Nhà văn Anh Virginia Morris, tác giả sách “Lịch sử Đường Hồ Chí Minh – con đường dẫn đến tự do” (A History of the Ho Chi Minh Trail: The Road to Freedom),
suy luận vì sao Hồ Chí Minh chọn Võ Nguyên Giáp làm người chỉ huy tối
cao của các lực lượng vũ trang Việt Nam, và đề cập các chiến lược của
tướng Giáp, mà theo bà, đã làm “thay đổi thế giới”.
Không nhiều người thực sự hiểu các chiến lược mà Võ Nguyên Giáp hoạch
định cho quân đội của ông kể từ đầu những năm 1940. Nhưng một khi hiểu
được chúng, người ta cũng nhận thức được chắc chắn, rằng Võ Nguyên Giáp
thực sự là một thiên tài quân sự. Tôi biết được điều này do nghiên cứu
chiến lược của Võ Nguyên Giáp trong 10 năm trở lại đây, và từng được hân
hạnh diện kiến ông Giáp.
Đối đầu không cân sức
Tôi rất kinh ngạc khi gặp tướng Giáp lần đầu. Khi đó, đã ở tuổi 90 nhưng ông còn dồi dào sức khỏe, trí tuệ cực kỳ minh mẫn, như ông đã từng như thế trong suốt cuộc đời cầm quân của mình. Chúng tôi nói chuyện cả giờ đồng hồ, và ông kể cho tôi về Đường Hồ Chí Minh. Tôi rất cảm kích. Trước đó chồng tôi và tôi đã đi 500 dặm dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh ở bên Lào, và vì thế ông Giáp đồng ý cho chúng tôi tới thăm ông. Tôi hỏi ông: “Phải chăng Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh là thành tố quan trọng nhất cho chiến thắng?” Tướng Giáp trả lời: “Đó là một trong nhiều thành tố quan trọng”. Phải mất một thập kỷ để tôi hiều Tướng Giáp muốn nói lên điều gì. Đã có nhiều những thành tố tựa như Đường Hồ Chí Minh, đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng chiến ở Việt Nam.
Những gì tôi học hỏi được ở Tướng Giáp, và các tướng lĩnh Việt Nam khác tôi được gặp, là để đánh Pháp (1945 - 1954) và đánh Mỹ (1959 – 1975), những người cách mạng đã sáng tạo ra hình thái chiến tranh mới: “chiến tranh toàn dân’. Hình thái chiến tranh nhân dân này đã trở thành một bản thiết kế mẫu (blueprint) để tiến hành cái được phương Tây gọi là “cuộc chiến tranh không cân sức” (asymmetricwar). Thuật ngữ “không cân sức” thể hiện thực tiễn cuộc đối đầu giữa hai phe sử dụng hai chiến lược đối lập: Hồ Chí Minh dùng chiến tranh toàn dân chống lại Pháp, Mỹ - hai thế lực chủ yếu dùng các lực lượng và phương tiện chiến tranh quy ước (conversational militaries)
Mục tiêu của chiến tranh toàn dân là động viên cả nước chống kẻ địch. Cuộc kháng chiến toàn dân vận hành bởi nguyên tắc hoạt động là cho dù từng người trong nhân dân yếu hơn sức mạnh của quân đội nhà nghề của đối phương, lực lượng nhân dân sẽ làm mất sức chiến đấu của quân đội viễn chinh hùng mạnh, và cuối cùng làm chúng kiệt sức. Hồ Chí Minh nói: “Có dân là có tất cả”. Điều then chốt để hiểu chiến tranh toàn dân là những người kháng chiến không thể đánh bại kẻ thù mà chỉ đơn thuần dùng sức mạnh quân sự.
Có 4 yếu tố hợp thành chiến tranh toàn dân: ba mặt trận tầm chiến lược (chính trị, tuyên truyền đặc biệt, quân sự), trên nền của Hạ tầng cơ sở cách mạng (Revolutionary Infrastructure, Mỹ gọi là VCI – Hạ tầng cơ sở Việt Cộng) – nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, chi phối tất cả các mặt trận trên. Hồ Chí Minh rõ ràng là nhân vật chính trên mặt trận đấu tranh chính trị tầm chiến lược. Động lực của mặt trận này chính là việc Hồ Chí Minh dành vai trò kiểm soát cao nhất cho Đảng, mà không dành riêng cho mình. Mặt trận tuyên truyền là nỗ lực của nhiều nhà cách mạng, bao gồm cả đóng góp của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo chuyên trách của mặt trận quân sự, vừa hoạch định chiến lược vừa tổ chức thực hiện.
‘Hạ tầng cơ sở Việt cộng”
Hồ Chí Minh đi đến quyết định chọn Võ Nguyên Giáp tổ chức lực lượng vũ trang chính quy là do, từ 1941, Võ Nguyên Giáp đã phát triển phần hệ trọng của Hạ tầng cơ sở cách mạng (“con đường Nam tiến” từ miền núi xuống đồng bằng Bắc Bộ), buổi đầu “bám rễ” vào những cơ sở còn thưa thớt. Hệ thống cơ sở cách mạng được Hồ Chí Minh khởi động từ giữa những năm 1920 – đó là một mạng lưới hoạt động bí mật của những người cách mạng, kết nối chủ yếu nhờ các giao thông viên. Tới đầu những năm đầu 1940 ấy, nó thăng hoa thành Hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam, một hệ thống ngày một tiến hóa phức tạp, tinh vi hơn. Hệ thống này gồm (1) các chi bộ Đảng hoạt động bí mật, liên kết bởi (2) các giao thông viên ngày một trở nên chuyên nghiệp vụ hơn, sử dụng các “hành lang” giao liên chằng chịt phức tạp, dựa vào (3) - các quần chúng cảm tình với cách mạng, đảm nhiệm cả nhiệm vụ bảo vệ các hành lang, khi cần. Trên các địa bàn mà hành lang ‘Nam tiến’ đi qua, đã hình thành một hình thái chính quyền ngầm (shadow government) có đủ các cơ cấu hành chính liên đới trực thuộc, làm cơ sở để phát triển thành nhà nước độc lập, một khi điều kiện cho phép.Khi Võ Nguyên Giáp huấn luyện và tìm cách vũ trang cho những “người bảo vệ” hành lang chiến lược, Hồ Chí Minh nhận thấy trong con người tầm thước Võ Nguyên Giáp triển vọng to lớn của nền quân sự Việt Nam. Ngày 22 -12 -1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang chính quy, với đơn vị đầu tiên là Đội Tuyên truyền Giải phóng quân, giao cho Võ Nguyên Giáp toàn quyền chỉ huy.
Chiến tranh không chiến tuyến
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất ((1945 – 1954), Giáp đã định hình những phương thức đấu tranh vũ trang mới, được phương Tây gọi là “chiến tranh không chiến tuyến” (war without boundaries). Hình thái kháng chiến mới này xuất phát từ một lần Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Võ Nguyên Giáp. 18 – 1 – 1946, phái Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp vào miền Nam, Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chú vào trong đó, nhiệm vụ trọng yếu là nghiên cứu, xem xét chiến trường, giúp các đồng chí Bộ chỉ huy mặt trận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ giữ vững tinh thần kháng chiến, phát động chiến tranh du kích, kìm chân quân Pháp, động viên đồng bào và chiến sĩ hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước”...
Có ba vấn đề quan trọng trong cuộc họp với Hồ Chí Minh khi Giáp từ miền Nam trở về: thứ nhẩt, các lực lượng cách mạng miền Nam dùng phương thức trận địa chiến (static warfare)để chặn quân Pháp, và đã thất bại. Võ Nguyên Giáp nhất trí với Hồ Chí Minh là cần phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Thứ hai, để tiếp tế cho cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ, một hành lang chiến lượcmới cần được mở (trong vai trò tương đương như Đường Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Mỹ).
Mâu thuẫn của chiến tranh xâm lược
Điểm thứ ba có ý nghĩa then chốt ngay từ đầu kháng chiến. Võ Nguyên Giáp cả quyết với Hồ Chí Minh là, với một lực lượng nhất định quân viễn chinh có mặt ở Việt Nam, rõ ràng Bộ Tổng chỉ huy Pháp đang đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Quân Pháp sẽ bị dàn mỏng để dồn sức chiếm đóng và bình định các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, bằng cách thiết lập các vành đai đồn bốt và trại lính ở mọi nơi; hoặc ngược lại, tập trung binh lực thành các quả đấm thép để đánh tan quân chủ lực của Giáp. Trên thực tế, quân viễn chinh bị căng ra giữa hai nhiệm vụ này. Nếu không lập ra được một quân đội chiếm đóng cực kỳ đông đảo, đối phương sẽ sa lầy vào hình thái chiến tranh “không chiến tuyến”. Chiến lược này của Giáp được đúc kết thành phương châm: “Biến hậu phương địch thành tiền phương của ta”, cho cả hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Để triển khai hình thái chiến tranh không giới tuyến, Võ Nguyên Giáp hoạch định những chiến lược quan trọng khác. Như phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Mục tiêu của các đại đội độc lập của tướng Giáp là gây dựng phong trào chiến tranh du kích trên cả nước. Mỗi đại đội chỉ được phiên chế khoảng 100 người, để có thể đóng quân trong phạm vi một làng - một đơn vị dân cư chỉ đủ sức nuôi quân số như vậy (đồng thời bộ đội còn phải tự túc một phần và làm đồng áng giúp dân). Một quân số lớn hơn dễ làm bộc lộ lực lượng hơn, và có thể trở thành gánh nặng quá sức cho dân làng. Các đại đội có thể được phái vào sâu sau lưng địch còn có nhiệm vụ: vận động quần chúng (dân vận), bảo vệ “hành lang” trong địch hậu và hoạt động sản xuất của dân, địch vận, tiễu trừ gián điệp, phỉ, và phá bộ máy chính quyền địa phương của đối phương, hoặc biến chúng thành hình thái chính quyền hai mặt – tức là xây dựng Hạ tầng cơ sở cách mạng.
Pháo đài du kích chiến
Một trong những nhiệm vụ trung tâm của các tiểu đoàn độc lập là xây dựng các làng chiến đấu theo phương châm của tướng Giáp: “Mỗi thôn làng là một pháo đài”. Có nghĩa là mỗi làng trở thành một căn cứ du kích của chính dân làng. Với phong trào chiến tranh du kích lan rộng, việc dân làng bám đất của tổ tiên, vừa sản xuất, vừa đánh địch giữ làng đã thành một truyền thống kháng chiến. Chiến tranh du kích bằng các làng chiến đấu – pháo đài phản bác quan điểm (phương tây), cho rằng du kích chỉ thuần túy là cách đánh của một nhóm vũ trang, liên tục vận động tránh địch, và chỉ giao chiến khi gặp thuận lợi. Một làng chiến đấu bao gồm một khu vực tác chiến kết nối bằng các địa đạo, giao thông hào, hầm ngầm, các ụ chiến đấu, các bãi mìn, chông, cạm bẫy. Một đội dân quân bản địa được lập ra để cảnh giới nghiêm ngặt việc ra vào làng của người lạ. Các làng chiến đấu là nơi trú quân cho các đơn vị chủ lực kẹt trong gọng kìm càn quét lớn của đối phương. Nhờ sử dụng các hầm ngầm và giao thông hào kiên cố xây dựng sẵn, các thứ quân có thể ẩn núp tránh phi pháo của địch, và dù sử dụng một lượng hạn hẹp vũ khí, đạn dược, vẫn ngăn chặn bước tiến của bất cứ mũi tiến công nào.
Du kích vận động chiến
Phát triển phong trào chiến tranh du kích, các đại đội độc lập có thể tuyển mộ các chiến sĩ mới, vừa hoàn thành tốt quá trình huấn luyện, để tạo nên các đơn vị chủ lực mới, hoặc bộ đội địa phương. Về phương pháp luận, khi nhiều thứ quân được xây dựng trên cùng một địa bàn, sẽ dễ áp dụng nhiều cách đánh hơn. Các đại đội độc lập thường cơ động nhanh, và luôn sẵn sàng đánh những trận nhỏ ở những địa hình thuận lợi, nhất là khi được du kích địa phương hỗ trợ. Khi triển khai các trận đánh lớn, các đại đội độc lập cụm lại thành các đơn vị cỡ tiểu đoàn. Sau trận đánh, họ lại nhanh chóng phân tán thành các đại đội, như cũ. Các đại đội độc lập này lại tản vào rừng núi, hoặc hòa vào dân, khiến quân Pháp khó có cách bao vây, tiêu diệt cả một tiểu đoàn Việt Minh. Còn có các đơn vị cơ động cấp tiểu đoàn, hoạt động theo phương thức du kích vận động chiến được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh, và Bộ tư lệnh các quân khu, sử dụng vào các chiến dịch quy mô ngày càng tăng.
Phương thức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” phát huy hiệu quả đến mức tướng Giáp lại áp dụng nó trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, để gây dựng lại phong trào chiến tranh du kích, sau khi cơ sở hạ tầng cách mạng bị triệt phá nặng nề sau các đợt Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.
Đây là hiện thân cho mong muốn quân đội cách mạng sẽ “lai vô ảnh, khứ vô hình” trong chỉ thị thành lập quân đội 22 -12 – 1944 của Hồ Chí Minh. Còn với phương Tây, là khái niệm kẻ thù không thể xác định (the undetected enemy).
“Quả đấm thép” Đại đoàn
Ngưỡng cửa những năm 1950 là lúc Võ Nguyên Giáp nhận thấy ông có thể thành lập các đơn vị cỡ sư đoàn. Lực lượng vũ trang Việt Nam hình thành ba thứ quân rõ rệt, trong đó có dân quân, du kích hoạt động ở các làng xã; bộ đội địa phương trực thuộc các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, huyện; và bộ đội chủ lực – tiếp cận khái niệm các lực lượng tác chiến quy ước của phương Tây. Tới lúc này, Giáp đã sẵn sàng mở rộng mặt trận cho các chiến dịch tiến công quy mô, để đánh bại quân Pháp.
Binh chủng hợp thành
Tuy các thành tố của chiến tranh toàn dân đều quan trọng, Võ Nguyên Giáp hiểu rằng chỉ có sức mạnh quân đội tác chiến hiệp đồng mới buộc được quân đội chiến tranh quy ước của đối phương đầu hàng. Vì thế, để giành toàn thắng cho chiến tranh toàn dân, phải tạo dựng được các điều kiện làm suy giảm sức mạnh của quân đội đối phương, cho đến khi cán cân lực lượng ngả dần về phía quân đội chính quy của cách mạng. Cuộc chiến tranh dần dần mang tính cân sức (symmetry - cán cân lực lượng trên chiến trường giao động quanh điểm cân bằng), khi cả hai bên đều dùng các phương thức tác chiến quy ước. Đây chính là lúc Giáp tìm cách giáng đòn quyết định chiến trường (deathblow/đòn chí tử) vào quân đối phương, nhanh chóng giành thắng lợi cuối cùng.
Về phương pháp luận, đòn quyết định chiến trường cần được phối hợp với tầm vóc mới, ngày một trưởng thành của cuộc chiến tranh toàn dân. Trong trường hợp đòn quyết định chiến trường được tiến hành sai hướng và quá sớm, quân đội đối phương còn đủ sức phản công, đánh bại quân đội của phe cách mạng. Trong trường hợp này phần còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng phải cố xây dựng lại các đơn vị tác chiến quy ước, nếu không, phe cộng sản sẽ lâm vào một thế trận vô cùng bất lợi. Còn nếu đòn quyết định được tung ra đúng thời cơ, thì quân đội đối phương sẽ bị tiêu diệt; các thành tố còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam dốc toàn lực để thống nhất nước nhà, và Đảng trở thành lực lượng chính trị cầm quyền duy nhất.
Đã có hai đòn chí tử giành được thắng lợi quyết định: một ở Điện Biên Phủ năm 1954, một ở miền Nam Việt Nam năm 1975, đánh đổ chế độ Sài Gòn. Trong trường hợp thứ hai, đã truyền vào tâm thức của thế giới một biểu tượng kết thúc chiến tranh: các xe tăng đâm đổ cánh cổng Dinh Độc lập – lực lượng chiến tranh quy ước của phe cách mạng đánh quỵ lực lượng tác chiến quy ước là Quân đội Sài Gòn. Trên thực tế, phần còn lại (dân – chính - đảng) của mạng lưới hoạt động bí mật đã bộc lộ lực lượng khi Quân đội Sài Gòn vừa bị đánh tan, chiếm các công sở của bộ máy hành chính cũ, và tiếp quản chính quyền trên toàn miền Nam. “Chính phủ ngầm” đã công khai ra mắt thế giới, cùng toàn dân của một Việt Nam thống nhất.
Thừa kế không mong muốn
Chiến lược chiến tranh toàn dân có thể xem là “bản thiết kế mẫu” để đảm bảo tiến hành cuộc chiến không cân sức chống một siêu cường. Nó từng được soạn thảo chỉ dành cho Việt Nam. Tuy nhiên, thiết kế mẫu này, do những lắt léo của lịch sử, đã định dạng một loại hình chiến tranh mới bị chiếm dụng bởi những thể lực khác,. Lực lượng Mujahidin (phiến quân Afganistan) từng tạo lập cơ chế tương tự như “Hạ tầng cơ sở Việt cộng” (VCI) trong thời kỳ Liên Xô chiếm đóng Afganistan ở thập kỷ 80. Lý do là lúc đó Mỹ ủng hộ Mujahidin, cung cấp thông tin về mạng lưới hoạt động bí mật VCI cho (Mujahidin). Và trớ trêu thay, vì Liên Xô huấn luyện các binh lính của chính phủ Afganistan thân Liên Xô thời đó, và một số trong họ khi đào ngũ sang với Mujahidin đã mang theo các chiến thuật của ‘Việt cộng”. Một bộ phận của Mujahidin đã trở thành lực lượng Taliban hiện nay ở Afganistan. Taliban hiện dùng sơ đồ “chính phủ ngầm” (shadow government) để cai quản dân cư, và làm chỗ dựa cho các chiến lược đối đầu khác của họ. Tới nay, bản thiết kế mẫu “Hạ tầng cơ sở Việt Cộng” (VCI) đang bị chiếm dụng bởi một số nhóm cực đoan khác, trong số đó có cả Al-Qaeda…
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”
Tôi không bao giờ còn có đặc quyền ngồi bên con người tài đức vẹn toàn ấy - con người từng thay đổi thế giới. Với phương Tây, thật là khó chia sẻ điều này vì phần lớn cuộc đời Giáp gắn với một hệ tư tưởng mà người phương Tây chúng ta coi là lập dị. Nhưng tôi rất đỗi tự hào là đã được gặp tướng Giáp, và vô cùng vinh dự vì từng được “phụ đạo”, để nhận thức được vai trò vô cùng to lớn (crucial role) của Đại tướng trong sự nghiệp thống nhất Việt Nam, và trong xây dựng và triển khai Học thuyết chiến tranh toàn dân. Tôi chắc chắn rằng với một nhà tư tưởng vĩ đại như thế, dù thể xác đã không thể giúp ông vượt ngưỡng tuổi 102, trí não ông vào thời khắc từ trần vẫn hoàn toàn mẫn tiệp.
Lê Đỗ Huy (dịch)
Đối đầu không cân sức
Tôi rất kinh ngạc khi gặp tướng Giáp lần đầu. Khi đó, đã ở tuổi 90 nhưng ông còn dồi dào sức khỏe, trí tuệ cực kỳ minh mẫn, như ông đã từng như thế trong suốt cuộc đời cầm quân của mình. Chúng tôi nói chuyện cả giờ đồng hồ, và ông kể cho tôi về Đường Hồ Chí Minh. Tôi rất cảm kích. Trước đó chồng tôi và tôi đã đi 500 dặm dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh ở bên Lào, và vì thế ông Giáp đồng ý cho chúng tôi tới thăm ông. Tôi hỏi ông: “Phải chăng Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh là thành tố quan trọng nhất cho chiến thắng?” Tướng Giáp trả lời: “Đó là một trong nhiều thành tố quan trọng”. Phải mất một thập kỷ để tôi hiều Tướng Giáp muốn nói lên điều gì. Đã có nhiều những thành tố tựa như Đường Hồ Chí Minh, đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng chiến ở Việt Nam.
Những gì tôi học hỏi được ở Tướng Giáp, và các tướng lĩnh Việt Nam khác tôi được gặp, là để đánh Pháp (1945 - 1954) và đánh Mỹ (1959 – 1975), những người cách mạng đã sáng tạo ra hình thái chiến tranh mới: “chiến tranh toàn dân’. Hình thái chiến tranh nhân dân này đã trở thành một bản thiết kế mẫu (blueprint) để tiến hành cái được phương Tây gọi là “cuộc chiến tranh không cân sức” (asymmetricwar). Thuật ngữ “không cân sức” thể hiện thực tiễn cuộc đối đầu giữa hai phe sử dụng hai chiến lược đối lập: Hồ Chí Minh dùng chiến tranh toàn dân chống lại Pháp, Mỹ - hai thế lực chủ yếu dùng các lực lượng và phương tiện chiến tranh quy ước (conversational militaries)
Mục tiêu của chiến tranh toàn dân là động viên cả nước chống kẻ địch. Cuộc kháng chiến toàn dân vận hành bởi nguyên tắc hoạt động là cho dù từng người trong nhân dân yếu hơn sức mạnh của quân đội nhà nghề của đối phương, lực lượng nhân dân sẽ làm mất sức chiến đấu của quân đội viễn chinh hùng mạnh, và cuối cùng làm chúng kiệt sức. Hồ Chí Minh nói: “Có dân là có tất cả”. Điều then chốt để hiểu chiến tranh toàn dân là những người kháng chiến không thể đánh bại kẻ thù mà chỉ đơn thuần dùng sức mạnh quân sự.
Có 4 yếu tố hợp thành chiến tranh toàn dân: ba mặt trận tầm chiến lược (chính trị, tuyên truyền đặc biệt, quân sự), trên nền của Hạ tầng cơ sở cách mạng (Revolutionary Infrastructure, Mỹ gọi là VCI – Hạ tầng cơ sở Việt Cộng) – nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, chi phối tất cả các mặt trận trên. Hồ Chí Minh rõ ràng là nhân vật chính trên mặt trận đấu tranh chính trị tầm chiến lược. Động lực của mặt trận này chính là việc Hồ Chí Minh dành vai trò kiểm soát cao nhất cho Đảng, mà không dành riêng cho mình. Mặt trận tuyên truyền là nỗ lực của nhiều nhà cách mạng, bao gồm cả đóng góp của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo chuyên trách của mặt trận quân sự, vừa hoạch định chiến lược vừa tổ chức thực hiện.
‘Hạ tầng cơ sở Việt cộng”
Hồ Chí Minh đi đến quyết định chọn Võ Nguyên Giáp tổ chức lực lượng vũ trang chính quy là do, từ 1941, Võ Nguyên Giáp đã phát triển phần hệ trọng của Hạ tầng cơ sở cách mạng (“con đường Nam tiến” từ miền núi xuống đồng bằng Bắc Bộ), buổi đầu “bám rễ” vào những cơ sở còn thưa thớt. Hệ thống cơ sở cách mạng được Hồ Chí Minh khởi động từ giữa những năm 1920 – đó là một mạng lưới hoạt động bí mật của những người cách mạng, kết nối chủ yếu nhờ các giao thông viên. Tới đầu những năm đầu 1940 ấy, nó thăng hoa thành Hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam, một hệ thống ngày một tiến hóa phức tạp, tinh vi hơn. Hệ thống này gồm (1) các chi bộ Đảng hoạt động bí mật, liên kết bởi (2) các giao thông viên ngày một trở nên chuyên nghiệp vụ hơn, sử dụng các “hành lang” giao liên chằng chịt phức tạp, dựa vào (3) - các quần chúng cảm tình với cách mạng, đảm nhiệm cả nhiệm vụ bảo vệ các hành lang, khi cần. Trên các địa bàn mà hành lang ‘Nam tiến’ đi qua, đã hình thành một hình thái chính quyền ngầm (shadow government) có đủ các cơ cấu hành chính liên đới trực thuộc, làm cơ sở để phát triển thành nhà nước độc lập, một khi điều kiện cho phép.Khi Võ Nguyên Giáp huấn luyện và tìm cách vũ trang cho những “người bảo vệ” hành lang chiến lược, Hồ Chí Minh nhận thấy trong con người tầm thước Võ Nguyên Giáp triển vọng to lớn của nền quân sự Việt Nam. Ngày 22 -12 -1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang chính quy, với đơn vị đầu tiên là Đội Tuyên truyền Giải phóng quân, giao cho Võ Nguyên Giáp toàn quyền chỉ huy.
Chiến tranh không chiến tuyến
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất ((1945 – 1954), Giáp đã định hình những phương thức đấu tranh vũ trang mới, được phương Tây gọi là “chiến tranh không chiến tuyến” (war without boundaries). Hình thái kháng chiến mới này xuất phát từ một lần Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Võ Nguyên Giáp. 18 – 1 – 1946, phái Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp vào miền Nam, Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chú vào trong đó, nhiệm vụ trọng yếu là nghiên cứu, xem xét chiến trường, giúp các đồng chí Bộ chỉ huy mặt trận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ giữ vững tinh thần kháng chiến, phát động chiến tranh du kích, kìm chân quân Pháp, động viên đồng bào và chiến sĩ hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước”...
Có ba vấn đề quan trọng trong cuộc họp với Hồ Chí Minh khi Giáp từ miền Nam trở về: thứ nhẩt, các lực lượng cách mạng miền Nam dùng phương thức trận địa chiến (static warfare)để chặn quân Pháp, và đã thất bại. Võ Nguyên Giáp nhất trí với Hồ Chí Minh là cần phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Thứ hai, để tiếp tế cho cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ, một hành lang chiến lược
Mâu thuẫn của chiến tranh xâm lược
Điểm thứ ba có ý nghĩa then chốt ngay từ đầu kháng chiến. Võ Nguyên Giáp cả quyết với Hồ Chí Minh là, với một lực lượng nhất định quân viễn chinh có mặt ở Việt Nam, rõ ràng Bộ Tổng chỉ huy Pháp đang đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Quân Pháp sẽ bị dàn mỏng để dồn sức chiếm đóng và bình định các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, bằng cách thiết lập các vành đai đồn bốt và trại lính ở mọi nơi; hoặc ngược lại, tập trung binh lực thành các quả đấm thép để đánh tan quân chủ lực của Giáp. Trên thực tế, quân viễn chinh bị căng ra giữa hai nhiệm vụ này. Nếu không lập ra được một quân đội chiếm đóng cực kỳ đông đảo, đối phương sẽ sa lầy vào hình thái chiến tranh “không chiến tuyến”. Chiến lược này của Giáp được đúc kết thành phương châm: “Biến hậu phương địch thành tiền phương của ta”, cho cả hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Để triển khai hình thái chiến tranh không giới tuyến, Võ Nguyên Giáp hoạch định những chiến lược quan trọng khác. Như phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Mục tiêu của các đại đội độc lập của tướng Giáp là gây dựng phong trào chiến tranh du kích trên cả nước. Mỗi đại đội chỉ được phiên chế khoảng 100 người, để có thể đóng quân trong phạm vi một làng - một đơn vị dân cư chỉ đủ sức nuôi quân số như vậy (đồng thời bộ đội còn phải tự túc một phần và làm đồng áng giúp dân). Một quân số lớn hơn dễ làm bộc lộ lực lượng hơn, và có thể trở thành gánh nặng quá sức cho dân làng. Các đại đội có thể được phái vào sâu sau lưng địch còn có nhiệm vụ: vận động quần chúng (dân vận), bảo vệ “hành lang” trong địch hậu và hoạt động sản xuất của dân, địch vận, tiễu trừ gián điệp, phỉ, và phá bộ máy chính quyền địa phương của đối phương, hoặc biến chúng thành hình thái chính quyền hai mặt – tức là xây dựng Hạ tầng cơ sở cách mạng.
Pháo đài du kích chiến
Một trong những nhiệm vụ trung tâm của các tiểu đoàn độc lập là xây dựng các làng chiến đấu theo phương châm của tướng Giáp: “Mỗi thôn làng là một pháo đài”. Có nghĩa là mỗi làng trở thành một căn cứ du kích của chính dân làng. Với phong trào chiến tranh du kích lan rộng, việc dân làng bám đất của tổ tiên, vừa sản xuất, vừa đánh địch giữ làng đã thành một truyền thống kháng chiến. Chiến tranh du kích bằng các làng chiến đấu – pháo đài phản bác quan điểm (phương tây), cho rằng du kích chỉ thuần túy là cách đánh của một nhóm vũ trang, liên tục vận động tránh địch, và chỉ giao chiến khi gặp thuận lợi. Một làng chiến đấu bao gồm một khu vực tác chiến kết nối bằng các địa đạo, giao thông hào, hầm ngầm, các ụ chiến đấu, các bãi mìn, chông, cạm bẫy. Một đội dân quân bản địa được lập ra để cảnh giới nghiêm ngặt việc ra vào làng của người lạ. Các làng chiến đấu là nơi trú quân cho các đơn vị chủ lực kẹt trong gọng kìm càn quét lớn của đối phương. Nhờ sử dụng các hầm ngầm và giao thông hào kiên cố xây dựng sẵn, các thứ quân có thể ẩn núp tránh phi pháo của địch, và dù sử dụng một lượng hạn hẹp vũ khí, đạn dược, vẫn ngăn chặn bước tiến của bất cứ mũi tiến công nào.
Du kích vận động chiến
Phát triển phong trào chiến tranh du kích, các đại đội độc lập có thể tuyển mộ các chiến sĩ mới, vừa hoàn thành tốt quá trình huấn luyện, để tạo nên các đơn vị chủ lực mới, hoặc bộ đội địa phương. Về phương pháp luận, khi nhiều thứ quân được xây dựng trên cùng một địa bàn, sẽ dễ áp dụng nhiều cách đánh hơn. Các đại đội độc lập thường cơ động nhanh, và luôn sẵn sàng đánh những trận nhỏ ở những địa hình thuận lợi, nhất là khi được du kích địa phương hỗ trợ. Khi triển khai các trận đánh lớn, các đại đội độc lập cụm lại thành các đơn vị cỡ tiểu đoàn. Sau trận đánh, họ lại nhanh chóng phân tán thành các đại đội, như cũ. Các đại đội độc lập này lại tản vào rừng núi, hoặc hòa vào dân, khiến quân Pháp khó có cách bao vây, tiêu diệt cả một tiểu đoàn Việt Minh. Còn có các đơn vị cơ động cấp tiểu đoàn, hoạt động theo phương thức du kích vận động chiến được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh, và Bộ tư lệnh các quân khu, sử dụng vào các chiến dịch quy mô ngày càng tăng.
Phương thức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” phát huy hiệu quả đến mức tướng Giáp lại áp dụng nó trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, để gây dựng lại phong trào chiến tranh du kích, sau khi cơ sở hạ tầng cách mạng bị triệt phá nặng nề sau các đợt Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.
Đây là hiện thân cho mong muốn quân đội cách mạng sẽ “lai vô ảnh, khứ vô hình” trong chỉ thị thành lập quân đội 22 -12 – 1944 của Hồ Chí Minh. Còn với phương Tây, là khái niệm kẻ thù không thể xác định (the undetected enemy).
“Quả đấm thép” Đại đoàn
Ngưỡng cửa những năm 1950 là lúc Võ Nguyên Giáp nhận thấy ông có thể thành lập các đơn vị cỡ sư đoàn. Lực lượng vũ trang Việt Nam hình thành ba thứ quân rõ rệt, trong đó có dân quân, du kích hoạt động ở các làng xã; bộ đội địa phương trực thuộc các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, huyện; và bộ đội chủ lực – tiếp cận khái niệm các lực lượng tác chiến quy ước của phương Tây. Tới lúc này, Giáp đã sẵn sàng mở rộng mặt trận cho các chiến dịch tiến công quy mô, để đánh bại quân Pháp.
Binh chủng hợp thành
Tuy các thành tố của chiến tranh toàn dân đều quan trọng, Võ Nguyên Giáp hiểu rằng chỉ có sức mạnh quân đội tác chiến hiệp đồng mới buộc được quân đội chiến tranh quy ước của đối phương đầu hàng. Vì thế, để giành toàn thắng cho chiến tranh toàn dân, phải tạo dựng được các điều kiện làm suy giảm sức mạnh của quân đội đối phương, cho đến khi cán cân lực lượng ngả dần về phía quân đội chính quy của cách mạng. Cuộc chiến tranh dần dần mang tính cân sức (symmetry - cán cân lực lượng trên chiến trường giao động quanh điểm cân bằng), khi cả hai bên đều dùng các phương thức tác chiến quy ước. Đây chính là lúc Giáp tìm cách giáng đòn quyết định chiến trường (deathblow/đòn chí tử) vào quân đối phương, nhanh chóng giành thắng lợi cuối cùng.
Về phương pháp luận, đòn quyết định chiến trường cần được phối hợp với tầm vóc mới, ngày một trưởng thành của cuộc chiến tranh toàn dân. Trong trường hợp đòn quyết định chiến trường được tiến hành sai hướng và quá sớm, quân đội đối phương còn đủ sức phản công, đánh bại quân đội của phe cách mạng. Trong trường hợp này phần còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng phải cố xây dựng lại các đơn vị tác chiến quy ước, nếu không, phe cộng sản sẽ lâm vào một thế trận vô cùng bất lợi. Còn nếu đòn quyết định được tung ra đúng thời cơ, thì quân đội đối phương sẽ bị tiêu diệt; các thành tố còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam dốc toàn lực để thống nhất nước nhà, và Đảng trở thành lực lượng chính trị cầm quyền duy nhất.
Đã có hai đòn chí tử giành được thắng lợi quyết định: một ở Điện Biên Phủ năm 1954, một ở miền Nam Việt Nam năm 1975, đánh đổ chế độ Sài Gòn. Trong trường hợp thứ hai, đã truyền vào tâm thức của thế giới một biểu tượng kết thúc chiến tranh: các xe tăng đâm đổ cánh cổng Dinh Độc lập – lực lượng chiến tranh quy ước của phe cách mạng đánh quỵ lực lượng tác chiến quy ước là Quân đội Sài Gòn. Trên thực tế, phần còn lại (dân – chính - đảng) của mạng lưới hoạt động bí mật đã bộc lộ lực lượng khi Quân đội Sài Gòn vừa bị đánh tan, chiếm các công sở của bộ máy hành chính cũ, và tiếp quản chính quyền trên toàn miền Nam. “Chính phủ ngầm” đã công khai ra mắt thế giới, cùng toàn dân của một Việt Nam thống nhất.
Thừa kế không mong muốn
Chiến lược chiến tranh toàn dân có thể xem là “bản thiết kế mẫu” để đảm bảo tiến hành cuộc chiến không cân sức chống một siêu cường. Nó từng được soạn thảo chỉ dành cho Việt Nam. Tuy nhiên, thiết kế mẫu này, do những lắt léo của lịch sử, đã định dạng một loại hình chiến tranh mới bị chiếm dụng bởi những thể lực khác,. Lực lượng Mujahidin (phiến quân Afganistan) từng tạo lập cơ chế tương tự như “Hạ tầng cơ sở Việt cộng” (VCI) trong thời kỳ Liên Xô chiếm đóng Afganistan ở thập kỷ 80. Lý do là lúc đó Mỹ ủng hộ Mujahidin, cung cấp thông tin về mạng lưới hoạt động bí mật VCI cho (Mujahidin). Và trớ trêu thay, vì Liên Xô huấn luyện các binh lính của chính phủ Afganistan thân Liên Xô thời đó, và một số trong họ khi đào ngũ sang với Mujahidin đã mang theo các chiến thuật của ‘Việt cộng”. Một bộ phận của Mujahidin đã trở thành lực lượng Taliban hiện nay ở Afganistan. Taliban hiện dùng sơ đồ “chính phủ ngầm” (shadow government) để cai quản dân cư, và làm chỗ dựa cho các chiến lược đối đầu khác của họ. Tới nay, bản thiết kế mẫu “Hạ tầng cơ sở Việt Cộng” (VCI) đang bị chiếm dụng bởi một số nhóm cực đoan khác, trong số đó có cả Al-Qaeda…
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”
Tôi không bao giờ còn có đặc quyền ngồi bên con người tài đức vẹn toàn ấy - con người từng thay đổi thế giới. Với phương Tây, thật là khó chia sẻ điều này vì phần lớn cuộc đời Giáp gắn với một hệ tư tưởng mà người phương Tây chúng ta coi là lập dị. Nhưng tôi rất đỗi tự hào là đã được gặp tướng Giáp, và vô cùng vinh dự vì từng được “phụ đạo”, để nhận thức được vai trò vô cùng to lớn (crucial role) của Đại tướng trong sự nghiệp thống nhất Việt Nam, và trong xây dựng và triển khai Học thuyết chiến tranh toàn dân. Tôi chắc chắn rằng với một nhà tư tưởng vĩ đại như thế, dù thể xác đã không thể giúp ông vượt ngưỡng tuổi 102, trí não ông vào thời khắc từ trần vẫn hoàn toàn mẫn tiệp.
Lê Đỗ Huy (dịch)
Bảo đảm quyền công dân và quyền con người là bản chất của nhà nước Việt Nam
Công an nhân dân08:51:00 08/11/2013
Linh Nghĩa
Hiện nay Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam vẫn đang tiếp tục hoàn thiện chế độ xã hội, Nhà nước pháp quyền
và hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, vững chắc xã
hội XHCN, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền công dân và
quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và các quyền công dân (QCD), quyền con người (QCN) của nhân dân ta nằm trong trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc và sự phát triển của chế độ dân chủ trong thế kỷ XX. Có thể nói, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một thành quả của trào lưu cách mạng và tiến bộ của nhân loại trong thế kỷ XX. Còn nhớ, trước khi giành được độc lập, các lực lượng cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã đứng về phe Đồng minh chống phát xít. Ngay từ khi mới giành được độc lập (1945), Nhà nước ta đã thể hiện sự tôn trọng Liên hợp quốc và mong muốn có quan hệ hữu nghị bình đẳng với tất cả các quốc gia, dân tộc.
Trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới, chế độ dân chủ, cộng hòa, các QCD và QCN của nhân dân Việt Nam đã sớm được khẳng định như một thành quả của cách mạng. Tuy nhiên, việc bảo đảm QCD và QCN trong mỗi giai đoạn lịch sử có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, trong thời kỳ kháng chiến chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô và tính chất ác liệt chưa từng có nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được đặt lên hàng đầu. Điều này khiến cho việc bảo đảm các QCD và QCN phải chịu những hạn chế nào đó, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong thời kỳ xây dựng đất nước (từ khi thống nhất đến giữa thập niên 80), theo mô hình cũ về xã hội XHCN, trong đó: Về chính trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản; Về kinh tế, đó là kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với 2 thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể…, Nhà nước ta đã không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc tôn trọng và bảo đảm các QCD và QCN. Trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), việc bảo đảm QCD và QCN đã có những bước phát triển quan trọng.
QCD và QCN được khẳng định là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, hơn nữa còn được xem là bản chất, là thước đo của sự phát triển xã hội. Kế thừa các Cương lĩnh trước đây, Cương lĩnh thông qua Đại hội XI khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;… (Nhà nước ta là) Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…; Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội…”, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 70, 85, 87. Cương lĩnh còn nhấn mạnh: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các QCN và QCD; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 85.
Trong quan hệ quốc tế, đổi mới là thời kỳ Việt Nam mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực, trong đó có cơ chế quốc tế bảo vệ QCN.
Trên lĩnh vực QCN, chính sách đối ngoại của Việt Nam theo nguyên tắc: Nhất quán và tích cực tham gia cơ chế quốc tế về QCN. Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam luôn luôn tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về QCN và đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế trên lĩnh vực này. “Công ước chống tra tấn” đang được Quốc hội xem xét các điều kiện để tham gia vào thời gian tới. Để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà nước và công dân, Nhà nước ta đã nội luật hóa các công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia. Cho đến nay nhiều bộ luật, luật sửa đổi và luật mới được ban hành dựa trên các nguyên tắc: Tôn trọng con người, quyền con người. Có thể dẫn ra những luật sau: Luật Bảo vệ sức khỏe người dân (1989), Luật Giáo dục (1998), Luật Đất đai (2003), Luật Bảo hiểm xã hội (2006), Luật Phòng, chống HIV/AIDS (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng (2005), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Luật Bình đẳng giới (2011).
Việt Nam rất coi trọng cơ chế kiểm điểm phổ cập định kỳ – một cơ chế mới của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc. Năm 2009, Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện sớm Báo cáo kiểm điểm lần đầu (ngày 8/5/2009). Nhiều đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao Báo cáo của Việt Nam về tính khách quan, trung thực và những sáng tạo của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện của một quốc gia nghèo. Đồng thời trong dịp này Việt Nam cũng đã chấp thuận và thực hiện các khuyến nghị trong kiểm điểm đợt 1, nhằm tăng cường đối thoại theo cơ chế “Thủ tục đặc biệt”.
Từ tháng 7/2010 đến nay, Việt Nam đã đón 4 đại diện “Thủ tục đặc biệt” của Liên hợp quốc về các vấn đề: “Dân tộc thiểu số”, về “đói nghèo cùng cực và nhân quyền”, về “quyền được chăm sóc y tế”. Thời gian tới, Việt Nam sẽ đón các đại diện “Thủ tục đặc biệt” về “Quyền giáo dục”, “Quyền có lương thực”, “Quyền văn hóa” như đã cam kết trong các công ước quốc tế về QCN, đồng thời sẽ tiếp tục xem xét đón thêm một số đại diện “Thủ tục đặc biệt” khác.
Trong quan hệ song phương, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác, đối thoại với nhiều quốc gia trên lĩnh vực QCN. Việt Nam có cơ chế đối thoại nhân quyền hằng năm với nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, EU, Thụy Sỹ… Việt Nam cũng có những đóng góp thiết thực đáng kể để tăng cường hợp tác về nhân quyền trong ASEAN, đặc biệt trong quá trình thành lập và hoạt động của Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) và việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN, được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Phnôm Pênh, tháng 11-2012.
Bảo đảm QCN đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, trong đó có Việt Nam là một tất yếu. Từ mô hình cũ sang mô hình mới của chủ nghĩa xã hội là một bước phát triển quan trọng của QCN. Mặc dù vậy, hiện nay Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn đang tiếp tục hoàn thiện chế độ xã hội, Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, vững chắc xã hội XHCN, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCD và QCN. Chính vì vậy sau Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi bổ sung 2001). Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã có những sửa chữa, bổ sung quan trọng trên nhiều vấn đề: Từ chế độ chính trị, trách nhiệm của Đảng; đến thể chế phân công phối hợp có sự giám sát quyền lực của các nhánh quyền lực. Đặc biệt lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam, QCD và QCN không những được khẳng định mà còn được đặt ở vị trí quan trọng trong Hiến pháp. Trong văn bản Dự thảo sửa đổi, “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân” được quy định ở Chương II. So với Hiến pháp 1992 hiện hành, đây là một chương hoàn toàn mới. Trong chương này, các chuẩn mực quốc tế về QCN cũng như các QCN về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được liệt kê đầy đủ, kể cả những quyền mới như quyền về môi trường; về hiến mô, bộ phận cơ thể người; quyền hiến xác…
Không thể phủ nhận rằng, Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức như phân hóa giàu nghèo, những suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên các cấp như Hội nghị TW 4 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra. Tuy nhiên Việt Nam có quyền tin rằng, tôn trọng và bảo vệ các QCD và QCN của nhân dân là bản chất của xã hội và sẽ ngày càng được thực hiện tốt hơn cùng với việc hoàn thiện chế độ xã hội XHCN, và Nhà nước pháp quyền
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và các quyền công dân (QCD), quyền con người (QCN) của nhân dân ta nằm trong trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc và sự phát triển của chế độ dân chủ trong thế kỷ XX. Có thể nói, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một thành quả của trào lưu cách mạng và tiến bộ của nhân loại trong thế kỷ XX. Còn nhớ, trước khi giành được độc lập, các lực lượng cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã đứng về phe Đồng minh chống phát xít. Ngay từ khi mới giành được độc lập (1945), Nhà nước ta đã thể hiện sự tôn trọng Liên hợp quốc và mong muốn có quan hệ hữu nghị bình đẳng với tất cả các quốc gia, dân tộc.
Trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới, chế độ dân chủ, cộng hòa, các QCD và QCN của nhân dân Việt Nam đã sớm được khẳng định như một thành quả của cách mạng. Tuy nhiên, việc bảo đảm QCD và QCN trong mỗi giai đoạn lịch sử có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, trong thời kỳ kháng chiến chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô và tính chất ác liệt chưa từng có nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được đặt lên hàng đầu. Điều này khiến cho việc bảo đảm các QCD và QCN phải chịu những hạn chế nào đó, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong thời kỳ xây dựng đất nước (từ khi thống nhất đến giữa thập niên 80), theo mô hình cũ về xã hội XHCN, trong đó: Về chính trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản; Về kinh tế, đó là kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với 2 thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể…, Nhà nước ta đã không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc tôn trọng và bảo đảm các QCD và QCN. Trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), việc bảo đảm QCD và QCN đã có những bước phát triển quan trọng.
QCD và QCN được khẳng định là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, hơn nữa còn được xem là bản chất, là thước đo của sự phát triển xã hội. Kế thừa các Cương lĩnh trước đây, Cương lĩnh thông qua Đại hội XI khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;… (Nhà nước ta là) Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…; Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội…”, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 70, 85, 87. Cương lĩnh còn nhấn mạnh: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các QCN và QCD; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG. HN, 2011, tr 85.
Trong quan hệ quốc tế, đổi mới là thời kỳ Việt Nam mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực, trong đó có cơ chế quốc tế bảo vệ QCN.
Trên lĩnh vực QCN, chính sách đối ngoại của Việt Nam theo nguyên tắc: Nhất quán và tích cực tham gia cơ chế quốc tế về QCN. Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam luôn luôn tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về QCN và đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế trên lĩnh vực này. “Công ước chống tra tấn” đang được Quốc hội xem xét các điều kiện để tham gia vào thời gian tới. Để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà nước và công dân, Nhà nước ta đã nội luật hóa các công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia. Cho đến nay nhiều bộ luật, luật sửa đổi và luật mới được ban hành dựa trên các nguyên tắc: Tôn trọng con người, quyền con người. Có thể dẫn ra những luật sau: Luật Bảo vệ sức khỏe người dân (1989), Luật Giáo dục (1998), Luật Đất đai (2003), Luật Bảo hiểm xã hội (2006), Luật Phòng, chống HIV/AIDS (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng (2005), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007), Luật Bình đẳng giới (2011).
Việt Nam rất coi trọng cơ chế kiểm điểm phổ cập định kỳ – một cơ chế mới của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc. Năm 2009, Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện sớm Báo cáo kiểm điểm lần đầu (ngày 8/5/2009). Nhiều đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao Báo cáo của Việt Nam về tính khách quan, trung thực và những sáng tạo của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện của một quốc gia nghèo. Đồng thời trong dịp này Việt Nam cũng đã chấp thuận và thực hiện các khuyến nghị trong kiểm điểm đợt 1, nhằm tăng cường đối thoại theo cơ chế “Thủ tục đặc biệt”.
Từ tháng 7/2010 đến nay, Việt Nam đã đón 4 đại diện “Thủ tục đặc biệt” của Liên hợp quốc về các vấn đề: “Dân tộc thiểu số”, về “đói nghèo cùng cực và nhân quyền”, về “quyền được chăm sóc y tế”. Thời gian tới, Việt Nam sẽ đón các đại diện “Thủ tục đặc biệt” về “Quyền giáo dục”, “Quyền có lương thực”, “Quyền văn hóa” như đã cam kết trong các công ước quốc tế về QCN, đồng thời sẽ tiếp tục xem xét đón thêm một số đại diện “Thủ tục đặc biệt” khác.
Trong quan hệ song phương, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác, đối thoại với nhiều quốc gia trên lĩnh vực QCN. Việt Nam có cơ chế đối thoại nhân quyền hằng năm với nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, EU, Thụy Sỹ… Việt Nam cũng có những đóng góp thiết thực đáng kể để tăng cường hợp tác về nhân quyền trong ASEAN, đặc biệt trong quá trình thành lập và hoạt động của Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) và việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN, được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Phnôm Pênh, tháng 11-2012.
Bảo đảm QCN đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, trong đó có Việt Nam là một tất yếu. Từ mô hình cũ sang mô hình mới của chủ nghĩa xã hội là một bước phát triển quan trọng của QCN. Mặc dù vậy, hiện nay Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn đang tiếp tục hoàn thiện chế độ xã hội, Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, vững chắc xã hội XHCN, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCD và QCN. Chính vì vậy sau Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi bổ sung 2001). Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã có những sửa chữa, bổ sung quan trọng trên nhiều vấn đề: Từ chế độ chính trị, trách nhiệm của Đảng; đến thể chế phân công phối hợp có sự giám sát quyền lực của các nhánh quyền lực. Đặc biệt lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam, QCD và QCN không những được khẳng định mà còn được đặt ở vị trí quan trọng trong Hiến pháp. Trong văn bản Dự thảo sửa đổi, “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân” được quy định ở Chương II. So với Hiến pháp 1992 hiện hành, đây là một chương hoàn toàn mới. Trong chương này, các chuẩn mực quốc tế về QCN cũng như các QCN về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được liệt kê đầy đủ, kể cả những quyền mới như quyền về môi trường; về hiến mô, bộ phận cơ thể người; quyền hiến xác…
Không thể phủ nhận rằng, Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức như phân hóa giàu nghèo, những suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên các cấp như Hội nghị TW 4 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra. Tuy nhiên Việt Nam có quyền tin rằng, tôn trọng và bảo vệ các QCD và QCN của nhân dân là bản chất của xã hội và sẽ ngày càng được thực hiện tốt hơn cùng với việc hoàn thiện chế độ xã hội XHCN, và Nhà nước pháp quyền
L.N.
Tổng bí thư (3)
Lê Mai
“Họ chỉ biết huyênh hoang nói
những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng, về lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực
tế cụ thể nào cho ra hồn” – Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
“dưới ngòi bút dẫu có nghìn lời, trọng bụng không được một mẹo” – Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Cho đến nay, VN đã có ba nhân vật nắm
chức Tổng bí thư từng làm Chủ tịch Quốc hội, cũng tức là từ chỗ nắm “cơ
quan quyền lực cao nhất” trên danh nghĩa tiến đến nắm “cơ quan quyền lực
cao nhất” trên thực tế. Hơn một thập kỷ gần đây, liên tiếp có hai người
từ Chủ tịch Quốc hội lên làm Tổng bí thư. Hai người đó là ai, chúng ta
đều đã rõ.
Một người lúc nào tóc cũng chải rất mượt,
miệng cười rất tươi khoe hàm răng trắng bóng, chắc khỏe, mọi lời nói,
động tác, cử chỉ của ông ta chẳng khác gì một diễn viên điện ảnh trước
ống kính. Ông ta đã nghỉ hưu, nghe nói vừa tục huyền ở cái tuổi “xưa nay
hiếm”.
Đó là tình nhà, vậy còn nợ nước?
Có một câu chuyện rất kỳ lạ. Một hôm,
Tổng bí thư Hà Huy Tập nhận được một bức thư của vợ – lời kể của nhà
cách mạng lão thành Trần Văn Giàu trong những ngày bị cầm cố, biệt giam
với Tổng bí thư. Mọi người nhận thấy Tổng bí thư đột nhiên bị khủng
hoảng tinh thần, Ông đi đi lại lại trên sân giếng, nện gót chân, thỉnh
thoảng tay đấm vào không khí. Sáng, chiều lúc nào cũng như vậy. Uống bao
nhiêu thuốc ngủ cũng không ngủ được. Ông Giàu hỏi nhỏ nhiều lần, Tổng
bí thư mới nói là vợ đã quyết định ly dị để lấy người bạn thân của chính
ông. Từ đó, Tổng bí thư càng không ăn, không ngủ được, người đã gầy còm
càng gầy còm thêm. Phải đưa Tổng bí thư đi nhà thương Chợ Quán, không
thì ông chết mất.
Thế mà, không đầy một tuần sau, Tổng bí thư trở về khám, vui vẻ như thường. Ai chữa, uống thuốc gì mà lại hết bệnh nhanh vậy?
Số là Hà Huy Tập gặp Tạ Thu Thâu, lãnh tụ
đệ tứ tại nhà thương Chợ Quán. Hai lãnh tụ đệ tam và đệ tứ bất ngờ đụng
đầu nhau, họ tranh luận với nhau hết sức sôi nổi về cách mạng, về đất
nước, về đường lối. Cãi nhau rồi ăn cơm, ăn cơm rồi tiếp tục cãi nhau
kịch liệt, bất phân thắng bại. Đêm ấy, sau trận khẩu chiến, Tổng bí thư
ngủ một giấc tới sáng trưa, ăn cơm rồi lại ngủ. Bệnh mất ngủ của Tổng bí
thư dứt hẳn, khỏi phải uống thuốc gì hết! Nợ nước, tình nhà là như vậy
đó!
Trở lại với Tổng bí thư vừa có bài thuyết
giảng về tính “ưu việt của CNXH” tại Cuba gây chấn động dư luận thế
giới. Lịch sử đôi khi trở nên điên rồ – nếu có thể nói như vậy, vì một
vài sự kiện. Cuba, mảnh đất anh hùng bên kia bán cầu, lại diễn ra nhiều
sự kiện thật đặc biệt, làm cho những ai quan tâm tới lịch sử các Tổng bí
thư và thời cuộc không khỏi cảm thấy “lạ lùng”.
Thế nhưng, năm 1989, trong chuyến thăm
Cuba sau khi dự Quốc khánh Ấn Độ, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh không có
một bài giảng nào về tính “ưu việt của CNXH” ở đấy. Và thay vì trở về Hà
Nội theo kế hoạch, ông ra lệnh từ La Habana bay thẳng về Tân Sơn Nhất
để ngày hôm sau chủ trì một hội nghị bàn về xuất khẩu gạo tổ chức tại
Saigon. Điều này lúc bấy giờ không mấy ai nghĩ tới, vì chỉ một năm trước
thôi, cả nước có hơn 7 triệu người lâm vào nạn đói. Quả nhiên, năm ấy,
VN đã xuất khẩu gạo và đây là một trong những thành quả bước đầu của
công cuộc đổi mới mà thực chất là trả lại quyền làm ăn cho người dân.
Nguyễn Văn Linh nhận thấy, lối tư duy cũ
kỹ, giáo điều, lạc hậu là một lực cản rất lớn đối với công cuộc đổi mới.
Đánh giá về những người nhân danh CNXH, nhân danh lập trường cách
mạng…để ngăn cản công cuộc đổi mới, Tổng bí thư nói:
“Họ chỉ biết huyênh hoang nói những
điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng, về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực tế cụ
thể nào cho ra hồn”.
Câu nói rất hay, rất sâu sắc của Nguyễn
Văn Linh thực sự là một bài học cho các nhà lãnh đạo, càng nghe chúng ta
càng thấy rõ tính thời sự của nó. Rõ ràng, không phải cứ mang danh là
“nhà nho”, là Giáo sư hay Tiến sỹ mà có thể cao giọng thuyết giảng bất
chấp thực tế, bất chấp quy luật khách quan và tri thức của loài người đã
tích lũy hàng ngàn năm.
Và gần 2 ngàn năm trước, nhà chính trị, quân sự đại tài Khổng Minh Gia Cát Lượng cũng từng nói về bọn “hủ nho”:
“Nho cũng có nho quân tử, cũng có nho
tiểu nhân. Nho quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính ghét tà, chăm
những sự ơn khắp một đời, tiếng để đời sau. Còn như nho tiểu nhân thì
chỉ chăm một việc văn chương, khéo nghề nghiên bút; xuân xanh làm phú,
đầu bạc đọc kinh, dưới ngòi bút dẫu có nghìn lời, trọng bụng không được
một mẹo”.
Nếu người ta không nhắm mắt trước thực tế
cuộc sống, nếu chỉ cần “giải quyết được một công việc thực tế cụ thể
cho ra hồn” hoặc “dưới ngòi bút nghìn lời, trọng bụng được một mẹo” thì
đã là một sự may mắn cho đất nước và nhân dân rồi.
Nguyễn Văn Linh là một trong những tác
giả chính của công cuộc đổi mới và là người thực thi chính sách đổi mới
được coi là quốc sách vào năm 1986 – một sự “chọn mặt gửi vàng” của
ĐCSVN. Sau năm 1975, ông từng được giao làm Trưởng ban cải tạo công
thương nghiệp miền Nam. Là người gắn bó lâu năm với miền Nam kể từ thời
chống Mỹ, hiểu rõ nền kinh tế thị trường của Nam VN nên ông chủ trương
không cải tạo ồ ạt, nóng vội, xóa bỏ tất cả cùng một lúc. Lịch sử cho
thấy quan điểm đó của ông là đúng đắn. Nhưng có lẽ ông phải trả giá cho
quan điểm của mình bằng việc phải ra khỏi Bộ chính trị. Ông lại trở về
Nam và tiếp tục lãnh đạo Saigon – nay lấy tên là thành phố Hồ Chí Minh,
đạt được những thành tựu xuất sắc trong giai đoạn đất nước đầy khó khăn,
thử thách.
Trong tác phẩm Thành phố Hồ Chí Minh mười năm, ông khẳng định:
“Sở dĩ thành phố Hồ Chí Minh đạt được
những thành tựu xuất sắc như 10 năm qua là nhờ có tư duy độc lập, sáng
tạo, không đi theo vết mòn của những nếp suy nghĩ cũ kỹ”.
Và ông khuyến khích sự tranh luận:
“Hết sức tránh tình trạng một mình
độc quyền chân lý, còn mọi người thì chỉ có quyền chấp hành thụ động,
không dám tranh luận. Chúng ta phải tạo ra thói quen biết thảo luận và
tranh luận”.
Người tiền nhiệm của Nguyễn Văn Linh là
Trường Chinh, hai lần làm Tổng bí thư. Lần thứ nhất, từ năm 1941 đến năm
1956 (cho dù cuối năm 1945 đến năm 1951, ĐCS áp dụng chiến thuật “tự
giải tán”); lần thứ hai, sau khi Lê Duẩn mất, từ tháng 7.1986 đến tháng
12.1986 – một thời gian ngắn nhưng đầy ý nghĩa.
Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng:
“Người ta ai cũng có phong cách riêng.
Phong cách của Trường Chinh là kín đáo, nói năng cân nhắc, từ tốn, lắng
nghe người khác rồi mới nói. Với Bác Hồ, bao giờ ông cũng nhường lời,
khi có ý kiến khác, ông trình bày đầy đủ, một cách lễ phép”. Về điểm
này, ông khác với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ.
Sự trang nghiêm và phong thái lãnh tụ của
Trường Chinh làm Võ Văn Kiệt, mặc dù được coi là người có “gan to” cũng
cảm thấy “ớn” khi Trường Chinh tới dự một buổi biểu diễn văn nghệ ở
Việt Bắc. Võ Văn Kiệt tham gia tiết mục diễn kịch, đóng vai địa chủ.
Trước khi bắt đầu, ông xung phong làm một màn múa lân cho nóng người để
lấy can đảm. Hết vở kịch, nhiều người khen và Trường Chinh đến bắt tay
ông. “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đấy là địa chủ Nam Bộ chứ không giống
địa chủ Bắc Bộ”. Ông Kiệt rất thán phục. Lại một lần khác, Trường Chinh
lưu ý Võ Văn Kiệt một nhân vật đang sống tại Saigon, ông Kiệt lấy sổ
tay và theo thói quen, ghi là “Nguyển” chứ không phải “Nguyễn”. Trường
Chinh ngó qua và bảo: “Đồng chí viết lộn rồi, dấu ngã chứ không phải dấu
hỏi”. Ông Kiệt lại càng thán phục sự cẩn thận của Trường Chinh.
Sau vụ đổi tiền năm 1985, Võ Văn Kiệt gửi
thư cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, nhận định về những nguyên nhân
thất bại của chính sách ấy. Trường Chinh xem thư và nói, Sáu Dân đúng là
con người có trí tuệ. Trước đó, Trường Chinh cũng đã gửi thư cho Bộ
chính trị không tán thành đổi tiền. Bộ chính trị trả lời, “chúng ta đang
cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được nữa”. Thế là, với tư cách Chủ
tịch nước, Trường Chinh lại phải cầm bút ký lệnh đổi tiền.
Trường Chinh là nhà lý luận hàng đầu của
ĐCSVN. Nói về lý luận, thế hệ sau này không thể so sánh với ông. Các tác
phẩm nổi tiếng của ông như: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Chủ nghĩa Mác và văn hóa VN, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân VN…đã
giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng VN. Trường
Chinh được coi là con người thận trọng, có phần cứng nhắc, thậm chí “bảo
thủ”. Thế mà cuối đời, Trường Chinh lại dám rẽ ngoặt trong tư duy, là
một trong những người chủ chốt khởi xướng công cuộc đổi mới, cứu vãn nền
kinh tế VN bên bờ vực của sự sụp đổ.
Tất nhiên, chúng ta thấy, chiến thắng sự
bảo thủ với lối mòn suy nghĩ cũ kỹ, lạc hậu là điều không hề dễ dàng –
nhất là khi danh vọng, quyền lợi của người ta gắn chặt vào đó. Họ sợ
hiện thực phũ phàng nên nhắm mắt làm ngơ, họ thiếu hiểu biết cả về lý
luận và thực tiễn, họ ngại tranh luận, ngại cuộc đua bình đẳng mà tiếng
nói của trí tuệ, của trình độ mới quyết định người thắng chứ không phải ở
địa vị, chức tước. Tổng bí thư Trường Chinh chia tay với lối mòn một
cách dứt khoát, bởi ông có đủ tri thức, đủ lý luận, đủ uy tín và dũng
khí. Và, điều chủ yếu phải chăng là Tổng bí thư đã đặt lợi ích dân tộc,
lợi ích đất nước VN lên trên hết?
Đã có lúc (tháng 4.1986) ông bị phê phán
gay gắt, nào là “chạy theo chủ nghĩa xã hội thị trường, bắt chước các
quan điểm của nước ngoài” và bị chụp mũ “chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh”.
Ông đã bình tĩnh phản bác: “Điều tuyệt đối tránh là không vì những ý
kiến khác nhau mà dẫn đến chia rẽ, bè phái, không vì thấy người khác
trái ý mình thì khó chịu, rồi truy chụp quy kết về chính trị. Điều đó
chỉ có hại chứ không giúp gì cho sự đoàn kết. Chúng ta đã cùng làm việc
với nhau hơn nửa thế kỷ, ngọt bùi, đắng cay đều đã nếm qua, còn gì không
hiểu nhau nữa mà phải dùng những lời lẽ nặng nề như vậy”. Cuộc đấu
tranh nội bộ không phải bình thường – Võ Nguyên Giáp.
Lịch sử phát triển loài người cho thấy,
“tương lai là bất định, khám phá tương lai là cả một chuỗi hoạt động
không bao giờ ngừng. Loài người sáng tạo nên lý thuyết để có thể hiểu
tương lai ở một thời điểm nào đó, rồi lý thuyết ấy nó lạc hậu đi. Phải
đột phá để nâng nó lên một trình độ mới, hoặc tìm ra một lý thuyết thay
đổi nó” (Đặng Quốc Bảo). Chỉ có như thế mới thích ứng được với
sự thay đổi cực kỳ nhanh chóng của thế giới hiện đại. Do vậy, những tư
tưởng giáo điều, bảo thủ là lực cản lớn, không thể đưa đất nước tiến
lên.
“Đổi mới hay là chết”, “đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại” (Trường Chinh), “đổi mới để tiến lên” (Nguyễn Văn Linh).
Không cần cao giọng thuyết giảng, phải chăng những tư tưởng đổi mới của
hai Tổng bí thư càng có ý nghĩa với đất nước hơn bao giờ hết.
Tổng bí thư (4)
Lê Mai
Trong cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội,
tác giả Tân Tử Lăng có dẫn hồi ức của Liuba, cháu gái Leonid Ilich
Brezhnev, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô nói với người em trai: “Chủ nghĩa cộng
sản là cái quái gì, đều là những lời nói trống rỗng lừa bịp dân chúng”.
Ta có thể nghĩ gì về nhận xét đó của Tổng
bí thư? Nếu như ngay chính bản thân Tổng bí thư cũng không tin tưởng gì
ở cái CNCS nữa, mà vẫn tiếp tục lấy lý luận ấy làm ý thức hệ chính trị
để lừa gạt dân chúng, chẳng lẽ ông ta không sợ bị lịch sử lên án?
Vào tháng 4.1943, Brezhnev được bổ nhiệm
làm Chủ nhiệm chính trị Tập đoàn quân 18, bấy giờ đang tác chiến ở vùng
Đất Nhỏ – một căn cứ bàn đạp rất quan trọng mà Bộ Tổng tư lệnh tối cao
Liên Xô ra lệnh phải giữ bằng bất cứ giá nào. Trước đó, Brezhnev là Bí
thư tỉnh ủy Đnheprôpêtrốpxcơ. Khi chiến tranh với Đức nổ ra, ông lập tức
xin ra mặt trận và quãng đời chiến đấu của ông, có thể nói, gắn liền
với Tập đoàn quân 18.
Ngày 18.4.1943, Nguyên soái Zhukov, đại
diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã bay tới Bộ tham mưu mặt
trận Bắc Capcadơ. Ngay hôm ấy, cùng với Bộ trưởng dân ủy Hải quân và Tư
lệnh không quân, Nguyên soái đến Bộ tham mưu Tập đoàn quân 18. Đại tá
Brezhnev được thông báo là Nguyên soái Zhukov muốn nói chuyện với ông ta
chứ không phải là một mệnh lệnh bắt buộc thực hiện. Song, Brezhnev nghĩ
rằng, ý kiến của mình đã trao đổi với Tư lệnh Tập đoàn quân và Ủy viên
hội đồng quân sự rồi, và chắc rằng họ sẽ báo cáo với Nguyên soái. Vì
vậy, tốt hơn hết là mình không nên rời căn cứ bàn đạp trong lúc gay go
này. Đó là cơ hội duy nhất có thể gặp Nguyên soái Zhukov trong thời kỳ
chiến tranh của Brezhnev.
Hơn hai mươi năm sau, Khrushchev bị hạ bệ
bởi âm mưu của nhóm Brezhnev. Từ nhà nghỉ trở về, đột nhiên Khrushchev
được nhận luôn quyết định nghỉ hưu. Cũng chính thời gian này, Zhukov
đang bị thất sủng. Thế là đám mây đen lơ lửng trên đầu của Zhukov bỗng
nhiên tan biến đi, vì Brezhnev và ban lãnh đạo mới muốn làm tăng ảnh
hưởng bằng cách đề cao Zhukov – người mà toàn thể dân chúng đều ca ngợi.
Dưới thời Brezhnev, dù sao người anh hùng đánh thắng quân phát xít cũng
dễ thở hơn. Thậm chí, sau này ông còn được xuất bản hồi ký nổi tiếng
của mình: Nhớ lại và suy nghĩ.
Tháng 4.1966, Brezhnev lên làm Tổng bí
thư ĐCS Liên Xô. Các nhà quan sát chính trị phát hiện ra một điểm thú
vị. Ấy là ở Liên Xô, các nhân vật lên nắm quyền lãnh đạo thường theo một
trình tự nhất định: người hói rồi đến người rậm râu tóc. Theo đúng quy
luật ấy, Khrushchev đầu trọc nhẵn thín được thay bằng Brezhnev – người
có bờm tóc và cặp lông mày rậm rạp.
Khác với Khrushchev, Brezhnev là con
người mềm mỏng, không ưa mạo hiểm, không muốn tình hình căng thẳng. Ông
ta được coi là người vô hại, không có lõi thép bên trong như một người
cộng sản cần phải có. Ông ta rất mau nước mắt, có thể rơi nước mắt khi
xem phim về các con vật và chính ông ta đã bật khóc như một đứa trẻ khi
người ta báo cho biết là âm mưu hạ bệ Khrushchev có thể bị thất bại.
Tuy nhiên, Tổng bí thư trông không như
một ông giáo – lại càng không như một ông giáo làng nhu mỳ. Ông ta cũng
không phải là một nhà lý luận, dù là lý luận giáo điều. Dù sao, ông ta
cũng chứng tỏ được tài năng và thành tích của mình. Ông có những cống
hiến trong thời kỳ chiến tranh. Sau chiến tranh, ông có nhiều đóng góp
trong việc khôi phục sản xuất, phụ trách công nghiệp quốc phòng và công
nghiệp vũ trụ của Liên Xô. Và, con người đã hạ bệ được Khrushchev thì
hẳn nhiên người đó phải có bản lĩnh cao cường chứ?
Đạo đức và cách sống của Tổng bí thư lúc
đầu được nhân dân ủng hộ. Ông không lợi dụng chức vụ, say mê bóng đá và
khúc côn cầu, say mê săn bắn và phóng xe hơi với tốc độ cao. Qua kênh bí
mật, Tổng bí thư đã gợi ý rất khéo để Nixon tặng một chiếc xe hơi đời
mới, hiệu “Continental” nhân chuyến thăm Mỹ của ông. Tại Trại Đavid,
Tổng bí thư nóng lòng muốn thử chiếc xe mới sản xuất, máy rất khỏe. Ông
muốn Nixon ngồi bên cạnh để biểu diễn nghệ thuật lái xe của mình. Tổng
bí thư lái xe quả thật không tồi, song ông có vẻ sốt ruột và dận ga thật
mạnh, chiếc xe chồm lên. Nixon suýt nữa thì bị đập đầu vào kính phía
trước và rất hoảng hốt khi xe chạy được khoảng một trăm mét phải hãm
phanh đột ngột vì đến chỗ rẽ. Tuy rất kinh hãi, Nixon vẫn cố trấn tĩnh
và nói một cách ngoại giao: “Thưa Tổng bí thư, Ngài lái xe giỏi lắm”.
Tổng bí thư lại tưởng lời khen đó là thật.
Kissinger cũng được một phen hốt hoảng
khi ngồi xe do Tổng bí thư lái, mặc dù trên bàn đàm phán với Brezhnev,
ông ta rất sắc sảo. Sau khi hội đàm (tại Mátxcơva), Tổng bí thư rủ
Kissinger đi chơi bằng ô tô trong vùng nông thôn có phong cảnh đẹp. Tổng
bí thư tự lái xe với tốc độ rất nhanh, trên con đường quanh co và hẹp,
bỏ xa xe bảo vệ chạy theo phía sau. Chuyến đi làm Kissinger hết sức kinh
hãi. Ngay sau đó lại một cuộc dạo chơi tốc độ nữa trên một chiếc tàu ở
thượng nguồn sông Vônga. Nó thực sự làm Kissinger hoàn toàn bị choáng và
có lúc đã đánh mất tính hài hước vốn có của ông ta.
Thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh
rất căng thẳng. Xử lý mối quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ có ý nghĩa rất lớn
trong việc tránh cho loài người khỏi thảm họa bị hủy diệt. Brezhnev dần
dần đã nắm chắc vấn đề đối ngoại và là người có tiếng nói quyết định
trong việc thực thi chính sách đối ngoại của Liên Xô.
Đáp lại chuyến đi đầy ấn tượng của Nixon
đến Bắc Kinh vào tháng 2.1972, Liên Xô muốn mời Nixon đến Mátxcơva. Bộ
chính trị đã có cuộc họp rất sôi nổi, chủ để thảo luận là liệu có nên
đón Nixon hay không, trong khi cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa đang diễn ra ở
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – một đồng minh thân cận của Mátxcơva. Bản
thân Tổng bí thư rất muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên với Nixon, nó làm tăng uy
tín của ông ta, song ông ta chưa tỏ thái độ. Phái quân sự do Grescô
đứng đầu và Pốtgoócnưu phản đối cuộc gặp. Nhà tư tưởng chủ chốt Suslốp
thì do dự. Côxưghin và Grômưcô tán thành.
Rốt cuộc, lập luận sau đây đã thắng thế:
Hà Nội tuy là đồng minh về tư tưởng, nhưng không chịu cho Liên Xô biết
kế hoạch hiện nay và sau này đối với Đông Nam Á và Mỹ như thế nào, mặc
dù Liên Xô vẫn dành cho họ sự giúp đỡ to lớn về kinh tế và quân sự. Kết
quả là VN đã nhiều lần đưa Liên Xô vào tình thế khó khăn bằng việc tiến
hành hết hành động bất ngờ này đến hành động bất ngờ khác, mà không hề
tính tới điều đó sẽ ảnh hưởng quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ như thế nào. Về
cuộc đàm phán giữa VN và Mỹ, Liên Xô nắm được qua người Mỹ nhiều hơn là
qua VN. Không thể vì VN mà làm hỏng quan hệ của Liên Xô và Mỹ được – Bộ
chính trị quyết định dứt khoát đón Nixon.
Sau đó, Tổng bí thư thăm Mỹ đáp lễ. Một
khoảnh khắc lịch sử, khi trong phòng tiệc có tiếng hô vang và yêu cầu
mọi người đứng dậy: “Thưa quý ông, quý bà, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô đã
ra”. Lần đầu tiên, câu nói đó được vang lên dưới vòm của Nhà trắng. Lúc
đó, liệu Tổng bí thư có biết rằng, chưa đầy hai chục năm sau, sẽ không
còn đảng cầm quyền đó nữa và Nhà nước Liên Xô cũng chấm dứt sự tồn tại.
Đêm trước khi rời nước Mỹ, Tổng bí thư
mới chợt nhớ ra rằng, Bộ chính trị giao cho ông phải cố gắng thuyết phục
Nixon bán cho Liên Xô vài triệu tấn ngũ cốc. Song, các cuộc gặp chính
thức với Nixon đã hết và bây giờ đã là ba giờ sáng. Làm sao để hoàn
thành nhiệm vụ Bộ chính trị giao? Tổng bí thư bèn phái Ngoại trưởng
Grômưcô cấp tốc gặp Kissinger, rằng đây là yêu cầu riêng của Brezhnev.
Kissinger không thể hứa, song nói với Grômưcô sáng sớm mai sẽ báo cáo
Tổng thống và tin rằng Nixon sẽ chấp thuận. Với kết quả đó, Tổng bí thư
lên đường về Mátxcơva.
Một ngày năm 1972, người dân Liên Xô dán
mắt vào tivi đang truyền đi hình ảnh Brezhnev – cha đang tặng huân
chương cho Brezhnev – con, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương (Bộ Xây dựng?)
nhân dịp con trai tròn 40 tuổi. Người cha rơm rớm nước mắt vì xúc động,
còn người con có vẻ không được tự nhiên lắm. Chưa hết, Tổng bí thư còn
ký quyết định phong con rể lên Thiếu tướng, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội
vụ. Thật là quá thể – người dân Liên Xô bàn tán.
Con gái Tổng bí thư thường làm cho những
người xung quanh sửng sốt vì số kim cương mà cô ta đeo mỗi khi xuất hiện
trước công chúng. Con trai, con rể, cháu của Tổng bí thư đi trên những
chiếc xe hơi sang trọng trong bộ sưu tập của ông chủ gia đình. Bộ sưu
tập đó có cả Mercedes, Roll – Royce và những mác xe hơi ngoại khác vừa
xuất hiện ở Mátxcơva. Sau khi Tổng bí thư mất, còn 40 chiếc xe hơi trong
bộ sưu tập đó.
Những năm cuối đời, việc Tổng bí thư
nghiện thuốc ngủ đã trở thành tai họa thực sự cho Đảng và Nhà nước. Sau
một thời gian sử dụng thuốc, ông rơi vào trạng thái trì trệ. Tổng bí thư
liên tục yêu cầu các bác sỹ tăng liều và họ đã phải lừa ông bằng những
viên thuốc giống hệt về kích cỡ và màu sắc, không có chất độc hại, song,
như một chú mèo tinh quái, ông vẫn theo đuổi những viên thuốc thật kia.
Đã thế, Tổng bí thư lại muốn uống thuốc bằng rượu vodka nữa!
Những người xung quanh Tổng bí thư đều
nhận thấy trạng thái nửa mê, nửa tỉnh của ông. Song, họ không lấy làm lo
ngại, họ chỉ cần ông như một hình tượng, tô vẽ và thổi phồng uy tín của
ông.
Nhìn rộng ra, đất nước Liên Xô cũng ở
trong tình trạng tương tự. Điều đó giải thích sự sụp đổ không thể nào
tránh khỏi của Nhà nước XHCN một thời hùng mạnh. Lịch sử các Tổng bí thư
tiếp theo càng chứng tỏ điều đó.
(96 năm CM Tháng Mười).
Các pháp quan, hãy nhảy xuống sông đi
Blog Đào Tuấn08-11-2013
Trong luật Hamurabi, nếu buộc tội người khác mà không đưa ra được bằng chứng, người ta sẽ phân xử bằng cách “Ra bờ sông và lao mình xuống dòng sông đó”.
“Nếu kẻ nào đi buộc tội người khác và đã thề trước thần linh về việc đó mà không đưa ra được bằng chứng xác đáng về sự buộc tội của mình thì kẻ đó sẽ phải chết”. Đây là điều luật đầu tiên trong bộ luật Hamurabi, được ban hành vào khoảng năm 1760 trước công nguyên ở Babylon cổ đại.
Nói một cách dễ hiểu: Nghĩa vụ chứng minh tội phạm phải là của người buộc tội, chứ người bị buộc tội không cần phải chứng minh mình vô tội. Quy định văn minh này, được gọi là nguyên tắc suy đoán vô tội, về sau xuất hiện trong tất cả các bộ luật hình sự và là nguyên tắc cơ bản nhất của hình luật.
Nhưng thưa đức vua Hamurabi, cái nguyên tắc văn minh mà ngài đã đề ra từ gần 4.000 năm trước, giờ đây, đang bị xem như cỏ rác trong vụ án oan ở nước Việt thế kỷ 21.
Trong vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, một trong những lập luận mà các cơ quan tư pháp Bắc Giang đã buộc tội giết người đối với ông là “Hơn 20 phút đồng hồ, từ 19g đến 19g25, Chấn không chứng minh được mình làm gì, đi đâu và với ai?”. Đây ngẫu nhiên là khoảng thời gian xảy ra án mạng. Và dù, trong phần tranh tụng, luật sư của ông Chấn đã trình Bảng kê điện tử, tự động thanh toán tiền điện thoại do Bưu điện cung cấp, thể hiện trong khoảng thời gian xảy ra án mạng, từ số máy thuê bao nhà Nguyễn Thanh Chấn có cuộc gọi đi cho máy mang số 566… với thời lượng từ 19h19’51″ đến 19h20’31″. Nhưng bằng chứng ngoại phạm này đã bị Tòa đã bác thẳng thừng với lí do “cho dù tính khách quan và khoa học của bảng kê điện tử kể trên là không ai có thể phản bác hoặc phủ nhận về cuộc đàm thoại đã được ghi nhận, tuy nhiên tài liệu này không thể là bằng chứng khẳng định vào thời điểm thực hiện cuộc gọi Nguyễn Thanh Chấn là người bấm máy. Còn lời khai của bà Nhâm, ông Thực về việc Chấn bấm máy cũng không có tài liệu nào khác hơn để kiểm chứng”.
Và thế là buộc tội giết người. Và thế là tù chung thân. Và thế là khi người ta không chứng minh được mình đang làm, với ai gì trùng thời điểm xảy ra án mạng, lập tức người ta có thể bị buộc tội giết người.
Tất nhiên, phải nói đến tình tiết đáng chú ý nhất trong vụ án này là dù oan ức, dù không hề giết người, nhưng anh Chấn, giờ đây có lẽ phải gọi là ông Chấn, đã “tự nguyện” đến cơ quan công an, đã ký vào bản nhận tội, dù trong cả hai phiên tòa sau đó, ông đều kêu oan.
Vì sao người đàn ông vô tội đó lại ký nhận tội giết người để mang nhục, để suýt lãnh án dựa cột?
ĐBQH, luật sư Trương Trọng Nghĩa, bên hành lang nghị trường đã bóng gió đặt ra giả thuyết “Đôi khi dùng nhục hình bằng cách dùng tù trị tù thì rất khó phát hiện”.
Phải có gì đó ghê gớm hơn cả bản án chung thân mới khiến một người ngay tự nhận về mình tội ác ghê rợn. Và hóa ra, ép cung, nhục hình không phải là chuyện ở trên cung trăng.
Có người gọi đây là một bản án nhục nhã phải được ghi vào lịch sử ngành tư pháp Việt Nam. Có người đã nói về sự bồi thường. Nhưng bằng cái gì và bao nhiêu thì đủ để bồi thường cho nỗi oan khuất của một người từng đập đầu vào tường để chết, nhưng không thể chết vì quá oan ức.
Trong luật Hamurabi, nếu buộc tội người khác mà không đưa ra được bằng chứng, người ta sẽ phân xử bằng cách “Ra bờ sông và lao mình xuống dòng sông đó”.
Phân định sự thật bằng cách lặn nước có thể khiến chúng ta cảm thấy buồn cười về sự ngô nghê. Nhưng nỗi nhục thà được gột rửa bằng một sự ngô nghê chứ không thể văn minh bằng cách lạnh lùng thảy ra hai chữ xin lỗi và bồi hoàn bằng tiền thuế do người khác đóng.
———————–
Người đưa tinNhiều điều tra viên trong vụ ông Chấn đã được thăng chức
08.11.2013 | 11:52 AM
Trong vụ án của ông Nguyễn Thanh Chấn, hậu quả trực tiếp đầu tiên
thuộc về công tác điều tra. Chưa bàn đến chuyện các điều tra viên bị tố
dùng nhục hình bức cung, mớm cung, dụ cung với bị can mà ngay trong khâu
thu thập chứng cứ, đánh giá tài liệu, giám định dấu vết… cũng đã có quá
nhiều sai sót. Theo lãnh đạo công an tỉnh Bắc Giang cho biết, có 7 cán
bộ điều tra trong vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn, sau 10 năm ngoài 1 điều
tra viên bị chết do tai nạn giao thông, một số người đã giữ chức vụ cao
trong ngành. Theo đại tá Nguyễn Văn Chức, chánh Văn phòng Công an tỉnh
Bắc Giang cho biết, công an tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo tổ làm án, cơ quan
cảnh sát điều tra hiện nay phải báo cáo xem lại toàn bộ hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thanh Chấn ngày ra trại.
Hiện đơn vị cũng đã triệu tập các điều tra viên (trừ một điều tra
viên đã mất) từng tham gia điều ttra vụ án của ông Chấn cách đây 10 năm
để tiến hành xác minh, điều tra làm rõ sự việc.Theo nguồn tin của PV Nguoiduatin.vn, danh sách cụ thể của các điều tra viên vụ giết người làng Me năm 2003 gồm:
Ông Thái Xuân Dũng: Nguyên chánh thanh tra Công an tỉnh, đeo hàm Đại tá, từng là phó thủ trưởng cơ quan điều tra, phó phòng Cảnh sát điều tra, ông là người ký kết luận điều tra vụ án, và chuyển hồ sơ lên Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố ông Nguyễn Thanh Chấn.
Ông Lê Văn Dũng: Nguyên trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, đã được phong hàm Đại tá, cách đây 10 năm là phó phòng Cảnh sát điều tra trực tiếp chỉ huy điều tra vụ án Nguyễn Thanh Chấn.
Ông Nguyễn Đình Dung: Nguyên phó trưởng Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, là điều tra viên chính của vụ án Nguyễn Thanh Chấn cách đây 10 năm
Ông Trần Nhật Duật: Hiện tại là phó trưởng Công an huyện Việt Yên, Bắc giang, Từng là điều tra viên
Ông Đào Văn Biên: Nguyên phó trưởng phòng PC45, là điều tra viên vụ ông Nguyễn Thanh Chấn.
Ông Nguyễn Trung Thành: Nguyên phó trưởng phòng Công tác Đảng, công tác quần chúng, là điều tra viên, trực tiếp hỏi cung Nguyễn Thanh Chấn.
Một điều tra viên tên là Tân, đã mất trong một vụ tai nạn.
Buổi sáng đầu tiên của anh Chấn sau khi ra trại.
Trước đó, ngày 6/11, Hội đồng tái thẩm gồm nhiều thẩm phán có kinh
nghiệm của TAND Tối cao đồng ý với kháng nghị của viện trưởng VKSND Tối
cao Nguyễn Hòa Bình. Hai bản án tuyên ông Chấn tù chung thân về tội Giết
người (đã có hiệu lực) bị tuyên hủy để điều tra lại vụ án.Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Quyết định của Hội đồng tái thẩm có hiệu lực ngay.
Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng tái thẩm sẽ gửi quyết định tái thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan công an, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Trong thời hạn 15 ngày, hồ sơ vụ án sẽ được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để điều tra lại theo thủ tục chung.
Như báo Nguoiduatin.vn đã có bài phản ánh về vụ việc cách đây hơn 10 năm, ngày 15/8/2003, tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã xảy ra vụ án giết người, nạn nhân là chị Nguyễn Thị Hoan. Theo kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nạn nhân bị nhiều vết thương ở đầu, mặt, bụng làm đứt động mạch, chảy máu và mất máu cấp … dẫn đến tử vong.
Ngày 17/8/2003, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định khởi tố vụ án giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự để tiến hành điều tra. Từ một số thông tin ban đầu, ngày 30/8/2003, Cơ quan điều tra đã mời ông Nguyễn Thanh Chấn (52 tuổi, trú tại thôn Me) đến trụ sở làm việc để lấy lời khai.
Căn cứ tài liệu điều tra ban đầu ngày 28/9/2003, Cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giữ với ông Nguyễn Thanh Chấn; tiếp đó, ngày 29/9/2003, đã ra Quyết định khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam với Ông Nguyễn Thanh Chấn về tội danh giết người.
Ngày 3/12/2003, cơ quan điều tra đã ra bản kết luận điều tra vụ án và chuyển hồ sơ để nghị Viện kiểm sát truy tố bị can Nguyễn Thanh Chấn về tội giết người. Ngày 10/2/2004, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang ra bản Cáo trạng – quyết định truy tố bị can Nguyễn Thanh Chấn về tội giết người theo quy định tại điểm n, khoản 1, điều 93 Bộ Luật Hình sự.
Đến ngày 26/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Chấn và đã ra bản án tuyên bị cáo phạm tội giết người với mức án tù chung thân; bị cáo Chấn kêu oan và làm đơn kháng cáo. Ngày 26 và 27/7/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội xét xử phúc thẩm vụ án, tuyên y án sơ thẩm.
Trong quá trình ở trại giam, phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn đã có một số lần kêu oan. Ban giám thị trại giam đã gửi đến các cơ quan liên quan, trong đó có viện KSND tối cao và TAND tối cao xem xét. Bà Nguyễn Thị Chiến, vợ của phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn cũng có đơn kêu oan cho chồng. 4 tháng trước, trong đơn gửi về VKSND Tối cao, bà cho biết qua tìm hiểu thì thủ phạm thực sự của vụ án là Lý Nguyễn Chung, từng trú cùng thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, Bắc Giang.
Cơ quan điều tra VKSND Tối cao vào cuộc xác minh. Ngày 25/10, Chung ra đầu thú, khai gây ra vụ giết người, cướp tài sản. Ngày 4/11, VKSND Tối cao ra kháng nghị đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao xét xử theo thủ tục tái thẩm hủy các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm đối với ông Chấn để điều tra lại vụ án theo quy định của pháp luật. Cùng ngày, ông Chấn được tạm đình chỉ thi hành bản án, được thả tự do về nhà.
Tuấn Nghĩa
Vụ án Nguyễn Thanh Chấn – Hai việc cần làm ngay bây giờ!
Hà HiểnTheo tin đăng trên các báo, liên quan đến việc xử lý “vụ án Nguyễn Thanh Chấn”, lãnh đạo tỉnh Bắc Giang đã đến thăm ông Chấn tại nhà riêng và cho biết “đang chỉ đạo các đơn vị chức năng họp bàn, khẩn trương làm rõ trách nhiệm”.
Lãnh
đạo các cơ quan chức năng khác như công an, tòa án và viện kiểm sát từ
trung ương đến địa phương sở tại cũng đưa ra các tuyên bố chung chung
nghe rất quen tai rằng sẽ “kiên quyết xử lý”, “làm rõ trách nhiệm”, “sai
đến đâu xử đến đó” thế này thế khác.
Nhưng có hai việc rất cụ thể và cần thiết có thể làm ngay được mà không thấy cơ quan chức năng nào nói đến.
Hai việc đó là:
1) Việc cần làm ngay thứ nhất: Ngay lập tức cách
chức tất cả các điều tra viên đã tham gia vào việc tạo dựng “vụ án
Nguyễn Thanh Chấn”. Theo thông tin đăng trên các báo, các điều tra viên
tham gia vào vụ này gồm các ông Nguyễn V.D, Ngô Đ.D, Đào V.B, Nguyễn
H.T, Trần N.L. Trừ ông Nguyễn H.T đã tử vong trong một tai nạn giao thông thảm khốc trên đường đi làm về,
các ông có tên còn lại cần phải bị cách chức ngay lập tức trước khi xem
xét khả năng có thể bị tước quân tịch và truy tố hay không.2) Việc cần làm ngay thứ hai: Các cơ quan chức năng cần kiểm tra lại tất cả các vụ án tại Bắc Giang có sự tham gia điều tra của các ông có tên trên từ trước đến nay, đặc biệt là các án tử hình hoặc chung thân mà các bị cáo đã liên tục có đơn kêu oan (*) - nếu bằng chứng kết tội lỏng lẻo và/ hoặc thiếu thuyết phục, chỉ căn cứ vào sự nhận tội của các bị cáo từ các cuộc hỏi cung mà không có chứng cứ là đã được tiến hành một cách minh bạch thì phải đình chỉ việc thi hành án và trả tự do ngay cho các bị cáo.
——-
(*) Một trong các vụ án như vậy là vụ án Hàn Đức Long đang chờ bị thi hành án tử hình tại Trại Kế (Bắc Giang) vì bị kết tội hiếp và giết người mà bị cáo cho đến này vẫn đang liên tục kêu oan (xem thông tin tại ĐÂY)
Đọc thêm những thông tin dưới đây về vụ án này:
VỤ ÁN HÀN ĐỨC LONG,
SẮP BỊ THI HÀNH ÁN TỬ HÌNH
DÙ BỊ CÁO KÊU OAN
Ngọc Thu
Theo blog Bùi Văn Bồng
Vụ án
Hàn Đức Long cũng tương tự như vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, bị
cáo cũng đã bị kết tội hiếp dâm và đã liên tục kêu oan. Theo LS Ngô Ngọc
Trai: “Hồ sơ điều tra thể hiện bị cáo đã thú nhận tội, có lời khai nhận
tội, có bản tự khai nhận tội, nhưng khi ra tòa bị cáo chối tội.
Bị cáo khai
rằng mình bị đánh đập bức cung nhục hình. Hội đồng xét xử cho rằng bị
cáo chối tội là do sợ chết, họ tin vào lời khai nhận tội của bị cáo
trong hồ sơ nhưng không tin vào lời khai của bị cáo khi đứng trước tòa”.
Ông
William Blackstone, luật gia nổi tiếng người Anh đã từng viết: “It is
better that ten guilty persons escape than that one innocent suffer.”
Nghĩa là, “thà bỏ sót 10 người phạm tội hơn là để một người vô tội phải
chịu án oan”. Ở các nước văn minh, nếu không có chứng cứ vững chắc, bị
can sẽ được thả vì người ta quan niệm rằng, thà tha lầm hơn giết oan,
bởi những án oan như án tử hình, một khi đã thi hành án rồi mà phát hiện
án oan sai, sẽ không còn cơ hội làm cho người chết sống lại.
Có
lẽ VKSND Tối cao VN nên tạm đình chỉ thi hành án tử hình trong vụ án
này, cũng như đình chỉ thi hành các vụ án tử hình khác mà bị cáo liên
tục kêu oan và cho phép các luật sư biện hộ cho bị cáo được quyền tranh
tụng trước tòa. Chỉ có sự tranh luận giữa luật sư với bên công tố một
cách sòng phẳng mới có thể giúp giảm bớt những án oan sai, trả lại công
lý cho những người vô tội.
Xin công luận hãy giúp lên tiếng trong vụ này, đừng để giết oan một người, bởi khi án đã thi hành rồi, người chết không thể sống lại.
* Đơn kêu cứu – Vụ án Hàn Đức Long (20-11-2012):
http://danluat.thuvienphapluat.vn/don-keu-cuu-vu-an-han-duc-long-82151.aspx
* Án oan Hàn Đức Long công văn kêu cứu thứ 1 (16-1-2013):
http://www.ngongoctrai.com/an-oan-han-duc-long/147-án-oan-hàn-đức-long-công-văn-kêu-cứu-thứ-1.html
* Án oan Hàn Đức Long công văn kêu cứu thứ 2 (23-1-2013):
http://www.ngongoctrai.com/an-oan-han-duc-long/148-án-oan-hàn-đức-long-công-văn-kêu-cứu-thứ-2.html
* Án oan Hàn Đức Long công văn kêu cứu thứ 3 (30-1-2013):
http://www.ngongoctrai.com/an-oan-han-duc-long/149-án-oan-hàn-đức-long-công-văn-kêu-cứu-thứ-3.html
* Án oan Hàn Đức Long công văn kêu cứu thứ 4 (19-02-2013):
http://www.ngongoctrai.com/an-oan-han-duc-long/150-án-oan-hàn-đức-long-công-văn-kêu-cứu-thứ-4.html
* CÔNG VĂN KÊU CỨU THỨ 5 – TỔNG HỢP VỀ VỤ HÀN ĐỨC LONG
http://www.ngongoctrai.com/su-kien-phap-ly/290-cong-van-keu-cuu-thu-5-tong-hop-ve-han-duc-long.html
* KÊU CỨU KHẨN CẤP (Bị cáo sắp bị thi hành án tử hình) ngày 26-06-2013:
http://www.ngongoctrai.com/su-kien-phap-ly/341-ve-vu-an-oan-sai-han-duc-long.html
* Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Hàn Đức Long bị kết án về các tội “giết người” và “hiếp dâm trẻ em”: http://danluat.thuvienphapluat.vn/quyet-dinh-giam-doc-tham-ve-vu-an-han-duc-long-bi-ket-an-ve-cac-toi-giet-nguoi-va-hiep-dam-tre-em-94468.aspx
* Báo CAND: Lật lại vụ kỳ án Hàn Đức Long:
http://www.cand.com.vn/vi-VN/trongmatdan/2012/1/163455.cand
Lạm bàn về tù oan & chế ngự sự vô minh nhà Sản.
Trong lúc vụ án do bức cung khiến con một liệt sỹ bị hơn 10 năm tù oan ở Bắc Giang đang làm rúng động dư Dư luận.
Thì bên hành lang QH chiều ngày 6/11, ông
Phó chủ nhiệm UB Tư pháp QH Nguyễn Đình Quyền mặt mũi láng bóng hớn hở
khoe với báo chí rằng, cơ quan điều tra ở Việt Nam được coi là một trong
cơ quan giỏi nhất thế giới do phá án nhanh nhờ biết dựa vào nhân dân. (ở đây).
Vậy ta thử xem cái tài phá án nhanh nhờ biết dựa vào nhân dân trong vụ này ra sao?
- Sau khi khám nghiệm kỹ hiện
trường gây án ban chuyên án (BCA) đã xác định đây là vụ án giết người do
cưỡng dâm không thành, vì nạn nhân là người phụ nữ trẻ đơn thân có một
con nhỏ (“gái một con…“), dễ làm cho những người đàn ông hàng xóm láng giềng nẩy lòng tà dâm?
- Sau khi lấy lời khai của người
đầu tiên trông thấy xác nạn nhân (vào lúc 22 giờ). BCA xác định được
thời gian gây án là sớm trước đó khoảng từ 2 tới 3 tiếng đồng hồ.
- Sau khi BCA lấy lời khai của cư
dân sống quanh nơi có án mạng (biết “dựa vào nhân dân“) thì thấy lời
khai của ông Chấn (được vợ sai đi xin nước khoảng 19 giờ) và lời khai
của bà Viển, gần nhà chị Hoan (nạn nhân) nói ông Chấn lúc 19 giờ 30 vẫn
đang múc nước ở nhà bà ta. Là đã đủ để kết luận ông Chấn có thể là hung
thủ gây án (Trong khoảng thời gian từ 19 giờ 05 – 19 giờ 25).
- Niềm tin này càng được củng cố
khi đo kích cỡ bàn chân của ông Chấn gần khớp với một số dấu bàn chân
hung thủ để lại trên hiện trường.
- Với niềm tin này, BCA đã bỏ qua
tất cả các chi tiết tối quan trọng khác như: Nhiều dấu vết chân dưới sàn
nhà, dấu tay có vết máu trên cửa và dấu vân tay trên chiếc gối đậy mặt
chị Hoan, vân tay trên cánh cửa, thanh sắt cài cửa hậu, trên công tắc
điện…
Sau khi đã “định hướng“ được hung thủ gây
án, việc còn lại của BCA để hoàn chỉnh hồ sơ phá án là buộc nghi phạm
phải “thành khẩn nhận tội“. Muốn lập được chiến tích “phá án nhanh“ cần
phải tiến hành ép cung. Như đã thể hiện trong đoạn trích từ lá đơn kêu
oan đề gửi Thanh tra Bộ Công an và lời kể của ông Chấn với các phóng
viên như sau:
“Ngày 30-8-2003, tôi nhận được “giấy
mời lần 1” về Công an huyện Việt Yên để gặp và làm việc. Cụ thể là lấy
dấu chân và dấu vân tay của tôi, đồng thời hỏi tôi có biết gì về cái
chết của cô Hoan (Nguyễn Thị Hoan – nạn nhân bị sát hại) không? Tôi trả
lời không biết gì cả. Đến 20-9-2003, tôi lại nhận được giấy triệu tập
lần 2. Tôi lên để gặp làm việc và tiếp tục lấy dấu vân tay, dấu chân
nhiều lần. Tôi vẫn trả lời không biết gì về cái chết của cô Hoan cả.
Sáng hôm sau, tôi đến theo hẹn thì cán bộ Nguyễn H.T. lại lấy dấu chân,
dấu tay của tôi nhiều lần rồi tra hỏi, đánh tôi rất đau”.
“Từ đó, các cán bộ: Nguyễn V.D, Ngô
Đ.D, Đào V.B, Nguyễn T.T, T, Trần N.L thay nhau túc trực tôi suốt ngày
đêm này sang đêm khác không cho tôi về và không cho tôi ngủ, dọa nạt ép
buộc bắt tôi”.
Trong đơn mô tả: “Cán bộ Trần N.L bắt
tôi vẽ dao, tôi không vẽ loại dao gì lại bảo cho mày cái búa vào đầu cho
mày chết bây giờ vì cán bộ Nguyễn H.T trên tay lúc nào cũng cầm dao hăm
dọa ép buộc tôi phải nhận. Tiếp đó, cán bộ Ngô Đ.D đọc và bắt ép tôi
viết đơn tự thú ngày 28-9-2003. Thế là đến chiều chuyển tôi về trại Kế –
Bắc Giang”.
Ông tiếp tục kể, trong thời gian tạm
giam ở Trại Kế, có đêm ông Chấn bị chuyển 3-4 buồng. “Có lần vào buồng
của phạm nhân Phạm Duy Hồng – thì có 1 mình phạm nhân ấy với tôi. Vừa
vào đã bị đánh, dùng dép đánh vào 2 mang tai sau đó bắt hát. Bị bắt từ
ngày 20 đến ngày 28 hầu như tôi không được ngủ, đầu óc quay cuồng, lâng
lâng” – ông Chấn nấc lên rồi lại lấy tay ôm mặt.
“Cũng trong trại Kế, tôi phải tập đâm
bên nọ, đâm bên kia. Họ cho 1 tù nhân giả làm cô Hoan. Cán bộ còn đưa
cho cái thìa, cái lược để làm hung khí. Tập nhiều lần cho thành thạo.
Làm đi làm lại để cho đúng ý của họ. Sau đó, họ mượn nhà dân, bắt tôi
diễn lại và quay phim… (ở đây)
Khi được nhà báo hỏi về việc ông Chấn bị
điều tra viên ép cung, “dạy” thực nghiệm hiện trường, đại tá Nguyễn Văn
Chức – Chánh Văn phòng Công an tỉnh Bắc Giang, chiều ngày 6.11 khẳng định: “Ai làm việc đó là sai. Thế nhưng việc người ta có làm việc đó hay không thì phải điều tra, xác minh”. Song ông Chức cho biết:
“Việc xem xét trách nhiệm phải chờ chỉ đạo của cấp trên. Một là, nếu
anh vi phạm về mặt pháp luật và hoạt động tư pháp thì thẩm quyền thuộc
về VKSND Tối cao, họ sẽ chỉ đạo giải thích; Hai là về quản lý nhà nước,
xử lý cán bộ, thẩm quyền thuộc về Bộ Công an.
Đến thời điểm này, tôi chưa nhận được văn
bản nào từ cấp trên yêu cầu Giám đốc Công an tỉnh phải xem xét, xác
minh, làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan”.
Chủ toạ phiên tòa sơ thẩm trong vụ việc xử án oan cho phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn (năm 2004), ông Nguyễn Minh Năng nói: “Tôi quên phiên xét xử đó rồi. Hồi xưa xét xử thì dựa trên chứng cứ, tài liệu vụ án, chứ giờ vụ án đã lâu không nhớ nổi”.
Trả lời về trách nhiệm trong vụ việc xử án oan cho phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn, ông Năng nói: “Giờ bị cáo bị oan sai thì trách nhiệm là do Quốc hội chứ biết sao được”.
Nguyên thẩm phán TAND tỉnh Bắc Giang (ông
Trần Văn Duyên, 69 tuổi, thẩm phán phiên xét xử sơ thẩm năm 2004, đã
nghỉ hưu từ năm 2006) nói: “Đã có sự phân cấp rồi, chúng tôi xử sơ
thẩm mà cấp phúc thẩm y án thì chứng tỏ có đủ căn cứ kết tội bị cáo về
tội giết người. Cấp phúc thẩm tuyên y án thì có nghĩa chúng tôi xử đúng
rồi và chúng tôi cũng không có trách nhiệm gì, giờ vụ án có sai thì
trách nhiệm thuộc về cấp phúc thẩm của tòa tối cao”. (Xem ở đây)
Liên quan đến việc anh Nguyễn Thanh Chấn
tại Bắc Giang 10 năm trước bị kết án tù chung thân về tội giết người,
nay đã được Viện KSND Tối cao về kháng nghị tái thẩm và tạm hoãn thi
hành án, bà Nguyễn Thị Yến – Vụ trưởng Vụ tổ chức thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử hình sự cho biết ngay từ khi mới thụ án vào các
năm 2004 – 2006, anh Chấn và người nhà đã gửi đơn kêu oan đến các cơ
quan khác nhau như Văn phòng Chính phủ… nhưng vì các đơn này không được
gửi đến đúng địa chỉ là Cơ quan điều tra của Viện KSND Tối cao nên không
được xem xét kịp thời.
Đương kim Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình bên lề cuộc họp Quốc hội ngày 4/11 nói với báo chí rằng: “Người
ta không thể có thông tin đích thực của vụ án này. Việc bị oan và kêu
cứu là đương nhiên, chứ thông tin về thủ phạm thì lúc đó chưa có. Tôi có
đọc lại rất nhiều đơn kêu oan của anh Chấn. Nhưng rất tiếc những lá đơn
đó lại được gửi cho Văn phòng Chính phủ và đâu đó chứ không gửi cho
tôi.” (Xem ở đây)
Theo báo Người lao động, tại buổi họp báo
sáng 5/11, trả lời về trách nhiệm của các cơ quan tố tụng về vụ bỏ tù
oan ông Nguyễn Thanh Chấn, ông Nguyễn Việt Hùng – Chánh Văn phòng VKSND
Tối cao nói: “Đây cũng là một cái sai sót khách quan. Đây là một bài học, VKSND Tối cao sẽ họp tất cả ban ngành để rút kinh nghiệm”.
Bình luận về việc này, Blogger Nguyễn Tường Tụy (lề dân) viết: “Bỏ
tù oan người ta, nhận được đơn kêu oan ngay từ năm 2004, thế mà lùng
bùng tận bây giờ mới tạm thả người ta ra mà lại bảo là sai sót khách
quan. Nếu do khách quan thì có gì mà phải rút kinh nghiệm.“
Nhà báo Đào Tuấn (Báo ĐĐK) trên blog cá nhân của mình đã viết:
“Khi nói về cảm giác của mình
trước vụ oan sai 10 năm trời ở Bắc Giang, câu đầu tiên mà nhà sử học
Trung Quốc nói là ông nghĩ tới những bộ phim hình sự Mỹ, nơi mà những
nạn nhân tuyệt vọng với công lý, phải tìm cách “tự xử”, tìm cách “tự
giải oan cho mình”.
“Thúc trống Đăng Văn” suốt 10 năm
trong sự mù lòa của nữ thần công lý, người vợ của bị án chung thân
Nguyễn Thanh Chấn đã phải “tự xử” bằng cách mua máy ghi âm. Ghi lén lại
toàn bộ lời tố cáo hung thủ từ chính người nhà y. Và sau đó, đã đem
những bằng chứng đó nộp cho chính những người đã luận tội oan chồng
mình.
Và thật chua chát, công lý bấy giờ mới chợt tỉnh giấc. Thậm chí còn chưa kịp nhận ra rằng việc để người dân phải tự giải oan, còn có thể nói gì hơn, đang là một biểu hiện cho sự bất lực của công lý…“ – (Trích: ở đây)
Và thật chua chát, công lý bấy giờ mới chợt tỉnh giấc. Thậm chí còn chưa kịp nhận ra rằng việc để người dân phải tự giải oan, còn có thể nói gì hơn, đang là một biểu hiện cho sự bất lực của công lý…“ – (Trích: ở đây)
Trong bài đăng trên Báo Tiền Phong cách đây 7 năm trước kêu oan cho ông Chấn có đoạn như sau, xin trích:
Tòa cho rằng: “Bị cáo không đưa ra
được những chứng cứ để chứng minh cho hành vi không phạm tội của mình,
lời nại của bị cáo tại phiên toà chỉ nhằm trốn tránh trách nhiệm hình
sự”.
Điều 63 Bộ Luật Tố tụng hình sự đã quy
định rõ: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra
hay không, ai là người phạm tội…”. Vì thế nghĩa vụ chứng minh không
thuộc về bị cáo mà là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Rành rành như canh nấu hẹ vậy mà ông Phó Quyền vẫn cãi đài rằng, tỷ lệ án oan sai là rất thấp… chỉ không phẩy mấy phần trăm… thì kể cũng nực cười. Chắc ông Quyền luôn tin tưởng ‘Cơ quan điều tra Việt Nam thuộc hàng giỏi nhất thế giới’. Nên khiến giới chức nắm cán cân công lý ở các cấp luôn qúa tự tin vào tài cán của mình mà nảy sinh cẩu thả chăng?
Ông còn nói: Vụ oan sai này,…. là rất đáng tiếc. Nhưng nhìn trên tổng thể, không thể lấy một vụ cá biệt để đánh giá cả qúa trình…
Khi được hỏi về nguyên nhân cha mình bị bỏ tù oan, cháu Nguyễn Thế Anh (con út của ông Chấn) nhớ lại: “Bố
em bị bắt năm 2003, năm đó em mới chỉ 5-6 tuổi. Em còn nhớ khi ấy nhà
mình nghèo lắm. Quán nơi gia đình em bán hàng là nhà tranh, vách nứa.
Chuyện xảy ra chỉ cách nhà có 200m. Nguyên nhân bố em bị bắt có lẽ do bố
quá hiền”.(ở đây)
Trong một nền công lý mù loà (chữ của Đào tiên sinh) thì có khi qúa hiền cũng mang tội. Vì nó dễ tạo điều kiện thuận lợi cho “Cơ quan điều tra… thuộc hàng giỏi nhất thế giới“ nhà mình có đất dụng võ cũng chưa biết chừng?
Ta thử nghe đoạn mô tả mới được chép trong Đại Vệ Chí Dị của Người Buôn Gió (chả biết Gió thật hay Gió giả?), để ngẫm ngợi xem sao:
“Bấy giờ có kẻ tội nhân trấn
Kinh Bắc, phủ Lạng Giang bị kết án giết người. Thọ án mười năm dài đằng
đẵng thì kẻ giết người thật ra đầu thú. Kẻ bị kết oán oan ấy ra khỏi
ngục tù. Ngửa mặt lên trời cảm tạ nhà Sản anh minh, phúc đức đã soi xét
án oan cho mình. Ai cũng giận kẻ ấy vô minh. Đâu biết kẻ ấy qua mười năm
tù ngục, không còn hy vọng gì vào công lý nữa. Công lý gì mà bao người
chết trôi sông chả thấy ái đoái hoài. Bao kẻ phạm tội tham nhũng xây nhà
trăm nghìn lượng vẫn nhởn nhơ, công sai giết người là do kẻ bị chết ấy
tự tử như lao đầu vào ngọn giáo, cứa cổ vào gươm, đập đầu vào cuốc. Thời
nhà Sản cho sống là được sống, cho vô tội là vô tội, bảo có tội là có
tội. Bởi suy nghĩ như thế nên dù có được thả sau mười năm tù oan thì
cũng vẫn phải ơn nhà Sản.“
Theo ngu ý của kẻ đang viết bài này, nếu
ai chót giận kẻ bị án oan vô minh cũng nên có con mắt bao dung thì hơn.
Thử đặt mình trong hoàn cảnh ấy mà xem! Kẻ “tội nhân Kinh Bắc“ kia bị mồ
côi cha từ khi mới lên 3. Gia cảnh nghèo (“mẹ góa con côi“) nên không
có điều kiện học hành, không am hiểu nhiều về pháp luật. Tính tình lại
qúa hiền lành nên khi lâm nạn dễ bị ăn hiếp bắt bí cũng là lẽ đương
nhiên. Chẳng may dịp đó nhà Sản đang tưng bừng kỷ niệm lễ cướp ngôi (Mùa
Thu tháng 8) và ngày lễ tế trời đất (Quốc khánh 2-9) lại đang cận kề
rồi. Đám công sai nhà Sản đang nô nức thi đua lập thành tích “Chào
mừng…“ rầm rộ khắp nơi. Tránh sao khỏi “căn bệnh thành tích“ được mùa
sinh sôi nẩy nở?
Có người trách cứ nạn nhân bị án oan vô
minh. Nhưng nói dại, không nghe theo ép buộc của đám công sai hung dữ,
khăng khăng bảo vệ sự vô tội của mình. Gặp thằng đồ tể say máu lập công
(phá án nhanh), chúng nhỡ tay uýnh vào chỗ phạm khiến nghi can thiệt
mạng giống anh Nhựt (Bình Dương) và anh Khương (Bắc Giang) cách đây chưa
lâu thì sự thể sẽ ra sao đây?
Để chối tội, sẵn có bút lục của nạn nhân,
việc chúng chế ra các lá “thư tuyệt mệnh“ và tạo dựng hiện trường giả.
Hô hoán lên nghi phạm tự vẫn do “ ăn năn“… nào khó khăn gì. Khi tam
quyền đều nằm gọn trong tay nhà Sản. Thần công lý mù loà. Chúng cho sống là được sống, cho vô tội là vô tội, bảo có tội là có tội ai làm gì được chúng nào?
Vậy nên cái câu “tránh voi chẳng xấu mặt nào“ ứng vào ngữ cảnh kẻ tội nhân trấn Kinh Bắc
hiền lành ít học ít va chạm với cửa quan… trên một phương diện nào đó
lại có mặt tích cực của nó. Nhận tội và ngoan ngoãn làm theo mọi yêu cầu
của đám qủy dữ nhằm hoãn binh. Để sau đó bền bỉ kêu oan. Hành trình “
đơm đó ngọn tre“ vô tiền khoáng hậu ấy dù bị các cấp toà đại hình của
nhà Sản cho đó là nhằm “ trốn tránh trách nhiệm hình sự“. Không thèm đoái hoài ngót chục năm dòng. Nhưng trời có mắt, kẻ bị tù oan đã được tháo cùm nhờ phép lạ. Trời làm mưa…
Nhờ trận lũ lịch sử vừa tràn qua, chiếc
đó trên ngọn tre kia đã đơm được cá. Người bị tù oan xứ Kinh Bắc tuy
chưa được “rừng luật“ của nhà Sản khẳng định vô tội. Nhưng việc “từ cõi chết trở về chói lọi“ vinh quang như thế đã diễn ra trong niềm vui vỡ oà của gia đình và bà con làng xóm cũng làm bao con tim thổn thức!
Thấy trên ban thờ căn nhà hoang toàng của người bị tù oan trở về vẫn phải biết ơn nhà Sản một cách thành kính như thế (xem ảnh) âu cũng là thứ “bùa“ trấn yểm lũ yêu quái trên mảnh đất “lắm qủy nhiều ma“ này!
Người đời nói, nước trong qúa cá cũng khó
sống. Trời giáng ta vào xứ vô minh đang đắc thế. Ta cứ đòi thủ tiêu
ngay cái vô minh ấy ra khỏi chốn dung thân của mình. Mong mỏi ấy vô cùng
chính đáng. Song thực tiễn, nếu chưa gặp hội phong vân trợ giúp, chắc
gì đã viên thành?
Biết cách sống chung với lũ. Biết nương
theo và chế ngự dần vô minh theo phương châm “ngăn ác khuyến thiện“ hay
“gạn đục khơi trong“ có khi sẽ tránh được những đổ vỡ sau bao đau thương
mất mát trên quê hương dâu bể của chúng mình cũng nên?!
Gocomay
VỪA NGỤY BIỆN VỪA DỐI TRÁ VỪA NHẪN TÂM
---------
Trong buổi hội thảo khoa học về việc tìm hài cốt liệt sĩ bằng khẳ năng đặc biệt và phần hài cốt còn lại (thủ cấp) của liệt sĩ Phùng Chí Kiên sáng ngày (6/11), tiến sĩ Vũ Thế Khanh – Tổng giám đốc hội liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng – UIA đã kể câu chuyện "ba liệt sĩ chia sẻ hài cốt để tạo thành hài cốt của đồng đội thứ 4" và ông cho rằng đây là dẫn chứng "nhà ngoại cảm tìm hài cốt liệt sĩ là hành động rất nhân văn".
Ông Khanh kể: Đó là câu chuyện của 4 liệt sĩ quê Thái Bình hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Dùng năng lực của mình, nhà ngoại cảm đã thu thập được các thông tin, biết được 4 người này hy sinh do trúng đạn pháo và đã tìm ra được vị trí mà 4 liệt sĩ này hy sinh. Tuy nhiên, khi khai quật lên thì chỉ có di cốt của 3 người.
Nhà ngoại cảm dùng năng lực để nói chuyện với các liệt sĩ, họ cho biết, một người do bị đạn pháo bắn thẳng vào người nên xác bay tứ tung, giờ không còn lại gì. Sau khi hội ý, 3 liệt sĩ này đồng ý mỗi người bỏ ra một phần tro cốt để đúc thành người thứ 4 mang về cho gia đình. Thông qua nhà ngoại cảm, họ chia sẻ: "4 anh em đi với nhau chẳng lẽ khi về lại thiếu 1 người sao". Thế nên, để gia đình liệt sĩ thứ 4 không tủi thân, đoàn tìm kiếm hài cốt liệt sĩ đã lấy xương cốt của 3 người đã tìm được làm hài cốt thứ 4, mang về cho gia đình".
Cũng theo ông Khanh, việc chia sẻ hài cốt của 3 liệt sĩ thành 4 không được tiết lộ với gia đình liệt sĩ thứ 4, nên khi hài cốt được đưa về, gia đình thân nhân liệt sĩ vui mừng đến rơi nước mắt.
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Lập hài cốt giả là ý nguyện của liệt sĩ.
- Thưa tiến sĩ, câu chuyện ông kể về việc sẻ hài cốt 3 liệt sĩ thành 4 cho thấy hài cốt liệt sĩ thứ 4 là sai và thi thể ba liệt sĩ kia cũng không toàn vẹn. Vậy liệu có phải là nhân văn như ông nói.
- Đấy là liệt sĩ họ bảo thế, liệt sĩ yêu cầu
- Làm sao để chứng minh được việc đó thực sự là do liệt sĩ yêu cầu, khi chỉ một mình nhà ngoại cảm có khả năng trò chuyện với người đã khuất và nói lại cho mọi người?
- Không ai biết được 4 ông liệt sĩ này đi cùng ngày, cùng giờ và chết cùng nơi… có nhiều thông tin mới đến ngôi mộ đó được.
- Trường hợp gia đình phát hiện ra hài cốt họ đang thờ cúng không phải là của cha ông, chồng hoặc con họ thì tiến sĩ nghĩ như thế nào?
- Bạn nhầm ở chỗ này, đấy là ý của ông liệt sĩ.
- Nhưng cũng không thể làm sai sự thật được? như vậy là dối trá thân nhân liệt sĩ?
- Không, ông liệt sĩ ông thích sai thì sao? Ông liệt sĩ có công mà ông nói “tôi phản động” thì sao? Bây giờ mình phải tôn trọng cái nguyện vọng của liệt sĩ. Chứ không phải mình theo cái cảm tính của mình.
- Tại sao đoàn tìm kiếm không trao đổi thẳng thắn với gia đình?
- Trao đổi thì gia đình người ta buồn, ông liệt sĩ muốn cho gia đình yên thân…. Vị tiến sĩ này lấy dẫn chứng: Có những bà mẹ nếu như biết được con về mới yên tâm nhắm mắt.
Với liệt sĩ khi người ta còn sống họ nhường cả cái thân, hy sinh cho người bạn còn sống thì xương người ta tiếc gì đâu. Khi liệt sĩ còn sống cơm ông cũng nhường, nếu 2 anh phải chết, ông xung phong chết là ông nhường cả mạng sống thì chút xương ấy làm gì nặng nề với ông liệt sĩ được. Cái đó là nguyện vọng của ông liệt sĩ.
- Nhưng chúng ta phải tôn trọng gia đình họ chứ, như vậy là đã lừa dối gia đình họ rồi thưa tiến sĩ?
- Không phải ta lừa dối mà là ông liệt sĩ ông làm thế.
- Chúng ta là người đưa di cốt về mà?
- Cậu buồn cười nhỉ, làm thế trái ý ông liệt sĩ… ông liệt sĩ quan trọng hay chúng ta quan trọng, hơn nữa, ông liệt sỹ có ý nguyện như vậy. Đừng nói ông liệt sĩ coi xương là quan trọng đâu nhá, nếu xương không còn thì làm sao? Ông tan xác trên bầu trời ông không có xương...v.v..
- Nói gì thì nói nhưng vẫn phải tôn trọng sự thật, thân nhân liệt sĩ cần sự thật, dư luận cần sự thật, thưa ông?
(Tiến sĩ Khanh không trả lời thẳng câu hỏi mà tiếp tục lấy ví dụ chống chế)
- Tại sao tôi làm gián điệp, tôi nói sự thật ra đi… cái sự thật ấy có lợi cho dân cho nước tôi làm. Bây giờ tôi hỏi nhé, tại sao ông làm tình báo ông lại nói là việt gian? Vì việc của ông làm là lợi cho người khác và đấy là sự hy sinh của người ta. Dù gia đình có mất cái xương hay không không, đối với tâm linh không còn quan trọng nữa. Ví dụ bây giờ hỏa tang thì sao, người ta rắc ra sông thì sao?
Có ai biết mộ ông Thánh Gióng ở đâu không? Ông Thánh Gióng là 1 đại liệt sĩ tượng trưng cho tất cả các liệt sĩ trong các triều đại và không cần xương nữa, thịt xương ông thành lá, thành cây cho non sông, chỉ linh hồn ông bay về trời thôi. Đấy là cái tư tưởng của người Việt Nam ta, vậy thì cái hài cốt không quan trọng. Bây giờ mộ ông Thánh Gióng ở đâu nào? Vậy giờ người ta thờ ông ấy hay thờ tư tưởng của ông ấy.
- Những trường hợp đi tìm mộ liêt sĩ mà không tìm được hài cốt nhưng lấy xương của liệt sĩ khác mang về như trường hợp trên có nhiều không?
- Nhiều, nhiều chứ, vô cùng nhiều… Nhưng mà đó là trường hợp 4 liệt sĩ đó thôi. Bốn gia đình đó đã cảm động, người ta khóc vì cái sự hy sinh đó. Vậy thì đừng nghĩ gia đình liệt sĩ ấy người ta buồn, người ta tự hào vì những cái việc đó. Và người ta cũng không muốn biết ai vào với ai nữa, và người ta cùng đưa 4 ông ý như nhau.
Thuận Phong- Người đưa tin.
Hắn cũng là bồ tát
Cách nay 44 năm, được tin Hồ chí Minh “chuyển sang từ trần,” cả miền Bắc cấu mặt, bứt tóc, khóc lăn lóc, khóc thật “hoành tráng”. Trong số này, khóc để mong được đảng quan tâm, cơ cấu vào chức gì đó, đặng tiến thân, có số khóc cầu được thêm một tí tiêu chuẩn, như vài thước vải sô, tí gạo…Nói về tiêu chuẩn, bà con miền Bắc, có câu chuyện làm qùa: Trái bí muôn năm:
Thời chiến tranh, miền bắc thường bị dội bom, đảng ra lệnh: Ai trúng bom, chết liền thì thôi, ai bị thương hấp hối, nếu kịp hô “bác muôn năm, đảng quang vinh muôn năm,” người đó sẽ được chiếu cố, cấp cho hai mét vải liệm. Có ông nông dân kia, đang làm ruộng, nghe máy bay oanh kích, ông vác cuốc chạy trốn, chạy ngang qua dưới giàn bí, chẳng may lưỡi cuốc móc vào cuống trái bí, nó rơi ngay vào lưng, nghe cái bịch, ông nông dân hoảng hốt té bò càng, miệng liền hô: “bác muôn năm, đảng quang vinh muôn năm,” ông ta hô nhiều lần, mà sao trái bôm kẹp ngay dưới nách không nổ? Hé mắt nhìn thử, hóa ra trái bí! Mừng quýnh, ông hô lớn: “Trái bí muôn năm, trái bí muôn năm…muôn năm!!”
Hầu hết truyện cười, xuất xứ từ một kịch bản có thật của xã hội. Ở xứ CS người ta khóc, không phải vì buồn! Cười không chắc đã vui, trong số khóc ông Hồ, chán vạn kẻ u mê vì tuyên truyền:
“Bác không vợ con, suốt đời lo cho dân, cho nước, lãnh đạo tài tình, thắng Pháp và Mỹ.” Dưới ánh sáng mặt trời, không có gì che lấp được mãi mãi. Chẳng những bác có vợ, bác còn là tay chơi thứ thiệt, chơi rất phàm phu: Tây, Tàu, Liên Xô, Mường Mán, Lô Lô, Mọi có đuôi, bác phất tuốt! Bác là tay ăn cắp văn thơ trứ danh, chôm luôn những câu danh ngôn, đem trơi ngời ngời chốn công cộng:
“Lương y như từ mẫu” – “Vì lợi ích mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”…
“Bác đuổi Pháp và Mỹ” để dâng hiến tiền đồ, giang sơn ông cha cho Tàu. Còn nữa: Mới đây Giáo Sư, môn Sử, ông Hồ Tuấn Hùng, viết sách nói: Hồ Chí Minh là chệt chính hiệu, vậy:
Những người “muôn năm cũ”, khóc ông Hồ, hôm nay nghĩ gì?
Chắc họ đã hối ngộ, nhưng cái tuyên truyền, tẩy não của đảng, nó làm người dân khóc triền miên. Vừa rồi họ cũng vật vờ, khóc cho anh cai đẻ, khóc thật khỏe, khóc đầy đàng, đầy sá. Chỉ một chi tiết nhỏ, mà người ta nghĩ không ra: Nếu qủa thật, một anh hùng dân tộc, ai dám đì ông ta từ “cầm quân, sang cầm quần chị em”??
Họ khóc chán chê, quay ra cười và tung hê trên cái chết, của chí sí Ngô Đình Diệm!
Xin lặp lại ngàn lần, lời nói của chủ nhân ông:
“Chúng ta (Mỹ) đã qúa sai lầm, khi mướn bọn tướng ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa, để lật đổ, và giết chết TT Ngô Đình Diệm, để bây giờ nơi đó (miền Nam) sinh ra bất ổn”.
TT Ngô Đình Diệm, chết vì danh dự, vì độc lập của tổ quốc, tuyệt đối không vì “đàn áp Phật Giáo.”
Nếu không có Mỹ, một triệu Thích Trí Quang, môi thâm chẳng làm được gì, ngọn đuốc Thích Quảng Đức, Lê Văn Tám, chung một giuộc lừa dối, cùng một lò sản xuất tồi Cộng Sản. Hiện nay bọn đồ tể Ba Đình, phong Thích Quảng Đức, thành liệt sĩ, thế nhưng hải ngoại có tên Đào Văn Bình, trước 1975 từng làm phó tỉnh trưởng, làm chủ tịch Hội Tù Nhân Chính Trị, Hoa Kỳ cùng những “trí thức hải ngoại” xì xụp khóc lạy.
Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái, cứ một mực tru tréo: “1963 pháp nạn một”
Nếu còn u mê, xin đọc lời Mục Sư Williams, sau đây:
Đánh dấu 50 năm cuộc đảo chính ở Sài Gòn, Mục sư Byron Williams, tác giả cuốn sách sắp ra mắt ’1963 – Năm của Hy vọng và Thù nghịch’, viết cho Huffington Post rằng sai lầm ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam hồi năm 1963 còn tai hại hơn vụ Vịnh Con Heo hồi năm 1961.
Ông Williams viết: “Vụ đảo chính ông Diệm, theo tôi, là sai lầm chính sách ngoại giao lớn nhất của John Kennedy, thậm chí lớn hơn cả vụ Vịnh Con Heo.”
“Cái chết của ông Diệm đã mở cánh cửa vào một loạt các vũng lầy cho Hoa Kỳ.”
Tác giả nhắc lại rằng hồi cuối năm 1962, lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện Hoa Kỳ Mike Mansfield đã gợi ý với ông Kennedy sau khi tới thực địa ở Việt Nam theo yêu cầu của vị tổng thống:
“Đó là đất nước của họ, tương lai của họ chứ không phải của chúng ta.”
“Bỏ qua thực tế này sẽ không chỉ gây thiệt hại to lớn về người và của đối với Hoa Kỳ mà nó còn có thể kéo chúng ta vào một tình thế không hay ho gì như người Pháp từng vướng phải.”
Mặc dù ông Kennedy cũng bị bắn chết hôm 22/11, tiên đoán của ông Mansfield đã hoàn toàn đúng với sự thiệt mạng của 58.000 lính Mỹ trong số gần nửa triệu quân Hoa Kỳ tới tham chiến ở Việt Nam chưa kể tới thiệt hại về tiền của. (ngưng trích).
Trong danh sách, thành phần chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa, Phật Giáo chiếm tỷ lệ cao hơn, so với đạo khác, các sư đi du học, chùa chiền trùng tu, xây mới, từ ngân sách chính phủ cũng cao hơn các tôn giáo khác, ngoài ra TT Ngô Đình Diệm, còn dùng tiền thưởng “Lãnh đạo xuất sắc nhất Á Châu” tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma, chứ TT không tặng các cha.
Nếu còn luận điệu: “TT Ngô Đình Diệm, chỉ biết lo cho Công Giáo”. Ngày nay tại hải ngoại, những nhà thờ Công Giáo nguy nga, trước mắt chúng ta, ai giúp họ? TT Diệm chăng?
Mới đây, trên đài phát thanh, Tiếng Nước Tôi, Atlanta, chương trình hội luận tự do, người ta đặt câu hỏi:
Vì sao ông Ngô Đình Nhu, đi gặp Cộng Sản Phạm Hùng, để thương thuyết?
Trả lời: Hai nước đánh nhau, chính phủ, cử người đi thương thuyết, đình chiến, hoặc mưu cầu hòa bình, có gì đáng ngạc nhiên? Hãy dành sự ngạc nhiên với Kissinger, đã quyết định cho số phận miền Nam Việt Nam, qúa thê thảm, trong khi đó, về sau này phái đoàn của TT Nguyễn Văn Thiệu, chỉ được chung mâm với bọn ma trơi MTGPMN! Ông Ngô Đình Nhu, dù có thương thuyết, cũng chưa có chứng cứ nào thiệt thòi, như nhường Hoàng, Trường Sa, hoặc lãnh thổ cho giặc, cớ sao lại vu tội? Ngược lại trong việc này, chúng ta nên hãnh diện mới đúng, vì chế độ Đệ Nhất VNCH, tương đương với Hoa Kỳ, nói chuyện thẳng với Hà Nội, không thông qua đám bù nhìn MTGPMN.
Câu hỏi: Giỏi như thế, đạo đức như thế, tại sao bị giết?
Đáp: TT Ngô Đình Diệm, không chết một mình. Ba tuần sau TT John Kennedy chết, tiếp đó kéo theo gần sáu chục ngàn quân nhân Hoa Kỳ hy sinh, chưa tính quân đội đồng minh các nước, chưa nói tiền tài đổ ra, hàng tỷ đô la, và hai miền Nam Bắc, gần bốn triệu sinh linh vong mạng.
TT Ngô Đình Diệm, có trái tim hiền nhân, quân tử, sống giữa bầy sói ngu xuẩn và man rợ.
Khóc và cười trên sự u mê của lịch sử, hay đúng hơn trong bộ môn tuyên truyền của Cộng Sản, của báo chí Mỹ thời 1960…, của những luận điệu do “bọn ác ôn côn đồ” muốn che đậy tội ác tày đình.
Ngày 5 tháng 11 báo Cộng Sản, có tin:
Dân bức xúc với pho tượng mang hình sư trụ trì ở Hà Nội
Những bức ảnh lan truyền trên mạng cho thấy bức tượng mang hình nhà sư trụ trì Thích Minh Phượng bị người dân phản đối, vứt bỏ.
Ngày 5/11 nhà sư Thích Minh Phượng tổ chức lễ hô thần nhập tượng để đưa tượng mới đặt vào vị trí tượng cổ đã bị mất. Người dân nơi đây cho rằng bức tượng này có vóc dáng, khuôn mặt rất giống với sư trụ trì Thích Minh Phượng nên đã phản đối. Sau khi sự việc này xảy ra, nhà sư trụ trì cũng bỗng dưng biến mất, không ai liên lạc được.
(Hết trích)
Tại sao bất công như vậy? Bần tiện như Võ Nguyên Giáp, được phong thánh, tội ác đầy rẫy như Hồ Chí Minh, nghiễm nhiên tọa trên tòa sen, ngồi ngang hàng với Đức Phật, trong các chùa để bá tánh qùy lạy, không ai kéo đầu vất vào sọt rác?
Tự thiêu, tự tử là gì?
Thông thường bản thân người đó tự làm, kể cả thắt cổ, hoặc uống thuốc độc, những trang sử: Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, cận đại các tướng tuẫn tiết theo thành: Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Trung Tá Nguyễn Văn Long vv… có ai “giúp” thắt cổ? giúp pha thuốc độc? Có ai giúp châm lửa? Có ai giúp bóp cò súng, cho các tướng tuẫn tiết? Từ cổ chí kim, tuyệt đối không.
Nhưng xem you tub Thích Quảng Đức, bước xuống xe như một khúc thịt vô tri, vô giác, có kẻ xốc nách dìu đi, kẻ khác cầm can xăng rưới từ trên đầu tắm xuống, kẻ khác bật quẹt châm lửa. Chứng tỏ Thích Quảng Đức, tự thiêu là khiên cưỡng, tầm phào.
Như vậy, Thích Quảng Đức, Hồ Chí Minh thành bồ tát được, Thích Minh Phượng cũng xứng đáng lắm chớ! Sao người dân lại “bức xúc” và hẹp hòi? Thấy có hơi bất công, hắn cũng là bồ tát đấy!
© Ông Bút
© Đàn Chim Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét