Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

Tội Ác của Tư Bản - Đồng sàng Bắc Kinh - Hà Nội: Nỗi bi thiết từ nợ công

Đồng sàng Bắc Kinh - Hà Nội: Nỗi bi thiết từ nợ công

Thân phận “nước giàu dân nghèo” của nền kinh tế Trung Quốc không chỉ làm liên lụy đến số phận nền kinh tế thế giới mà còn góp phần chung quyết đối với vận mạng của nền kinh tế và cả thể chế Việt Nam.

Linh cảm bất an của những người Việt còn tinh thần dân tộc về một sự chuẩn y tai hại của chính thể Bắc Kinh vào thể chế cầm quyền Hà Nội - thông qua “gói hỗ trợ” kinh tế bất thường trong những năm tới - sẽ có thể được giải nguy bởi cơn nguy biến có khả năng nổ ra ngay trong lòng nền kinh tế Nội Hán chỉ trong vài ba năm nữa.

Ít nhất vài dấu hiệu nguy biến như thế đang phát lộ và trở nên lớn lao hơn nhiều so với những nhận định thầm cảm trước đây. Tinh thần trưởng thành khá nhanh chóng như vậy đã diễn biến theo chuỗi logic bất biến: ngân hàng và nợ xấu.

3.000 tỷ USD nợ công!

Từ đầu năm 2013, ít nhất 3 ngân hàng lớn của nước ngoài là Goldman Sachs, Citigroup và Bank of America đã bất ngờ thoái toàn bộ vốn đầu tư khỏi hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Trào lưu chủ động rút vốn này đã kéo theo sự thoái lui của một số quỹ tài chính quốc tế khỏi thị trường chứng khoán quốc gia đầy kiêu ngạo này, khiến cho chỉ số Thượng Hải Composite không thể nào ngóc đầu lên được. Từ thời điểm hoàng kim năm 2007 đến nay, dù chỉ số này đã mất đi 40% giá trị đỉnh, nhưng dĩ nhiên đà suy thoái chưa dừng ở đó.

Nếu chứng khoán được xem là tín hiệu tiên phong báo trước xu hướng vận động của kinh tế, thì đó chính là một logic khác đã dẫn đến tình thế nợ công trở nên hiểm nghèo đột ngột đối với toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc, điều mà ngay cả “tiến sĩ tận thế” Nouriel Roubini, trong nhiều đánh giá và dự báo trước đây về chuyển động của kinh tế Trung Hoa, cũng không thể bao quát được.

Đột biến đã xảy ra khi năm 2013 bước vào những ngày cuối cùng. Chính vào lúc đó, cơ quan kiểm toán Trung Quốc bất ngờ công bố số nợ công của nhà nước này đã lên đến 3.000 tỷ USD. Con số này, xét về mặt giá trị tuyệt đối, gần bằng toàn bộ kho dự trữ ngoại tệ khổng lồ của Trung Hoa đại lục.

Một kinh ngạc cũng đã phát vỡ. Mới vào năm 2011, nợ của các chính quyền địa phương chỉ được báo cáo vào khoảng 1.450 tỷ USD, cho dù khi đó ước đoán của những tổ chức xếp hạng tài chính độc lập có tiếng trên thế giới như Credit Suisse và Fitch Ratings là 2.200 tỷ USD. Thế nhưng đến nay, nợ của khối chính quyền địa phương đã tăng lên gấp đôi.

Cú vọt lên gấp đôi đó lại chỉ tăng tốc trong một thời gian ngắn ngủi. Vì sao lại xảy ra một giấc mơ chóng mặt như thế?

Có hai cách giải thích: hoặc giới ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cố tình giấu nhẹm về con số thực nợ xấu của các chính quyền địa phương và cả về số nợ công của đất nước này; hoặc những người làm chính trị chuyên nghiệp như Tập Cận Bình muốn thực sự nhìn thẳng vào sự thật trần trụi để tiến hành một cuộc cải cách kinh tế lớn chưa từng thấy - chỉ dấu được xem là ngang ngửa với kế hoạch hiện đại hóa Trung Quốc mà Đặng Tiểu Bình đã ồn ào khoa trương từ cuối những năm 1970.

Cũng còn một cách lý giải sâu xa và khó nói hơn: sau khi đã trở thành hiện tượng chưa từng có trong giới chính khách Trung Quốc về thắng lợi thâu tóm quyền lực chỉ trong vòng một năm từ khi nhậm chức, Tập Cận Bình muốn dùng sự thật về nợ xấu và nợ công để tạo nên một chiến dịch “perestroika” mà từ đó sẽ khuynh loát toàn bộ hệ thống điều hành của chính quyền, khiến chính phủ và các thành viên của nó phải phụ thuộc hoàn toàn vào các quyết định của tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, từ đó làm rõ hơn hẳn tính thực tiễn về cơ chế “nhất thể hóa” trong việc tập trung hóa quyền lực trên toàn cõi Trung Hoa.

Cần lưu ý, chủ đề dần công khai hóa nợ xấu và nợ công đã chỉ diễn ra sau hội nghị trung ương 3 của đảng vào tháng 11/2013 - một cuộc họp cho thấy Tập Cận Bình đã không hoàn toàn thành công trong ý đồ muốn tạo ra một cuộc cải cách liên quan đến cơ chế giảm độc quyền doanh nghiệp quốc doanh, cải cách hệ thống ngân hàng và đa dạng hóa chế độ sở hữu đất đai.

Đồng sàng

Nhưng nói gì thì nói, mọi chuyện cũng đã trở nên xấu hơn đáng kể so với vài năm trước. Có đến 70% hoặc hơn nợ của các chính quyền địa phương phụ thuộc không thể chối cãi vào thị trường bất động sản tại đất nước này. Mà tình trạng bất động sản lại vẫn nằm nguyên trong một nghịch lý quá nan giải: bất chấp giá nhà đất vẫn tiếp tục tăng tiến tại phần lớn trong 70 thành phố chính của Trung Quốc, chính quyền ở nhiều nơi vẫn không thể giải quyết được hàng tồn kho nhà đất, đặc biệt là khối ung thư khổng lồ căn hộ cao cấp. Tính thanh khoản vẫn chưa thoát khỏi bóng ma giảm phát.

Nhiều người trong giới phân tích quốc tế và cả tại Hồng Kông đã khẳng định là thị trường bất động sản Trung Quốc chắc chắn sẽ sụp đổ. Thời điểm sụp đổ có thể trong từ 3 - 5 năm nữa.

Khác hẳn với tốc độ giảm nhiệt đáng kể đến 30% của thị trường bất động sản Singapore, giới điều hành chính sách nhà đất Trung Quốc đã hầu như thất bại trong việc điều tiết giá nhà quá nóng, cho dù những chính sách như đánh thuế đối với việc người dân sở hữu căn hộ thứ hai đã được đưa ra từ năm 2012. Cho tới nay, không những không giảm, giá nhà vẫn tiếp tục phi mã. Một cuộc thăm dò dư luận cho thấy có đến 70% người được hỏi không hài lòng hoặc phản ứng phẫn nộ vì giá nhà quá cao so với thu nhập trung bình của người lao động.

Tình hình phân hóa quá lớn về giá nhà đất và thu nhập ở Trung Quốc cũng có thể gần tương tự xã hội Việt Nam - nơi mà giá nhà đất cao gấp 25 lần thu nhập bình quân của người lao động, trong khi tiêu chí hợp lý của Liên hiệp quốc đưa ra chỉ dưới 5 lần.

Không thể giải quyết được việc bình ổn giá nhà đất, chế độ chính trị ở Trung Quốc cũng đương nhiên đang tuyệt vọng trong mục tiêu làm cho hố phân hóa giàu nghèo hẹp lại, do đó càng khiến tâm trạng bất mãn và tâm lý thù ghét người giàu trong dân chúng trở nên đại trà và sắt máu hơn.

Cũng không thể giải quyết được nạn tồn kho nhà đất, hệ thống ngân hàng Trung Quốc luôn phải đối mặt với nguy cơ đổ vỡ, và hơn nữa là dạng domino sụp đổ liền mạch giữa các ngân hàng. Bài học gần nhất mà chắc chắn giới điều hành kinh tế Trung Quốc không thể nào quên là sự sụp đổ bất ngờ của ngân hàng Lehman Brothers ở Mỹ vào tháng 10/2007, dẫn tới cuộc suy thoái toàn diện tại quốc gia hùng mạnh nhất thế giới này trong 17 tháng.

Đó cũng là hình ảnh đơm hoa kết trái của cơ chế “đầu tư nhiều nhất trong thời gian ngắn nhất” ở Trung Quốc vào thời kinh tế hoàng kim những năm 2006-2007, tương tự với Việt Nam. Nhưng mọi chuyện vẫn chưa phải hết, vì ngay cả sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và đến thời kỳ tạm phục hồi năm 2009-2010, Bắc Kinh và Hà Nội vẫn đua nhau tiếp tục đầu tư theo cái cách “tiền đổ vào cho đến lúc sụp đổ hoàn toàn”.

Hoàn cảnh Hà Nội còn tàn thiết hơn: sau 6 năm suy thoái với nền kinh tế vẫn hầu cạn kiệt sức hồi sinh, sau cú đổ nợ lên đầu con cháu với tỷ lệ nợ công hiện thời lên đến 95-98% GDP, giới lãnh đạo và những tập đoàn cá mập nhà nước vẫn không ngớt vay mượn từ ODA và các nguồn tín dụng quốc tế khác.

Vay mượn cho đến khi sự đổ vỡ trở nên tuyệt đối…

Đèn nhà ai nấy rạng

Không thể né tránh rằng, tương lai đổ vỡ sẽ hoàn toàn không xa vời, đặc biệt ứng với nền kinh tế Việt Nam. Còn với Trung Quốc, bởi tiềm lực kinh tế mạnh hơn hẳn, trước mắt giới điều hành kinh tế tại quốc gia này vẫn chưa phải quá lo lắng về một cận cảnh kinh hoàng.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ công/GDP ở Trung Quốc hiện thời đã lên đến 50% theo các con số báo cáo của chính cơ quan kiểm toán nước này. Còn nếu theo tính toán của một số cơ quan phân tích độc lập của châu Âu, tỷ lệ nợ công tại Trung Quốc có thể cao hơn nữa, thậm chí đến 200%.

200% cũng là tỷ lệ nợ công mà Nhật Bản đã lâm vào trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Dù cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ trong nước, chừng đó đã là quá đủ để người Nhật phải rơi vào thập kỷ mất mát không tránh khỏi.

Sau nhiều năm tăng trưởng nóng và quá hãnh tiến về chủ thuyết “Trung Quốc trỗi dậy”, có thể không bao lâu nữa nền kinh tế và cả xã hội của đất nước này sẽ phải rước lấy sự mất mát ghê gớm. Cũng rất có thể, đó sẽ là một sự trả giá đau đớn, hoàn toàn không liên quan với ngữ nghĩa “hạ cánh mềm”. Thậm chí, cuộc hạ cánh cứng sẽ có thể mang ý nghĩa “đòn xoay chế độ”.

Với hiện tượng xuất hiện dấu hiệu khá rõ ràng về nợ xấu và nợ công được công bố ở Trung Quốc vào cuối năm 2013, có khả năng độ trễ để dấu hiệu biến thành thực chứng sẽ từ một đến hai năm. Và nếu trong năm 2014 các chính quyền địa phương tiếp tục bị ám ảnh nặng nề bởi núi hàng tồn kho nhà đất, cũng như không thể thanh toán phần lớn nợ cho chính quyền trung ương, thần chết sẽ lừng lững hiện ra. Năm 2015 sẽ chứng kiến sự biến mất của một tỷ lệ không nhỏ doanh nghiệp bất động sản và kéo theo tình cảnh băng hà của một bộ phận trong giới ngân hàng.

Viễn cảnh không mấy xa xôi đó hiển nhiên sẽ tác động tức thì qua đường biên giới Việt - Trung. Những gì mà giới quan chức “bốn tốt” ở Hà Nội đặt niềm tin và ấp ủ không ít hy vọng vào một “gói giải cứu” nhiều tỷ đô la từ Bắc Kinh cho năm 2014 và những năm tới sẽ có thể trở thành cái bánh vẽ không lồ không hơn không kém.

Thậm chí một khi kinh tế Trung Quốc rơi vào suy thoái, một tỷ đô la cũng không sẵn dành cho Hà Nội, để nói như một chuyên gia quốc doanh, một tỷ đô la cũng có thể khiến cho Nhà nước Việt Nam vỡ nợ.

Khi đó và như một câu tục ngữ dân gian, sẽ là “đèn nhà ai nấy rạng”. Không thể có chuyện ứng cứu lẫn nhau, nhất là khi các nền chính trị độc tài bị ngập ngụa bởi nạn tham nhũng và đã trở thành một thứ phản cảm không thể quá đáng hơn đối với lịch sử nhân loại.
Phạm Chí Dũng
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

Sóng gió Biển Đông phép thử sự chính trực

Tiểu thuyết Sóng gió Biển Đông của nhà văn Hoàng Minh Tường
Tiểu thuyết Sóng gió Biển Đông của nhà văn Hoàng Minh Tường RFA
Nghe bài này

Chỉ sau tác phẩm Nguyên Khí một thời gian ngắn, tiểu thuyết Sóng gió Biển Đông của nhà văn Hoàng Minh Tường lại không thể ra mắt vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày mất Hoàng Sa mặc dù đã được Cục xuất bản cho phép. Đây là cuốn sách thứ ba của nhà văn Hoàng Minh Tường gặp trở ngại sau hai cuốn Thời của thánh thần và Nguyên khí. Mặc Lâm có cuộc trao đổi với tác giả để tìm hiểu thêm lý do. Trước tiên nhà văn Hoàng Minh Tường cho biết:

Nhà văn Hoàng Minh Tường: Thật ra nếu bình thường không có gì xảy ra thì Sóng gió Biển Đông đã xuất bản từ tháng 5 năm ngoái. Tôi đã làm việc với giám đốc nhà xuất bản Lao Động và đã nhất trí. Tôi nghĩ rằng cuốn sách này nó cũng nói về chuyện làm ăn trên Biển Đông được lấy bối cảnh từ một làng chài nên bối cảnh chính trị không có gì ảnh hưởng cả, thậm chí còn tốt nữa. Cuốn sách này trước kia đã in ở nhà xuất bản Công an một phần rồi bây giờ được chỉnh sửa lại và thêm hai chương hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa.

Hai chương này tôi cũng thừa nhận rằng có những vấn đề nhạy cảm và đã lấy ra bây giờ lại đưa vào, bổ xung vào sau. Thế là ông giám đốc nhà xuất bản Lao Động mặc dù lúc đầu ông ấy đã đồng ý và đã ký tá chuẩn bị đem in, họa sĩ vẽ bìa rồi nhưng cuối cùng thì ông ấy lại không dám ký. Không biết là tự ông ấy quyết định hay có ý kiến gì của ai không nhưng trước khi nghỉ hưu ông ấy lại không dám ký vì vậy bây giờ sách vẫn treo ở đấy.
Hai chương này (hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa) tôi cũng thừa nhận rằng có những vấn đề nhạy cảm và đã lấy ra bây giờ lại đưa vào, bổ xung vào sau. Thế là ông giám đốc nhà xuất bản Lao Động mặc dù lúc đầu ông ấy đã đồng ý và đã ký tá chuẩn bị đem in...nhưng cuối cùng thì ông ấy lại không dám ký. - Nhà văn Hoàng Minh Tường
Một vài nơi cũng muốn in nhưng bây giờ vẫn còn trục trặc. Tôi rất muốn cuốn sách này sẽ ra mắt vào dịp kỷ niệm 40 năm Hoàng Sa thất thủ. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên đề cập tới cuộc hải chiến mà chúng ta luôn luôn quan tâm.

Cố Thiếu tá Hải Quân Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, hy sinh vì tổ quốc trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
Cố Thiếu tá Hải Quân Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, hy sinh vì tổ quốc trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974.RFA files
Mặc Lâm: Anh vừa nói là Sóng gió Biển Đông được bổ xung thêm chương hải chiến Hoàng Sa, anh có căn cứ trên tài liệu vừa được công bố rộng rãi trong thời gian vừa qua hay dựa vào đó để hư cấu thêm cho đúng với tinh thần một cuốn tiểu thuyết?

Nhà văn Hoàng Minh Tường: Vâng, chương này được tôi hư cấu trên những tài liệu mà tôi đã đọc được. Rất nhiều tài liệu từ các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tham gia trận chiến Hoàng Sa trên các trang mạng và tôi theo rất sát sự thật. Nhân vật của tôi là người tham chiến trên con tàu HQ10 Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà và tôi chỉ xoay quanh cái tàu ấy thôi chứ tôi không viết cả một cuộc chiến vì cuộc chiến này có sự tham gia của 4 chiếc tàu. Tôi theo nhân vật vì đây là cuốn tiểu thuyết nên nhân vật phải gắn bó với một bối cảnh. Trong chương này có anh Thiếu úy Đỗ Trọng Hải đã tham gia trên tàu Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Tôi viết nhân vật này gắn liền với cuộc chiến trên tàu.

Tất nhiên những cứ liệu hoàn toàn là có cơ sở từ ngày chiếc tàu khởi hành tại Đà Nẵng vào ngày 17 cho tới tới ngày 19 thì tàu đã bị nó đánh chìm

Mặc Lâm: Anh cũng nói là tiểu thuyết Sóng gió Biển Đông được dựng lên từ một làng chài gắn bó với Biển Đông. Phải chăng các cơ quan trách nhiệm lo sợ anh miêu tả những câu chuyện có dính tới việc tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, bắt cóc đòi tiền chuộc ….?

Rất nhiều tài liệu từ các chiến sĩ VNCH đã tham gia trận chiến Hoàng Sa trên các trang mạng và tôi theo rất sát sự thật. Nhân vật của tôi là người tham chiến trên con tàu HQ10 Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà và tôi chỉ xoay quanh cái tàu ấy thôi - Nhà văn Hoàng Minh Tường
Nhà văn Hoàng Minh Tường: Cũng có vấn đề đó. Trong Sóng gió Biển Đông ngoài hai chương hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa thì những nhân vật của tôi ra đánh cá ở Hoàng Sa thì bị bắt. Nếu cả cuốn tiểu thuyết được đọc lại thì thấy hoàn cảnh của ngư dân họ khổ lắm. Trong đó có người bị bắt bị giam đến hơn một tháng. Có những người lạc vào đảo như là Robinson Crusoe. Tất nhiên là một cuốn tiều thuyết nên tôi triển khai trên cơ sở viết về ngư dân bị tàu Trung Quốc bắt trên đảo Phú Lâm có lẽ vì thế mà các nhà xuất bản họ cũng ngại.

Thân nhân các ngư dân ngày đêm ngóng chờ.
Thân nhân các ngư dân ngày đêm ngóng chờ. Source Tuoitreonline
Ngay thậm chí trong làng báo cũng thế. Khi tôi ra Trường Sa vào tháng Tư năm ngoái, khi về tôi có viết một phóng sự cho báo Văn Nghệ để phúc trình về Trường Sa trong đó có nói một phần về cuộc chiến Trường Sa, một biên tập viên khi biên tập vội vàng cắt đi. Tôi nói nếu cắt thì tôi không in và tôi gọi cho Tồng biên tập Nguyễn Trí Huân, cuối cùng bài viết đó đăng hoàn toàn trong đó có cuộc chiến tôi viết lại về đảo Gạc Ma và đảo Cô Lin. Sau khi đăng thì độc giả hoan nghênh thôi.

Thật ra khi chúng ta đưa ra sự thật thì có gì đâu. Có lẽ một số nhà xuất bản các anh ấy hơi ngại. Thường các anh ấy tự biên tập trước khi đưa lên. Cuốn sách này không liên quan gì tới Cục xuất bản cả mà nó liên quan tới nhà xuất bản. Nhà xuất bản thì anh giám đốc có quyền. Cuốn sách đã được lên lịch in và cục xuất bản đã chấp nhận rồi.

Sóng gió Biển Đông và Nguyên Khí là hai cuốn sách tôi nghĩ rằng khi in ra thì sẽ được độc giả đón nhận nồng nhiệt vì đó là tấm lòng và trách nhiệm của nhà văn đối với những vấn đề của đất nước. Nhà văn chỉ nói lên sự thật bằng tác phẩm - Nhà văn Hoàng Minh Tường
Mặc Lâm: Sóng gió Biển Đông bây giờ đang nằm ở đâu thưa anh?

Nhà văn Hoàng Minh Tường: Cuốn sách trước đây nằm ở nhà xuất bản Văn Học và Lao Động nhưng tôi đã rút lại nơi nhà xuất bản Lao Động sau khi anh giám đốc nhà xuất bản này nghỉ hưu. Trước khi anh ấy nghỉ hưu thì có hứa là sẽ ký và cho in nhưng bây giờ tới khi nghỉ hưu thì anh ấy lại ngại!

Mặc Lâm: Trong lúc lấn cấn như thế này thì cuốn sách làm sao kịp ra mắt vào dịp kỷ niệm 40 năm sắp tới?

Nhà văn Hoàng Minh Tường: Không, không kịp đâu. Tôi đang kỳ vọng sẽ ra vào tháng 3 nhân ngày kỷ niệm Trường Sa. Ngày 19 tháng 3 là ngày kỷ niệm Trường Sa thì cuốn sách ra được.

Sóng gió Biển Đông và Nguyên Khí là hai cuốn sách tôi nghĩ rằng khi in ra thì sẽ được độc giả đón nhận nồng nhiệt vì đó là tấm lòng và trách nhiệm của nhà văn đối với những vấn đề của đất nước. Nhà văn chỉ nói lên sự thật bằng tác phẩm. Vấn đề gì nó thuộc về tinh thần yêu nước dù dưới dạng nào thì cũng sẽ đến tay bạn đọc. Hiện nay có một hai nơi họ đang tác động để các nhà xuất bản họ phải nghĩ lại đã đến lúc chúng ta dám nói sự thật về cả hai trận hải chiến và nếu không nói thì chúng ta có tội. Có tội với lịch sử, có tội với các chiến sĩ đã hy sinh xương máu để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc chúng ta.

Mặc Lâm: Xin cảm ơn anh.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-01-13 

Alan Phan - Tội Ác của Tư Bản

Trước hết, đây hẳn là một đề tài khá quen thuộc với đa số dân Việt Nam; sau gần 70 năm trường kỳ huyên thuyên về những tội ác “đất không dung, trời không tha” của bọn giẫy chết. Tuy nhiên, trước khi đào sâu về các tội ác này, hãy xét lại cho kỹ những huyền thoại và thực tại.

Huyền thoại

Danh từ tư bản thường đi liền với thực dân và hình ảnh đầu tiên khi nói về tội ác là sự kiện những ông bà chủ da trắng từ Âu Châu qua xâm chiếm các nước nghèo đói lạc hậu ở Á, Phi… để thu nhặt khoáng sản tài nguyên đem về cho mẫu quốc, cũng như để bóc lột sức lao động của dân địa phương không khác gì chế độ nô lệ thời phong kiến. Khi gặp bất cứ sự chống đối nào, họ sẵn sàng đem quân đội công an ra đàn áp, giết hại… và sau đó, dùng vũ khí mềm như tôn giáo, văn hoá…để xoa dịu, bóp nặn tư tưởng.

Thành công nhất là đế chế Anh nơi mặt trời không bao giờ lặn; và tham tàn nhất là các anh chị Pháp, cũng tạo được nhiều khối thuộc địa khắp thế giới. Dù nhỏ hơn nhưng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ý Đại Lợi… cũng kiếm được khá nhiều tài sản và chiến lợi phẩm. Nhật và Mỹ cũng tham gia cuộc chơi, nhưng đến muộn nên không tạo nhiều tiếng vang.

Hình ảnh này khá chính xác cho đến khoảng 1945, sau Thế Chiến thứ hai. Cuộc diện thế giới thay đổi mạnh mẽ thời đó, bắt buộc các quyền lực tư bàn phải đổi thay.

Thực tại

Khoảng 60 năm trở lại đây, phải nói những tội ác thiêu huỷ đời sống bình nhật của người dân thường xuất phát từ các lãnh tụ cùng mầu da, và bọn trắng đã chùi sạch tay chân dơ bẩn.

Phổ thông nhất là các cuộc thảm sát dựa trên khác biệt về triết lý chính trị. Sách vở Trung Quốc đầy dẫy những cuộc thảm sát dân vô tội từ phát xít Nhật hay các cường quốc da trắng. Một thống kê lịch sử ghi nhận con số hơn 1 triệu nạn nhân dân sự của bàn tay xâm lược Nhật. Tuy nhiên, không người Tàu nào đả động đến con số 60 triệu người dân bị Mao thanh trừng. Hay cuộc nội chiến giữa phe Quốc Dân Đảng và Cộng Sản đã khiến hơn 8 triệu người thiệt mạng. Chỉ riêng anh độc tài tí hon Pol Pot, theo gương Mao, giết hơn 1/3 dân số của xứ Kampuchia.

Hiện nay, Bắc Triều Tiên vẫn coi chuyện tử hình là án nhẹ…chỉ cần đóng phim khiêu dâm hay không hát bài ca tụng cha con ông Kim là đủ tội để ra pháp trường. Các nước Zimbabwe, Somalia, Rwanda, Central African Republic, Congo... là nhũng ví dụ não lòng khác cho số phận con người sinh nhầm chỗ.

Ngoài ra, phải nói thêm là mầu da của các tay tư bản đã không còn thuần trắng. Các tỷ phú Á Rập và Nhật Bản, các đại gia mới nổi của Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ La Tinh… đang sánh vai cạnh tranh với giới tư bản Âu, Mỹ, Úc… về quyền lực và phần bánh ngọt.

Chiến tranh uỷ thác

Một cuốn sách tôi đọc cách đây 10 năm (quên mất tên) mô tả về âm mưu của các nhà tài phiệt Do Thái tái cấu trúc lại bàn cờ quyền lợi của thế giới sau khi trật tự cũ bị lung lay. (Nhóm này sau hoạt động chính thức dưới danh nghĩa Trilateral Commission). Dù rất chi tiết và thuyết phục, tài liệu được xếp hạng như tiểu thuyết vì khó ai có thể tìm ra chứng cớ. Theo sách, các lãnh tụ và tỷ phú của Âu Mỹ nhận thấy những áp đặt bằng vũ lực và kềm kẹp khối dân thuộc địa không những tốn kém, thiếu hiệu quả…mà còn có thể gây những phản ứng xã hội và chính trị tổn hại đến mục tiêu sau cùng: sự thâu tóm tài nguyên và tiền bạc của các giống dân bị trị. Họ sáng tạo ra một chiến lược mới: chiến tranh uỷ thác (proxy wars).

Cũng tương tự như “outsourcing” ngày nay: hãy để bọn lãnh đạo địa phương hưởng một phần quyền lợi nhỏ. Bù lại, chúng sẽ cai quản và thay thế mình trong việc tận thu lợi nhuận. Tay chân và tăm tiếng các nhà tài phiệt sẽ không bị ảnh hưởng xấu; họ có thể nằm dài hưởng thụ những trái ngọt từ các thiên đường lớn nhỏ mà họ đã xây dựng với đủ loại đồ chơi cũng như hệ thống an ninh.

Hơn nữa, những số tiền hay tài sản mà các đàn em địa phương thâu tóm rồi cũng “châu về hiệp phố”. Nhờ một hệ thống pháp trị dân chủ, tự do và minh bạch, tiền từ các nơi vẫn liên tục chạy về Âu Mỹ Úc để tìm nơi trú ẩn an toàn.

Sự chuyển giao tội ác cho các tay chân địa phương là một bước đi vô cùng thông minh mà tôi tin rằng Tôn Tử cũng phải vuốt râu khen bọn hậu thế.

Những tội ác thực sự

Có cả triệu sách vở, hồ sơ tham khảo, tài liệu nghiên cứu… về những tác hại của hệ thống tư bản gây nên trên đủ mọi lĩnh vực văn hoá, chính trị, xã hội, kinh tế của hầu như tất cả quốc gia. Bạn nào ưa thích đề tài này có thể bỏ ra hơn chục năm mà vẫn chưa nắm được phần ngọn. Bài này chỉ là một gợi ý về tư duy tổng thể, một góc nhìn nhỏ nhoi của một vấn đề thực ra quá lớn, bao trùm mọi vận hành của chúng ta. Tôi chỉ xin các bạn lưu tâm đến vài “tội ác” chính mà giới tài phiệt đã điều khiển, xây dựng và phải chịu trách nhiệm.

Văn Hoá

Dù khó có thể định lượng và hiện gây ra nhiều tranh cãi, ảnh hưởng lớn nhất của triết lý tư bản mới qua “proxy wars” cũng như “toàn cầu hoá – globalization” là sự phát triển đại trà của một nền văn hoá dựa trên tham vọng và quyền lợi cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chụp giựt và thu tóm, không đếm xỉa gì đến những ích lợi hay nghĩa vụ công cộng. Văn hoá tạo nên những con kiến hùng hổ, chăm chú vào sự nghiệp, đồng tiền và hưởng thụ instant- ngay lập tức. Lớp người thuộc giới giàu có, khôn ngoan… càng ngày càng trở nên vô cảm và xây khắp nơi những bức tường cách ly để ngăn ngừa bệnh nghèo và người nghèo xâm nhập. Trên thể chế quyền lực, cụm từ “ái quốc” vẫn còn hấp dẫn, nhưng quan trọng hơn trong cán cân tổng thể, lợi nhuận của các công ty đa quốc là tối ưu tiên.

Ngày xưa, học thuyết xã hội của Mác Lê cố dành ảnh hưởng với chiêu bài “quốc tế cộng đồng”, nhưng sau mấy thập kỷ thử nghiệm tại các nước nhỏ, rồi Đông Âu và Trung Quốc, bộ máy chánh quyền bị lộ chân tướng bịp bợm và lừa đảo. Ngày nay, các nước cựu Cộng Sản như Liên Sô, Trung Quốc lại là các nước theo thuyết tư bản hăng hái nhất, với tất cả tính chất độc tài, man rợ, sơ khai.

Trong khi đó, những nước khai sáng chế độ tư bản đang gặp nhiều chống đối trong nội bộ và theo đúng đường lối dân chủ pháp trị, nhiều xã hội đã phải điều chỉnh lần hồi, nhanh nhất là Bắc Âu và chậm chạp hơn là Bắc Mỹ.

Môi Trường

Từ nền văn hóa này, chúng ta không lạ khi thấy một thiểu số nhân loại đang cố tình che giấu và quên đi những tác hại về môi trường sinh sống chung của thế giới. Nạn biến đổi khí hậu với sự rã băng nhanh chóng của vùng Nam Bắc Cực, sự tàn phá môi trường xanh còn sót lại của những khu rừng từ Brasil đến ASEAN, sự ô nhiễm tồi tệ của các giòng sông bên Trung Quốc, sự việc “mưa át xít’ tràn ngập Âu Mỹ cũng như Á Phi… là một đe doạ thường trực mà những người dân nghèo ngu dốt vẫn chưa suy ra.

Tất cả phát sinh từ căn tính tham lam của con người không bị xã hội cộng đồng kiềm chế, mà còn được khuyến khích hàng ngày hàng giờ qua các bộ máy tuyên truyền. Các mẩu chuyện tào lao về đại gia, về siêu sao chân dài, về “cướp, hiếp, giết” được đại đa số nhân loại từ dân trung lưu Âu Mỹ đến các bạn chân đất nghèo khổ ở Á, Phi…thu nhận làm món quà tinh thần vô cùng quý báu. Những ai nhàm chán thì có những gánh xiếc thời công nghệ số… các trận đá bóng, các giải thể thao, các màn nhạc hội… Tất cả khiến con người sau giờ làm việc không còn sức lực để suy ngẫm, thiền định hay lưu tâm đến những việc “không phải chuyện mình”.

Cố tình nhiễm độc

Cái tàn bạo tưởng là vô tình của hệ thống xã hội tư bản đẻ ra một tầng lớp quản lý chăm chú vào lợi nhuận cho các ông bà chủ (gọi là nhà đầu tư) đến nỗi họ quên mất những đạo lý tối thiểu của nhân cách. Ngoài những nhũng lạm tồn tại khắp nơi, khi thì kín đáo vì pháp trị, khi thì công khai nhờ luật rừng, qua hình thức kinh doanh dùng tiền người khác – OPM (dù là đầu tư của tư nhân hay lấy tiền thuế phí của công), sự chiếm đoạt và cướp giật trở thành một trò chơi nhiều giải thưởng.

Những thí dụ về sự cố tình nhiễm độc qua thực phẩm, dược phẩm, hoá chất, biến đổi gen… không chỉ giới hạn vào các anh chị kinh doanh nhỏ lẻ ở Trung Quốc mà còn là nguyên tắc làm việc và xây đế chế đa quốc đa lợi của cả ngàn đại gia Âu Mỹ từ mấy trăm năm qua.

Chỉ sau khi bị phơi bày về liên hệ giữa ung thư phổi họng và thuốc lá, các công ty Phillip Morris, BAT… mới ngừng là những cổ máy in tiền. Nhưng nếu bị chận ở các quốc gia phát triển, họ vẫn ào ạt tiến chiếm thị trường của các quốc gia mới nổi nhưng còn lạc hậu.

Bao nhiêu thập kỷ qua, Coca Cola và Pepsi biết rõ về tác hại khủng khiếp của sô đa chứa đường hoá học trên căn bệnh đái đường của bao nhiêu trẻ nhỏ. Nhưng họ chặn đứng mọi mưu toan can thiệp của các tổ chức xã hội bằng cách mua chuộc mọi chính trị gia sẵn sàng nhận đóng góp. Các công ty giải khát lớn nhỏ tại các quốc gia nghèo cũng học sát tấm gương để trở thành những blue chips của thị trướng chứng khoán, a la Coke and Pepsi models.

Mỡ hoá chất transfat đã được minh chứng là nguy hiểm cho tim mạch, nhưng đến nay, các công ty thực phẩm lớn như Nestle, Kraft… và cả McDonald, KFC… vẫn tìm đủ cách để tránh né ngăn chận những bộ luật đang được soạn thảo.

Về dược phẩm, sự cấu kết giữa các quan chức FDA, các bác sĩ cho toa và các nhà quản lý Pfizer, Novartis, Merck, Roche, AstraZeneca … để bán thuốc giá cao tối đa cho dân, vẫn là một đề tài đang bị điều tra và khảo sát bởi rất nhiều nhà khoa học và hoạt động xã hội.

Tóm lại, tôi không có ý định viết một cuốn sách ngàn trang về những thí dụ vô cùng đa dạng và nhơ nhớp của các công ty đa quốc. Nhưng bất cứ ai có thì giờ và động lực, các bạn sẽ không thiếu tài liệu tham khảo khắp thế giới.

Thay cho câu kết

Qua một đoạn văn ngắn của tư duy cá nhân về một triết thuyết có thể mô tả là vĩ đại (nói về tầm ảnh hưởng, không phải tốt xấu), tôi muốn xác định thêm hai điều về tư bản:

a. Chúng ta đều là tư bản

Trong thực tại, dù mang bất cứ tên gọi hay tước hiệu gì, khi tham gia vào kinh doanh, đi làm cho chánh phủ hay tư nhân hay các tổ chức thiện nguyện, đầu tư, sử dụng ngân hàng và các hệ thống thương mại tài chính quốc tế, chúng ta đã trở thành một mắc xích của chế độ tư bản. Trừ những nhân vật phi thường đã thoát ra thế tục, về ở ẩn, sống tự lập không cần trao đổi mua bán (các vị lãnh đạo tôn giáo thường giao tiếp với thế tục nhiều hơn các bạn), những ai còn lại đều chấp nhận cuộc chơi của tư bản, dù thương hay ghét hay dửng dưng.

Ngay cả tại Bắc Triều Tiên, ngoài 1 thiểu số rất nhỏ đang lây lất chờ chết, một người dân khi nhận thực phẩm cứu trợ, sủ dụng các vật dụng từ thiên đường Trung Quốc… cũng đã và đang làm một con cờ trong trò chơi tư bản.

b. Cái tự do của tư bản

Dù là một triết thuyết tràn khắp toàn cầu và gần như 100% nhân loại là tín đồ, tư bản không có kinh sách nào chánh thức, không có tổ chức, không có lãnh đạo, không có đảng phái, không có cả một bộ phận nào để ban phát thẻ hội viên. Bạn có muốn gia nhập hay đứng ngoài cuộc chơi là một lựa chọn đơn thuần cá nhân. Tuân theo quy luật (không viết ra rõ ràng) thì bạn có thể thâu ngắn con đường đến mục tiêu. Không thì cứ chậm rãi, không ai thúc hối, phê bình hay đòi bạn tự phê hết. Muốn học về tư bản thì phải tự đi tìm tài liệu, chỉ muốn nghe Lý Nhã Kỳ dậy về kinh doanh thì cứ tự nhiên.

Chính vì cái căn bản “tự do” này, nên tư bản tha hồ diễn biến hoà bình hay chiến tranh, tha hồ điều chỉnh, tái cấu trúc…kiểu lớn kiểu nhỏ, tuỳ người tham dự quyết định. Và đó cũng là lý do tư bản sẽ sống thêm vài thế kỷ nữa, mặc cho những khiếm khuyết luôn luôn tồn tại.

Nhưng cá nhân tôi thích nhất một điều về tư bản: không ai léo nhéo bên tai tôi suốt ngày về ưu việt, về đỉnh cao, về quyết liệt. Cứ làm đi rồi biết liền.
Alan Phan
(Góc nhìn Alan) 

Vận động cho nhân quyền VN trước cuộc kiểm điểm UPR của Hà Nội

Các chiến dịch vận động nhân quyền Việt Nam được tiến hành ráo riết tại Mỹ trước cuộc Kiểm điểm Nhân quyền Định kỳ Phổ quát (UPR) của Hà Nội ở Liên hiệp quốc.

Hai cuộc vận động mang tên ‘Chiến dịch xóa bỏ tra tấn ở Việt Nam’‘Chiến dịch Đòi tự do cho tù nhân lương tâm Việt Nam’ được Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS phối hợp với các tổ chức bảo vệ nhân quyền đồng loạt phát động, với cao điểm là cuộc điều trần của thân mẫu nhà hoạt động đang bị giam cầm Đỗ Thị Minh Hạnh tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ ngày 16/1.

Bà Trần Thị Ngọc Minh sẽ cùng với thân nhân các tù nhân lương tâm khác trên thế giới điều trần trước Ủy hội Nhân quyền Tom Lantos lúc 10 giờ sáng thứ năm tuần này về thực trạng bị giam cầm, tra tấn của các nhà bất đồng chính kiến.

Đây là các nỗ lực mới nhất kêu gọi cho nhân quyền Việt Nam trước khi Hà Nội báo cáo thành tích nhân quyền lần thứ nhì theo thể thức UPR bốn năm một lần tại Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc vào ngày 5/2 tới đây.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc điều hành BPSOS, người đứng đầu ban vận động Chiến dịch xóa bỏ tra tấn ở Việt Nam’ và ‘Chiến dịch Đòi tự do cho tù nhân lương tâm Việt Nam'.

Trong cuộc trao đổi với VOA Việt ngữ, người đứng đầu ban vận động, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc điều hành BPSOS cho biết thêm chi tiết về các chiến dịch này:

Tiến sĩ Thắng: ‘Chiến dịch xóa bỏ tra tấn ở Việt Nam’ được phát động tại Mỹ, trên toàn thế giới, và ngay tại Việt Nam với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân có uy tín trong và ngoài nước, của người Việt cũng như của quốc tế.

VOA: Với phạm vi phát động rộng như vậy, xin ông cho biết nội dung hoạt động của chiến dịch và cách vận hành như thế nào?

Tiến sĩ Thắng: Nội dung của chiến dịch là vận động quốc tế đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam sắp ra kiểm điểm định kỳ về nhân quyền UPR tại Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc. Vấn đề tra tấn ở Việt Nam hiện nay rất phổ cập. Đó là mối quan tâm lớn của chính phủ Hoa Kỳ, Liên hiệp quốc, và nhiều quốc gia tự do dân chủ khác. Chúng tôi huy động sự tham gia của quần chúng và các tổ chức xã hội dân sự đang hình thành trong nước đóng vai trò theo dõi, báo cáo các vi phạm về vấn đề tra tấn. Chúng tôi hy vọng sẽ áp lực Việt Nam ban hành luật để áp dụng vào thực tế Công ước Chống tra tấn mà Việt Nam vừa ký kết, chẳng hạn như có biện pháp trừng trị những kẻ tra tấn và bồi thường cho nạn nhân.

VOA: Các cá nhân, tổ chức trong nước theo dõi và báo cáo tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Bước tiếp theo, trên phạm vi quốc tế, chiến dịch sẽ vận động đến các cơ quan nào cụ thể?

Tiến sĩ Thắng: Liên hiệp quốc có một báo cáo viên đặc biệt về vấn đề tra tấn. Một khi có các báo cáo, vấn đề sẽ được xem xét xem đúng là có tình trạng tra tấn hay không, và vị báo cáo viên này sẽ liên lạc với Việt Nam để phối kiểm, đặt vấn đề với chính quyền Hà Nội. Bộ Ngoại giao Mỹ và chính phủ Hoa Kỳ nói chung rất quan tâm đến nạn tra tấn đang diễn ra tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phối hợp với các tổ chức quốc tế chuyên về chống tra tấn để theo dõi, xóa bỏ tình trạng tra tấn ở Việt Nam.

VOA: Các trọng tâm thường thấy trong công cuộc vận động nhân quyền Việt Nam lâu nay là vận động phóng thích tù nhân lương tâm hay lên án các vi phạm nhân quyền. Vấn đề chống tra tấn giờ đây trở nên nổi bật phải chăng vì Việt Nam vừa ký Công ứơc Chống tra tấn với Liên hiệp quốc, hay có một yếu tố quan trọng nào khác để đây trở thành một điểm nhấn trong chiến dịch hiện tại?

Tiến sĩ Thắng: Việt Nam trong nhiều năm hứa hẹn với quốc tế, đặc biệt với Mỹ, rằng sẽ ký vào Công ước Chống tra tấn vì tra tấn là một hình thức vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất trong tất cả các hình thức khác. Hoa Kỳ đã tập trung vào lĩnh vực này trong nhiều năm. Khi ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, Việt Nam muốn chứng tỏ thiện chí bằng cách ký vào bản Công ước mà họ đã hứa hẹn từ nhiều năm. Đây là một cơ hội để chúng ta phát động một chíên dịch dài hạn và rộng khắp để xóa bỏ tận gốc rễ nạn tra tấn ở Việt Nam.

VOA: Song song với ‘Chiến dịch xóa bỏ tra tấn ở Việt Nam’, BPSOS cũng phát động và tiến hành ‘Chiến dịch Đòi phóng thích tù nhân lương tâm’ với cuộc điều trần ngày 16/1 tại Ủy hội Nhân quyền Tom Lantos, Quốc hội Mỹ. Trong số các nhân chứng ra điều trần sắp tới có mẹ của nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh. Vì sao trường hợp của cô Hạnh được chú ý trong dịp này mà không phải là một nhân vật bất đồng chính kiến nào khác?

Tiến sĩ Thắng: Chúng tôi chọn lọc khá kỹ lưỡng. Trường hợp cô Hạnh là giao điểm của ba chiến dịch mà chúng tôi đang tiến hành. Thứ nhất, về chống tra tấn, cô Hạnh là nạn nhân bị tra tấn rất trầm trọng trong tù.

Thứ hai, cô là một tù nhân lương tâm, phù hợp với chiến dịch của chúng tôi đòi trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm tại Việt Nam. Thứ ba, chúng tôi vận động gắn kết điều kiện nhân quyền vào thương ước Hợp tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương TPP giữa Mỹ với Việt Nam, trong đó quyền của người lao động là một trong những vấn đề rất nổi bật mà chúng tôi đang muốn thúc đẩy. Cô Hạnh vì đấu tranh cho quyền của người lao động trong nước mà bị đi tù với bản án rất nặng.

VOA: Khác với những lần điều trần trước chỉ xoay quanh riêng vấn đề của Việt Nam, lần này nói về vấn đề tù nhân lương tâm quốc tế với các nhân vật ra điều trần là thân nhân của nhiều tù nhân lương tâm tại nhiều nước khác nhau trên thế giới. Điểm nổi bật này có sức mạnh thế nào so với các cuộc điều trần riêng về vấn đề Việt Nam trước nay?

Tiến sĩ Thắng: Ủy hội Nhân quyền Tom Lantos cố gắng đẩy phong trào tranh đấu cho tù nhân lương tâm trên quy mô toàn thế giới và ở Quốc hội Hoa Kỳ, huy động các dân biểu và thượng nghị sĩ tham gia vì vấn đề tù nhân lương tâm là mấu chốt để thay đổi tình trạng vi phạm nhân quyền trên thế giới. Đây là khởi đầu của năm 2014 để lôi kéo sự quan tâm, chú ý, và nhập cuộc của tất cả các dân cử liên bang Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Mỹ, và tất cả các tổ chức nhân quyền lớn nhỏ trên thế giới và tại Mỹ.

VOA: Là người trong ban vận động, ông kỳ vọng hiệu quả tức thì ngay sau cuộc điều trần lần này sẽ như thế nào?

Tiến sĩ Thắng: Hiệu quả tức thì là tạo nên ý thức trong tất cả những người tham dự và rộng hơn về tình trạng nhân quyền, đặc biệt là tình trạng của những người đã đứng ra để đấu tranh nhân quyền cho người khác. Thứ hai, sẽ có những hành động cụ thể để giải cứu, đòi tự do cho những tù nhân lương tâm như ở Việt Nam.

VOA: Kế hoạch vận động tiếp nối, cho đến kỳ kiểm điểm nhân quyền phổ quát UPR của Việt Nam, sẽ như thế nào?

Tiến sĩ Thắng: Bước tiếp theo, chúng tôi sẽ phổ biến bản phúc trình được nghiên cứu từ 2 năm nay với những chi tiết, thông tin, dữ kiện rất chi li, có phối kiểm về tình trạng tra tấn ở Việt Nam. Tài liệu này sẽ được sử dụng làm căn bản để tranh đấu đòi Việt Nam phải thay đổi chính sách, luật lệ để chấm dứt nạn tra tấn. Trong phúc trình này có từng mốc điểm một chúng tôi đưa ra yêu cầu Việt Nam từng bước thực hiện với sự chú ý của quốc tế và sự kiểm soát, theo dõi, và báo cáo của chính người dân trong nước.

VOA: Xin chân thành cảm ơn ông về thời gian dành cho cuộc nói chuyện này.
 
Trà Mi-VOA
13.01.2014
(VOA)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét