Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Thứ Ba, 08-10-2013 - Minh chủ không tự nhiên sinh ra

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
1Sách quý khẳng định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường sa là của Việt Nam (ĐS&PL). Một cuốn sách đã được tìm thấy ở thư viện tỉnh Bình Định có nhiều tư liệu quý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. =>
So sánh vị trí cột mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc với bản đồ của quân đội Mỹ (Bài 1) (Boxitvn). - Một số thí dụ về những sự khác biệt giữa biên giới Việt Nam – Trung Quốc và bản đồ của quân đội Mỹ (Bài 2) (Dân luận).
ỐI GIỜI ƠI! THẬT LÀ NHỤC NHÃ QUÁ! (Tễu). “Một cuốn sách quan trọng, có liên quan đến các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vậy mà ngay trang thứ hai của bài Lời Giới thiệu của Ban Biên tập đã sai đến mức nhục nhã như thế này! ”Vua Gia Long tạ thế năm 1819, cháu nội là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi năm 1820, lấy hiệu là Minh Mệnh”.”
Trung Quốc cảnh báo Mỹ, Australia không vào hùa với Nhật (Zing).  - Trung Quốc dọa Mỹ-Nhật-Úc, Hàn Quốc tố tàu cá TQ (PNT).
Xã hội dân sự có đe dọa chế độ? (RFA).
Dư âm phiên xử LS. Lê Quốc Quân (RFA).
Một tiếng nói cho công lý đang nguy kịch (Hoàng Tâm Nguyên) (Thông Luận). “Thế sự vô thường, phận người long đong. Có lẽ con đường ông Đinh Đăng Định mong muốn thực hiện vẫn còn chưa tới đích, song tinh thần chấp nhận dấn thân cho một tương lai Việt Nam tốt đẹp hơn rất đáng cho những người khác suy gẫm“.

- Nguyễn Bắc Truyển: GIAM GIỮ VÔ NHÂN ĐẠO (Bùi Hằng). “Trại giam Xuân Lộc cho biết, bà Mai Thị Dung đã bị chuyển đến phận trại số 3, trại giam Thanh Xuân (huyện Thanh Oai, Hà Nội), TNLT Đỗ Thị Minh Hạnh cũng bị chuyển đến đây… Trước khi bị bắt, bà Mai Thị Dung cư ngụ tại tỉnh An Giang và cô Đỗ Thị Minh Hạnh cư ngụ tại tỉnh Lâm Đồng. Cả hai người đều mang trọng bệnhCA Hải Phòng vây bắt Phạm Thanh Nghiên (DLB).
- Nguyễn Ngọc Già: Phản bác bài viết “Không được kích động bạo lực” (DLB). Bài liên quan của Nguyễn Quang A: Không được kích động bạo lực (DĐXHDS).
Có lẽ qua câu chuyện ở trên, có ít nhất 3 người có thể rút kinh nghiệm cho riêng mình. Bùi Hằng khôn ngoan, bình tĩnh hơn trong tranh đấu. Tác giả Nguyễn Quang A khéo léo hơn trong bài viết với chủ trương “bất bạo động” của mình. Tác giả Nguyễn Ngọc Già phải tự nhìn lại mình – là người duy nhất trong 3 người được nói đến ở đây lâu nay đấu tranh theo kiểu … “ẩn danh”, thường quên ý thức về vị thế này, mà dễ tự cho mình cái quyền lớn tiếng hô hào người khác “xung phong”, ai nói ngược thì thỏa sức chỉ trích, trong khi mình thì sắm vai “Anh hùng … Núp”.
Nhớ câu nhắc nhở của ai đó gần đây: Chớ nên tranh đấu bằng máu của người khác!  Câu này không chỉ giành riêng cho tác giả Nguyễn Ngọc Già, mà còn cho rất nhiều người, trên cả diễn đàn này lẫn nhiều nơi trên mạng, trong những năm qua. 

Trên bài viết của Nguyễn Quang A cũng có đủ ý kiến phản hồi đồng tình, không đồng tình, nhưng lời lẽ đều ôn hòa, phải chăng. Rõ là sự ra đời của Diễn đàn Xã hội dân sự thật là cần thiết, có thêm chỗ cho tất cả cùng tập dượt, có kinh nghiệm trong tổ chức quần chúng.
- Video: CÔNG AN BỘ ĐỘI DIỄN TẬP CHỐNG NHÂN DÂN (Long Hoang). - Hơn 1,000 người thắp nến cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên (Người Việt).
Diễn đàn Lý luận phát triển: Kiến nghị chưa thông qua Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi (VIDS/DĐXHDS).
Những cái ách hành chính địa phương (RFA).
2- Chuyện ứng xử với đồng đội tướng Giáp: Hai Tấm Hình, Hai Cách Ứng Xử, Một Con Người (FB Anh Chí).”Bức ảnh được hàng trăm tờ báo, hàng nghìn trang mạng lan truyền làm cho biết bao nhiêu người rơi nước mắt về tình cảm của ông.  Vâng, cũng con người ấy ở một góc chụp khác trong một hoàn cảnh khác thì KHÔNG một tờ báo nào của nhà nước đưa lên cho bạn đọc biết. Nó chỉ được lan truyền trên những trang blog cá nhân của những blogger ‘dở hơi’ chuyên lo ‘chuyện bao đồng’ và được chính quyền coi là ‘những kẻ phản động‘.”
Lòng dân (oan) với Đại tướng (Đoan Trang). “Bức ảnh ‘cựu chiến binh Phàng Sao Vàng’ được nhiều báo (VTC News, Kiến Thức…) đăng tải và được Ngoisao.net bình chọn là một trong 10 ‘ảnh hot trong ngày trên Facebook’ (7/10).  Còn bức ảnh ‘dân oan Phàng Sao Vàng’ là do một số blogger ‘phản động’ ở Hà Nội ghi lại cách đây ít lâu, trong một lần đi tiếp tế cho dân oan. “. - Bùi Chí Vinh – Sự tráo trở của phương pháp truyền thông hai mặt qua cái chết của tướng Giáp (Bùi Chí Vinh). - Người lính Cụ Hồ là ai? (FB Tấn Lộc). Đó là dân oan, cựu chiến binh Phàng Sao Vàng với nhiều năm kêu oan, khiếu kiện!
ĐẠI TƯỚNG (Văn Công Hùng). - TỨ TUYỆT TRĂM NĂM (Bùi Văn Bồng). - Đôi dòng suy nghĩ trước sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Hà Hiển). - Đàm Vĩnh Hưng Đi Viếng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp? (Triết học đường phố). -ĐẠI TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN (Nguyễn Duy Xuân). – Thơ của Đông Khanh: Anh Văn sống mãi trong lòng nhân dân! (BS). - Suy ngẫm về Tướng Giáp (Jonathan London).
- Minh Diện: CÓ LỄ CHỈ HAI LẦN… (Bùi Văn Bồng). Facebooker Mạnh Kim: “Ông Quê Choa nói: ‘Kể từ năm 1945 đến nay, dân xếp hàng rồng rắn đi viếng lãnh tụ chỉ trong hai trường hợp: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Bảo đảm không có trường hợp thứ ba’…  Nói vậy chưa đúng và chính xác. Còn phải kể đến đám tang ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Lượng bài viết về ông Sáu lúc đó chắc không thua mấy so với ông Giáp. Có điều lúc đó mạng xã hội chưa phát triển rầm rộ như bây giờ nên ‘không khí’ không được ồn ào so với trường hợp ông Giáp, khi tác động của mạng xã hội có thể tạo ra ‘hiệu ứng lây lan’ những dòng nước mắt… Sự tiếc thương dành cho ông Sáu thật ra không hề kém so với ông Giáp, chắc chắn!
“Sáng nay hàng chục cuộc điện thoại của các trí thức, thầy giáo từ Lệ Thủy, Quảng Trị điện vào bày tỏ sự phẫn nộ khi nghe tin Đại tướng sẽ được an táng tại . khu vực Vũng Chùa – Đảo Yến (xã Quảng Đông, H.Quảng Trạch, Quảng Bình) được chọn làm nơi an táng cho Đại tướng (Thanh Niên online ngày hôm nay (6/10) . Chiều 6/10, các nhà báo phỏng vấn ông Võ Điện Biên– con trai Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, địa điểm cụ thể an táng chưa thể công bố. “Nhưng chắc chắn sẽ không phải là huyện Lệ Thủy, chỉ biết rằng sẽ ở một địa điểm thuộc tỉnh Quảng Bình”, ông Võ Điện Biên cho biết. Vì thế mà nhân dân Lệ Thủy phẫn nộ là quá đúng. Và họ sẽ phẫn nộ lâu dài nữa.”  Chính thức chọn Vũng Chùa – Đảo Yến để an táng Đại tướng Võ Nguyên Giáp (TN).
Tối hôm kia, ngó trên VTV thấy đưa đoạn video Đại tướng về thắp hương trên mộ ông cụ thân sinh. Nấm mộ đơn sơ. Chợt thấy lo! Nếu như để Đại tướng về yên nghỉ trong làng thì mộ không thể “to” hơn mộ cụ thân sinh được. Hay là người ta sẽ đổ tiền của để “nâng cấp” mộ thân sinh Đại tướng cho hoành tráng, đại để như cả khu lăng mộ thân sinh Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh? Thế rồi mộ Đại tướng cũng lại được như vậy. Nếu thế thì … hu hu, thà ông cắn rắng nằm lại Mai Dịch, cạnh những “đồng chí” từng (nghe nói) đã hãm hại ông còn hơn. Bởi vì ông chịu khổ tiếp nơi chín suối, còn hơn phải “ăn sung mặc sướng” giữa nơi cát trắng Quảng Bình quê ông, vẫn còn nghèo xơ xác, … Giờ thì nghe một quyết định đưa ra về địa điểm nữa, lúc thì nói do PTT Nguyễn Xuân Phúc, lúc lại do gia đình, lại cả “nguyện vọng của Đại tướng”, nhưng quan trọng là không ở huyện nhà, xã nhà … 
Tại sao cần thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai? (Diễn Ngôn).
VRN: Cần tham vấn dân khi phát triển thủy điện (TBKTSG).
Vụ “đánh tráo” thủy tinh thể: BV Mắt đổ lỗi hành chính “đóng dấu” (NLĐ).  - Hà Nội chưa giải thích được sai sót tại bệnh viện mắt (TT).  - Gian lận BV Mắt HN: Đổ lỗi tài vụ – người “tố” bất phục (KT).
- TP Hồ Chí Minh: Nhiều sai phạm ở bệnh viện Bình Dân và Chấn thương chỉnh hình (Tin tức).  - BV Bình Dân và Chấn thương chỉnh hình TP.HCM gây thiệt hại nhiều tỉ đồng (TT).
Vụ kiện “lô cốt”: chỉ được bồi thường 50 triệu đồng (TBKTSG).
ongsonKhiển trách Tổng giám đốc dùng gậy đánh nhân viên sân golf  (VOV). =>
Bắn chết chủ doanh nghiệp Lan Thảo, Dũng “ben” bị tuyên y án tù chung thân (Tân Châu).
BÁC BA PHI ĐI THĂM MỸ (KỲ 69) (Nhật Tuấn).
- Trần Mạnh Hảo: Bàn qua về THIỆN, ÁC TRONG CHỦ NGHĨA MARX- Phần 2 (Bùi Văn Bồng). - VÁCLAV HAVEL: QUYỀN LỰC của KHÔNG QUYỀN LỰC – Phần cuối.
Nhật kêu gọi thế giới giúp xử lý rò rỉ phóng xạ (NLĐ).
Thượng đỉnh APEC khai mạc tại Bali (VOA).  - Tổng thống Obama không dự APEC, Trung Quốc chiếm ưu thế.  - Hội nghị APEC: Indonesia kêu gọi ngăn chặn chủ nghĩa bảo hộ.  - Chủ tịch nước dự lễ khai mạc APEC 21 (VOV).  - VN sẵn sàng triển khai mạnh liên kết kinh tế khu vực (TTXVN). - Tước thẻ 9 phóng viên Trung Quốc tại APEC vì hung hăng (ĐV).
Giới trí thức mới của Trung Quốc (Bùi Văn Bồng). - Trung Quốc và Ấn Độ tranh giành nhau một biểu tượng Phật giáo (Chùa PL). - Đúc chuông lớn tiến cúng nhà tang lễ từ thiện chùa Phúc Lâm.
Bắc Triều Tiên lên án hiệp ước quân sự Mỹ-Nam Triều Tiên (VOA).

Lú Đại Nhân (Chính luận).

- Người Buôn Gió: Từ ngõ Phất Lộc tới Weimar [30] (ĐCV).
Ai hiểu nỗi lòng dân oan? (Đoan Trang). “Quan điểm cho rằng bản thân ông Phàng Sao Vàng đã lợi dụng lễ viếng Tướng Giáp để gây chú ý… Bởi lẽ, khi nghĩ như thế, người ta đã nghiễm nhiên đặt dân oan vào vị thế đối lập với chính quyền, thay vì nhìn nhận rằng: 1. Dân oan khiếu kiện là một vấn đề nghiêm trọng của hệ thống tư pháp và của xã hội, nhưng lại đang bị biến thành chuyện bình thường, không có gì mới, không có giá trị tin tức để báo chí phải quan tâm. 2. Xã hội của chúng ta đang đẩy nhiều người, đặc biệt là những người dân thấp cổ bé họng, đến cuộc sống bất thường, bất ổn và không lối thoát“. - BÁC ƠI! (Nguyễn Tường Thụy).
Dân chủ từ dưới lên (VOA/DĐXHDS).
- Nguyễn Mộng Hoài: Hãy đưa Đại tướng về chính quê hương! (Quê Choa).
Lãng phí (TTVH).
- “Bom nước” lơ lửng đầu dân – Kỳ I: Thủy lợi thành thủy hại!? (TP).
- Ô tô liên tiếp chìm, trôi trên đường bộ: Lực lượng chức năng bận trú bão? (TP).
KINH TẾ
World Bank: tăng trưởng VN sẽ còn tụt (BBC).
Ba ngân hàng bán hơn 840 tỉ đồng nợ xấu (TBKTSG).  - Nợ xấu sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế? (VEN).
Ngân hàng kiếm lợi nhuận khó khăn (TBKTSG).
Tăng lương tối thiểu, doanh nghiệp lo vỡ nồi cơm (ĐT).
Thập kỷ giá vàng phi mã đã kết thúc (ĐT).  - Trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần độc quyền cung ứng vàng miếng (ĐBND).
WP_20130602_005_62144 <- Cho người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: Bất động sản sẽ hồi sinh? (CT).  - Sẽ thu hồi vốn những dự án đầu tư triển khai chậm (TTXVN).
Giá xăng trong nước giảm 390 đồng/lít (VnEco).  - Xả gần hết quỹ bình ổn bình ổn giá xăng dầu.   - Giảm giá xăng và mức sử dụng Quỹ bình ổn (CT).  - Quỹ bình ổn giá xăng dầu dư 58,6 tỉ đồng (TT).
Tiền điện của dân “gánh” những dự án thua lỗ của EVN (LĐ).
Hụt hơi lo bình ổn giá (NLĐ).
Cuối 2014, hoàn tất thu xếp vốn dự án hóa dầu Long Sơn (TBKTSG).
Xuất khẩu gạo vượt 5 triệu tấn (VnEco).
Doanh nghiệp thủy sản muốn bán cổ phần cho nước ngoài (TBKTSG).
Giá sữa vào vòng kiểm soát (NLĐ).
Hy Lạp hy vọng sẽ thoát khỏi suy thoái (VOV).

Thoát sàn (SGGP).

VĂN HÓA-THỂ THAO
avatarHà nội muốn Toulouse giúp quy hoạch làng Đường Lâm (TTXVN). =>
Đề nghị UNESCO công nhận Cát Bà là Di sản thiên nhiên thế giới (VH).
- Nguyễn Thiện Đạo: Tôi trước hết là một người yêu nước! (SK&ĐS).
Chợ kịch: Ý tưởng hay nhưng… (VH).  - Cần môi trường viết công bằng (SK&ĐS).
Ngô Thị Hạnh với Vũ khúc Đông Dương (PNO).
- LỘT XÁC NHỜ VAI “XẤU XÍ”: Chơi “dao hai lưỡi” (NLĐ).
NXB Văn Học: “Đây là lần cuối cùng Huyền Chip giải thích về cuốn sách” (DV).  - Độc giả Trần Ngọc Thịnh nói gì về ‘giải trình’ của Huyền Chip? (TTVH).  - Trần Ngọc Thịnh: ‘Huyền Chip nhận sai, sao chưa xin lỗi?’ (VNE).
- Video: Điểm hẹn văn hóa – 07/10/2013 (VTV).


GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Nhân tài lận đận: Vật vã chờ việc (NLĐ).
Lập Ban Chỉ đạo tổ chức chuyển SV năm cuối ĐH Hùng Vương (PLTP).  - Chuyển sinh viên ĐH Hùng Vương TPHCM sang 5 trường để thi tốt nghiệp (DT).
Tốn giấy (DV). “…sở phải tốn giấy, có lẽ không phải “thừa giấy vẽ voi” mà vì có nhiều trường thay đổi đồng phục xoành xoạch để phụ huynh phải tốn một thứ giấy khác là… giấy có “mệnh giá”, nên ngẫm kỹ thấy cũng có lý!”.
Tiếp thu ngoại ngữ một cách tự nhiên (Kênh 14).  - ĐH Luật TP.HCM: 3 trường hợp sử dụng bằng TOEIC giả (DV).
Giải Nobel Y học mở đầu tuần lễ trao giải Nobel (VOA).  - Giải Nobel Y học 2013 vinh danh các nhà khoa học Mỹ và Đức (VOV).


BUỔI HỌC ĐẦU TIÊN (Vũ Nho).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Miền Trung sau cơn bão: thiệt hại và cứu trợ (RFA).
1_61724Chất lạ trong phích nước Trung Quốc đầy độc hại (NLĐ). => 
Sẽ kiểm định lại các công trình dạng tháp (CP).
Sập mảng trần trường mầm non, 6 cháu bé nhập viện (VOV).
Tết này sẽ có pháo? (NLĐ).
Phá trường gà của “cháu thiếu tướng” (NLĐ).
Khởi tố hai bị can lừa đảo bán Iphone giá rẻ qua mạng (TT).  - Đổi “bằng lái quốc tế” giá 100 USD: Coi chừng vô ích! (PNTP).
Nỗi đau mang tên ma túy (NLĐ).
Vi phạm môi trường: Xử “trớt huớt”! (NLĐ).  - Loay hoay xử lý dầu tràn.

- Nhắn tin lấy số thứ tự mua vé tàu tết: Nhiều trường hợp không thấy hồi âm! (SGTT).

QUỐC TẾ 
Chính phủ Syria ‘hợp tác’ giải giáp vũ khí hóa học (Tin tức). - Kerry khen thái độ hợp tác của Assad (BBC).  - Mỹ ca ngợi Syria tuân thủ việc dỡ bỏ vũ khí hóa học (VOA).
Hơn 50 người chết vì bạo lực ở Ai Cập (BBC).  - Ai Cập: Biểu tình trên khắp nước, 50 người chết (VOA).
Malala: Đối thoại để có hòa bình (BBC).
95DD10CE-BEC2-4364-A954-C2C1DEB55D6B_w640_r1_s_cx0_cy3_cw0 <- Afghanistan: Các nhân vật ứng cử tổng thống đạt thỏa thuận (VOA).
Ngoại trưởng Kerry: ‘Al-Qaida có thể chạy, nhưng không thể lẩn trốn’ (VOA).
Chính phủ Mỹ ngưng hoạt động sang tuần thứ hai (VOA).  - Chưa có dấu hiệu chính phủ Mỹ kết thúc tình trạng đóng cửa.  - “Khó có chuyện Chính phủ Mỹ vỡ nợ” (VnEco).
Tình báo Canada theo dõi Bộ Năng lượng Brazil? (TN).
‘Snowden bị bắt gặp trên đường phố Nga’ (VNE).


* RFA: Audio:  + Sáng 7-10-2013; + Tối 7-10-2013Video: + Bản tin video tối 07-10-2013;  + Diễn đàn chúng ta # 5.
* RFI:  
* VTV: + Cuộc sống thường ngày – 07/10/2013;  + 360 độ thể thao – 07/10/2013;  + Tài chính tiêu dùng – 07/10/2013;  + Tài chính kinh doanh sáng – 07/10/2013;  + Tài chính kinh doanh trưa – 07/10/2013;  + Thời sự 12h – 07/10/2013; +Thời sự 19h – 07/10/2013.

Khi tướng Giáp thở dài ngay giữa Trung Nam Hải

Hôm nay, 25-8-2010, là sinh nhật lần thứ 99, bước vào tuổi 100 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong nước, nhiều bài báo, luận văn, hồi ký được in ra, cùng tin tức về những cuộc thăm viếng, gửi lẵng hoa để chúc mừng đại thọ của ông.
Tôi gặp tướng Giáp từ rất lâu – hơn nửa thế kỷ trước, khi ông còn dạy sử ở trường Thăng Long Hà Nội, rồi hồi 1945 – 1946 khi ông làm Bộ trưởng Nội vụ, về sau gặp không biết bao lần trong các cuộc họp tổng kết, giao ban, nghe nói chuyện, lên lớp ở các trường quân sự… trên danh nghĩa là Bộ trưởng Quốc phòng – Tổng tư lệnh suốt 30 năm. Gần gũi, thân mật, nhất là khi ông vào Sài Gòn sau ngày 30-4-75, chọn tôi là người lên chương trình, hướng dẫn ông thăm thú thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn vừa im tiếng súng, trong suốt 2 ngày đầu tháng 5-1975. Ông hài lòng về cuộc quan sát, nhưng còn tiếc rẻ, là không được đứng ở vỉa hè uống nước sinh tố, không được vào chợ Bình Tây la cà xem hàng họ, hỏi thăm dân tình, vì luôn có cậu thiếu tá ban bảo vệ đi theo ngăn chặn, «để giữ an ninh tuyệt đối cho Đại tướng». Khi chia tay tôi, ông nói vui: « Cậu là nhà báo, sướng nhất đó, cậu tự do, mình thì bị cấm cản đủ thứ!».
Có một kỷ niệm nhỏ nhỏ, ít ai biết, có chút ý nghĩa thời sự, xin kể nhân dịp này. Ngày 8-5-1977 đoàn Quân sự cấp cao Việt Nam đang ở Bắc Kinh, tại nhà khách số 1, trong khu Trung Nam Hải, là khu vực lớn nhất, sang nhất của trung ương đảng CS Trung Quốc.
Đoàn quân sự VN hơn 20 người vừa đi thăm hữu nghị chính thức Liên Xô, CHDC Đức, Ba Lan, Hungary… để cám ơn các nước, phát hàng ngàn Huân chương chiến công cho các cố vấn, chuyên gia, sỹ quan các nước từng giúp Việt Nam. Tôi được phân công làm tùy viên báo chí – thông tin cho tướng Giáp, giúp ông theo dõi thời cuộc, trả lời phỏng vấn, làm tin hoạt động của đoàn gửi về nước. Cứ sáng sớm, tôi là người đầu tiên đến phòng ông, báo cáo tin tức thu được trong đêm và ăn sáng riêng với ông.
Qua Berlin, cả đoàn vui đón Fidel Castro khi ông vừa đi một chuyến cực kỳ bí mật, sang Ethiopia và một số căn cứ mật trong rừng châu Phi, thăm hàng vạn binh sỹ Cuba tại đó. Ông ghé tai tướng Giáp, mắt nhấp nháy cười, kể cách nào đưa được quân Cuba sang châu Phi, trên các tàu chuyên chở dầu của Liên Xô, khi về ghé cảng châu Phi lấy nước ngọt… Cuộc gặp Fidel rất lạ, vui, tôi sẽ có dịp kể sau.
Ngày 1-5, đoàn ở Moscow, đúng ngày Quốc tế Lao động, có tuần hành lớn ở Hồng trường.
Tướng Giáp là khách nước ngoài duy nhất được mời lên đứng cạnh ông Leonid Brezhnev trên lăng Lenin. Tướng Giáp vui ở Moscow bao nhiêu thì ỉu xìu ở Bắc Kinh bấy nhiêu.
Đến Bắc Kinh, sát ngày 8-5 là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, tướng Giáp cùng các tướng Lê Trọng Tấn, Đoàn Văn Cống, Lê Quang Hòa… đều nghĩ rằng Bộ Quốc phòng TQ ắt sẽ như mọi năm mở tiệc khoản đãi, chí ít cũng có đoàn đến chúc mừng hay đến tặng hoa kỷ niệm… Vậy mà không. Đến quá trưa, vẫn không có động tĩnh gì hết. Thế là đành ăn bữa cơm thường lệ rất muộn, tướng Giáp nâng cốc bia Thanh Đảo nhắc một câu đến chiến thắng Điện Biên cho có lệ, rồi ai nấy lặng lẽ về phòng riêng, băn khoăn ngẫm nghĩ. Mọi người còn như giữ lại tiếng thở dài thườn thượt của tướng Giáp cùng những cái lắc đầu trong yên lặng, sau lời nhắc đến Điện Biên Phủ không chút thích thú.
Sáng hôm sau, cuộc gặp chính thức giữa 2 đoàn diễn rất nhạt nhẽo và cuối cùng là thất vọng. Người đại diện Bộ quốc phòng Trung Quốc là tướng Trần Tích Liên lặng lẽ lắc đầu trước cả 3 đề nghị của phía Việt Nam:
- Viện trợ tiếp về vũ khí cho bộ binh, không quân, hải quân, những phụ tùng thay thế, đạn dược cho máy bay, tàu chiến, pháo binh, xe tải quân sự;
-Nhận đào tạo giúp cho hơn 600 sỹ quan các loại tại các trường quân sự Trung Quốc như thời gian qua;
-Và cuối cùng là giúp cho việc vận tải quá cảnh hàng viện trợ quân sự từ Liên Xô sang Việt Nam được nhanh chóng an toàn.
Tướng Trần Tích Liên mặt sắt đen sì chỉ có một câu trả lới: «Chúng tôi không thể đáp ứng vì không còn điều kiện giúp đỡ và chi viện ai, vì cơ sở vật chất của nền quốc phòng Trung Quốc bị lũ 4 tên (Tứ nhân bang) phá hoài nặng nề, phải có thời gian để hồi phục».
Ngay sau đó biên giới phía Tây Nam từ Tây Ninh xuống Long An, Châu Đốc, Hà Tiên bị bọn Khơ me đỏ tấn công dữ dội bằng đại bác, súng cối, đại liên do Trung Quốc sản xuất và chúng chôn hàng triệu quả mìn cá nhân cũng do Trung Quốc sản xuất. Cố vấn quân sự Trung Quốc chỉ huy đến cấp tiểu đoàn…
Nhân mừng đại thọ của tướng Giáp, tôi nhắc đến một chuyện cũ về mối quan hệ Việt–Trung cho đến nay trở thành một vấn đề lớn phân hóa cả đảng Cộng sản và xã hội ta.
Tôi từng công khai tỏ ra thất vọng về tướng Giáp, ông đã không mảy may lên tiếng khi các sỹ quan thuộc cấp bị hãm hại: từ Thượng tướng Chu Văn Tấn, Trung tướng Đặng Kim Giang, Lê Liêm, đến các Đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Phạm Quế Dương, hay ông Hoàng Minh Chính bị lâm nạn. Vậy mà là một vị tướng có lòng nhân ái ư? Biết bao gia đình anh hùng, liệt sỹ, cựu chiến binh bị đối xử tàn tệ, ông lẳng lặng nhìn đi chỗ khác, ý thức công bằng xã hội có vẻ như rất mờ nhạt trong nhận thức của ông.
Tôi cũng hiểu cơ chế độc đảng đã là nguồn gốc của mọi bất công, và chính ông cũng từng là nạn nhân, từng bị nghi ngờ và hãm hại, nên ông cần giữ mình, theo phản ứng tự vệ của bản năng mọi sinh vật. Ông đã không tự vượt qua được chính mình.
Cuối đời, tướng Giáp đã có những việc làm đáng ghi nhận. Ông đã nhiều lần nêu rõ «Vụ án siêu nghiêm trọng Tổng Cục II, T4», mới đây ông lên tiếng ca ngợi và bênh vực Trung tá Vũ Minh Ngọc «đã dũng cảm, ngay thẳng nói lên sự thật», ông cũng từng 3 lần lên tiếng phản đối và đòi chấm dứt ngay việc khai thác bauxite ở địa bàn chiến lược Tây nguyên.
Những lời hứa của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là «chúng tôi sẽ thực hiện những ý kiến quý báu của Đại tướng» và lời của ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh: «Xin Đại tướng yên tâm, chúng tôi đang kiếm chỗ để đưa cậu ta (Nguyễn Chí Vịnh) đi rèn luyện» chẳng qua chỉ là những lời hứa cuội của những người nói đó, rồi quên đó, rồi làm những việc trái ngược.
Thành ra lời chúc của Thủ tướng, của ông Tổng bí thư ngày 25-8 này xét cho cùng chỉ là vuốt đuôi, là giả tạo, là một màn kịch vậy. Các vị hãy nghe tiếng thở dài ngày nào của tướng Giáp ở ngay giữa sào huyệt bành trướng ở Trung Nam Hải và ngẫm nghĩ…
Nguồn: Blog Bùi Tín (VOA)

Võ Nguyên Giáp, cốt cách người lãnh đạo trí tuệ, bản lĩnh, nhân cách – Bùi Đức Lại

18 giờ 9 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013, Võ Nguyên Giáp, người con vĩ đại của dân tộc ta đã đi về cõi vĩnh hằng, hưởng thọ 103 tuổi.
Khi còn tại thế, Võ Nguyên Giáp xứng đáng là người được nhân dân kính trọng và yêu quý nhất trong số những người lãnh đạo cùng thế hệ; nay qua đời, Người cũng xứng đáng với niềm tiếc thương lớn lao nhất trong nhân dân và đất nước và sự xúc động của những người có lương tri khắp thế giới. Sự thương tiếc của nhân dân đối với người lãnh đạo đáng kính không chỉ mang vị mặn nước mắt mà rất nhiều sức nặng của tư duy, của lý trí.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ nước mất nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ; nhân loại chìm đắm trong đêm đen của chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột các dân tộc và gây chiến tranh tàn khốc; Người đã sớm nhận biết trách nhiệm làm người của người dân mất nước, nhận biết thời thế, để lựa chọn  con đường giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh đề xướng. Người đã can đảm đi đến cùng con đường đó, đương đầu với mọi hiểm nguy và thách thức, trong những thời điểm chiến tranh ác liệt, mất còn, cũng như trong những diễn biến phức tạp, trắc trở của công cuộc xây dựng xã hội mới. Người đã trọn đời trung thành với nhân dân mình, đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ Tổ Quốc và con người, bảo vệ  những giá trị của dân tộc và nhân loại. Ở Người, lòng  yêu nước gắn với lòng tin yêu nhân dân, con người, đồng đội đã kết hợp một cách tự nhiên với nhân cách cao cả; bản lĩnh vững vàng, trí tuệ uyên bác; phong thái điềm tĩnh, bao dung, thấu hiểu những đen trắng, xấu tốt, thị phi ở đời.  Sự kết hợp những phẩm chất tuyệt vời đó của con người, nhà chính trị và bậc hiền tài làm cho Người trở nên không thể bị đánh bại, trên chiến trường, trong chính trường cũng như trong cuộc sống. Cả  trong những lúc khó khăn nhất của đời mình, Người vẫn là người chiến thắng, chiến thắng trên trận tuyến lòng người, trong trái tim của đồng bào, đồng đội.
Trong nước và trên thế giới, đã có biết bao lời ca ngợi chân thành, những cuốn sách, những công trình nghiên cứu khoa học sâu sắc về sự nghiệp và con người Võ Nguyên Giáp.  Đồng bào, đồng đội, binh sĩ và tướng soái, dân thường và lãnh đạo, nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ, nghệ sĩ…yêu mến và ngưỡng mộ Người. Trên thế giới, những người cùng chiến tuyến tự nhận đã học được từ Người những kinh nghiệm quý báu để giải phóng nhân dân, giải phóng bản thân. Những người từng là đối thủ trên chiến trường gặp Người để hiểu rõ hơn thất bại của mình, để càng yêu mến hơn đất nước Việt Nam và kính trọng vị  thống tướng của đất nước đó.
Người qua đời, nhân dân, Đảng và quân đội mất đi người lãnh đạo chính trị và quân sự xuất sắc có công đức lớn lao bậc nhất. Cảm nhận về sự mất mát này càng lớn hơn, khi đất nước đang trong tình thế bước ngoặt, đứng trước những thách thức và khó khăn chồng chất, trong một thế giới đầy bất trắc. Ngoài trăm tuổi đời, sức khoẻ bị hao tổn qua bao gian lao và thăng trầm, Người không có điều kiện trực tiếp tham dự vào những quyết định chính trị lớn, nhưng vẫn là điểm tựa và nguồn cảm hứng về tinh thần cho mọi người yêu nước, thương nòi. Hình ảnh của Người có thể khai minh  những kẻ nhất thời  u mê, lầm lạc; khiến cho những kẻ thù của đất nước phải kiêng dè.
Đất nước không bao giờ để mất những người con vĩ đại của mình, những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp…”Thác là thể phách, còn là tinh anh”, anh linh các vị tiếp tục sống và lan toả, góp phần làm nên diện mạo và sức mạnh dân tộc, bảo vệ đất nước trước mọi kẻ xâm lược, trước mọi cái ác, sự tăm tối  và lầm lạc.
Tinh anh Võ Nguyên Giáp hiện đã được khẳng định, chắc chắn sẽ ngày càng sáng rõ hơn trong tương lai.
Nhân dân tìm thấy trong Người cốt cách người lãnh đạo mà đất nước đang cần và muốn có, người lãnh đạo có trí tuệ, bản lĩnh và nhân cách.
Võ Nguyên Giáp là nhà quân sự kiệt xuất, nhưng trước hết và sau cùng trong bản chất Người là người lãnh đạo chính trị hiện đại với ý nghĩa tốt đẹp nhất của khái niệm này. Đó là nhà chính trị có tư duy sắc sảo, sáng tạo, luôn gắn liền với thực tiễn. Trong thế hệ mình, Người là người lãnh đạo được học hành đầy đủ và có hệ thống hơn nhiều người, có kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, nhưng không lệ thuộc sách vở giáo điều trong tư duy và hành động. Người luôn xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống, một thực tiễn đã được Người xem xét, nghiền ngẫm bằng trí tuệ sáng tạo, quán xuyến nhiều lĩnh vực tri thức và trải nghiệm cá nhân sâu sắc, để đánh giá đúng sự vật, để xác định được hành động một cách quả đoán, kịp thời, mang lại hiệu quả chung cao nhất cho đất nước.
Quyết định của Võ Nguyên Giáp thay đổi cách đánh ở Điện Biên Phủ thường được xem là thắng lợi của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nhưng có lẽ trước hết phải khẳng định đó là thắng lợi của trí tuệ và bản lĩnh vô song của người lãnh đạo. Có đủ trí tuệ để nhìn ra mặt yếu của một thế trận đã sắp đặt xong với bao xương máu và công sức, đã là rất khó. Nhưng khó hơn nhiều là việc tự mình ra quyết định xoá đi thế trận đó ngay trước giờ nổ súng. Nó đòi hỏi ở người lãnh đạo tinh thần trách nhiệm, quyết đoán, dũng khí tột bực.
Xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn một cách sâu sắc, trên nhiều lĩnh vực và trong các thời kỳ, Người đã nhìn ra và nói lên tiếng nói  phản biện nghiêm túc và khoa học trong tập thể lãnh đạo,  đề xuất những kiến nghị xác đáng, hợp lý, nhiều khi  khác với chủ trương của tập thể và người  chủ trì. Người là lựa chọn xứng đáng nhất để thay mặt Đảng báo cáo và nhận lỗi trước nhân dân về sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Người cũng chính là người phát hiện và nêu ý kiến sớm nhất trước Trung ương về những thiếu sót của chính sách tập thể hoá nông nghiệp ngay từ buổi đầu; là người lên tiếng sớm nhất phê phán tình trạng mất dân chủ trong đại hội Đảng thông qua việc chia nhỏ đại hội thành các “tiểu hội” để thao túng; là người kiên trì phản đối những biểu hiện “tả” khuynh, cực đoan trong các quan hệ quốc tế. Lịch sử còn ghi lại và sẽ tiếp tục làm sáng rõ những đóng góp lớn lao của Người  xử lý tình huống sau Tổng tấn công Mậu Thân, trong chỉ đạo Chiến dịch 1975…
Ngay cả khi tuổi đã rất cao, không còn giữ cương vị lãnh đạo chính thức, Người vẫn đau đáu một tấm lòng lo lắng vận mệnh dân tộc và đời sống của nhân dân, khi bày tỏ ý kiến thẳng thắn, công khai về các vấn đề như khai thác bô xit Tây Nguyên, xây dựng Nhà Quốc hội…
Trong nhận thức của tôi, Võ Nguyên Giáp luôn luôn là người lãnh đạo có trí tuệ, bản lĩnh và nhân cách bậc nhất; là người phản biện lớn và nổi bật nhất trong hàng ngũ lãnh đạo. Lựa chọn vấn đề xác đáng, có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc; lập luận chặt chẽ  không thể phản bác;  có động cơ trong sáng hoàn toàn vì lợi ích chung;  có thái độ xây dựng, thẳng thắn, nghiêm cẩn, không công thần, trưởng lão. Người luôn nói và làm thống nhất, xuất phát từ lương tri và trách nhiệm, không sợ mọi liên luỵ, tổn thất cá nhân, đồng thời cũng am hiểu thời thế và việc đời, lượng định được cái có thể và không thể, để có những lựa chọn tối ưu trong xử lý các tình huống.
Không phải tất cả ý kiến của Người đều được lắng nghe, được tiếp thu và được thực hiện. Sẽ là vội vã cho rằng mọi ý kiến của  Người đều đúng; nhưng căn cứ vào những gì đã được thực tiễn kiểm nghiệm, thì thấy rằng tiếng nói của  Người đã luôn luôn sát với sự thật, gần gũi với yêu cầu khách quan và mong muốn chính đáng của nhân dân. Chắc chắn sẽ có lúc chúng ta sẽ hối hận vì đã không tôn trọng đúng mức và thực hiện nghiêm túc những lời khuyên nhủ và căn dặn của Người.
Đã khép lại cuộc đời của một con người cao đẹp, sống qua hai thế kỷ đầy biến động của đất nước và thời đại , đã góp phần tạo nên những biến động đó, tận tâm phục vụ đất nước và nhân loại.
Người đã làm xong sứ mệnh của mình, xin Người thanh thản ra đi.
Đất nước đang ngổn ngang trăm bề, nhân dân đang căng mình chịu đựng những khó khăn, lãnh đạo đang đối phó tìm đường. Đất nước đang rất cần có những người lãnh đạo kiểu Võ Nguyên Giáp, có trí tuệ, bản lĩnh và nhân cách xứng đáng với vai trò họ đảm nhận.
Bùi Đức Lại
Chú thích: Đây là nguyên bản của bài Tinh anh Đại tướng mãi bảo vệ Tổ quốc đã đăng trên trang Vietnamnet

Tướng Giáp trong “Bên thắng cuộc”

Chương 15
Tướng Giáp
giap
Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.
Vụ Án “ Năm Châu – Sáu Sứ ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh – Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu – Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, uỷ viên Bộ Chính trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết (173)”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khoá IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với tướng Giáp, còn tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các uỷ viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khoá VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được(174). Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khoá, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”(175). Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan tướng Trà và tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi” (176).
Năm ấy, tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi (177). Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu – Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
“Cách mạng miền Nam ”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình” (178).
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên toà xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước toà. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư (179).
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn chiến sỹ trong đó có ba nữ (180). Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng. Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng tướng Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ (181). Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực (182).
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ Tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba làm phó Tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó” (183).
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm Tổng bí thư thay Trường Chinh, uỷ viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức Tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm 1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình” (184). Ngày 9-7-1956, trong một cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh (185), cho rằng: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình” (186).
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva” (187).
Đây không chỉ là quan điểm của tướng Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hoà hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin chết ba năm trước đó (188). Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không thể ra ngoài đường lối hoà bình được. Chính đường lối tranh đấu hoà bình ấy mới tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây chiến và chính sách tàn bạo của Mỹ-Diệm” (189). Theo ông, thì hoà bình chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Nam” (190).
Trong khi tướng Giáp phân tích: “Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta” (191). Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng phương pháp hoà bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm, đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hoà bình, thống nhất đất nước” (192).
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định” (193).
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng chính quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm thơ : “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng vừa từ Xứ uỷ Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương (194).
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng: không thể hoà bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị không có ảo tưởng hoà bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế. Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hoà bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hoà hoãn không chỉ thể hiện trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế (195).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn” (196). Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát” (197). Trên thực tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới” (198).
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày 2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc (199). Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính (200) vẫn dựa trên lập trường “chung sống hoà bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông không được lựa chọn. Tháng 12-1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm (201).
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng gần gũi với tướng Giáp như Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính uỷ Sư đoàn 308, Phó Chính uỷ Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của “cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham mưu trưởng được đưa vào Nam (202) và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa về các trung tâm huấn luyện (203).
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam, “Ngô Chí Sĩ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị” (204). Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể được bảo toàn” (205). Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết (206).
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng, nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho miền Nam sụp đổ.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Một tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào “Chiến trường B” (207).
Người Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến Quân uỷ Trung ương tuần lễ đầu tháng 8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối, chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm đội Bảy. Quân uỷ cũng nhận định không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền Bắc”.
Ngày 2-8-1964, khi chiếc tàu USS Maddox di chuyển từ phía Bắc Việt Nam vào vùng biển Hòn Mê, thuộc địa phận Thanh Hoá, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng tàu phóng ngư lôi bắn trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill đã náo loạn”. Ngày 4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ có một cuộc tấn công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không ghi nhận bất cứ sự kiện gì vào ngày 4-8 cả” (208).
Vụ tàu USS Maddox đã khiến cho lòng kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964, 100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100 thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép tổng thống toàn quyền hành động quân sự với miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ Thanh Hoá, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm lớp huấn luyện, bắt đầu hành trình vượt Trường Sơn (209).
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng. Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu Maddox, trực Quân uỷ Trung ương là tướng Trần Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai” (210).
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” trở thành lý do để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự, Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực tiếp làm bí thư Trung ương Cục. Cùng đi có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hoà, Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn công này nhanh chóng biến thành một chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh “chiến dịch Sấm rền”. Sự kiện này đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho một lực lượng quân nhân của các nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm 1964, ông Lê Duẩn từng dự định “giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng cuộc đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công, nhân khi “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì chưa được đưa vào tham chiến. Đại tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã cử một “bộ khung” vào Nam.
Một thành viên trong “bộ khung” này, ông Kiều Xuân Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn và Tố Hữu tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương Cục, họ thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”. Đồng tiền “miền Nam Việt Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật danh: “Hàng 65”. Nhưng cuộc đảo chính do Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965, hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt con số 543.000 người vào năm 1968.
Mậu Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng” (211). Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận thế giới về mình” (212). Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt (213).
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi” (214). Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào đó sẽ phải thương lượng” (215).
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có gặp người Mỹ, ông hãy nói cho ho rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả” (216). Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu đến cùng của chúng tôi ” (217).
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”, cho dù tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau “những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm, tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp. Người thân của ông kể lại rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông “phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị Fontainebleau (218). Sự ra đi đột ngột của tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ” (219) khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán (220) với điều kiện Mỹ ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu biết răng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm hai nước chống đối nhau” (221).
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông, từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó là một tối hậu thư đối với nhân dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên quyết bác bỏ nhưng đề nghị trên đây của Mỹ” (222). Một kế hoạch mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam – để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném bom” (223), vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý “Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp rút xây dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày 21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác” (224).
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê hương rất mong có một món quà của tổ quốc” (225). Không chỉ hiểu tâm trạng của vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến” trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ ngoại giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức, phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I, Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng nói), như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất đoàn kết nhưng, có thời gian Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham mưu trưởng mới là tướng, còn bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó, Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ. Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói tướng Giáp chống Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông thường ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận” (226).
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” (227). Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu, Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí, bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó. Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo: Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân uỷ Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay’. Tôi hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo” (228).
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới” (229).
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình :
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên !
Toàn thắng ắt về ta!” (230)
Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng Quân uỷ, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân uỷ, là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những người thân cận với tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang (231), Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này (232).
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những uỷ viên trong Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm xét lại (233). Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm 1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh hoặc là những trợ thủ đắc lực của tướng Giáp.
Theo thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng (234): “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại Tổng Hành dinh khi không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa là không phù hợp” (235). Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào Nam (236). Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế” (237).
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000 năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào thì Sài Gòn sẽ nổi dậy (238). Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không “bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của Bí thư Lê Duẩn (239). Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được” (240). Nhưng, không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất rất nặng nề” (241). Từ chỗ đang giữ thế thượng phong trên chiến trường miền Nam, Quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng (242).
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt Cộng” bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng bắn nhau trong sân Toà Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường phố Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai tay anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách dự báo sự thất bại” (243). Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu” (244). Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa” (245).
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”. Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
“ Nghị quyết 21 ”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút thì, ở trên bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm 1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp cho sự ra đi của Mỹ có một tên gọi khác (246).
Sau Hiệp định Paris, theo tướng Giáp, ở Hà Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hoà bình, thực hiện hoà hợp, tạo thế ổn định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường chiến tranh để làm vốn tích luỹ ban đầu. Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến không muốn đánh trả e vi phạm hiệp định” (247).
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ” (248). Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định” (249).
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân uỷ Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, tướng Giáp vẫn xác định phương châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du kích, tác chiến với binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch gắn với giành dân” (250). Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định trong Hội nghị Quân uỷ: “Đối tượng tác chiến lúc này là quân nguỵ” (251). Ngày 28-3-1973, Bí thư Quân uỷ Võ Nguyên Giáp gửi điện cho các chiến trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta là chủ động tiến công, không phòng ngự đơn thuần” (252).
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày 27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được cử vào Trung ương Cục phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hoà hợp dân tộc và thi đua hoà bình”. Cùng thời gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng triển khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hoà hợp, hoà giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm 1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia “chính phủ liên hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã vào Trung ương Cục chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu uỷ ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu uỷ, triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội dung chủ trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu uỷ sẽ có chỉ đạo khác”. Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu uỷ, “quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hoà bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam Cộng hoà đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu uỷ và Quân khu, ông Kiệt khi ấy vừa trở thành uỷ viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu uỷ Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của Thường vụ Khu uỷ”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp uỷ đã ban hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông Kiệt ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các uỷ viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải dành đủ thời gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ uỷ viên trung ương nào cần nghe là phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3 (253) cũng tuỳ thuộc vào cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường tiếp tục tiến công, T3 sẽ giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như các tướng Lê Hai, Văn Tiến Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, tướng Giáp nghe rất kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ Chính trị về việc thi hành Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng có lợi cho dân, nhưng, đánh lại như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị thế khó khăn của mình, tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, tướng Giáp đã cho lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305 TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho gọi tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”. Theo tướng Đức thì sau khi nghe, Lê Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều, Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói: “Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng, tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được điện thoại của tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho Tổng bí thư. Lê Duẩn định kêu tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc, bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong Tổng Hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu (254).
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác định hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo tướng Lê Đức Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo tướng Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hoà hoãn nữa” (255).
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị Trung ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973, xác định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay cách khác, Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có tổng tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ” (256). “Bây giờ” mà tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng của Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân hàm vượt cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng như thế nào đối với khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam” (257).
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1 tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm tài khoá 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo “bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974, Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng hoà khó có khả năng kháng cự (258). Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hoà đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris. Thế nhưng, Thượng viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng thống mà còn cắt đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác, tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực thăng cấp cứu” (259). Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị quyết định đưa tướng Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và khi thấy sức khỏe của tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói với tướng Giáp: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở Đồ Sơn, tướng Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi ấy là một khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi cùng. Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc ra cho Đại tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng khởi nghĩa. 7/11 uỷ viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp chỉ còn có hai uỷ viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, tướng Giáp thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân uỷ như Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng tài và trung thành với tướng Giáp nhưng khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, “rất may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu số phục tùng đa số” và tướng Giáp thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và trực tiếp ghi chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng công kích’ được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được tướng Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt tướng Hoàng Văn Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo tướng Giáp: từ giữa năm 1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm việc, tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột (260). Tướng Giáp, tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn này.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột tướng Giáp ra lệnh cho tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ Buôn Mê Thuột, tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán của anh, Nguỵ rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay sau khi có tin tướng Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần cuối buổi họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ Chính trị và các anh bên Quân uỷ suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn là người đầu tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị đều tán thành” (261).
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là tổng tư lệnh trong chiến dịch, tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến trường.
Theo tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, tướng Giáp và Thường trực Quân uỷ nhất trí nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn, giành thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt địch và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực lượng còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm càng hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy mô lớn chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho phát triển về hướng Đông, phù hợp với Quân uỷ Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần nữa và được anh Ba đồng ý” (262).
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường Văn Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi không ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá hai mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp của lãnh đạo và người ở chiến trường” (263).
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh. Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến trường phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau ngày 18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của Quân uỷ, “giải phóng miền Nam trong năm 1975”, tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, tướng Giáp liên tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn công. Tướng Giáp phê bình tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch trong vòng năm ngày, trong khi theo tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là cao và tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ họp, hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ, Trung tá Lê Phi Long được cử làm trưởng Phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng 25-3, tướng Lê Trọng Tấn nhận những chỉ thị cuối cùng của tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển theo đường 72 ra Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào chiều 25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị, chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới ba uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, tướng Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên Hải” (264) phải “thần tốc và táo bạo” (265) còn tướng Lê Trọng Tấn thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4 (266), Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải, tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn phải vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, tướng Đức quyết định đánh thức tướng Giáp. Xem xong bức điện, tướng Giáp đồng ý ngay với tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Sau khi để tướng Đức đọc bức điện của tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”. Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?”(267). Anh Ba nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ, anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý”(268). Cũng trong ngày 24-4, tướng Tấn cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ huy Chiến dịch và tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống Nguỵ”; 11 giờ 30, cục phó Cơ yếu mang vào phòng họp bức điện của tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, tướng Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
“ Thống chế đi đặt vòng ”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, tướng Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, tướng Giáp thôi chức bí thư Quân uỷ Trung ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ thuộc về Tổng bí thư. Năm 1980, ông phải giao chức bộ trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng (269). Trước Đại hội Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt (270): “Anh Thọ cũng đưa ra những thông tin như Trần Quỳnh (271) kể nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác với những điều anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể có những uỷ viên Bộ Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”. Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt nói: “Uy tín trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình với cách cư xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền nhau : “Nhà thơ làm kinh tế / Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký “Điện Biên Phủ- Chiến dịch lịch sử”, đăng nhiều kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên của tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân uỷ” thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn Thái nổi giận đòi ngưng, tên của tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại trên tờ Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện Biên. Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên tướng Giáp. Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng đưa tin về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ” tổ chức tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách “Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không – xếp sau Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ – không “đại tướng” và không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước” đang “nức lòng ca ngợi” ấy (272).
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên 1980 lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một “tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”(272). Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm (274). Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề xuất hầu hết các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu tiên tán đồng những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi anh ra Bắc” (275). Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe, Bác bảo với anh: “Chú nói đúng” (276).
Tháng 3-1985, tướng Giáp, lúc này đã không còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông có tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng và tướng Lê Phi Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hoá thành ba thái độ: một là thẳng thắn đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của tướng Giáp vào Đà Nẵng bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh uỷ viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn bình thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì có Tổng bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì được triệu tập mà đến để nhìn tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông được xếp đứng sau chín người, trong đó có nhiều người từng là cấp dưới của ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên cạnh hai chức danh: uỷ viên Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng Diệu. Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi tướng Giáp càng bị biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời thường của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ tướng Giáp biết được vị trí trong lịch sử của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng trên những khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, tướng Giáp chính thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần minh oan như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là tổng tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết công thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi chín từ, nhưng chỉ cần cái tên tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho Cung Văn hoá Việt-Xô oà vỡ. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng tướng Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
Theo Viet-studies.info
————————————————————————–
Chú thích
(173) Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên Giang, thường trú tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Từng tham gia lực lượng Thanh niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn ở lại miền Nam.
(174) Khi chính quyền Ngô Đình Diệm lập ấp chiến lược, ba má ông Võ Viết Thanh đã lớn tuổi, chống không vô ấp. Tối 26-8-1962, một toán lính đồn Lương Phú, huyện Giồng Trôm, Bến Tre, đóng giả giải phóng quân vào nhà “mời hai bác ra gặp giải phóng quân về”. Ông bà cảnh giác không đi, liền bị trói dẫn ra bờ sông cắt cổ. Sáng hôm sau, Chính quyền Sài Gòn tung tin, “Gia đình có hai con đi tập kết, hai con đi giải phóng quân mà Việt cộng còn về giết thế này, cho nên không ai ở ngoài ấp chiến lược được”. Về cáo buộc bắt hai cán bộ quân báo, theo ông Võ Viết Thanh: Chiều 30-4-1975, trinh sát bắt được hai người: Phan Mậu, nguyên trung đoàn trưởng, Sư đoàn 5, đầu hàng Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân; Lê Đức Phượng, một tình báo viên được Cục II đánh vào năm 1954 nhưng sau đó khi bị lộ đã phản bội. Ông Thanh, khi ấy là Chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn quân báo 316, chỉ đạo thả. Nhưng, ngày 2-5-1975, ông Thanh nói: “Lữ đoàn trưởng đi giao ban Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh về, truyền đạt lệnh: Trong khi còn tranh tối tranh sáng cần xử lý ngay những tên đã gây tội ác. Anh yêu cầu tôi cho bắt lại hai đối tượng đã tha vào chiều 30-4. Tôi truyền lệnh cho đại đội trinh sát rồi từ đó bị công việc cuốn đi, không kiểm tra lại việc này nữa”. Sau Đại hội, ông Võ Viết Thanh cho lục lại toàn bộ hồ sơ, thì được Tư lệnh Quân khu Thủ đô cho biết, Lê Đức Phượng vừa mới được Cục II cấp tốc lập hồ sơ công nhận liệt sỹ. Theo ông Võ Viết Thanh: “Sau này, khi đối chất trong một cuộc họp của Bộ Chính trị, Tư Văn phải công nhận, Phượng không phải là đại uý cũng không phải là đảng viên. Tư Văn nói: Do có sự nhầm lẫn ở phòng chính sách”.
(175) Sau khi Võ Viết Thanh bị đưa ra khỏi danh sách ứng cử Ban chấp hành Trung ương, ngày 24-6-1991, Lê Đức Anh viết bức thư thứ 2: “Kính gửi anh Linh, anh Tô, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trước đây khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề nghị với Bộ Chính trị Khoá V cho phép tôi được chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm một khoá nữa. Theo sự phân công của Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp chiến lược quốc phòng-an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trước tình hình diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn, nặng hơn không hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi sẽ không làm được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xin Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và cùng với anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào tình hình mới, và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương khoá VII. Mong các anh chấp nhận. Lê Đức Anh”(Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 243). Lê Đức Anh ra viện khi Đại hội Đảng lần thứ VII bắt đầu. Ông Võ Viết Thanh kể: “Giờ giải lao, đích thân Lê Đức Anh tìm tôi, rồi nắm lấy tay tôi kéo ra một hàng ghế bên hành lang Hội trường. Ông nói: Việc xảy ra khi tôi đang bị chảy máu dạ dày, phải nằm viện nên không biết. Chuyện Bảy Thanh thì tôi biết rõ là không có vấn đề gì. Để từ từ rồi mình tính”. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nghe ông Lê Đức Anh nói vậy tôi cũng xúc động, nghĩ, Cục II làm như vậy có thể chỉ do mối quan hệ giữa tôi với Tư Văn. Nhưng, khi tôi chuẩn bị rời Bộ Nội vụ về Sài Gòn, anh Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, gọi tôi lên nói thì tôi mới giật mình. Anh Ba Ngộ nói: Bảy Thanh ơi, tôi không biết Lê Đức Anh đối xử với anh thế nào nhưng, sau Đại hội, ông ấy bảo tôi đừng để Bảy Thanh ở trong ngành mà nên chuyển ngay Bảy Thanh sang Bộ Thương mại”.
(176) Năm 1983, sau gần bảy năm lặn lội với lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được ông Võ Văn Kiệt yêu cầu về công tác trong ngành Công an. Trong năm đó, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an Thành phố. Năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông chính thức trở thành uỷ viên Trung ương khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ là uỷ viên dự khuyết. Trung tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân đội. Bị buộc phải ra đi ở một thời điểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được tướng Giáp ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu – Sáu Sứ” còn chặn được con đường của ông Võ Viết Thanh, người mà ông Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ khi ông trở thành Thủ tướng.
(177) Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Tướng Giáp kể: “Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa quân Cần Vương”. Những năm học ở Trường Quốc Học Huế, cậu Giáp thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai. Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khoá để phản đối. Vì sự kiện ấy Giáp cũng bị đuổi học, về làng. Anh Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp: “Chúng tôi đã lập Đảng Tân Việt”. Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 10-1930, Giáp bị bắt cùng với thầy Đặng Thai Mai và nhiều người khác, trong đó có Nguyễn Thị Quang Thái, em gái nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1929, Giáp cùng thấy Mai ra Hà Nội, vừa dạy sử ở trường Thăng Long, vừa tự học lấy bằng cử nhân luật và kinh tế. Một trong những học trò của tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà năm 1965, viết: “Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” (Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23). Năm 1946, khi ông Đặng Thai Mai chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái của thầy Mai, Đặng Bích Hà đã là một cô gái xuân mười chín. Họ lấy nhau và có bốn người con. Sau 1954, cả gia đình tướng Giáp, kể cả người con gái của ông và bà Quang Thái, Võ Hồng Anh, sống quây quần trong biệt thự 30 Hoàng Diệu.
(178) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36
(179) Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái cưới nhau năm 1935. Năm 1940, khi cùng Phạm Văn Đồng sang Vân Nam gặp Nguyễn Ái Quốc, Giáp chia tay với người vợ trẻ khi họ vừa có Hồng Anh, con gái đầu lòng. Sau đó, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt rồi chết ở trong tù vào năm 1944. Theo lời kể của Giáo sư Võ Hồng Anh, con gái tướng Giáp: “Năm 1929, cha tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xoã, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”.
(180) tướng Giáp là người đội mũ phớt trong bức hình chụp “34 chiến sỹ này” nên về sau Lê Đức Thọ đã gọi ông là “ông tướng mũ phớt”.
(181) Năm 1948, với tư cách là uỷ viên Thường vụ Trung ương, ông Thọ được cử vào Nam, nơi ông Lê Duẩn đang là bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ uỷ tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ uỷ Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề. Theo ông Võ Văn Kiệt, người có mặt trong hội nghị này: “Mặc dù phái đoàn (anh Lê Đức Thọ) có những đánh giá không sát với chiến trường Nam Bộ, nhưng trước hội nghị, anh Ba vẫn nhận lấy trách nhiệm một cách nghiêm túc. Phát biểu của anh Ba như tiếp thêm nguồn sinh lực và làm cho hội nghị trở nên hào hứng khi anh phân tích có sức thuyết phục bằng tầm bao quát sâu rộng và những lý lẽ được minh chứng bằng thực tiễn sinh động”. Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Lê Kiên Thành, nói rằng, khi mới vào Nam Bộ, ông Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ uỷ, nhưng đã bị ông Lê Duẩn thuyết phục hoàn toàn. Ông Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
(182) Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm. Hai vợ chồng ông Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện), Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ). Năm mười lăm tuổi, khi đang học tại trường tiểu học tại Nam Định, Lê Đức Thọ đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Ba năm sau ông tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng, làm bí thư chi bộ học sinh. Tháng 11-1930, thì bị bắt, bị kết án mười năm khổ sai và bị đày đi Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn vào năm 1936. Nhưng, năm 1939, do có hai đảng viên phản bội, gần như tất cả các tổ chức cộng sản ở bốn tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình đều bị vỡ, trên 500 nguời bị bắt, trong đó có ba anh em Phan Đình Khải. Theo Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, “Phan Đình Khải bị tra tấn rất dã man vẫn không khai”. Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn La, Lê Đức Thọ bắt đầu được giao phụ trách công tổ chức và huấn luyện cán bộ (từ tháng 9-1944) và được chỉ định làm uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ. Ông Thọ là một trong số các nhà lãnh đạo của Đảng dự hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương đêm 9-3-1945, hội nghị đề ra chủ trương “phát động một cao trào cách mạng đi tới cuộc tổng khởi nghĩa”. Ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, tháng 8-1945 và kể từ sau Cách mạng tháng Tám được chính thức giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Từ năm 1956, sau khi ông Lê Văn Lương nhận án kỷ luật trong vụ cải cách ruộng đất, Lê Đức Thọ chính thức làm trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(183) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 36
(184) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(185) Bài diễn văn ngày 9-7-1956 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “Tháng 7-1956 đã đến, cuộc tổng tuyển cử đúng kỳ hạn theo hiệp định Geneva quy định đang bị đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam phá hoại. Nhưng, trong thời gian hai năm qua nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn: miền Bắc được giải phóng và bước đầu được củng cố, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam được giữ vững và rèn luyện, sự đồng tình quốc tế ngày càng vững thêm… Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình… Chúng ta đã kháng chiến lâu dài để tranh thủ hoà bình, hoà bình được lập lại là một thắng lợi của nhân dân ta. Hoà bình càng được củng cố lâu dài thì thắng lợi của ta càng có điều kiện phát triển. Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để thực hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng tức là cuộc thi đua hoà bình giữa chế độ chính trị của miền Bắc và chế độ chính trị của miền Nam ở trong phạm vi một nước” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(186) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(187) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(188) Trong bài phát biểu trước cuộc mit tin ở Hà Nội ngày 9-7-1956, tướng Giáp nói: “Trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (thi đua hoà bình) là chủ trương chính xác duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, đại hội đã nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ nghĩa xã hội trong đó có đường lối hoà bình phát triển không dùng đến vũ trang đấu tranh” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(189) Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 17-1956, trang 797-798.
(190) Sách đã dẫn.
(191) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(192) Sách đã dẫn.
(193) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 35-36.
(194) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002.
(195) Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009.
(196) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36.
(197) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster 2003, trang 26
(198) Sách đã dẫn
(199) Hai đại đội Quân Giải phóng đã đọ súng với một lực lượng quân Việt Nam Cộng hoà đông gấp bốn lần, có thiết vận xa M113, máy bay, pháo binh và cố vấn Mỹ. Kết quả, phía Việt Nam Cộng hoà: sáu mươi chết, 109 bị thương; cố vấn Mỹ: 3 chết, 8 bị thương. Phía Quân Giải phóng, ngay trong đêm rút lui an toàn về Đồng Tháp mươi.
(200) Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.
(201) Tháng 4-1963, ông Ung Văn Khiêm đã bị cho thôi chức Bộ trưởng Ngoại giao sang làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
(202) Tháng 9-1963, Đại tá Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm phó Tổng tham mưu trưởng và vào “cuối mùa đông” năm đó ông được cử vào Nam. Theo ông Lê Đức Anh: “Trước ngày ra đi ông Văn Tiến Dũng căn dặn: ‘Vào tới nơi anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các anh thực hiện Nghị quyết 15: Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự tại chỗ; thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông; thứ ba, cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng’. Sau đó, ông Lê Đức Anh sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu, ông Lê Duẩn nói: ‘Ba ý kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 63). Khi ấy, ở Trung ương Cục ông Nguyễn Văn Linh đang là bí thư; ở Bộ chỉ huy Miền, tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh, cả hai đều nói: “Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 65).
(203) Theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Ngày 1-12-1963, tôi được thông báo về nhận nhiệm vụ mới… Chúng tôi hành quân vào tập kết ở Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Tại đây, các đồng chí Tô Ký, Đồng Văn Cống, quán triệt tình hình nhiệm vụ, động viên và bố trí chuẩn bị lần cuối thật chu tất cho chuyến hành quân xa” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 87).
(204) Giữa năm 1963, Sắc lệnh cấm treo cờ của các giáo phái, các nhóm tôn giáo và các đảng phải chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tạo ra một làn sóng chống đối. Trong cuộc biểu tình tại Huế vào ngày 8-5-1963, binh lính đã nổ súng vào đoàn người biểu tình. Ngày 11-6-1963, tại Sài Gòn, trước ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Bức ảnh chụp vị sư già ngồi thiền trong khi lửa cháy được truyền đi khắp thế giới như một bằng chứng về sự mất lòng dân của Ngô Đình Diệm. “Giọt nước tràn ly” khi ngày 21-8-1963, lực lượng của Ngô Đình Nhu bất ngờ khám xét hàng loạt chùa chiền, bắt đi hơn 1.400 nhà sư.
(205) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 35
(206) Ngày 2-11-1963: 6:20, ông Diệm gọi điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn xin đầu hàng và được an toàn tới phi trường để ra đi cùng với Ngô Đình Nhu; 6:45 tướng Khiêm được ông Diệm cho biết nơi hai anh em ông đang trốn; 7:00 tướng Big Minh sai Mai Hữu Xuân đi đưa ông Diệm về Bộ Tổng Tham Mưu; 8:30 hai anh em Diệm và Nhu bị giết trong một chiếc xe M113, trên xe khi ấy có Đại uý Nguyễn Văn Nhung, cận vệ tướng Big Minh. Không rõ ai đã ra lệnh giết hai ông Diệm – Nhu vì sau đó ít lâu Đại uý Nhung đã chết và được công bố là “tự tử”.
(207) Mật danh các chiến trường miền Nam: B-2 gồm các tỉnh Nam Bộ; B-3 Tây Nguyên. Các chiến trường Campuchia gọi là K; Lào gọi là C.
(208) tướng Giáp khẳng định với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuộc gặp ngày 23-6-1997 tại Hà Nội. Năm 2005, tài liệu giải mật của Nhà Trắng cho thấy Tổng thống Johnson biết là không có cuộc tấn công thứ hai vào ngày 4-8. Tuy nhiên, sự kiện ấy đã không được Nhà Trắng báo cho Quốc hội và ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng cũng bất ngờ khi nghe tướng Giáp nói.
(209) Đại tướng Phạm Văn Trà kể: “Ngày 14-8-1964, đoàn chúng tôi chính thức lên đường. Đoàn xe ô tô của Tổng cục Hậu cần đưa chúng tôi về Nam theo đường số 1. Toàn đoàn trên dưới 160 anh em, hầu hết là sĩ quan cấp uý… Trước đó hơn một tuần, không quân Mỹ đã ào ạt đánh phá Đồng Hới, Quảng Bình, Vinh – Cửa Hội, Nghệ An, Lạch Trường, Thanh Hoá, Hòn Gai, Quảng Ninh… Bà con ở Vinh kể lại, ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom trúng kho xăng Bến Thuỷ, mặc dầu xăng dầu ta chuyển sơ tán từ trước, chỉ còn dầu cặn, nhưng khói lửa vẫn bùng cao hàng nghìn mét” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 92).
(210) Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa, tướng Trần Quý Hai là người thân tín của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
(211) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(212) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 124.
(213) Mikhalowski, được nói là “đặt nhiều hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ông nói: “Tôi được uỷ nhiệm của các đồng chí lãnh đạo chúng tôi đến tìm hiểu ý kiến của các đồng chí về việc này… Tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Mỹ thấy các đồng chí bác bỏ khả năng đàm phán thì chỉ còn con đường đẩy mạnh chiến tranh” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách dã dẫn, trang 127-128). Nhưng, Hồ Chí Minh còn tỏ ra cứng rắn hơn cả Phạm Văn Đồng: “Tại sao Mỹ phải đi gõ cửa khắp nơi? Chính Mỹ gửi quân đội Mỹ đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lược, như vậy vấn đề sẽ giải quyết. Mỹ phải cút đi!… Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gut-bai (Goodbye)” (sách dã dẫn, trang 128). Mikhalowski cố gắng: “Chiến tranh ghê gớm sẽ kéo dài năm năm, mười năm. Tại sao không vận dụng chiên thuật chính trị để đạt được kết quả tương tự? Rất có thể là Mỹ bây giờ cũng muốn rút lui theo một phương thức nào đó” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Mỹ có mạnh hơn Pháp, nhưng ngay nay chúng tôi cũng mạnh hơn trước kia… Khi chống Pháp, chúng tôi có một mình, bây giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ chúng tôi” (sách dã dẫn, trang 129). Mikhalowski: “Nhưng phe xã hội chủ nghĩa của chúng ta không nhất trí. Chỉ có các đồng chí là đổ máu. Giá phải trả sẽ rất cao” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Nhân dân Việt Nam không sợ. Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu chúng tôi sẽ hoàn thành” (sách dã dẫn, trang 129).
(214) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 147.
(215) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 147.
(216) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 148.
(217) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 149.
(218) Raymond Aubrac (1914-2012), và vợ ông, bà Lucie (1912-2007), là hai nhân vật kiệt xuất trong cuộc Kháng chiến của người Pháp chống Phát xít Đức (1940-1944). Trong thời gian lãnh đạo chính quyền ở Marseille, nửa cuối năm 1944, Raymond Aubrac đã tận tình giúp đỡ giới “lính thợ” (ONS) người Việt ở vùng này, những người mà về sau trở thành những hạt nhân đầu tiên của phong trào Việt kiều ở Pháp. Mùa hè 1946, khi tới Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm gặp Raymond Aubrac. Chỉ sau một lần tiếp xúc, chủ tịch Hồ Chí Minh và những người thân cận trong phái đoàn (Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng, đóng vai ‘tuỳ viên quân sự’, Phạm Văn Đồng, người sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị Fontainebleau…) đã trở thành “khách” thường trú tại ngôi nhà của ông bà ở Soisy-sous-Montmorency (cách Paris 16 km về phía bắc). Cũng trong thời gian này, bà Lucie đã sinh hạ con gái út là Elisabeth (Babette) mà Hồ Chủ tịch nhận làm cha đỡ đầu. Ngoài chuyến đi đến Hà Nội năm 1967, năm 1975, khi chiến tranh vừa chấm dứt, Raymond Aubrac đã thuyết phục được McNamara trao cho chính phủ Việt Nam toàn bộ các bản đồ các bãi mìn dọc theo “bức tường McNamara” (theo Nguyễn Ngọc Giao).
(219) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 215.
(220) Phạm Văn Đồng đã nói cụ thể với hai sứ giả của Washington: “Có hai loại vấn đề: thương lượng và giải pháp. Muốn có thương lượng, chúng tôi đứng trên lập trường nguyên tắc của chúng tôi: phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc mới có thể thương lượng. Trong quá trình thương lượng, chúng tôi biết chúng tôi phải nói gì. Mỹ hãy chuẩn bị về phía họ!”. Aubrac: “Thế nào là việc ném bom không điều kiện?”. Phạm Văn Đồng: “Tôi muốn họ ra một tuyên bố. Nhưng chúng tôi không quá khó tính”. Marcovich: “Có lẽ là một việc ngừng ném bom trên thực tế, không tuyên bố”. Phạm Văn Đồng: “Chúng tôi không khó tính về điểm này. Điều chủ yếu là ngừng không điều kiện. Chúng tôi sẽ không nói chuyên dưới sự đe doạ của bom đạn”. Marcovich nhắc lại điều mà một năm trước đó Sainteny đã nói: “Hoa Kỳ không muốn chịu mất thể diện. Kissinger đã nói với chúng tôi: làm thế nào giúp họ rút đi” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 218).
(221) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228.
(222) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228-229.
(223) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(224) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(225) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(226) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(227) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(228) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(229) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(230) Theo Vũ Kỳ: “Hai Bác cháu lại ngồi im lặng bên nhau, nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa. Thời gian trôi đi chầm chậm. Thấy vẻ Bác trầm ngâm đượm buồn… Từ ngày Bác trở về nước sau hơn ba mươi năm xa tổ quốc, có năm nào Tết đến mà Bác không đến với đồng bào và chiến sĩ đâu… Chỉ có mùa xuân này Bác phải xa tổ quốc. Bác bảo tôi: chú mở cái băng gì vui vui cho Bác nghe với. Tôi biết Bác thương nhớ nhất các cháu nhỏ nên tôi chọn một băng có nhiều bài hát thiếu nhi mở cho Bác nghe. Khi một giọng hát ngây thơ của một em bé hát bài “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố Đông”, tôi thấy Bác mỉm cười. Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh Mùi đón Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang sảng:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!
Tiếng Bác Hồ ngân vang. Trong căn phòng vắng chỉ có hai người”. Bài thơ trên đây được Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12-1967 (Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998).
(231) Đặng Kim Giang là một trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, với vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo mỗi ngày năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
(232) Ông Nguyễn Kiến Giang, người bị bắt giam sáu năm và quản chế ba năm, nói: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa. Người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế, bị giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần mười năm, cho đến khi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân, tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
(233) Ngày 27-1-1972, Ban Chấp hành Trung ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh, khai trừ đảng tịch ông Vịnh, ông Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng và Lê Liêm. Ngày 13-10-1977, sau khi giữ đảng tịch, giữ quân hàm thiếu tướng cho tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3 uỷ viên Trung ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
(234) Từ năm 1973, ông Phạm Văn Hùng là thư ký ông Võ Văn Kiệt.
(235) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(236) Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, một phòng đặc biệt phụ trách chi viện cho miền Nam: Trong năm 1967, Trung ương cho in 10.000 hòm tiền “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”; vì số tiền này dự định phát hành trong năm 1968 nên có mật danh là “hàng 68”. Khi ấy, ở Trung ương Cục cũng đang tồn 14.000 hòm tiền “Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, mật danh là “hàng 65”. Dự kiến, tuỳ theo tình hình, giải phóng ở cấp độ nào thì dùng “hàng” ở quy mô ấy.
(237) tướng Giáp phát biểu với các tướng lĩnh làm công tác Tổng kết chiến tranh ngày 9-2-1999 – Theo tướng Lê Phi Long.
(238) Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 14, tháng 12-1967: “Muốn thắng nó, làm sập nó dữ, không phải đánh thường thường như bây giờ, mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Ông giải thích: “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa… (theo) quan niệm của Lênin: khởi nghĩa ở đô thị là một cuộc cướp chính quyền, là giai đoạn đầu tiên của chiến tranh cách mạng, không có cuộc khởi nghĩa nào rồi là xong đâu, như ta làm Cách mạng Tháng Tám rồi, ta phải kháng chiến chín năm nữa”. Nhưng, ông nhấn mạnh: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng, không phải giai đoạn đầu, không phải là một cú, mà là một giai đoạn… Ta có lý luận quân sự,… có những lực lượng quân sự khá mạnh, những chủ trương lớn và những mũi nhọn khá mạnh đánh ngay vào tim nó; vùng dậy cả về quân sự, chính trị trong một thời gian. Ở đây ta có nhảy vọt lên, nó có nhảy vọt xuống, ghê gớm lắm, không lường thế nào cho hết đâu. Nếu Sài Gòn bị sập một cái, nửa triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta đánh nó thì lắm vấn đề lớn lắm, không lường hết được” (Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008).
(239) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(240) Đại tá Tư Chu giải thích: “Theo kế hoạch chiến đấu Đợt Một Mậu Thân thì các đơn vị Biệt động có nhiệm vụ xung kích, cố giữ các mục tiêu trong vòng một giờ, sẽ có các tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn của các phân khu tiến vào tiếp ứng để đánh chiếm toàn bộ mục tiêu, tiêu diệt cơ quan đầu não của Mỹ-Nguỵ, đồng thời có binh biến của một số đơn vị nguỵ quân, có nổi dậy của hàng vạn thanh niên và quần chúng ở các quận nội đô để giành quyền làm chủ các địa bàn, mục tiêu ta chiếm được. Trên thực tế, không có binh biến cũng như nổi dậy, bộ đội chủ lực thì có nơi không vào kịp, hoặc không vào được, chỉ có các đơn vị biệt động đánh vào 5 mục tiêu một cách đơn độc, có đơn vị phải chiến đấu cho đến người cuối cùng”.
(241) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(242) Ở Huế: Khoảng 2:40, một tiểu đoàn đặc công người Huế, 2 trung đoàn bộ binh người miền Bắc và một tiểu đoàn hoả lực tràn vào chiếm Thành. Trong 6 ngày đầu của cuộc tấn công, Đại tá Tỉnh trưởng Thừa Thiên Phạm Văn Khoa phải trốn trên xà nhà của một bệnh viện. Quân Giải phóng đã trụ được 26 ngày và một số ngày trong khoảng thời gian này, cờ xanh – đỏ – sao vàng đã được kéo lên cột cờ cao nhất ở Huế. Nhưng, Huế đã bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn của cả đôi bên: 14.000 thường dân chết; 24.000 dân thường bị thương, chưa kể gần 3.000 lính Sài Gòn và lính Mỹ; 627.000 người dân mất nhà mất cửa. Có nhiều người Huế đã bị bắt đi, bị thủ tiêu. Huế, đã trở thành một biểu tượng khiến cho khi nói về Mậu Thân, người dân miền Nam đã nghĩ ngay đến màu tang tóc. Ở miền Tây, theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Tiểu đoàn chúng tôi, ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một nghìn tay súng, sau khi kết thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ. Có tiểu đoàn, khi đánh vào Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ vài chục chiếc, mỗi chiếc chở vài ba anh em. Đành rằng, trong chiến tranh, không phải lúc nào cũng lấy việc ‘đếm xác’ của hai bên trên chiến trường để kết luận sự thắng bại; nhưng để tổn thất lớn là điều chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ; đặc biệt đối với chúng tôi là những người cầm quân trên chiến trường… Tôi nhớ khi đó anh em trong đơn vị đã truyền nhau mấy câu lục bát:
Vòng cung đi dễ khó về
Đạn chen đầu đạn, bom kề hố bom;
Hay là:
Tưởng là lên lộ đi xe
Ai ngờ trở lại không ghe, không xuồng.
Chủ nhân của mấy câu lục bát ấy, một phong viên mặt trận, bị phát hiện và chịu nhận hình thức cảnh cáo”(Phạm Văn Trà, Hồi ký Đời Chiến sỹ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 142-143). Trên thực tế chiến trường, Cuộc Tổng công kích và khởi nghĩa đã bị nghiền nát. Tài liệu kiểm điểm của Khu uỷ Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư từ năm 1970, viết: Do“chăm bẵm vào khả năng giải phóng hoàn toàn”, Khu uỷ đã tập trung toàn lực, tấn công vào đầu não đô thị. Quân đội Mỹ và Sài Gòn, nhân cơ hội ấy, tiến hành “Bình định đặc biệt”,“Bình định cấp tốc” ở vùng nông thôn, gom dân vào ấp, cán bộ đảng viên bị dạt ra khỏi dân. Quân đội Sài Gòn đóng thêm 1000 đồn bốt. Trong số 250 xã Miền Tây Nam Bộ, cuối năm 1968, có 50 xã, đảng viên phải ly hương; 40 xã khác, chỉ còn một hoặc hai đảng viên. Các trung đoàn chủ lực cũng bị đánh dạt sâu về Trà Vinh, U Minh. Trong khi số lượng du kích sụt, tân binh lại không tuyển được ngay cả trong những “xã giải phóng”… Trong Chiến dịch Mậu Thân, ông Võ Văn Kiệt đã vào sâu tận nội thành Sài Gòn, chiều mùng Một Tết, ông đã có mặt ở một xóm nhỏ gần đình Bình Đông, Quận Tám. Tiền phương của Sài Gòn cũng nhận được những lệnh liên tiếp tập kích vào đô thị để “giành thắng lợi tối đa”. Những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không thể nào tính được. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng”. Chưa bao giờ quân Giải phóng ở trong tình trạng như vậy, có những sỹ quan chỉ huy cấp sư đoàn cũng chịu không nổi, phải ra đầu hàng chính quyền Sài Gòn. Ngày 9-2-1999, khi nói chuyện với các tướng lĩnh làm Tổng kết chiến tranh, tướng Giáp nói: “Có đồng chí chỉ huy gửi điện cho tôi nói rõ tình hình bộ đội tan tác, ẩn nấp trong rừng mặn ngập nước ở phía Đông Nam Sài Gòn, tướng không chỉ huy được quân nữa. Ở Huế, anh Trần Văn Quang gửi tôi một bức điện dài 16 trang, xin rút. Tôi đồng ý và viết điện trả lời. Sáng hôm sau giao ban thấy bức điện vẫn để nguyên trên bàn, tôi hỏi tại sao chưa gửi thì anh Văn Tiến Dũng trả lời: ‘Việc này hệ trọng phải đem ra bàn bạc trong tập thể Quân uỷ đã, mình anh quyết định sao được’. May mà lúc đó ở dưới, anh em đã rút. Đồng chí Tư Chu, chỉ huy Biệt Động Sài Gòn, cũng có kể cho tôi nghe thực cảnh bộ đội sau năm 1968. Thiệt hại to lớn quá. Giá đắt quá! Về Huế thì anh Đặng Kinh, khi ấy là phó tư lệnh Mặt trận, biết quá rõ. Sau này anh ấy ra Bộ báo cáo và để lại nhiều tài liệu quan trọng. Những băn khoăn về Mậu Thân còn dai dẳng, thời gian cũng không thể che lấp được. Lịch sử đang đợi những người còn sống phải làm rõ, nhất là những người có chức, có quyền”.
(243) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 47
(244) Sách đã dẫn.
(245) Sách đã dẫn.
(246) Xem Phụ lục: Đánh & Đàm.
(247) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 48-49.
(248) Sách đã dẫn, trang 54.
(249) Sách đã dẫn, trang 55.
(250) Sách đã dẫn, trang 55.
(251) Sách đã dẫn, trang 55.
(252) Sách đã dẫn, trang 55.
(253) Mật danh của Khu IX.
(254) Các tướng lĩnh cho rằng Trần Quỳnh đã bịa đặt khi viết trong Hồi ký: “Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại nhà riêng của Lê Duẩn, có khi tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ chính trị quyết định. Cách làm việc của Lê Duẩn có tính cách gia đình, không biên bản không ghi âm. Lê Duẩn nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến của Lê Duẩn làm của mình”.
(255) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 67.
(256) Trần Văn Trà, Hồi ký Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, Nhà Xuất bản Văn Nghệ TP HCM 1982.
(257) Henry Kissinger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 493
(258) Quân lực Việt Nam Cộng hoà lúc đó ở trong tình trạng: “Không đủ để thay thế các thiết bị hư hỏng hoặc mất mát; Giảm 50 phần trăm hiệu năng của số máy bay đã hạ cánh thuộc 11 phi đội hàng đầu; Giảm 30 phần trăm sự hoạt động của các tầu biển và 82 phần trăm đối với các tầu sông; Quân nhu y tế sẽ sử dụng hết vào cuối tháng Năm năm 1975; Nhiên liệu cho lục quân sẽ cạn kiệt vào cuối tháng Tư năm 1975; Vào cuối năm tài khoá 1975, Quân đội sẽ chỉ có một phần tư số dự trữ đạn dược tối thiểu cần thiết để đối phó một cuộc tấn công lớn; Các máy bay và thiết bị mặt đất không dùng đến sẽ bị hư hỏng nhanh chóng” (Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 496).
(259) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa Xuân Đại Thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 93.
(260) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong Đại thắng Mùa Xuân, Nhà Xuất bản Chinh trị Quốc gia 2000.
(261) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 664.
(262) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 665.
(263) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 666.
(264) Tiền thân là Mặt trận Quảng Đà, gồm Quân đoàn II, Quân đoàn IV, Sư 3 và Quân khu V. Ngày 16-4-1975, lực lượng của “Cánh quân Duyên Hải” đã đánh vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn III Sài Gòn ở Phan Rang, bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang và lúc bấy giờ đã đánh vỡ tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa, đưa một đạo quân gần bốn vạn người, cùng với 2.500 xe pháo các loại trong đó có gần l00 xe tăng thiết giáp, 250 xe kéo pháo vào khu vực tập kết.
(265) Điện ngày 7-4-1975 của tướng Giáp gửi Lê Trọng Tấn:
“Mệnh lệnh
1- Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2- Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn”.
(265) Trong cuốn Tổng tập Lê Duẩn, cả ông Lê Hữu Đức và bà Diệu Muội đều nhầm là ngày 29-4-1975.
(267) Trong chiến tranh, Cục Tác chiến là cơ quan trực tiếp báo cáo tình hình chiến trường và chuẩn bị các tài liệu, kể cả soạn thảo các nghị quyết cho Quân uỷ và Bộ Chính trị, và các bức điện ký tên các nhân vật trong Bộ Chính trị. Theo Trung tướng Cục Trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức, trong suốt 55 ngày đêm của Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ có bức điện ngày 9-3-1975 là do chính tay ông Lê Duẩn viết, “Tất cả những bức điện ký tên Anh Ba khác đều do cơ quan Tác chiến chúng tôi dự thảo, anh duyệt và ký tên, cơ quan Tác chiến chuyển qua Cục Cơ yếu điện đi”.
(268) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 667.
(269) Cũng năm ấy, ông Phạm Hùng được cử thay thế Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn; Nguyễn Cơ Thạch chính thức làm Bộ trưởng Ngoại Giao thay thế Nguyễn Duy Trinh; ông Tố Hữu được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế.
(270) Khi ấy là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị.
(271) “Vụ án Chống Đảng” mà Lê Đức Thọ tiến hành được trợ lý của Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, kể: “Đặng Kim Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ quan tình báo” của Liên Xô. Theo Trần Quỳnh thì đích thân Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn về “vai trò của Võ Nguyên Giáp trong tổ chức chống Đảng này”. Trần Quỳnh viết: “Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu: Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên các chế độ đãi ngộ… Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại”.
(272) Chỉ có tờ Tổ quốc, cơ quan của Đảng Xã hội Việt Nam, vào dịp 7-5-1984 vẫn phát hành một số đặc biệt nói về Điện Biên Phủ, trong đó ca ngợi tài năng và, lần đầu tiên nói đến quyết định “kéo pháo ra” của tướng Giáp. Tuy tờ Tổ quốc là của Đảng Xã hội, nhưng tổng biên tập, ông Hàm Châu vẫn là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên việc ca ngợi tướng Giáp đã khiến ông Hàm Châu bị Ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhắc nhở. Theo ông Hàm Châu: Ông Phan Quang, vụ trưởng báo chí của Ban Tuyên huấn Trung ương, gọi ông lên hỏi: “Vì sao đã có chỉ thị không nhắc tên cá nhân anh Giáp mà Tổ quốc vẫn đưa?”. Chủ trương không nhắc tên Võ Nguyên Giáp trong các bài kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ là một “chỉ thị miệng” chỉ được Lê Đức Thọ truyền đạt tới ba cơ quan báo chí lớn: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân và Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuộc gặp này, Lê Đức Thọ nói: “Từ nay đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt nữa”. Ông Hàm Châu nói: “Thậm chí, Lê Đức Thọ còn định lấy ngày thành lập đội du kích Bắc Sơn, 14-2-1941, thay vì ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng quân 22-12-1944 làm ngày thành lập quân đội”. Cho dù “chỉ thị miệng” này ngay sau đó được các đồng nghiệp ở báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân truyền đi. Nhưng, về lý thì không thể kỷ luật những người không nhận được lệnh này một cách trực tiếp. Phan Quang chấp nhận giải trình của Hàm Châu. Ông Hàm Châu nói: “Thâm tâm, chính Phan Quang cũng không đồng ý với chỉ thị của ông Lê Đức Thọ”.
(273) Nhân sinh nhật lần thứ 75 của Tổng bí thư Lê Duẩn, báo Nhân Dân số ra ngày 7-11-1982 đăng bài “Sáng tạo, một tấm gương lớn” của Thép Mới viết về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau khi nhắc đến Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Thép Mới coi “Đề cương cách mạng miền Nam” như một loại sách “Bình Mỹ” mà Lê Duẩn đã “thai nghén từ Biên bạch tới Sài Gòn” để sánh với sách “Bình Ngô” mà Nguyễn Trãi ngồi ở “góc thành Nam, lều một gian” viết 600 năm trước. Dẫn lại một nhận xét về Lê Duẩn của Hoài Thanh: “Mỗi lần anh phát biểu ý kiến, chúng ta đều thấy có gì mới và sâu, soi sáng rất nhiều cho chúng ta”, Thép Mới viết: “Có sức nghĩ của những con người là chỗ dựa cho mạch nghĩ của cả một thế hệ và là điểm tựa chắc chắn cho cả mai đây”. Từ năm 1984, Ban Bí thư cử một nhóm viết tiểu sử và hồi ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn, nhóm gồm ba người: Thép Mới, Bùi Tín và Đống Ngạc, thư ký riêng của Lê Duẩn. Nhóm được ông Lê Duẩn trực tiếp kể về mình tại nhà nghỉ Hồ Tây hoặc tại Đồ Sơn. Cùng nghe có ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng. Đến buổi thứ 5 thì Bùi Tín xin rút. Loạt bài, Thời Thắng Mỹ (đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985), về sau xuất hiện trên báo Nhân Dân chỉ còn đứng tên Thép Mới.
(274) Trong phần nói về cuộc tập kết năm 1955, Thép Mới viết: “Đến giờ kéo neo tàu chạy, anh Ba nắm tay anh Sáu (Lê Đức Thọ): ‘Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí trong này ngày đêm mong Bác sống lâu, mạnh khỏe. Anh cho tôi gửi lời chào Bác, anh Trường Chinh và tất cả các anh ngoài đó. Tình hình này thì dễ đến mười tám, hai mươi năm nữa, anh em ta mới lại gặp nhau”. Lịch sử Nam-Bắc sau đó đã bị phân chia đúng 20 năm: 1955-1975 như… “tiên tri” của Lê Duẩn.
(275) Thép Mới, Thời Thắng Mỹ, đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985.
(276) Thép Mới, sách đã dẫn.

2057. TRIỀU TIÊN GIỮA ÁP LỰC ĐÒI MỞ CỬA Ở TRONG NƯỚC VÀ SỰ ĐE DỌA TỪ BÊN NGOÀI

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Năm, ngày 03/10/2013
TTXVN (Algiers 2/10)
Tại châu Âu và Mỹ, dư luận đặt câu hỏi cơ sở nào để tiến hành cuộc chiến chống Syria. Theo tạp chí “Địa chính trị”, không phải vì họ vô cảm trước nỗi thống khổ và những mất mát của người dân Syria, mà họ biết được nguy cơ dẫn đến sa lầy, vì họ sợ Damascus và đồng minh sẽ trả thù theo kiểu khủng bố và cuối cùng, họ tự hỏi trong thời đói kém kinh tế này, có nên ưu tiên cho các vấn đề trong nước không.
Cũng có những người đặt câu hỏi những dàn tên lửa hành trình dùng để triệt hạ năng lực quân sự của Tổng thống Bashar al-Assad mà không giúp người dân Syria giảm được nỗi thống khổ của mình, liệu có gây ra làn sóng hậu quả không mong muốn trong toàn khu vực để từ đó làm thức tỉnh các phong trào khủng bố ở Liban và tạo thuận lợi cho lực lượng Hồi giáo thánh chiến lên nắm quyền ở Damascus không, có làm trầm trọng thêm cuộc chiến tranh tôn giáo giữa phái Shiite ở Iran và phái Sunni ở Saudi Arabia không, có khơi sâu thêm mối hận thù chống Mỹ không, có khiến Iran thúc đẩy chương trình hạt nhân của mình nhanh hơn không. Những câu hỏi đó vốn đặt những gì là tốt đẹp về lòng kiên nhẫn và nỗ lực ngoại giao đối lập với chủ nghĩa cực đoan hung hãn và ưa chiến tranh, cũng đáng được đặt ra đối với vùng đất Triều Tiên nằm cách đó 8.000 km về phía Đông, nơi từ năm 1994, Mỹ hết áp dụng lập trường linh hoạt lại chuyển sang thái độ cứng rắn kích động chiến tranh.
Tuy nhiên, trong lập trường của Mỹ cũng có thiên hướng rõ nét ưu tiên không nhân nhượng với những lời đe dọa trả đũa về quân sự vốn không mang lại điều gì khác ngoài tình hình căng thẳng giúp chế độ Bình Nhưỡng tái khởi động chương trình hạt nhân và với sự giúp đỡ của Trung Quốc, kéo dài sự tồn tại của chế độ kìm kẹp gây ra hậu quả nhân đạo tàn phá ghê gớm hơn hậu quả nảy sinh từ cuộc xung đột Syria. Bán đảo Triều Tiên hơn các nơi khác ở chỗ lập trường ưa chiến tranh không hề có cơ may giúp tình hình hòa dịu mà hoàn toàn ngược lại. Đó quả thực là nơi trò răn đe lẫn nhau ở mọi cấp độ khó có thể dẫn đến một cuộc xung đột quy mô lớn, nhưng lại tạo ra mối đe dọa liên tục nhằm đáp trả những tuyên bố huyênh hoang của Bình Nhưỡng giúp chế độ này duy trì bộ máy quân sự, từ đó kéo dài chế độ kìm kẹp của gia đình họ Kim và hành vi lạm dụng nhân đạo của họ.
Mặc dù các bên đều có lúc nóng mặt, song bên nào trong khu vực cũng ý thức được rằng đột ngột phá vỡ thế cân bằng chiến lược hiện nay bằng một cuộc tấn công quân sự ồ ạt có thể sẽ gây ra hậu quả đối với an ninh của chính mình. Chế độ Triều Tiên có thể sẽ sụp đổ mà không gây thiệt hại gì đáng kể cho người láng giềng phương Nam của mình. Trung Quốc có thể sẽ mất đi một “nước chư hầu” và còn hơn cả một đồng minh mặc dù không đáng tin cậy mấy với nguồn dự trữ tài nguyên khoáng sản rộng lớn nằm ở ngay cửa ngõ của mình và đang được ra sức khai thác nhưng với chi phí rất thấp, còn Mỹ có thể sẽ gặp nguy cơ leo thang quân sự với Bắc Kinh, điều mà Washington bằng mọi giá không mong muốn.
Lịch sử thời hậu chiến cho thấy rằng cả lời đe dọa lẫn chiến tranh mà không ai muốn, cả đối thoại lẫn sự can dự của Bắc Kinh đều không thể làm suy giảm khối ung nhọt Triều Tiên. Chỉ một phương án, mở cửa và hợp tác theo cách của Kim Dae Jung, mới có thể xóa bỏ những tàn dư đáng lo ngại của Chiến tranh Lạnh. Nhưng phương án đó đã bị hủy hoại bởi tư tưởng bảo thủ bất chấp mọi lôgích lịch sử và chiến lược khi cho rằng chế độ Bình Nhưỡng vì ít điên rồ hơn người ta tưởng nên có thể nhượng bộ trước những lời đe đọa và các biện pháp trừng phạt.
Trên thực tế lại là ngược lại. Lập trường cứng rắn về quân sự càng làm cho tình hình xấu thêm. Các vấn đề này được lý giải trong hai tác phẩm mới đây của một số nhân vật chuyên theo dõi tình hình ở vùng này, nói về những hệ quả siêu thực và lỗi thời của cuộc Chiến tranh Lạnh cũ vẫn chưa chấm dứt trên bán đảo Triều Tiên. Đó là cuốn sách “Nhà nước bất khả thi, Triều Tiên, quá khứ và tương lai” của Victor Cha, nguyên phụ trách các vấn đề châu Á tại Nhà Trắng đồng thời là cố vấn đặc biệt của George Bush về Triêu Tiên.
Trong khi hàng loạt hành động quân sự giả tạo nhưng vô bổ khiến tình hình tiếp tục căng thẳng và củng cố thêm chỗ đứng cho chế độ Bình Nhưỡng, chỉ có Kim Dae Jung, người đoạt giải Nobel hòa bình, Tổng thống Hàn Quốc từ năm 1998 đến năm 2003, là người có nhãn quan về chính sách hòa dịu với Bình Nhưỡng được thực hiện trong một thời gian dài, giúp người dân Triều Tiên dần dần nhận ra những cái hay của tự do và nền kinh tế được tự do hóa từng bước có thể chiến thắng chế độ độc tài. Tuy nhiên, chính sách tốt đẹp đó – “Chính sách Ánh Dương” được Kim Dae Jung chủ trương và được người kế nhiệm ông là Roh Moo-hyim thực hiện – trở nên không hợp thời vì bị phái bảo thủ cho là yếu mềm do họ không thấy được chiến lược dài hơi cũng như sức mạnh của chính sách cởi mở và hợp tác, đồng thời bị những người chủ trương cứng rắn không khoan nhượng coi nhẹ và bị nhấn chìm trong vụ bê bối tài chính khiến Roh phải tự vẫn vào tháng 5/2009.
Năm 2000, năm G.W. Bush – vốn là người không tin vào chính sách cởi mở đối với Triều Tiên – lên nắm quyền tại Mỹ, Kim Dae Jung đến Bình Nhưỡng để gặp Kim Jong II, con trai Kim Nhật Thành. Chính sách hợp tác đó được thực hiện sau 6 năm thương lượng dần đến việc thành lập Tổ chức phát triển năng lượng bán đảo Triều Tiên (KEDO) nhằm cung cấp lò phản ứng nước nhẹ cho Triều Tiên để thay thế lò Magnox. Nhưng theo Richard Parry, chỉ trong vài tháng, phái bảo thủ ở Mỹ và Bush đã phá hoại “Chính sách Ánh Dương”. Năm 2001, sau vụ khủng bố 11/9, Triều Tiên mặc dù không liên quan gì vẫn bị liệt vào “trục ma quỷ” và bị coi là một trong những mục tiêu tiềm tàng của một cuộc tấn công phòng ngừa, cùng với Iraq và Iran. Như vậy, nguyên nhân đã rõ. Từ đó trở đi, Kim Dae Jung, vốn là người bị Chính quyền Bush ghét bỏ, đơn độc chìa tay cho Bình Nhưỡng. Mỹ quay lưng lại với chính sách của Bill Clinton do bà Madeleine Albright thiết kế và trở lại với lập trường không khoan nhượng, cộng với các biện pháp trừng phạt và đe dọa trả đũa quân sự, dẫn đến hệ quả là giúp chế độ Bình Nhưỡng tiếp tục tồn tại.
Tuy nhiên, chính sách cởi mở của Kim Dae Jung nhằm mục đích giúp người dân thức tỉnh và làm suy yếu chính quyền để cuối cùng khiến chế độ Bình Nhường sụp đổ, có hai điều bất lợi. Một mặt, do bản chất mang tính lật đổ bằng cách làm cho dân chúng nhiễm dần dần vi rút tự do nên không thể giải thích chính sách đó một cách rõ ràng. Điều đó cho phép phái bảo thủ phê phán chính sách của Kim Dae Jung là ấu trĩ vì bề ngoài, chính sách này dường như đưa ra một số nhượng bộ đối với một “Nhà nước bất hảo”. Mặt khác, chính sách của Kim Dae Jung không phù hợp với tính cấp bách cũng như yêu cầu phải thúc đẩy nhanh vì chỉ tạo ra được tác dụng trong một thời gian ngắn, hơn nữa lại chỉ tác động được vào tư tưởng của những người bị nhiễm “vi rút” trong khi bản thân họ rất thận trọng và không nói nhiều về hậu quả trong bầu không khí rạn nứt và bị kiểm soát chặt chẽ.
Giải pháp cho thế bế tắc Triều Tiên không thể có được từ một hành động quân sự do khó có thể diễn ra bởi quá nguy hiểm đối với cả mục tiêu lẫn người bắn. Giải pháp đó cũng sẽ không phải là kết quả của sự hòa dịu Bắc-Nam vì phái bảo thủ của Mỹ và Hàn Quốc cảm thấy không thoải mái do căng thẳng liên tục không giải quyết được tình hình giúp họ có lợi nên họ không kiên nhẫn, cũng không rộng lượng và nhìn xa được. Do đó, chỉ còn sự can dự của Trung Quốc bị phái bảo thú liên tục gây sức ép để nước này cắt đút nguồn cung ứng hậu cần giúp chế độ Bình Nhưỡng sống sót.
Trong cuốn sách của mình, Victor Cha đưa ra những phân tích tinh tế nhất về mối quan hệ giữa Bình Nhưỡng và Bắc Kinh. Vị cựu cố vấn của Bush này quả thực cho thấy rằng việc trông đợi vào Bắc Kinh để buộc chế độ Bình Nhưỡng quy phục nhằm làm giảm nỗi thống khổ của dân chúng, chỉ là ý muốn không thể thực hiện được. Đối Victor Cha, những tuyên bố hùng hồn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về liên minh không gì lay chuyển nổi giữa Bình Nhưỡng và Bắc Kinh – theo đó hai nước gắn bó với nhau như “môi với răng” – không phản ánh được thực tế mối quan hệ đó. Trái lại, mối quan hệ song phương luôn dựa trên “sự khinh bỉ lẫn nhau, nhưng được điều chỉnh bởi lợi ích chiến lược mà cả hai bên đều hiểu rất rõ”.
Tình trạng đó thực sự kéo dài trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, trong đó Kim Nhật Thành cố tình chơi con bài kình địch giữa Bắc Kinh và Moskva. Do Mao Trạch Đông bận tổng kết cuộc chiến tranh Triều Tiên nên không còn đầu óc để nghĩ đến chuyện giành lại Đài Loan, Trung Quốc cay đắng nhận ra rằng không những cuộc xung đột chỉ là trò lừa dối chiến lược đối với mình mà Triều Tiên thậm chí còn không thừa nhận sự hỗ trợ có tính quyết định của “chí nguyện quân Trung Quốc” giúp Kim Nhật Thành tránh được thảm bại. Victor Cha cũng kể rằng trong các cuộc đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, ông bắt gặp các đoàn Trung Quốc và Triều Tiên đóng cửa lăng mạ lẫn nhau.
Mặc dù nghi kỵ và hằn thù lẫn nhau, song Trung Quốc, vẫn không cắt đứt huyết mạch tiếp tế giúp Bình Nhưỡng tồn tại. Đối với Victor Cha, bên cạnh nỗi lo về vùng biên giới có thể tràn ngập người tỵ nạn trong trường hợp chế độ Bình Nhưỡng sụp đổ, Trung Quốc cũng có những ý định thực tiễn và cụ thể khác: đó là buôn bán qua biên giới và khai thác tài nguyên mỏ của Triều Tiên với điều kiện ưu đãi, trong đó sức khỏe của thợ mỏ càng không phải là mối quan tâm của các nhà đầu tư Trung Quốc. Món của Trời cho đó chỉ tương đương với một vài chuyến ngũ cốc và nhiên liệu cung cấp cho Bình Nhưỡng để giúp chế độ không sụp đổ.
Richard Parry lưu ý rằng Bình Nhưỡng và Bắc Kinh không thích tình hình đó vì khiến họ phải gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Mọi biện pháp trừng phạt mà Washington luôn đòi Bắc Kinh phải áp dụng có nghĩa là sự sụp đổ của một chế độ, điều mà Bắc Kinh không muốn bằng bất cứ giá nào. Theo Victor Cha, điều đó giải thích tại sao khó có thể có hợp tác mang tính chất quyết định của Trung Quốc trong vấn đề hạt nhân, về phần Triều Tiên, khả năng dễ bị đánh quỵ lại chính là món bảo hiểm nhân thọ được Bắc Kinh chi trả. Trong điều kiện đó, đàm phán sáu bên hay mọi hình thức thương lượng khác giúp Bắc Kinh có vai trò lớn, sẽ chỉ mất thời gian.
Để mở rộng cuộc tranh luận về những mối đe dọa quân sự nguy hiểm, Parry đưa ra một số suy nghĩ khiến người ta nghĩ đến tình hình Iran: lý do nào thúc đẩy Bình Nhưỡng hủy bỏ chương trình hạt nhân cùa mình? Mỗi lần biểu dương lực lượng hay đe dọa trừng phạt, vốn là thứ vũ khí chính của phái bảo thủ theo khuynh hướng hiếu chiến chủ trương đánh sập chế độ họ Kim từ 20 năm nay, trái lại là một lập luận nữa khiến Bình Nhưỡng tìm cách để có được bom nguyên tử. Trong các cuộc đàm phán sáu bên, các nhà thương thuyết Triều Tiên, ít điên khùng hơn người ta tưởng, đều hỏi Victor Cha: “Các ông đã tấn công Iraq và Afghanistan vì các nước này không có vũ khí hạt nhân. Các ông sẽ không tấn công chúng tôi và các ông sẽ không tấn công Iran?”
Khi cả vũ lực lẫn nỗ lực ngoại giao hay Trung Quốc đều không có khả năng mang lại giải pháp có thể chấm dứt chế độ kìm kẹp của Bình Nhưỡng, chỉ còn cách trông đợi vào chiến lược của Kim Dae Jung mà Washington luôn chế giễu. Đó là chiến lược cần có thời gian dài, những ý định kín đáo, những hành động đan xen, những cách tiếp cận về văn hóa và thương mại, vốn là những yếu tố từng ngày reo mầm tự do trong tâm trí người dân.
Để minh chứng cho chiến lược này và những bước tiến vô hình nhưng hoàn toàn có thực mà chiến lược đó tạo ra được trong tiềm thức con người, Parry nói đến món “chocopie” được ông mô tả như một thứ bánh bích quy bọc sôcôla được gói trong túi nhỏ rất thịnh hành ở Hàn Quốc. Năm 2004, trong khuôn khổ “Chính sách Ánh Dương”, các nhà sản xuất Hàn Quốc đến làm việc tại khu công nghiệp Kaesong ở Triều Tiên đã mang theo trong hành lý “cả công nghệ lẫn đường điện thoại và một xa lộ”. Rất nhanh, các nữ công nhân Triều Tiên đón nhận bánh “chocopie” do các ông chủ Hàn Quốc tặng như một món quà thưởng, nhưng sau đó không ăn mà mang đi bán. Được bán lại với giá 10 USD/chiếc trên thị trường chợ đen ở một nước mà những đồ ăn ngọt bùi vừa hiếm vừa đắt như rượu sâm banh loại sang, món bánh sôcôla trở nên dân dã đến mức binh lính có nhiệm vụ trông coi số người Hàn Quốc ở đó cũng đòi trả bằng bánh “chocopie” số tiền phạt mà hàng ngày họ đánh vào các nhà đầu tư vừa bị canh chừng cẩn mật, vừa bị theo dõi, vừa bị cáo buộc là vi phạm, để thêm thắt vào đồng lương giúp họ sống được đến hết tháng.
Từ câu chuyện đó, Parry rút ra hai bài học đạo đức: thứ nhất, người Triều Tiên là người bình thường, cũng đạo đức và láu cá như người khác, đồng thời cũng thích ngọt bùi; thứ hai, xã hội Triều Tiên không đến mức vô cảm và không tiếp nhận ảnh hưởng của bên ngoài như người ta thường nói.
Việc Bình Nhưỡng mở cửa là nhằm mục đích rút ngoại tệ từ người Hàn Quốc, đồng thời không để cho tự do lây lan. Nhưng “kiêng cữ vẫn chưa đủ”. Tiếng gọi đeo bám của thế giới huyền bí và quyền tự do vô bờ gây ra vấn đề buôn bán ngầm qua biên giới không được kiểm soát chặt chẽ với Trung Quốc, nơi có thể tìm thấy đĩa của truyền hình Hàn Quốc mang theo những “hạt giống không thể gieo được bằng cách khác (…) “Chính sách Ánh Dương” không những không phải là hình thức cam chịu trước hành vi bòn rút vốn bị các đối thủ phê phán, mà còn là một cuộc tiến công kín đáo”…
Bản thân Victor Cha, người từng là kẻ thù đáng nghi ngại của chính sách nói trên của Kim Dae Jung, cũng phải thừa nhận rằng chính sách này tạo ra hệ quả ngắn hạn: “Nhờ có Kaesong mà hàng chục nghìn phụ nữ Triều Tiên biết thế nào là làm việc tại các nhà máy hiện đại của Hàn Quốc và được ăn ngày ba bữa trong một cửa hàng sạch sẽ. Họ sẽ không bao giờ đứng lên chống lại chế độ, nhưng sẽ kể chuyện mình cho các phụ nữ khác biết”. Victor Cha nói thêm rằng thay đổi là rất nhỏ, nhưng có thực và sẽ gây ra phản ứng khác nếu chính quyền sau này có ý định nắm lại quyền kiểm soát nền kinh tế bằng phương pháp cũ. Nỗi tức giận dâng cao khi chính phủ họ phép người dân bay bằng chính đôi cánh của mình, tự mình tạo ra thành công cho mình, rồi khi nhà nước định tìm cách tái khẳng định quyền kiểm soát của mình bằng cách không cho họ có khả năng đó nữa… Khó có thể nghĩ rằng tiến bộ có thể nảy sinh từ nạn nghèo khó cùng cực, nhưng đó chính là những gì người ta thấy diễn ra ở Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, cuộc thử nghiệm phải dừng lại do phái bảo thủ liên minh và phản xạ liên tiếp dọa trả đũa mà ai cũng biết sẽ chỉ giúp chế độ Bình Nhưỡng củng cố vị thế của mình. Đấy là chưa nói đến thái độ thù địch nảy sinh từ đó khiến thương lượng khó khăn hơn.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry mới đây được trải nghiệm khi bắt tay vào thực hiện chiến lược hâm nóng nhằm nối lại thương lượng, phải khắc phục thiệt hại nảy sinh từ những lời đe dọa đáp trả hạt nhân lấp lửng và việc máy bay ném bom chiến lược từ đảo Guam và Mỹ đến bay trên bán đảo Triều Tiên ngay lập tức hủy hoại mọi tuyên bố của Washington về ý định không bao giờ để vũ khí hạt nhân xuất hiện trong vùng này nữa. Cũng có khi sức mạnh quân sự là điều tốt để cấp bách chấm dứt thảm họa nhân đạo hay không để một nước rơi vào chế độ độc tài và cực đoan – mặc dù cũng phải có phương tiện và khả năng kiểm soát những hậu quả xấu không ai muốn, từ đó đòi hỏi phải có thời gian, nguồn tài chính và chấp nhận rủi ro khi đưa quân vào đánh bộ, nhưng thường lời đe dọa, một khi được cố tình tung ra, dẫn đến hệ quả gần như trái ngược với những gì mong muốn.
Tại Triều Tiên và Iran, trong nhiều trường hợp, chiến lược bánh “chocopie” có thể có hiệu quả hơn lời đe dọa, ít nhất cũng là hỗ trợ cho cuộc thương lượng chính trị diễn ra một cách đúng đắn. Do đó, cần có thời gian để triển khai thực hiện và không biến chiến lược đó thành hư vô với lập trường sặc mùi chiến tranh ít nhiều vô bổ được đưa ra một cách đều đặn, với hệ quả đầu tiên là củng cố vị thế của các nhà độc tài. Vào tháng 4, hậu quả của thời kỳ căng thẳng là Triều Tiên đóng cửa khu công nghiệp Kaesong, biểu tượng của “Chính sách Anh Dương”, và yêu cầu người Hàn Quốc về nước. Nhưng bằng chứng cho thấy khó có thể cài số lùi là Bình Nhưỡng hiện có hơn 50.000 công nhân thất nghiệp. Tìm việc khác cho số công nhân này – vốn bị nhiễm “vi rút” mở cửa – là không đơn giản, hơn nữa vì Bình nhưỡng “cách ly” họ để tránh “dịch bệnh tự do” lây lan. Hiện nay, theo một bài báo đăng trên tờ “Korea Time” ngày 6/5/2013, Bình Nhưỡng bảo trợ cho số công nhân này và cho họ theo học các khóa cấp tốc để diệt từ trong trứng mọi tư tưởng mở cửa mà họ đã nhiễm phải. Rồi Bình Nhưỡng định “hòa tan” thông điệp chính trị độc hại mà họ mang theo về bằng cách phân tán số công nhân này trên toàn lãnh thồ.
Nhưng vi rút này có sức đề kháng cao. Ngày 11/9, người ta biết rằng Bình Nhưỡng đồng ý “thử” mở cửa lại khu công nghiệp Kaesong nằm ở bên trong lãnh thổ Triều Tiên và chỉ cách biên giới vài cây số. Đó là vì cuộc thử nghiệm đã thu hút hơn 100 doanh nghiệp Hàn Quốc đến đầu tư vào đây vì bị hấp dẫn bởi giá nhân công rẻ và toàn bộ số doanh nghiệp này mỗi năm mang lại cho Bình Nhưỡng 80 triệu USD.
***
TTXVN (New York 2/10)
TờAl-Asiya ” (Châu Á) vừa có bài viết điểm lại một số biện pháp chống trả của Mỹ đối với Triều Tiên trong thời gian gần đây, và cho rằng bằng mọi cách Washington cùng với các đồng minh vẫn sẽ bóp nghẹt chế độ hiện nay ở quốc gia “kín như bưng’’ này. Dưới đây là nội dung bài viết:
Ở thời điểm hiện tại, lời qua tiếng lại giữa Mỹ và Triều Tiên có vẻ như đã tạm lắng xuống, nhưng không vì thế mà người ta có thể quên rằng trong chuyến thăm ba nước Đông Á cách đây chưa lâu, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã khẳng định rằng Mỹ và các đồng minh sẽ không tha thứ cho chương trình hạt nhân của Triều Tiên, và rằng Triều Tiên không được phép nằm trong số các cường quốc hạt nhân.
Trong thời gian qua, Mỹ đã cho thấy nước này sẵn sàng tiến hành chiến tranh chống Triều Tiên, nhất là khi họ đã đưa máy bay B-52 và máy bay ném bom B-2 có thể chở bom hạt nhân tới bán đảo Triều Tiên để tiến hành tập trận hồi đầu năm nay. Đồng thời, Mỹ đã triển khai thêm bệ phóng tên lửa và các tàu chiến trong khu vực. Mới đây, ông Kerry đã khẳng định rằng nếu xảy ra cuộc xung đột vũ trang thì Mỹ sẽ đáp trả các hành động của với một sức mạnh lớn hơn nhiều Triều Tiên. Ông Kerry cũng đã nhắc lại yêu cầu của Mỹ là Trung Quốc phải gây sức ép với Triều Tiên để nước này từ bỏ chương trình hạt nhân, theo đó Trung Quốc có thể buộc Triều Tiên phải phục tùng bằng một lệnh cấm vận khi ngừng cung cấp lương thực thực phẩm và nhiên liệu vì Triều Tiên phụ thuộc dường như tất cả vào Trung Quốc. Tuy nhiên, ông Kerry cũng không quên nhắc lại rằng Lầu Năm Góc và cộng đồng các cơ quan tình báo Mỹ vẫn bảo lưu nhận định cho rằng sức mạnh của Triều Tiên đã được thổi phồng quá đáng, và cũng không cho rằng Triều Tiên là một nguy cơ và một mối nguy hiểm khủng khiếp đối với Mỹ.
Trên thực tế, Triều Tiên là một nước nghèo một cách tuyệt vọng với khoảng 25 triệu dân, nền kinh tế lụn bại trong hai thập niên vừa qua. Nền kinh tế của Triều Tiên bị suy sụp là do Liên Xô tan rã đã dẫn đến việc ngừng cung cấp năng lượng và các nguyên liệu, linh kiện cho ngành công nghiệp, nhất là đối với các máy móc nông nghiệp. Một bài báo đăng trên nhật báo Telegraph của Anh do một nhà báo đã từng tới Bình Nhưỡng viết: “Triều Tiên không chỉ là một nước kém phát triển, mà là một nước bị đẩy ra ngoài thế giới”. Những sự trừng phạt mà Mỹ áp đặt đối với Triều Tiên đã đẩy đất nước này vào thảm họa. Với nạn đói và khan hiếm thuốc men kinh niên, Triều Tiên đã phải đối mặt với các loại bệnh dịch và nạn suy dinh dưỡng nặng. Theo Liên Hợp Quốc, một phần ba trẻ em dưới 5 tuổi ở Triều Tiên có dấu hiệu chậm phát triển. Tuy vậy, do phải đối mặt với những mối đe dọa thường xuyên của Mỹ, chế độ Triều Tiên đã phát triển vũ khí hạt nhân để sử dụng nó làm phương tiện mặc cả trong các cuộc thương lượng với Mỹ. Tính toán này cũng là để có thể làm nản lòng Mỹ trong mưu toan tiến hành một cuộc chiến tranh nhằm thay đổi chế độ của Triều Tiên như Mỹ đã tùng làm ở Iraq và Lybia cho dù những phân tích mới đây cho thấy vũ khí hạt nhân của Triều Tiên là nhân tố tương đối thứ yếu trong tình hình quân sự của khu vực, nơi bị chi phối bởi cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Và người ta cũng hiểu rằng sau vụ Bình Nhưỡng thử hạt nhân lần đầu tiên vào năm 2006, Mỹ bắt đầu đe dọa Triều Tiên, song thực ra lời đe dọa này lại nhằm cả mục tiêu khác nữa. Nó không những nhằm hăm dọa Trung Quốc để nước này không sử dụng các đòn bẩy về tài chính chống chính sách của Mỹ vì hiện nay Bắc Kinh nắm giữ hơn 1.000 tỷ USD tiền nợ của Mỹ, mà còn thúc đẩy Bắc Kinh phải tuân theo những lợi ích của Mỹ ở các khu vực khác trên thế giới, nhất là ở khu vực Trung Đông, nơi Trung Quốc đã phong tỏa các nghị quyết của Liên Hợp Quốc hợp pháp hóa một cuộc can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Syria, và phản đối các kế hoạch của Mỹ về một cuộc tấn công quân sự chống Iran.
Trong những năm gần đây, Chính quyền Obama đã thực hiện nhiều bước đi mà Triều Tiên coi đó là những mối đe dọa. Bước đi đầu tiên khiến cho mối quan hệ hai nước ngày càng xấu đi là vào tháng 10/2012 khi Mỹ dành cho Hàn Quốc quyền miễn trừ đối với chế độ kiểm soát công nghệ tên lửa, cho phép nước này kéo dài tầm bắn của các tên lửa đạn đạo để có thể bao phủ lên toàn bộ lãnh thổ của Triều Tiên. Kết quả là toàn bộ những thể thức được áp dụng cho bất kỳ nước nào đã phê chuẩn hiệp ước trừ Hàn Quốc, nước được áp dụng những thể thức khác, nhằm mục đích rõ ràng là chĩa mũi nhọn vào nước láng giềng Triều Tiên. Cũng vào thời gian này, các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ và Hàn Quốc đã gặp nhau trong cuộc họp tham vấn về an ninh, và họ đã thỏa thuận với nhau rằng sẽ có những thay đổi triệt để trong liên minh tay đôi này. Quan trọng hơn là hai bên đã nhất trí phát triển kế hoạch “răn đe thích hợp” bao gồm các chiến dịch quân sự phối hợp giữa Hàn Quốc và Mỹ theo một số kịch bản cụ thể, kể cả những vụ rắc rối nhỏ nhất nếu nó xảy ra giữa Hàn Quốc với Triều Tiên. Theo liên minh này, trước “sự khiêu khích” từ phía Triều Tiên cần phải được đáp trả với một sức mạnh không cân xứng và theo một nhà lãnh đạo quân sự Hàn Quốc, chiến dịch sẽ được áp dụng cả trong thời bình lẫn trong thời chiến. Một thành phần chủ yếu của kế hoạch “răn đe thích hợp” là một “dây chuyền triệt hạ”, nhằm phát hiện và tấn công các địa điểm bố trí tên lửa đạn đạo nếu có của Triều Tiên, do vệ tinh và máy bay không người lái của Mỹ dò tìm mục tiêu, sau đó các tên lửa và máy bay chiến đấu Hàn Quốc sẽ xóa sổ chúng.
Nhớ lại hồi tháng 12 năm ngoái, khi Triều Tiên phóng một vệ tinh quan sát mặt đất lên quỹ đạo, Chính quyền Obama lập tức lên án gay gắt và tố cáo đây là một cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo trá hình. Điều đáng nói là đúng ngày Triều Tiên phóng vệ tinh vào vũ trụ, một cường quốc hạt nhân khác là Ấn Độ cũng tiến hành một vụ phóng thử tên lửa đạn đạo, nhưng Mỹ không hề đưa ra một lời chỉ trích nào. Mỹ không thiếu các kỹ sư hàng không vũ trụ và chắc chắn họ quá hiểu rằng việc phóng vệ tinh của Triều Tiên, xét về mặt kỹ thuật, không thể được coi là một cuộc thử tên lửa đạn đạo ngụy trang. Dường như Chính quyền Obama đã lựa chọn một cách có cân nhắc bóp méo bản chất của việc phóng vệ tinh này để tiếp tục thực hiện những mưu đồ chính trị có chủ ý của mình đối với Triều Tiên. Và chính việc Triều Tiên phóng vệ tinh đã tạo cho Chính quyền Obama một cơ hội để siết chặt thêm thòng lọng xung quanh quốc gia bần cùng này. Như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Victoria Nuland, đã không giấu giếm ý đồ của Chính quyền Obama là “tiếp tục gia tăng sức ép với chế độ Triều Tiên, và chừng nào Triều Tiên chưa thay đổi chính sách hiện hành thì Mỹ sẽ vẫn tiếp tục cô lập chế độ này hơn nữa”. Và đúng như vậy, với việc thông qua nghị quyết 2087 của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc vào ngày 22/1/2013, những biện pháp trừng phạt mới, hà khắc hơn nhiều, đã được áp đặt đối với Triều Tiên.
Về phần mình, đương nhiên là Triều Tiên đã phản ứng rất mạnh mẽ và gay gắt vì họ ngày càng bị cô lập hoàn toàn, trở thành quốc gia duy nhất trên trái đất không được phép phóng vệ tinh. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Triều Tiên lưu ý rằng bằng cách buộc Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết trên, Mỹ đã vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hợp Quốc về nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các nước thành viên. Phát biểu tại Liên Hợp Quốc, đại diện chính thức của Triều Tiên, So Se Pyong, chỉ rõ rằng đã có không dưới 2.000 vụ thử hạt nhân và 9.000 vụ phóng vệ tinh trên thế giới từ khi tổ chức này được thành lập cách đây gần 7 thập kỷ, nhưng chưa bao giờ có một nghị quyết của Hội đồng bảo an cấm các vụ thử hạt nhân và phóng vệ tinh. Theo quan chức này, Mỹ đã tiến hành các vụ thử hạt nhân và phóng vệ tinh nhiều hơn bất kỳ nước nào khác. Mỹ không thể ngăn cản Triều Tiên thực thi quyền “sử dụng vũ trụ vào mục đích dân sự” của mình, và Mỹ không được sử dụng Liên Hợp Quốc như một công cụ để thực hiện chính sách thù địch đối với Triều Tiên. Viện dẫn những thí dụ về số phận của Iraq và Lybia, đại diện Triều Tiên khẳng định nước ông kiên quyết chống lại sự bắt chẹt hạt nhân của Mỹ bằng những phương, sách riêng của mình, và kiên quyết không thỏa hiệp, không lùi bước.
Cùng với Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) đã không đứng ngoài cuộc với việc siết chặt thêm các biện pháp trừng phạt chống Bắc Triều Tiên, như cấm buôn bán với các thực thể của quốc gia Đông Á này và cấm các ngân hàng châu Âu mở chi nhánh ở Triều Tiên, đồng thời không cho phép các ngân hàng Triều Tiên lập cơ sở trên lãnh thổ EU, v.v. Có thể nói Triều Tiên đang bị làm khó trăm bề khi đương đầu với Mỹ, EU và các nước láng giềng như Nhật Bản và Hàn Quốc. Chỉ riêng Nghị quyết 2094 được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua cách đây chưa lâu đã giúp Mỹ có thể thực hiện được rất nhiều mục tiêu đối với Bắc Triều Tiên. Nghị quyết này cho phép tất cả các nước được quyền thanh tra các tàu biển và máy bay của Triều Tiên nếu nghi ngờ vận chuyển hàng hóa bị cấm. Nghị quyết này cũng đồng thời áp đặt rất nhiều hạn chế đối với các hoạt động ngân hàng của Triều Tiên, theo đó, các nước được lệnh ngăn chặn các cá nhân Triều Tiên, các nhân viên ngoại giao chuyển những số tiền lớn và buộc họ phải chấp nhận sự kiểm tra gắt gao mặc dù điều này là một sự vi phạm công ước Vienna về quyền miễn trừ ngoại giao. Song, rõ ràng là để bóp nghẹt được chế độ Bắc Triều Tiên, Mỹ và phương Tây sẵn sàng bỏ qua mọi sự vô lý, kể cả những vi phạm công khai ấy.
* * *
Tạp chí Foreign Affairs – Tháng 7-8/2013
Tại sao Washington nên học cách làm việc với Triều Tiên
Khoảng 10 rưỡi tối ngày 3/4/2013, Lee Hyeok-cheol, một ngư dân đào thoát khỏi Triều Tiên 6 năm trước, đã cướp một chiếc thuyền đậu ở Đảo Yeonpyeong do Hàn Quốc kiểm soát và đi nhanh về đất nước ông đã từ bỏ. Lực lượng giám sát của Hàn Quốc không phát hiện ra chiếc thuyền của ông trong vòng 15 phút, và vào lúc họ có thể tổ chức một cuộc đuổi bắt, Lee đã tiến vào vùng biển của Triều Tiên. Chủ thuyền đã gọi được Lee van nài ông quay về miền Nam, nhưng Lee không muốn: “ông là đồ xấu xa!”, ông ta trả lời. “Đáng ra ông phải tốt hơn với tôi khi tôi ở đó!”
Lee đã thực hiện chuyến hành trình ban đêm táo bạo của mình trong giai đoạn căng thẳng gia tăng trên Bán đảo Triều Tiên. Vào cuối tháng 3/2013, Triều Tiên đã bắt đầu một loạt sự hăm dọa gần như hàng ngày chống lại Mỹ và cắt đường dây nóng quân sự với Hàn Quốc. Trong một biểu hiện ủng hộ Seoul, Washington đã cử hai máy bay ném bom tàng hình B-2 có khả năng hạt nhân để thực hiện một chuyến bay ném bom giả ngoài bờ biển Hàn Quốc. Và các quan chức Hàn Quốc đã đáp lại bằng cách hứa sẽ đánh bom trung tâm Bình Nhưỡng, kể cả những bức tượng Kim Nhật Thành và Kim Jong II, nếu Triều Tiên tấn công. Những người đứng đầu nhà nước mới của hai miền Triều Tiên – Kim Jong Un ở miền Bắc và Park Geun Hye ở miền Nam – đã phải bắt đầu với một khởi đầu đặc biệt tồi tệ.
Vào đêm 3/4/2013 đó, lính canh gác biên giới Triều Tiên, không phát hiện ra chuyến hồi hương đột ngột của Lee, có thể đã dễ dàng nhầm sự trở về của người ngư dân này với một chiến dịch ngầm của Hàn Quốc và bắn ông. Nếu họ làm vậy, các chỉ huy hải quân Hàn Quốc – những người được nhận lệnh, theo lời bà Park Geun Hye, “đáp trả mạnh mẽ (đối với một sự khiêu khích) trong giai đoạn đầu mà không cần bất kỳ sự cân nhắc chính trị nào” – có thể đã nhầm việc nổ súng là một hành động hiếu chiến và mở một cuộc tấn công vào bờ biển Triều Tiên. Và do đó cuộc chiến tranh bán lạnh kéo dài 60 năm trên bán đảo Triều Tiên có thể đã nhanh chóng trở nên nóng bỏng một lần nữa – và là một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Tình tiết này cho thấy tình trạng đối đầu với Triều Tiên đã trở nên nguy hiểm như thế nào. Với cả hai bên cảnh giác cao, xung đột quy mô lớn, điều không bên nào thực sự muốn, có thể nổ ra vì một sai sót. Kết quả sẽ là tai hại. Ngoài mất mát sinh mạng lớn, và khả năng các cuộc tấn công hạt nhân, chiến tranh sẽ làm khu vực bất ổn, có thể buộc Mỹ, Trung Quốc và các nước khác phải can thiệp, với kết quả không rõ ràng ngoại trừ sự tàn phá to lớn ở một trong những khu vực kinh tế năng động nhất thế giới.
Ngoài sự thông tin liên lạc yếu kém, nguy cơ chiến tranh được gia tăng bởi một sự thiếu hiểu biết lẫn nhau nghiêm trọng ở cả hai bên. Trong bối cảnh đó, việc biết được làm thế nào và tại sao Bình Nhưỡng làm điều mà nước này làm là quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, 18 tháng sau khi Kim Jong Un lên nhậm chức lãnh đạo tối cao, các đối thủ của Triều Tiên vẫn đang phải vật lộn để tìm ra điều khiến ông và chế độ của ông đứng vững. Victoria Nuland, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Mỹ, đã tình cờ làm nổi bật vấn đề vào ngày 5/4/2013, khi bà trả lời một câu hỏi về việc tại sao các nhà lãnh đạo Triều Tiên lại cư xử một cách đầy khiêu khích bằng việc nói: “Tôi không thể ở trong đầu họ để biết họ nghĩ gì”.
Đi như một ngưi Triều Tiên
Nuland không cô độc; không nhiều người ngoài cuộc có bất kỳ sự hiểu thấu nào về cách suy nghĩ của Triều Tiên. Trong danh sách ngắn các học giả có hiểu biết có Andrei Lankov, người mà cuốn sách mới của ông, Triều Tiên thật sự, nên được làm tài liệu đọc bắt buộc cho bất kỳ ai đang cố gắng hiểu lịch sử, hoạt động chính trị và xã hội Triều Tiên. Là một nhà sử học được giáo dục ở Liên Xô, học tại trường Đại học Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng vào giữa những năm 1980 và hiện là giáo sư tại trường Đại học Kookmin ở Seoul, Lankov có một quan điểm đáng chú ý về chủ đề của mình. Kết hợp tầm nhìn lịch sử sâu rộng với chi tiết phong phú về cuộc sống đương đại, cuốn sách mới của ông mô tả Triều Tiên là một nhà nước theo chủ nghĩa Stalin thất bại đã sống sót thần kỳ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và đã tìm cách duy trì hệ thống chính trị và hệ tư tưởng của mình trước những biến đổi kinh tế xã hội sâu sắc. Sự miêu tả của ông về đất nước này thể hiện một đóng góp cho ngành nghiên cứu Triều Tiên phát triển kém một cách đáng thương, giống như cuốn sách năm 2009 của Barbara Demick, Không có gì đ ghen tị, đem lại một cửa sổ hiếm có và đầy tính chỉ dẫn nhìn vào cuộc sống tại đó.
Triều Tiên thật sự tuyệt vời nhất ở việc giải thích nguồn gốc và sự phát triển của chế độ, bắt đầu với những ngày du kích của Kim Nhật Thành chiến đấu chống người Nhật Bản trong Hồng quân của Mao Trạch Đông và Josepth Stalin sau đó. Có lẽ không bất ngờ, với lai lịch cá nhân của Lankov, tác giả nhìn nhận Triều Tiên qua một lăng kính Soviet, một quan điểm chứng tỏ là đặc biệt hữu ích để hiểu được sự phát triển ban đầu của chính phủ nước này. Xem xét các bức điện được gửi từ Đại sứ quán Liên Xô tại Bình Nhưỡng trong những năm 1950, Lankov tái tạo lại câu chuyện về cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng vào năm 1956 ở Bình Nhưỡng, tại đó Kim Nhật Thành đã đánh bại những thách thức đối với sự lãnh đạo của ông từ các phe phái thân Trung Quốc và thân Liên Xô. Sự kiện then chốt này là trọng tâm trong luận điểm của Lankov cho rằng Kim Nhật Thành “đã Stalin hóa hơn cả Stalin”: trong khi Nikita Khrushchev đã tiết chế chủ nghĩa cộng sản Soviet trong những năm 1950, Kim đã gia tăng dự án theo chủ nghĩa Stalin của ông bàng cách tập trung hóa đặt kế hoạch kinh tế và tập trung quyền lực chính trị của mình.
Nhưng đánh giá của Lankov về Triều Tiên theo các tiêu chuẩn Soviet trở nên ít hữu ích hơn khi câu chuyện tiếp tục. Ảnh hưởng của Moskva đã suy yếu theo thời gian, và tính chất Đông Á, thay vì đại lục Âu Á, của chủ nghĩa cộng sản Triều Tiên đã trở nên ngày càng rỗ rệt. Lankov công nhận điều đó khi ông viết: “Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Á được nhìn nhận rộng rãi là một con đường tắt dẫn tới sự hồi sinh và hiện đại quốc gia, một cách không chỉ để giải quyết các vấn đề xã hội mà còn để vượt qua những giai đoạn lạc hậu và phụ thuộc thực dân trong quá khứ”. Những mục tiêu của việc phản đối chủ nghĩa đế quốc phương Tây và tái thống nhất lãnh thổ đã định hình chiến lược của Bình Nhưỡng theo một cách ít thích hợp với lịch sử Nga và phần lớn các nước Đông Âu hơn và tuy nhiên hoàn toàn tương đương với sứ mệnh của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc đại lục và của Hồ Chí Minh ở miền Bắc Việt Nam. Quả thực, sự ra vẻ can đảm của Kim Jong Un trong việc trao đổi những mối đe dọa quân sự với Mỹ trong mùa Xuân vừa qua đã đánh bóng phẩm chất của ông là một người nổi nghiệp xứng đáng với truyền thống này. Việc phớt lờ nhấn mạnh làm cách nào chủ nghĩa dân tộc chống đế quốc của gia đình họ Kim tiếp tục đóng một vai trò trung tâm trong tuyên bố của chế độ về tính hợp pháp chính trị là một sai lầm nghiêm trọng trong phân tích của Lankov.
Bí mật mà ai cũng biết
Sự tập trung của Lankov vào Liên Xô dường như cũng đã thuyết phục ông rằng chế độ Triều Tiên không thể đi theo mô hình của Trung Quốc và Việt Nam bằng cách duy trì hệ thống chính trị và chuyển đổi nền kinh tế của mình. Lankov lập luận rằng không giống Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1970 và 1980, giới lãnh đạo hiện tại của Triều Tiên không dám mở cửa nền kinh tế của nước này và bình thường hóa quan hệ với phương Tây vì việc đi theo đường lối đó sẽ phơi bày “khoảng cách lớn” giữa sự nghèo khổ của Triều Tiên và sự thịnh vượng của Hàn Quốc, khiến người dân Triều Tiên từ bỏ chế độ và di chuyển hàng loạt xuống miền Nam. Tuy nhiên, nếu không có cải cách kinh tế, Triều Tiên cuối cùng sẽ cạn kiệt tài nguyên. Lankov lập luận do đó, Triều Tiên, giống như Liên Xô, một ngày nào đó sẽ không còn tồn tại.
Trong khi đó, Bình Nhưỡng tiếp tục tách biệt với thế giới và hăm dọa các nước giàu có hơn để đòi trao viện trợ mà nước này cần để tồn tại. Cách hành xử của Kim Jong Un mùa Xuân vừa qua dường như phù hợp với mẫu hình mà Lankov đặt ra: “Đầu tiên tạo ra một cuộc khủng hoảng, sau đó leo thang căng thẳng, và cuối cùng thu về các khoản tiền và nhượng bộ để khôi phục lại nguyên trạng”. Ông lập luận, chiến lược này có thể có hiệu quả trong ngắn hạn, nhưng nó cuối cùng không bền vững, dự đoán rằng chế độ sẽ sụp đổ vào năm 2030 – và thậm chí có thể sớm hơn nếu Kim Jong Un ngu ngốc đến mức thử tìm cách cải cách kinh tế.
Vấn đề với cách giải thích của Lankov về việc tại sao Triều Tiên không thể theo đuổi sự phát triển kinh tế là nó bị mâu thuẫn bởi chính bằng chứng của ông về việc bao nhiêu thông tin đã rò rỉ qua biên giới Trung Quốc đầy lỗ hổng. Quá trình này bắt đầu gần 20 năm trước khi những lượng lớn người Triều Tiên chạy trốn sang Trung Quốc, ban đầu là để thoát khỏi nạn đói và sau đó là để tìm việc. Nạn đói những năm 1990 đã phá hủy Triều Tiên theo kế hoạch hóa tập trung, được tổ chức chặt chẽ cao độ do Kim Nhật Thành thiết lập, tạo ra Triều Tiên “thật sự” mà Lankov khéo léo mô tả, một xã hội bán thị trường hóa, có tính di động cao trong đó khoảng 2 triệu người có điện thoại di động và “chủ nghĩa tư bản cơ sở” đang phát triển bất chấp những nỗ lực theo từng giai đoạn của chế độ nhằm khôi phục hệ thống kinh tế cũ. Những khu vực như vận tải đã được tư nhân hóa, Lankov giải thích, mô tả một người đào thoát Triều Tiên mà ông gặp ở Seoul, người đã điều hành một công ty xe tải nhỏ ở miền Bắc. Lankov cũng trích dẫn những nghiên cứu thực tiễn về sự nổi lên của các thị trường của nông dân, sự phổ biến các cửa hiệu bán lẻ tư nhân và nhà hàng, và sự tự do di chuyển ngày càng tăng của người dân. Sự di động này gồm cả việc đút lót để đến được Trung Quốc và liên hệ với các mạng lưới thương mại mà thậm chí có thể liên kết lên tới hơn 20.000 người Triều Tiên đã tái định cư ở miền Nam. Dòng người, hàng hóa và tiền gửi không ồn ào nhưng liên tục này có nghĩa là phần lớn người Triều Tiên có được thông tin chi tiết về sự thịnh vượng ở Hàn Quốc và sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc. Quả thực, nhiều người trong số họ xem các bộ phim truyền hình Hàn Quốc lưu trữ trong các ổ USB và đĩa DVD được buôn lậu từ Trung Quốc.
Nói cách khác, bí mật không giữ được. Người Triều Tiên biết rằng họ đang tụt lại xa phía sau những nước láng giềng của mình. Hơn nữa, họ đã nghe về những người Triều Tiên đào thoát đang làm ăn tồi tệ như thế nào ở miền Nam siêu cạnh tranh, nơi những người miền Bắc tái định cư phải vật lộn để duy trì những công việc được trả lương thấp và than phiền về sự cô lập xã hội. Lời bình luận chia tay đầy căm thù của Lee, người ngư dân đã quay trở lại Triều Tiên, nắm bắt cảm xúc của nhiều, nếu không muốn nói là phần lớn, những người Triều Tiên hiện đang tìm cách sống lần hồi như những công dân hạng hai ở miền Nam. Lankov thừa nhận sự khốn khổ của những người đào thoát nhưng không liên kết điều đó lại để công nhận rằng sự thu hút về Hàn Quốc không phải là một lựa chọn đặc biệt hấp dẫn đối với người Triều Tiên, chính xác vì hố sâu ngăn cách về kinh tế do vĩ tuyến 38 tạo ra.
Không có gì đưc bảo đảm
Miếng ghép lớn khác của trò chơi xếp hình Triều Tiên không có trong phân tích của Lankov là một sự cân nhắc về tình hình địa chính trị không ổn định của Triều Tiên và ảnh hưởng của nó đối với chiến lược của chế độ. Nước này đã phải chịu một cảm giác bất ổn quốc tế buốt nhói kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khi Moskva từ bỏ Bình Nhưỡng, đột ngột làm xấu đi quan hệ thương mại và viện trợ kinh tế, và Bắc Kinh phản bội lại Bình Nhưỡng bằng việc bình thường hóa quan hệ với Seoul. Mỹ duy trì các đội quân đóng tại thủ đô của đồng minh “then chốt” của mình, Hàn Quốc, và tổ chức các cuộc diễn tập quân sự quy mô lớn để nhắc nhở cho Bình Nhưỡng rằng nước này sẵn sàng san bằng Triều Tiên, như nước này đã làm trong những năm 1950, nếu chiến tranh nổ ra. Trong một môi trường như vậy, Bình Nhưỡng không dám chuyển từ triển khai sức mạnh sang tạo ra thịnh vượng. Sự bất ổn địa chính trị này là một cách giải thích tốt hơn cho cách tiếp cận chậm chạp đối với cải cách kinh tế và mở cửa của Triều Tiên so với tuyên bố chính của Lankov rằng Bình Nhưỡng phải bưng bít công dân của mình về sự thành công của Hàn Quốc.
Trên thực tế, có thể lập luận rằng Triều Tiên đang theo đuổi mô hình cải cách của Trung Quốc – mặc dù theo một cách chỉ có thể được đánh giá đúng nếu người ta có một cái nhìn lâu dài về sự mở cửa của Trung Quốc. Bắc Kinh đã có được vũ khí hạt nhân trong những năm 1960 và đàm phán một sự hòa hoãn với Washington vào đầu những năm 1970, vào thời điểm khi cuộc Cách mạng Văn hóa vẫn đang diễn ra ác liệt và giới lãnh đạo Trung Quốc dường như điên cuồng đối với nhiều người ngoài cuộc. Chỉ khi đó, sau khi đạt được đôi chút an ninh này, Đảng Cộng sản dưới thời Đặng Tiểu Bình rốt cuộc mới ưu tiên phát triển kinh tế. Khi được hỏi tại sao Bình Nhưỡng từ chối một cách quá ương ngạnh theo đuổi mô hình thành công của Trung Quốc, các chuyên gia người Trung Quốc về Triều Tiên chỉ ra rằng Triều Tiên hiện nay giống với Trung Quốc vào năm 1970: chờ đợi một sự bảo đảm an ninh từ Washington trước khi bắt tay vào cải cách kinh tế thật sự.
Kim Jong Un đã báo hiệu rằng ông muốn tiến gần đến giai đoạn tiếp theo của cái ông gọi là “xây dựng kinh tế”. Dấu hiệu quan trọng nhất của khát khao này, điều đã biến mất trong sự ầm ĩ của các mối đe dọa hạt nhân, tới vào ngày 1/4, khi Kim Jong Un thăng chức cho nhà kỹ trị thực dụng Pak Pong Ju lên vị trí thủ tướng, giao cho ông ta nhiệm vụ giám sát sự tăng trưởng kinh tế. Một thập kỷ trước, Pak Pong Ju đã dẫn dắt các nỗ lực “cải thiện kinh tế”, tập trung vào việc cho phép sự tư nhân hóa lớn hơn, đưa giá cả và lương đến chỗ phù hợp với thị trường, và thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng ông đã bị đẩy ra ngoài lề vào năm 2006 bởi một phản ứng chống cải cách dữ dội. Ông đã tái xuất với sự nổi lên của Kim Jong Un, và hiện tại, với tư cách là thủ tướng, ông có thể làm việc với các nhà lãnh đạo thực dụng ở Bắc Kinh, Seoul, Tokyo và thậm chí cả Washington. Sự trở lại chức thủ tướng của Pak Pong Ju là một dấu hiệu rõ rằng Kim Jong Un coi trọng kinh tế và có một thiên hướng cải cách.
Làm hòa
Mặc dù những hiểu biết sâu sắc phong phú về quá khứ và hiện tại của Triều Tiên, cuốn Triều Tiên thực sự đánh giá thấp các lực lượng cải cách kinh tế này, đánh giá quá cao sự chắc chắn sụp đổ chế độ, và cuối cùng không thể mang lại những gợi ý hữu ích để giải quyết cuộc xung đột Triều Tiên. Theo Lankov, điều duy nhất Washington có thể làm là chờ đợi sự kết thúc không thể tránh khỏi của chế độ này, có lẽ mang lại một cú huých tại đâu đó bằng việc phơi bày Triều Tiên ra trước thế giới bên ngoài biên giới của họ. Nhưng nước này đã tồn tại hơn 60 năm và, như ngay cả Lankov cũng thừa nhận, có thể tồn tại một hay hai thập kỷ nữa, nếu không muốn nói là lâu hơn, kéo dài mối nguy hiểm của chiến tranh trong tương lai có thể thấy trước.
Một cách tốt hơn – quả thực, cách thực sự duy nhất – để thoát khỏi vũng lầy Triều Tiên là Washington phải dẫn đầu việc giải quyết vấn đề mất an ninh của Bình Nhưỡng thông qua một tiến trình hòa bình toàn diện, gồm cả một hiệp ước thay thế thỏa thuận đình chiến hiện tại và cuối cùng chấm dứt cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Phi hạt nhân hóa nên là mục tiêu được thực hiện từng bước cuối cùng, nhưng không phải là điều kiện tiên quyết cho tiến trình đàm phán. Trong quá trình đó, để xây dựng lòng tin và tạo ra động lực cho giải pháp cuối cùng của cuộc xung đột, bà Park Geun Hye nên thực hiện mọi nỗ lực để nối lại sự hợp tác kinh tế nghiêm túc với miền Bắc bằng cách mở rộng các dự án kinh tế chung, như khu công nghiệp Keasong và Khu du lịch núi Kumgang, và mở ra những con đường mới để ràng buộc cả hai nước Triều Tiên với hòa bình, ổn định và sự hợp tác hơn nữa.
Đương nhiên, nếu bà Park Geun Hye và Tổng thống Mỹ Barack Obama theo đuổi kiểu chiến lược “phát triển hòa bình” này như cách gọi của học giả Wang Dong thuộc Đại học Bắc Kinh, những người chỉ trích sẽ tuyên bố họ đang nhượng bộ và trao thưởng cho hành vi xấu, lập lại những các buộc nhằm vào Tổng thống Richard Nixon khi ông có chuyến đi lịch sử tới Bắc Kinh năm 1972. Nhưng trên thực tế, chính việc Washington dựa vào các biện phát trừng phạt và sức mạnh quân sự mới trao thưởng cho hành vi xấu của những người theo đường lối cứng rắn ở Bình Nhưỡng, những người dùng những sự khiêu khích như vậy để biện minh cho những sự đe dọa phản công và chi tiêu quốc phòng. Khi không có sự can dự ngoại giao và hợp tác kinh tế, những người ôn hòa ở Bình Nhưỡng hầu như không có đòn bây trong các cuộc tranh luận chính sách trong nước. Vòng quay thù hận nàv tự nó duy trì.
Cuốn Triều Tiên thực sự do đó hóa ra là một câu chuyện sắc sảo về lịch sử và xã hội Triều Tiên, nhưng là một hướng dẫn ít đáng tin cậy hơn cho chính sách về Triều Tiên. Nếu bà Park Geun Hye và Obama trung thành với chính sách thất bại của Nhà Trắng là “kiên nhẫn chiến lược”, chờ đợi để vấn đề đơn thuần là tự mất đi, như Lankov tuyên bố rằng nó sẽ xảy ra, thì tất cả các bên đều có nguy cơ có một ngư dân “bất hảo” kích động một cuộc Chiến tranh Triều Tiên nữa./.

Hồ Chí Minh: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”

Trần Việt Bắc (Danlambao) - Theo như hệ thống tư pháp ngày nay tại các nước dân chủ. Một phiên tòa gồm có chánh án, bồi thẩm đoàn, công tố viên, luật sư biện hộ, nhân chứng và nghi can. Nghi can là ông Hồ Chí Minh. Công tố viên là những người kết tội ông. Nhân chứng là những nạn nhân dù trực tiếp hay gián tiếp. Luật sư biện hộ là những người Cộng Sản bênh vực ông, những tác giả đã phủ nhận việc ông là người Đài Loan. Bồi thẩm đoàn là các độc giả, những người đọc, biết về sự kiện, biết các bằng chứng. Chánh án sẽ là người dân Việt. Bản án sẽ là những trang sử được ghi lại về việc này. Người viết chỉ là một trong những người đi tìm hiểu, để biết thêm về những bí ẩn trong lịch sử cận đại, muốn nêu ra đây để chia sẻ với bạn đọc, với hy vọng chúng ta sẽ có một bản án (verdict) sớm hơn để ghi lại trong trang sử Việt cho hậu thế...
*
Hồ Chí Minh là một nhân vật đầy bí ẩn, rất ít ai biết sự thật về người này, nhưng năm 2008, một tác giả ở Đài Loan là ông Hồ Tuấn Hùng (胡俊熊) đã xuất bản sách có tựa đề “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” (胡志明生平考 - (1"Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh") do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hoá ở Đài Loan ấn hành. Sách này đã gây xôn xao trong dư luận, đặc biệt là từ khi dịch giả Thái Văn đã dịch sang tiếng Việt, vì chủ đề của sách này nói: Hồ Chí Minh từ năm 1933 về sau không phải là Nguyễn Ái Quốc , mà ông là một người Đài Loan gốc Hẹ (Hakka) hay Khách Gia là Hồ Tập Chương (Hu Ji Zhang 胡集璋), quê ở Đài Loan, huyện Miêu Lật, thôn Đồng La (2), lấy tên là Hồ Chí Minh và trở thành nhân vật số một của đảng Cộng Sản Việt Nam. 
Tác giả Hồ Tuấn Hùng (HTH) đã nêu lên khá nhiều chi tiết về Nguyễn Ái Quốc trước năm 1933, sau đó là về Hồ Chí Minh, người đã được ông cố chứng minh là Hồ Tập Chương. Tác giả đã nêu lên những chi tiết như hoạt động về chính trị, diện mạo, cuộc sống tình ái, bút tích, khả năng ngoại ngữ, cách viết, v.v... của hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương. Điều này đã có khá nhiều bài viết của những tác giả người Việt và rất nhiều lời bình phẩm trên các diễn đàn. Trong khi đó chính quyền Cộng Sản vẫn im hơi lặng tiếng. 
Một phát giác của ông Hồ Tuấn Hùng đã làm chính tác giả phải "nhảy dựng" lên, người viết bài này chưa thấy ai bàn tới điều này (qua những bài viết đã đọc), đó là câu viết của chính Hồ Chí Minh, dưới bút danh Trần Thắng Lợi trong bài "Đảng ta", năm 1949. Có lẽ vì "vô tình" (?) nên Hồ Chí Minh đã viết câu: "Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi" ("Nguyễn Ái Quốc đồng chí hòa ngã" trong "Hồ Chí Minh sinh bình khảo"). Câu này đã xác định rõ: Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, hai người không phải là một như ông ta tự nhận, mà là hai người khác nhau? 
Câu viết này đã tạo nên phản ứng ngầm một cách gián tiếp của đảng và nhà nước Cộng Sản, mà người viết sẽ trình bày thêm trong phần sau. Vậy nếu Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc thì ông ta là ai? Là Hồ Tập Chương như tác giả Hồ Tuấn Hùng đã viết? Chúng ta sẽ cố tìm hiểu thêm qua những nhận định trong sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của tác giả này. 
A- Lời tự khai của Hồ Chí Minh
1- “Lạy ông tôi ở bụi này"?
Trong tiểu đề "Cùng lên vũ đài, một ẩn một hiện" (3) của dịch giả Thái Văn:
"Tháng giêng năm 1949, tạp chí "Sinh hoạt nội bộ" kỳ thứ 13 của Việt Nam có đăng tải một bài viết nhan đề "Đảng ta" do Hồ Chí Minh viết dưới bút danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất bản Chính trị Quôc gia đã đưa "Đảng ta" vào “Hồ Chí Minh toàn tập”, tập 5, trang 547 . Trong "Đảng ta" có một đoạn nói rất rõ ràng như sau: 

Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám...
(Tác giả nhận định, nguyên văn "Tản Anh" là viết tắt của Lê Tản Anh. Hồi ký cách mạng "Giọt nước trong biển cả" của Hoàng Văn Hoan, trang 4 có đoạn viết về Lê Tản Anh là thành viên sáng lập nhóm "Tâm tâm xã").
Đọc đến đoạn văn xác thực này, tôi như muốn nhảy dựng lên. Tại làm sao mà trong một tập san chính thức của nhà nước lại xuất hiện câu văn: "đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi". Câu văn này há chẳng khẳng định, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau đó sao? Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng tham gia tổ chức Hội nghị Hương Cảng? Lúc mới đọc, tôi cho rằng có sự nhầm lẫn khi viết, sau đó đọc đi đọc lại nhiều lần, rà soát cẩn thận từng chữ, và đi đến kết luận là hoàn toàn không có chuyện nhầm lẫn làm tôi đặc biệt quan tâm" (HTH). 
Qua đoạn văn này chúng ta thấy rõ là Hồ Chí Minh đã tự nhận ông ta là một người khác với Nguyễn Ái Quốc.
Tuy nhiên những gì người Cộng Sản nói thì chúng ta cần phải kiểm chứng lại một cách cẩn thận, vì theo như trong sách của ông Hoàng Văn Chí (4)  "Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam" (5), thì ông Hồ nhiều lần đã nói ông không phải là Nguyễn Ái Quốc:
"Nhân dân Việt Nam bắt đầu nghe tên Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 1945. Ngày 28 tháng 8 năm đó (nghĩa là ngay sau ngày Việt Minh cướp chính quyền) báo chí Hà Nội công bố thành phần Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thành lập do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Trước đấy, chưa ai nghe đến tên Hồ Chí Minh bao giờ, và mọi người đều thắc mắc về cái tên hơi kỳ lạ đó. Nhiều người cho rằng cái tên đó văn hoa quá không phải là tên thật mà chỉ là tên hiệu. 

Dư luận bàn tán về lý lịch ông Hồ Chí Minh, nhất là các nhân viên trong tân chính phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng lòng muốn biết rõ ông Hồ là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng phải chờ lâu, vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ Chí Minh là tên mới của Nguyễn Ái Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam”. 

Khi nghe tin đồn này, sở Mật thám Pháp đã lập tức lục lại hồ sơ để tìm ảnh Nguyễn Ái Quốc. Theo hồ sơ chính thức thì Nguyễn Ái Quốc đã chết ở Hồng Kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của Nguyễn Ái Quốc với những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà Nội, sở Mật thám Pháp mới biết họ Nguyễn vẫn còn sống, và sau 10 năm ẩn náu trong bóng tối đã trở lại chính trường dưới cái tên Hồ Chí Minh. Các chuyên viên sở Mật thám Pháp quyết đoán Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn, trong khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ chối, nói rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối cãi

Riêng đối với người Việt thì ông Hồ không chối thẳng nhưng cứ trả lời loanh quanh. Thí dụ như trong năm 1946, ông đáp tầu Dumont D'Urville trở về Hải Phòng sau hội nghị Fontainebleau. Cùng đi trên chuyến tàu này có bốn chuyên gia Việt Nam mà ông Hồ đón từ Paris về nước. Một trong bốn ông là ông Võ Quý Huân, có hỏi ông Hồ: “Thưa chủ tịch, chủ tịch có biết ông Nguyễn Ái Quốc hiện nay ở đâu không ạ?” Ông Hồ chỉ mỉm cười và đáp: “Chú tìm ông ấy mà hỏi, tôi đâu biết”

Không những ông Hồ chỉ giữ kín lý lịch của ông mà đến quê quán gốc tích của ông, ông cũng hết sức bí mật. Trong một bản danh sách ứng cử quốc hội năm 1946, ông khai sinh quán ở Hà Tĩnh; nhưng hiện nay ai cũng biết rõ ông sinh quán ở Nghệ An. Việc này được phơi bày công khai năm 1958 khi một phái đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Tạp chí Tranh ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Việt Nam Thông tấn xã (Bắc Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960, có đăng bức ảnh Nguyễn Ái Quốc với dòng chữ chú thích “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) năm 30 tuổi, đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”. 

Mặc dầu lý lịch của ông Hồ đã được xác định rõ rệt, thế giới tự do vẫn không biết mấy về con người kỳ lạ ấy, và phần lớn những hoạt động của ông Hồ vẫn chỉ có Đệ Tam Quốc tế biết rõ mà thôi. Tất cả những điều ghi chép về ông Hồ chỉ là dựa vào tập hồ sơ mong manh của mật thám Pháp, Anh và những lời thuật lại của một vài người đã có dịp gặp ông. 
Vì thế muốn biết Hồ Chí Minh là ai chúng ta cần phải tìm hiểu nhiều hơn nữa. Riêng về vấn đề hình chân dung của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, người viết không dám lạm bàn vì đã có khá nhiều bài viết với những hình ảnh này.
2 - Bảy hay tám đại biểu tại hội nghị Cộng Sản Việt Nam năm 1930? 
Trong bản dịch của dịch giả Thái Văn, câu: "Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi" khác với nguyên bản về số đại biểu, nguyên văn theo phiên âm Hán Nôm: "Tại trường đích thất vị đại biểu trung, trừ liễu Nguyễn Ái Quốc đồng chí hoà ngã" (6). Nguyễn Ái Quốc triệu tập đại hội, hẳn là ông biết rõ có bao nhiêu đại biểu tham dự. Có lẽ dịch giả Thế Anh đã lấy từ bản chính "Hồ Chí Minh toàn tập", ấn hành năm 2000, dạng PDF, tập 5, trang 1015, trong bài "Đảng ta" của Trần Thắng Lợi, bút hiệu của Hồ Chí Minh: "Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám". Như thế tác giả Hồ Tuấn Hùng đã tham khảo sách "Hồ Chí Minh toàn tập" ở một lần xuất bản khác? Cũng tập 5, nhưng khác số trang là trang 547 thay vì 1015. 
Tuy nhiên trong bản dịch, phần theo sau lại viết như nguyên bản: "Chú thích (1): Bảy vị đại biểu tại Hội nghị gồm Hồ Tập Chương là phái viên liên lạc của Quốc tế Cộng Sản, đương nhiên đứng đầu danh sách, tuy nhiên tài liệu ghi chép danh sách không thể tìm thấy, có khả năng đã bị sửa chữa hoặc giấu đi. Chỉ biết, sau khi thành lập Đảng, có 7 (bảy) vị Ủy viên Trung ương. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử còn lại, bảy Ủy viên là: Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trịnh Đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn và Hồ Tập Chương."
Tài liệu của Đảng Cộng Sản viết khác, bảy đại biểu (7) là Nguyễn Ái Quốc (1890-1969), Hồ Tùng Mậu (1896-1951), Lê Hồng Sơn (1899-1933), Trịnh Đình Cửu (1906-1990), Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), Nguyễn Thiệu (1903-1989) và Châu Văn Liêm (1902-1930).
Như thế thì cuộc họp này có thể gồm 8 đại biểu, và người thứ 8 này là Hồ Tập Chương?
Tại sao Hồ Chí Minh lại viết như thế? Theo như ông Hồ Tuấn Hùng thì năm 1949, khi viết bài "Đảng ta", ông Hồ vẫn chưa chính thức nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Tác giả HTH viết:
"Việc này trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William J. Duiker, trang 499 (8) đã viết rất rõ ràng: "Sau hai mươi năm giấu giếm thân phận, hiện tại Hồ Chí Minh 67 tuổi, cuối cùng ông cũng thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, để rồi các phương tiện truyền thông chính thức của nhà nước ra sức ca ngợi ông như một người suốt đời hy sinh vì lý tưởng cách mạng, phục vụ tổ quốc". Tiếp đó, tác giả (nv: Duiker) lại viết: "Trước đây, Hồ Chí Minh chưa thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, vì vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công dân số một" của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa". ...
"Nếu quả thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc cùng là người Việt Nam, liệu còn có động tác giấu đầu hở đuôi "người công dân số một" này không?" (HTH).
3 - Phản ứng gián tiếp của nhà nước Cộng Sản
Câu viết của Hồ Chí Minh: “Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi," mà ông Hồ Tuấn Hùng nêu ra có lẽ đã làm Đảng Cộng Sản Việt Nam giật mình? Tháng 3 năm 2013, bài viết "“Đảng ta” ngày ấy - bây giờ" của Vũ Lân trong tạp chí Xây Dựng Đảng đã được phổ biến trên internet tại nhiều trang web khác nhau (9). Bài viết "Đảng ta" của Trần Thắng Lợi đã được nhắc lại, tuy nhiên đoạn văn:

"Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám...
đã bị loại bỏ và thay bằng hai ngoặc đơn với 4 chấm ở trong "(....)". 
Điều này chứng tỏ "Đảng ta" biết là đã bị hố và sa lầy vì sự việc bưng bít và lừa dối bấy lâu đã lộ ra và không biết làm sao có thể cứu vãn ?!
B- Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương?
Theo như tác giả Hồ Tuấn Hùng thì:
"1 - Vào năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là 2 trong số 7, 8 đại biểu sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
...
3 - Trước sau năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng làm việc ở Cục Phương Đông Thượng Hải thuộc Quốc tế Cộng Sản. Hai người thường qua lại Hương Cảng và Thượng Hải. Lúc ấy Hồ Chí Minh là phái viên của Cục Phương Đông Quốc tế Cộng Sản đến hoạt động ở Hương Cảng. Vậy thì người mang tên Hồ Chí Minh không phải Nguyễn Ái Quốc này là ai? Ông ta chính là phái viên Quốc tế Cộng Sản Hồ Tập Chương, thành viên tham gia Ban trù bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, được các yếu nhân của Trung cộng và Việt cộng hết sức giữ bí mật".
1- Sơ lược tiểu sử Nguyễn Ái Quốc (10)
Ghi chú: Tiểu sử này được viết theo sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của ông Hồ Tuấn Hùng.
Nguyễn Ái Quốc là con của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (11) và bà Hoàng Thị Loan, là con thứ 3 trong 4 người con. Sinh ngày 19 (?) tháng 5 (?) năm 1890 (?) tại làng Kim Liên (gọi nôm na là làng Sen), xã Nam Liên (Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tên hồi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung (Công) sau đổi là Nguyễn Tất Thành. 
Học chữ Hán từ năm 1900 đến 1904, học dự bị trường Quốc Học Huế từ 1905 đến 1908. Làm giáo viên trường tiểu học Dục Thanh ở tỉnh Phan Thiết. 
Năm 1911 vào Sài Gòn, học nghề làm bếp, sau đó lên tàu Amiral Latouche Trevil làm phụ bếp với tên Văn Ba đi Singapore rồi sang Pháp. Đến Marseille năm 1913 sau đó đi Tây Phi, Bắc Mỹ.
Từ năm 1914 đến 1917, sống tạm ở Luân Đôn (London), học tiếng Anh, làm phụ bếp, rồi lại có việc trên tàu đi Nữu Ước (New York).
Cuối năm 1917, đến định cư tại Paris. Tại đây Nguyễn Tất Thành quen biết với các nhà cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1919 quen biết với các chính khách Tả khuynh của Pháp, gia nhập đảng Xã Hội Pháp.
Năm 1920 gia nhập đảng Cộng Sản Pháp
Năm 1921, đảng Cộng Sản Pháp tuyên truyền phản đối Chủ nghĩa Thực dân. Nguyễn Ái Quốc bị mật thám theo dõi.
Tháng 6, năm 1923, đảng Cộng Sản Pháp gởi Nguyễn Ái sang Mạc Tư Khoa (Moscow) học về chủ thuyết Cộng sản, làm việc tại Cục Viễn Đông của Quốc Tế Cộng sản.
Tháng 6, năm 1924, tham gia Hội Nghị Cộng Sản quốc tế lần thứ 5 tại Mạc Tư Khoa (Moscow). Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (thủ phủ của tỉnh Quảng Đông) lấy tên là Lý Thụy, làm phụ tá cho Mikhail Borodin là đại diện Quốc Tế Cộng Sản Trung Hoa. 
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc v tham gia tổ chức"Tâm Tâm xã" sau đổi thành "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí hội" ở Quảng Châu là tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Quốc Tế Cộng Sản. 
Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc Dân đảng lần thứ II tại Quảng Châu.
Ngày 18 tháng 10 năm 1926, lấy Tăng Tuyết Minh ( Zheng Xue Ming 曾雪明) do Đặng Dĩnh Siêu là vợ của Chu Ân Lai và bà Thái Sướng giới thiệu và làm chứng. 
Năm 1827, Quốc Dân đảng đàn áp đảng Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc sang Mạc Tư Khoa, rồi được cử đến Bỉ, Thũy Sĩ, Ý và Pháp. Từ giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc không có bất cứ liên lạc gì với Tăng Tuyết Minh.
Năm 1928, theo tàu của Nhật đi Bangkok, Thái Lan để vận động Việt Kiều tham gia Cộng Sản. Tại đây Nguyễn Ái Quốc lập "Xiêm La Cách Mạng Đồng Chí hội".
Năm 1929, tại Bangkok, Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh lao, ông phải ở lại đây để trị.
Đầu năm 1930, về lại Quảng Châu với tên Tống Văn Sơ, ngày 3 tháng 2 năm 1930, triệu tập đại hội thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1931, làm đại biểu Quốc Tế Cộng Sản tại Hương Cảng. Chính quyền Anh hợp tác với Pháp, Nguyễn Ái Quốc bị bắt ngày 6 tháng 6 năm 1931 tại Hương Cảng. Được luật sư Loseby cứu, Nguyễn Ái Quốc được đưa đi Singapore nhưng nơi đây không nhận.
Năm 1932, Nguyễn Ái Quốc bị dẫn độ trở lại Hương Cảng. Luật sư Loseby đưa vụ kiện này về Luân Đôn. Tòa án ở Luân Đôn ra phán quyết phóng thích và trục xuất Nguyễn Ái Quốc ra khỏi Hương Cảng. Luật sư Loseby nhờ Paul Draken đưa Nguyễn Ái Quốc bay đến sông Hoàng Phố, sau đó đồng chí đưa ông về Thượng Hải.
Gần cuối năm 1932, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Mạc Tư Khoa, bệnh lao phổi tái phát và ông đã chết trên đường đi.
Nguyễn Ái Quốc đã được nhóm học sinh Việt Nam tại Đại Học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa làm lễ truy điệu, có phái viên Quốc tế Cộng Sản đến chia buồn.
Sáu năm sau, năm 1938, Nguyễn Ái Quốc sẽ được thay thế bằng một nhân vật khác? 
2- Hồ Tập Chương là ai?
Theo như tác giả Hồ Tuấn Hùng thì Hồ Tập Chương là người chú của ông, người Đài Loan, sinh ngày 11 tháng mười năm 1901 tại thôn Đồng La, huyện Miêu Lật, Đài Loan, thời Nhật đang chiếm đóng. 
Cha là Hồ Dần Lượng, mẹ họ Lý, là người con thứ bảy trong 10 người con, học cả tiếng Hán lẫn tiếng Nhật. Đậu tốt nghiệp ưu hạng Đại học Công nghiệp Đài Bắc năm 20 tuổi. Từ năm 1922 đến 1928 về lại Miêu Lật làm nghề nấu rượu, bán thuốc đông y và sản xuất xì dầu. 
Năm 1926, kết hôn với Lâm Quế, sinh con gái đầu là Hồ Tố Mai năm 1928 và năm 1930 sinh người con trai không biết mặt cha là Hồ Thự Quang
Năm 1929 Hồ Tập Chương đi Thượng Hải tham gia đảng Cộng Sản Trung Hoa và sau đó trở thành Phái Viên Quốc Tế Cộng Sản. 
Cuối năm 1931, Hồ Tập Chương bị Quốc Dân Đảng bắt ở Quảng Châu, sau đó được thả. 
Năm 1933, Hồ Tập Chương (với bí danh P.C. Lin) bị gọi về Mạc Tư Khoa vì bị nghi ngờ là theo Lý Lập Tam (12), P.C. Lin "chịu sự điều tra của tổ 3 người gồm Dmitry Manuilsky, Vera Vasilieva và trùm đặc vụ Trung Quốc Khang Sinh" (13) và bị Khang Sinh đề nghị tử hình. Tuy nhiên P. C. Lin đã được Vera Vasilieva bảo trợ, vì thấy Hồ Tập Chương (P.C. Lin) có diện mạo khá giống Nguyễn Ái Quốc, cũng như có quá khứ tương tự , lại đã từng hoạt động chung nên đề nghị muốn "biến" ông này thành Nguyễn Ái Quốc, người đã bị chết vì bệnh lao năm 1932. Quốc Tế Cộng Sản đảng đồng ý, Hồ Tập Chương sau 5 năm huấn luyện đã biến thành Nguyễn Ái Quốc với bí danh Hồ Quang (14) và là Hồ Chí Minh sau này. 
3- Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, không phải là Nguyễn Ái Quốc?
Tác giả sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" đã nêu ra những sự kiện để chứng minh về những nhận định này như sau:
a- Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương bị bắt là hai việc khác nhau?
Theo những dẫn chứng của ông Hồ Tuấn Hùng, việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt ngày 6 tháng 6 năm 1931 tại Hương Cảng và việc Hồ Tập Chương bị bắt mùa hè năm 1931 tại Quảng Châu là hai việc hoàn toàn khác nhau. Từ hai sự việc khác nhau này, chứng tỏ hai người là hai nhân vật khác nhau. Việc Nguyễn Ái Quốc bị chính phủ Anh bắt ở Hương Cảng, tin này đã được loan truyền rộng rãi qua báo chí. Việc xét xử qua chín phiên toà có tính cách công cộng, với phán quyết là việc trục xuất Nguyễn Ái Quốc. 

Tuy nhiên việc Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu lại có tính cách bí mật: "Vì có liên quan đến vụ Noulens nên các thành viên của tổ chức "Công hội Thái Bình Dương" trực thuộc Quốc tế Cộng Sản, đều bị truy bắt, phải bỏ Thượng Hải chạy về Quảng Châu, cuối cùng Hồ Tập Chương bị đặc vụ Quốc dân đảng bắt được vào mùa hè năm 1931" (HTH). Vì thời điểm nên hai sự kiện này bị gom lại thành một, với sự che đậy của Trung Cộng người ngoài chỉ biết đến việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt. 
Về việc Hồ Tập Chương bị bắt , ông Hồ Tuấn Hùng dẫn chứng bằng sự đối chiếu giữa ba nguồn khác nhau:
- Truyện "Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" của Lương Ích Tân.
- Truyện "Hồ Chí Minh" của Ngô Trọc Lưu. Trong truyện này ông Hồ Tuấn Hùng viết: 
"Ngô Trọc Lưu miêu tả Hồ Chí Minh bị bắt giữ chính là Hồ Tập Chương. Biết tin này, người em ruột của ông là Hồ Tập Dưỡng đã thông báo cho gia tộc biết, đó chính là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, từng được truyền khẩu trong ký ức của gia đình chúng tôi" (HTH). 
- "Đài Loan nhật nhật tân báo": "Từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, Hồ Chí Minh đột nhiên mất tích nửa tháng, trong nửa tháng này, thật kỳ diệu, tôi tìm được trong "Đài Loan nhật nhật tân báo". Liên kết "Đài Loan Nhật nhật tân báo" với ngày tháng Hồ Chí Minh mất tích, tôi đã tìm được câu trả lời rõ ràng. "Đài Loan Nhật nhật tân báo" số ra ngày 12 tháng 11 năm 1938 có bài viết: "Thông dịch viên quân đội Nhật là Hồ Tập Chương, người gốc Đài Loan, đã trốn khỏi nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam (Quảng Châu). Sau khi tạm trú tại bản doanh quân đội Nhật Ōta, ông được tuyển vào làm thông dịch cho quan chỉ huy Nhật Bản Quân khu Quảng Đông Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy" (HTH).
Từ những tham khảo trên, tác giả Hồ Tuấn Hùng đã đi đến kết luận Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương. 
b - Chuyện hôn nhân và tình ái của hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Để chứng minh Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, tác giả Hồ Tuần Hùng đã nêu lên những chi tiết về chuyện hôn nhân và tình ái của Hồ Chí Minh như sau: 
- Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Tác giả Hồ Tuấn Hùng lúc này đã coi như Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau và Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, nên ông phân định khá rõ ràng về chuyện hôn nhân tình ái của hai nhân vật này: "Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" (HTH).
Về Nguyễn Ái Quốc, tác giả đã tham khảo qua một số tài liệu và được tóm lược như sau:
Năm 1923, theo như William J. Duiker Nguyễn Ái Quốc đã từng quen biết với một cô gái người Pháp là Bourdon Breiere và theo giáo sư Nguyễn Thế Anh cô này là Bourdon và tác giả đi đến kết luận đây chỉ là một người: Bourdon Breiere. 
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc với tên là Lý Thụy đã kết hôn với Tăng Tuyết Minh (Zeng Xueming曾雪明) do vợ của Chu Ân Lai là Đặng Dĩnh Siêu giới thiệu. Năm 1926 Tăng Tuyết Minh mang thai, nhưng đã bị hủy vì "mẹ Tăng Tuyết Minh là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai" (HTH). Tác giả cho biết thêm là vợ ông là cháu và gọi bà Tăng Tuyết Minh là "cô Mười", bà là người theo Công Giáo. "Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho Hồ Chí Minh mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng bà cô Mười lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa cố vấn M. Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại" (HTH). 
Tác giả cho biết thêm: "Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ Hồ Chí Minh năm 1950 không phải là Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ Tăng Tuyết Minh đau khổ mà không làm gì được" (HTH). Sau đó, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc phải chạy trốn khỏi Quảng Châu rồi đi Mạc Tư Khoa và từ đó không bao giờ ông gặp lại Tăng Tuyết Minh, bà không lấy chồng khác và chết năm 1991 lúc 86 tuổi.
Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng với tên là P.C. Lin, gặp Nguyễn Thị (Minh) Khai (NTMK) và sống với người này như vợ chồng. Năm 1935, Lê Hồng Phong và NTMK tham dự hội nghị Quốc Tế Cộng Sản 7, bà NTMK khai có chồng là P.C. Lin, tuy nhiên P. C. Lin, người đã giúp hai người này "sửa chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị (bằng tiếng Nga), góp phần làm cho Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Đông Dương hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc khiến Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai thật sự cảm động" (HTH). Tác giả nêu ra P. C. Lin ở đây không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương người đang tập đóng vai Nguyễn Ái Quốc. 
- Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan 
Năm 1930, Hồ Chí Minh đang ở Quảng Châu lúc này đang bị Quốc Dân Đảng truy lùng. "Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta...” Hồ Chí Minh bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”. Theo như ông Hồ Tuấn Hùng thì Hồ Chí Minh lúc này là Hồ Tập Chương. Tuy nhiên những gì tác giả nêu ra không phải là từ những tài liệu mà là từ truyện "Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" của Lương Ích Tân mà chính ông cũng biết: "Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc, đồng nhất hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu". 
Có một bài viết đăng trong Dương Thành vãn báo (羊城晚報, Báo Dương Thành buổi chiều) ngày 11-12-2011 cũng như trong báo "Nhân Dân" của Trung Quốc (15)  (www.people.com.cn) với đề tài "Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh" (16) của tác giả Đinh Đông Văn và Việt Báo có đăng lại ngày 1 tháng 2 năm 2012  (17). Tuy nhiên nội dung cũng tương tự như truyện của Lương Ích Tân mà ông Hồ Tuấn Hùng đã nêu ra nguyên bản ở trong sách. 
Tác giả truy tầm thêm tài liệu như “Truyện Hồ Chí Minh” của William J. Duiker về việc ông Duiker đã tham khảo từ , "các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực" (HTH). Tuy nhiên ông Duiker với ghi chú số 54 trong chương "All for the front lines" (trang 668) đã nêu ra: "Có thể ông Hồ muốn có một bạn đồng hành với mình là người Quảng Đông vì ông vẫn ấp ủ sự nhớ nhung người vợ đầu tiên là Tăng Tuyết Minh. Các nguồn khác không giải thích tại sao vai trò này không thể làm bởi một người Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã gặp rắc rối vì có tới ba ứng viên trước khi bỏ ý định này. Khi nghe về dự án (tìm người) này, Chu Ân Lai đã bày tỏ sự lo ngại là việc này có thể khơi cảm giác chống Trung Quốc trong giới lãnh đạo của Đảng Cộng Sản tại Hà Nội" (18).
Trong ghi chú này, tại sao lại có tới ba ứng viên (three candidates) để làm người bạn đồng hành với ông Hồ. Chu Ân Lai và vợ là Đặng Dĩnh Siêu biết rõ Nguyễn Ái Quốc là ai, vì chính bà Đặng Dĩnh Siêu giới thiệu Tăng Tuyết Minh cho Nguyễn Ái Quốc và tham dự đám cưới. Đào Chú, lúc này (1966) đang là người thứ tư trong đảng Cộng Sảng Trung Hoa, ông là người cử Lâm Y Lan làm vợ Hồ Chí Minh và cũng biết rõ ông này là ai. Chính phủ Trung Quốc không thể đưa Lâm Y Lan gặp ông Hồ, cũng như không thể đưa Tăng Tuyết Minh đến gặp ông, nếu họ đã biết rõ ông Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây là việc mà đảng Cộng Sản muốn che dấu nếu Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương theo như ông Hồ Tuấn Hùng.
Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc
Tác giả Hồ Tuấn Hùng đã nêu tên một người khác có liên quan tình ái với Hồ Chí Minh là bà Đỗ Thị Lạc. "Ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh được phóng thích tại Liễu Châu, rất được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội... Hồ Chí Minh tự tuyển chọn mười tám thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện nhiệm vụ cách mạng" (HTH). Một trong mười tám người này là Đỗ Thị Lạc. Tác giả trích dẫn một câu viết của "sử gia Trần Trọng Kim trong hồi ký "Một cơn gió bụi": “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái". Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, Hồ Chí Minh dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với Đỗ Thị Lạc nữa" (HTH). 
Hồ Chí Minh và Nông Thị Trưng
Một người con gái khác có tên là Nông Thị Ngát (tên thật là Nông Thị Bảy) không thấy ông Hồ Tuấn Hùng nêu ra, cô này được Hồ Chí Minh với bí danh là "Già Thu" đổi tên là Trưng, ông Hồ trực tiếp dạy cô này 8 tháng ở Pắc Bó, Cao Bằng. "Theo tạp chí Asia Times, Nông Thị Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001" với ghi chú số 6: "Trong tạp chí Asia Times, cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, số 434 ra ngày 30 tháng 4 năm 2001 có đăng bài Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong ký ức của một người thầy nhân dịp Nông Đức Mạnh lần đầu được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nói về cảm tưởng của thầy giáo cũ La Văn Ngâm dạy cấp 2 về học trò cũ Nông Đức Mạnh. Bài có đoạn tả thầy giáo này tìm đến nhà bà Trưng, thân mẫu Nông Đức Mạnh, trong đó có ghi rõ chú thích của tạp chí: "bà Nông Thị Trưng là thân mẫu đồng chí Nông Đức Mạnh" (Wikipedia). 
Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân
"Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, Nông Thị Xuân sinh với Hồ Chí Minh một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện Nông Thị Xuân bị tai nạn ô tô chết bên đường chân Dốc Chèm..."
Để tổng kết về huyện hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh, tác giả viết: "Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình". 
C- "Nhật ký trong tù"
Một vấn đề khác mà tác giả Hồ Tuấn Hùng dùng để cố chứng minh Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, người gốc Đài Loan là khả năng ngôn ngữ, văn chương bằng tiếng Trung Hoa của hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Đặc biệt ông phân tích "Nhật ký trong tù" với những chữ hay tiếng đặc biệt của người Khách Gia (người Hẹ) để dẫn chứng Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đài Loan, cũng là quê quán của tác giả. 
1- Khả năng về Hán văn của Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc
Tác giả HTH dẫn chứng "Hồ sơ Lư Sơn" viết là năm 1959, Hồ Chí Minh đến Lư Sơn (19), ông dùng ngón tay để viết thư pháp ba chữ “Lư Sơn hảo” (庐山好 ) "...Hồ Chí Minh thong thả nhúng ngón tay vào nghiên mực, viết ba chữ lớn: “Lư Sơn hảo” (庐山好 ) rồi lùi về phía sau hai bước ngắm nghía. Lâu Thiệu Minh liếc qua, rất khâm phục:

- Thưa Hồ Chủ tịch! Người viết chữ Hán thật tuyệt.

Sau khi viết “Lư Sơn hảo” bằng ngón tay, Hồ Chí Minh lại dùng bút tiểu khải viết 10 chữ nhỏ: “Hồ Chí Minh, tháng tám năm 1959” vào dòng lạc khoản để kỷ niệm chuyến thăm Lư Sơn"."

Tên một khách sạn sao lại theo cách viết bằng ngón tay 
của Hồ Chí Minh tại Lư Sơn, Quảng Tây
Tác giả cho là trình độ thư pháp của Hồ Chí Minh thuộc loại khá. 
Còn Nguyễn Ái Quốc thì "cho đến năm 1932, hầu như không thấy ông sử dụng Hán văn trong các bài viết, chưa nói đến trình độ viết thư pháp chữ Hán. Vì sao đến năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về vùng biên giới Việt Trung hoạt động, Hồ Chí Minh lại đột nhiên sử dụng Hán văn, viết báo, làm thơ và viết thư pháp một cách thành thạo? Chúng tôi vô cùng nghi ngờ. Có thật Nguyễn Ái Quốc dùng ngón tay viết thư pháp? Có thật ông dùng Hán văn viết “Nhật ký trong tù”? (HTH)
Để nói về trình độ tiếng Trung Hoa của Nguyễn Ái Quốc, ông HTH dẫn chứng: "Theo Đặng Dĩnh Siêu , vào thời điểm năm 1925, bà có dạy Nguyễn Ái Quốc học tiếng Trung, đến năm 1926 thì ông ta kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Sự việc này đúng là có thực. Nói cách khác, đến năm 1927, trình độ nghe, nói, đọc và viết chữ Hán của Nguyễn Ái Quốc rất hạn chế". Ông kết luận khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc: "Dừng lại ở mức độ 3 đến 4 năm cấp tiểu học, tuyệt đối không có khả năng viết báo, tạp chí và những bài nghị luận trường thiên lời văn khúc chiết, đanh thép, không thể là tác giả của “Nhật ký trong tù”, càng không có khả năng viết thư pháp bút lông hoặc “thư pháp ngón tay” chữ Hán". 
Hồ Tập Chương thì khác hẳn "Lớn lên ở Đài Loan, từ nhỏ đã được giáo dục nền văn hóa Hán...Năm 1929, lúc ấy Hồ Tập Chương 29 tuổi, rời Đài Loan đến Thượng Hải, trình độ đọc và viết chữ Hán không thể sai sót, có khả năng viết thư pháp, nói tiếng Khách Gia Quảng Đông và tiếng Mân Nam Phúc Kiến lưu loát".
Ông HTH nhận xét là dùng khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc để liên kết với khả năng Hán văn của Hồ Chí Minh chỉ là một trò đùa dai
Ông Bùi Tín trong bài "Vài chuyện đã rõ về ông Hồ" (20) cũng đã viết "Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của anh Phương Nam băn khoăn hoài nghi về tập thơ Ngục trung nhật ký, cứ như của người Tàu, phong cảnh Tàu, cảm khái Tàu, lịch sử Tàu, hồi tưởng Tàu, hình ảnh Tàu. Không một tên làng, tên huyện, tên tỉnh VN, không tên tuổi một anh hùng, di tích lịch sử VN, không một con sông ngọn núi VN. Chưa có nhà phê bình văn học thơ ca nào nghiên cứu kỹ về điểm này". 
2- Những chữ của người Khách Gia hay dùng có trong tập thơ "Nhật ký trong tù"
Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Tây ngày 27 tháng 8 năm 1942, 14 tháng bị giam qua 18 nhà tù. Trong thời gian bị tù ông đã dùng Hán văn để làm 134 bài thơ tên là "Ngục trung nhật ký" ( 獄中日記: Nhật ký trong tù). Theo như tác giả HTH thì ngoài khả năng Hán văn, người viết tập thơ này phải là người Khách Gia mới dùng những tiếng đặc biệt này, hơn nữa "vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, phải là người từng cư trú tại địa bàn Khách Gia, thấm nhuần tư tưởng, tình cảm cộng đồng dân tộc, mới viết được những câu thơ hàm súc mang đặc trưng văn hóa Khách Gia như vậy" (HTH). 
Lấy vài thí dụ vài bài về ngôn ngữ Khách Gia trong "Ngục trung nhật ký":
- Bài thơ với đề tài "Tảo" (早Buổi sớm) dùng chữ "lung" là nhà giam hai lần. Tác giả HTH giải thích: "“Lung” (籠), tiếng Khách chỉ nhà giam, phòng giam. Người Khách Gia ở Miêu Lật bị vào nhà giam gọi là “nhập lung”(入籠), ra khỏi nhà lao gọi là “xuất lung”(出籠), giam trong nhà lao gọi là “quan lung”(關籠). Trong khi ấy, những từ với ý nghĩa trên ở Trung văn lại được gọi là “nhập ngục”(入獄), “xuất ngục”(出獄), “phục ngục”(服獄), hầu như không ai dùng chữ “lung”. Trong “Nhật ký trong tù”, từ “lung” được hiểu là “nhà giam”, “nhà ngục” hoặc “nhà tù” được sử dụng ở hơn 10 bài thơ".
- Bài thơ với đề tài "Học dịch kỳ" ( 學奕棋Học đánh cờ) có câu "Công thủ vận trù vô lậu toán" ( 攻守運籌無漏著算) có nghĩa là "Tấn công phòng thủ không sơ hở". "Lậu toán”(著算): trong từ vựng Trung văn không có từ “lậu toán”... “Lậu toán” là loại ngữ từ tiêu chuẩn của người Khách Gia, chỉ sự tính toán sai lầm khi đánh cờ tướng" (HTH).
- Bài thơ với đề tài "Lạc liễu nhất chích nha" (落了一隻牙 Rụng mất một chiếc răng), ông HTH giải thích “Lạc liễu nhất chích nha”, thực chất là một câu văn bất thông trong cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa Trung văn, nhưng lại là một phương ngôn rất thông dụng nếu phát âm theo cách của người Khách Gia, Miêu Lật,..."
- Bài thơ với đề tài "Nhất cá đổ phạm ngạnh liễu" (一个賭犯硬了 Một người tù cờ bạc chết cứng). "“Ngạnh liễu”(硬了) hàm ý chỉ sự chết, là một từ rất thông dụng trong ngôn ngữ Khách Gia Miêu Lật. Người Khách Gia thường nói “ngạnh liễu” thay cho “nhân tử liễu”(người chết) của Trung văn" (HTH).
3- Những chữ của người Khách Gia ở thời Nhật chiếm đóng (1895–1945) trong tập thơ "Nhật ký trong tù"
- Bài thơ với đề tài "Đổ" ( Đánh bạc 賭) có câu "Dân gian đổ bác bị quan lạp" (民間賭博被官拉). Quan lạp” (官拉) là từ ngữ rất thông dụng của người Khách Gia, Miêu Lật. Thời Nhật chiếm đóng Đài Loan, nhân dân bị cảnh sát rượt đuổi gọi là “quan lạp” (HTH).
- Bài thơ với đề tài "Hạn chế" (限制) có câu "Xuất cung dã bị nhân chế tài" (出恭也被人制裁). "“Xuất cung”(出恭): Từ thời Nhật Bản chiếm đóng, người dân ở Miêu Lật, Đồng La gọi việc đến nhà xí đại tiện là “xuất cung”... Nhiều năm trước đó, học trò Miêu Lật, Đồng La thường xuyên vào Đại lục tham dự các kỳ thi của triều đình, nên khi về quê đã dùng từ “xuất cung” thay cho “đại tiện”, nghe có vẻ trang nhã hơn. Từ “xuất cung” được lưu truyền cho đến ngày nay trở thành một thứ phương ngôn đặc thù của người Đồng La." (HTH).
- Bài thơ với đề tài "Nam Ninh ngục" (南寧獄) có câu (監房建築頂摩登 Giam phòng kiến trúc đính “ma-đăng”) có nghĩa là nhà lao xây theo kiểu tân thời. "“Ma đăng”(摩登): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, có một số từ nước ngoài du nhập vào Đồng La mà từ “ma đăng” vốn có nguồn gốc Anh ngữ (modern), nghĩa là “hiện đại” là một ví dụ" (HTH). 
- Bài thơ với đề tài "Công kim" (工金 Tiền công). "“Công kim”(工金): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan có một số từ nước ngoài được du nhập vào hệ thống từ vựng Hán ngữ. “Công kim” chỉ tài sản công, tiền công" (HTH).
Đây chỉ là một vài thí dụ tiêu biểu được trích trong bản dịch của dịch giả Thái Văn. Tác giả Hồ Tuấn Hùng sau khi phân tích tập thơ "Ngục trung nhật ký", ông đã đi đến kết luận là càng chứng tỏ mình văn tài thơ phú hay, ông Hồ càng lộ rõ ra ông không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, chú của tác giả, một người Đài Loan:
"Tổng hợp những phần đã phân tích ở trên, chúng tôi đi đến kết luận, tác giả “Nhật ký trong tù” nhất định phải là người có đủ ba điều kiện sau đây:

1- Đối với ngữ văn Trung Quốc phải có trình độ cao, mà đối với nền Quốc học thường thức cũng phải đạt trình độ tương đối khá. Sáng tác được thơ trong “Nhật ký trong tù” tuyệt đối không phải là người chỉ có trình độ chữ Hán ba, bốn năm tiểu học.

2- Tác giả “Nhật ký trong tù” nhất định phải là người sắc tộc Khách Gia thuộc cộng đồng cư dân Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan.

3- Tác giả “Nhật ký trong tù” phải là người Khách Gia thông thạo Nhật ngữ". 

D- Đảng CS cố chứng minh ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc
Theo như ông Hoàng Văn Chí viết trong sách "Từ thực dân đến Cộng Sản", thì đến năm 1958 ông Hồ mới nhận mình là Nguyễn Ái Quốc "Việc này được phơi bày công khai năm 1958 khi một phái đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc". Theo như tác giả HTH, sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện" (VĐĐVKC) của tác giả Trần Đạt Nhân (T. Lan), cũng là ông Hồ, xuất bản lần đầu năm 1961 và sách "Tôi đã mấy lần được gặp Bác Hồ" của Nguyễn Lương Bằng năm 1965: "Trần Đạt Nhân là bút danh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng là Phó chủ tịch nước Việt Nam, hai người đều đồng lòng, nhất trí chế tạo Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc mà không bị lật tẩy bởi nhân chứng đã chết, Hồ Chí Minh vẫn đường đường chính chính tiếp tục sắm vai Nguyễn Ái Quốc". Về việc Hồ Chí Minh gặp Paul Vaillant Couturier ở Thượng Hải, ông này từng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng Sản Pháp: "Chiều tối hôm sau, Bác gặp đồng chí Vayăng Cutuyriê ở một địa điểm kín đáo. “Muôn dặm quê người gặp bạn thân!”. Cả hai người vô cùng mừng rỡ, vừa cảm động nghẹn ngào... Hai anh em siết chặt tay nhau mà nói chuyện. Bác nói cho đồng chí Vayăng Cutuyriê biết hoàn cảnh khó khăn của mình" (VĐĐVKC). Ông HTH cho đây là một sự ngụy tạo để gom Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh làm một vì ông Couturier đã mất từ 26 năm về trước, chả còn sống để làm chứng. Đến việc gặp gỡ luật sư Frank Loseby năm 1960, người đã biện hộ cho Nguyễn Ái Quốc năm 1931 ở Hương Cảng, tác giả HTH cho là "căn cứ vào những động tác liên hoàn từ năm 1956, có thể phỏng đoán, Hồ Chí Minh có ý ngầm thông báo cho vợ chồng luật sư Loseby biết là, Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, tin tức đăng trên các báo về sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi chỉ là tin tức giả... nếu như Nguyễn Ái Quốc không chết, chân thành báo đáp ơn cứu mạng, vì sao đến mãi năm 1956 mới ba lần liên lạc với vợ chồng luật sư Frank Loseby, năm 1960 mới chính thức mời thăm? ... Thử nghĩ, một ông già đã xấp xỉ 80 tuổi, sau 28 năm bặt vô âm tín, đặc biệt là người Âu Mỹ nhìn người phương Đông, liệu có khả năng phân biệt được thật giả? Hồ Chí Minh chơi trò bịp bợm chẳng qua là để vợ chồng Losely ghi nhớ "Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc" mà thôi".
Tuy nhiên trước khi Hồ Chí Minh công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc năm 1958 thì trước đó một năm, 1957 ông Hồ về thăm quê của Nguyễn Ái Quốc ở Nghệ An. "Thời gian này, song thân Nguyễn Ái Quốc đã qua đời từ lâu, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm mất vào năm 1950 và người chị là Nguyễn Thị Thanh cũng mất vào năm 1954. Ông Khiêm và bà Thanh, năm 1945 cũng đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, vội vàng nói chuyện về thời thơ ấu rồi lại trở về quê. Vậy tình hình lúc gặp mặt ra sao, nói những chuyện gì, trước sau vẫn còn là một bí mật. Vì thế, vào năm 1957, khi Hồ Chí Minh về thăm quê hương Nguyễn Ái Quốc, những người trong làng, có thể nói, không một ai phát hiện ra vị Chủ tịch nước Việt Nam không phải là Nguyễn Ái Quốc. Huống hồ, các phe cánh đối lập như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng lưu lạc ở Trung Quốc Đại lục, chết vì bệnh tật chốn tha hương. Hồ Chí Minh đến lúc này mới vượt qua các trở ngại, hoàn thành kế hoạch "dời hoa tiếp cây", thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc do Quốc tế Cộng Sản sắp đặt" (HTH).
E- Kết luận 
Trong sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" tác giả Hồ Tuấn Hùng đã đưa ra khá nhiều bằng chứng và nhiều lúc đã xác định Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, người Đài Loan ở huyện Miêu Lật, thôn Đồng La. Tuy nhiên đến phần cuối thì ông viết: "Ngày nay, khi luận về thân thế Hồ Chí Minh và công lao của ông, chúng ta nên để cho lịch sử phán xét. Lấy việc Hồ Chí Minh nhận lời phỏng vấn ký giả ngoại quốc làm cơ sở kiểm nghiệm, có phải ông đã thành tâm thể hiện lòng trung thành với nhân dân Việt Nam qua những lời hứa hẹn?". Người viết xin góp ý là phải đổi câu "công lao của ông" thành câu "tội lỗi của ông đối với dân tộc Việt Nam".
Theo như hệ thống tư pháp ngày nay tại các nước dân chủ. Một phiên tòa (theo như sự hiểu biết rất sơ sài của người viết) gồm có chánh án, bồi thẩm đoàn, công tố viên, luật sư biện hộ, nhân chứng và nghi can. Nghi can là ông Hồ Chí Minh. Công tố viên là những người kết tội ông. Nhân chứng là những nạn nhân dù trực tiếp hay gián tiếp. Luật sư biện hộ là những người Cộng Sản bênh vực ông, những tác giả đã phủ nhận việc ông là người Đài Loan. Bồi thẩm đoàn là các độc giả, những người đọc, biết về sự kiện, biết các bằng chứng. Chánh án sẽ là người dân Việt. Bản án sẽ là những trang sử được ghi lại về việc này. Người viết chỉ là một trong những người đi tìm hiểu, để biết thêm về những bí ẩn trong lịch sử cận đại, muốn nêu ra đây để chia sẻ với bạn đọc, với hy vọng chúng ta sẽ có một bản án (verdict) sớm hơn để ghi lại trong trang sử Việt cho hậu thế. 
10/2013 
___________________________________
Tài liệu tham khảo:
1- Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo-Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh, dịch giả Thái Văn.
2- 胡志明生平考 - Hồ Chí Minh sinh bình khảo, tác giả Hồ Tuấn Hùng.
3- Hồ Chí Minh Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge.
4- Từ thực dân đến cộng sản, tác giả Hoàng Văn Chí.
5- Ho Chi Minh, a life, tác giả William J. Duiker. 
6- Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, tác giả Trần Bình Nam.
7- Hồ Chí Minh - Người Việt hay Người Tàu, tác giả Phạm Đình Lân.
8- Ý kiến nhà báo Bùi Tín về cuốn “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” của Hồ Tuấn Hùng.
9- HCM - Nguyễn Ái Quốc- Nguyễn Sinh Cung, ba không thể là một, tác giả Nguyễn Gia Định.
10- Giọt Nước Trong Biển Cả, tác giả Hoàng Văn Hoan.
11- Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan, tác giả Phạm Quế Dương.
12- Ông nội và người cha của Hồ Chí Minh, tác giả Tường Lam Hồ Sĩ Sênh.
13- Có mấy Hồ ông? Tác giả Vũ Thế Phan.
14- Ai là tác giả những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tác giả Thụy Khuê.
15- Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ, tác giả Huỳnh Tâm.
16- Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, đảng Cộng Sản Việt Nam.
17- HỒ CHÍ MINH, tác giả Nguyễn Thiên Thụ.
18- HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp, tác giả Minh Võ.
19- Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, tác giả Nguyễn Duy Chính.
20- Nghi Án Thế Kỷ Về Hồ Chí Minh, tác giả Trần Gia Phụng.
21- Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình Khảo", tác giả Nhóm Hành Khất.
22- Những phút cuối đời của Hồ ông: Ai bốc phét, ai nói láo? Tác giả Hàn Lệ Nhân.
23- Niềm tin của tôi bị lung lay, tác giả Bà Đầm Xòe.
24- Thêm những nghi vấn về Hồ Chí Minh, tác giả Xích Tử.
25- Truyền thông và cuộc chiến giải trừ gian dối, tác giả Bảo Giang.
26- Vừa đi đường vừa kể chuyện, tác giả T. Lan (Hồ Chí Minh). 
Chú thích:
(2) Nguyên văn: 胡集璋誕生於日據時代的台灣省苗栗郡銅鑼庄 (Hồ Tập Chương đản sinh ư Nhật cứ thời đại đích Đài Loan tỉnh, Miêu Lật quận, Đồng La trang) 
(3) Nguyên văn trong "Hồ Chí Minh sinh bình khảo": 同登舞台一顯一隱 "Đồng đăng vũ đài nhất hiển nhất ẩn" 
(4) Học giả Hoàng Văn Chí là người đã từng hợp tác với Việt Minh từ năm 1949 đến 1953, năm 1954 di cư vào Nam, năm 1960 qua sống tại Pháp. Năm 1965 sang định cư tại Hoa Kỳ theo lời mời của bộ Ngoại Giao, mất tại Maryland 1988. 
(5) Nguyên bản: "From Colonialism to Communism" bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Sách được dịch ra trên 15 ngôn ngữ. Đây là tài liệu đầu tiên do một người Việt viết bằng ngoại ngữ để phê phán chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Sau này ông dịch sách sang tiếng Việt, với tên "Từ Thực dân đến Cộng sản", bút hiệu Mạc Định. 
(6) Nguyên văn: 在場的七位代表中,除了阮愛國同志和我 
(7) Theo http://vi.wikipedia.org/wiki - Đảng Cộng sản Việt Nam 
(8) Bản dịch của dịch giả Thái văn ghi là trang 449, có lẽ ghi lại nhưng bị lầm. Bản tiếng Anh của Duiker là trang 499. 
(9) 
(10) Người viết tóm tắt lại theo như tác giả sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo". 
(11) Cũng gọi là Nguyễn Sinh Huy. 
(12) Lý Lập Tam (Li Lisan李立三1899-1967) là một nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn đầu, là người nắm thực quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời gian 1928-1930 (theo Wikipedia). 
(13) Khang Sinh (Kang Sheng康生1898 - 1975) đã là người đứng đầu cơ quan an ninh và gián điệp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và sau này đã bị truy tố cùng với Tứ nhân bang (theo Wikipedia). 
(14) HTH: "Mùa xuân năm 1930, con trai trưởng Hồ Thự Quang ra đời nhưng không biết mặt cha. Tôi có hỏi về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với gia đình qua những thông tin trên báo chí, Hồ Thự Quang vào năm 2005 đã 75 tuổi, bị trúng gió nhẹ, cặp mắt hơi lệch, nói câu được câu mất: "Lúc còn nhỏ, bác Ba (Hồ Tập Phỉ) từng nói với tôi: 'Cha cháu làm nghề buôn bán ở Thượng Hải'. Khi tôi mười lăm, mười sáu, chú Út (Hồ Tập Dưỡng) lại bảo: 'Cha cháu có khả năng là Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam". Chú Thự Quang thở dài nặng nhọc, nói đứt quãng: "Mấy chục năm nay đã nghe nhiều tin đồn, chẳng biết có dụng ý gì. Chú muốn hỏi thân mẫu nhưng bà đã qua đời. Từ lúc phụ tử phân ly, mỗi người một phương, chưa từng gặp mặt, cũng chẳng để lại một dòng lưu bút nào. Được tôn xưng là 'Cha già Việt Nam', nhưng chú chắc rằng, trong lòng ông lúc nào cũng thương cảm mà thôi". Nói rồi, ông đứng dậy, nghẹn ngào. Tôi vội vàng đỡ lấy, an ủi: "Thời tao loạn, tạo hóa trêu ngươi. Từ lúc chính phủ Quốc dân đảng tiến nhập Đài Loan, ông không thể về, chứ không phải không muốn về. Tiểu thúc công chẳng đã từng nói, trên hành trình bôn ba, Người lấy tên Hồ Quang làm bí danh, đó chẳng phải là tình cảm của Người với gia đình sao?" 
(16) "胡志明的另一个中国爱人" ( Hồ Chí Minh đích lánh nhất cá Trung Quốc ái nhân) 
(17) Báo TQ Kể Mối Tình HCM Với Lâm Y Lan; Lê Duẫn Tố Ông Hồ Phản Bội Lời Hứa Không Lấy Vợ, Làm Đảng CSVN Mất Hết Danh Tiếng (http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-186721/) 
(18) W. J. Duiker, note 54. "... Ho probably wanted a companion from Guangdong because he still cherished the memory of his first wife, Tang Tuyet Minh. Other sources provide no explanation as to why the role could not have been played by a Vietnamese. The Chinese government had gone to the trouble of locating three candidates before dropping the idea. On hearing about the project, Zhou Enlai had expressed the concern that it could arouse anti-Chinese feelings within the Vietnamese Party leadership in Hanoi". 
(19) Lư Sơn ở trong tỉnh Quảng Tây, khoảng 15 Km phía đông bắc của tỉnh Quế Lâm 
(21) Không biết tác giả Hồ Tuấn Hùng lấy cái tên Trần Đạt Nhân từ tài liệu nào, theo như một số tài liệu thì tác giả sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện" là T. Lan, cũng là bút danh của ông Hồ Chí Minh.

Chính trị – Xã hội

Vấn đề nội bộ nước Mỹ và cam kết với Châu Á  (RFA)   —-Ngoại trưởng Mỹ Kerry trấn an châu Á  (RFA)   —-Quan hệ Việt-Nhật và chính sách Đông Nam Á của Tokyo  (RFI)    —APEC: Ngoại trưởng Kerry bênh vực sự cam kết của Mỹ với châu Á  (VOA)
Trung Quốc cảnh báo Mỹ, Nhật, Australia chớ nhúng tay vào tranh chấp lãnh hải  (VOA)   —Tổng thống Obama không dự APEC, Trung Quốc chiếm ưu thế  (VOA)
-Trung Quốc xây căn cứ tàu ngầm bí mật trên Biển Đông    (Infonet)
Tiễn đưa Tướng Giáp tại gia và trên mạng  (BBC)   —Đại tá Bùi Tín nói về Tướng Giáp  (BBC /nghe)   —Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua lăng kính báo Pháp  (RFI)   —–Huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn sử học  (RFI)
Vì sao cụ Hồ tặng ông biệt danh Văn?  (VNN)   —Sách hay về Tướng Giáp   (VNN)   —  ‘Bia của lòng dân là vĩnh cửu’  (VNN)   —Hà Nội sắp có đường Võ Nguyên Giáp  (VNN)   —-Nước mắt tháng Mười chảy dọc biển Đông(TVN)   —-’Kế hoạch’ dang dở của Đại tướng với Cựu binh Mỹ  (TVN)
Cận cảnh Vũng Chùa – Đảo Yến, nơi an táng Đại tướng(TNO)    —Đại tướng Võ Nguyên Giáp và chiến lược ‘giữ biển’  (TN)  –Có “chiến lược giữ Đảo” không? Và “chiến lược” cắt Lưỡi Bò???liếm trọn Biển Đông. Khi nay niềm tin bị ngủ cho nên bây giờ   -Đánh thức niềm tin  (TN)
John McCain: Tôi đánh giá cao tình cảm của Tướng Giáp (NLĐ) –   Mấy hôm nay sao không thấ báo chí ta phỏng vấn các đ/c Trung cộng anh em, Bắc Hàn, Cu ba , chẳn hạn như Hồ cẩm Đào , Ôn gia Bảo…, còn Đặng tiểu Bình tiếc rằng chết mẹ nó đâu rồi, cùng chung ý thức hệ nhỉ, mà toàn mấy tay Tư bản bóc lột bự không hà? – Nó giãy chết mà nói có giá trị gì nhỉ ?Nhiều hồi nó nói láo vì ” ăn đàng sóng nói đàng gió”…chỉ có đ/c anh ẹm mới thật lòng?
Trung, Nhật chia buồn việc Tướng Giáp từ trần  (PLTP)
Xã hội dân sự có đe dọa chế độ?  (RFA)   —-Dư âm phiên xử LS. Lê Quốc Quân  (RFA)   –Ðài truyền hình SBTN thực hiện phim ‘Tị Nạn Việt Nam’  (NV)
Hàng chục ngàn giáo dân hiệp thông với Mỹ Yên  (NV)
Dân Việt oằn lưng gánh ‘phí’ và ‘lệ phí’  (NV)   —-Xả lũ 2 vạn dân bị ngập: Thiên tai hay nhân tai?  (VNN)   —Thủy điện tích nước gây thiệt hại lớn (TN)
Xây biệt thự, sân tennis cũng tính vào giá điện  (TT)    —-EVN kêu lỗ nhưng vẫn chơi sang (VEF)    —-Hai bệnh viện đầu ngành làm thiệt hại nhiều tỉ đồng  (TT)     —-Tại sao dân phải trả tiền chơi tennis cho ngành điện?  (Infonet)
Các nước ủng hộ Việt Nam đăng cai APEC 2017  (TT)
Nhân tài lận đận: Vật vã chờ việc   (NLĐ) -Tốt nghiệp đại học, thậm chí du học nước ngoài, những tưởng trở về quê nhà cống hiến sẽ dễ dàng có được công việc ổn định nhờ chính sách “trải thảm đỏ đón nhân tài” nhưng rất nhiều kỹ sư, cử nhân không khỏi ngậm ngùi
Tết này sẽ có pháo?   (NLĐ) -Nếu đề xuất của Bộ Công an được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, người dân sẽ được phép đốt pháo không tiếng nổ từ Tết Nguyên đán 2014
Thu nhập bao nhiêu được gọi là thu nhập thấp?  (NĐT)
_______________________________________________________________________________________________
Chân lý luôn thuộc về sự chính nghĩa  (Kami -RFA) -  Hôm vừa rồi có đọc bài “Nhìn ngược thì lóa” của ThS Đăng Minh trên báo CAND nói về việc tranh luận các vấn đề xung quanh bản “Tuyên bố 258″ của Mạng lưới bloggers Việt nam. Nội dung bài viết cũng không có gì mới, tuy nhiên cái tựa bài “Nhìn ngược thì lóa” đã để lại cho tôi ấn tượng về sự khéo léo trong việc đánh tráo khái niệm. Nếu câu đó là “Nhìn ngược sáng thì lóa”, thì chả có gì để bàn vì điều đó đã thuộc về chân lý. Còn ở đây,  tác giả đã cố ý khẳng định chính kiến của đảng và nhà nước Việt nam cũng như của Nhóm phản bác Tuyên bố 258 là chân lý. Kiểu nếu ai “Nhìn ngược (điều tôi đồng tình) thì lóa” thì khó mà chấp nhận được.
Là huyền thoại chưa hẳn đã sướng!  -(Song Chi -RFA)
Minh chủ không tự nhiên sinh ra (Lê diễn Đức -Nguoiviet)
Thêm một trường hợp: Trần Khải Thanh Thủy    (Huy Phương -Nguoiviet) –  Ðẹp đẽ cho dân tộc chúng ta biết bao nhiêu, cũng với hình ảnh dịu dàng yếu đuối đó, ở trong thời đại nhiễu nhương của Việt Nam hôm nay, chúng ta có bao nhiêu bậc nữ nhi khí tiết như: Lê Thị Công Nhân, Ðỗ Minh Hạnh, Nguyễn Phương Uyên, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Bùi Thị Minh Hằng, Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vi… bao nhiêu người nữ dân oan chống bạo quyền, nằm đường ngủ chợ, chấp nhận bị bao nhiêu oan khuất, bị hành hung, mạ lỵ, vu oan để cất cao tiếng nói cho quyền làm con người mà những trang giấy này ghi không hết.

So sánh vị trí cột mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc với bản đồ của quân đội Mỹ  -(Boxitvn)

Thật giả hỗn chiến »  -  -(ĐCV) - Trong cuộc hỗn chiến giành tự do internet, tất cả các xã hội dân sự của chúng ta đều xuất phát từ hạ tầng cơ sở, cùng quyết tâm  nói lên…
Tướng Giáp trong “Bên thắng cuộc” »    (ĐCV) - “Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”….
Khi tướng Giáp thở dài ngay giữa Trung Nam Hải  (Bùi Tín – ĐCV)
GIAM GIỮ VÔ NHÂN ĐẠO  (Bùi Hằng)
Điếu văn của Bà Đầm xòe tiễn đưa Ông Đại tướng.  (Badamxoe)
Những thằng tự xưng là Trí Thức Hanoi72 bị những người thật sự đấu tranh như Bùi Hằng, Nguyễn chí Đức lật mặt là những con thò lò chính trị của Tư Sang  (Chauxuannguyen)
Võ Nguyên Giáp, cốt cách người lãnh đạo trí tuệ, bản lĩnh, nhân cách – Bùi Đức Lại  -(CVHP)
Hồ Chí Minh: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”  -(DLB)
Chân dung ông Phạm Quang Nghị, ứng viên Tổng bí thư   -(DLB)
Một tiếng nói cho công lý đang nguy kịch (Hoàng Tâm Nguyên)  -Thongluan -  “…Thế sự vô thường, phận người long đong. Có lẽ con đường ông Đinh Đăng Định mong muốn thực hiện vẫn còn chưa tới đích, song tinh thần chấp nhận dấn thân cho một tương lai Việt Nam tốt đẹp hơn rất đáng cho những người khác suy gẫm…”
Khả năng đàm phán với Sam Rainsy, đặt nền tảng cho một siêu cường (Đào Văn Thụy)  -Thongluan
Lòng dân (oan) với Đại tướng  -(Đoan Trang)
Ký Tên Vào Lịch Sử  -(Đinh tấn Lực)
KHÔNG NGỜ ĐƯỢC GẶP PHƯƠNG UYÊN!  - (Nguyễn tường Thụy).
PHÊ VÀ TỰ PHÊ  (Huỳnh văn Úc -Nguyentuongthuy)
Vài Con Số Về Trung Quốc  (Nguyễn xuân Nghĩa)


ỐI GIỜI ƠI! THẾ NÀY MÀ CŨNG VÁC MẶT ĐI ĐẤU TRANH ĐÒI CHỦ QUYỀN ĐÂY  -(Tễu)  -Một cuốn sách quan trọng, có liên quan đến các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vậy mà ngay trang thứ hai của bài Lời Giới thiệu của Ban Biên tập đã sai đến mức nhục nhã như thế này!

   “Vua Gia Long tạ thế năm 1819, cháu nội là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi năm 1820, lấy hiệu là Minh Mệnh”.
Thật không thể tưởng tượng được! Một cuốn sách viết về Triều Nguyễn mà lại sai đến như thế này! Vì ai cũng biết Vua Gia Long là VUA CHA của Vua Minh Mệnh (Minh Mạng).
ỐI Giời có gì nhục đâu Anh Diện – Tại Anh chắc không thuộc loại ” đỉnh cao…” nên Anh không hiểu đó- Con hay cháu gì “cũng vậy thôi” mà , còn lỗi thì coi chừng “do lỗi thằng gõ chữ” – Còn “châu bản” thì cũng như “huyện bản”…Anh vặn vẹo làm chi? – Tại do “phân công” chớ tất cả cùng “như nhau” hà. Châu hay Bản cũng như nhau.

Kinh tế

Những nghi vấn sau chuỗi biến động ở Eximbank  (VEF)    —-Quỹ bình ổn giá xăng dầu dư 58,6 tỉ đồng  (TT)   –6 doanh nghiệp bị âm quỹ bình ổn giá xăng dầu  (TN)
Cuộc đua đốt túi tỷ USD của Vietnam Airlines và VietJetAir (VEF)  —WB lo ngại Việt Nam nới lỏng chính sách tiền tệ  (PLTP)
Ba đại gia Việt bí ẩn đặt mua Rolls-Royce 2014 (VEF)   —-17 người giả danh bảo hiểm Prudential lừa 230 tỷ đồng  (TT)

Thế giới

Biển người lên mạng   (BBC)    —  Bắc Kinh bị ô nhiễm không khí nghiêm trọng 3 ngày qua  (VOA)   —  Trung Quốc ‘run’ vì Mỹ ngấp nghé tình trạng vỡ nợ  (Infonet)   —Trung Quốc xây căn cứ tàu ngầm bí mật trên Biển Đông(Infonet)
Dự án thành lập Nhà nước Hồi giáo tại Mali của tổ chức khủng bố Aqmi  (RFI)
Ai Cập: Bạo động phản đối quân đội nắm chính quyền   (RFA)
NT Kerry thúc giục Iran phá vỡ bế tắc trong vấn đề hạt nhân  (RFA)
Bắc Hàn phản ứng với hiệp ước mới giữa Mỹ và Nam Hàn  (RFA)    —-Triều Tiên đặt quân đội trong tình trạng báo động cao  (VNN)
Mẫu của tờ giấy bạc 100 đôla mới
Mỹ phát hành giấy bạc 100 đôla mới  (VOA)===>>>
Doanh nghiệp Mỹ: ‘Không nên vội hoàn tất đàm phán TPP’  (VOA)
Rối loạn chức năng: Chuyện thường trong chính trường Mỹ?  (VOA)
Đảng Cộng Hòa bị áp lực tăng mức trần nợ  (NV)
Dân Mỹ liên tục giảm dùng thẻ tín dụng  (NV)

Văn hóa – Giáo dục – Khoa học - Xã hội

Bệnh thành tích của cô hay phụ huynh?  (VNN)
Khi tham nhũng giáo dục trở thành chuẩn mực  (TVN)
Dạy trẻ tả dối: lỗi đâu phải của giáo viên  (TT)    —-Phạt tiền do chậm nộp học phí để xiết chặt kỷ cương?  (Infonet)


Những phát ngôn biến sao Việt thành trò hề
 - 3Phát ngôn sốc, nổ biến sao Việt thành trò hề  (Soha)   ===>>>

   <<<===  7 chiếc áo lót “bất ly thân” của chị em!  (KP)
Bài tập 5 bước đơn giản để trị xuất tinh sớm  (Soha)
Con trai phó giám đốc Sở Văn Hóa đi ăn cướp  (NV) -Theo Việt Nam Net, “cậu ấm” Nguyễn Thành Nhân 21 tuổi, ngụ tại thành phố Tam Kỳ bị bắt sáng ngày 7 tháng 10, nghi dính đến một vụ cướp xảy ra tại thành phố Tam Kỳ. “Cậu ấm” Nhân là con trai của ông Phó giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Quảng Nam.
Con trai Phó Giám đốc Sở đi cướp giật  (ĐV)
Du khách Nam Hàn chết trong phòng trọ ở Sài Gòn  (NV)
Đại gia Dũng ‘lò vôi’ có 2,5 tỷ USD cho con?  (VNN)
Chị em rỉ tai nhau làm nở mông, nâng mũi bằng… kem bôi  (VNN)
Chặn bắt trộm chó, 1 bảo vệ dân phố bị thương  (TN)

4 chiêu “tự sướng” siêu khoái cho nàng  (Soha)===>>

  <<<===WAGs số 1 nước Anh ‘thiêu đốt’ bờ biển Maldives  (NĐT)
Xe ben lấn tuyến tông xe máy, cả gia đình bị nạn  (VNN)
Cãi nhau vì con, vợ đâm chết chồng  (NLĐ)
Trưởng công an xã dũng cảm bắt “cẩu tặc”  (Infonet)

Minh chủ không tự nhiên sinh ra


Lê Diễn Ðức
Lộ trình dân chủ cho Việt Nam đang ở trong giai đoạn thử thách khó tiên đoán, nếu không nó là bi quan.

Một bên là nhà cầm quyền hung bạo, sử dụng bạo lực tối đa, đến mức côn đồ hóa bộ máy đàn áp, để duy trì sự tồn tại.

Một bên là ngày càng nhiều hơn các nhà tranh đấu dân chủ, những người bất đồng chính kiến, nhưng chưa đủ sức mạnh thuyết phục, lan tỏa ra xã hội. Thông thường sự phản kháng của họ bị kết thúc bởi những bản án tù giam nặng nề và bất công.

Một số người ra khỏi nhà tù trở nên thụ động, không còn giữ được chất lửa ngày nào, một số thì rút về ốc đảo cam phận và phó thác mặc lòng.

Ðã có trào lưu bộc phát ôn hòa mang tính dân sự, dựa trên các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và những quyền con người được hiến pháp hiện hành xác lập. Như nhóm các bloggers Việt Nam với “Tuyên bố 258” về việc đòi hủy bỏ điều 258 trong Bộ Luật Hình Sự về quyền tự do ngôn luận. Hay trước đó có hơn 8,600 chữ ký vào Tuyên bố được gọi là “Công dân tự do” đòi nhà cầm quyền hủy bỏ điều 4 của Hiến pháp hiện hành và thực thi đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội.

Có thể kể thêm các kiến nghị của nhiều nhân sĩ trí thức trong các cuộc vận động lấy chữ ký ủng hộ, ví dụ như chiến dịch chống khai thác bauxite Tây Nguyên, trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ, Tuyên bố Văn Giang, trả tự do cho Nguyễn Thị Phương Uyên, hay sửa đổi hiến pháp 1992.

Những hoạt động liên tiếp này dường như chẳng có hiệu quả nào với nhà cầm quyền, vì vẫn dựa trên cơ sở xin-cho trong cơ chế quan liêu, độc đoán. Nó không được quan tâm đặc biệt, hoặc đôi khi bị phản công lại trên báo chí dưới chiêu bài “diễn biến hòa bình”.

Các hoạt động mang tính dân sự nói trên mới chỉ được giành được sự ủng hộ bởi con số khiêm nhường của cư dân mạng, không gây được tiếng vang và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội. Với con số trên 33 triệu người trong nước sử dụng Internet và khoảng 3 triệu người Việt ở nước ngoài sử dụng Internet tự do, quả là ít ỏi khi nói tới 14 ngàn người ký tên vào Kiến nghị 72 về Sửa đổi Hiến pháp, là kiến nghị có nhiều người tham gia nhất.

Trong ngữ cảnh này, có rất nhiều kịch bản cho tiến trình dân chủ hóa được đưa ra, dựa trên kinh nghiệm và quy luật tất yếu. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, sở dĩ tiến trình chưa thể phát triển được vì thiếu một minh chủ-lãnh đạo đúng tầm.

Chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Khổng Giáo và văn hóa Trung Hoa, cũng như các giai thoại về những anh hùng dân tộc Việt đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc, người Việt vẫn mơ tưởng về một minh chủ, một lãnh tụ có thể tập hợp được quần chúng.
Thực ra nếu có được một minh chủ lãnh tụ như vậy là điều may mắn, nhưng trong thế giới hôm nay, trong xu thế của cách mạng quần chúng, minh chủ không tự nhiên sinh ra.

Cây mọc lên phải có đất và muốn trưởng thành thì cần phải được chăm bón. Cũng như với con người, một xã hội ù lì, mê muội và vô cảm với thời cuộc là mảnh đất khô cằn.

Chúng ta có thể lấy Ba Lan và Miến Ðiện làm ví dụ. Một đất nước đã làm sụp đổ chế độ cộng sản, xây dựng thành công hệ thống dân chủ, tự do từ năm 1989, và một đất nước khác gần Việt Nam hơn đang nằm trong lộ trình chuyển hóa từ nền độc tài quân phiệt sang dân chủ một cách ôn hòa.

Trong thực tế, phong trào quân chúng nuôi dưỡng và sinh ra lãnh đạo chứ không phải ngược lại. Hiệp sĩ dựng cờ khởi nghĩa đã thuộc về các câu chuyện của lịch sử xa xưa.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, từ năm 1945, Ba Lan bị áp đặt chủ nghĩa cộng sản, nằm trong vùng ảnh hưởng của Xô Viết. Ý thức phản kháng chống lại nhà nước cộng sản của nhân dân Ba Lan đã nảy sinh rất sớm, không đợi đến khi xuất
hiện của Giáo Hoàng Joan Paolô II và Công đoàn Ðoàn Kết.

Năm 1956, cuộc biểu tình với hàng trăm ngàn người đã nổ ra tại thành phố Poznan, bị công an và quân đội do tướng chỉ huy người Liên Xô đàn áp dã man. Tiếp theo là những cuộc bãi công lớn tranh đấu đòi quyền lợi và tự do trong các năm 1970, 1972. Các cuộc biểu tình dường như bộc phát tự nhiên, không hề có người lãnh đạo.

Vào thập niên 1980, thanh niên Ba Lan phát động phong trào “Orange Alternative” (PomaraDczowa Alternatywa).“ Orange Alternative”, hay “Lựa chọn màu Cam” - qua ăn bận, trang trí, sử dụng đồ dùng trong sinh hoạt... , nhằm chọc diễu chính quyền, chống lại màu đỏ chính trị tràn ngập trong đời sống công cộng. Phong trào xuất phát từ thành phố Wroclaw, lan ra các thành phố Lodz, Lublin và thủ đô Warsaw. Các phong trào tương tự cũng từ đây diễn ra ở các nước Tiệp Khắc và Hungary.
Tất cả các phong trào xã hội đã âm ỉ, hun đúc nên mầm mống lãnh đạo tương lai. Và tới năm 1980, khi các cuộc biểu tình đình công của công nhân từ nhà máy đóng tàu mang tên Lenin tại thành phố Gdansk lan rộng ra cả nước, người thợ điện Lech Walesa xuất hiện như một nhân vật tiên phong và can đảm trong các cuộc chạm trán với nhà cầm quyền. Bộ tham mưu của Công đoàn Ðoàn kết bao gồm những trí thức hàng đầu của Ba Lan đã xây dựng hình ảnh Lech Walesa thành biểu tượng của quần chúng lao động trong các cuộc vận động chính trị. Lech Walesa trở thành thủ lĩnh.

Ở Miến Ðiện vào Tháng Tám, 1988, phong trào đòi tự do dân chủ của sinh viên và Phật tử lên cao. Những cuộc tuần hành, biểu tình diễn ra sôi động. Nhà cầm quyền quân sự đã cho quân đội thẳng tay trấn áp, giết chết khoảng 3,500 sinh viên.
Từ Anh, bà Aung San Suu Kyi trở về Miến Ðiện với mục đích về nước một thời gian ngắn chỉ để chăm sóc người mẹ bị đột quỵ. Tuy nhiên bà đã bị sốc với những cảnh tượng đẫm máu trên đất nước của mình. Tại Rangoon bà tận mắt chứng kiến binh lính giết chết sinh viên, bắn vào đầu họ từ khoảng cách chỉ vài bước. Bà không còn lương tâm nào để quay lại cuộc sống yên bình ở Oxford nữa.

Bà quyết định ở lại đúng vào lúc bi kịch nhất nhưng cũng cần thiết nhất: phong trào cần một người có uy tín và can đản lãnh trách nhiệm nối kết, tập hợp và xây dựng lực lượng đối đầu với chính quyền quân sự. Sau khi thống nhất với những thành viên tích cực của phe đối lập, bà tuyên bố thành lập đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Chỉ hai năm sau, năm 1990, đảng dối lập của bà đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, nhưng giới cầm quyền quân sự đã không thừa nhận và ban hành tình trạng thiết quân luật, bắt giam nhiều nhà hoạt động và quản chế bà. Phong trào đối lập vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động bí mật và bà là lãnh tụ tinh thần của họ. Trong năm 2007, quân đội lại đàn áp dã man cuộc nổi dậy của các tu sĩ Phật giáo, được gọi là “cuộc cách mạng màu vàng nghệ”. Hàng trăm người biểu tình đã đến trước nhà bà San Suu Kyi để tưởng tỏ lòng kính trọng. Bà Aung San Suu Ky đã từng khiêm tốn nói: “Tôi chỉ là một biểu tượng hữu ích của phong trào thống nhất”.

Cho đến các cuộc cách mạng tại Bắc Phi, những cuộc xuống đường của hàng triệu người lật đổ các chế độ độc tài, được khởi xướng thông qua Facebook, Twitter, Google. Người ta không thấy những lãnh tụ cụ thể mà là một nhóm những thanh niên trong các tổ chức như “Ngày 6 tháng Tư” phối hợp điều hành các cuộc biểu tình. Qua các cuộc cách mạng của Mùa Xuân Ả Rập, nhiều nhà quan sát đã kết luận, đây là những cuộc cách mạng không có minh chủ-lãnh đạo.

Không một chế độ độc tài nào lại tự nhiên chia xẻ hay nhượng quyền lực cho người khác. Dù có thể có những người có tư tưởng cải cách, cấp tiến như Jetlsin (Nga), tướng W. Jaruzienski (Ba Lan) hay tướng Thein Sein (Miến Ðiện), nhưng nếu không có một phong trào tranh đấu đủ mạnh gây áp lực thì cũng khó làm chuyển đổi được tư tưởng của họ qua hành động.
Tương W. Jaruzielski chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng với lực lượng đối lập, tiến hành bầu cử tự do và làm tổng thống chuyển tiếp trong một cấu trúc mới. Tướng Thein Sein chấp nhận một phần ghế quốc hội cho đảng đối lập thông qua bầu cử tự do và thực thi những bước đi dân chủ, trong khi quân đội vẫn còn giữ thực quyền.

Những sự kiện này đều xuất phát từ phong trào tranh đấu mạnh mẽ, chịu tổn thất, hy sinh của quần chúng. Không có phong trào quần chúng, sẽ không bao giờ có minh chủ.

Vince Lombardi (1913-1970), một huấn luyện viên thể thao nổi tiếng của Mỹ, có nói: “Các nhà lãnh đạo không tự nhiên sinh ra - họ được hình thành. Họ được tạo ra là do công việc khó khăn của tất cả những ai muốn đạt được một mục tiêu quan trọng”.

Dân chủ từ dưới lên

Lâu nay, nói đến dân chủ (hoặc không dân chủ), chúng ta thường chỉ tập trung vào một góc độ: chính trị. Trong chính trị, chúng ta cũng chỉ tập trung vào một góc độ: thiết chế (cụ thể là bộ máy chính quyền). Trong thiết chế, chúng ta chỉ tập trung vào một góc độ: cá nhân những người lãnh đạo, và ở những người lãnh đạo ấy, chúng ta thường chỉ tập trung vào một góc độ: cách hành xử, đặc biệt là qua ngôn ngữ, thái độ và hành động của họ trong quan hệ với người dân.

Tất cả những cách nhìn trên dĩ nhiên là đúng. Nhưng thiếu. Vấn đề dân chủ hay không dân chủ không phải chỉ thể hiện trong phạm vi chính trị mà còn trong kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa và cả trong gia đình nữa. Chỉ giới hạn trong phạm vi chính trị, vấn đề dân chủ hay không dân chủ không phải chỉ ở thiết chế mà còn ở quan hệ giữa người và người; và ở con người, chúng còn tồn tại ở những nơi chúng ta khó thấy nhất: tâm lý.

Từ góc độ tâm lý, dân chủ và không dân chủ có thể được nhìn thấy ở mọi người, ví dụ, trong phạm vi gia đình, có những người bố hoặc chồng dân chủ và ngược lại, cũng có những ông bố hoặc chồng không dân chủ; trong giáo dục, cũng vậy, có những thầy cô giáo dân chủ hoặc không dân chủ; trong phạm vi kinh tế, có những ông/bà chủ, đủ mọi cấp, dân chủ hoặc không dân chủ; và cuối cùng, trong phạm vi quốc gia, có những người lãnh đạo các cấp dân chủ hoặc không dân chủ.

Ở những cương vị khác nhau, với những mức độ quyền lực khác nhau trong xã hội, người ta cũng đều có thể trở thành những người dân chủ hoặc những kẻ không dân chủ. Dân chủ khi người ta biết tôn trọng người khác và chấp nhận đối thoại và thương thảo để giải quyết các xung đột; ngược lại họ trở thành không dân chủ khi chỉ khăng khăng cho chỉ có một mình mình là đúng và người khác (từ vợ con đến học trò và nhân viên) đều sai; nếu người khác không chấp nhận cái sai của họ, tiếp tục phản đối, họ sẽ sử dụng các biện pháp trừng phạt hoặc trấn áp ngay tức khắc (với con cái, người ta bợp tai; với học trò, trừ điểm; với nhân viên, sa thải hoặc đe dọa sa thải; với dân chúng, bỏ tù hoặc giết chết).

Có thể nói, trong phạm vi chính trị, vấn đề dân chủ hay không dân chủ nằm ở nhiều cấp độ khác nhau: cơ chế, chính sách, cách hành xử, và, quan trọng không kém, trong tâm lý con người.

Nhìn từ góc độ tâm lý, vấn đề dân chủ hay không dân chủ có thể xuất hiện ở cả hai giới: lãnh đạo và dân thường.

Ở giới lãnh đạo, vấn đề ấy rất rõ và được nói đến rất nhiều: Là dân chủ, khi người ta biết tôn trọng những ý kiến khác, biết chia sẻ ý kiến và quyền lợi cũng như quyền lực với người khác, biết giải quyết các mâu thuẫn bằng sự thương thảo, kể cả việc thỏa hiệp với người khác, biết chấp nhận những luật lệ cũng như quy chế làm giới hạn quyền lực cũng như quyền lợi của chính mình, cuối cùng, biết chấp nhận quyết định của đa số dân chúng trong các cuộc bầu cử cũng như trưng cầu dân ý, kể cả những quyết định hoàn toàn bất lợi cho bản thân mình. Làm ngược lại là không dân chủ hoặc độc tài.

Đối với người dân thường, chúng ta không cần đặt vấn đề không-dân-chủ hoặc độc tài bởi ở vị thế của những kẻ không có quyền lực, đó là một vấn đề vô nghĩa. Nhưng chúng ta có thể và, thật ra, nên đặt vấn đề dân chủ với họ. Nói một cách chính xác và ngắn gọn hơn: ở dân chúng, có những tâm lý phù hợp hoặc không phù hợp với dân chủ. Trong trường hợp không phù hợp, tâm lý ấy trở thành đồng minh hoặc trợ thủ của độc tài.

Dân chúng có tâm lý dân chủ hoặc phù hợp với dân chủ khi, thứ nhất, họ ý thức về quyền của mình và hành xử theo các quyền được quy định của mình; thứ hai, họ cũng ý thức về quyền của người khác và hành xử theo nguyên tắc tôn trọng các quyền của người khác; thứ ba, trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn giữa các quyền giữa mình và người khác, người ta giải quyết theo một trong hai cách: hoặc dựa vào pháp luật hoặc tìm cách thương thảo, thậm chí, sẵn sàng thỏa hiệp và nhân nhượng; và thứ tư, sau khi đã đạt được một thỏa thuận chung, người ta phải chấp nhận và tuân thủ những điều mình đã cam kết.

Ví dụ, ở Úc, trong cuộc bầu cử vào ngày 7 tháng 9 vừa qua, tôi bầu cho đảng Lao Động. Kết quả: đảng Liên Đảng (bao gồm hai đảng Tự Do và Quốc Gia) thắng. Tôi, cũng như gần năm triệu người Úc khác (trên tổng số hơn 14 triệu cử tri), đã bầu cho đảng Lao Động không thể lấy lý do mình không hề bầu cho Liên Đảng để từ chối tư cách cầm quyền của Liên Đảng. Không, luật chơi dân chủ đã định rõ: thiểu số phải phục tùng đa số. Khi kết quả bầu cử đã được công bố và khi mọi người biết Liên Đảng chiếm đa số trong Quốc Hội, không ai – ngay cả các đảng đối lập - được quyền phủ nhận tư cách pháp nhân của Liên Đảng trong vị thế một đảng cầm quyền. Tuy nhiên, dù bầu hay không bầu cho Liên Đảng, người ta cũng có quyền phản đối các chính sách của Liên Đảng khi thấy các chính sách ấy sai hoặc xâm phạm vào một số quyền của chính mình. Khi xuống đường biểu tình hay công kích một số chính sách của chính phủ, người ta chỉ hành xử theo các quyền công dân của mình.

Đó là tâm lý dân chủ. Còn tâm lý không phù hợp với dân chủ, thậm chí, có thể nói tâm lý phản dân chủ là sao? Là:

Thứ nhất, không biết hoặc không tha thiết đến các quyền của mình. Cứ mặc kệ. Ai làm cũng được, kể cả việc chà đạp lên quyền công dân của mình và của người khác. Trong ý nghĩa này, có thể nói những người theo chủ nghĩa mackeno là những người phản dân chủ, ngay cả với tư cách công dân.

Thứ hai, không biết tôn trọng người khác, đặc biệt, không biết tôn trọng đa số. Không quan tâm đến quyền của mình, người ta dễ dàng biến thành nô lệ, nhưng không biết tôn trọng quyền của người khác, người ta dễ trở thành độc tài và độc đoán khi có cơ hội: Cả hai đều là những kẻ thù của dân chủ.

Thứ ba, không biết tôn trọng các luật lệ chung đã được quy định (dĩ nhiên một cách hợp pháp và minh bạch). Bản chất của dân chủ, thật ra, là sự tương nhượng để mọi người đều cùng được tôn trọng và cùng có lợi. Sự tương nhượng chỉ có thể đạt được hiệu quả khi có luật lệ rõ ràng.

Việc những người cầm quyền trở thành phi- hoặc phản-dân chủ bao giờ cũng là một việc làm có chủ đích, có ý thức và đầy tính toán, do đó, người ta không cần dạy các nhà độc tài cách thức để trở thành dân chủ. Dân chủ hay không dân chủ, từ phía những người lãnh đạo, phải là một sự bắt buộc, mang tính cưỡng chế, hoặc bằng luật pháp hoặc bằng áp lực từ những nơi khác. Nhưng việc người dân trở thành những nhà dân chủ hay không thì lại là một lựa chọn đầy ý thức: Người ta phải biết và phải cố gắng thì mới có được tâm lý dân chủ. Đó là những vấn đề thuộc phạm trù giáo dục. Công việc giáo dục ấy được thực hiện bằng hai biện pháp chính: một, về lý thuyết, qua cách giáo dục; và hai, về thực hành, qua việc tập luyện cách suy nghĩ và hành xử như những nhà dân chủ. Trong việc tập luyện, cơ hội tốt nhất chính là xã hội dân sự, nơi người ta hành xử với tư cách những công dân.
Càng ngày người ta càng nhận thấy, một nền dân chủ thực sự và bền vững bao giờ cũng bao gồm một số điều kiện căn bản: Một, phải có thiết chế dân chủ; hai, phải có các điều kiện hỗ trợ cho dân chủ (ví dụ, về kinh tế, phải tương đối cao; về xã hội, tầng lớp trung lưu tương đối đông và mạnh); và ba, văn hóa dân chủ. Trong cái gọi là văn hóa dân chủ ấy, có cái gọi là tâm lý dân chủ chúng ta vừa bàn ở trên.

Tâm lý hoặc văn hóa dân chủ có hai chiều: ở trên, thuộc giới lãnh đạo, gồm những người có chức quyền; và ở dưới, gồm toàn bộ dân chúng.

Cách tốt nhất để xây dựng dân chủ là bắt đầu từ dưới lên: Chính dân chúng, những người bị trị, cần được trang bị ý thức dân chủ.

THỰC GIẢ HỖN CHIẾN- Bài viết mới của bác sĩ Nguyễn Đan Quế





Năm 1986 Việt Nam buộc phải mở cửa ra với thế giới bên ngoài. Đầu tư 
tăng nhanh và thương mại nở rộ. Hối mại quyền thế và tham nhũng ngay 
lập tức đồng hành, có mặt khắp nơi từ trên xuống dưới. Nội bộ đảng cộng 
sản chia rẽ vì ăn chia không đều. Hố giầu – nghèo khoét sâu thêm trong xã 
hội: cán bộ có chức có quyền cùng phe nhóm lợi ích giầu ‘khủng’, còn dân 
nghèo làm việc đầu tắt mặt tối suốt ngày không đủ nuôi con ăn học. 

Tuy nhiên có mặt tích cực của mở cửa. Đó là sự hình thành giai tầng trung 
lưu trẻ, năng động, ham mê internet đang phát triển mạnh tại Việt Nam. 
Chính giai tầng trung lưu này đi đầu tố cáo bất công xã hội, lột mặt tuyên 
truyền bịa đặt một chiều của cộng sản, chỉ trích những sai lầm trong đường 
lối phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế…bằng thông tin đa chiều và nêu 
cao giá trị của tiến bộ, tự do, dân chủ trên thế giới. 
Chỉ vì không chịu cải tổ hệ thống chính trị lỗi thời, kinh tế Việt Nam lâm vào 
suy thoái từ năm 2010 với lạm phát tăng, thất nghiệp cao, giá sinh hoạt 
ngày càng đắt đỏ. Thất bại về kinh tế, cộng nguy cơ khó đòi / mất Hoàng 
Sa - Trường Sa làm người dân bực tức kẻ cầm quyền từ trung ương đến 
địa phương. 
Sợ bất ổn xã hội, Nguyễn Tấn Dũng tăng cường công an trị và ký nghị định 
số 72/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ 1-9-2013, với lý do nói là để bảo vệ tác 
quyền, nhưng chủ ý nhằm kiểm soát người viết blog trên mạng, chỉ cho 
phép chia xẻ thông tin cá nhân, cấm đăng lại bài trên báo điện tử khác (dù 
là của nhà nước) mà không dẫn nguồn hay xin phép tác giả. Nhiều blogger 
đã bị bắt, như Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Phạm Viết Đào, Trương Duy 
Nhất, Đinh Nhật Uy, Điếu cầy, Tạ Phong Tần, các nhạc sĩ Việt Khang, Trần 
Vũ An Bình…Nhưng bất ổn xã hội vẫn tăng. Đã có đổ máu và thương vong 
trong tranh chấp đất đai ở Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình. Ở Nghệ An 
giáo dân và công an đã ‘giao tranh bằng gạch đá’, Giám mục Nguyễn Thái 
Hợp kết tội chính quyền địa phương đàn áp tôn giáo. 
Đưa tầm mắt ra ngoài Việt Nam, chúng ta thấy nổi lên nhiệm vụ phát triển 
vùng của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Asean), và vai trò chiến 
lược hàng đầu của Châu Á – Thái Bình Dương. Tương tác giữa các siêu 
cường đang hướng về “Cộng tác trong Cạnh tranh” / “Cạnh tranh trong 
Hợp tác”. Và các siêu cường đều đã lên tiếng ủng hộ Asean đi vào hoà 
bình, ổn định, hợp tác và phát triển. 
Liệu Việt Nam có thể đi ngược lại nhận thức chung và quyết tâm chính trị 
chung của cả khối Asean? Ít ra trong lúc này chúng ta có thể nói một Việt 
Nam chuyển từ độc tài sang dân chủ, là viễn cảnh mà Asean mong đợi từ 
lâu. Mỹ cũng trông chờ điều này xẩy ra để hội nhập Việt Nam vào tổ chức 
Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang hình thành. 
Dân chủ hoá Việt Nam rõ ràng không thể tránh khỏi và mang tính cấp 
bách. Không có con đường nào khác, vì phát triển và dân chủ phải đi đôi 
với nhau. 
NHƯNG hiện đang xẩy ra hai hướng giải quyết đối nghịch nhau: 
- Một mặt, Bộ chính trị đảng cộng sản Viêt Nam đang ra sức giữ 
độc quyền lãnh đạo bằng cách: đàn áp những tiếng nói chân 
chính đòi dân chủ và thi hành dân chủ giả hiệu từ trên xuống. 
Dễ có thể thấy qua những đòn ngón bá đạo như kiểu lấy phiếu “tín 
nhiệm cao, tín nhiệm vừa, tín nhiệm thấp” các cấp lãnh đạo, hay 
đến nhà ép dân phải đồng ý với những sửa đổi hiến pháp 1992 
hoặc đang tính cải biến Mặt trận Tổ quốc cho có dáng dấp là tiếng 
nói phản biện của những tổ chức trong xã hội… 
- Mặt khác, khi tham gia vận động nhân quyền và dân chủ, những 
người tranh đấu luôn sát cánh cùng quần chúng để thiết lập Dân 
Chủ thực sự từ dưới lên. Nhiều giới trong xã hội đang dùng 
internet lên tiếng đòi giới cầm quyền phải tôn trọng những nhân 
quyền căn bản của người dân. Thí dụ: trí thức, thanh niên, sinh 
viên, giới trẻ, giới làm báo đòi phải có tự do tư tưởng, tự do thông 
tin, tự do phát biểu ý kiến; tín đồ các tôn giáo đòi phải bỏ ‘giáo hội 
quốc doanh’ và tôn trọng quyền tự do hành đạo; người lao động đòi quyền sở hữu đất đai, đòi công đoàn độc lập, đòi quyền được 
đình công…Đây chính là những mầm mống xã hội dân sự đang 
hình thành và lớn mạnh trong đấu tranh. 
Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng âm mưu xử dụng nghị định 72 và 
điều luật 258 hòng tiêu diệt sự ra đời của các xã hội dân sự. 
Nhưng đây là tiếng nói của phong trào quần chúng gồm đông đảo 
người dân bị bóc lột, bị áp bức thuộc đủ mọi tầng lớp, đủ mọi 
ngành nghề trong xã hội. Đòi hỏi có chính nghĩa, hàng ngũ tham 
gia ngày càng đông, lại thêm có kỹ thuật mới hỗ trợ chống kiểm 
duyệt internet, cho nên phong trào bằng mọi giá phải đánh bại 72 
và 258. 
Trong cuộc hỗn chiến giành tự do internet, tất cả các xã hội dân 
sự của chúng ta đều xuất phát từ hạ tầng cơ sở, cùng quyết tâm 
nói lên nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng mình. 
Chính những xã hội dân sự hừng hực khí thế đấu tranh dân chủ 
cấu thành sức mạnh quần chúng. Và sức mạnh quần chúng có sứ 
mạng là áp đảo tập đoàn Bộ chính trị Hà nội, buộc chúng phải 
chấp nhận lộ trình dân chủ hoá từ dưới lên. 
Chúng ta cũng cảnh cáo trước: những tổ chức xã hội dân sự quốc 
doanh trong Mặt trận Tổ quốc, hoặc bất cứ hình thức nào dù chìm 
hay ‘lơ lửng nổi’ nhằm giúp Hà nội thực hiện dân chủ bịp bợm, 
đều là phản động và sẽ lụn bại vì ‘hồn Trương Ba da hàng thịt’* ./. 
* Tên vở kịch của Lưu Quang Vũ với thông điệp: “Mọi thứ nên tuân 
theo qui luật của tự nhiên, mọi sự kháng cự với qui luật đều trở nên 
kệch cỡm” (Theo Wikipedia). 
Bác sỹ Nguyễn Đan Quế
Tháng 10/2013.

Vĩnh biệt một thời đại

Tháng 10 7, 2013
Phạm Thị Hoài
Ông là đại diện cuối cùng của một thế hệ mà chúng ta chỉ còn gặp lại trên những trang hồi kí, Thế hệ Vàng của cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, trong sáng, lãng mạn, tràn đầy lí tưởng. Qua mỗi thế hệ đến sau, vàng dần biến thành đồng thau và thế hệ hiện đang lãnh đạo đất nước này trông không khác gì đất sét. Người ta thương tiếc ông như rỏ nước mắt cho những phẩm chất đẹp đẽ cũng theo ông về bên kia, để lại bên này một thế giới chân không về giá trị.
Ông là một trong hai nhà lãnh đạo Việt Nam tắm trong một hào quang quốc tế. Người kia đã khuất từ chính xác 44 năm trước. Trong cái bóng của ông, các chính khách đương thời của chúng ta trông không khác các vĩ nhân tỉnh lẻ. Gắn với tên ông, chế độ cộng sản ở đất nước này dường như dễ gây thiện cảm hơn, thậm chí lung linh hơn trong mắt thế giới. Hào quang ấy hẳn cũng đã giúp ông tránh được số phận của nhiều đồng chí và cộng sự thân thiết từng bị nuốt chửng trong chiếc hộp đen của quyền lực đỏ đến nay còn khép kín. Những ngày này, khi hào quang ấy cũng theo ông ra đi, người ta bám vào nó như vầng sáng cuối cùng hắt lại từ dĩ vãng.
Theo ông ra đi là thiên tài quân sự mà huyền thoại đã từ lâu bịt kín mọi ngả nhận thức khác. Thiên tài cầm quân của ông đồng hóa thành thiên tài chống ngoại xâm của Đảng Cộng sản, điều sẽ trở thành biện minh số một cho độc quyền thống trị vĩnh cửu của tập đoàn chính trị mà ông suốt đời trung thành này. Thành tích của vị “Napoléon Đỏ” đã đứng cao hơn núi máu xương chiến trường. Những ngày này hoài niệm đạn bom lên tiếng để hiện thực lặng im, rằng đất nước của vị tướng vĩ đại đã thắng trong chiến tranh và thua trong hòa bình. Gần nửa cuộc đời sau của ông là bằng chứng lặng lẽ của hiện thực ấy.
Theo ông ra đi là những hi vọng tìm một điểm tựa tầm cỡ khai quốc công thần cho một hành trình cứu quốc mới, đưa Việt Nam ra khỏi vòng tròn ma quái của nghèo hèn, lạc hậu, băng hoại, phụ thuộc, chuyên chế và hỗn loạn. Dù chỉ lên tiếng một số lần, có thể là quá thưa thớt và yếu ớt so với mong đợi, và không bao giờ chạm lằn ranh cho phép của thể chế, ông đã là một biểu tượng, một chỗ dựa tinh thần, một uy quyền đạo đức trong một khung cảnh thiếu vắng mọi điểm tựa. Dù chưa từng có một ảnh hưởng quyết định nào với nền chính trị Việt Nam và quá khiêm nhẫn để đột phá và cách tân, ông đã là một địa chỉ của hi vọng cải cách.
Theo ông ra đi là thời đại đã thành cổ điển của những đại tự sự giải phóng dân tộc, chống thực dân, chống đế quốc, chống phong kiến, cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản như nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Một thời đại đầy xung đột, lầm than, bạo lực. Một thời đại đầy ấu trĩ, cuồng tín, u mê. Song cũng đầy những vẻ đẹp của niềm tin giản dị và hùng tráng bởi những nhân cách và tầm vóc phi thường. Thời đại ấy đã cáo chung ngay khi ông còn sống. Bây giờ ông có thể cùng thời đại của mình yên nghỉ. Một cuộc đời dài có thể vắt qua hai thế kỉ, song không một vĩ nhân nào trong lịch sử đóng được dấu ấn lên hai thời đại kề nhau.
Kính cẩn vĩnh biệt ông. Vĩnh biệt một thời đại. Cầu cho thời đại hôm nay không còn cần đến những vị tướng và những chiến trường.
© 2013 pro&contra
 

Đôi lời với bác Quý Doãn

Nguyễn Quang Lập
Những người dân làng An Xá đang khóc thương cụ Võ
Sáng nay vừa mở mắt đã thấy lời bác Quý Doãn trên VTC News ( tại đây): “Đừng nghĩ cho làng xóm bởi bác là mênh mông vũ trụ rồi, là người của nhân loại rồi. Bất cứ vùng đất nào đều là quê hương. Cần chọn vùng đất nào để người dân đi qua đều ghé thăm được.”....“Bác về Quảng Bình là quý rồi. Bất cứ vùng đất nào ở Quảng Bình đều là quê hương, đừng phân biệt huyện này huyện khác. Vì sao ở chỗ này mà không là chỗ kia…”
Thật bất ngờ và thật buồn là bác Quý Doãn cũng nghĩ vậy.
Thưa bác Doãn, vẫn biết cụ Võ là " là mênh mông vũ trụ rồi, là người của nhân loại rồi ", vẫn biết " vùng đất nào ở Quảng Bình đều là quê hương" nhưng một khi đã đưa cụ về quê hương thì phải đưa cụ về đúng nơi cụ đã sinh ra, nơi ông bà tổ tiên, bà con cô bác của cụ đã và đang sinh sống. Đó mới đích thị là quê hương. Việt Nam là quê hương, Quảng Bình là quê hương nhưng quê hương đích thị của cụ Võ nơi chôn rau cắt rốn của cụ, ấy là làng An Xá xã Lộc Thủy huyện Lệ Thủy. Mỗi khi cụ Võ về quê không phải cụ về đến chân Đèo Ngang, tới Vũng Chùa rồi quay lui mà cụ phải về tận làng An Xá, ấy mới gọi là về quê. Đứa con nít cũng biết rõ điều đó.

Nghe bác Quý Doãn nói:"Cần chọn vùng đất nào để người dân đi qua đều ghé thăm được"  lại càng ngạc nhiên hơn.
Tui không tin bác Quý Doãn lại nghĩ về Vũng Chùa - Quảng Đông lại thuận tiện hơn về  An Xá- Lộc Thủy, nghe bác nói chợt cười phì, đúng là ông quan chính trị, quen mồm nói lấy được.

Không biết bác Quý Doãn đã đến Vũng Chùa chưa. Đó là vùng đất cằn, không dân. Đảo Yến không dân, Móng Rồng không dân. Tui không biết còn ai có gan đem cha mình ra an táng vùng đất đá lạnh lẽo hoang sơ đó nữa hay không? Thật đáng sợ. ( Hỏi nhỏ bác Quý Doãn: nếu cha bác là"là mênh mông vũ trụ rồi, là người của nhân loại rồi" thì bác có cam tâm an táng cha bác nơi hoang sơ lạnh lẽo đó hay không?) Sẽ có người bảo đã có cách làm cho Vũng Chùa đông vui như đô hội. Dạ dạ em biết rồi, khoảng vài chục nghìn tỉ sẽ đô hội ngay, cơ hội cho bao nhiêu kẻ trúng thầu, sướng chưa!
 Bác Quý Doãn biết tui là dân Quảng Trạch. Xét về riêng tư tui rất mừng nếu cụ Võ an nghỉ ở quê tui. Chỉ mất nửa giờ ô tô là tui có thể đến thắp hương cho cụ rồi, mặc kệ họ hàng nhà cụ Võ, những người dân chỉ kiếm được một ngày hơn chục nghìn, ở cách xa bảy chục cây số, muốn thắp hương cho cụ phải bỏ ra cả ngày trời cả đi lẫn về. Đó là không kể nếu an táng ở đảo Yến thì bà con phải đi đò ra thắp hương nếu không muốn đi theo tour du lịch của ông con nhà cụ Võ. Chắc bác biết quá rõ điều đó.
Tất nhiên ý nguyện của cụ Võ và gia đình cụ là trước tiên và trên hết, dân chúng phải hết sức tôn trọng. Nhưng như bác nói cụ Võ "là mênh mông vũ trụ rồi, là người của nhân loại rồi " thì nguyện vọng ấy cũng phải thể theo nguyện vọng của dân. Cụ Võ suốt đời vì dân, làm gì cũng nghĩ vì dân, há lẽ khi đã quyết về quê an nghỉ cụ lại quyết an nghỉ ở Vũng Chùa, rồi bảo đâu cũng là quê hương, thôi thì tao nằm đây cũng được?

Thực lòng tui không tin an táng ở Vũng Chùa- Quảng Đông- Quảng Trạch là ý chỉ của cụ Võ. Người già thường vẫn hay nghĩ về nguồn cội, cớ gì cụ Võ đã quyết về an nghỉ ở quê lại chọn nơi an nghỉ cách ngõ nhà mình gần bảy chục cây số, bất chấp nguyện vọng của bà con cô bác, hò hàng nội ngoại  của cụ và hàng vạn dân Lộc Thủy- Lê Thủy quê hương của cụ?

Có thể khi về thăm khu du lịch sinh thái của ông con trai, thấy phong cảnh sơn thủy hữu tình, sướng lên cụ nói khi tao chết đưa tao về đây nghe. Đó chỉ là câu nói vui, quyết không phải là ý chỉ. Cũng như khi cụ về làng Đường Lâm, đứng trước mộ Ngô Quyền cụ cũng đã nói ý nguyện của cụ muốn được an táng nơi đây, cạnh lăng Ngô Quyền thì chẳng ai coi đó là nguyện vọng thật, đấy chỉ là sự bộc bạch tình yêu lòng kính trọng của cụ đối với tiền nhân mà thôi.

 Vinh vào những lời nói của cụ Võ để làm theo ý thích của mình quả thật đáng trách, còn như bịa ra nguyện vọng của cụ Võ để trục lợi thì thật vô đạo và bất hiếu, có phải không thưa bác?

Chiều qua đọc báo Tuổi trẻ ( tại đây) thấy thông báo chọn nơi an táng cụ Võ là Vũng Chùa- Quảng Đông- Quảng trạch, có câu:"Đây cũng là địa điểm lúc còn sống Đại tướng đã đồng ý với gia đình để Đại tướng yên nghỉ vĩnh hằng" tui đã ngửa mặt cười to ba tiếng.  Sáng nay đọc VTC News thấy bác nói:"Bất cứ vùng đất nào đều là quê hương " lại ngửa mặt khóc to ba tiếng rồi vội vàng thưa với bác đôi dòng. Có gì không phải bác bỏ quá cho.

 

Anh Văn sống mãi trong lòng nhân dân!

thơĐông Khanh
(Nhà báo – TTXVN – đã nghỉ hưu)

Ngôi “Sao Khuê” vừa lặn,
Ngọn “Hải Đăng” vừa tắt,
Anh Văn đã ra đi, về cõi vĩnh hằng!
Để lại tiếc thương triệu triệu con tim
Gia đình, bạn bè, nhân dân, mãi mãi mất anh
Mất mát lớn, biết lấy gì bù đắp?!

Anh ra đi đang lúc “thế nước mịt mùng”
Bao ẩn họa trong – ngoài luôn rình rập
Vẫn cứ “ôm khó khăn”, không chịu tìm “lối thoát”?!
Nhân dân từ nay mất chỗ dựa tinh thần
Mất nguồn sáng, như đêm dài vô tận!

Những năm tháng cuối đời, những ngày trên giường bệnh
Anh vẫn nặng lòng mãi nghĩ suy vận nước
Như con tằm rút ruột, nhả những sợi tơ đời
Có mấy ai nghe khuyên những lời tâm huyết
Chỉ có nhân dân thấu hiểu nỗi lòng anh.

Từ một thầy giáo dạy sử trường Thăng Long
Lịch sử chọn anh làm binh nghiệp
Vì sơn hà xã tắc, anh đâu dám từ nan
Không một ngày đào tạo trường sỹ quan
Anh đã trở thành danh tướng trên chiến trường
Bao huyền thoại xung quanh tên – “Tướng Giáp”
Thế giới gọi anh “Napoleon – đỏ”, để tỏ lòng kính phục.

Cả cuộc đời anh, cho sự nghiệp đẩy lùi cái ác
Vì hòa bình, độc lập, vì hạnh phúc nhân dân.
Cái ác trong chiến tranh dễ phơi bày nhận biết
Cái ác trong hòa bình, kẻ gian luôn dấu mặt
Vì đại cuộc, anh âm thầm, ngậm đắng nuốt cay
Nhờ đức nhân hậu sáng ngời, lũ dơi phải chùn tay
Lặng lẽ khép lại tội ác vụ “Lệ Chi Viên” hiện đại (*)
Ém nhẹm mưu ma, không làm rõ TRẮNG – ĐEN?!

Mấy ngày nay trời Lệ Thủy đầy mây
Sông Kiến Giang mấp mé nước dâng đầy
Cơn bão mạnh vừa tràn vào tàn phá
Nhân dân Quảng Bình đang gồng mình chống đỡ
Bỗng nghe hung tin – “Anh đột ngột ra đi!”
Đau chồng đau, như đất trời nghiêng ngả.

Bà con từ khắp nơi kéo về làng An Xá
Đi trong hoang tàn, lòng nặng nỗi thương đau
Thắp cho anh nén nhang ngay ngày đầu không chờ nghi lễ
Tại ngôi nhà lưu niệm đơn sơ của anh, thuở ấu thơ
“Quan cách mạng” có mấy người yêu quê hương đến thế?!
Anh ra đi, nỗi đau lớn, quặn lòng bao thế hệ!
Họ gào khóc gọi là “Ông”, là “Anh”, là “Bác”, là “Chú”
Cả một rừng người, cả biển tấm lòng tình cảm quê hương.

Xin vĩnh biệt anh – bậc minh triết và lòng vị tha
Mong anh hãy thanh thản ra đi xa
Như người nông dân vừa cày xong thửa ruộng
Hãy an nghỉ giữa lòng quê hương Đất Mẹ thân thương./.
  (*)Đây chính là vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Triều đình đã quy tội cho Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi giết vua và tru di tam tộc. Sau này, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Ức Trai Nguyễn Trãi nhưng không đề cập tới việc điều tra cái chết và nguyên nhân tử vong của vua Lê Thái Tông./.

Vài Con Số Về Trung Quốc

Xuất xứ: Global Economic Intersection Ngày 131004

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét