Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

Đầu năm xin nói những điều thật giản dị - Trung quốc chiếu cảnh tàu TQ đâm tàu Việt Nam - Nuôi chí giành lại Hoàng Sa - Định hướng xử lý án tham nhũng của Ban Nội chính TƯ là tuyệt mật

Nguyễn Trung Chính - Đầu năm xin nói những điều thật giản dị

Độc lập rồi,  tự do đâu?
Từ ngày 01/01/2014, “LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CƯ TRÚ” đã có hiệu lực mà nội dung quan trọng vẫn là quy định các hành vi bị nghiêm cấm, siết nhập cư vào thành phố lớn và để cho ngành công an dễ bề quản lý hộ khẩu.
Trong một phiên thảo luận về dự thảo trước đó, nêu lên khúc mắc của một số điểm liên quan đến “cấm, cắt, xóa” tại dự thảo luật, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, không được dùng luật này làm căn cứ để cấm người dân việc này, việc kia.
Ông Hùng nói Tôi là dân Việt Nam, tôi muốn ở đâu trên đất Việt Nam thì tôi ở, tôi không đăng ký hộ khẩu tôi vẫn ở thì anh có cấm được tôi không? Lẽ ra anh phải khuyến khích tôi đăng ký cho anh quản lý thì anh lại cấm đoán“.
Thế nhưng, ngày 20 tháng 6 năm 2013 ông Nguyễn Sinh Hùng vẫn đặt bút ký LUẬT  ”cấm, cắt, xóa” này. Chỉ vì Đảng đã quyết định như thế! (Trong bài này, tôi dùng từ Đảng viết hoa để rút gọn “đảng cộng sản Việt Nam” cho khỏi tốn mực, chứ không có nghĩa tôn sùng thần thánh hóa một công cụ đã thoái hóa, lỗi thời).
Luật này hoàn toàn trái với Hiến pháp về quy định đảm bảo quyền tự do cư trú cho người dân. Nhưng ở một đất nước độc tài định hướng XHCN, khi Đảng quyết định thì Hiến pháp phải lùi, bất chấp  NHÂN DÂN được viết hoa hay viết thường.
Khi ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói Tôi là dân Việt Nam, tôi muốn ở đâu trên đất Việt Nam thì tôi ở…” có lẽ trong thâm tâm ông đã le lói ý niệm Tự Do, hoặc giả là ông vừa thấm nhuần lời nói của ông Hồ “Không có gì quý hơn độc lập tự do, lại cũng có khả năng là ông Nguyễn và ông Hồ cùng mị dân vì Đảng từ ngày thành lập đến nay vẫn loanh quanh chống đỡ khi phải đối mặt với quyền tự do thiêng liêng của con người trên đất nước của mình.
Chỉ cần nhìn vào các nước tự do ở quanh ta, chẳng hạn Singapore, Hàn Quốc chỉ cách 1 đến 2 giờ bay, ở đó người dân muốn ở đâu thì ở, không cần phải xin phép, “khai báo hộ khẩu” cho bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Anh có việc làm ở một thành phố X nào đó thì anh cứ đến đó mà ở, anh thuê nhà, mua nhà, ở đậu nhà bà con bạn bè, hoặc ở tạm khách sạn, chẳng cần “xin phép”, “khai báo” cho ai. Ở các nước tự do không có khái niệm “hộ khẩu” vì chính quyền không cần kiểm soát nhân dân.
Ở Việt Nam, dù với LUẬT CƯ TRÚ, hiện vẫn có 20.000 tội phạm lẩn trốn, đó là do nghiệp vụ Công an kém cỏi, hoặc do tham nhũng che dấu tội phạm mà trường hợp lẩn trốn của Dương Chí Dũng qua đường dây Công an Hải Phòng là một thí dụ. Nhưng không thể vì con số 20.000 tội phạm lẩn trốn mà 90 triệu dân Việt Nam phải bị mất tự do trong việc cư trú trên đất nước của mình.
Bất cứ đảng độc tài nào cũng cần kiểm soát dân do biết rằng họ không có lòng dân. Để kiểm soát dân, một bộ máy kềm kẹp khổng lồ, tốn kém là không thể tránh khỏi. Ngoài những ông tai to mặt lớn sống không nhờ vào đồng “lương” mà chủ yếu nhờ vào “lậu”, NHÂN  DÂN còn phải nuôi thêm biết bao ông tai nhỏ mặt nhỏ khác để kiểm soát mình. Hãy xem hệ số gọi là “phụ cấp” của Chính quyền dưới đây:
- Bí thư chi bộ đảng (khu dân cư), bí thư chi bộ thôn, trưởng thôn, trưởng ban công tác Mặt trận tại thôn: Hệ số phụ cấp 0,60.
- Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng ban công tác Mặt trận tại tổ dân phố: Hệ số phụ cấp 0,50.
- Phó bí thư chi bộ đảng (khu dân cư), phó trưởng ban công tác Mặt trận tại tổ dân phố (bố trí nơi ban công tác Mặt trận phụ trách từ 03 tổ dân phố trở lên) và chi hội trưởng: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và bí thư chi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh theo địa bàn chi bộ Đảng: Hệ số phụ cấp 0,32; các chức danh trên tại thôn và phó trưởng thôn hệ số phụ cấp 0,40.
- Công an viên ở thôn: Hệ số phụ cấp 0,56.
- Dư luận viên ?
(Các hệ số phụ cấp tính trên mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định)
Chúng ta có thể kết luận không sợ sai lầm rằng:  Nhân dân khát Tự do và đòi quyền Tự do.
Vì không có Tự do sẽ làm cho con người bị trói buộc ngay trên đất nước của mình, không có Tự do sẽ không có được một NHÂN DÂN hồ hởi để làm cho dân giàu nước mạnh, không có Tự do sẽ gây ra tốn kém tiền của quốc gia không cần thiết cho việc phát triển đất nước, không có Tự do chỉ giúp ích cho Đảng ôm lấy cái ngai vàng quyền lực, bất luận tiền đồ đất nước. Và khi Đảng có ngai vàng thì tiền của dân là tiền của Đảng, chẳng lạ gì mà tham nhũng cứ nhởn nhơ đút tiền của Đảng mình vào túi riêng, dù có vạn lần Nghị quyết TƯ 4 cũng chẳng ngăn chặn được.
 
Người cày có ruộng và mất ruộng như thế nào
Trước kia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khẩu hiệu “Người cày có ruộng” để huy động nông dân kháng chiến. Tuy nhiên khi mới giành lại được nửa nước và dựa lưng được vào phe cộng sản anh em, ông Hồ đã đoạt lại ruộng đất trong tay người cày để đem vào hợp tác xã, vào lâm trường, người cày bị buộc làm công để gánh nuôi thêm trên lưng bao nhiêu cán bộ lãnh đạo, lãnh đạo chỉ biết lao động bằng lưỡi, bằng răng, bằng bộ máy đàn áp.
Cho đến năm 1986, hợp tác xã, lâm trường đã hoàn toàn thất bại do không ai muốn hăng hái trong cái việc cha chung không ai khóc này. Hợp tác xã, lâm trường thất bại nhưng đất đai gộp chung đã được rã ra như thế nào?
Hãy xem trường hợp ông  Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung (biệt danh Chín Cung):
Theo phóng viên báo Kinh doanh & Pháp luật, từ năm 1978 đến nay, ông Lê Thanh Cung từ cán bộ thường trực Phòng Kế hoạch huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé, được thăng chức dần cho đến nay là Chủ tịch tỉnh Bình Dương( tên mới của tỉnh Sông Bé).
Phần đất mà Chín Cung đang xử dụng trước đây có nguồn gốc từ lâm trường Long Nguyên, khi lâm trường giải thể, không hiểu vì sao lúc ấy Chín Cung được “cấp” đến 130 hecta đất rừng cao su của lâm trường Long Nguyên thuộc Ấp 8 (nay là Ấp Bến Sắn), xã Long Nguyên. Những người khác, từ cán bộ văn phòng UBND đến Trưởng Ấp cũng được “cấp” 2-3 hecta.
Thế là từ năm 1978 đến nay, ông Lê Thanh Cung từ là người vô sản, không có một tấc đất, nay đã có trong tay 130 hecta đất, tức là phải có người khác mất đất để cho ông được đất. Đây là một thí dụ cho thấy vì sao người cày mất đất, mất ruộng.
Đối với người dân nói chung và nông dân nói riêng, quyền sở hữu ruộng đất đã có từ thời xa xưa và họ vô cùng gắn kết với nó. Họ cùng cha ông đã đổ mồ hôi sôi nước mắt khai phá để có được đất canh tác, đời nọ đến đời kia họ đã gắn liền thân xác vào những mảnh đất này. Họ làm chủ và quản lý mảnh đất của họ. Đùng một cái Đảng ra lịnh đất đai thuộc sở hữu “toàn dân” nhưng do nhà nước, tức là Đảng, quản lý. Cày cuốc không thể chống lại súng đạn xe tăng nên họ phải cam chịu mất tất cả, chỉ còn giữ được hai chữ “toàn dân” không màu không mỡ!
Từ vài năm nay, khi Đảng đã suy yếu thì bắt đầu có sự trổi dậy của người dân, từ vụ Thái Bình đến vụ Đoàn Văn Vươn, rồi đến Văn Giang cùng nhiều nơi khác, người dân ngày càng mạnh dạn chống lại việc cướp đất của Đảng, bắt đầu từ khiếu kiện cá nhân đến liên kết và đã xảy ra bạo động.
Một hình thức khác là trả lại ruộng đất vì khi Đảng quản lý, nông dân lại phải trả thêm lương cho các ông quản lý. Làm ăn đã khó khăn nay lại phải cõng trên lưng thêm các ông quản lý bất nhân bất nghĩa này thì tiếp tục làm làm gì. Trả đất là trả lại cái từ “toàn dân” hoặc “NHÂN DÂN” viết hoa cho Đảng và cam chịu trắng tay không còn đất cắm dùi. Chỉ riêng Thanh Hóa, có đến 10.578 hộ nông dân bỏ ruộng, trả ruộng trong năm qua.
Đảng làm vua, còn hơn vua, hơn cả thực dân, cứ việc tiếp tục cướp hết đất đi, cuối cùng NHÂN DÂN chỉ còn cái mạng của họ để nói chuyện với Đảng.
 
“Tàu khựa cút đi”
Giả dụ như ở Biển Đông, bá quyền Trung Quốc hiền lành hơn một chút để nói với Đảng rằng biển đảo là của Đảng nhưng do Trung Quốc quản lý thì do sự hèn nhát, được che đậy dưới các mỹ từ “tình đồng chí”, “vì đại cục” chắc Đảng cũng không lấy gì làm điều.
Nhưng bọn “Tàu khựa”, chữ của sinh viên Phương Uyên, lại khinh khỉnh hơn nhiều.
Tàu khựa”  bắt đầu chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực từ tay Việt Nam Cộng Hòa, lúc đó, cách đây 40 năm, Đảng không có một tiếng phản đối, lại còn thậm thụt với nhau rằng Hoàng Sa là của ta nhưng tạm thời để cho các đồng chí Trung Quốc quản lý hộ.
Năm 1979 “Tàu khựa” tiến đánh biên giới Phía Bắc, đặc biệt tàn phá Lạng Sơn, năm 1988  “Tàu khựa”  đánh chiếm đảo Gạc Ma, hai lần này đánh chiếm này không ít chiến sĩ quân đội nhân dân đã dũng cảm hy sinh, nhưng Đảng vẫn cấm nhân dân và quân đội tổ chức kỷ niệm những dấu mốc đau thương này để mọi người nhớ rằng hiểm họa bành trướng “Tàu khựa” luôn là mối đe dọa cho dân tộc ta, mặc cho “Tàu khựa” đánh trống thổi kèn kỷ niệm hàng năm để cho chúng nó không quên là có vùng đất hèn yếu phương Nam có thể chiếm được bằng vũ lực, bằng mua chuộc sự thuần phục của lãnh đạo và nhất là bằng kinh tế.
Sau đó  “Tàu khựa”  mượn bãi đá Vành Khăn ở Trường Sa để đặt đài nghiên cứu khí tượng, Đảng vui vẻ chấp nhận vì “tình đồng chí”, “đại cục”, bây giờ trở thành đảo của nó, nó đuổi các tàu quân sự Việt Nam ngấp nghé đến gần.
 1
Bãi đá Vành Khăn với cờ Trung Quốc hiện nay
Ở Vịnh Bắc bộ, “Tàu khựa”  dụ lãnh đạo ta lập “vùng cùng khai thác”, sau đó khi tàu cá của ngư dân Việt Nam vào đánh cá thì nó bắn, đâm tàu, bắt ngư dân, đòi tiền chuộc…Biện pháp của Đảng là khuyên ngư dân đừng vào những vùng “nhạy cảm”. “Vùng cùng khai thác” ở vịnh Bắc bộ nay hiển nhiên trở thành ao nhà do  “Tàu khựa” quản lý, nói trắng ra là đã bị chiếm cứ.
 
 Trước kia, học sinh ở miền Nam, thời còn bị gọi là “Ngụy”, đều học nằm lòng: “Việt Nam hình cong chữ S kéo dài từ Ải Nam Quan, đến Mũi Cà Mau” thì nay với hiệp định biên giới trên bộ do Đảng ký với “Tàu khựa”, chúng ta phải ngậm ngùi sửa lại  thành “Việt Nam hình cong chữ S kéo dài từ Ải Nam Quan trừ 400m, đến Mũi Cà Mau“. Đảng lùi và buộc đất nước của tổ tiên phải lùi vì “đại cục” với  “Tàu khựa”.
Chắc chắn rằng vì đụng đến “Tàu khựa” mà sinh viên Phương Uyên 21 tuổi, bị án treo, bị quản chế, bị đuổi học, không được ghi tên vào các trường đại học khác do không được ra khỏi nơi bị quản chế. Chẳng lẽ Đảng ác và trả thù, chặn hết đường ăn học một sinh viên trẻ của dân tộc mình như thế khi Đảng luôn tự nhận mình là “Đạo Đức”, là “Dân Tộc”? Phải chăng vì “Đại cục” Đảng lại giao luôn sinh viên Phương Uyên cho  “Tàu khựa”  quản lý nên nó mới ác với người mình như thế?
Nhưng Đảng không phải là dân, tôi được biết hiện có sẵn một quỹ của những người không chịu cúi đầu để cho bọn “Tàu khựa”  độc ác với Phương Uyên. Quỹ này sẽ giúp Phương Uyên vượt rào cản ba năm quản chế để trở thành một trí thức thực sự. Phương Uyên xứng đáng để thành công.
 
Đảng chỉ là một công cụ, thần thánh hoá nó là vô nghĩa
Đầu năm nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc thông điệp đòi đổi mới thể chế, thực hiện dân chủ sâu rộng và xây dựng Nhà nước pháp quyền.  Nhà nước phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường (không nói đến định hướng gì cả); kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những cơ chế chính sách dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Nhưng ông lại kết luận: xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thế là vẫn lòi ra cái đuôi  ”định hướng xã hội chủ nghĩa” mà cả một Hội đồng Lý luận Trung Ương đến nay chưa dám định nghĩa. Chưa dám định nghĩa công khai chứ không phải không biết, vì định nghĩa ra thì tự thú tội vẫn đem rào cản “định hướng xã hội chủ nghĩa” để tiếp tục kềm hãm sự phát triển kinh tế, tự do, dân chủ của đất nước. Sự kềm hãm này sẽ có lợi cho ai, cho anh láng giềng nào?
Ai cũng biết rằng Thông điệp đầu năm của Thủ tướng chỉ thực hiện được khi toàn bộ máy chính trị, trong đó Đảng làm đầu tàu, phải đồng thời vào cuộc.
Nhưng hiện nay, tình hình của Đảng, cụ thể là Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TƯ, không thống nhất.
Cụ thể là từ vụ từ chối kỷ luật đồng chí X đến vụ từ chối bầu vào Bộ chính trị hai Ủy viên nắm Ban Nội chính và ban Kinh tế TƯ do Bộ chính trị đề cử, đánh dấu một bước ngoặc: từ nay về sau “Nhóm lợi ích” và “Bảo vệ bằng được chế độ” hiện nay là chủ yếu. Còn chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh, Chống tham nhũng, phải  lui về đằng sau. Tuy buộc phải có một số hành động bề mặt về chống tham nhũng để giảm bớt sự phẫn nộ của dân chúng, nhưng biết thừa rằng số hành động bề mặt này không giải quyết được tham nhũng.
Đó là chưa nói việc gần đây, Thủ tướng ủng hộ đưa Trường Sa và Hoàng Sa vào sách giáo khoa, Thủ tướng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979 – chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc. Tuy nhiên thông tin này đã bị “cấp trên” ra lịnh miệng phải tháo gỡ những nơi đồng loạt đưa tin là các báo nhà nước như Dân Trí, VietNamNet, Báo Mới, anninhhaiphong.net, tinhay.vn…
“Cấp trên” nào cao hơn ông Thủ tướng đã ra lịnh tháo gỡ các nội dung này nếu không phải đến từ lãnh đạo cao nhất của Đảng? Còn nếu đến từ chính bản thân ông Thủ tướng, như một số người nghi ngờ là đòn tiểu xảo như vụ ông đề nghị Quốc hội phải có “luật biểu tình“, là ông Thủ tướng chơi khăm, ném đá giấu tay.
Với một tình hình như vậy, làm sao huy động được toàn hệ thống chính trị vào cuộc để đổi mới thể chế, đưa đất nước phát triển?
Ông Thủ tướng có chơi khăm không? Trước nhân dân ông nói rồi là ông có tư tưởng tiến bộ đó, nhưng nếu thực hiện được, điều này ai cũng mong muốn, thì ông lấy lại uy tín, còn bị kỳ đà cản mũi là do Đảng,  mà người bị chĩa mũi dùi sẽ lại chính là ông TBT Đảng. Việc Thủ tướng lòi cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” phải chăng chỉ để đẹp lòng cho phải đạo ông TBT Đảng, đồng thời nhắc lại rằng ông TBT Đảng là cấp trên của ông, nếu không huy động được toàn bộ máy chính trị vào cuộc thì lỗi của cấp trên chứ không phải nơi ông. Khăm!
Ai cũng biết rằng lịch sử Đảng là một lịch sử với nhiều ngụy tạo, hư cấu. Gần đây nhất, anh Phạm Chí Dũng tuyên bố “Tôi là nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, đảng viên từ năm 1993, viết tâm thư này nhằm khẳng định một quyết định khó khăn trong đời mình: Tôi chính thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó là anh làm đơn ra đảng. Thế nhưng, thay vì chấp nhận đơn ra đảng của anh, Đảng Uỷ Khối Dân Chính Đảng TP HCM tuyên bố khai trừ anh Phạm Chí Dũng. Sẽ viết vào lịch sử Đảng là anh Phạm Chí Dũng bị khai trừ mà ai cũng biết rằng chính anh từ bỏ Đảng. Đây sẽ là thêm một ngụy tạo lịch sử Đảng công khai, trắng trợn.
Theo tôi, ai đã hết sức mình để làm cho Đảng trở về với nhân dân mà không có kết quả, và không thấy ánh sáng nào ở cuối đường hầm thì bỏ đảng là điều tất yếu, một quyết định công khai rất đáng khâm phục. Tuy nhiên, những ai còn ở lại trong Đảng cũng có vị trí đấu tranh của mình: phải “nắm thắt lưng” Đảng mà đấu tranh, phải tạo ra “vùng xôi đậu” trong Đảng mà đấu tranh. 
Cho đến nay có lẽ đã có nhiều đảng viên tâm huyết góp ý với Đảng nhưng vì không dám phạm điều lệ Đảng mà góp ý công khai cho bàn dân thiên hạ đều biết, nên những ý kiến đều bị vứt vào sọt rác, không có trả lời. Điều lệ Đảng là Cách để Đảng im lìm dẹp những ý kiến phản biện, người này người nọ cứ tưởng như trời đang yên, biển đang lặng trong Đảng. Xin đừng mắc bẫy . Chính Ông Trương Tấn Sang đã đến gặp Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh yêu cầu ông không đưa ý kiến ra ngoài chứng tỏ Đảng sợ đảng viên, quần chúng biết những ý kiến phản biện mà Đảng ém nhẹm. Viết đến đây tôi xin gửi sự khâm phục cá nhân đến Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đến cựu Đại sứ Nguyễn Trung, ông Hoàng Minh Chính và Trung tướng Trần Độ đã quá cố, ông Lê Hồng Hà, cựu Thứ trưởng Trần Nhơn và nhiều vị cán bộ lão thành khác đã kiên trì góp ý một cách công khai từ 15 năm nay, hoặc lâu hơn. Những tư tưởng của quý vị đã động viên, khuyến khích chúng tôi tiếp tục con đường đấu tranh mà có lúc chúng tôi cảm thấy đơn độc vì không được biết mình có nhiều đồng hành, nhưng vì không công khai nên đã bị Đảng ém nhẹm.
Vậy  “nắm thắt lưng” Đảng mà đấu tranh là phản biện, phản biện, phản biện và tung lên mạng cho đảng viên khác, cho nhân dân cùng biết để Đảng khó lòng ém nhẹm thì phản biện mới tạo được áp lực. Vậy “vùng xôi đậu” trong Đảng là tập hợp với nhau công khai trong Đảng, trên mạng, đề cùng nhau phản biện tập thể, buộc Đảng phải có thái độ.
Anh Phạm Chí Dũng khẳng định rằng: “Lời thề trung thành với Đảng Cộng sản của tôi đã bị thực tế đau đớn thẳng thừng phủ nhận.

Đảng và những người như tôi, tất cả đều sinh ra từ nhân dân và vì nhân dân. Nhưng một khi Đảng đã không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số người dân, vì sao chúng tôi phải tiếp tục trung thành với Đảng?”
Tại Viện Nghiên cứu phát triển, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM, nơi anh Phạm Chí Dũng công tác, chi bộ Đảng đã quyết định với đa số không đồng ý kỷ luật đồng chí Phạm Chí Dũng. Điều này chứng tỏ nơi đây phe bảo thủ giáo điều không còn khuynh loát được chi bộ như trước. Chắc chắn rằng nơi khác cũng có thể như thế.
Đảng chỉ là một công cụ để thực hiện một lý tưởng. Phải liên tục đấu tranh để nó làm được nhiệm vụ của nó. Nếu lý tưởng đó là chủ nghĩa Mác Lê và không thấy được thực tế đất nước hiện nay bị kềm hãm bỡi chủ nghĩa đã lỗi thời  này thì thật là một sự u mê. Có thần thánh hóa cái Đảng như thế chỉ là thần thánh hóa sự u mê, thần thánh hóa một công cụ để luôn cúi rạp mình trước nó.
Còn nếu lý tưởng đó là vì dân vì nước thì đã đến lúc phải nói lên như anh Phạm Chí Dũng: “Lời thề trung thành với Đảng Cộng sản của tôi đã bị thực tế đau đớn thẳng thừng phủ nhận.”. 
Khi đó ra đi cũng tốt mà ở lại để  “nắm thắt lưng” Đảng mà đấu tranh, tạo ra  “vùng xôi đậu” trong Đảng để đấu tranh, nhưng phải công khai, lại càng tốt hơn và mới hy vọng tránh được bạo loạn mà không ai mong muốn.
Nguyễn Trung Chính
05/01/2014

Vấn đề sở hữu đất tại Việt Nam và cưỡng chiếm đất trong một nước độc đảng

03/01/2014 - Trong thời gian qua đã có liên tục nhiều tin tức về việc dân oan mất đất biểu tình ở Hà Nội, ở Sài Gòn đòi công lý, đòi ruộng đất (Diễn Đàn Việt Nam 21 đã loan tin trong mục Nhân quyền). Đây là một trong những vấn đề nhức nhối của nước Việt Nam đầu thế kỷ 21, một vấn đề lẽ ra không còn được phép tồn tại, nhưng ai quan tâm đến thời sự luôn bắt gặp hình ảnh những đoàn dân oan kéo nhau đi đòi quyền lợi bị đánh cắp. Đảng CS độc quyền cai trị bỏ mặc cho nông dân bị cướp đất, đẩy họ ra đường sống chết mặc bây, đất nông dân bị chiếm rồi quy hoạch thành khu kinh tế này, khu du lịch nọ, dự án nhà ở cao cấp kia, và cả những cánh đồng golf để các quan chức đại gia đi đánh golf trước khi đi tắm bùn v.v.. .. Theo thời gian Việt Nam càng ngày càng có rất nhiều quan chức và đại gia tỷ phú với dinh thự nguy nga mà người dân liệt họ vào các "nhóm lợi ích" trong khi con số dân oan mất đất nguời cày mất ruộng không giảm mà tăng. Các "phòng tiếp dân" cũng được dựng lên nhan nhản như một sân khấu bi hài kịch, nơi dân oan chỉ được tụ tập kêu gào khiếu nại chốc lát ở ngoài cửa, còn quan chức vẫn tiếp tục bưng mắt! Chính vì thế mà "Tâm lý thù ghét người giàu và giới quan chức cai trị ngày càng ăn sâu vào não trạng của lớp nông dân mất đất, bị nghèo hóa và bị đẩy vào cảnh bần cùng" như nhà bỏ đảng Phạm Chí Dũng nhận định.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch tiếng Việt bài của Vũ Quốc Ngữ (Hà Nội) trình bày những sự kiện tiêu biểu về tình trạng cưỡng chiếm đất đai ở Việt Nam ngày nay, nguyên bản Anh ngữ là bài tham luận tại Diễn đàn Nhân quyền Thế giới kỳ 5 (*) tại Pháp vào tháng 5/2013. Hình ảnh do DĐVN21 thêm vào mà trong nguyên bản không có.
Diễn Đàn Việt Nam 21

Nhà của tôi cũng là lâu đài của tôi. Tại các nước chấp nhận và tôn trọng nền pháp trị thì bất kể người đó là nhân viên chính quyền hay không, nếu ai làm chủ một bất động sản, người đó có quyền làm chủ và trọn quyền tùy tiện sử dụng mảnh đất đó cho bất cứ một mục đích nào.

Tuy nhiên, ở Việt Nam tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Trong một nước cộng sản tất cả đất đai đều thuộc về nhà nước, và người dân chỉ được thuê sử dụng có hạn kỳ để canh tác ở cấp hộ. Khi kế hoạch của một quan chức cho khu đất đó thay đổi thì yêu cầu của người công dân về quyền sử dụng mảnh đất ấy có thể trở thành vô nghĩa trong khoảnh khắc.

Sở hữu đất đai ở Việt Nam


Việt Nam trở thành quốc gia độc lập vào năm 1945 sau khi nhân dân nổi dậy chống lại sự chiếm đóng hai tròng của Pháp-Nhật. Là một quốc gia mới thành lập VN phải lao vào trận chiến chống Pháp để giành độc lập, cuộc chiến kết liễu năm 1954 với sự chia đôi đất nước. Miền Bắc dưới sự cai trị của cộng sản có Trung quốc hậu thuẫn trong khi miền Nam theo chế độ cộng hòa và theo Tây phương.

Ðất nước được thống nhất năm 1975 sau khi cộng sản ở miền Bắc dưới sự hổ trợ kinh tế và quân sự của Liên xô và Trung quốc đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ và các nước đồng minh viện trợ.

Trở về năm 1946, Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử đầu tiên và bầu ra một quốc hội đa đảng. Vài tháng sau đó, quốc hội cho ra đời bản hiến pháp đầu tiên của đất nước mà trong đó không đề cập gì đến vấn đề sở hữu đất đai.

Sau khi nắm quyền ở miền Bắc, người cộng sản dựng lên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và đưa ra một hiến pháp mới gọi là Hiến Pháp 1960 khẳng định tất cả đất vô chủ đều thuộc về nhà nước.

Từ khi thống nhất năm 1975 Việt Nam đã thay đổi hiến pháp hai lần. Bản Hiến Pháp 1980 và bản Hiến Pháp sửa đổi năm 1992 thay đổi sâu rộng quyền sở hữu ruộng đất – trao tất cả đất đai ở Việt Nam vào tay nhà nước và chỉ cho nhân dân quyền sử dụng đất.

Trong bản dự thảo hiến pháp đang thảo luận và dự kiến thông qua vào cuối năm 2013 chính quyền cộng sản cố giữ nguyên quyền sở hữu đất đai như hiến pháp 1992 đã quy định.

Theo luật đất đai hiện nay chính quyền có thể chiếm thu đất để dùng cho các mục tiêu quốc phòng và an ninh quốc gia cũng như để phát triển kinh tế xã hội. Ðiều này cho phép nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh và thành phố đuổi dân ra khỏi đất họ đang canh tác hoặc ở và giao khu đất đươc giải tỏa cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các dự án gọi là phát triển ở địa phương.
Tịch thu đất ở Việt Nam ngày nay

Chiến dịch cưỡng chiếm đất lớn nhất xảy ra trong những năm 1954-56 sau khi CSVN nắm chính quyền ở Miền Bắc và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Cộng sản VN thực hiện chính sách cải cách ruộng đất để khuyến khích người nghèo ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa của họ và chuẩn bị cuộc xâm chiếm miền Nam. Duới sự giám thị của cố vấn Trung quốc CSVN đã mở một chiến dịch đấu tố tàn bạo, tịch thu ruộng đất của địa chủ để phân chia cho dân làng nghèo. Nhiều phú hào bị buộc tội đã bóc lột nông dân trong làng và làm Việt gian cho Pháp. Hằng chục ngàn người bị kết án và xử tử trong khi những người khác bị đánh đập tàn bạo. Tất cả tài sản của họ, kể cả ruộng đất, bị tịch thu và giao cho nông dân qua các vụ xử án dàn dựng bởi cán bộ nhà nước chưa từng đươc đào tạo gì về các cơ cấu pháp luật. Trong các vụ đấu tố, nhiều địa chủ từng làm ăn chăm chỉ đã bị thân nhân họ vu cáo với sự xúi dục của người CS, để được đền bù bằng một vài thưởng vật nhỏ như mấy thửa đất nhỏ hoăc dụng cụ trong nhà.

Sau đó CS Bắc Việt thừa nhận sai lầm và ngưng chính sách cải cách điền địa cũng như có biện pháp sửa sai. Tuy nhiên, nhiều đia chủ Việt Nam đã không tìm được sự công bằng cho cái chết của họ. Chỉ một số ít bị kết án nhẹ.

Trong những năm 1960 và 70 ở miền Bắc Việt Nam và ở cả miền Nam sau khi CS chiếm miền Nam thống nhất đất nước, VN thành lập các hợp tác xã nông nghiệp và buộc tất cả nông dân phải giao ruộng đất của mình cho vào hợp tác xã nhà nước. Nông dân chỉ đươc giữ một phần nhỏ đất của họ (5%) để canh tác riêng, tự trồng lúa và rau cải.

Mô hình canh tác theo hợp tác xã đã chứng tỏ không có hiệu năng, đưa đến tình trang thiếu thực phẩm trầm trọng và phải lệ thuộc vào viện trợ thực phẩm của nhiều nước, nhất là từ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa thuộc Liên xô và từ các nước Ðông Âu trước đây.

Ðến những năm giữa thập niên 1980, CSVN nhận thấy mô hình canh tác hợp tác xã không kết quả nên bỏ đi và phân chia đất cho từng nông dân. Nhưng đất đai vẫn thuộc về nhà nước trong khi nông dân chỉ được quyền canh tác trong một thời gian nhất định (tối đa đến 30 năm).

Việc chiếm hữu đất đai bởi cấp dưới của nhà nước địa phương ở các tỉnh và thành phố bắt đầu xảy ra sau năm 1986 khi VN thi hành chính sách gọi là „Ðổi mới“. Trong tiến trình thành thị hóa và kỹ nghệ hóa đã có nhu cầu lớn về đất đai để thực hiện các dự án kỹ nghệ, bất động sản và giải trí ở các địa phương. Kể từ đó, chính quyền địa phương ở khắp nơi đã chiếm lấy nhiều khu đất canh tác lớn của nông dân cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các dự án.

Việc chiếm đất đã xảy ra từ Nam ra Trung, ngoài Bắc kể cả tại thủ đô Hà Nội.

Ðể chiếm đất chính quyền địa phương bắt ép nông dân phải giao đất cho họ với giá thật thấp so với giá thị trường và giá bán đất (thật ra quyền xử dụng đất) cho những nhà buôn bán bất động sản thì cao hơn rất nhiều. Lẽ dĩ nhiên, phần lớn lợi nhuận chạy vào túi của các quan chức tham nhũng chứ không vào công quỹ ở địa phương.

Trong vài truờng hợp, nông dân bị cưỡng bách bán đất với giá thật rẻ cho đồ án phát triển thật sự. Sau đó họ phải trả giá gấp trăm lần cao hơn cho một căn hộ được xây ngay trên chính đất của họ trước đây.

Khi chính quyền địa phương thấy chuyện chiếm và bán đất của nông dân cho các nhà khai thác là nguồn lợi thì những nông dân này không có cách gì để từ chối, ngay cả trong trường hợp mảnh đất đó đã là nhà ở qua nhiều đời, nơi đó có mồ mả ông cha và là nguồn sống của họ. Bởi vì trong một nhà nước độc đảng, giới lãnh đạo địa phương nắm cả ba quyền – hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Chiếm đất của giáo xứ Cồn Dầu ở trung tâm thành phố Ðà Nẵng

Giáo xứ Cồn Dầu thuộc phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ đã có 135 năm lịch sử, những người dân cư ngụ ở đó là giáo dân Công giáo.

Năm 2010, Ủy ban Nhân dân ở Ðà Nẵng quyết định lấy 440 mẫu đất thuộc giáo xứ Cồn Dầu để làm trung tâm du lịch sinh thái Hòa Xuân. Nhiều ngôi nhà của giáo xứ Cồn Dầu và nghĩa trang địa phương nằm trong khu vực dành cho dự án trung tâm nghỉ mát này.

Bất kể sự phản đối mạnh mẽ của những dân cư trong giáo xứ, chính quyền địa phương bắt phải giải tỏa nghĩa trang đi nơi khác cũng như ra lệnh nhiều ngườì dân ở đó phải dọn ra khỏi khu vực của dự án.

Tiền bồi thường đất bị chiếm chỉ bằng một phần 30 của giá một biệt thự trong khu vực nghỉ mát.

Dân chúng Cồn Dầu không muốn giải tán nghĩa trang của họ. Ngày 4 tháng 5 năm 2010 công an cấm không cho dân địa phương an táng bà Maria Ðặng thị Tân tại nghĩa trang của xứ đạo. Một cuộc xô sát giữa nhân viên cảnh sát và dân chúng Cồn Dầu đã xảy ra. Sau sự cố này, cảnh sát đã bắt giữ hằng chục người dân Cồn Dầu, buộc tội họ đã có hành động chống lại chính quyền địa phương. 6 người ở Cồn Dầu bị giam giữ trong khi một số người khác bị tra tấn trong thời gian bị bắt giữ.

Sau đám táng bà Tân một người của ban trợ tang ở Cồn Dầu đã bị đánh đến chết. Trên 70 người dân Cồn Dầu đã chạy sang Thái Lan xin tị nạn, 14 người trong số người này được phép sang định cư ở Hoa Kỳ.

Những người đã dọn đi chỗ khác được chính quyền địa phương bồi thường một số tiền nhỏ không đủ để mua đất và vật dụng cất nhà nơi chỗ mới.

Mới đây, chính quyền thành phố Ðà Nẳng thông báo sẽ cho dời tất cả mồ mả khỏi nghĩa trang Cồn Dầu vào ngày 10 tháng 4.

Một trường hợp chiếm đất khác xảy ra ở Ðà nẳng đã khiến cho một người dân địa phương tự thiêu để phản đối chính quyền của thành phố. Vào ngày 17.02.2011, kỹ sư Phạm Thanh Sơn 31 tuổi tẩm xăng tự thiêu trước một tòa nhà hành chánh địa phương. Không ai can thiệp và ông Sơn đã tử nạn. Ông này đã phải chịu một quyết định bất công của thành phố Ðà Nẳng vì họ đã chiếm đất của ông ấy mà không đền bù tương xứng. Trước khi tự thiêu ông Sơn đã gửi nhiều đơn khiếu nại đến các cơ quan của thành phố, phản đối việc chiếm đất của ông.

Sự cố này bị bỏ quên sau đó vì giới truyền thông tại chỗ bị địa phương kiểm soát chặt chẽ và trình bày vụ tự thiêu như một tai nạn. Các thân nhân của gia đình ông Sơn đã bị canh chừng một thời gian dài sau khi ông Sơn được an táng.
Chiếm đất dân thiểu số ở cao nguyên miền Trung và miền núi phía bắc

Việt Nam có 54 nhóm sắc tộc. Người Kinh hay Việt chiếm trên 95 % của tổng số 90 triệu dân. Phần lớn các dân sắc tộc sống ở các vùng núi miền bắc và trung VN.

Bằng cách làm ăn có lợi kinh tế và xã hội, nhiều người Kinh, đặc biệt là giới cán bộ đã chiếm đất đai của người sắc tộc, lấy mất phương tiện cơ bản để sản xuất thực phẩm của họ. Mất đất sống người sắc tộc còn bị người Kinh hiếp đáp, nhiều dân sắc tộc ở cao nguyên miền Trung (1985) và người Hmong ở phía Tây-Bắc của tỉnh Ðiện Biên (2011) đã phản kháng chính quyền ở địa phương. Tuy nhiên, sự chống đối của ho bị lực lượng cảnh sát đặc biệt đàn áp thô bạo. Họ được võ trang nặng nề, trong một vài truờng hơp có cả chiến xa và phi cơ trực thăng.
Cưỡng chế đất ở phía Bắc cảng Hải Phòng

Tháng giêng năm 2012, sau nhiều lần khiếu kiện và đệ trình lên các cơ quan trọng tài để bảo vệ quyền của mình nhung không thấy có trả lời, nông dân Ðoàn Văn Vươn phối hợp một vụ chống đối bằng võ lực. Ông đặt bom tự chế trên khoảnh đất rộng 40,3 mẫu tây ở quận Tiên Lãng thuộc thành phố Hải Phòng. Ông tiến hành biện pháp này để nhằm đẩy lùi 100 công an và quân đội do chính quyền địa phương gửi tới xâm nhập vào khu đất của ông và đẩy ông và gia đình ông ra khỏi khu đất nói trên.

Tốt nghiệp ngành kỹ sư, khi đến Cống Rọc, ông Vuơn được phép thuê một mảnh đất nhỏ ở nơi đó. Về sau, ông ta mở rộng nông trại của ông và biến một vùng đất bỏ hoang thành các ao nuôi tôm và nuôi cá.

Vươn bắt đầu đấp bờ đê, các hệ thống điều hòa mực nước và ao hồ cần thiết để nuôi cá và tôm. Không ai nghĩ Vươn và gia đình ông sẽ thành công. Nhưng sau nhiều năm nổ lực và thí nghiệm nông trại nuôi cá trở nên có mang lời. Những người đi tiên phong khác cũng bắt chườc ông Vươn. Năm 2004, có chừng 20 gia đình ở Tiên Lãng phát triển ngành làm trại nuôi cá có diện tích chừng 250 mẫu tây đất bỏ hoang vô giá trị trước đây. Vươn còn khai thác thêm 11 mẫu tây mặt biển, nâng cao tổng số diện tích ao hồ thuộc công ty gia đình ông lên 40 mẫu tây tất cả.

Năm 1997, ông được chính quyền quận Tiên Lãng cho phép sử dụng đất trong 14 năm.

Vài năm sau đó, VN có chương trình xây phi trường quốc tế ở Tiên Lãng để thay thế phi trường Nội Bài. Phi trường nầy chiếm một diện tích rộng lớn bao gồm cả nông trại nuôi cá của ông Vươn và các nông dân láng giềng. Chính quyền địa phương muốn thu hồi giấy phép canh tác của ông Vươn cũng như của những người cùng cảnh ngộ để lấy bồi thường cao của nhà nuớc khi bắt đầu thực hiện xây phi trường quốc tế.

Năm 2005, những người nuôi cá nhận hung tin từ chính quyền sở tại, theo đó đất đang thuê sẽ bị thu hồi khi hết hạn. Hơn thế nữa, các tân trang và cải tiến thêm trong thời gian qua sẽ không được đền bù.

Như đã nói ở trên, toàn thể đất đai ở CHXHCNVN thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, kể từ 1993 cá nhân và công ty được cho quyền sử dụng đất. Cho đa số nông dân, có nghĩa là họ được phân chia một mảnh đất thuộc đất của hơp tác xã.để canh tác trong 20 năm.

Vì lý do gì cũng chưa rõ, Vươn chỉ được thuê đất 14 năm kể từ năm 1993. Ông được lịnh phải dọn đi vào năm 2007.

Vươn và các nông dân nuôi cá nói rằng theo thói thường ở nhà quê họ vẫn tin là đất họ thuê và canh tác cho tốt hơn sẽ được tự đông gia hạn. Hơn thế nữa, cũng như tất cả nông dân VN đều mong đợi khi chính quyền thu hồi đất để sử dụng cho mục đích công cộng thì nông dân phải được đền bồi thỏa đáng công lao của họ đã làm tốt hơn lên.

Hiểu như vậy nên những nông dân nuôi cá đã chống đối sau khi đòi hỏi của họ không dược giải quyết. Chính quyền quận sở tại vẫn không nhúc nhích. Tòa án quận vẫn giữ nguyên lệnh phải dọn đi. Các nông dân nuôi cá kháng kiện lên tòa án cao hơn của Hải Phòng.

Phán quyết của tòa được đồng ý, chính quyền sở tại và Vươn đã ký kết ngay trong toà án. Theo thỏa thuận này, Vươn rút lại đơn tố cáo và chính quyền sở tại sẽ tiếp tục cho thuê sở đất đang tranh cãi. Ngay sau khi đơn cáo kiện được rút đi, chính quyền địa phương đã tiến hành đuổi Vươn khỏi mảnh đất của mình mà không có bồi thường nào.

Ngày 5 tháng giêng 2012 nhà cầm quyền địa phương ở Tiên Lãng đã cho hằng trăm cảnh sát đặc biệt và đơn vị thuộc quân đội tới đuổi Vươn và gia đình ra khỏi đất của Vươn. Các nhân viên gặp sự kháng cự quyết liệt, kết quả là 4 cảnh sát và hai quân nhân bị thương tích phải được điều trị ở bệnh viện.

Vươn và người em bị bắt giam vì tội dùng võ khí chống lại cán bộ nhà nước. Nhà của ông bị chính quyền đập phá vài ngày sau đó, trong khi cá trong ao bị bọn côn đồ vớt đi hết dưới sự đồng tình của nhà nước ở địa phương.

Cách thức nhà nước Hải Phòng xử lý Vươn phản ảnh sự thiếu tôn trọng và khinh thường ra mặt những người nông dân địa phương cũng như tài sản của họ. Nhà cầm quyền CS ở địa phương coi thường sự tranh đấu kiên trì của Vươn để giữ đất của mình mà Vươn đã canh tác thành công như vậy. Thay vì xem cơ sở nuôi cá của Vươn như một tấm gương của sự làm việc chăm chỉ cần cù có thể đem lại cho cộng đồng, nhà cầm quyền VN lại xem nông trại của Vươn là một cách để kiếm nhiều tiền, có triển vọng cho „các dự án phát triển mới“.

Mặc dù thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố lệnh xua đuổi chiếm đất là một hành động bất hợp pháp, Vươn và em ông đã bị giam giữ từ tháng giêng 2012 và bị giam cho đến khi ra tòa ngày 4-5 tháng 4 năm 2013. Mặc dù không làm điều gì trái đạo đức và luật pháp ngoài việc tự vệ cho chính mình, cả hai đã bị kết án 5 năm tù về tội cố sát và chống lại lực lượng thi hành công vụ.
Chiếm đất ở Văn Giang tỉnh Hưng Yên để làm dự án đô thị sinh thái Ecopark

Năm 2004 chính quyền tỉnh Hưng yên phía bắc cấp giấy phép cho một công ty tư để phát triển dự án đô thị sinh thái Ecopark gồm 20000 đơn vị nằm trên 500 mẫu tây ở Xuân Quan, quận Văn Giang, nằm chừng khoảng 30 cây số cách thủ đô Hà Nội.

Ðể lấy chỗ cho dự án Ecopark 3900 gia đình nông dân, cư dân của tất cả 3 làng được thuyết phục nên rời bỏ đất đai mầu mỡ của họ và dọn đi nơi nào khác.

Chỗ đất dành cho dự án bị tịch thu qua 2 đợt năm 2009 và 2012, nhưng chừng 2000 hộ từ chối không chịu nhận tiền bồi thường của chính phủ cho 5,8 mẫu tây, nói rằng số tiền này quá thấp so với giá trị ở thị trường lúc đó.
Nông dân tổ chức các vụ phản kháng nhiều lần ở Hà Nội, đòi bồi thường cao hơn cho đất đai của họ hoặc là bãi bỏ dự án trên.

Ngày 24 tháng 4 năm 2012 chính quyền tỉnh Hưng Yên đã cho 3 ngàn cảnh sát có võ trang tới xua đuổi dân làng Xuân Quan khỏi đất của họ. Lực lượng cảnh sát dùng lựu đạn cay tấn công dân làng, đánh đập nhiều người trọng thương và bắt giữ hàng chục người. Trong số những người bị bắt có cả hai phóng viên của đài Tiếng nói VN đến tường thuật việc đuổi đất theo chiều hướng có lợi cho nhà cầm quyền địa phương.

Theo nguồn tin không chính thức, Nguyễn Thanh Phương, con gái của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người có cổ phần trong đồ án Ecopark.
Chiếm đất ở quận Hà Ðông thuộc Hà Nội: xã Dương Nội ở quận Hà Ðông

Năm 2010 thành phố Hà Nội quyết định phát triển vùng thành phố mới Lê Trọng Tấn và thành phố phải đuổi 337 gia đình khỏi miếng đất rộng 21,5 mẫu tây. Có 155 gia đình đồng ý dọn đi, trong khi 182 gia đình khác từ chối bỏ đất vườn của họ, nói rằng giá mà họ nhận được của chủ thầu thấp hơn giá thị trường rất nhiều.

Ðể dọn trống khu đất cho dự án xây dựng, chính quyền quận Hà Ðông đã cho dẹp nghĩa trang, dời mồ mả ra ngoài phạm vi dự trù xây khu phố thị mới. Tức giận trước hành động của nhà nước địa phương dân làng Dương Nội đã gửi nhiều thư phản kháng đến các cơ quan trách nhiệm đòi phải can thiệp và ngưng việc lấy đất.

Nhiều người đã túc trực hẳn trên ruộng đất của họ, thay phiên nhau canh gác để ngăn chận chính quyền tịch thu đất đai của họ.

Ngày 17 tháng giêng 2013, chính quyền quận Hà Ðông cho 200 cảnh sát, dân phòng và côn đồ tấn công làng, muốn dùng võ lực đuổi dân làng phải bỏ đất của họ. Tuy nhiên, lực lượng cảnh sát đã gặp sự chống đối mãnh liệt của dân làng và cuối cùng họ buộc phải rút lui. Trường hợp này phải nên chấm dứt.
Chiếm đất ở Ðồng bằng Cửu Long tỉnh Cần Thơ: Bà mẹ và cô con gái cởi áo quần phản đối

Ðể xây cất khu gia cư mới Hưng Phú, chính quyền quận Cái Răng vùng châu thổ sông Cửu Long thuộc thành phố Cần Thơ quyết định lấy đất của dân làng Hưng Phú để bán cho công ty CP đầu tư xây dựng số 8 có tên là CIC 8. Tuy nhiên, công ty CIC8 chỉ chịu trả cho khu đất lấy đi với giá quá thấp, cả 10 lần ít hơn giá của căn hộ nhà sẽ được xây cất.

Dưới áp lực của chính quyền nhiều dân cư ở đó đã giao đất cho hãng xây cất, nhưng một số người khác trong đó có bà Pham Thị Lài đã không chịu chuyển nhượng đất của họ với giá rẻ.


Từ năm 2002 gia đình bà Phạm Thị Lài đã gửi đơn kháng kiện đến chính quyền các cấp khác nhau để phản đối quyết định của nhà cầm quyền Cái Răng lấy 3000 thước vuông của gia đình họ với giá rẻ mạt. Tuy nhiên, bà Phạm Thị Lài đã không nhận hồi đáp nào của nhà nước.

Bà Lài và cô con gái đã cởi áo quần phản đối khi phe khai thác gửi nguời đến giải tỏa khu đất. Tuy nhiên, bảo vệ của công ty CP đầu tư xây dựng số 8 đã lôi hai người đàn bà khỏa thân đi khỏi đất của họ.

Sau đó, chính quyền Cái Răng phạt bà Lài và con gái bà về tội khỏa thân nơi công cộng và như thế đã vi phạm thuần phong mỹ tục.
Chiếm tài sản của giáo hội Thiên chúa giáo

Nhiều nhà thờ Công Giáo là nạn nhân bị chiếm tài sản bởi các cơ quan chính quyền và cán bộ. Cùng với sự can thiệp chính trị ảnh hưởng đến các sinh hoạt tôn giáo của người Công Giáo khắp nước, nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh và thành phố đã thu tóm tài sản của giáo hội, gây sự bất mãn trong hàng giáo sĩ và giáo dân.

Trong quá khứ, chính quyền địa phương ở nhiều nơi đã mượn bất động sản và cơ sở của giáo hội Thiên chúa giáo và các cơ sở này thành công sở, bệnh viện, trường học, khách sạn hoặc biến thành nơi giải trí cho người không Công giáo.

Tại thủ đô Hà Nội nhà cầm quyền đã lấy 95 cơ sở giáo hội Thiên chúa giáo. Họ đã cho cảnh sát đàn áp các vụ phản kháng của tu sĩ và giáo dân thiên chúa giáo.

Chính quyền ở Hà Nội còn muốn lấy đất của giáo xứ Thái Hà để xây nhà cho nhân viên địa phương. Dưới sự chống đối quyết liệt của các tu sĩ và giáo dân nhà cầm quyền phải chuyển qua lấy mảnh đất đó làm công viên.

Thống kê về tranh chấp đất đai ở Việt Nam

Chỉ riêng Hà Nội đã có trên 1000 vụ kháng kiện liên hệ đến tranh chấp đất đai mỗi năm. Những trường hợp này cho thấy rõ sự bất mãn của người dân về các quyết định lấy đất của dân, vấn đề bồi thường và định cư trở lại khi chính quyền chiếm đất của người dân địa phương.

Trên bình diện quốc gia, con số các vụ kháng kiện liên quan đến vấn đề đất đai chiếm đến 70% các vụ kiện tụng về dân sự. Theo sở thanh tra của chính phủ, có tất cả 851000 vụ kiện cáo về tranh chấp đất đai trong thời gian từ 2003 đến 2010, phần lớn liên quan đến vấn đề lấy đất để phát trển kinh tế.

Trong số 31000 vụ kiện về đất đai tường trình trong năm 2007, một cơ quan chính quyền nói có khoảng 70% đã không có sự bồi thường tương xứng cho đất bị tịch thu.

Trong thời gian từ 2001 đến 2006, khoảng 376000 mẫu tây đất trồng lúa đã bị tịch thu, trên 1 triệu nông dân phải dời đi nơi khác. Các tu chỉnh về luật đất đai năm 2003 nhằm đẩy mạnh „phát triển“ bằng cách tạo dễ dàng cho việc khai khẩn nhiều khu đất rộng lớn cho thấy mức độ xua đuổi nông dân đi nơi khác có vẻ đã gia tăng.

Theo ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ, vấn đề kiện cáo đất đai chiếm hết 80% tổng số các vụ tham nhũng nghiêm trọng còn chưa giải quyết.

Ông Lê Ðăng Doanh, một chuyên viên về kinh tế, lập luận rằng nay ban lãnh đạo đã đi lạc hướng và bị trói buột bởi quyền lợi phe nhóm. „Ðảng lấy đất của nông dân với giá rẻ vô lý và bán lại cho các nhà đầu tư với giá cao hơn nhiều, thay vì lấy đất của địa chủ cho nông dân như trước đây“.
Thế giới văn minh có thể làm gì để khuyến cáo chính phủ Việt Nam về vấn đề chiếm đất

Vấn đề chiếm đất đai đã trở thành hệ thống nơi mà Ðảng CSVN nắm độc quyền về quyền lực. Không có quyền sở hữu đất riêng, người dân địa phương thom thóp lo sợ mất quyền sử dụng đất một khi nhân viên chính quyền quyết định rằng, đất họ đang canh tác có thể sử dụng vào mục tiêu phát triển quốc gia hoặc an ninh công cộng.

Lấy chiêu bài „phát triển xã hội cho ích lợi chung“, chính quyền địa phương đã không do dự cưỡng chiếm đất của dân và giao đất đó cho các nhà doanh nghiệp thực hiện các dự án phát triển. Ðiều này có nghĩa là, nhân dân càng chần chờ không chịu giao đất của họ, thì việc sử dụng các lực lượng võ trang xua đuổi dân càng thô bạo hơn. Thật là kỳ quái, nếu một ai hô hào cho quyền sở hữu đất đai có thể bị phạt nghiêm khắc.

Nhiều chuyên viên cho rằng để ngăn ngừa việc chiếm đất, Việt Nam cần thay đổi luật đất đai bằng cách để tạo ra nhiều hình thức sở hữu đất gồm cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân.

Việt Nam cần phải cải tổ luật đất đai đầy mâu thuẫn nếu muốn cứu vãn nền kinh tế ốm yếu, theo lời ông Trần Huy Huỳnh, giám đốc phòng luật pháp thuộc Phòng Thương mại và Kỹ nghệ Việt Nam..

Ông nói, „Nếu quyền sở hữu thuộc về nhà nước thì nông dân không cảm thấy yên ổn bởi vì họ không là chủ của mảnh đất đó, họ sẽ không muốn đầu tư và làm việc tận lực“.

Với tình trạng đất đai bấp bênh này nông dân không thể phát triển công việc làm ăn của họ, mở rộng ra hoặc đầu tư vào các kỹ thuật cao cấp và vì thế sản phẩm của họ không có khả năng cạnh tranh“.

Ông James Anderson, một chuyên gia hành chánh của Văn phòng Quỹ tiền tệ quốc tế ở VN cho rằng, tình trạng hiện nay thường đưa đến một kết quả thua-thua cho nông dân và cả nhà đầu tư.

„Thay vì tạo điều kiện cho sự thương lượng tự nguyện, nhà nước có vai trò đặc biệt trong vấn đề định con số bồi thường và có uy quyền dùng luật lệ để phân phối lại đất đó. Lẽ tất nhiên, sự kiện nầy có thể dẫn đến nhiều khó khăn cho cả đôi bên, người mất đất không vui với khoản bồi thường và kẻ đầu tư thì phải đương đầu với những sự chậm trễ vì mất thời gian giải tỏa để có chỗ đất trống“, ông Anderson giải thích như vậy.

Các chuyên viên trong ngành nói, chính phủ và nhà cầm quyền địa phương không nên được có quyền cưỡng chiếm đất để tiến hành các dự án phát triển kinh tế xã hội. Ðể có chỗ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, chính quyền địa phương cần thương lượng với người dân có đất ở trong khu vực dự trù và đi đến thỏa thuận bồi thường theo giá của thị trường.

Việt Nam nên từ bỏ chính sách định giá đất cứng nhắt, cho phép thẩm giá nhà đất tùy theo giá của thị trường. Hiện nay, các chính quyền ở tỉnh định giá đất theo tình hình địa phương của họ, một cách thức không cho phép có sự bồi thường thỏa đáng, phản ảnh đúng giá cả trên thị trường và tất nhiên gây sự lỗ lã lớn cho người dân bị đuổi đất trong khi chỉ làm lợi cho cơ quan chính quyền và công ty thực hiện dự án.

Tuy vậy, tranh chấp đất đai ở VN trên căn bản bắt nguồn từ lý do chính trị hơn là từ nguyên do kinh tế - Sự thực không chối cãi là Ðảng CSVN không có ý định từ bỏ chủ trương kiểm soát toàn diện về mọi mặt trong đời sống kể cả vấn đề làm chủ tất cả đất đai. Tuy nhiên, các vụ tranh chấp đất đai đang nổi lên khắp nơi có thể tạo thành một mối đe dọa nghiêm trọng cho chính ÐCSVN, bởi vì cho đến nay nông dân vẫn là thành phần chính yếu ủng hộ đảng. Vì vậy, để giải quyết rốt ráo vấn đề đất đai ở VN, có thể ÐCSVN phải thực sự nới lỏng gọng kìm chính trị.

Pháp quốc và Việt Nam đã đồng ý hợp tác song phương, nhằm nâng cấp mối quan hệ hỗ tương, tiến đến sự hợp tác chiến lược trong tương lai gần đây. Pháp quốc cũng như các quốc gia trong Liên Minh Âu châu nên khuyến cáo chính quyền CSVN nên tôn trọng nhân quyền và quyền tự do ngôn luận.

Cả hai quốc gia cũng mong muốn đẩy mạnh sự hợp tác song phương về phuơng diện luật và hành pháp. Xuyên qua các chương trình hổ trợ, Pháp quốc nên khuyến cáo chính quyền VN, nhất là ÐCSVN, nên có cải cách về hướng của một nền pháp trị, có tự do thông tin báo chí, và đi đến sự phân quyền rõ rệt. Trong đó lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập theo thể thức kiểm soát và cân bằng quyền lực.

Cuộc phản kháng của nhà nông Vươn là một thí dụ tiêu biểu cho ta thấy và cảnh báo điều gì có thể xảy ra trong một nước không có một hệ thống xã hội dân chủ và một nền pháp trị.

Những người dân bị thua thiệt nhận thấy toà án CS ít khi có hữu ích gì cho họ, và sự phản kháng ngoài đường phố đã đưa đến sự hà hiếp người dân, tra tấn hoặc cầm tù bởi nhà cầm quyền.

Theo Freedom House quốc tế, ở VN số luật sư không nhiều, và nhiều người nấy thì không muốn bào chữa cho những vụ liên hệ đến nhân quyền hoặc các vấn đế có tính chính trị nhạy cảm khác vì sợ sẽ bị trù đập, trừng phạt kể cả việc ngang nhiên bị bắt giữ của chính quyền.

Không như toà án tại các nước tiền tiến, ngành tư pháp không mang lại nhiều che chở cho người dân Việt Nam.
Tài liệu trích dẫn:

1. Land grabs rile Vietnam´s farmer- Nguyen Phuong Linh Financial Times Apr 11,2013

2. Reports of Vietnam government´s General Inspectorate
 
Vũ Quốc Ngữ
Trần Huê chuyển ngữ
_______________________

(*) Nguyên bản "Land Ownership in Vietnam and Land Seizure in One-party State", bài tham luận tại 5e Forum Mondial des Droits de l'Homme, Nante, France 22.- 25 Mai 2013 trong Hội luận „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại các nước đang phát triển“ ngày 23/05/2013, Tiểu đề „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại các nước đang phát triển: thí dụ ở các nước Benin, Mali, Papua New Guinea, Vietnam và Costa Rica“. Bản tiếng Việt https://sites.google.com/site/forumvietnam21/tiengviet/tiengviet-bv/bnq20140103_vuquocngu
[Xem nguyên bản tiếng Anh]

Định hướng xử lý án tham nhũng của Ban Nội chính TƯ là tuyệt mật

(Dân trí) - Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa ban hành quyết định về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN) và Ban Nội chính Trung ương (NCTƯ).

Phiên tòa xử vụ án tham ô tài sản, làm trái quy định xảy ra tại Tổng Cty Vinalines.
Phiên tòa xử vụ án tham ô tài sản, làm trái quy định xảy ra tại Tổng Cty Vinalines.

Theo đó, Danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN và Ban Nội chính Trung ương bao gồm đề án liên quan đến lĩnh vực nội chính và PCTN không công bố hoặc chưa công bố.

Báo cáo, đề xuất của Ban Nội chính Trung ương với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại không công bố hoặc chưa công bố; Báo cáo, đề xuất của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN và Ban Nội chính Trung ương với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, định hướng xử lí vụ án; Văn bản sử dụng tin, tài liệu thuộc Danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật của các cơ quan tổ chức khác.

Về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật được quy định trong những phạm vi là các kiến nghị của Ban NCTƯ với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương chính sách về an ninh quốc gia và PCTN, về tổ chức hoạt động của các cơ quan nội chính (Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra, các cơ quan có thức năng tư pháp trong công an, quân đội), Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chưa công bố hoặc không công bố.

Kiến nghị của Ban NCTƯ với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN va kiến nghị của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, giải pháp đối với công tác PCTN chưa công bố.

Ngoài ra, độ Tối mật cũng được quy định với các văn bản của Ban NCTƯ thông báo ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN với các cơ quan, tổ chức có liên quan về việc giải quyết vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.

Tin, tài liệu của Ban Nội chính Trung ương liên quan đến việc tham mưu, đề xuất giải quyết các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phúc tạp được xã hội đặc biệt quan tâm (trừ tin, tài liệu thuộc độ tuyệt mật). Tin, tài liệu về việc thực hiện những nhiệm vụ cụ thể khác do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao chưa công bố hoặc không công bố.

Tin, tài liệu, ý kiến nhận xét đánh giá cán bộ của Ban Nội chính Trung ương về bổ nhiệm, khen thưởng kỷ luật cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban bí thư quản lý.

Ý kiến thẩm định các đề án về lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng chưa công bố hoặc không cô bố; Tin, tài liệu các cuộc đàm phán, điếp xúc của Ban Nội chính Trung ương với tổ chức, cá nhân người nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế về lĩnh vực nội chính và PCTN chưa công bố hoặc không công bố; Văn bản có sử dụng tin, tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của các cơ quan, tổ chức khác.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/2/2014.

H.Ngân

Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam kêu gọi sự trợ giúp khẩn cấp

Thưa quý thân hữu,

Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam vừa qua đã gởi thành viên trực tiếp đến thăm hỏi gia đình hai dân oan bị vi phạm nhân quyền nghiêm trọng ở thành phố Cần Thơ là chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt và Nguyễn Thị Tuyền.


Hai người phụ nữ này sinh hoạt dân oan cùng nhau, ở cùng trong một vụ án và cả hai đều chưa được công luận quan tâm thích đáng nên chúng tôi đặc biệt dành đến hai báo cáo riêng lẻ để tường trình về trường hợp này.

Báo cáo đầu tiên do chị Nguyễn Ngọc Hoa tường trình đã được đăng và hôm nay chúng tôi tiếp tục phổ biến bài viết kêu gọi sự giúp đỡ này.

Hai chị đã đồng hành với Dân oan cả nước trong nhiều sự kiện đòi đất, có được sự tin tưởng của nhiều bà con dân oan cũng như có thái độ kiên quyết với chính quyền không những trong việc đòi đất mà còn trong việc đấu tranh để bảo vệ Nhân quyền của chị em phụ nữ dân oan.

Ngày 10 tháng 9 năm 2013, cả hai chị bị bắt bất ngờ. Và cho đến nay đã ba tháng trôi qua, dù không có bằng chứng, Viện kiểm sát Cần Thơ đã đưa ra lời buộc tội dành cho chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt là vi phạm điều 254 “Gây rối trật tự công cộng”. Nhưng mặt khác, lợi dụng sự mù chữ và thiếu thông tin của vợ chồng chị Nguyễn Thị Tuyền, cơ quan điều tra cứ tiếp tục gia hạn lệnh tạm giam mà chưa đưa ra được bằng chứng cũng như cáo buộc cụ thể nào dành cho chị Tuyền.


Sức khỏe hai chị hiện rất kém vì cảnh tù đày thiếu thốn và nguy hiểm. Những đứa con nhỏ tuổi của hai chị có nguy cơ sẽ phải nghỉ học vì các bà mẹ của chúng là trụ cột kinh tế gia đình nay đã bị bắt. Chị Nguyệt từng là giáo viên, còn chị Tuyền bán xôi nuôi bốn đứa con qua ngày.

Hiện tại gia cảnh cả hai chị đều vô cùng khó khăn, không kém gia đình ông Ngô Hào ở Phú Yên như chúng tôi đã tường thuật. Hai người chồng không có đủ kinh phí để trả tiền luật sư cho vợ mình.

Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, với chức năng là tổ chức lên tiếng bênh vực cho mọi phụ nữ Việt Nam bị vi phạm Nhân quyền đã có sự trợ giúp kịp thời cho gia đình hai chị. Nhưng với ngân quỹ eo hẹp của mình, sự trợ giúp đó tất nhiên còn quá ít ỏi.

Vậy xin tha thiết kêu gọi quý thân hữu quan tâm vận động và chia sẻ với hai gia đình chị Nguyệt và chị Tuyền để họ có thể thuê luật sư và thăm nuôi hai chị trong những ngày hai gia đình đang chịu những áp lực tinh thần ghê gớm này.

Mọi liên lạc xin gởi về:

1/ Chồng chị Nguyệt: anh Phạm Văn Cờ – Điện thoại: 012345 08563

Địa chỉ: 231/8 Khu vực Thới An 1, phường Thuận An, quận Thốt Nốt, tp Cần Thơ

2/ Chồng chị Tuyền: anh Trương Văn Thạnh – Điện thoại: 01202 871342

Địa chỉ: Ấp 5, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ, tp Cần Thơ
 
Huỳnh Thục Vy 
 

Video: Trung quốc chiếu cảnh tàu TQ đâm tàu Việt Nam

Đài Truyền hình Trung Quốc vừa chiếu cảnh tàu Hải giám Trung Quốc đâm vào tàu của Việt Nam trên Biển Đông dù không nói rõ ở đâu.


Phim tài liệu 'Canh gác Biên cương Xanh' của đài CCTV-4 có đoạn dài bốn phút ghi cảnh tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam tại vùng biển mà CCTV-4 nói là của Trung Quốc trên Biển Đông, theo trang tin Shanghaiist.

Đài truyền hình Trung Quốc không nói rõ địa điểm xảy ra va chạm.

Sự cố được nói là xảy ra hôm 30/6/2007, một ngày sau khi hai tàu Hải giám của Trung Quốc nhận lệnh ra giải cứu tàu nghiên cứu hải dương của họ đang bị tàu của Việt Nam áp sát.

Video clip, vốn cũng xuất hiện trên YouTube, cho thấy tàu Hải giám mang số hiệu 83 và 51 với sự hộ tống của máy bay trực thăng đã gọi loa yêu cầu các tàu Việt Nam rời khỏi vùng biển mà họ nói là thuộc "quyền tài phán của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa".
Tiếng loa từ tàu Hải giám 83 kêu gọi:

"Quý vị cần chấm dứt ngay lập tức việc cản trở tàu của chính phủ Trung Quốc."

CCTV nói tàu Việt Nam lùi lại khi thấy các tàu Hải giám nhưng không rời "vùng hoạt động" của các tàu Trung Quốc khiến tàu nghiên cứu hải dương không thể hoạt động.

Một chỉ huy tàu Hải giám được dẫn lời nói trước cảnh tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam:

"Từ kinh nghiệm thực tế của chúng tôi, tấn công dễ hơn nhiều so với phòng thủ."

Hình ảnh trên truyền hình Trung Quốc cho thấy 12 tàu Trung Quốc sau đó đã lập vòng tròn bao vây sáu tàu của Việt Nam đang chặn đường tàu nghiên cứu hải dương.

Các tàu Việt Nam cũng dùng loa kêu gọi tàu Trung Quốc rời khỏi "vùng biển Việt Nam".




Thật lòng, với tư cách là những người chỉ huy, chúng tôi thấy căng thẳng khi phải ra lệnh này vì thường chúng tôi hay dạy thủy thủ của chúng tôi hành động một cách an toàn, thực hiện các biện pháp an toàn để tránh va chạm."

Một chỉ huy tàu Hải giám của Trung Quốc
CCTV nói tàu Việt Nam cũng không tuân theo các quy định tránh va chạm và "liên tục tiến sát" tàu nghiên cứu hải dương của Trung Quốc để "phá hoại" hoạt động của tàu này.

Đây là thời điểm chỉ huy lực lượng hải giám ra lệnh tấn công khiến một trong số các tàu hải giám tông vào tàu Việt Nam.
Một sỹ quan chỉ huy của tàu Hải Giám 74 được dẫn lời nói:

"Thật lòng, với tư cách là những người chỉ huy, chúng tôi thấy căng thẳng khi phải ra lệnh này vì thường chúng tôi hay dạy thủy thủ của chúng tôi hành động một cách an toàn, thực hiện các biện pháp an toàn để tránh va chạm.

"Nhưng rồi, chúng tôi lại bảo họ đâm các tàu khác. Dù kết cục tốt đẹp, bản thân hành động đó gây đe dọa nhất định tới sự an toàn của họ."

'Xua đuổi toàn bộ'

Đoạn phim tài liệu của CCTV mô tả vụ đâm tàu:

Một số tàu Hải giám Trung Quốc đâm vào các tàu Việt Nam

"Hải giám 74 nhận lệnh, tăng tốc tiến về phía đuôi của tàu đối thủ [mang số hiệu] DN35.

"Họ tăng tốc để tránh chúng tôi.

"Hải giám 71 đuổi kịp và đâm trúng đuôi tàu [DN35].

"Trong lúc đó Hải giám 72 lao tới mạn phải và đâm vào giữa tàu.

"Mũi tàu chúng ta chĩa thẳng vào cabin tàu của họ và đẩy họ lùi lại...

"Cùng lúc đó một tàu khác của họ cách đó 200m lao tới cứu [DN35].

"Họ toan đâm vào Hải giám 72.




Hải giám 74 nhận lệnh, tăng tốc tiến về phía đuôi của tàu đối thủ [mang số hiệu] DN35. Họ tăng tốc để tránh chúng tôi. Hải giám 71 đuổi kịp và đâm trúng đuôi tàu [DN35]. Trong lúc đó Hải giám 72 lao tới mạn phải và đâm vào giữa tàu."

CCTV
"Hải giám 72 đổi hướng và chĩa mũi vào tàu [Việt Nam].

"Tàu DN29 tăng tốc và nhắm vào tàu nghiên cứu hải dương [của Trung Quốc] lao tới.

"Tàu Hải giám 51 phản ứng nhanh vào chĩa mũi vào cabin tàu [DN29].

"Cuối cùng chúng tôi đã xua đuổi được toàn bộ [tàu Việt Nam] khỏi vòng vây của chúng ta."

Phim tài liệu của Trung Quốc được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông vẫn tiếp diễn.

Một số báo Việt Nam đang đưa tin về sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa 40 năm về trước.
Theo BBC

Tổng thống Thiệu ra lệnh tái chiếm Hoàng Sa, nhưng...

Ngay sau khi các chiến hạm của hải quân VNCH thất thủ trước Trung Quốc, đích thân Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Tư lệnh hải quân vùng I "bằng mọi giá" phải giành lại đất của tổ tiên. Lần này, lực lượng không quân được giao vai trò tiên phong.

Gấp rút chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa

Ngay trong ngày 19.1.1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh điều 5 phi đoàn chiến đấu F5, bao gồm 4 phi đoàn thuộc sân bay Biên Hoà, 1 phi đoàn thuộc sân bay Đà Nẵng, tổng cộng 120 chiếc.

Địa điểm tập kết là sân bay Đà Nẵng.

Song song đó, Hải quân Việt nam Cộng hòa cũng gấp rút hình thành một Hải đoàn đặc nhiệm mới sẽ có nhiệm vụ thực hiện kế hoạch tái chiếm đảo sau khi lực lượng không quân rút đi.

Hải đoàn này bao gồm tàu HQ-6, HQ-17 điều động từ Trường Sa trở về và chiến hạm HQ-5 từng tham chiến tại Hoàng Sa trước đó.

Đại tá Hà Văn Ngạc tiếp tục được chỉ định làm chỉ huy Hải đoàn này.

Về phía không quân, sau khi nhận được lệnh, chỉ huy các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 536 – Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 540 – Nguyễn Văn Thanh, phi đoàn 544 – Đặng Văn Quang, phi đoàn 538 – Nguyễn Văn Giàu đã bàn bạc và lên kế hoạch tác chiến rất kỹ lưỡng.

Theo đó, bốn phi đoàn có nhiệm vụ tấn công và oanh tạc các chiến hạm của Trung Quốc, một phi đoàn có nhiệm vụ bảo vệ. Thời gian oanh kích sẽ kéo dài khoảng 30 phút.

Mỗi phi đoàn được trang bị 24 chiến đấu cơ F.5 và trên mỗi chiếc F5 được trang bị thêm 3 bình xăng phụ.

Để hỗ trợ cho kế hoạch, hàng ngày các máy bay thám thính RF5 của không lực VNCH có nhiệm vụ bay và chụp ảnh toàn bộ Hoàng Sa. 
 
Vào phút cuối, chiến đấu cơ F5 đã không được lệnh xuất kích - Ảnh minh họa
 
Từ những bức không ảnh này, bộ phận phân tích thuộc lực lượng không quân sẽ theo dõi sự di chuyển, thay đổi đội hình của các tàu chiến Trung Quốc.

Ngoài ra, nó còn cung cấp cho các phi công chuẩn bị tham chiến biết được cách bố trí đội hình phòng thủ để từ đó có cách đối phó thích hợp.

Và theo những bức ảnh không thám ấy, thời điểm ngày 20.1.1974, tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc có tổng cộng 43 tàu chiến lớn nhỏ.

Sở dĩ lực lượng không quân VNCH tin tưởng vào kế hoạch oanh tạc và tái chiếm Hoàng Sa là do thời điểm đó, chiến đấu cơ F5 có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc.

Mặc dù khoảng cách đường bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa tương đương khoảng cách từ đảo Hải Nam đến Hoàng Sa nhưng F5 được xem là ít tốn nhiên liệu hơn Mig 21 của Trung Quốc.

Giờ "G" đã không điểm

Khi mọi kế hoạch được bên không quân chuẩn bị đầy đủ thì bất ngờ Tổng thống Thiệu ra lệnh hủy kế hoạch oanh kích tái chiếm Hoàng Sa.

Sau này, một số người cho rằng, nguyên nhân xuất phát từ sự cố vấn của Đại tá Hà Văn Ngạc, người trức tiếp chỉ huy trận đánh vào ngày 19.1.1974.

Khi đó, Đại tá Ngạc tin rằng "một cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn".

Được biết, các tàu chiến của VNCH lúc đó chỉ là các tuần dương hạm cũ (WHEC)  được Lực lượng tuần duyên Mỹ (US Coast Guard) chuyển giao cho.

Do thiết kế nên các tàu này thích hợp cho công tác tuần tiễu hơn là chiến đấu, bởi nó vừa chậm chạp vừa nặng nề nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn.

Loại tàu này cũng chỉ được trang bị một hải pháo 127 ly, còn vị trí đặt 2 khẩu hải pháo 40 ly đã được Hải quân Việt Nam Cộng hòa tháo dỡ làm bãi đáp trực thăng.

Theo nhiều người, nhận định của Đại tá Ngạc có cơ sở, bởi nhiệm vụ giữ đảo thuộc về Hải quân.

Không thể phản ứng bằng "súng đạn", Tổng thống Thiệu chuyển hướng sang lĩnh vực ngoại giao.

Liên tiếp các ngày 20, 21, 22.01.1974, Bộ Ngoại giao lẫn Tổng thống VNCH đã liên tục thông báo tình hình quần đảo Hoàng Sa cho Đại sứ Hoa kỳ tại Sài Gòn và Tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon biết.

Thế nhưng, để đáp lại những thông báo ấy, Đại sứ quán lẫn Chính phủ Hoa kỳ đều im lặng.

Không những thế, Hoa kỳ còn ra lệnh cho hạm đội 7 ở Thái Bình Dương tránh xa quần đảo Hoàng Sa.

Chính sự "im lặng" của Mỹ là nguyên nhân trực tiếp khiến Trung Quốc tiếp tục xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy rằng ngoài nguyên nhân khách quan chủ yếu là tham vọng bá quyền của Trung Quốc ra, về phía Việt Nam Cộng hòa vào thời điểm ấy đã không đủ năng lực quân sự lẫn ngoại giao để tái chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Nguyễn Minh - Vũ Kiều (tổng hợp)
(Một thế giới)

Báo Thanh niên: Nuôi chí giành lại Hoàng Sa

(TNO) Lịch sử Việt Nam cho thấy dù có 1.000 năm Bắc thuộc, đến cuối cùng ông cha ta cũng khôi phục lại được độc lập cho Việt Nam. Nhưng những điều đó thành hiện thực là do những nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi, ngọn lửa ý chí được nuôi dưỡng và được truyền qua các thế hệ.


 Đào giếng tại Hoàng Sa năm 1938 trong thời gian chính quyền bảo hộ Pháp tại Đông Dương thực thi chủ quyền trên quần đảo này - Ảnh: Tư liệu
Đào giếng tại Hoàng Sa năm 1938 trong thời gian chính quyền bảo hộ Pháp tại Đông Dương
thực thi chủ quyền trên quần đảo này - Ảnh: Tư liệu
Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 2: Hành quân giữ đảo
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 1: Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa >> Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Cần vinh danh những người hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa 

Mất đi Hoàng Sa vào năm 1974 (cũng như mất Gạc Ma vào năm 1988), và cùng với đó chúng ta đã mất đi vị trí chiến lược bảo vệ đất nước từ biển, mất đi những người con của dân tộc đã hy sinh trong những trận hải chiến đó, là nỗi đau lớn cho Việt Nam. Đó là bài học về một phần cái giá phải trả khi Việt Nam bị chia cắt, ở trong thế yếu bị các cường quốc lớn chi phối, kinh tế yếu kém, không có sự quan tâm và chuẩn bị đúng mức để bảo vệ được đảo.

Cuộc chiến về ý chí và trí tuệ

Thực tế cho thấy, khi quần đảo đã bị Trung Quốc chiếm đóng, việc đòi lại Hoàng Sa đúng là một sự nghiệp lâu dài và khó khăn, đòi hỏi người Việt phải giữ vững được ý chí và chuẩn bị chu đáo. Người Do Thái sau 2.000 năm mất nước đã trở lại được mảnh đất quê hương mình. Làm được điều đó, trước tiên là vì họ không để ý chí mai một. Câu nói "Sang năm về Jerusalem" đã trở thành lời cầu nguyện trước mỗi bữa ăn, lời chào từ biệt giữa những người Do Thái mất nước từ đời này sang đời khác. Argentina chưa từng từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Falkland dù gần 200 năm đã trôi qua và hiện quần đảo đang nằm trong tay người Anh. Lịch sử Việt Nam cũng cho thấy dù có 1.000 năm Bắc thuộc, đến cuối cùng ông cha ta cũng khôi phục lại được độc lập cho Việt Nam. Nhưng những điều đó thành hiện thực là do những nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi, ngọn lửa ý chí được nuôi dưỡng và được truyền qua các thế hệ.

 Lễ khao lề thế lính ở Lý Sơn, Quảng Ngãi, một trong những hoạt động dân gian chứng tỏ Việt Nam đã làm chủ Hoàng Sa từ hàng trăm năm trước - Ảnh: Đỗ Hùng
Lễ khao lề thế lính ở Lý Sơn, Quảng Ngãi, một trong những hoạt động dân gian chứng tỏ
Việt Nam đã làm chủ Hoàng Sa từ hàng trăm năm trước - Ảnh: Đỗ Hùng

Bởi vậy cho dù đó là công cuộc lâu dài, chúng ta không giây phút nào được trễ nải hay có suy nghĩ rằng hãy gác lại để thế hệ sau làm tiếp. Luật quốc tế hiện đại đòi hỏi danh nghĩa chủ quyền cần phải được duy trì liên tục. Chỉ cần có những hành động hay tuyên bố biểu lộ sự thiếu quan tâm đối với chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam sẽ bị mất đảo vĩnh viễn một cách hợp pháp. Trách nhiệm của mỗi thế hệ là bảo vệ toàn vẹn và làm mạnh hơn lập luận pháp lý của Việt Nam, giảm nhẹ gánh nặng cho con cháu của mình.

Và danh dự của chúng ta, trách nhiệm với tiền nhân và hậu thế không cho phép chúng ta tiếp tục để mất hẳn Hoàng Sa.

Là một người đã tham gia vào lãnh vực nghiên cứu biển Đông hai năm nay, tôi cho rằng có những việc sau cần phải làm:

1. Giữ lửa trong giới trẻ, duy trì ý chí đòi lại Hoàng Sa

Như trên đã nói, để chuẩn bị cho công cuộc đòi lại Hoàng Sa lâu dài và khó khăn này, điều trước tiên là cần phải duy trì ngọn lửa ý chí, nhất là cho giới trẻ. Để làm được điều đó, việc đưa Hoàng Sa, lịch sử về Hoàng Sa và sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa vào sách giáo khoa, thường xuyên nhắc đến Hoàng Sa trong các ấn phẩm, tổ chức các hoạt động kỷ niệm cụ thể là cần thiết nhưng chưa đủ. Còn cần phải khơi dạy cho giới trẻ tình yêu biển, hiểu được tầm quan trọng của biển, đảo với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Đồng thời cũng cần trang bị cho họ ý thức và những kỹ năng của một công dân, nâng cao tinh thần tự trọng, tự giác, tự lập và tự cường. Có được những phẩm chất này, tự họ sẽ có ý thức duy trì ngọn lửa ý chí trong mình cũng như nung nấu suy nghĩ làm sao có thể đòi lại được Hoàng Sa.

Việt Nam cũng đừng quên giới trẻ ở hải ngoại. Họ ở vị trí rất tốt để có thể đưa quan điểm, tiếng nói của Việt Nam tới thế giới, giúp dư luận thế giới hiểu về Việt Nam hơn.

Đồng thời, cũng cần phải tạo thêm nhiều điều kiện cho trí thức Việt kiều được đóng góp nhiều hơn cho công cuộc bảo vệ chủ quyền. Thực tế tôi đã được thấy nhiều người trong số họ đã có những đóng góp rất cụ thể, hữu ích vào cuộc tranh biện đấu tranh cho Việt Nam trên những diễn đàn hàng đầu thế giới, góp phần ngăn chặn âm mưu tuyên truyền tinh vi của Trung Quốc. Ví dụ như tiến sĩ Dương Danh Huy ở Anh với những bài viết được đăng trên các tạp chí, diễn đàn của giới chuyên gia thế giới, hay Giáo sư Phạm Quang Tuấn ở Úc với những nỗ lực tiên phong bền bỉ trong hoạt động xóa đường lưỡi bò trên các ấn phẩm khoa học quốc tế.

Để duy trì được ngọn lửa ý chí, thế hệ sau cũng cần phải được đảm bảo rằng thế hệ đi trước đã làm tròn trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đòi lại Hoàng Sa lâu dài và khó khăn này. Trong những cuộc thương thuyết, đàm phán tương lai về khai thác chung và phân định biển nói chung, và khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa nói riêng, các nhà thương thuyết cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng để không nói gì, không đưa ra thỏa thuận gì có thể ảnh hưởng đến hồ sơ pháp lý của Việt Nam. Mọi giải pháp về chính trị cần phải dựa trên cơ sở là lẽ công bằng và luật quốc tế.

Nội dung các cuộc đàm phán cũng cần được công bố công khai để người Việt nói chung và thế hệ trẻ nói riêng biết được diễn tiến thực sự, những khó khăn, thử thách của Việt Nam khi phải đối mặt với Trung Quốc lớn và mạnh hơn mình, cũng như rút ra được những bài học cho tương lai.

2. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu chuyên nghiệp để hoàn thiện hồ sơ pháp lý và khả năng tranh biện của Việt Nam

Một giải pháp cụ thể để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu chuyên nghiệp là đưa lãnh vực này trở thành một bộ môn cụ thể trong các trường đại học. Việt Nam cần có đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản để có thể tranh luận trong tòa quốc tế, trong môi trường học thuật cũng như trên truyền thông quốc tế nhằm tranh thủ dư luận thế giới. Nơi không thể thiếu được để phát triển đội ngũ này chính là trong các trường đại học. Chỉ phụ thuộc vào Học viện Ngoại giao hay một, hai cơ sở đào tạo khác để tạo nguồn là không đủ. Việt Nam cần có sự đa dạng về các kênh đào tạo cũng như môi trường đào tạo cả trong và ngoài nước để có thể khai thác hết tiềm năng và phát triển đội ngũ chuyên gia.

Sinh viên phải được trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để phân tích các sự kiện và đề xuất các giải pháp. Một số chuyên đề sinh viên có thể thực hiện như tìm hiểu các án lệ về chủ quyền lãnh thổ, các án lệ về phân định biển và đối chiếu với thực tế của Việt Nam; giá trị pháp lý của những sự kiện lịch sử diễn ra xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Hiện tại dường như Việt Nam mới chỉ nhấn mạnh vào các bằng chứng thực thi chủ quyền dưới thời nhà Nguyễn. Điều này là cần thiết nhưng không đủ. Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền trong giai đoạn sau này. Tương tự, để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới, Việt Nam sẽ phải tranh biện trên diễn đàn quốc tế vấn đề duy trì chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau năm 1954. Mà vấn đề này dường như chưa được nghiên cứu đúng mức. Mở rộng các diễn đàn tranh luận học thuật cũng như tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đi sâu về những vấn đề còn tồn tại này là điều cần thiết.

Bên cạnh nghiên cứu nhà nước, cần phải khuyến khích, tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu độc lập, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lãnh vực nghiên cứu biển Đông. Mô hình các tổ chức nghiên cứu độc lập, phi chính phủ đã xuất hiện trên thế giới từ trăm năm nay. Sự phối hợp giữa nghiên cứu của nhà nước và nghiên cứu độc lập sẽ giúp vấn đề được mổ xẻ từ nhiều góc nhìn khác nhau, và điều này sẽ giúp cho Việt Nam xây dựng được những lý lẽ hoàn thiện nhất để phản bác lại những biện ngôn tinh vi của Trung Quốc, cũng như xây dựng được nhiều phương án khác nhau để chuẩn bị cho những tình thế khác nhau có thể xảy ra. Ngoài ra, các tổ chức nghiên cứu độc lập là mô hình phù hợp nhất để khai thác được những ưu thế của ngoại giao nhân dân, ngoại giao nhưng không sử dụng danh nghĩa chính phủ.

3. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần có những hành động tích cực hơn để đưa sự thật về Hoàng Sa tới thế giới

Bộ Ngoại giao Việt Nam nên mở một website gồm nhiều thứ tiếng ghi lại tường tận và đầy đủ lịch sử của Hoàng Sa, cơ sở pháp lý của Việt Nam, cũng như những diễn tiến xung quanh tranh chấp Hoàng Sa.

Việt Nam cần công khai thách Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Tòa án quốc tế. Hành động này sẽ gây sự chú ý của thế giới tới một tranh chấp vốn dĩ là vấn đề chỉ của Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời qua đó để thế giới thấy lẽ phải thuộc về Việt Nam.

Trong việc truyền thông để thế giới hiểu về vấn đề Hoàng Sa, mỗi cá nhân người Việt đều có thể tham gia bằng cách tự viết bài gửi cho các tạp chí, diễn đàn quốc tế để đưa những thông tin chứng minh Hoàng Sa thực sự là của Việt Nam, và hành động cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực của Trung Quốc là hoàn toàn bất hợp pháp.

Trong thời đại của thông tin và toàn cầu hóa, có rất nhiều học giả quốc tế, các “think tank” hàng đầu thế giới, các văn phòng hay các quan chức chính phủ của các nước tham gia vào các mạng xã hội như twitter và facebook để lan tỏa và tiếp nhận thông tin. Việt Nam có thể tận dụng những phương tiện này để tiếp cận với thế giới, đưa thông tin tới thế giới. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu sinh Trung Quốc đã tận dụng rất tốt những công cụ này. Đối với người Việt, theo người viết được biết, hiện cũng đã có những nỗ lực tạo ra và duy trì kênh tổng hợp thông tin biển Đông tiếng Anh trên mạng xã hội, và đã góp phần thiết thực đưa thông tin tới giới chuyên gia quốc tế. Nên ý tưởng này hoàn toàn khả thi.

Năm 1940, chỉ trong một trận đánh chớp nhoáng, Đức đã loại bỏ tới 70% quân đội Đồng minh. Nước Anh trở nên đơn độc và có nguy cơ bị đại bại trước thế tấn công như chẻ tre của Đức. Trong giờ phút tuyệt vọng của nước Anh, tưởng như thất bại cầm chắc trong tay, Winston Churchill vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông có câu nói bất hủ: "Chúng ta sẽ bảo vệ hòn đảo của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên bãi biển, chúng ta sẽ chiến đấu tại nơi đổ bộ, chúng ta sẽ chiến đấu trên đồng ruộng và trên đường phố, chúng ta sẽ chiến đấu trong vùng đồi núi; chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng". Ý chí và quyết tâm phi thường cùng với lòng can đảm tuyệt vời của ông đã cổ vũ tinh thần của quân đội Anh, giúp cho nước Anh có thể kết thúc chiến tranh thế giới thứ II trong thế hiên ngang.

Ngày nay, cuộc chiến của chúng ta để đòi lại Hoàng Sa chính là cuộc chiến về ý chí và trí tuệ. Mỗi người Việt Nam sẽ không bao giờ đầu hàng và không bao giờ chấp nhận từ bỏ Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.

Phạm Thanh Vân *

* Tác giả là thạc sĩ tại trường Đại học Quốc gia Chungbuk, Hàn Quốc, đồng điều hành kênh thông tin Biển Đông tiếng Anh trên Facebook và Twitter: https://www.facebook.com/SoutheastAsianSeaNews
(Thanh niên)

Hôm nay xét xử 'đại án' lừa đảo 5.000 tỉ

(TNO) Ngày mai, 6.1, TAND TP.HCM sẽ khai mạc phiên tòa xét xử vụ "đại án" lừa đảo 5.000 tỉ do Huỳnh Thị Huyền Như chủ mưu. Phiên tòa do chánh tòa hình sự, thẩm phán Nguyễn Đức Sáu làm chủ tọa.

Được xác định là vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp nên Hội đồng xét xử có năm thành viên, ngoài chủ tọa còn có thẩm phán Lê Văn Ban và ba hội thẩm nhân dân. Do phiên tòa kéo dài gần 20 ngày nên Hội đồng xét xử cũng chuẩn bị một hội thẩm dự khuyết trong trường hợp cần thiết để tránh không ảnh hưởng, gián đoạn việc xét xử.
http://farm10.gox.vn/tinmoi/store/images/thumb/05012014/4/1630454/ngay_mai_xet_xu_dai_an_lua_dao_5_000_ti_0.jpg


Thừa ủy quyền của Viện KSND Tối cao, Viện KSND TP.HCM cũng cử ba kiểm sát viên (trong đó có một kiểm sát viên dự khuyết) giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Theo bản cáo trạng, từ tháng 3.2010 đến tháng 9.2011, để có tiền trả nợ vay lãi cao, Huyền Như thuê người làm giả 8 con dấu của các công ty và giả chữ ký, làm giả các giấy tờ, hợp đồng để chiếm đoạt của 9 công ty, 3 ngân hàng và 3 cá nhân hơn 4.911 tỉ đồng.

Sau đó, Như dùng tiền của người sau trả cho người vay trước đó. Đến ngày vụ án bị phát hiện, Như còn chiếm đoạt hơn 3.986 tỉ đồng. Sau khi vụ án bị khởi tố, cơ quan điều tra đã thu hồi được hơn 624 tỉ đồng, 156.610 EUR, 4.629 USD, 920 SGD, 400 HKD.

23 bị cáo bị triệu tập ra tòa
Cáo trạng của Viện KSND Tối cao truy tố Huỳnh Thị Huyền Như (nguyên phó phòng quản lý rủi ro Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) chi nhánh TP.HCM) về hai tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Ngoài ra, các bị cáo khác, gồm: Nguyễn Thị Lành (ngụ quận 7, TP.HCM) và Đào Thị Tuyết Dung (ngụ quận Tân Bình, cùng TP.HCM) về hai tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “cho vay nặng lãi”; Võ Anh Tuấn (nguyên cán bộ văn phòng Vietinbank chi nhánh TP.HCM, Huỳnh Mỹ Hạnh (chị của Huyền Như, nguyên Phó giám đốc Công ty CP đầu tư Hoàng Khải), Trần Thị Tố Quyên (nguyên nhân viên Công ty Hoàng Khải) về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Phạm Anh Tuấn (nguyên giám đốc Công ty CPVT Dầu khí Thái Bình Dương) về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; Huỳnh Hữu Danh (nguyên cán bộ ngân hàng TMCP Quốc tế Chi nhánh TP.HCM), Trần Thanh Thanh (nguyên Trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ của Vietinbank), Bùi Ngọc Quyên (nguyên phó trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ), Đoàn Lê Du (Nguyên trưởng phòng giao dịch Đinh Tiên Hoàng của Vietinbank), Vũ Nguyễn Xuân Tiên (nguyên phó trưởng phòng giao dịch Đinh Tiên Hoàng), Tống Nguyên Dũng (nguyên cán bộ tín dụng Vietinbank của phòng giao dịch Điện Biên Phủ), Huỳnh Trung Chí (nguyên cán bộ tín dụng Vietinbank của phòng giao dịch Đinh Tiên Hoàng), Hoàng Hương Giang (nguyên giao dịch viên phòng giao dịch Điện Biên Phủ), Nguyễn Thị Phúc Ngân (nguyên giao dịch viên phòng giao dịch Đinh Tiên Hoàng), Phạm Thị Tuyết Anh (nguyên giao dịch viên Phòng giao dịch Điện Biên Phủ) về tội “vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”; Lương Thị Việt Yên (nguyên trưởng phòng giao dịch Võ Văn Tần của Vietinbank), Hồ Hải Sỹ (nguyên phó phòng giao dịch Võ Văn Tần), Lê Ngọc Lợi (nguyên giao dịch viên phòng giao dịch Võ Văn Tần) về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Nguyễn Thiên Lý (ngụ quận Bình Thạnh), Hùng Mỹ Phương (ngụ quận Bình Thạnh), Phạm Văn Chí (ngụ quận 8, cùng TP.HCM) về tội “cho vay nặng lãi”.
Lê Nga
(Thanh niên)

TBT Đinh Đức Lập từng cho đăng nhiều bài "giải cứu" ông Hồ Xuân Mãn trên báo Đại Đoàn Kết

Báo Đại Đoàn Kết thời tổng biên tập Đinh Đức Lập thường xuyên xuất hiện những bài hoặc hàng loạt bài báo khiến nhiều bạn đọc không nắm rõ vấn đề chưng hửng chẳng biết nên tin vào ai, còn những bạn đọc có thông tin và bộ lọc tốt thì vừa đọc vừa muốn … ói. Chẳng hạn như hai bài viết dưới đây bênh vực ông Hồ Xuân Mãn,  trong khi ông này đang bị nhiều cựu cbiến binh, cán bộ cách mạng lão thành tố cáo nhiều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc Đảng lẫn pháp luật Nhà nước.

Nay sự thật đã rõ ràng, những sai phạm của ông Mãn đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận. Báo Đại Đoàn Kết mà ông Đinh Đức Lập là tổng biên tập chịu trách nhiệm về các nội dung đăng tải sẽ phải nói sao đây với bạn đọc của báo nói riêng và công luận nói chung về những bài viết rõ ràng có sự bẻ cong ngòi bút này?

Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ, là những bằng chứng cụ thể, rõ ràng cho thấy cách làm báo, cách chỉ đạo nội dung của ông Đinh Đức Lập trong thời gian làm tổng biên tập tại báo Đại Đoàn kết là hết sức có vấn đề. Nếu không phải do trình độ nhận thức, bản lĩnh nghề nghiệp của ông Lập quá yếu kém để có thể  thẩm định nội dung trước khi đăng tải  thì chỉ có thể hiểu các bài viết như thế này xuất phát từ động cơ không trong sáng. Là điển hình của sự bẻ cong ngòi bút vì lợi ích cá nhân của người đứng đầu tờ báo cũng như của những người viết ra những bài báo như thế này.

Làm báo kiểu Đinh Đức Lập như dẫn chừng về vụ ông Hồ Xuân Mãn chỉ làm mất uy tín, phá hỏng truyền thống của báo Đại Đoàn kết và làm mang tiếng xấu cho MTTQVN.

Xem kết luận về những sai phạm của ông Hồ Xuân Mãn tại đây.

Bài trên báo Đại Đoàn Kết:



Ông Hồ Xuân Mãn có cướp công? - Bài 1: Nhân chứng một thời (08/01/2013)
"Em đi đâu cũng nghe người ta bàn chuyện báo chí viết về anh Hồ Xuân Mãn. Theo em, với kinh nghiệm của mình anh nên tìm hiểu sự việc thế nào. Có phải anh Hồ Xuân Mãn là "người cướp công của đồng đội?”. Đó là E-mail của đồng nghiệp gửi cho tôi sau khi bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Hà có tựa đề "Về lại Phong Điền” đã được photo phát tán nhiều nơi làm dấy lên sự hoài nghi, lo lắng về nhân phẩm, đạo đức và thậm chí bôi nhọ thanh danh của một con người từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế 2 nhiệm kỳ. Vì thế, chúng tôi đã vào cuộc tìm hiểu sự thật.


Giấy chứng nhận Dũng sĩ, Chiến sĩ thi đua
trong những năm chiến tranh mà ông Hồ Xuân Mãn còn lưu

Ông Hồ Xuân Mãn, sinh năm 1949, quê ở thôn Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế; tham gia cách mạng khi 14 tuổi, đến năm 1967 thì thoát ly gia đình, trực tiếp cầm súng đánh giặc. Trong những năm chiến tranh, từ một chiến sĩ an ninh vũ trang tỉnh Thừa Thiên, ông làm Đội trưởng Trinh sát an ninh vũ trang Ban An ninh huyện Phong Điền. Từ năm 1973 cho đến ngày quê hương Thừa Thiên - Huế giải phóng (26-3-1975), ông Hồ Xuân Mãn là Trưởng ban An ninh kiêm Xã đội trưởng xã Phong An, huyện Phong Điền. Suốt thời gian 5 năm (1970 -1975) bám dân, bám đất và kề vai sát cánh cùng đồng chí, đồng đội, ông Hồ Xuân Mãn đã lập nhiều chiến công xuất sắc và góp phần tạo nên vành đai Sơn - An - Nguyên diệt Mỹ nổi tiếng.

Năm 1994, tại khách sạn Hương Giang (Huế), thấy ông Lê Việt Hà (Trưởng Công an TP. Huế) gọi, xưng hô rất thân mật với ông Hồ Xuân Mãn (Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy), tôi hỏi: "Hai anh đã thân nhau à?”. Ông Lê Việt Hà cho biết: "Từ giữa năm 1968, ở vùng thượng nguồn sông Bồ, trên đường đi công tác, bọn mình gặp biệt kích Mỹ”. Rồi chỉ vào ông Hồ Xuân Mãn đang ngồi đối diện, ông Hà khẳng định: "Chính anh Mãn đã cõng và cứu mình thoát chết. Nghĩa tình sâu đậm lắm, không ở trong cuộc không biết mô!”.

Đại tá Nguyễn Việt Hùng - nguyên Giám thị Trại giam Bình Điền, quê ở xã Thủy Vân, thị xã Hương Thủy nhớ lại: "Toán chúng tôi có 3 người. Anh Lê Việt Hà đi đầu, kế đến là tôi và anh Hồ Xuân Mãn. Trong khi chúng tôi đang leo dốc thì địch bất ngờ nổ súng. Anh Hà kêu thất thanh: -Hùng ơi, mình bị thương rồi! Tôi hỏi anh Mãn: Anh Hà bị thương thì mần răng?Anh Mãn nói: -Phải đưa lui và cấp cứu ngay! Trong khi chúng tôi thay nhau cõng  tìm nơi để vừa tránh địch vừa tiến hành băng bó vết thương thì anh Lê Việt Hà trăng trối: "Đ/c Lớn đang nợ tôi mấy chục triệu” (tiền của chế độ cũ, anh Hà ứng để về đồng bằng mua gạo cho đơn vị) và hô khẩu hiệu: Đảng Lao động muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Hô đến lần thứ 3 thì anh Hà ngất lịm. Chúng tôi tưởng anh Lê Việt Hà đã hy sinh nên đem giấu vào một bụi rậm rồi tìm đường trở lại đơn vị, bởi lúc này địch đã gọi máy bay đến oanh kích rất dữ dội. Sáng hôm sau chúng tôi được đơn vị phân công quay trở lại tìm kiếm anh Lê Việt Hà. Ngoài 2 chúng tôi còn có thêm anh Hồ Văn Ninh, sau này là Phó Viện trưởng Viện KSND tỉnh Thừa Thiên - Huế (vừa nghỉ hưu). Tìm mãi không thấy, anh Mãn ngại rằng, không lẽ ngửi được mùi máu, cọp đã tha xác anh Hà? Dù vậy, cả mấy anh em chúng tôi phân nhau tìm kiếm, nếu hy sinh thì phải tìm cho được thi thể của anh Lê Việt Hà để mai táng và báo cáo cho đơn vị. Hóa ra nửa đêm tỉnh lại, anh Lê Việt Hà đã bò đi tìm nước uống và bị ngất xỉu nên nằm lại bên bụi lá nón, gần bờ khe. Anh Lê Việt Hà thoát chết trong hoàn cảnh ấy”.

Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu, quê ở huyện Phú Lộc, nguyên Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên, nguyên Bí thư Huyện ủy Phong Điền thuật lại: "Ngày 6-9-1969, tôi được Thường vụ Khu ủy Trị Thiên - Huế điều động trở lại Phong - Quảng Điền thay đồng chí Vũ Thắng (sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế) làm Bí thư Huyện ủy Phong Điền phụ trách Quảng Điền. Đầu năm 1970, sau khi đồng chí Hồ Xuân Mãn dự học lớp nghiệp vụ An ninh ở Quảng Bình vào, theo đề nghị của tôi, đồng chí Tư Minh - Phó Bí thư Khu ủy, Trưởng ban An ninh Khu đồng ý không để đồng chí Hồ Xuân Mãn về lại đơn vị cũ mà chuyển về công tác tại Ban An ninh huyện Phong Điền do tôi làm Trưởng ban. Mãi đến khi đồng chí Ngô Văn Viện (cần vụ) bị thương mới chọn đồng chí Hồ Xuân Mãn làm thư ký và bảo vệ cho tôi. Lớp học nghiệp vụ An ninh 3 tháng được tổ chức tại xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình do ông Hồng Lam, cán bộ An ninh Khu ủy Trị Thiên - Huế phụ trách. Đồng chí Nguyễn Đình Bảy - Phó Ban An ninh Khu ủy Trị Thiên - Huế; Vĩnh Thành - Trưởng Ty Công an Đặc khu Vĩnh Linh cùng nhiều cán bộ của C500 được Bộ Công An cử vào tham gia giảng dạy. Lớp học chỉ có 2 trung đội. Một do ông Ngọc Anh (quê Hương Trà, chồng của chị Lành, nguyên Phó Chủ tịch UBMTTQ Huế) làm Trung đội trưởng. Trung đội còn lại do ông Hồ Xuân Mãn làm Trung đội trưởng. Số học viên nay chỉ còn vài người như: ông Nguyện (nguyên Phó Phòng Tổ chức Công an Thừa Thiên - Huế), ông Cưụ (Công an Phong Điền), bà Điền, bà Hợi (Công an Hương Điền cũ), ông Cống (Công an Quảng Điền), ông Kiên (Công an Phú Lộc), ông Nguyễn Việt Hùng (nguyên Giám thị Trại giam Bình Điền), chị Lê Thị Thu (nguyên Phó Chánh Văn phòng UBMTTQ tỉnh Thừa Thiên - Huế)... Cuối  năm 1970, Thường vụ Huyện ủy Phong Điều quyết định cử đồng chí Hồ Xuân Mãn làm Đội trưởng Trinh sát An ninh ở Phong An - Phong Sơn”.

Ông Ngô Kha, quê ở Quảng Trị, sau khi tốt nghiệp Đại học, năm 1964 đã vào chiến trường Thừa Thiên - Huế công tác. Trong những năm chiến tranh, ông Phụ trách Báo Cờ giải phóng, Bí thư Đảng ủy Ban Tuyên huấn Thừa Thiên. Ông Ngô Kha cho biết: "Hễ lần nào tỉnh mở Đại hội chiến sĩ thi đua thì lần đó đều có anh Hồ Xuân Mãn tham dự. Tôi biết rõ điều này vì  tôi được phân công viết giúp bản báo cáo thành tích cho anh Mãn và nhiều người khác. Năm 1973, sau Đại hội thi đua của tỉnh Thừa Thiên, một số cán bộ tiêu biểu được chọn đi dự Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua tổng kết 18 năm chống Mỹ của Quân khu Trị Thiên - Huế tổ chức ở Cồn Tiên - Quảng Trị. Ông Ngô Kha là đại biểu chính thức. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tham dự Đại hội với tư cách là phóng viên Tạp chí Văn nghệ Trị Thiên - Huế vừa mới thành lập”.

Ông Hồ Viết Lễ - nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Thương mại Thừa Thiên - Huế, một trong những Chiến sĩ thi đua tham dự Đại hội ở Cồn Tiên  nhớ lại: "Theo kế hoạch, tôi được phân công báo cáo điển hình xã T.(tức Phú Thạnh - Phú Đa ngày nay), anh Nguyễn Văn Thạnh báo cáo điển hình xã M. (tức Mỹ Thủy - Thủy Phương), anh Hồ Xuân Mãn báo cáo điển hình xã A. (tức xã Phong An).”

Ngoài 3 lần tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua, ông Hồ Xuân Mãn từng đã có 33 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Huân chương Giải phóng các hạng và 1 Huân chương Quyết thắng, 3 huy hiệu Chiến sĩ thi đua, nhiều bằng khen và cả giấy chứng nhận danh hiệu "Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”.

Trong những chiến công xuất sắc của ông Hồ Xuân Mãn, theo ông Lê Sáu thì việc ông Hồ Xuân Mãn phối hợp với lực lượng của 2 xã Phong An -Phong Sơn vào đầu tháng 10-1972 diệt được tên ác ôn khét tiếng (xin không nêu tên) là vang dội nhất, vì tên này có đặc điểm là sau khi sát hại cán bộ, du kích của ta, hắn tự xẻo tai rồi đeo lên cổ. Hắn khoe đã giết được 82 cán bộ, du kích Phong - Quảng nằm vùng. Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu còn dẫn nhiều trường hợp anh Hồ Xuân Mãn đã cùng đồng đội tham gia diệt ác trừ gian và tổ chức đánh địch rất cụ thể, nhưng vì đó là chiến tranh và phần lớn vợ con họ hiện đang còn sống, có những người cùng quê; hơn nữa Đảng ta chủ trương khép lại quá khứ nên ông Lê Sáu không đồng ý nêu cụ thể.
Hữu Thu-Bảo Hân
[Bài 2: Những chiến công thầm lặng]

Ông Hồ Xuân Mãn có cướp công? - Bài 2: Những chiến công thầm lặng09/01/2013


Để bảo toàn lực lượng, Huyện ủy Phong Điền chủ trương gấp rút đưa những cơ sở còn lại ra vùng giải phóng. Nhận nhiệm vụ của cấp trên giao, ông Hồ Xuân Mãn đã cùng với lực lượng 2 xã Phong An và Phong Sơn bí mật tổ chức đưa hơn 20 gia đình cơ sở cách mạng lên chiến khu. 

 Sau gần 1 tháng rời địa bàn đi dự Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua ở Cồn Tiên, ông Hồ Xuân Mãn quay trở lại A Lưới và biết ở quê mình chị Hạnh - Huyện ủy viên, Bí thư xã Phong An; anh Đời - Bí thư xã Phong Sơn; anh Thuận - Xã đội trưởng Phong An; anh Đàm, anh Anh - du kích và nhiều đồng chí khác đã lần lượt hy sinh. Trước tình hình đó, ông báo cáo với ông Vũ Thắng - Bí thư Tỉnh ủy và ông Nguyễn Đình Bảy - Phó Ban An ninh Khu ủy xin trở lại Phong Điền. Về đến nơi, ông Lê Tư Sơn - Bí thư Huyện  ủy, ông Phạm Văn Danh - Trưởng Ban An ninh huyện cho ông Hồ Xuân Mãn biết: "Tình hình Phong An bây giờ gay go lắm. Thường vụ tin đồng chí và giao đồng chí tìm mọi cách trở lại chỉ đạo phong trào.” 

Liên quan đến nội dung bài viết "Về lại Phong Điền” của nhà văn Nguyễn Quang Hà, ngày 5-12-2012, ông Đồng Hữu Vinh - Trung tá, Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm Chính trị Ban CHQS huyện Phong Điền và ông Nguyễn Văn Lương - Thượng tá, nguyên Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Phong Điền đã có văn bản phản hồi. Ông Đồng Hữu Vinh cho biết: "Tôi thấy rằng: một số nội dung và ngôn từ của bài báo phản ánh không đúng sự thật và bị cường điệu hóa làm cho người đọc hiểu sai vấn đề.”...Có đoạn thoại (trích đăng trong bài báo), theo khẳng định của ông Đồng Hữu Vinh "là hoàn toàn sai sự thật”.
Để tránh địch phát hiện, ông Hồ Xuân Mãn và ông Hùng (du kích) lội xuống bàu (ruộng sâu) dùng cỏ để ngụy trang. Trong cuộc đời tham gia hoạt động cách mạng của ông Hồ Xuân Mãn, theo ông đây là thời điểm gian khổ nhất, vì ban đêm thì lạnh, muỗi bu kín đầu còn ban ngày nắng như đổ lửa, nước lại nóng, bụng đói lại bị đỉa hành. Đêm xuống, cởi hết áo quần, toàn thân đầm đìa máu và đỉa. Hai ngày sau, họ mới tiếp cận được ấp Phò Ninh và gặp được chị Nguyệt - cơ sở của ta. Chị Nguyệt khuyên họ: "Đi đi, ở đây là chết vì địch đóng ở khắp nơi”. Thông qua chị Nguyệt, cuối cùng ông Hồ Xuân Mãn đã gặp được chị Hoa - cơ sở mật của an ninh. Gặp lại cán bộ cách mạng, chị Hoa òa khóc: "Chết hết rồi, chú về chi nữa!”

Từ đó, cùng với anh em an ninh, du kích, ông Hồ Xuân Mãn gây dựng lại phong trào. Chi bộ mật, Chi đoàn mật, 5 tổ du kích mật được khôi phục và hoạt động trở lại. Tháng 3-1975, mặc dù không có lực lượng chủ lực hỗ trợ nhưng ông Hồ Xuân Mãn đã cùng lực lượng tại chỗ tổ chức nhân dân 2 xã Phong An - Phong Sơn nổi dậy, phá toang cánh cửa phía Bắc, tạo điều kiện cho Quân đoàn II tiến quân vào giải phóng Huế.

Nếu không được nghe những người trong cuộc kể lại những câu chuyện sau đây thì khó mà hình dung về phẩm chất của một người anh hùng một lòng kiên trung với Đảng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ cán bộ lãnh đạo trong những năm đầy gian khổ và ác liệt của chiến tranh.

Đó là tháng 6-1970, một đoàn cán bộ 5 người, gồm ông Vũ Thắng - Bí thư Đảng ủy Đoàn 6 và 2 cần vụ, ông Lê Sáu - Bí thư Huyện ủy Phong Điền, Thường vụ Đảng ủy Đoàn 6, do ông Hồ Xuân Mãn (lúc đó là  thư ký và bảo vệ cho đồng chí Lê Sáu) dẫn đầu hành quân từ dốc Cao Bồi trên đất Lào để trở về hậu cứ Phong Điền. Do đoàn không có trinh sát, không có giao liên dẫn đường nên tính mạng của 4 con người, trong đó có 2 vị lãnh đạo chủ chốt của Thừa Thiên đều phó thác vào ông Hồ Xuân Mãn. Khi đến đoạn đường gần cao điểm Cóc Bai - ngã 3 Quảng Trị thì diễn ra tình huống: địch vừa phục kích và cắm 3 cái đầu máu đang còn chảy. Trước diễn biến bất ngờ đó, ông Hồ Xuân Mãn đã cùng với ông Viết (bảo vệ của đồng chí Vũ Thắng) tiến hành kiểm tra. Biết địch đã rút, không gài lựu đạn nên cả đoàn tổ chức mai táng. Nhóm 3 người của Đoàn 6 tạm dừng lại chờ dò đường, còn ông Mãn, ông Sáu tiếp tục đi. Gần giữa chiều, linh cảm bất an nên ông Mãn dừng lại nói nhỏ với Thủ trưởng của mình: "Chú đợi cháu ở đây” rồi  tiếp tục trinh sát. Được một quãng, ông Mãn phát hiện giữa đường địch lại cắm 1 cái đầu. Đi tiếp, ông lại phát hiện thêm 1 cái đầu khác. Cả 2 máu còn chảy, chứng tỏ địch vừa phục kích tại đây.


Văn bản của ông Đồng Hữu Vinh và Nguyễn Văn Lương 
có xác nhận của Thượng tá Đặng Trần Sơn 
- Chính trị viên  Ban CHQS huyện Phong Điền

 Kể cho nghe tôi nghe đến đoạn này ông Lê Sáu nói: "Thú thật đến lúc đó mình cảm thấy ớn lạnh. Phải là con người gan lỳ, không biết sợ mới dám liều lĩnh đi một mình như thế. Đó là phẩm chất của một anh hùng!”. 

Về đến căn cứ của xã Phong Thu, ông Hồ Xuân Mãn lại nhận nhiệm vụ đi tìm gạo, muối cứu đói cho bộ phận của ông Phan Bằng - Tỉnh đội trưởng và ông Võ Lạng (sau giải phóng là Chủ tịch UBND huyện Phú Lộc) - Cán bộ tổ chức của Trung đoàn 6 đã đói nhiều ngày đang tìm đến để xin tiếp tế. Đó là một nhiệm vụ rất nguy hiểm. Trong những năm chiến tranh, để bảo vệ số lương thực cất giấu, trước khi chuyển chỗ đóng quân, anh em ta thường gài lựu đạn để phòng địch hoặc thú rừng phá hoại. Anh Hoàng Khuê (Thu) - Bí thư xã Phong Thu đã chết vì mìn do anh em gài lại ở hầm cũ. Trước khi đi, ông Lê Sáu dặn ông Mãn: Phải hết sức cẩn thận "vì đồng chí là người duy nhất gắn liền sinh mạng với tôi và sứ mệnh của Đảng bộ 2 huyện Phong - Quảng”.

Ông  Lê Sáu thuật lại trong hồi ký: "Như một người đi dò mìn, anh Mãn lần từng đoạn, phát hiện vật nổ cả dưới đất lẫn trên cây, vượt qua đoạn này đến đoạn khác. Gần 12 giờ trưa anh Mãn mới tìm ra chỗ giấu gạo, muối và gùi về được 50 lon gạo, 3 lon muối và mang theo 2 quả lựu đạn mà anh em mình đã gài ở miệng hầm. Anh Mãn chia cho anh Phan Hường 18 lon gạo, 1 lon muối, anh Võ Lạng 32 lon gạo, 2 lon muối. Cân lương khô mang từ khu ủy về anh Mãn cũng cho luôn đoàn của anh Võ Lạng.”

Trong hồi ký của mình, ông Lê Sáu còn ghi lại kỷ niệm mà trong gần 10 năm làm Bí thư Huyện ủy Phong Điền, ông không bao giờ quên cái đêm anh Hồ Xuân Mãn tổ chức đưa ông vượt qua căn cứ địch ở Đồng Lâm - Ngành Ngạnh. Ông Sáu cho biết: "Đoạn đường không dài mà ở đó có 36 cụm biệt kích Mỹ chốt giữ. Đêm đó, tôi bị vọt bẻ nên phải lết từng bước một, tránh hết ổ biệt kích này, lết qua ổ biệt kích khác chốt xen kẽ nhau giữa các quả đồi. Chỉ cần một sơ suất nhỏ, địch phát hiện được, chúng tôi chỉ có tử chiến, khó thoát chết.”.

Sự thật về năm tháng chiến đấu can trường của ông Hồ Xuân Mãn có thể viết thành một cuốn truyện ký. Tuy nhiên, chỉ riêng một số thông tin vừa nêu cũng đã đủ hình dung về phẩm chất của một cán bộ nằm vùng. Điều cần nói thêm là kể từ khi đất nước đổi mới, từ một Bí thư Huyện ủy, ông Hồ Xuân Mãn phấn đấu và trở thành Bí thư Tỉnh ủy 2 nhiệm kỳ, được tặng thêm 8 Huân chương, trong đó có 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì, 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì và 1 Huân chương chuyên án an ninh tôn giáo, 1 Huân chương Đại Đoàn Kết dân tộc, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 1 Huân chương Hữu nghị, 1 Huân chương Itxala. 

Năm 2010, xét thành tích cả thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, ông Hồ Xuân Mãn được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.
Hữu Thu - Bảo Hân
 
(Blog Hữu Nguyên) 

Cambodia mở chiến dịch đàn áp đối lập

PHNOM PENH, Cambodia (AP) - Chính quyền Cambodia mở chiến dịch đàn áp thành phần đối lập chính trị hôm Thứ Bảy, đẩy họ ra khỏi nơi tập trung trong thủ đô, ra lệnh cấm tụ tập trên đường phố và cho tòa án triệu tập thành phần lãnh đạo đảng đối lập đến về tội làm mất trật tự công cộng.
Cảnh sát giải tán khoảng 1,000 người biểu tình chống chính phủ tại một công viên ở thủ đô Phnom Penh, một ngày sau khi có bốn người bị giết trong cuộc xuống đường của các công nhân ngành may.



An ninh Cambodia trấn áp đối lập. Hình chụp ngày 4 Tháng Giêng, 2014. (Hình: AP Photo/Heng Sinith)
Hàng trăm cảnh sát chống bạo loạn đả kéo vào công viên Tự Do sau khi ra lệnh cho người biểu tình phải rời khỏi nơi họ đã đến dựng lều sạp để ở từ giữa Tháng Mười Hai đến nay nhằm đòi Thủ Tướng Hun Sen phải từ chức và tổ chức bầu cử lại. Họ cho rằng cuộc bầu cử hồi Tháng Bảy là gian lận và đảng đối lập Ðảng Cứu Quốc Cambodia (CNRP) bị cướp phần chiến thắng.
Trong khi đó, các công tố viên tại tòa án Phnom Penh ra lệnh cho lãnh tụ CNRP là Sam Rainsy và Kem Sokha phải đến tòa ngày 14 Tháng Giêng để trả lời các câu hỏi liên quan đến hành động bị coi là làm mất trật tự công cộng.
Vào ngày Thứ Sáu vừa qua, có ít nhất bốn người thiệt mạng khi cảnh sát nổ súng giải tán một cuộc biểu tình của công nhân ngành may đòi tăng gấp đôi mức lương căn bản.
(Người Việt) 

Phản ứng của báo Người Đưa Tin khi bị "kiều nữ Hải Dương" kiện

Bà Phạm Thị Thanh Ngọc, hiện sống tại Mỹ, người bị báo Người Đưa Tin cho rằng đã hiếp dâm một trăm tài xế taxi, kiện báo này vì thông tin sai sự thật, ảnh hưởng đến uy tín danh dự của mình. Cơ quan ngôn luận của Hội luật gia Việt Nam im lặng…

Ngày 5.1, phóng viên báo điện tử Một Thế Giới đã gọi điện cho ông Nguyễn Thành Phong, Phó Tổng thư kí tòa soạn báo Người Đưa Tin để trao đổi thông tin xung quanh vụ việc tờ báo nơi ông đang làm việc bị kiện.
Phản ứng của báo Người Đưa Tin khi bị "kiều nữ Hải Dương" kiện
Chân dung bà Ngọc, người bị báo Người đưa tin gọi là kiều nữ Hải Dương. Ảnh do nhân vật cung cấp, Một Thế Giới đăng tải khi được sự đồng ý của nhân vật.

Ông Nguyễn Thành Phong bắt máy, nhưng khi nghe giới thiệu đồng nghiệp Một Thế Giới, ông nói đang họp và từ chối trả lời, dù hôm nay là chủ nhật.

Người viết các bài báo về kiều nữ Hải Dương hiếp dâm tài xế taxi 30 lần/ hai ngày là phóng viên Đoàn Tân và Diệu Nam. Tuy nhiên, sau nhiều nỗ lực liên lạc, phóng viên Một Thế Giới vẫn chưa thể tiếp cận được với các tác giả này.

Trong một bản tin trước đó được Một Thế Giới đăng tải, phóng viên Đoàn Tân đã nói ông chỉ bị bà Ngọc “hiếp hụt” mặc dù trước đó, theo những gì thể hiện trên facebook của người này, ông khẳng định đã bị bà Ngọc “hiếp dâm rất cực khổ”. Một phóng viên khác cũng tham gia viết bài về bà Ngọc trên báo Người Đưa Tin có tên là Diệu Nam, chúng tôi đã không thể liên lạc với người này vì ông Đoàn Tân từ chối cho số điện thoại, dù trước đó đã có hứa.

Theo những gì 2 phóng viên Đoàn Tân và Diệu Nam thể hiện trên báo Người Đưa Tin, bà Ngọc đã dụ dỗ nhiều tài xế taxi ở địa bàn Hải Dương, cho uống thuốc rồi cưỡng ép tình dục đến 30 lần/ hai ngày. Kinh khủng hơn, nhiều tài xế của hãng Mai Linh trở nên mệt mỏi vì làm tình quá mức…

Ngay sau khi các thông tin trên xuất hiện trên báo Người Đưa Tin đã xuất hiện những dư luận trái chiều. Bà Ngọc, nhân vật chính của bài báo cho rằng mình bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm đến nỗi phải nhập viện để điều trị.

Bà Ngọc đã ủy quyền cho luật sư Hoàng Cao Sang, đoàn luật sư TP.HCM giải quyết các vấn đề pháp lí đối với quyền lợi của bà. Cụ thể, bà Ngọc sẽ khởi kiện báo Người Đưa Tin và taxi Mai Linh Hải Dương.

Hiện bà Ngọc đang ở Mỹ và sẽ về Việt Nam trong vài ngày tới để hoàn tất các thủ tục. Thông qua luật sư Sang, bà Ngọc muốn cơ quan báo chí của Hội luật gia Việt Nam phải bồi thường thiệt hại…

Kiểm chứng thông tin trước khi đăng báo là một quy định bắt buộc về đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp mà bất kì cơ quan báo chí nào cũng phải tuân thủ. Câu chuyện của Người Đưa Tin đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một cá nhân và của một phụ nữ, đối tượng được pháp luật Việt Nam ưu tiên bảo vệ.

Luật sư Hoàng Cao Sang cho biết, hiện nay bà Ngọc đang rất suy sụp tinh thần. Bà Ngọc ủy quyền cho luật sư và từ chối mọi cuộc phỏng vấn của báo chí.

Chúng tôi đã dùng các số máy điện thoại khác nhau để gọi ông Nguyễn Thành Phong, nhưng phó tổng thư kí tòa soạn báo Người đưa tin không trả lời.
Thanh Nhã 
(Một thế giới)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét