổ bông: Kịp
thời bón đón đòng nên năng suất cao.
Đã
gọi là “bón đón đòng” có nghĩa phải bón khi lúa mới bắt đầu giai đoạn hình
thành đòng chứ ? Sao lại bón vào lúc lúa sắp trổ bông ?
Bong bong.
Tả
tiếng kêu nhỏ và thanh: Sóng dồn
mặt nước vỗ bong bong (HXHương)
Câu
thơ của Hồ Xuân Hương mà GS trích dẫn ở trong bài “Kẽm Trống”: “Gió đập cành cây khua lắc cắc, Sóng
dồn mặt nước vỗ long bong”. Thơ Hồ Xuân Hương thường có nhiều dị
bản. Tuy nhiên trong trường hợp này GS Nguyễn Lân đã trích dẫn sai: “vỗ long
bong” thành “vỗ bong bong”. Ở
câu trên là “khua lắc cắc”
chứ đâu phải “khua cắc cắc” ?
Hơn nữa phải là từ “long bong” mới tinh tế và phù hợp với âm thanh rất
khó tả của nước dội vào Kẽm Trống. Nó khác hẳn với tiếng kêu "bong bong" khô cứng phát ra
từ chiếc trống bỏi (muỗi).
Bồ đề (bồ:
tên cây; đề: nêu lên) (Chữ Phạn bodhi có
nghĩa là giác ngộ, đồng thời chỉ cây bồ đề
mà Thích Ca ngồi dưới gốc trước khi giác ngộ) đạo Phật.
Đây
chỉ là từ phiên âm (từ chữ Phạn bodhi như
chính soạn giả đã thừa nhận). Do đó “bồ"
và "đề” khi tách ra tuy có chữ
mà không có nghĩa. Việc giải nghĩa tách riêng từng từ trong hai từ này là việc
làm...vô nghĩa.
C
Cá mè.
(...) Phú ông xin đổi một xâu cá mè (ca dao)
Trích
dẫn sai. Ca dao nói Phú ông xin đổi ao
sâu cá mè, không phải “một
xâu cá mè”. Cái "ao
sâu" nuôi thả đầy cá mè xưa kia quý giá lắm (cũng như trâu bò, gỗ
lim...trong câu ca dao vậy). Nếu chỉ là "một
xâu cá mè" như GS viết thì Bờm
đâu đến nỗi “bờm” lắm đâu ?
Cá ngựa. Loài cá biển nhỏ, đầu dài, lưng
cong, đuôi nhỏ.
Có
một đặc điểm rất quan trọng làm nên tên gọi của con cá ngựa không được GS đề
cập: đầu giống đầu ngựa. Từ
điển tiếng Việt (Hoàng Phê) mô tả như sau: “Cá biển, đầu giống đầu ngựa, thân dài, nhiều đốt, đuôi thon nhỏ và
cong, có thể dùng làm thuốc”. Và thực tế (cũng như Hoàng Phê đã mô tả),
phần cong của con cá ngựa là đuôi chứ không phải "lưng cong" (như GS Nguyễn Lân viết). Ngoài ra, so với
Hoàng Phê, “cá ngựa” của GS Nguyễn
Lân thiếu hẳn 2 nghĩa thông dụng: “Cá
ngựa. Đánh cuộc ăn tiền trong các
cuộc đua ngựa” và “Cá ngựa. Trò chơi súc sắc tính điểm để chạy thi quân
ngựa gỗ. Chơi cá ngựa”.
Cá nóc. Cá nước ngọt thân tròn và ngắn.Cá nóc đuổi bắt cá con.
Sai
nghiêm trọng. Cá nóc là cá nước mặn (cá biển) chứ không phải cá nước ngọt. Từ
điển Bách khoa nông nghiệp cho biết "Cá nóc (Tetraodontiformes) bộ cá xương, chủ yếu sống gần
bờ biển nhiệt đới và cận nhiệt đới". Mặt khác từ điển thiếu một thông
tin quan trọng và bổ ích: cá nóc rất độc, có thể gây chết người khi ăn. Nếu am
hiểu, người làm từ điển có thể thay thế ví dụ vô bổ "Cá nóc đuổi bắt cá con" bằng ví dụ: Ăn cá nóc có thể bị ngộc độc gây chết người. Qua đó, người sử dụng
từ điển có thêm thông tin cơ bản, hữu ích về loài cá "giết người"
này.
Cao lương mỹ vị
(mĩ: đẹp; vị: hương vị)
“Mỹ”
ở đây không phải là đẹp mà là ngon. Như “mỹ tửu” = rượu ngon. Trong
bài thơ “Nhị vật” nói về việc bỏ
thuốc lá và rượu, Bác Hồ viết: “Mộng lý
hấp yên, ngật mỹ tửu, Tỉnh lai cánh
phấn chấn tinh thần” (Trong mơ thấy hút thuốc lá, uống rượu ngon, Tỉnh dậy càng
thêm phấn chấn tinh thần).“Mỹ tửu” ở đây chính là rượu ngon.
Cao minh (minh: sáng)
Sáng suốt hơn người.
Chính
xác hơn, “cao minh” là người có học rộng.
Cầm cương nảy mực
(Cầm cương ngựa và nảy mực lên mặt gỗ để
cưa). Điều khiển và chỉ dẫn những người dưới quyền làm theo:Trong những năm Hồ Chủ tịch cầm cương nảy
mực.
Nhầm
lẫn. Cầm
cân chứ không phải “cầm cương”.
Có lẽ GS cho rằng người cầm cương điều
khiển để con ngựa rẽ theo ý muốn, còn người nảy
mực nảy lên mặt gỗ để chỉ dẫn thợ mộc cứ thế làm theo ? Thế nhưng người ta dùng chiếc cân để so sánh với
công lý, và nảy mực tàu được ví với cách làm thẳng thắn, khách quan, không
thiên, không lệch (có câu Thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ là vậy). Hai vế
của thành ngữ đều nói về sự thẳng thắn,
công bằng, không thiên, không lệch, chứ không phải nói về sự dẫn đường chỉ lối.
Cũng nên lưu ý soạn giả: người ta chỉ nảy mực lên mặt gỗ để xẻ (dọc) cho thẳng. Còn "cưa" (ngang) không ai nảy mực
làm gì.
Câu lạc bộ
(Câu: đều; lạc: vui; bộ: bộ phận - Do từ
Anh club phiên âm ra tiếng Trung
Quốc.
Chiêu mộ1 (Chiêu: sáng; mộ buổi chiều) sáng và chiều:
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng (HXHương).
Viết sai chính tả “triêu” thành “chiêu”. Chữ “triêu” (朝) mới có nghĩa là buổi
sáng. Còn “chiêu” (招) lại có nghĩa là vời,
vẫy, tuyển mộ. Chiêu (招) mới chính là chữ có nghĩa như GS đã giảng trong mục Chiêu mộ2 (Chiêu: vời tới; mộ: cầu tìm).Tuy
nhiên, việc đặt chiêu mộ1
và chiêu mộ2 là sai.Vì
cách trình bày này chỉ đúng khi cả triêu
và mộ đều là những cặp từ cùng tự
dạng, đồng âm nhưng dị nghĩa. Cuối cùng và tất nhiên, phải trả lại cho câu thơ
của Hồ Xuân Hương là "Ba hồi triêu mộ..."
Choe choét Nói tiếng cười không nghiêm chỉnh:Mấy
cô thiếu nữ cười đùa choe choét.
Người
ta không dùng từ “choe choét” để ví
với tiếng cười của bất cứ ai, ở bất cứ cấp độ nào. GS nhầm với kiểu cười toe toét chăng ?
Chơi gái. Có quan hệ sinh lý với phụ nữ (thông tục):
Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến
chuyện chơi gái mà thôi.
“Gái” ở đây không thể hiểu là “phụ nữ” nói chung mà là hạng gái điếm, kỹ nữ (mà gần đây còn gọi bớp, ca ve, gái gọi, gái bao, v.v...)
Còn “quan hệ sinh lý” là nói nhu cầu
chính đáng của đời sống tình dục và hàm chứa hoạt động duy trì nòi giống của
con người; trong khi từ “chơi gái”
lại nói về kiểu chơi bời trác táng, thiên về trải nghiệm nhục dục, thỏa mãn xác
thịt, không được xem là tình dục có ý thức của con người. Chính câu ví dụ về cách
dùng từ “chơi gái” của Giáo sư: “Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến chuyện chơi
gái mà thôi” đã nói lên cái nghĩa chẳng tốt đẹp gì của từ này. Kẻ đi “chơi gái” thì phải có “gái chơi”. Thế nên, gái điếm, kỹ nữ còn
được gọi là “gái làng chơi” là vậy.
Chu niên
(H chu: đầy đủ; niên: năm) Đủ số năm đã qua:Kỷ niệm đệ
ngũ chu niên ngày giải phóng.
Chu
(周) không phải là “đầy đủ” mà là tròn.Chu niên (周年)nghĩa là năm
tròn, năm chẵn. Ví dụ thập lục chu
niên = tròn 60 năm. Hoặc ngũ chu niên
= tròn 5 năm (cách tính năm đủ ngày, đủ tháng). Ví dụ năm 2010 Việt Nam - Trung
Quốc kỳ niệm tròn 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, dòng chữ bằng Trung
văn viết (tham khảo tư liệu ảnh trên VOV): 慶祝越-中建交六十周年 Khánh
chúc Việt - Trung kiến giao lục thập chu
niên (18/01/1950 - 18/01/2010). Nghĩa là: Chúc
mừng Việt-Trung tròn 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Còn khi nói đệ thập lục niên = năm thứ 60 tức mới chỉ bước sang năm 2010 chứ chưa tròn (chưa đến
ngày 18/01/2010). Không ai đã “đệ”
rồi còn dùng “chu”. Giống như tròn 10 tuổi khác với tuổi thứ 10. Và không ai nói tròn thứ 10 tuổi.
Chung kiếp
(chung: cuối cùng; kiếp: thời vận) Cuối
đời: đến chung kiếp vẫn còn giữ tròn
được nhân phẩm.
GS
lại phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả và đưa ra một kết hợp từ hoàn toàn xa
lạ và mâu thuẫn. Nếu "kiếp"
= "thời vận" như cách giảng
của soạn giả thì "chung kiếp"
phải hiểu là thời vận cuối cùng, sao
lại có nghĩa là "cuối đời"
? Mặt khác, chỉ có khái niệm trung kiếp (中劫), không có “chung kiếp” (vần tr, không phải vần ch).“Kiếp” ở đây không phải là "thời vận" mà là số kiếp, đời kiếp, tiếng Phạm là kiếp ba (劫 波).
Theo Phật
học từ điển (Đoàn Trung còn): "Trung kiếp: Thường thì kêu kiếp, tức là trung kiếp (kiếp
vừa vừa). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp, tính ra có 336.000.000 năm".
Chung lưng đấu cật
(Cật là chỗ thắt lưng)
Giáo
sư sai rồi ! Cật là toàn bộ phía sau lưng chứ không phải là "thắt lưng".
Chung thân
(chung: trọn vẹn; thân: thân mình) Suốt
đời.
Chữ
thân (身)có nhiều nghĩa như: thân mình, bản thân, gốc cây, tuổi, đời...
Ở đây, thân không phải là “thân mình”
mà là đời. "Chung thân" là hết
đời, như “tiền thân 前身 đời trước”
(Hán
Việt tự điển-Thiều Chửu).
Chuyên đề
(đề: đưa ra)
Nhầm
lẫn. Chữ đề trong chuyên đề (專題)là đề mục, luận đề chứ không phải đề nghĩa là “đưa ra”. Chữ đề này có
bộ hiệt (頁) tự dạng là (題-đề). Còn chữ đề nghĩa là “đưa ra” có bộ thủ (扌) tự dạng là (提).
Chuyên
gia (gia: nhà)
Không
đúng ! Mặc dù đều có tự dạng là 家,nhưng chữ gia
trong chuyên gia (專家)lại
không có nghĩa là nhà. Hán Việt tự điển của
Thiều Chửu giải nghĩa thứ 4 của chữ gia: “Có cái học vấn giỏi riêng về một môn
gọi là gia. Như văn học gia 文學家, nhà văn học, chính
trị gia 政治家
nhà chính trị, v.v...” Như vậy “gia”
ở đây được hiểu là người (có học vấn,
tài năng chuyên sâu).
Chuyển khẩu
(...) Sang nước khác:nhiều
người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp về nước.
Thật
khó tin cách giải nghĩa sai hoàn toàn này lại nằm trong một cuốn từ điển có tên
Từ
điển từ và ngữ Việt Nam. Thứ
nhất, ta vẫn nói chuyển khẩu từ
địa bàn này sang địa bàn khác, từ tỉnh này này sang tỉnh khác mà không cần phải
“sang nước khác” mới gọi là “chuyển khẩu”. Thứ hai, nhập khẩu hay chuyển khẩu là cách quản lý hành chính
nội địa của riêng Việt Nam, chỉ áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam.Theo Bách
khoa toàn thư mở: “Hệ thống hộ khẩu hiện nay chỉ tồn tại ở 3
nước: Trung
Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt
Nam”. Tuy nhiên cách quản lý, các chế độ liên quan đến hộ khẩu của
mỗi nước khác nhau. Nếu có việc đi lại trong phạm vi ba nước nói trên cũng
không thể gọi là chuyển khẩu được.Việc “đi
sang nước khác” được gọi là xuất
cảnh,nhập cảnh (cảnh 境 đây có nghĩa là biên
giới, bờ cõi). Việc xuất cảnh, nhập cảnh phải đáp ứng một số
thủ tục hải quan theo quy định giữa hai nhà nước. Ví dụ của Giáo sư: “nhiều người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp
về nước” có lẽ ý chỉ Việt kiều Pháp
hồi hương và sinh sống lâu dài ở Việt Nam chăng ? Để làm được việc này,
Việt kiều sẽ thực hiện một số thủ tục theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nhưng dứt khoát không thể gọi là “chuyển
khẩu”.
Cử tọa
(cử: cất lên; tọa: ngồi) Tất cả những người dự một buổi họp:Lời tuyên bố đó khiến cử tọa vỗ tay như pháo
nổ.
Ở đây Giáo sư giảng sai nghĩa của cả hai từ "cử" và "tọa". Cho dù đều có tự dạng là 舉, nhưng chữ “cử” trong
cử tọa nghĩa là hết thảy, tất cả chứ
không phải là “cất lên”. Ví như cử quốc = cả nước (Hán Việt tự điển - Thiều Chửu) Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh giải
nghĩa chữ "cử": "Cả, khắp, tất cả đều, mọi, hết thảy mọi người: 舉座 Tất cả những người dự họp; 舉國歡騰 Khắp nước tưng bừng". Thứ hai, chữ "tọa"
(座) đây là chỗ ngồi chứ không phải chữ
"tọa" (坐)
là "ngồi".
Cước sắc
(cước: cuối cùng; sắc: lệnh vua). Phẩm hàm (cũ) Người có cước sắc ở trong làng.
Sai
! Cước sắc (腳色)
có nghĩa là “Nhân vật, vai (trong tuồng
kịch, phim ảnh)” (Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh).
Soạn giả nhầm với từ chức sắc chăng ?
Cười đứt ruột Cười nhiều quá, không thể nhịn được.
Cười rũ ra,
cười bò ra cũng có thể gọi là "cười nhiều quá, không thể nhịn
được" chứ ? Chính xác "cười
đứt ruột" phải được giảng là: cười đến mức đau cả bụng, ruột thắt lại
từng cơn, tưởng có thể “đứt” ruột
đi được.
D
Dáng vóc. Thân hình khỏe mạnh.
Sai
! "Dáng vóc” là chỉ ngoại hình cao thấp, gầy, béo. Ai cũng
có dáng vóc của người đó, không cứ gì người khỏe mạnh.
Dao sắc chẳng chặt được chuôi. ý
nói: dù
sao cũng không thể làm hại người thân thích với mình.
Sai ! Cái chuôi là bộ phận của chính con dao chứ không
phải là “người thân thích” hay họ
hàng của nó. Theo nghĩa đen: con dao
dù sắc đến mấy cũng không thể chặt, gọt được cái chuôi của chính nó. Nghĩa bóng: người tài giỏi về phương
thuật nào đó thường không tự áp dụng cho chính mình được. Ví như anh thợ cắt
tóc chẳng thể cắt cho mình. Bác sĩ giỏi thường không chữa bệnh được cho chính
mình.
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông. Việc khó khăn thì hiểu được, việc
dễ dàng thì không lường được.
Phải
hiểu “dễ” ở
đây không phải “dễ dàng” (ngược lại
với khó) mà nghĩa là “liệu có thể” “khó có thể”, “chưa chắc”. Truyện Kiều: “Một người dễ có mấy thân”, “Đàn bà dễ có
mấy tay” Đào Duy Anh giải thích nghĩa chữ “dễ” trong văn cảnh này là“Chẳng
dễ, khó có thể, khó lòng, có dễ đâu”. Ở đây “dễ” và “khôn” trong câu Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông đều
có nghĩa là “khó” cả: Dễ gì dò được rốn
bể, khó có thể lường được đáy sông. Đây
là lỗi mà GS Nguyễn Lân từng mắc (trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam)
khi giảng câu “Sắc nanh, chuột dễ cắn
được cổ mèo” là Dù là kẻ thù nguy hiểm thế nào nếu
mình có mưu mẹo, có phương tiện thì mình cũng thắng. Trong khi câu tục ngữ phải được hiểu
nghĩa đen là: Dù nanh có sắc nhưng chuột cũng khó có thể cắn được cổ mèo.
Đ
Đắc ý (ý:
ý nghĩa).
Sai
! “ý” ở đây là ý nguyện.“Đắc ý” là được như ý nguyện chứ không phải được như ý nghĩa.
Đăng khoa (đăng:
ghi tên; khoa: khoa cử).
Kế thế đăng khoa
(đăng: trèo lên).
Thực
ra chữ “đăng” trong hai trường hợp trên đều có nghĩa giống nhau: ghi danh khoa cử. Việc giải nghĩa một “đăng” là ghi tên, một “đăng” là trèo lên trong hai mục từ trên là "tiền
hậu bất nhất".
Đèn huỳnh quang (Huỳnh:
đom đóm; quang: ánh sáng).
Chữ
“huỳnh” đây chính là cách đọc trệch
của chữ Hoàng do kiêng húy (chúa Nguyễn Hoàng). Chữ hoàng 煌 (bộ
hỏa) nghĩa là sáng sủa, sáng rực (ví dụ như huy hoàng 輝 煌). Còn chữ "huỳnh" (hoàng) với nghĩa đom
đóm lại có tự dạng là 螢 (bộ trùng). Không ai mượn hình ảnh ánh sáng lập lòe của con đom đóm để đặt tên cho bóng đèn điện cả. GS suy diễn
ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang giống ánh sáng trắng xanh của
con đom đóm, nên cho rằng chữ “huỳnh”
này có nghĩa là “đom đóm”chăng ?
Đĩ đực Từ dùng để chỉ bọn đàn ông lẳng lơ.
Ngày trước có từ “đĩ trai” chỉ loại đàn ông làm dáng, hay
ve vãn đàn bà, con gái. Gần đây,“đĩ đực”chỉ
hạng đàn ông đi bán dâm (mại dâm nam). Khái niệm “lẳng lơ” là “đặc quyền” dùng cho nữ giới.
Đoản văn. Thể văn gọn gàng.
Chữ
"đoản" ở đây có nghĩa là ngắn. Chỉ có văn phong gọn gàng, câu văn
gọn gàng. Không có “thể văn gọn gàng”.
Nói chính xác đoản văn là thể loại văn ngắn.
Đón người cửa
trước, rước người cửa sau. Nói kẻ chuyên
nghề mại dâm: Công an săn lùng những kẻ đón người kẻ trước rước người
kẻ sau.
Đúng
ra là “Đưa người cửa trước, rước người
cửa sau”. Nếu cửa trước cũng đón,
cửa sau cũng rước thì “mại” sao cho
kịp ?
Đông phong. Gió từ phương đông thổi tới.
“Đông phong”
không đơn giản chỉ là “gió từ phương đông
thổi tới” mà nó còn được hiểu là gió
xuân, vì hướng đông ứng với hành mộc - mùa xuân. Gió đông cũng gọi là gió
xuân. (Đào hoa y cựu tiếu đông phong
- Thôi Hiệu). Giống như phương tây ứng với mùa thu nên gió tây còn được gọi là
gió thu vậy.
Đồng điếu. Đồng nguyên chất màu đỏ.
Thực
ra “đồng điếu” là đồng hợp kim chứ
không phải đồng nguyên chất. Đây cũng là cái sai từng được GS Nguyễn Lân giảng
trong “Từ điển thanh ngữ tục ngữ Việt
Nam”.
Đồng ruộng. Nông thôn nói chung: Trở
lại đồng ruộng xí nghiệp, công trường (PVĐồng)
“Nông thôn nói chung”
có nghĩa rộng hơn“đồng ruộng” nhiều.
Nó bao gồm cả cảnh quan, đường sá, ruộng đồng, làng mạc....Trong khi ruộng đồng chỉ là khu ruộng, mảnh đất
phục vụ cho việc cấy cày, trồng trọt mà thôi. Giống như "xí nghiệp, công
trường" không phải "thành thị nói chung" mà là nơi làm việc của
công nhân.
Động cỡn. Nói phụ nữ có đòi hỏi về tình dục.
Thực ra từ “động
cỡn” vốn nói biểu hiện sinh lý bị kích thích ở thời kỳ động dục (thường là)
của trâu bò. Chúng hay có động tác nhảy cỡn lên hoặc nô dỡn rất bất thường với
nhau. Sau đó, từ “động cỡn” dùng để
mắng chửi vỗ mặt những người đàn bà có hành động, cử chỉ, lời nói giống như hiểu hiện “động cỡn” vậy. Ví dụ: Đồ
động cỡn ! ; Động cỡn hay sao mà...! Từ
điển tiếng Việt của Hoàng Phê giải nghĩa động cỡn: “(loài thú) có
những động tác biểu hiện đòi hỏi sinh lý bị kích thích mạnh khi có đòi hỏi về
tính dục. Lợn động cỡn. Đồ động cỡn (tiếng mắng thông tục)”.
Nếu như GS Nguyễn Lân giải
nghĩa "động cỡn" như trên
là đúng thì phụ nữ phát triển sinh lý bình
thường ai mà không “động cỡn” ? Cũng
giống như mục chữ cái C, từ “Chơi gái” được giải thích là “có quan hệ sinh lý với phụ nữ” thì đàn
ông mấy người không “chơi gái” ?
Mức độ đúng sai của trường hợp này xin
giành sự nhận xét cho độc giả là chị em phụ nữ.
E
Én Loài chim nhảy, đuôi chẻ…
Môi
trường kiếm ăn của chim én là bầu trời. Chúng bay qua, bay lại chấp chới (như con
thoi dệt vải) để bắt muỗi, côn trùng. Bởi vậy, chim én là loài chim bay, đậu
cành, không đậu trên mặt đất (do đuôi dài, chân ngắn và mặt đất không phải môi
trường kiếm ăn của én). Nói gì đến chuyện én là loài chim nhảy ?
Eo éo. Tiếng kêu, tiếng gọi từ xa.
Đúng
ra là tiếng kêu, tiếng gọi nghe không rõ, vọng lại từ xa, gây cảm giác khó chịu.
Ê
Ếch ngồi đáy giếng
Than phiền là ở một vị trí không hiểu gì
ở chung quanh: Tôi ở đây như ếch ngồi đánh giếng, hiểu sao được tình thế đổi
thay.
Thực
ra tục ngữ được dùng phổ biến với nghĩa: kẻ có hiểu biết hạn chế, nông cạn
nhưng lại lầm tưởng ta đây thông thái.
Ếch vồ hoa dâm bụt
(Ếch không ăn được hoa dân bụt) Chê kẻ làm việc hão huyền: Tin sao được
cái kẻ ếch vồ hoa dâm bụt ấy.
Tục
ngữ không có ý nói ếch ăn được hay không ăn được hoa dâm bụt. Mà hoa dâm bụt
thường được trồng ở bờ ao. Khi hoa nở, ong bướm, côn trùng đến hút nhụy, ếch ta
ngồi ngóng lên thèm thuồng, định thực hiện cú vồ ngoạn mục để đớp gọn con mồi.
Ai dè lực bất tòng tâm, cú nhảy chỉ vồ trúng cái hoa dâm bụt mà thôi. Nghĩa
bóng: chế giễu kẻ vụng về làm hỏng việc
lớn.
G
Gà đồng. Từ dùng đùa để chỉ con ếch.
Con
ếch có một số tên chữ như: thanh oa,
thanh kê, thủy kê, điền kê. Từ “gà
đồng” dịch từ chữ Hán điền kê 田雞
- tên gọi con ếch (hiện vẫn dùng phổ thông của người Trung Quốc).
Gà què ăn quẩn cối xay.
Chê
kẻ không có tài năng gì lại kiếm chuyện gây gổ với người chung quanh.
“Chê kẻ không có tài năng gì” thì
đúng. Nhưng gán cho kẻ thất thế “an phận thủ thường” kia cái tội “kiếm chuyện, gây gổ với người chung quanh”
quả là oan cho nó quá ! Có lẽ theo Giáo sư, cái chân què chính là bằng chứng về
“tiền sự” kiếm chuyện gây gổ của con
gà chăng ?
Gối vụ nói nhà nông làm lấn
sang
vụ sau, trong khi chưa xong hẳn vụ này. Nông
dân phải gối vụ để tăng sản lượng.
Phải
hiểu ngược lại: vụ sau gối vào vụ trước
mới đúng. Nghĩa là khi vụ trước chưa xong thì đã triển khai vụ sau. Như chuẩn
bị cây giống, phân bón, nhân lực để khi vụ trước vừa xong thì gối ngay vào. Ví
như để trồng ngô đông trên đất hai lúa, người ta gieo sẵn hạt ngô vào bầu trước
khi trồng tới hàng tuần. Đến vụ gặt mùa, thu hoạch lúa phía trước, cày ngay đất
phía sau, rải phân bón đã chuẩn bị sẵn đầu bờ ruộng và đưa bầu ngô ra trồng
(Sáng lúa, chiều ngô). Như thế cây ngô đông đã gối lên vụ trước được tới cả
chục ngày (mà tục ngữ có câu “Hơn một ngày hay một đường”). Nếu nói vụ trước “lấn sang vụ sau” có nghĩa thời gian của
vụ trước bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến kế hoạch triển khai vụ sau, sao gọi là “gối vụ” được ?
H
Hành quyết. ( Quyết: phán xử).
Chuyện “phán xử”
chỉ diễn ra ở pháp đình. Khi đã ra tới pháp
trường với hai từ “hành quyết”
rồi làm gì còn chuyện phán với xét nữa ? Thực
ra chữ “quyết” ở đây có nghĩa là xử chém.“Hành quyết” là thực hiện việc
xử chém.
Hiệp thương
(hiệp: giúp đỡ; thương: bàn luận)
Chữ
hiệp 協 cũng có nghĩa là giúp đỡ. Nhưng “hiệp” ở đây = hòa hợp
mới đúng. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: “Hiệp: Hoà hợp, như đồng tâm hiệp lực 同心協力, hiệp thương 協商 cùng bàn để định lấy một phép nhất
định”.
Hiếu đạo
(đạo: con đường)
Không
đúng. Tuy cùng có tự dạng là 道 nhưng đạo trong "hiếu đạo" không thể chọn nghĩa là "con đường" mà phải là đạo lý.
Hiếu đễ
(Hiếu: lòng hiếu; đễ: yêu quý anh em) Kính
yêu cha mẹ và hòa thuận với anh em.
Thực
ra “đễ” là cách ứng xử của người dưới
đối với người trên (cụ thể là của em đối với anh) chứ không phải chỉ chung anh
em với nhau. Xin trích dẫn “Đễ: Thuận,
biết đạo xử với anh gọi là đễ” (Hán
Việt tự điển-Thiều Chửu) ; “Đễ: kính
mến anh, kính nhường anh, kính thuận (với người lớn hơn mình)” (Hán
Việt từ điển-Trần Văn Chánh).
Hiệu phó
(…phó: người giúp đỡ)
Không
đúng ! Chữ “phó” ở đây có nghĩa là thứ,
thứ hai, thứ nhì chứ không phải là "người
giúp đỡ". Thế nên Thứ trưởng
còn được gọi là Phó bộ trưởng (bên
Trung Quốc). Chính Nguyễn Lân đã giải nghĩa chữ “trưởng” trong hiệu trưởng
là “người đứng đầu” đấy thôi.
Hiệu suất
(suất: cái làm chuẩn)
Thực
ra “suất” = tỉ lệ, mức.
Hình lập phương
(lập: đứng thẳng…)
Đúng
ra là "lập" = toàn khối; Hán
Việt tự điển của Thiều Chửu: "Lập 立: ① Ðứng thẳng (...) ⑦
Toàn khối, như lập phương 立方 vuông đứng, một vật gì
vuông mà tính cả ngang dọc cao thấp gọi là lập phương". Như vậy, chữ
"lập" có rất nhiều nghĩa. Thay vì nghĩa thứ nhất của "lập",
Giáo sư phải chọn nghĩa thứ (7) của "lập" mới đúng.
Hôi nách. Nói nách có mùi khó ngửi vì thiếu vệ sinh.
Hôi
nách là chứng bệnh do tính chất của tuyến mồ hôi. Y học cổ truyền cũng như Y
học hiện đại đều cho rằng hôi nách có tính di truyền. Bởi vậy ngay cả khi vừa
tắm rửa, vệ sinh sạch sẽ xong vẫn có mùi hôi như thường. Kết luận như GS Nguyễn
Lân thật thiếu công bằng.
Huyết tộc đồng hôn. Chế độ hôn nhân trong thời nguyên thủy, buộc
trai gái trong họ phải lấy nhau và không được lấy người ngoài.
Hôn
nhân thời nguyên thủy là chế độ quần hôn.
Còn chế độ trai gái trong họ lấy nhau lại gọi là hôn nhân nội tộc (như nhà Trần chẳng hạn)
I
Im
như thóc đổ bồ. Người có thóc đổ bồ không muốn cho ai
biết, sợ người ta vay mượn.
Lưu
ý: đây là “Im như thóc đổ bồ” chứ không phải Im
như đổ thóc vào bồ. Câu này một
lần nữa soạn giả lại bê nguyên cái sai trong cuốn Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (xuất bản 1989) để giải thích. “Im” ở đây không phải tả động tác đổ
thóc vào bồ một cách nhẹ nhàng, kẻo có người (đang rình ở xó nhà hay bờ vách
nhà mình chăng ? !) nghe tiếng rào rào của thóc chảy vào bồ rồi đến vay mượn như
GS hiểu. Sự im lặng theo nghĩa đen này ám chỉ những hạt thóc đã ở yên trong bồ, đã cất vào bồ, đưa vào trong kho,
buồng kín rồi, không có gì xáo trộn nữa. Đó là sự im hơi, lặng tiếng ở một nơi
kín đáo, không hề nhúc nhích. Còn có câu mang tính nhấn mạnh hơn “Câm như thóc” hoặc “Im như thóc trầm ba mùa”. Thóc “trầm
ba mùa” là thóc không còn khả năng mọc mầm nữa, một sự im lặng tuyệt đối và
mãi mãi.
Ý câu thành ngữ muốn diễn đạt: Nói sự sợ sệt
im thin thít, không nhúc nhích, không dám tỏ thái độ phản ứng trước một việc
nào đó. Đó là cách ví von, sự mô tả giàu tính hình tượng của thành ngữ dân
gian.
K
Khẩu trang
(trang: tô điểm)
Thực
ra “trang” ở đây là trang phục.
Khí tượng thủy văn
(văn: vẻ ngoài)
Thực
ra “văn” ở đây là những hiện tượng thiên nhiên.Nên có
thiên văn, địa văn, thủy văn là vậy.
Khiếm thính. Không nghe được rõ vì có tật.
Thực
ra “khiếm thính” là người bị điếc bẩm sinh (khiếm = thiếu; khiếm
thính = thiếu bộ phận, chức năng thính giác). Những
người này hoàn toàn không nghe thấy gì, dẫn đến bị câm điếc. Nếu “không nghe được rõ” thì đó là người bị lãng tai.
Không biết ất giáp là gì. Chẳng biết tí gì hết.
“Giáp”
nghĩa là đứng đầu, “ất” là thứ hai.“Không biết giáp ất là gì” tức không biết trên dưới, phải
trái, sau trước thế nào. Còn người ngu
dốt nói chung mới là người “Chẳng
biết tí gì hết”.
Khuyển. Con chó dùng với ý bông đùa.
Trước tiên “khuyển”
là từ Hán Việt nghĩa là con chó. Còn bông đùa hay không còn tùy từng văn cảnh
cụ thể.
Kinh sư (sư: quản lĩnh)
Thực
ra “sư” ở đây là nhiều, đông đúc chứ chẳng có quản lĩnh gì ở đây. Hán Việt tự điển của
Thiều Chửu viết: "Sư (師): Nhiều, đông đúc, như chỗ đô hội
trong nước gọi là kinh sư 京師 nghĩa là chỗ to rộng và đông người".
Kính thiên văn
(văn: văn vẻ)
Như
trên đã nói, “văn” ở đây có nghĩa là
những hiện tượng thiên nhiên. Kính thiên
văn là kính quan sát những hiện tượng thiên nhiên trên bầu trời (trăng sao,
nhật thực, nguyệt thực…) Ở mục từ "Khí
tượng thủy văn" soạn giả giải thích "văn" là "vẻ
bề ngoài" đến mục "Kính
thiên văn" cũng là "văn"
này, nhưng lại được giải thích là "văn
vẻ". Và cả hai cách giải thích đều không đúng.
Kính tiềm vọng
(tiềm: ẩn giấu; vọng: trông ngóng).
GS
đã chọn nghĩa sai cả hai từ “tiềm” và
“vọng”. Chữ tiềm (潛)cũng có một nghĩa là ẩn giấu,(như khen cái đức hạnh của kẻ sĩ
ở ẩn gọi là tiềm đức). Nhưng trong
văn cảnh này nó lại có nghĩa là ngầm (tiềm
thủy đĩnh 潛水艇 = tàu ngầm). Với chữ vọng tuy có cùng tự dạng là (望), nhưng “vọng” trong
"kính tiềm vọng" không có nghĩa là trông ngóng mà là nhìn xa. Kính tiềm vọng
là bộ phận rất quan trọng của tàu ngầm, giúp cho thủy thủ đoàn có thể nhìn thấy
bên trên của mặt nước khi tàu ngầm hoạt động dưới nước.
L
Lai vãng
(vãng: đi đến) Qua lại một nơi nào đó.
Ở
đây có sự nhầm lẫn. “Vãng” là đi, đi qua, “lai” mới là đi lại, đi đến. Nên
“lai vãng” mới có nghĩa là“qua lại” như GS đã giảng.
Lành
cho sạch, rách cho thơm
Đúng
ra là Đói cho sạch, rách cho thơm. Đói
mà giữ cho sạch mới khó.
Lãnh địa
(lãnh: thống trị)
Lẫm liệt oai phong
(phong: lề thói)
Tuy
cùng có tự dạng là 風 nhưng thực ra “phong” ở đây là dáng dấp. Lẫm liệt oai phong là cái dáng dấp oai nghi lẫm liệt.
Lục cá nguyệt
(cá: từng cái; nguyệt tháng) Sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt.
“Lục cá nguyệt” là sáu
tháng chứ không phải“sáu tháng một
lần”. Chữ cá trong lục cá nguyệt là số đếm = 6 tháng, nhằm phân biệt với lục nguyệt
= tháng 6.
Lụng thụng. Nói quần áo rộng quá.
Thực
ra“lụng thụng” là nói quần áo vừa rộng, vừa dài mới đúng. Nếu chỉ là rộng thôi phải là “thùng thình” chứ không phải“lụng thụng”.
M
Má hồng không
thuốc mà say. Chê kẻ đàn ông quá ham mê
sắc đẹp.
Thực
ra là nói cái má hồng (vẻ đẹp) của người con gái có thể làm say lòng người. Như
“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”(Sắc đẹp chẳng
phải sóng lớn nhưng có thể nhấn chìm được người ta). Tức nói cái sức mạnh
ghê gớm của sắc đẹp.
Màn hình. Bề mặt của đài truyền hình hoặc máy tính.
Phải
hiểu ngược lại mới đúng: màn hình là bộ
phận hiển thị hình hảnh (Trung văn gọi là hiển thị khí) của máy tính hoặc máy thu hình (chứ không phải "truyền
hình"). Và nó không chỉ là “bề
mặt” mà là một vật, một bộ phận (ngôn ngữ hàng ngày đôi khi màn hình được dùng để chỉ chung
cái Ti-vi - máy thu hình)
Mật ít ruồi
nhiều: nói tình trạng việc thì ít mà người xin làm lại nhiều.
Thực
ra không chỉ nói chuyện xin việc mà là cách nói hình tượng chỉ chung tất cả
những tình huống cầu vượt quá cung.
N
Nạ dòng lấy được trai tơ. Nói người phụ nữ có tuổi lấy được người
chồng trẻ.
Nói
đúng hơn phải là phụ nữ nhiều tuổi đã
từng có chồng lại lấy được một chàng trai
trẻ chưa vợ mới chính xác. Vì "phụ nữ có tuổi" nhưng chưa có
chồng thì vẫn không thể gọi là nạ dòng được mà xếp vào diện gái quá lứa, lỡ
thì. Và trai tơ là trai chưa vợ chứ không đơn thuần là trẻ. Làm từ điển mà giải
nghĩa đại khái kiểu này thì lẫn lộng lung tung hết.
Nghênh tiếp
(tiếp: liền với nhau).
Sai
! Thực ra “tiếp” ở đây có nghĩa là tiếp đãi, đón tiếp.
Ngọc nữ
(nữ: đàn bà)
Ngọc nữ
thường được hiểu là tiên nữ. Từ nữ trong “ngọc nữ” phải hiểu là “con gái” không thể là “đàn bà”. Vua Lê Thánh tông có bài thơ Nôm vịnh núi Ngọc Nữ ở Thanh Hóa: “Phau phau da đá phơi màu phấn, Trinh tiết bền gan chẳng lấy chồng”. Ở
mục vần T, từ thôn nữ GS Nguyễn Lân
giải thích: “nữ: đàn bà. Người con gái ở
nông thôn”.Thực ra, nữ trong “thôn nữ” ở đây cũng có nghĩa là: cô gái chứ không phải đàn bà. Như thế từ “thôn nữ” GS Nguyễn Lân mới giảng thành “người con gái ở nông thôn” được chứ ? Từ điển phải phân biệt được
thế nào là đàn bà, thế nào là cô gái, con gái, phụ nữ...Sao có thể tùy tiện, lẫn lộn đàn bà với con gái,
thiếu nữ với phụ nữ được ?
Ngồn ngộn1.
Rất
nhiều:Tiền của ngồn ngộn.
(Ng-hồng)
Ngồn ngộn2. Nói người phụ nữ trắng và đẹp:Cô ta mới lớn lên trông ngồn ngộn.
Về
mục Ngồn ngộn1. thực ra,
“ngồn ngộn” đây không chỉ là số lượng
"rất nhiều" mà còn gợi cho
ta hình dung về khối lượng (rất đầy-Ngồn
ngộn sân phơi khoai giát nắng - Tố Hữu). Thế nên câu văn gợi tả của Nguyên
Hồng “tiền của ngồn ngộn” = tiền của chất
đống.
Thiết
nghĩ, đàn ông khi sử dụng cuốn từ điển này nên cẩn thận khi có nhã ý dùng từ “ngồn ngộn” để ngợi khen người“phụ nữ trắng và đẹp” nào đó: Em (cô, chị) đẹp thật, trông ngồn ngộn !”.
Trong văn cảnh này các “đấng mày râu” sẽ bị chị em phụ nữ quy ngay cho cái tội
“có máu dê” chứ chẳng chơi !
Ngự lãm Nói vua xem
(cũ) Đoàn
văn công vào cung biểu diễn để nhà vua ngự lãm.
Quả
ngự lãm là nói vua xem. Nhưng vua mà
ngự lãm văn công biểu diễn thì đây là
hiện tượng “tân cổ giao duyên” rất khó chấp nhận trong ngôn ngữ. Văn công là khái niệm hoàn toàn mới, chỉ
những đoàn, đội văn nghệ đi biểu diễn lưu động phục vụ công chúng. Vua nào mà
tài giỏi tới mức sống dậy để có thể xem được văn công biểu diễn ?
Nhan sắc (Nhan: mặt; sắc: màu - Nghĩa đen: màu mặt) Vẻ đẹp
của phụ nữ.
Soạn
giả tiếp tục bị nhầm lẫn bởi hiện tượng đồng tự, dị nghĩa. Chữ sắc色
đúng là có một nghĩa là màu sắc. Thế nhưng trong văn cảnh này
sắc lại được hiểu là sắc đẹp. Thiều
Chửu giải nghĩa: “Sắc: Sắc đẹp, gái đẹp.
Như hiếu sắc 好色 thích gái đẹp”.
O
Oanh yến
(oanh: chim oanh, yến: chim yến) Những người phụ nữ làm nghề ca hát trong chế
độ cũ:Vô tình chi bấy, oanh yến
kia hát gió ngân trăng (PhBChâu); Lọ là oanh yến hẹn hò (BCKV).
Cách giải thích này hoàn toàn phỏng đoán theo
ý soạn giả. Theo Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh, yến anh (oanh) hoặc oanh yến
có hai nghĩa: 1.“Tỷ dụ người đi chơi lũ
lượt, tấp nập, như chim én, chim oanh bay từng đàn tíu tít trong tiết xuân”.
(Truyện Kiều: Gần xa nô nức yến anh, Chị
em sắm sửa bộ hành chời xuân - Chính là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ
nhất của GS Nguyễn Lân). 2.“Tỷ dụ chơi bời hoa nguyệt”. (Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã
chán chường yến anh - Kiều - Chính
là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ
hai của GS Nguyễn Lân). Điều đáng chú ý là đến mục từ Yến oanh phần cuối sách lại được soạn giả giải nghĩa khác hẳn: (Yến: chim yến; oanh: chim hoàng oanh: hai
loại chim này hay bay từng đôi, trống và mái) Tình trai gái :Dám đâu học thói
yến oanh, Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương (BCKN).
Ô
Ô nhục
(ô: vẩn đục)
Ô trọc
(ô: vẩn đục)
Chính
xác chữ “ô” (洿)nghĩa là nước tù, nước đọng, nhơ bẩn.“Vẩn đục”
không đồng nghĩa với “nhơ bẩn”.
Ống điếu. Đồ dùng để nhét thuốc lá vào rồi đốt mà hút.
Vật
GS mô tả thực ra là cái tẩu hút thuốc.
Còn “ống điếu” lại chỉ vật dụng có
thêm cái nõ dùng để hút thuốc lào.
Ơ
Ở ẩn.
Sống ở một nơi hẻo lánh để không tiếp xúc với xã hội.
Thực
ra ở ẩn chính xác phải là sống lánh đời, thể hiện chí khí hoặc giữ gìn khí tiết
của nhà Nho hay bậc hiền nhân ngày xưa.
Ời ời
Nói
tiếng gọi không dứt: Thằng Cuội
ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Thực
ra "tiếng gọi không dứt"
thì có thể chỉ nhiều kiểu tiếng gọi. Còn ời
ời phải là tiếng gọi với, vang vọng từ một nơi xa, nghe gấp gáp, bức thiết
mà không rõ lời. Trong ngôn ngữ thường ngày, từ này ít dùng. Dường như nó chỉ
xuất hiện và thực sự đắt trong câu ca
dao làm ví dụ của soạn giả.
P
Phi nghĩa
(nghĩa: điều phải làm)
Thực ra “nghĩa”
đây là nghĩa lý. Còn “điều phải làm” thì nhiều không sao kể
xiết.
Q
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng.
Ý nói: Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội: Trong chế độ thực dân, thường có chuyện quạ
ăn dưa bắt cò dãi nắng.
Thực
ra, quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn
các thứ quả như mít, dưa hấu...Tục ngữ có câu “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời
tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này
chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng
nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi
trường kiếm ăn của cò). Ý thành ngữ muốn nói: Hoàn cảnh thuận lợi của người này đôi khi lại chính là khó khăn vất vả
đối với người kia. Cách giải thích: “Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội” của GS Nguyễn Lân suy diễn quá xa nghĩa bóng của
thành ngữ.
Quý hồ tinh bất quý hồ đa
(tinh: trong trẻo).
Gs
lại mắc lỗi đồng âm, dị tự, dị nghĩa. Chữ “tinh”
mà soạn giả chú nghĩa “trong trẻo” có
tự dạng (晶)
và nghĩa chính xác là trong sáng,
được dùng trong kết hợp từ thủy tinh
(水晶).Còn chữ tinh(精)trong tinh lọc, tinh
tuyển mới đúng là chữ được dùng trong câu tục ngữ Quý
hồ tinh bất quý hồ đa.Thiều Chửu:“Vật
gì đã lọc bỏ hết chất xấu rồi đều gọi là tinh”.
R
Rau muống. Thứ rau phổ biến nhất ở nước ta,
cùng họ với khoai lang trồng ở ao hoặc ở trên cạn.
Không
biết căn cứ vào đâu mà GS lại cho rau muống “cùng
họ với khoai lang”. Bách khoa toàn thư
mở - Wikipedia “Rau muống (danh pháp hai phần: Ipomoea aquatica)
là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy sinh thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae), là một loại rau ăn lá”.
Rắn giáo. rắn đầu nhọn, mình dài: Thằn lằn, rắn giáo.
Cái
sai này xuất phát từ chỗ phát âm không phân biệt được Gi và R, dẫn đến viết
sai chính tả rồi suy diễn. Ở nước ta không có loại rắn nào tên là rắn giáo, mà chỉ có rắn ráo.
Rắn cạp nia. Rắn độc, mình
có những vằn tròn đen và trắng liên tiếp nhau.
Từ
“vằn” phải thay bằng khoang, từ “liên tiếp” phải thay bằng xen kẽ: mình có những khoang tròn đen,
trắng xen kẽ nhau.
S
Sáng kiến
(sáng: bắt đầu, gây dựng nên; kiến: thấy)
Thực
ra sáng ở đây nghĩa là mới. Sáng kiến là cách làm mới tìm ra.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
((ba: sóng; đào: dậy sóng)
Chính
xác: Ba = sóng nhỏ; đào = sóng lớn.
Sơ cứng. Không linh hoạt: Giải
quyết vấn đề một cách sơ cứng.
Ở
đây soạn giả viết sai chính tả. Tiếng Việt chỉ có từ xơ cứng, không có “sơ cứng”.
T
Tán phó mát. Theo bài ngụ ngôn “Con quạ và con
cáo của La Fontaine con cáo tán con quạ để nói bỏ rơi miếng phó-mát) Có nghĩa
ngồi với nhau nói những chuyện bâng quơ.
“Con quạ và con cáo”
là câu chuyện ngụ ngôn viết bằng thơ
của La Fontaine chứ không phải là một
bài thơ. Dùng từ “bài ngụ ngôn” là không đúng. Hơn nữa, câu này GS giải thích
mâu thuẫn với chính ý nghĩa và nguồn gốc của câu thành ngữ đưa ra. Một buổi
sáng trong rừng, cáo thức dậy với cái bụng đói meo. Khi nhìn thấy quạ cắp một
miếng phó-mát, nó nghĩ rằng không phải tìm bữa sáng ở đâu xa nữa, bèn dùng lời
tán tỉnh quạ rằng: với một bộ lông bóng mượt như vậy, chắc hẳn tiếng hót của
quạ sẽ hay lắm ! Quạ bị lừa, đắc ý há mỏ
cất tiếng kêu để rơi miếng phó-mát xuống đất, biếu không miếng mồi ngon cho cáo
ranh mãnh. Như vậy, “Tán phó-mát” không phải là “những chuyện bâng quơ” vô bổ, không có chủ đề, mục đích, mà là
những lời tán tỉnh, tâng bốc lừa phỉnh mới đúng.
Tế độ chúng sinh (chúng: nhiều; sinh: cuộc sống) Nói Phật cứu giúp mọi sinh vật ra
khỏi bể khổ.
Thực
ra “sinh” ở đây phải hiểu là sinh vật, muôn loài, không phải nghĩa là "cuộc sống".
Thóc
lép Nói hạt thóc nhỏ hơn bình thường. Năm ấy hạn hán nên nhiều thóc lép.
Giải nghĩa như thế là chưa nhìn thấy hạt thóc
lép bao giờ. Và cái cơ bản thóc lép khác thóc mẩy ở bên trong chứ không phải
bên ngoài. Thóc lép có hai loại. Loại 1:
lép lửng (còn gọi lúa trửng hay lúa kẹ) chứa rất ít tinh bột, có khi chỉ bằng
1/3 thóc mẩy. Loại 2: lép hoàn toàn,
chỉ có vỏ mà không có chất dinh dưỡng. Như thế, “hạt thóc nhỏ hơn bình thường” không phải là thuộc tính của thóc
lép.
Thống lĩnh (Thống: chỉ huy; lĩnh: trông coi) Chỉ huy toàn thể quân đội.
Thực
ra “thống” ở đây là thâu tóm; “lĩnh” nghĩa là đứng đầu;
thống lĩnh là người đứng đầu thâu tóm tất cả.
Thủy tạ
(tạ: ngôi nhà xinh) Ngôi nhà xây trên mặt nước để làm nơi giải trí: Nhà thủy tạ ở Hồ Tây.
Chữ
“tạ” theo Thiều Chửu: “Sàn, nhà tập võ, cái đài có nhà ở gọi là
tạ”. Như vậy, chữ tạ trong thủy tạ có nghĩa là “cái đài có nhà ở”. Có lẽ soạn giả ngắm nhà thủy tạ ở Hồ Tây thấy
nó xinh xắn quá nên tự cho rằng chữ tạ ở
đây phải có nghĩa là ngôi nhà xinh.
Tức như bò đá
(Thực ra bò không thể đá được) Bực mình
vì một chuyện rất vô lý.
Chưa
nhìn thấy bò đá bao giờ không có nghĩa "bò
không thể đá được". Tuy không ra được những cú song phi uy lực, dứt
khoát như ngựa, nhưng bò vẫn đá theo kiểu của bò. Đó là kiểu đá hất một chân ra
phía sau. Bình thường, bò là con vật nhút nhát, hiền lành, chậm chạp đến độ bị
coi “ngu như bò”. Thế nên người ta có tâm lý xem thường, ít để ý đến nó. Tuy
nhiên, đôi khi đi ngang qua hoặc đứng phía sau đuôi bò (do bị giật mình) nó vẫn
bất ngờ “ra đòn” đánh “nhằng” một
phát. Người bị bò đá đã đau lại bị một phen giật mình, hồn vía lên mây. Định
thần lại mới hóa ra nguyên nhân chính từ “kẻ ngu đần” kia. Bực tức, mà chẳng
làm gì được, thậm chí có điên tiết lên quất cho nó mấy roi cũng đến thế. Tức
như bò đá là như vậy. Ý nói: bỗng dưng gặp phải chuyện bị ức chế, bực mình, rất
tức mà chẳng làm gì được.
U
Uyên ương
(Loài ngỗng trời, uyên là ngỗng đực, ương là ngỗng cái, tục truyền hai con bao
giờ cũng đi với nhau). Vợ chồng yêu thương nhau.
Không
đúng. Uyên ương thuộc loài vịt chứ
không phải loài ngỗng. Theo Bách
khoa toàn thư mở: “Uyên ương (danh pháp hai
phần: Aix galericulata) là một
loài vịt
đậu cây kích thước trung
bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ”. Vì uyên ương là một loài vịt, chúng có tập tính, môi trường kiếm
ăn giống nhau nên thành ngữ gốc Hán có câu: “Đả áp kinh uyên ương” - đánh con
vịt lại sợ động chạm đến con uyên ương là vậy.
Ư
Ướt đẫm
Nói
mồ hôi thấm đầy vào quần áo: Tay
mang khăn gói sang sông, Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo (ca dao).
Từ ướt đẫm không chỉ dùng riêng để “Nói mồ hôi thấm đầy vào quần áo”. Soạn giả mới giải nghĩa từ “ướt
đẫm” trong văn cảnh cụ thể của câu ca dao chứ chưa phải giải nghĩa từ vựng. Người ta vẫn viết và nói ướt đẫm mưa, ướt đẫm nước mắt, ướt đẫm sương v.v... Ví dụ: Tàu
chuối ướt đẫm sương đêm. Nghĩa từ vựng phải là nghĩa tổng quát, bao hàm để
từ đó người nói, người viết có thể vận dụng vào nhiều trường hợp khác theo cách
mà từ điển đã chỉ dẫn. Từ ướt đẫm có
thể được dùng trong các trường hợp chỉ ướt
đều, ướt hết, ướt mà thấm.
V
Vịt xiêm
Giống
vịt to, người ta nói nhập từ Thái Lan. Trong sân nhà có đôi vịt xiêm rất lớn.
Thực
ra, vịt xiêm là cách gọi tên con ngan
của người miền Nam.
Vọng tộc
(Vọng: trông xa; tộc:họ) Gia đình có danh tiếng lớn trong xã hội
phong kiến.
Thực ra vọng ở đây không phải là “trông xa”. Thiều Chửu giảng nghĩa: “Có cái để cho người chiêm ngưỡng gọi là vọng, như danh vọng 名望, uy vọng 威望, v.v”. Chữ vọng trong
vọng tộc chính là theo nghĩa mà Thiều
Chửu đã giảng.
Vồ lắm lại vật đau.
Chê
người lúc đầu đối xử rất tử tế, nhưng về sau vì chạm đến quyền lợi nên lại ăn ở
tệ: Ông ấy mới ở ngoại quốc về
thì bà ấy săn đón thế, nhưng rồi đây, vồ
lắm lại vật đau cho mà xem.
Chính
xác phải là “Vồ lắm vập đau” (không
có chữ "lại"; chứ “vật” thay bằng chữ "vập"). Ở
đây, dân gian chơi chữ “vồ” và “vập”. Ban đầu thì vồn vã, săn đón, vồ (vập) cho lắm vào, đến sau lại vập (đánh nhau) cho đau. Nếu viết "Vồ lắm lại vật đau" thì còn gì là chữ với nghĩa nữa !
Vợ đàn bà, nhà hướng nam.
Câu này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng
chỉ muốn tỏ rằng nhà hướng nam thì tốt, theo lẽ tất nhiên như người vợ phải là
đàn bà.
Không
hiểu tục ngữ nói gì không có nghĩa tục ngữ "ngớ
ngẩn". Đàn bà hay đàn ông cũng có năm bảy loại. Có khi đàn ông nhưng
tướng mạo lại ẽo ợt, thiếu bản lĩnh, sống nhỏ mọn, bon chen, chấp nhặt…Trong
khi đàn ông thực thụ tướng mạo khôi ngô, rắn rỏi, bản lĩnh vững vàng, trượng
nghĩa...Cũng như đàn bà thực sự phải mang vẻ đằm thắm, dịu dàng, chu đáo, biết
thương chồng thương con, thu vén cho cuộc sống gia đình... Chẳng may vớ phải cô
vợ trông thô kệch như đàn ông, ăn to nói lớn, vụng về, không biết vun thém cho
gia đình, ấy là lấy phải người vợ không phải đàn bà. Chưa kể đến nghĩa đen: có khi lấy phải người nam
không ra nam, nữ không ra nữ (lỗi tạo hóa theo dân gian, hay rối loạn giới tính
theo khoa học). Hoặc bề ngoài là nữ nhưng thực chất lại là nam. Trong xã hội
hiện đại, không thiếu những cặp vợ chồng về chung sống với nhau, thậm chí có
con có cái rồi mới phát hiện ra là giới tính của vợ hoặc chồng “có vấn đề”. Thế
nên chưa hẳn theo lẽ tất nhiên “ người vợ
phải là đàn bà” như quan niệm đơn giản của GS Nguyễn Lân. Tục ngữ không hề “ngớ ngẩn” mà còn vô cùng sâu sắc và kinh nghiệm, đi trước thời
đại.
Vuông như bánh chưng tám góc.
Rất
vuông vắn: Một cái bàn vuông như
bánh chưng tám góc.
Nếu
có tới tám góc thì đó là hình bát giác. Đây là cách nói ngược, nghĩa
đen có ý chế diễu người gói bánh chưng vụng, vuông chẳng thành vuông mà lại “xéo
xèo xẹo” như hình bát giác.
X
Xanh rì.
Có
màu xanh lá cây đậm: Cửa son đỏ
loét tùm hum nóc, Bậc đá xanh rì lún phún rêu (HXHương); Trắng phau ngựa trắng
xanh rì rừng xanh (Tản Đà)
Xanh rờn.
Như
màu xanh của cỏ tươi: Nắng vàng
mát và cỏ xanh rờn (NgTuân)
Thực
ra, cả hai từ "xanh rì" và "xanh rờn" đều giành để mô tả
màu xanh sống động của thiên nhiên, gắn với màu
xanh và tính chất của cỏ cây chứ
không phải màu sắc của các đồ vật hay tranh vẽ. "Xanh rì" thường dùng cho màu xanh hơi tối của lá cỏ rậm
rạp (có từ rậm rì là như vậy). Còn xanh rờn lại là màu xanh non mơn mởn của cây cỏ. Không ai nói cái áo màu xanh rờn hay xanh
rì. Vì tính chất của cái áo là một vật thể chết, nó chẳng có trạng thái của
sắc màu gắn liền với rậm rạp hay thưa thoáng, già hay non.
Xanh rớt.
Nói nước da xanh quá.
Xanh lè
hay xanh lét, xanh rợn cũng là một kiểu “xanh
quá”, rất xanh. Thế nên để phân biệt với những cái rất xanh khác, xanh rớt
phải được giải nghĩa là xanh một cách yếu
ớt; thường dùng để chỉ nước da xanh biểu hiện ốm yếu, bệnh tật, thiếu sức sống.
Xào xạc
Nói
tiếng động của nhiều thứ chạm vào nhau: Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc (Lưu Trọng Lư).
Sỏi
đá, gạch, ngói, gỗ, sắt cùng va chạm với nhau cũng là "nhiều thứ" chạm vào nhau, nhưng không bao giờ âm thanh
chạm vào nhau của chúng được gọi là "xào
xạc". Thuộc tính của "xào
xạc" phải là tiếng của cành lá giao nhau, chạm nhau khi có gió lay,
nghe mơ hồ và rất êm nhẹ (như chính câu thơ của Lưu Trọng Lư ấy)
Xào xáo
Nấu
thức ăn bằng dầu mỡ và mắm muối: Tính
anh ấy dễ dãi, vợ xào xáo thứ gì thì ăn thứ ấy.
Nấu
thức ăn bằng dầu mỡ mắm muối gọi là "xào" cứ không phải là "xào xáo". Còn "xào xáo" theo nghĩa "vợ xào xáo thứ gì ăn thứ ấy"
lại có nghĩa là nấu qua loa, nấu cho nhanh, không thành món xào cũng chẳng phải
món xáo.
Xáo
Nấu
thịt với các gia vị: Ông ơi ông
vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng (cd); Mười voi không được bát
nước xáo (tng).
Thịt
kho tàu, kho nghệ hay kho với cà chua đều có thể gọi là cách "nấu thịt với các gia vị". Thuộc
tính của món "xáo" là phải
có nhiều nước. Thế nên hai câu tiếp theo trong bài ca dao mới là: Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục
đau lòng cò con. Câu "Ba voi không được bát nước xáo" cũng là nói
về món có nhiều nước là vậy đó.
Y
Yêu nhau rào dậu cho kín.
Ý nói:
khi yêu nhau thì người ta cố che đậy những cái sai sót của nhau: Hai ông ấy
rất thân nhau, nên họ luôn bênh vực nhau, yêu nhau rào dậu cho kín mà.
Thực
ra “rào dậu” không phải là “che đậy những cái sai sót của nhau”.
Đây là dị bản có ý nhấn mạnh của “Yêu nhau thì rào dậu”. Nghĩa đen: Hai nhà ở
cạnh nhau, dù thân đến mấy cũng nên có hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia
tạo ra không gian tự do, độc lập. Không nên vì yêu nhau mà phá vỡ ranh giới, sẽ
dẫn đến va chạm, thắc mắc dễ xa nhau. Nghĩa bóng: trong mối quan hệ tình cảm
nếu muốn giữ bền chặt, lâu dài thì cần thực hiện những nguyên tắc sống, lối ứng
xử, cẩn thận, kín kẽ, đặc biệt là những gì liên quan đến vật chất, tiền bạc
phải rõ ràng. Không nên xuề xòa, lâu dần sẽ nảy sinh tâm lý thắc mắc, hơn thua
khiến người ta dễ xa nhau.
Kẻ
mạo muội viết bài này, dù chưa hết ý, cạn lời, nếu có chỗ nào mạo phạm, xin
được anh hồn Nhà từ điển học nổi tiếng GS Nguyễn Lân đại xá và các bậc cao minh
cùng độc giả chỉ giáo.
Nội dung trên đây được lược trích từ “Phê bình từ điển” -
bản thảo đã được Ban lý luận phê bình,
dịch thuật-Hội văn học Nghệ thuật
Thanh Hóa thẩm định tháng 6/2013 và cấp kinh phí tài trợ xuất bản 2014. Bạn
đọc có thể tìm nội dung đầy đủ hơn trong tuancongthuphong.blogspot.com.
H.T.C
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét