Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Bài viết đáng chú ý

Báo Việt Nam lên tiếng thách thức Trung Quốc


Báo Đất Việt, một tờ báo chính thống của Việt Nam, hôm 12 tháng 7 có bài viết mang tựa đềTác chiến điện tử Việt Nam trong bảo vệ Trường Sa”. Bài báo nêu ra các phương án tấn công đánh chiếm mà Trung Quốc có thể áp dụng đối với Việt Nam tại khu vực quần đảo Trường Sa. Bài báo với lời lẽ mạnh mẽ khẳng định chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Trường Sa và cảnh báo Trung Quốc không nên tính chuyện gây hấn vì sẽ phải chịu nhiều tổn thất. Đây là một bài báo hiếm hoi trên một tờ báo của nhà nước Việt Nam, có lời lẽ mạnh mẽ với Trung Quốc, nhất là sau chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Trung Quốc và chỉ vài ngày trước chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ. Việc đăng tải bài báo này cho thấy dấu hiệu gì trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc?

Lên án Trung Quốc

dat-viet-305.jpg

Bài báo với tựa đề Tác chiến điện tử Việt Nam trong bảo vệ Trường Sa” đăng trên tờ Đất Việt vào ngày 12 tháng 7 hẳn khiến không ít người quan tâm vì đây chính là khu vực tranh chấp chủ quyền căng thẳng từ lâu nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Không những thế đây cũng chính là nơi đã từng diễn ra trận hải chiến đẫm máu năm 1988 giữa hai nước khiến 64 lính Việt Nam tử trận.
Bài báo mở đầu với lời lẽ khá mạnh mẽ lên án các hành động và thái độ gần đây của Trung Quốc. Bài báo viết: “Hành động của Trung Quốc và tuyên bố của các tướng lĩnh diều hâu về biển Đông đã chứng tỏ việc chấp nhận tham vấn về COC với ASEAN chỉ là chiêu bài sau 11 năm lẩn tránh. Trung Quốc không từ bỏ ý đồ coi biển Đông là ao nhà của họ. Trung Quốc tuyên bố vùng cấm đánh bắt phi pháp, xua tàu cá của họ dưới sự bảo kê của tàu Hải giám đánh bắt trái phép trên chủ quyền quốc gia khác, đến việc tổ chức các cuộc tập trận đánh chiếm đảo trên biển Đông, phô diễn sức mạnh… làm cho các quốc gia khu vực lo ngại, cảnh giác.”
Bài báo đưa ra dĩ nhiên là nó phải được phép thành ra nó là một tín hiệu cho thấy là cái việc chuyến đi của ông Sang là bằng mặt mà không bằng lòng.
-GS Nguyễn Mạnh Hùng
Tiếp theo lời mở đầu lên án gay gắt Trung Quốc, bài báo tiếp tục khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ thiêng liêng. Bài báo nhắc đến hai cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988, khẳng định Việt Nam không muốn chiến tranh nhưng hòa bình không thể được quyết định bởi chỉ một mình Việt Nam.
Đây là một bài báo hiếm hoi từ phía Việt Nam với giọng điệu gay gắt lên án Trung Quốc, trong khi từ trước đến nay, thế giới đã quen với những lời đe dọa mạnh mẽ từ phía các tướng lĩnh Trung Quốc đối với Việt Nam trên tờ Hoàn Cầu thời báo của nước này. Nhận xét về động thái này từ phía Việt Nam, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về quan hệ quốc tế thuộc trường đại học George Mason nói:
“Bài báo đưa ra dĩ nhiên là nó phải được phép thành ra nó là một tín hiệu cho thấy là cái việc chuyến đi của ông Sang là bằng mặt mà không bằng lòng. Vì thế trong cái việc mà Việt Nam muốn cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc thì ông Sang đi Trung Quốc rồi thì dĩ nhiên ông muốn sang Mỹ nữa,bởi vì trong chuyến đi vừa rồi tới Trung Quốc có lẽ có sự đe dọa gì đó cho nên Việt Nam mới phản ứng ngay bằng hai cách.”
Từ ngày 19 đến 21 tháng 6 vừa qua, Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang đã có chuyến thăm Trung Quốc. Ông Trương Tấn Sang đã gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Kết thúc chuyến thăm, hai nước đã ký 10 văn kiện hợp tác trong nhiều lĩnh vực. Hôm 11 tháng 7 vừa qua, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, ông Khổng Huyễn Hựu đã tổ chức họp báo về chuyến thăm này. Ông Khổng Huyễn Hựu cho biết vấn đề trên biển là vấn đề duy nhất còn tồn tại trong quan hệ hai nước, nhấn mạnh hai bên thống nhất những biện pháp xử lý thỏa đáng những vấn đề nảy sinh, tránh để vấn đề trên biển ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ hai nước.

quangngai-tau
Tàu cá Việt Nam mang số hiệu QNg 90917 bị tàu Trung Quốc đâm thủng hồi chiều ngày 20 tháng 5 năm 2013.

Theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chắc chắn lời đe dọa từ phía Trung Quốc trong chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang tới Trung Quốc phải đủ mạnh để khiến Việt Nam phải lo lắng và cập rập chuẩn bị chuyến đi tới Mỹ ngay trong tháng này.
“Chắc chắn là ông phải nghĩ là ông Trung Quốc đe dọa ghê gớm lắm chứ không phải vớ vẩn thì mới đưa ra cái đó. Ngay lập tức ông yêu cầu ông Mỹ mời ông sang thì ông tổng thống Obama cũng mời ông sang. Trong tình cảnh trước khi ông Obama mời Việt Nam thì cũng có chuyện ông Obama gặp ông Tập Cận Bình và ông Obama cũng nhắn ông Tập Cận Bình là đừng có hung hăng ở biển Đông tạo ra xung đột có thể có ở biển Đông. Chúng ta thấy giữa  Việt Nam và Mỹ cái quyền lợi chiến lược trong giai đoạn này bắt đầu có sự tương đồng.”
Theo thông cáo báo chí từ Nhà Trắng hôm 11 tháng 7, Tổng thống Barack Obama đã mời chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới thăm nước Mỹ vào ngày 25 tháng 7 tới đây. Một trong các vấn đề được bàn thảo giữa hai nước chính là mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai quốc gia mà Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội nhằm nâng lên tầm cao mới là “hợp tác đối tác chiến lược”.

Thách thức Trung Quốc

Bài báo trên tờ Đất Việt tiếp đó cũng thách thức Trung Quốc nếu có ý định tấn công, xâm lược Việt Nam. Bài báo đưa ra hai phương án tấn công đánh chiếm Trường Sa. Phương án đầu tiên được áp dụng giống như trường hợp Anh đã dùng với quần đảo Malvinas của Argentina hay còn gọi là cuộc chiến Falkland hồi năm 1982, phương án thứ hai là tấn công vào đất liền và tạo ra một cuộc chiến không thể kiểm soát.
Trong khi phương án thứ hai được coi là có tính khả thi cao về quân sự do tương quan lực lượng nhưng lại có thể gây phản ứng phụ bất lợi cho Trung Quốc vì sẽ phải đương đầu với cả thế giới, phương án thứ nhất được coi là có thể tạo ra một sự đã rồi với quốc tế nếu kẻ ‘địch’ thắng lợi vì phạm vi tác chiến chỉ gói gọn trong một khu vực nhỏ.
Đối với trường hợp Trung Quốc, thì Trung Quốc phải lo lắng cả về tàu ngầm lẫn lực lượng không quân của Việt Nam, và đó là lực lượng đánh chặn.
-GS Carl Thayer
Với phương án 1, bài báo cũng nói rõ “muốn là một chuyện, được hay không lại là một chuyện khác. Thực tế tình thế khu vực, tương quan lực lượng, ý chí quyết tâm của hai bên không giống như tình hình mà nước Anh tiến hành chiến dịch đánh chiếm quần đảo Malvinas”. Tờ báo cũng nói Việt nam sẽ sẵn sàng chiến đấu tới cùng để bảo vệ chủ quyền của mình khi so sánh trận chiến sẽ chẳng khác gì một trận đấu bóng đá mà đội bóng Việt Nam là một dàn cầu thủ hừng hực ý chí quyết tâm với một tinh thần không còn gì để mất.
Cũng cần phải nói thêm là Việt Nam trong thời gian vừa qua đã gấp rút gia tăng trang bị quốc phòng bằng cách đặt mua 6 tàu ngầm kilo, các máy bay chiến đấu của Nga. Nói về tương quan lực lượng giữa hai nước nếu xảy ra xung đột trên biển, Giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện quốc phòng Úc nhận định:
“Tàu Trung Quốc phải đi một đoạn đường dài đến Việt Nam và tàu ngầm  có thể ở bất cứ đâu và có thể gây thiệt hại cho Việt Nam. Nhưng Việt Nam thì không phải quá chậm trong việc học và đưa các công nghệ mới vào. Chúng ta cũng nhớ là họ đã dùng hệ thống đánh máy bay từ thời Liên Xô cũ như thế nào để chống lại Mỹ. Cho nên chúng ta có thể nói về sự chênh lệch nhưng để nói rõ ý của tôi thì hãy so sánh Anh và Argentina trong cuộc chiến hai nước trước kia trên biển. Chỉ có vài tên lửa Argentina đã làm chìm tàu chiến của Anh. Mặc dù Anh thống trị ở đảo Falkland  nhưng vấn đề là mỗi khi họ gửi tầu chiến đến thì họ phải lo lắng về lực lượng không quân của đối phương. Cho nên đối với trường hợp Trung Quốc, thì Trung Quốc phải lo lắng cả về tàu ngầm lẫn lực lượng không quân của Việt Nam, và đó là lực lượng đánh chặn. Tất nhiên là trong trận chiến hải quân một chọi một thì Trung Quốc có lực lượng hùng hậu hơn nhưng Việt Nam cũng không hẳn chỉ là phòng thủ.”
Bài báo cũng nói đến vũ khí công nghệ cao trong tác chiến điện tử, và cho rằng Việt nam hoàn toàn có khả năng làm vô hiệu hóa các tên lửa của địch, dựa trên những kinh nghiệm mà Việt Nam đã từng học được trong cuộc chiến với Mỹ. Theo bài báo thì tác chiến điện tử không chỉ là sự đối đầu về kỹ thuật mà còn là sự đối đầu về chiến thuật và quan trọng hơn cả là yếu tố con người.
Cuối cùng bài báo có một câu kết luận hết sức đanh thép “con người Việt Nam, khả năng Việt Nam nếu kẻ thù đụng đến Trường Sa thì nhất định chúng sẽ phải trả giá đắt”.
Theo RFA

Bụi Đời Chợ Lớn" và hiện trạng xã hội (phần 2)

Đức Phật đã dạy: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" để loài người hiểu sự vô thường trong trời đất mà ngộ đạo nhằm giảm dần "tam độc" (tham, sân, si) luôn hàm chứa trong mỗi thân xác phàm tục.
Ở đời, đôi khi "Được" cũng là và sinh ra "Mất". Ngược lại, "Mất" cũng là và tái sinh ra "Được". Tùy mỗi chúng ta đứng từ góc độ, vai trò, vị trí nào trong xã hội để chiêm nghiệm.
"Bụi Đời Chợ Lớn" và người dân bơ vơ lăn lóc.
Những khuôn hình cuối cùng để chấm dứt bộ phim, tuy không mới, cũng làm người xem dịu lòng hơn một chút sau những màn chém giết hơi quá đà.
Tuy phần "ngôn ngữ điện ảnh" biểu đạt khá "mòn", nó vẫn chuyên chở tấm lòng của đoàn làm phim đến với khán giả qua hình ảnh Lâm -  nhân vật duy nhất sống sót sau trận huyết chiến từ hai phe "Tài Nhớt" và "Hùng Chợ Lớn" - ngồi lặng lẽ, trầm ngâm bên hàng dương trước biển hiền hòa để suy ngẫm về quá khứ sau khi ra khỏi nhà tù và mơ ước đến tương lai.
Xa xa là người chị dâu (vợ Hùng Chợ Lớn - diễn viên Thanh Trúc thủ vai) đã mất chồng nhìn theo buồn bã.
Phần chuyển cảnh quá đột ngột, từ vô cùng náo động sang khá êm ả, trầm tư có vẻ không phù hợp với "mạch" của bộ phim vốn dĩ là "Bụi Đời Chợ Lớn". Có thể nói là hơi "sốc". "Sốc" ở đây không có nghĩa  làm điều người ta choáng váng, ngộp thở mà sốc như thể từ thân nhiệt 40 độ rồi hạ bất thần xuống 37 độ bách phân. Giảm "sốt" như thế, đôi khi nguy hiểm tính mạng. Rất may đây là... phim.
Ở đời, chúng ta cũng nên nghi ngại khi ai đó vừa chém ta suýt chết lại ngay lập tức vỗ về ta. Đây cũng là "thủ pháp đan xen" mà đạo diễn thường dùng để nêu bật sự bỉ ổi của những tên thủ ác, tưởng chỉ có trong phim, nhưng nó đã xuất hiện trên thực tế.
Hình ảnh người dân oan Đỗ Thị Thiêm vừa bị tạt acid xong, dù chưa biết rõ thủ phạm, nhưng vài chú "công an" "ân cần" đến chia sẻ và đề nghị cắt cử người "trông nom" là một ví dụ sống động. Làm sao có thể không nghi ngờ, nếu không nói là khá lộ liễu, vì trong những năm sau này "công an" mà biết thương dân, quả là vô cùng... hiếm!
Độc giả nào băn khoăn về "tình yêu" của lực lượng luôn tuân thủ "6 điều bác Hồ dạy công an"  đối với dân, có thể cảm nhận ngay câu chuyện chàng trai có tên Vũ Hữu Huấn [1], người đã nhảy từ lầu 3 xuống đất để trốn khỏi những đòn khảo tra dã man với thương tật nghiêm trọng. Sau nhiều ngày chăm sóc tại Hà Nội, khi Huấn được chuyển về bệnh viện Ninh Bình, hơn 50 công an viên đã lũ lượt kéo đến vây quanh. Để làm gì? Chắc là để "chăm... bẵm" kẻ "chống người thi hành công vụ"(?). Trước đó, bà ngoại nạn nhân vốn mù chữ đã tố cáo công an ép bà "điểm chỉ" vào một tờ giấy.
Giá như đoạn kết trong phim, thay vì 2 viên công an "lóng tai" nghe chuyện đời của Lâm, được đổi thành khung cảnh ồn ã, bát nháo tại một bàn billard mà sau khi ra tù, Lâm đã quay trở lại với công việc anh trai mình để lại, có lẽ tình tiết này sẽ "đời hơn" và thuyết phục hơn.
Từ không gian, "mùi vị" "chợ" như vậy, những "cơ thủ" tiếp nối "đời" ăn thua sát phạt, gian lận rồi...gây gổ và dẫn đến ẩu đả. Lâm lúc đó - với vai trò ông chủ - bước ra ôn tồn can gián, đồng thời kêu người phục vụ gọi điện cho... "công an" đến giải quyết, trong khi hai phe "đời mới" vẫn xáp vào nhau và... hãy bỏ ngỏ tình tiết như thế, biết đâu trở thành một nét chấm phá mới cho kịch bản? Cũng biết chừng đâu, chi tiết đó sẽ cứu được cả bộ phim thoát khỏi "lưỡi hái" của các "nhà duyệt phim"?
Hơn thế, với cái kết mở như vậy, đạo diễn đã để cho khán giả suy nghĩ thêm "luật Nhân - Quả" đặt trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương với luật pháp và các công cụ bảo vệ nó chưa bao giờ làm đến nơi đến chốn trách nhiệm, mặc dù hàng tháng họ vẫn lãnh lương và nhận... "lậu"?
Hãy khoan nổi nóng, dù là các ông (bà) "duyệt phim" hay các "ông" công an, nếu các ông (bà) nhớ lại vụ án "Đoàn Văn Vươn" với mấy năm trường mòn mỏi cậy nhờ luật pháp hay cuộc đâm chém tập thể trên sông Yên - Thanh Hóa [*] vừa rồi, người dân cho biết, mâu thuẫn đôi bên từ lâu, đơn đã gởi đến cơ quan chức năng [2] nhưng khổ nạn của dân chưa bao giờ được giải quyết đến tận cùng công lý!
Luật pháp vẫn là "hàng mã" trong xã hội độc đảng toàn trị. Cớ gì, những băng đảng - mệnh danh sống ngoài vòng pháp luật - cần đến?
Ai đã vô trách nhiệm đến vô tư lự trước những mâu thuẫn của người dân mà kết cuộc bi thảm là những cái chết cùng thương tật nặng nề và những án tù trước mặt, từ những cuộc hỗn chiến kinh hoàng trên sông Yên - Thanh Hóa, sau khi người dân đã gởi đơn?
"Hùng Chợ Lớn" đang trên con đường hoàn lương bằng bàn billard kiếm sống với người vợ mang thai cùng đám đàn em dường như cũng muốn đoạn tuyệt quá khứ đâm chém. Họ sẽ làm gì, cho dù biết được mưu mô "Tài Nhớt"? Báo công an chăng? Chỉ tổ "chọc quê" khán giả một khi chi tiết này đưa vào phim và lúc đó, Charlie Nguyễn chắc không còn chỗ đứng trong "giới giang hồ" điện ảnh.
Trong phim có lời thoại: "Nhiều lúc con người ta phải tranh đấu mới có được sự bình an". Một lời thoại khó dành cho giới "anh chị" nhưng nó khá "mẫn cảm" khi gắn với "xã hội đỏ" hiện nay. Đó có thể là một "điểm chết" của bộ phim như "trái mắt mèo" chà xát vào thân thể làm cho "nhà duyệt phim" cảm thấy rất "ngứa" trong khi đôi tay họ bị trói chặt bao năm qua bằng sợi dây đỏ mang tên "Mác-Lê-Hồ"? Hình ảnh "ngứa ngáy" đến "lăn lộn" như thế này có phải làm cho họ không còn đủ bình tĩnh để có quyết định văn minh hơn đối với bộ phim?


"Được", "Mất" của diễn viên.
Diễn viên ngày nay hình như ít dành thời gian để đọc sách báo và thâm nhập thực tế [**] nhằm làm giàu tâm hồn và cũng để nâng cao tay nghề chuyên môn? Có lẽ vì thế, những vai diễn của họ cứ nhàn nhạt trôi như từng "cánh bèo" trên "dòng sông lơ đãng".
Dù sắm vai chính diện hay phản diện; dù vai hài hay vai bi, dường như họ cứ "thế mà làm" theo khuôn của đạo diễn định sẵn cho nhân vật.
"Nghệ thuật thứ bảy" khác hẳn với các nghệ thuật khác, đặc biệt khác với kịch - loại hình ngỡ tương tự.
Các diễn viên Việt Nam hiện nay rất hiếm diễn viên nào diễn "kịch ra kịch", diễn "phim ra phim". Lỗi một phần từ chính bản thân họ, không thể hiện đầy đủ trách nhiệm và tình yêu với nghề. Trong khi những diễn viên thế hệ trước, dù xuất thân "tay ngang", họ đã ít nhiều để lại thiện cảm trong lòng khán giả như: Thúy An, Việt Trinh, Hồng Ánh v.v...
Nói không quá, đa số các diễn viên trẻ hiện nay đã tạo một phiên bản tài tử... "liên hiệp quốc" với "hồn Tàu, xác Hàn, phong cách Tây, nói tiếng Việt". Người xem thật khó tìm thấy "người Việt" thông qua vai diễn từ những kịch bản thiếu chiều sâu gắn với "đời".
Biết đâu, qua "tai họa" này, họ suy ngẫm và dành ít thời gian cho việc đọc và chiêm nghiệm?
Dù "Bụi Đời Chợ Lớn" bị cấm chiếu, nhưng nhờ "hiệu quả" đó mà người xem có lẽ nhớ đến họ hơn từ sự cố này, chứ không phải từ vai diễn mang lại. Đó cũng là một cái "Được". Cũng từ đây, khán giả biết Long Điền (vai Hùng Chợ Lớn) từng là vô địch Taekwondo [3] tại Seagames 2003.
Hy vọng  bộ phim bị cấm chiếu làm họ suy nghĩ nhiều hơn, chịu thâm nhập thực tế và đọc sách báo trong vai trò diễn viên để có được những vai diễn sâu sắc hơn sau này?
"Được", "Mất" của nhà sản xuất và đạo diễn.
Mất số tiền bỏ ra đầu tư hơn 16 tỉ.
Toàn bộ công sức của nhà sản xuất, đạo diễn, diễn viên, quay phim v.v... cũng đổ sông đổ biển sau nhiều đêm thức trắng, cuối cùng không đến được một cách "đàng hoàng" với khán giả.
Lòng tin và cách nhìn của đoàn làm phim đối với những "nhà thông thái" duyệt phim cũng vì thế mà mất đi.
Chưa hết, họ đau lòng và bất lực nhìn tài sản của mình bị mất cắp mà không làm gì được. Nói hơi tệ, tựa như "đứa con" bị cướp và đang bị thiên hạ rao bán [4] khắp hang cùng ngỏ hẻm. Hành vi phát tán đĩa lậu cũng là một tội ác!
Dưới góc độ kinh doanh, Thiên Ngân và Chánh Phương đã bị một vố thua trắng tay và trắng mắt trước những "tay buôn" "sang trọng".
Không biết các ông (bà) trong "hội đồng duyệt phim quốc gia" có cảm thấy đau đớn nếu những đồng tiền của chính mình bị người khác giật trên tay và ném qua cửa sổ để "ông đi qua bà đi lại" tha hồ... lụm?! Nếu không như thế, thì những sản phẩm do chính "hội đồng duyệt phim" làm ra bằng tiền túi của họ, cuối cùng bị xếp xó vì bị những tư duy "cũ mèm" ngăn trở họ có uất ức không nhỉ?
Đau hơn, không những bị mất của, Thiên Ngân và Chánh Phương đang bị quy trách nhiệm [5] theo kiểu... "đổ thừa" rất... tệ!
Tuy nhiên, cái "Được" của nhà sản xuất và đạo diễn đó là bài học nhớ đời?
Dù là một phim hành động giải trí đơn thuần, có lẽ họ nghĩ không liên quan chính trị thì chẳng có gì quá lo để dốc vốn đầu tư? Có phải việc cấm phát hành phim làm họ chợt hiểu ra: văn hóa nghệ thuật vốn chưa bao giờ tách rời khỏi đời sống và càng khó tách rời khỏi thời cuộc Việt Nam đang xoay vần và nghiêng ngả?
"Chính trị" xa xôi và khô cằn? Không, việc cấm phim ra rạp chính là lời hồi đáp cho những nghệ sĩ, nhà sản xuất dù trong hay ngoài nước càng thấm thía thêm nền chuyên chế độc đoán trong một đất nước độc đảng toàn trị. Nó luôn đi liền với túi tiền của mọi người và "tiền thì liền khúc ruột".
"Được", "Mất" của "Hội đồng duyệt phim quốc gia".
"Hội đồng duyệt phim quốc gia" có hai "tên tuổi lớn" trong giới: ông Bùi Đình Hạc và bà Nguyễn Thị Hồng Ngát, cùng một số vị có "tăm" nhưng hình như thiếu "tiếng" trong làng điện ảnh thông qua chuyên môn.
Ông Hạc - 79 tuổi, được biết là một đạo diễn [6], với "di sản cổ" - "Đường về quê mẹ" [7] - do nghệ sĩ Lâm Tới (đã mất) thủ vai chính. Bộ phim được sản xuất cách đây chỉ... 42 năm! Ông đã "rửa tay gác kiếm" gần 30 năm qua với danh hiệu "nghệ sĩ nhân dân" được phong tặng vào 1984.
Bà Ngát - 63 tuổi, xuất thân là một diễn viên chèo cổ [8]. Sau đó du học tại  trường đại học Sân Khấu Điện Ảnh - Mátxcơva - Liên Xô cũ. Từ mảnh bằng loại ưu, bà về làm cho hãng phim truyện Việt Nam. Số lượng tác phẩm của bà Ngát khá nhiều nhưng chất lượng hình như không được bàn tán sôi nổi lắm trong giới. Bà từng là giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam và chức vụ cao nhất bà "kinh" qua là Cục phó Cục điện ảnh trước khi nghỉ hưu.
Thay vì nổi tiếng từ những kịch bản, bà Ngát được nhiều người biết đến "tên tuổi" qua hai "sự kiện":
- "Mời gọi" nghệ sĩ Kim Chi làm đơn xin tặng bằng khen gì đó của Thủ tướng Việt Nam, nhưng bà Kim Chi đã xổ toẹt.
- "Phát kiến" về quan hệ "Dân - Đảng" được bà xoay quanh tục ngữ "con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo" khi trả lời đài ABC - Úc. Sau đó blogger Đinh Tấn Lực có bài bình luận "Mối tương quan mất dạy" [9] để nhận định "giá trị" tư tưởng thâm sâu của bà Ngát. Trong một cuộc phỏng vấn, bà Ngát tự nhận bản thân là một... "con chuột túi" [10] không bao giờ "bỏ con". Qua hai chi tiết này, bà tỏ rõ là "diễn viên lành nghề", biến hóa tài tình giữa  "vai mẹ" và "vai con" trong... đời thực (!).
Người già thường đi kèm cao huyết áp và nhiều bệnh lão khác nên bác sĩ hay khuyên, không nên cho họ giải trí với những trò nguy hiểm dù là "đu quay", "tàu siêu tốc" hay phim bạo lực.
Có lẽ vì vậy, nhạc sĩ nổi tiếng Phan Huỳnh Điểu ở tuổi 89, dù tự nhận ham vui và cho biết "từ ngưỡng cửa âm phủ về đây để chấm thi..." [11] cho cuộc tranh tài "Tiếng hát mãi xanh", vốn dành cho những người lớn tuổi với nhạc êm dịu. Điều này có lợi cho sức khỏe của ông cũng như người lớn tuổi khác.
Có lẽ như thế, nên cuộc thi "The Voice" diễn ra 2 năm qua, nhà tổ chức mời Đàm Vĩnh Hưng, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Thu Minh, Hồ Ngọc Hà, Trần lập, Quốc Trung làm huấn luyện viên cho thí sinh thay vì mạo hiểm mời Trung Kiên, Thu Hiền, Trung Đức, Tô Lan Phương, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn v.v... ngồi ghế nóng như thế. Họ hiểu, phải bảo đảm sức khỏe cho những "cây đa cây đề" trong làng âm nhạc, tránh những âm thanh giậm giật, kích động của Hard Rock, Jazz, R&B, Hiphop v.v... vì tổn hại sức khỏe cho các vị và chắc cũng để tránh... mang tiếng (!).
Theo đó, Bộ VH - TT - DL cũng nên xét lại sức chịu đựng của những vị "lão làng", "gạo cội" trong "hội đồng duyệt phim quốc gia" khi người thì là diễn viên chèo luống tuổi, người đã hom hem gần đất xa trời, lại buộc họ ngồi coi đám thanh niên chém giết, máu me tung tóe như thế, có phải quá... tàn nhẫn đối với người già mang trong mình tâm hồn thanh cao cùng "trái tim pha lê"... dễ vỡ (!).
Ngoài ra, Charlie Nguyễn được biết là tốt nghiệp đạo diễn tại trường danh tiếng UCLA - Mỹ quốc, phong cách làm phim Mỹ như thế cũng khó phù hợp với những người được đào tạo chính quy tại... Liên Xô (đã sụp đổ hơn 20 năm rồi).
Chỉ có mấy tay Ronald Wilson Reagan hay Arnold Schwarzenegger, dù già ngắc khú đế, vẫn xách súng, mang dao chạy ầm ầm chơi trò "beng beng", chứ làm sao bảo những diễn viên chèo cổ hay "nghệ sĩ nhân dân" đạo mạo, vốn thích hợp với cây "ba toong" lại nhào ra coi mấy cái trò nhí nhố của đám trẻ!
Đặc biệt trong xứ sở tươi đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như Việt Nam, dứt khoát không được dung túng cho những bộ phim sắt máu như "Bụi Đời Chợ Lớn" (?!).
Nghệ thuật mà tách rời ý thức hệ là mất lập trường. Mười sáu tỉ đổ sông đổ biển để giữ vững "lập trường cách mạng" là cái giá quá ưu đãi đối với Thiên Ngân và Chánh Phương.
"Được, "Mất" của "hội đồng duyệt phim quốc gia" cũng cho thấy "đỉnh cao trí tuệ" "đảng ta" đang "Mất" rất nhiều sau nhiều sự việc trong ngoài nước, trong khi cái "Được" lại vô cùng ít ỏi.
Ý nghĩa hàm chứa từ việc ngăn cấm bộ phim ra rạp, không chỉ dừng lại ở sự "độc hại" "tiêm nhiễm" vào thế hệ trẻ mà cần nhìn nhận ở "tầm cao" như thế.

Những gì còn lại...
Thay kết thúc vừa "bi" vừa "thảm" cả nghĩa bóng và nghĩa đen của "Bụi Đời Chợ Lớn" cũng như nhắn gởi đến các nhà sản xuất và các ê-kíp làm phim khác, người viết mạn phép bày tỏ mấy lời:
- Quý vị đang rất hạnh phúc trong nghề nghiệp chuyên môn, bởi quý vị đang sống trong một môi trường đầy chất liệu đời thực dành cho phim ảnh. Quanh quý vị, những dân oan mất đất, những cái chết oan uổng do công an gây ra, những mảnh đời bần cùng từ thành thị đến miền núi, những cuộc thanh toán băng nhóm, chống người thi hành công vụ dã man, giết người chặt khúc, đốt thành tro phi tang, tạt acid, những thân phận đáng thương của các cô gái bị lừa đảo đưa vào con đường mại dâm trên xứ người v.v... tất cả tình tiết ghê rợn này dày đặc trong tầm mắt và tầm tay quý vị. Quý vị chỉ cần để mắt đến và gia giảm một ít cũng đủ tạo ra kịch bản hay với những cao trào hồi hộp, rùng rợn, bi, hài nhất.
- Từ những kịch bản như vậy, quý vị chỉ cần thêm câu "Dựa trên câu chuyện có thật" (như phim Mỹ hay đưa vào sau này), nó dễ dàng giúp cho quý vị tạo ra những bộ phim vừa sát với đời thực, vừa đỡ tốn kém, vừa rất hấp dẫn để kéo khán giả ào ạt đến rạp. Do đó, đừng đi tìm ý tưởng kịch bản xa xôi, kém thực tế chi cho mất công.
- Tuy nhiên, để không bị cấm chiếu như vừa qua và để đảm bảo lợi nhuận, nhất định phim phải hòa quyện giữa bộ ba: tâm lý xã hội - hành động - kinh dị và đặc biệt không được phép xem nhẹ hay bỏ sót vai trò "bạn dân" xuất hiện mọi lúc mọi nơi với quan điểm "ta nhất định thắng, địch nhất định thua" là điều nằm lòng mà quý vị đừng lơ đễnh. Quý vị cũng thấy trong nhiều bộ phim "xã hội đen" Hongkong hay Mỹ, sau khi các băng đảng quần nhau chí tử và cuộc huyết chiến gần như ngã ngũ thì lực lượng cảnh sát rầm rộ, mau chóng kéo vào, sao có thể quên áp dụng những phân cảnh hay như thế?
- Những bộ phim phản ánh sâu sắc hiện trạng xã hội Việt Nam sẽ trở thành  niềm an ủi, lời khích lệ đối với người dân. Nó giúp những phận đời đang bơ vơ lăn lóc "đầu đường xó chợ" có thêm một điểm tựa, tiếp tục dấn bước trên con đường đòi công lý. Chị Dậu, anh Pha, lão Hạc, Chí Phèo v.v... thời hiện đại đang đầy trước mắt quý vị, chẳng lẽ người dân không có quyền nghĩ đến Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao v.v... cũng thuộc... thời hiện đại?
- Cuối cùng, các nhà sản xuất, biên kịch, đạo diễn, tài tử màn bạc hãy cho chúng tôi một niềm tin: Tại sao người Việt Nam không có quyền mơ ước một giải Oscar trong tương lai, xuất phát từ một phim rất đời, đặc quánh hiện thực xã hội, với những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo, thậm chí hay hơn cả "Slumdog Millionaire" - bộ phim Ấn Độ giành 8 giải Oscar?
Nguyễn Ngọc Già
_______________
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Thanh-nien-nhay-lau-chuyen-vien-Cong-an-vay-kin-BV-DK-Ninh-Binh/306447.gd [1]
[*] Cáo lỗi cùng độc giả và đài RFA chi tiết này, trong phần 1, người viết đã nhầm lẫn địa điểm tại Phú Yên.
[**] Như diễn viên Phương Thanh với vai "Hiền Cá Sấu" đã thâm nhập vào trại tù để hiểu tâm lý nhân vật phục vụ cho vai diễn. http://www.thanhnien.com.vn/news/pages/200907/20090214121233.aspx.
Tuy vai diễn của bà chưa thể gọi là xuất sắc, nhưng chấp nhận được trong bối cảnh Việt Nam những năm đầu "giải phóng" (1978), lúc mà các cô gái bán thân, nghiện ngập còn sợ "cách mạng" một phép(!)

Ai bảo vệ ngư dân?

Cứ mỗi lần ngư dân của mình bị bọn hải giám của Tàu tấn công và cướp bóc, câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu tôi: chẳng lẽ chẳng có ai bảo vệ ngư dân? Mới ngày hôm kia, một đám hải quân trong chiếc tàu gọi là “hải giám” của chúng đánh đập ngư dân ta, đập phá và ăn cướp ngư cụ, và còn chặt cột cờ. Hành động chặt cột cờ rõ ràng là một sự khiêu chiến. Chợt nhớ hôm nào có ngư dân bảo vệ lá cờ và sau này được trao huy hiệu. Không biết những người theo chủ nghĩa hình thức (trao huy hiệu đó) sẽ làm gì khi kẻ thù ngang nhiên khiêu chiến chặt quốc kì? Vậy mà cho đến nay, sau hai ngày sự việc xảy ra, Chính phủ chẳng hề có một phát biểu chính thức. Chỉ có “Hội nghề cá” lên tiếng một cách yếu ớt.
Những hành động đó của quân Tàu chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: cướp biển. Bọn cướp biển này có tổ chức và được Chính phủ Tàu bảo trợ. Tiếng Anh có một chữ dành cho những kẻ này: state-sponsored piracy. Cũng có thể xem cướp biển là khủng bố, nên chúng ta cũng có thể dùng chữ state-sponsored terrorism – khủng bố do Nhà nước bảo trợ.
Điều đáng nói là những hành động cướp biển / khủng bố này xảy ra chỉ vài tuần sau chuyến viếng thăm Tàu của ngài Chủ tịch Nước và đoàn quân sự Việt Nam. Chắc có lẽ chúng ta không bao giờ biết được những gì được bàn luận và thoả thuận trong chuyến viếng thăm, cũng như chẳng bao giờ biết được những gì được thoả thuận trong cuộc gặp gỡ Thành Đô trước đây. Những gì viết trong thông cáo báo chí chỉ là “phải đạo” thôi. Nhưng những gì xảy ra trong thực tế cho thấy hình như những hội nghị đó chẳng đem lại lợi ích và an toàn gì cho ngư dân Việt Nam.
Hành động cướp biển / khủng bố mới nhất có lẽ chưa phải là lần sau cùng. Chúng ta còn nhớ trước đây Tàu đã 2 lần cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Vài tuần trước, chúng manh động đến độ bắn cháy cabin tàu đánh cá của Việt Nam. Còn những vụ chúng rượt đuổi, cho tàu đụng phá tàu của ngư dân Việt Nam thì đếm không xuể. Có khi chúng ngang nhiên vào tận bờ biển của Việt Nam để gây sự. Tất cả những hành động này cho thấy chúng chẳng xem chủ quyền biển của Việt Nam ra gì (chứ chưa nói đến tôn trọng).
Và hình như chúng có lí do để hành xử lưu manh như thế. Lí do chính là sự khiêm cung của phía VN. Cứ mỗi lần sự việc xảy ra thì phản ứng của phía VN có thể nói là rất “truyền thống” và có thể đoán được. Đầu tiên là các lực lượng chức năng xác minh (làm rõ) sự việc. Phải mất một ngày thậm chí vài ngày thì mới xác minh được thủ phạm “lạ” đó chính là Tàu – kẻ thù của VN. Kế đến là người phát ngôn Bộ Ngoại giao phát biểu những câu chữ mà có lẽ chúng ta đã nghe qua nhiều lần đến độ nhàm (nên không cần lặp lại ở đây). Sau đó thì bên Tàu chúng nó phản bác lại phát biểu của phía VN. Thế là kết thúc. Hậu quả là ngư dân mất của, tổn hại tinh thần. Những ngư dân khác thì ái ngại hơn, suy nghĩ đôi ba lần trước khi đi biển. Dần dần chúng ta mất chủ quyền biển.
Song song với những hành động cướp và khủng bố, chúng còn gia tăng cường độ xâm lấn. Chúng xua hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, tàu cá xuống vùng biển VN để đánh bắt. Chúng cho tàu hải quân theo để hộ tống cho đoàn tàu ăn cướp. Thật khó hình dung nổi còn hành động nào du côn hơn? Hành động du côn đó xuất phát từ một chính quyền tự gắn (hay trói) những chữ “tốt” và “vàng” với Việt Nam!
Ngư dân VN chắc ước mong được như ngư dân Tàu. Ngư dân Tàu được quân đội Tàu bảo vệ dù họ cũng chỉ là cướp biển. Còn ngư dân VN thì chẳng có ai bảo vệ họ. Mới tháng 5/2013, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sau khi nhận định rằng việc Tàu hành hung ngư dân VN là nghiêm trọng, ông tuyên bố rằng “Nếu có những vi phạm vào vùng biển của Việt Nam thì các lực lượng chức năng của ta sẽ có trách nhiệm bảo vệ.” Thế nhưng sự việc xảy ra ngày hôm qua thì chúng ta mới biết chẳng có ai bảo vệ ngư dân ta cả. Người bình thường nhất, bàng quan nhất nhất cũng phải đặt câu hỏi: lực lượng hải quân VN ở đâu và đã làm gì trong khi ngư dân lâm nạn?
Hiện nay, Việt Nam có 4 lực lượng có chức năng bảo vệ ngư dân: Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Biên phòng, và Hải quân. Nhưng như chúng ta thấy trong thời gian qua, mỗi khi ngư dân lâm nạn là chẳng thấy bóng dáng các lực lượng này ở đâu. Thật ra, những người đi đánh cá cho biết họ “Bảo vệ gì đâu! ra đó làm sao mà đụng được với Trung Quốc mà bảo vệ? Chỗ đó đâu có ra được chỉ có dân ra chứ bên quân sự đâu có ra được. Khu vực đó thằng Trung Quốc nó quản lý hết làm sao mà ra. Đánh cá thì đánh chui ở Hoàng Sa chớ cảnh sát biển không tới mép nước nữa, do cũng chưa thấy nó. Cảnh sát biển của Trung Quốc thì có. Nếu bảo vệ thì bảo vệ một khúc nào đó thôi, ở vùng nhất định thôi chứ làm sao vô khu vực Hoàng Sa bảo vệ được? Khu vực san hô mới có cá còn ngoài khu vực đó thì nước nó sâu, có rạng không có san hô cho nên đâu có cá.” (trích lời của một ngư dân trả lời phỏng vấn báo chí). Thế thì đã rõ, các lực lượng chức năng chẳng bảo vệ gì được ngư dân cả. Nhưng khi ngư dân có một hành động dũng cảm bảo vệ chủ quyền thì đại diện của các lực lượng chức năng xuất hiện trong đồng phục đẹp và chụp hình trao cái gì đó làm vật lưu niệm.
Không bảo vệ được, nên có lúc người ta nghĩ đến chuyện trang bị vũ khí cho ngư dân. Thật là một ý tưởng lạ lùng và nguy hiểm! Ý tưởng này biến ngư dân thành "món mồi" cho hải quân của kẻ thù vì một khi ngư dân có súng thì chúng càng có thêm lí do để nổ súng. Thật là điên rồ!
Chúng ta nói Hoàng Sa là của Việt Nam và điều đó thì chắc chắn là sự thật. Nhưng giặc Tàu đã chiếm Hoàng Sa và đó cũng là sự thật. Ngày nay chỉ có ngư dân đánh bắt chung quanh ngư trường Hoàng Sa, thì chính những người này mới là “lực lượng” bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam. Vậy mà không ai bảo vệ được họ! Cũng chẳng có chính khách nào đến thăm hỏi và biểu dương họ. Thật là trớ trêu. Nghĩ đến đây tôi càng thấm và chua xót khi đọc cái tít của báo chí “Ngư dân thả trôi tính mạng trên Biển Đông”.
Tôi nghĩ đơn giản rằng nếu mình không chống trả nổi sự tấn công của một tên du côn to con thì ít ra mình cũng có thể la lớn để gây chú ý. Tương tự, nếu các lực lượng chức năng không đương đầu được với kẻ thù và giới chức ngoại giao không nói gì, thì chính quyền cũng phải cho phép người dân có tiếng nói để thế giới chú ý. Trong khả năng của mình, tôi chỉ biết mỗi khi thấy cái bản đồ 9 đoạn trên các tập san khoa học thì lập tức phản đối, và phản đối phải kèm theo những thông tin cụ thể về sự khủng bố của Tàu. Có lẽ chúng ta nên làm một database để hệ thống hoá những hành động khủng bố của Tàu chống ngư dân Việt Nam từ trước đến nay. Tôi nghĩ các bạn ở nước ngoài cũng có thể lên tiếng phản đối hành động khủng bố của Tàu đến ngư dân Việt Nam, những người thực sự đang bảo vệ chủ quyền biển đảo cho Việt Nam.
Nguyễn Văn Tuấn
(Blog Nguyễn Văn Tuấn)

Hà Văn Thịnh - Chặt cờ và treo cờ

Một người bạn được mời dự Hội thảo về Biển Đông ở Quảng Ngãi cách đây ít lâu có kể với tôi rằng, điều đau đớn và nhục nhã nhất là khi biết chuyện ngư dân ta, mỗi lần đi đánh bắt xa bờ, muốn sống, an toàn, PHẢI treo cờ Tàu (!)? Tôi hỏi lại tại sao chẳng thấy báo chí nói gì thì “bị” ngộ tiếp là Hội thảo đó có cho báo chí tham dự đâu mà tin với tức!
Câu chuyện khó tin ấy cứ ám ảnh, làm tôi băn khoăn mãi cho đến ngày đọc thấy trên BBC, 9.7.2013: Tàu cá Việt Nam “bị tấn công, chặt cờ”. Thì ra, cái sự thật kinh hoàng đó bị bưng bít, để hóa thành “đối tác chiến lược toàn diện” với kẻ láng giềng tham lam, độc ác, tráo trở rất có thể là chuyện thường ngày…
http://giaoduc.net.vn/Uploaded/phuchung/2012_08_10/ngu-dan-viet-nam.jpg

Bài báo của BBC cho độc giả biết thuyền trưởng tàu QNg 96787 TS, ông Võ Minh Vương, nói tàu của ông bắt đầu ra khơi từ ngày 4/7 và đến ngày 9/7 thì dừng lại gần đảo Phú Lâm, thuộc Hoàng Sa… Ông Vương cho biết khi tàu của ông đang neo đậu thì một chiếc tàu trắng xuất hiện và thả ca nô xuống bám theo tàu của ông.
Sau 15-20 phút truy đuổi, những người này đã "leo lên tàu và dùng dùi cui điện để đánh thuyền trưởng và thủy thủ trên tàu, đồng thời đập phá tàu và tịch thu toàn bộ số cá mới đánh bắt được".
Khi được hỏi những người này nói tiếng gì, ông Vương cho biết là họ "nói tiếng Trung Quốc".
Ông Vương cũng cho biết thêm những người này mặc đồ "sỹ quan hải quân", và một số khác thì mặc "đồ lính rằn ri".
"Họ chỉ hướng Việt Nam nhưng không nói là Việt Nam", ông Vương nói.
"Tôi không chịu thì họ mới chặt hai cây cờ [treo trên tàu], vứt xuống nước".
"Tôi chạy tới lấy cờ lên thì họ đánh tôi ngất xỉu".
Chắc chắn, không một lương tri nào của Trái tim Việt, Hồn Việt có thể chịu nổi sự thật kinh hoàng về nỗi đau đớn nhãn tiền: Muốn đánh cá trên biển trời của ta thì phải hạ cờ ta, treo cờ Tàu; không hạ thì bị chặt, vứt xuống nước; muốn không bị sỉ nhục để lấy cờ lên thì thân tàn, ma dại!
Có còn gì để nói nữa không về cái đểu cáng, thâm độc của 4 tốt, 16 chữ vàng; về sự im lặng lì lợm của các quan chức có tránh nhiệm trước vận nước, lòng dân?
Làm sao có thể biện minh nổi khi sự thật đắng cay rành rành như thế mà vẫn khua mép, cong môi bảo vệ cho cái gọi là “tình hữu nghị”; vẫn đàn áp bất cứ ai dám đau nỗi đau quốc thể bị sỉ nhục, hiểm hỏa mất biển, mất nước cận kề?
Nếu nối các sự kiện từ việc TQ chiếm Hoàng Sa ngày 19.1.1974, chiếm một phần Trường Sa, đảo Ba Bình, 1956; Gạc Ma, 14.3.1988; thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa”, 24.7.2012; chuyện hạ cờ ta, treo cờ tàu trên Biển Đông…, thì ngay một đứa trẻ cũng biết rõ rằng âm mưu xâm lược, cướp bóc nước ta của nhà cầm quyền TQ (và Đài Loan) là bản chất, không bao giờ thay đổi. Làm sao có thể thay đổi được bản chất của kẻ thù truyền kiếp hàng ngàn năm?
Sự thâm độc, tinh vi của “Tàu khựa chết đi” (cách diễn đạt của Phương Uyên, Nguyên Kha) thì không bút nào có thể tả nổi. Joseph Needham (1900-1995) – người bỏ cả đời để nghiên cứu TQ có nói rằng dù có sống thêm vài trăm năm nữa cũng không thể hiểu hết cái thâm hiểm đến mức huyền bí của “tư duy Tàu”. Cái “tư duy Tàu” ấy đang “chơi” nước cờ tàn độc nhất: Làm cho tư duy Việt coi việc hạ cờ ta, treo cờ Tàu là chuyện… bình thường! Một khi quốc thể, lòng tự tôn dân tộc bị vô cảm hóa, hèn hạ hóa, câm lặng hóa trước lợi ích của cá nhân hay một nhóm người mà vẫn chưa coi đó là hiểm họa sao?
Xin bày tỏ sự tri ân và khâm phục trước lòng dũng cảm của ông Võ Minh Vương và các thuyền viên của tàu QNg 96787 TS. Chính chiếc tàu cá bé nhỏ ấy cho chúng ta thấy rõ vẫn còn đó những con người yêu Tổ Quốc hơn cả tính mạng và của cải của mình. Họ sẵn sàng đương đầu với nguy hiểm, mất mát để bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu không còn những người như thế, thử hình dung Biển Đông đang tràn ngập cờ Tàu?
Huế, 11.7.2013
Hà Văn Thịnh
BVN)

"Trừ những kẻ bán nước, còn ai cũng sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam"

“Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng và ai không được tham gia thì là đó một sự bất hạnh”. - Trung tướng Nguyễn Quốc Thước - nguyên Tư lệnh Quân khu 4
Những thông tin về việc một số thanh niên tìm cách trốn tránh nghĩa vụ quân sự cũng như thông tin "dạy nhau" cách trốn tránh nghĩa vụ quân sự trên một số diễn đàn đã gây phẫn nộ trong dư luận. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Trung tướng Nguyễn Quốc Thước – nguyên Tư lệnh quân khu 4, nguyên ĐBQH khoá VIII, IX, X xung quanh vấn đề này.
PV: Thưa ông, ông đánh giá thế nào về thông tin một số thanh niên tìm cách trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự?
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Tôi cho rằng những thanh niên đó chỉ là những trường hợp cá biệt trong xã hội vì dân tộc Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng trong bất kỳ thời đại nào, luôn có trong mình dòng máu Lạc Hồng bất khuất, tự tôn dân tộc.
Trong thời bình, thanh niên vừa là một mũi nhọn xung kích để phát triển kinh tế tạo sức mạnh quốc phòng an ninh cho Tổ quốc, vừa làm giàu cho đất nước đồng thời sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đó là truyền thống xuyên suốt lịch sử Việt Nam.
Những năm vừa qua, trong thời kỳ xây dựng và phát triển, do những nhận thức không đầy đủ hoặc do vai trò lãnh đạo của Trung ương Đoàn chưa thật tốt nên dẫn đến nhận thức của một số thanh niên chưa đúng trong vấn đề thực hiện nghĩa vụ quân sự. Một số thanh niên tìm cách trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng lúc Tổ quốc lâm nguy, tôi tin chắc rằng trừ những kẻ bán nước chứ còn ai cũng sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
 Thanh niên lên đường nhập ngũ 
Thanh niên lên đường nhập ngũ
PV: Thời của ông có hiện tượng như thế này không, thưa Trung tướng?
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Khi dân tộc bước vào hai cuộc chiến tranh, tuyệt đại bộ phận là không có việc trốn tránh ra chiến trường. Có chăng là trong thời điểm ác liệt ở chiến trường, một số do bản lĩnh yếu đã không thể vượt qua khó khăn mà có những sai lầm nhưng tư tưởng chủ đạo khi đó là trung thành với Tổ quốc. Tuy nhiên những trường hợp như thế chỉ là cá biệt và không thể tránh khỏi.
Nói rằng không có người đào ngũ là không đúng nhưng những trường hợp đó không phải xuất phát từ việc họ không yêu nước mà xuất phát từ việc bản lĩnh của người đó không vượt được lên khó khăn.
PV: Và hậu quả của việc không vượt được lên gian khổ đó là…
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Thời đại của chúng tôi, trong kháng chiến chống Mỹ, nếu một thanh niên nào mà không được tuyển chọn, đi vào Nam chiến đấu là một sự bất hạnh.
Người thanh niên được chọn rồi nhưng khi ra chiến trường mà không vượt lên trên khó khăn, rồi trốn tránh sẽ bị toàn xã hội lên án. Ngày trước, nếu một anh bộ đội vì không chịu nổi ác liệt mà trở về thì gia đình cũng không thừa nhận đó là một người con trung hiếu. Và xã hội, quê hương và đặc biệt là các nữ thanh niên rất khinh rẻ, không ai tiếp xúc.
Cho nên, thời đó, nếu một thanh niên vì lý do nào đó (chưa phải là đào ngũ) mà phải lui về tuyến sau thì cũng là một bất hạnh. Khi đó người dân sẽ đánh một dấu hỏi tại sao anh trở về.
Bây giờ đất nước không có chiến tranh nhưng đất nước phải chuẩn bị trước cho chiến tranh. Đất nước ta hoà bình nhưng chưa yên chút nào cả: các vấn đề trên biển Đông, biên giới, áp lực về kinh tế, áp lực về văn hoá… Trong bối cảnh còn nhiều thách thức như vậy, bên cạnh vấn đề làm kinh tế thì thanh niên luôn sẵn sàng lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng và ai không được tham gia vào đó thì là một sự bất hạnh. Điều đó cho thấy những người trong diện được tuyển chọn đi nghĩa vụ quân sự mà tìm cách né tránh thì đó là một sự bất hạnh với cá nhân đó hay chính là họ đã tự nhận lấy sự bất hạnh cho mình. Và xã hội chắc chắn sẽ lên án những người như thế.
PV: Thưa Trung tướng, ông có thể chia sẻ đôi điều về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự ngày nay và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự thời của ông?
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Làm nghĩa vụ quân sự thời nay so với làm nghĩa vụ quân sự thời xưa đi chiến đấu thì sự vất vả, gian khổ chỉ bằng 1% và thậm chí là 1‰. Ngày xưa chúng tôi đi nghĩa vụ quân sự 1 năm chỉ được một bộ quần áo, có khi có đến 15 ngày phải ăn cháo và phải ăn cả măng rừng nhưng vẫn hiên ngang tiến ra mặt trận, tiến ra chiến trường để giành chiến thắng.
Có thể nói thực hiện nghĩa vụ quân sự ngày nay đã "thích" hơn ngày trước rất nhiều. Có lần tôi vào thăm anh em tân binh ở đơn vị cũ, nhìn vào bữa ăn tôi nói là: "Lúc tôi làm tư lệnh quân khu 4, chưa có bữa ăn hàng ngày nào được như các chiến sỹ tân binh như bây giờ". Tư lệnh quân khu ngày đó, 1 bữa ăn được 2 miếng thịt ướp muối bé như ngón tay, còn lại là rau và nước chấm. Còn bữa ăn bây giờ có đến 4 – 5 món sau đó có tráng miệng.
Sinh hoạt vật chất thì như vậy, còn sinh hoạt tinh thần cũng hơn rất nhiều. Ngày trước, cả 1 trung đoàn mới có một điện thoại của chính uỷ. Tôi đi lính mà có thời gian đến 10 năm trong chiến trường không liên hệ gì với gia đình. Bây giờ, chỉ một khoảng thời gian ngắn sau giờ nghỉ, chiến sỹ đã được liên hệ với gia đình rồi. Điều kiện bây giờ thuận lợi như thế đấy.
Kể như vậy để nói rằng vì vào quân đội gian khổ mà trốn tránh thì không phải. Thực sự ở đây có vấn đề về chính trị, về bản lĩnh, về văn hoá. Thanh niên là chủ nhân của đất nước: đóng vai trò quyết định trong việc làm giàu đất nước và quyết định trong việc bảo vệ, giữ gìn đất nước. Cho nên thanh niên nào mà có suy nghĩ tìm cách trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ quân sự thì thật đáng chê trách và lên án.
(còn nữa)
(Soha)

Cầu siêu liệt sĩ bảo vệ biên giới phía bắc

Ngày 12.7, nhân dịp kỷ niệm 29 năm chiến dịch MB84, tại nghĩa trang Vị Xuyên (Hà Giang), hơn 200 cựu chiến binh Sư đoàn 356 từ các tỉnh, thành trên cả nước cùng chính quyền, nhân dân địa phương đã tổ chức lễ cầu siêu, tưởng niệm anh linh các liệt sĩ và đồng bào tử nạn vì sự nghiệp đấu tranh bảo vệ biên giới phía bắc.
Sư đoàn 356 (tiền thân là Sư đoàn 316B, thành lập ngày 28.12.1974 tại Tân Kỳ, Nghệ An) có nhiệm vụ nghi binh cho Sư đoàn 316 bí mật di chuyển vào chiến trường miền Nam, sau đó cơ động lên bảo vệ biên giới phía bắc, đóng tại H.Bảo Thắng (tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ, nay là tỉnh Lào Cai). Tháng 5.1984, sư đoàn nhận lệnh cơ động sang Vị Xuyên, Hà Giang, phối hợp với các đơn vị thực hiện chiến dịch MB84 vào ngày 12.7.1984.
Cựu chiến binh Sư đoàn 356 thắp hương tưởng niệm các đồng đội hy sinh trong chiến dịch MB84
Cựu chiến binh Sư đoàn 356 thắp hương tưởng niệm các đồng đội hy sinh trong chiến dịch MB84 - Ảnh: Trường Sơn
Trước đó, trong giai đoạn tháng 4 - 5.1984, Trung Quốc đã mở nhiều chiến dịch, đợt pháo kích lớn, bắn hàng chục nghìn quả đạn pháo, đạn cối vào 6 tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam gồm Hà Tuyên (nay là Tuyên Quang, Hà Giang), Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu. Trung Quốc sau đó tiếp tục mở chiến dịch đánh chiếm hàng chục điểm cao thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cuối tháng 6.1984, Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định tổ chức tiến công lớn để giành lại điểm cao bị chiếm đóng. Ngày 12.7.1984 cùng với các đơn vị bạn, Sư đoàn 356 thực hiện chiến dịch MB84. Theo tư liệu của sư đoàn, trong trận đánh lịch sử này, chỉ trong một ngày đêm đã có hơn 600 cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn hy sinh. Sau đó trong giai đoạn cuối năm 1984 - đầu 1987, ta đã nhiều lần đánh bại các cuộc tiến công của địch, bảo vệ được các điểm cao.
Ngày 21.12.1988 quân Trung Quốc ngừng bắn pháo vào Vị Xuyên - nơi liên tục bị bắn phá từ 1984. Đến tháng 9.1989 quân Trung Quốc mới hoàn toàn rút khỏi 29 điểm cao đã chiếm giữ. Theo thống kê chưa đầy đủ, Trung Quốc đã bắn vào biên giới Hà Tuyên gần 1,9 triệu quả đạn pháo cối, giai đoạn khốc liệt nhất từ 1984 - 1987, ngày cao nhất hơn 61.000 quả.
Tr.Sơn
(Thanh niên)

Tổng thống Hoa Kỳ đã 'đề nghị Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược'.

Chủ tịch Trương Tấn Sang

Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói ông được biết Tổng thống Hoa Kỳ đã 'đề nghị Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược'.
Trái với nhà quan sát Carl Thayer từ Australia, ông Doanh nói ông không ngạc nhiên về chuyến thăm của ông Sang tới Hoa Kỳ vì Tổng thống Obama đã dự kiến mời ông Trương Tấn Sang tới thăm vào tháng Chín.
Nay chuyến thăm đã được đẩy sớm lên hơn một tháng và hai ông sẽ gặp nhau vào 25/7 tại Nhà Trắng.
Trả lời phỏng vấn BBC hôm 12/7, ông Doanh nói:
"Như tôi được hiểu Tổng thống Obama đã đề nghị Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ và tôi hy vọng kỳ này hai bên có thể tăng cường mối quan hệ hợp tác và nâng cao tầm hợp tác lên quan hệ chiến lược."
(BBC)

Từ đối tác đến đồng minh

Chủ tịch VN Trương Tấn Sang, và Tổng thống Mỹ Obama
Mỹ - Việt cần cân nhắc yếu tố TQ trong quan hệ song phương, theo tác giả

Tòa Bạch Ốc vừa loan báo Tổng thống Barack Obama sẽ đón Chủ tịch Trương Tấn Sang vào ngày 25-7 tới đây.

Tin này gây ít nhiều ngạc nhiên cho một số dân cử trong Quốc hội Mỹ, những tổ chức bảo vệ nhân quyền và cộng đồng người Mỹ gốc Việt vì tình hình nhân quyền tại Việt Nam gần đây xấu đi với bắt giam, xử án nhiều người có quan điểm bất đồng với Hà Nội.

Mới nhất là việc tuyên án tù hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha; vụ bắt luật sư Lê Quốc Quân và nhà báo Trương Duy Nhất.

Vụ xử Lê Quốc Quân đã lên lịch ngày 9-7, giờ chót Hà Nội cho hoãn lại với lý do chánh án ốm đột xuất. Ngay sau đó tin Tổng thống Barack Obama gửi lời mời đến Chủ tịch Trương Tấn Sang được loan báo.

Đây là dấu chỉ Việt Nam chiều ý Hoa Kỳ để hy vọng nâng quan hệ hai nước lên mức cao hơn, cũng như giúp Hà Nội cân bằng quan hệ với Bắc Kinh.

Quan hệ Việt-Trung những năm qua trở nên căng thẳng khi Trung Quốc muốn xác định chủ quyền lãnh hải bằng đường lưỡi bò kéo dài xuống tận Malaysia, bao gồm hết biển Đông Việt Nam và Tây Philippines.

Động thái của Trung Quốc làm các nước ASEAN và cả Hoa Kỳ quan ngại. Tổng thống Obama đã đề xuất chiến lược chuyển trọng điểm, tái cân bằng lực lượng quân sự để ngăn chặn Bắc Kinh bành trướng ảnh hưởng và kiểm soát biển Đông, là thủy lộ chính từ Đông Á qua biển Ấn Độ, tới Trung Đông.

Đây là một thay đổi chính sách mang tính chiến lược của Hoa Kỳ đối với khu vực kể từ năm 1975.

Một lần nữa địa chính trị vùng Đông nam Á lại trở nên nóng, tuy không có bom rơi, súng nổ mà là tấn công kinh tế của Trung Quốc đối với các quốc gia trong vùng, trong đó Việt Nam phải chống đỡ nhiều nhất vì ở sát bên cạnh.

Ngày nay bối cảnh là với một Trung Quốc ít cộng sản tính hơn nửa thế kỷ trước, không còn ào ạt xuất khẩu súng đạn, xuất khẩu chính sách cải cách ruộng đất, hợp tác xã, thay vào đó là đổ tiền và các sản phẩm mà sức mạnh của nó có thể đánh sập nền kinh tế của Việt Nam.

'Trung Quốc thay đổi'

Thời Chiến tranh Lạnh, với chủ trương ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam qua cuộc chiến với kết thúc là chiến thắng về phía cộng sản.

Lý giải lịch sử của giai đoạn này có hai hướng. Một khuynh hướng cho rằng Hoa Kỳ đã thất bại trong mục tiêu ngăn chặn làn sóng đỏ.

Nhận định khác coi sự kiện năm 1972 khi Tổng thống Richard Nixon đến Trung Quốc bắt tay với Mao Trạch Đông thì cuộc chiến ngăn chặn cộng sản không còn là mục tiêu nữa.

Với Thông cáo chung Thượng Hải 1972, hai nước đã đặt phát triển quan hệ Mỹ-Trung tập trung vào trao đổi thương mại.


"Vụ xử Lê Quốc Quân đã lên lịch ngày 9-7, giờ chót Hà Nội cho hoãn lại với lý do chánh án ốm đột xuất. Ngay sau đó tin Tổng thống Barack Obama gửi lời mời đến Chủ tịch Trương Tấn Sang được loan báo."
Từ hơn ba thập niên qua, công ty Mỹ đổ vào Trung Quốc hàng năm cả trăm tỉ đô-la. Đổi lại, người dân Mỹ có hàng tiêu dùng với giá thật rẻ.

Nhờ đầu tư quốc tế và thị trường tiêu dùng khắp thế giới, nền kinh tế Trung Quốc nay có tổng sản lượng quốc gia chỉ thua Hoa Kỳ. Theo dự đoán, con số này sẽ vượt Mỹ trong vài năm tới.

Một Trung Quốc phát triển đã vươn ra các châu lục tạo ảnh hưởng, không phải quân sự, mà về kinh tế.

Quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Đức và đặc biệt với Hoa Kỳ là quan hệ tài chính, thương mại đa chiều đan xen chằng chịt với nhau. Sẽ không thể có chiến tranh nóng với Trung Quốc, ngay cả chiến tranh kinh tế cũng khó, vì nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng xấu toàn cầu.

Điều mà giới lãnh đạo tài chánh, các nhà đầu tư không bao giờ muốn.

'Ai quan trọng hơn'

Việc giải quyết những tranh chấp biển Đông vì thế sẽ không thể thiếu Hoa Kỳ vì nơi đó vừa là nguồn tài nguyên năng lượng, lương thực, vừa là huyết mạch vận chuyển hàng hoá đường biển.

Nhìn dưới góc độ giao thương, sau khi bắt tay nhau thì quan hệ Mỹ-Trung trở nên quan trọng hơn quan hệ Mỹ-Việt.

Năm 1973 Mỹ đã đồng ý rút khỏi Việt Nam, không muốn tiếp tục đối đầu bằng chiến tranh với Trung Quốc. Năm 1974 Mỹ làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.

Đầu năm 1979 Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung trở nên cực xấu với cuộc chiến biên giới, mà Mỹ đứng ngoài.

Hoa Kỳ đã không mở ra quan hệ ngoại giao với Việt Nam cho đến năm 1995, sau khi quan hệ Việt-Trung đã được bình thường hoá.

Từ bốn thập niên qua, quan hệ Mỹ-Trung đã trở thành trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Các tổng thống Mỹ, từ sau Richard Nixon, trừ Gerald Ford, đều có những chuyến thăm viếng chính thức Trung Quốc khi làm lãnh đạo Hoa Kỳ.

Dù còn những khác biệt về cơ chế chính trị, hai nước ngày nay đã trở thành đối tác không thể thiếu nhau trong quan hệ tài chính, thương mại.

'Điều kiện đồng minh'

Quan hệ Việt Trung
Quan hệ Mỹ - Việt chịu tác động ở việc VN thoát khỏi ảnh hưởng của TQ và hội nhập dân chủ, theo tác giả

Nhưng Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ không là đồng minh vì nhiều khi còn bùng lên những căng thẳng, như vụ sinh viên nổi dậy đòi dân chủ ở Thiên An Môn 1989 bị đàn áp, vụ máy bay Mỹ ném bom đại sứ quan Trung Quốc ở Belgrade 1999, vụ va chạm trên không giữa máy bay quân sự Mỹ và Trung Quốc năm 2001 trong không phận gần đảo Hải Nam.

Trong vùng Đông nam Á, Hoa Kỳ đã có những đồng minh lâu đời là Nhật, Nam Hàn, Thái Lan và khối ASEAN, trong đó Việt Nam là một quốc gia hội viên.

Tuy quá khứ là kẻ thù, từ hai thập niên qua Hoa Kỳ đã mở rộng quan hệ với Việt Nam và muốn phát triển lên mức như đang có với các nước ASEAN.

Tổng thống Obama là lãnh đạo Mỹ thứ hai đón tiếp lãnh đạo Việt Nam tại Tòa Bạch Ốc. Người tiền nhiệm, Tổng thống George W. Bush đã đón Thủ tướng Phan Văn Khải và Chủ tịch Nguyễn Minh Triết.

Với vị trí địa chính trị của Việt Nam và sự quan trọng của quan hệ Mỹ-Trung, quan hệ Mỹ-Việt cũng sẽ chỉ ở mức đối tác chứ chưa thể trở thành đồng minh của Hoa Kỳ như nhiều nước khác trong vùng.

Ít nhất là cho đến khi Việt Nam nhất quyết tách khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc và hội nhập chính trị với các quốc gia tự do, dân chủ trong vùng.

Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco.

Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBCVietnamese.com từ San Jose

Nông dân - người khổ nhất nứơc ta hiện nay ?

Mỗi lần nghĩ đến tình trạng đời sống nông dân hiện nay  tôi lại nghĩ đến hai câu thơ để đời của anh Trần Ngọc Thụ- Cố Trưởng ban kinh tế Đài TNVN- mà thấy đau trong dạ:
“Ông lão dắt trâu đi bừa
Là con ông lão ngày xưa đi cày”
               
Vâng. Đúng thế. Hơn nửa thế kỉ Việt nam dành được độc lập mà  hơn 80% dân số nước ta vẫn không thoát khỏi bi kịch khốn khổ, buồn đau bởi nghèo đói và đủ thứ đè nén, lừa gạt.
          
Thế hệ gần thất thập của chúng tôi còn nhớ một bài ca trong đó có ca từ “nông dân là quân chủ lực đội quân đồng bào….. Không có nông dân thì kháng chiến ta không thể thành công “. Chân lý của ca khúc này không chỉ đúng trong kháng chiến chống Pháp mà còn chuẩn cả  trong chiến tranh chống Mỹ. Và mỗi khi nghĩ đến nông dân thời có thể coi là thịnh vượng thì bao giờ tôi cũng nhớ đến mấy bức ảnh. Đó là bức “nhận ruộng” chụp cảnh một bà lão nông dân mặc áo nâu hớn hở bế cháu “cắm thẻ nhận ruộng”. Vâng đây là bức ảnh điển hình của CCRD. Ta cứ tạm gạt bỏ những sai lầm đi thì sau cuộc sự kiện long trời lở đất với khẩu hiệu “người cầy có ruộng” đó. Bình quân mỗi hộ của hơn hai triệu nông dân  miền Bắc trong năm 1953- 1956 được chia 0,35 ha ruộng, 0,87 nông cụ và 0,071 nhà quả thực. Cũng nằm trong chùm ảnh của một thời thịnh vượng ngắn ngủi đó của nông dân còn ba bức ảnh có gắn liền với Bác Hồ kính yêu vào năm 1958 tát nứơc bằng gầu giai từ Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải. Người đạp xuồng đưa nứơc vào ruộng. Người cùng ôm lựơm lúa mới thu hoạch với người nông dân.  Hơn 30 năm sau, vào năm 1989 tôi laị thấm thía về tình trạng nông dân được mô tả trong cuốn tiểu thuyết“chân trời vỡ đôi”.. Nội dung  tiểu thuyết “chân trời vỡ đôi” ( còn có tên phụ là Vụ án mạng làng Chiện) gần như tường thuật cái lõi, tiên lượng cau chuyện về vụ Đoàn văn Vươn nổi tiếng trong thời gian gần đây. Chuyện rất đơn giản nhưng rất điển hình với mô típ”quan bức dân phản” cuốn tiểu thuyết đã nói lên một thực trạng đau lòng về nông dân Việt nam từ hơn nửa thế kỉ này là giai cấp luôn luôn bị lợi dụng và lạm dụng.. Sau gần ba mươi năm trời bị một người bạn thân (ông Lẫm chủ tịch xã) lợi dụng lỗi lầm nhỏ của mình đã bắt hai Nghĩa đồng loã làm những việc sai trái, thất nhân tâm cuối cùng buộc Hai Nghĩa giết một người tranh chức với Lẫm nhiệm kì mới.  Hai Nghĩa đã đâm chết Lẫm trên mâm rượu. Ngay sau khi “chân trời vỡ đôi” ra đời nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã nói với tác giả ý định chuyển thể cuốn tiểu thuyết này. Gần đây đạo diễn Quốc Trọng cũng tỏ ý muốn đưa”chân trời vỡ đôi”lên màn ảnh….
         
Nhưng thôi đấy là chuyện của các nhà nghệ thuật còn trở lại tình cảnh người nông dân tôi chợt nhớ đến lời khuyên của giáo sư Philip Kotles cha đẻ của học thuyết Makéttinh hiện đại trong buổi nói chuyện tại TPHCM cách đầy ba, bốn năm mà giá vé vào nghe ông nói lên đến 500 Đô la Mỹ. Vị giáo sư này nói đại  ý  “nếu Trung quốc là công xưởng của thế giới. Ấn độ là văn phòng của Thế giới thì Việt nam nên làm nhà bếp của Thế giới”. Để chứng minh cho lời khuyên này Philip Kotles đã nói đến sức mạnh của nền văn minh lúa nứơc của Việt nam đã tạo ra thứ nguyên liệu siêu phẩm để thổi cơm, làm bánh, nấu rượu từ hàng nghìn năm nay. Bên cạnh đó các loại gia cầm như gà, vịt..sản vật dưới nứơc như cá, tôm… đều có thể chế ra những món ăn ngon lành vào hàng đầu thế giới. Ông so sánh gà đi bộ( chicken walking), rồi cá tôm ở Mỹ và các nứơc Châu Ấu, châu Mỹ đều quá to và không thể ngon bằng Việt nam. Ông đã thốt lên “Delicious. Delicious”( ngon quá, ngon quá ) khi thưởng thức gà đi bộ nướng ở miền tây…Tất cả những sản vật để Việt nam trở thành đầu bếp của thế giới đó đều bắt nguồn từ cánh đồng và từ bàn tay người nông dân Việt nam….Đó là thế mạnh Việt nam mà không quốc gia nào có được….Và chỉ dưạ vào thế mạnh đặc trưng đó Việt nam mới trở thành cường quốc kinh tế.
          
Nhưng đáng buồn thay. Gần hai mươi năm qua kể từ khi hội nhập và đổi mới. Cơn bão các dự án công nghiệp tràn ngập vào nước ta huỷ hoại một cách tàn khốc những cánh đồng và môi trường Việt nam. Đi dọc QL5, trung tâm của đồng bằng, vựa thóc của Bắc Bộ được bồi đắp bằng phù sa sau hàng triệu năm của hệ thống sông Hồng giờ đây mỗi một người có lương tâm đều giật mình nhìn nhưng khu công nghiệp phụ trợ của VinaShin, Vinaline , Vinamoto…, những dự án treo của các khu công nghiệp, các sân gôn… với hàng vạn ha bị bỏ hoang, phong hoá vì đất đai mầu mỡ đã bị bê tông hoá, bị cát và đá sỏi làm nền cho các khu công nghiệp huỷ hoại. Những sản vật tôm cá đặc sản của các dòng sông, dòng kênh của cả nứơc ta đang chết dần chết mòn đi đến huỷ diệt vì chất thải công nghiệp, vì cách đánh bắt không nghĩ đến ngày mai …Người ta từng tung hô các dự án nứơc ngoài một thời đổ vào nứơc ta..Nhưng vì những cái lợi nhóm, cá nhân, với cái nhìn thiển cận cộng thêm cái lợi trứơc mắt …người ta gần như quên đi thế mạnh của nứơc ta là nông nghiệp với hơn 80 % dân số là nông dân, để chạy theo những dự án công nghiệp các nứơc tiên tiến trên thế giới đi trước nứơc ta hàng thế kỉ. Cũng vì sự thiển cận và cái lợi trước mắt đó không ít người không biết hoặc cố tình quên một câu ví rất kinh tế về dự án nước ngoài khi xâm nhập các quốc gia đang phát triển. Các dự án nứơc ngoài giống như đàn chim di trú có con lành, có con mang đủ chứng bệnh …Người khôn ngoan phải biết chọn con chim nào ngon, sạch để bắt chứ không thể chấp nhận tất cả. Nếu không nền kinh tế đó sẽ bị tác hại trước mắt và lâu dài bởi các nguồn bệnh nguy hiểm mà đàn chim di trú mang lại.
          
http://giacaphe.com/wp-content/uploads/2009/08/bao-hiem-nong-dan.jpg

Những cánh đồng mẫu mỡ, thẳng cánh cò bay bị tàn sát không thương tiếc thì người đón nhận thiệt hại đầu tiên là nông dân. Một thủa người nông dân vui mừng được chia ruộng, rồi lại thu lại bị lùa vào hợp tác để rồi đẻ ra tình trạng”mỗi người làm việc bằng hai để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”. Và ngày nay giá đất đền bù cho mỗi mét đất màu mỡ trong mảnh ruộng nuôi sống người nông dân hàng ngàn đời chỉ bằng một phần trăm giá khi người ta dựng lên những khu đô thị, khu công nghiệp. Người nông dân mất ruộng và mất luôn hi vọng trước những lời hứa về khu định cư, về việc làm…Cuối cùng chỉ là những lời hứa hão trước những khu tồi tàn, và con cái họ đã trở thành đội quân thất nghiệp trên chính quê hương, mảnh đất của mình. Bi kịch của người nông dân xuất hiện từ đây. Được một ít tiền đền bù nhỏ nhoi, người nông dân phá căn nhà tổ tiên yên ấm hàng ngàn đời, phá luỹ tre xanh, lấp ao, chuôm lấy đất bán…và thất nghiệp. Những thanh niên nông dân vô công rồi nghề trở nên những con mồi cho những tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, trò chơi điện tử. Nhưng bi kịch khủng khiếp thực sự hiếm hoi ở nông thôn Việt nam thủ bình yên thì nay xẩy ra như cơm bữa. Con giết cha, cháu giết bà, anh em trở thành thù địch cũng từ những đồng tiền đền bù nhỏ nhoi và những mảnh đất. Tình làng nghĩa xóm bị phá vỡ. Thủa bao cấp người ta cho nhau từng mẫu đất, còn hiện nay bạn bè, hàng xóm, người thân trở thành thù địch vì mấy thẻo đất. Bên cạnh làn gió độc của những dự án là sự buông xuôi của các cơ quan chức năng đối với người nông dân. Khi tôi lên biên giới Hà Giang nghe bà con nói cách đây gần chục năm cán bộ tuyên bố. Các hộ ra làm nhà  nơi vùng biên sẽ được nhà nứơc cấp cho 25 cân gạo một tháng, trẻ em sẽ có trường học, có hồ treo cung cấp nước….Nhưng lời tuyên bố này đến nay vẫn chưa được thực hiện…Thế cho nên vì nghèo đói mà bao cô gái trở thành con mồi cho những kẻ buôn người. Con gái nông dân các tỉnh phía Bắc bị bán thành vợ chung cho gia đình nông dân xứ người, thành gái mãi dâm bên Trung Quốc. Con gái nông dân các tỉnh miền tây thì lao vào các cuộc tuyển lựa vợ như tuyển chọn súc vật cho người Hàn Quốc. Chưa hết vì nghèo đói, vì thất nghiệp vì cơ quan chức năng lãng quên người nông dân nên người nông dân ta hết khốn khổ vì gom nhặt móng trâu, rễ hồi đến khốn khổ vì nuôi đỉa, trồng khoai lang cho thương lái Trung Quốc. Đó là chưa kể khi cửa khẩu biên giới mở toang ra trong sự thờ ơ, thiếu những biện pháp cứng rắn để bảo vệ nên làn sóng gà thải trọc đầu, cá tầm Trung Quốc rồi khoai tây, gừng, rau củ Trung quốc mang chất bảo quản đầy độc hại, kể cả chất gây ung thư tuôn vào mỗi ngày hàng nghìn tấn chẳng những giết chết những trại gà, đàn gà của nông dân phía Bắc. Những trại nuôi tôm, những bè nuôi cá ở phía nam. Làm teo tóp và mất đi những trung tâm nuôi trồng rau củ của nông dân cả nứơc. Cũng từ những cửa khẩu bị mở toang thiếu sự quản lý trách nhiệm này nên nông sản xuất khẩu của những người nông dân Việt nam mới bị chèn ép giá, gây thiệt hại. Từ hàng chục năm nay có lẽ không năm nào tại các cửa khẩu tiểu ngạch hay chính ngạch nơi phía Bác như Tân Thanh, hay Lạng Sơn, Lào Cai, Móng Cái …không có hàng đoàn xe trọng tải lớn chở dưa hấu, thanh long, vải Lục Ngạn bò từng bứơc để xuất sang Trung Quốc. Không vụ hoa trái nào các cửa khẩu này không có hàng trăm, hàng nghín tấn dưa hấu, thanh long… bị ế thừa quay về, bị bán re, bị vứt bỏ…trước sự đau xót đến đắng lòng của người nông dân trồng cây đến ngày ăn quả.  Chưa hết nếu nông thôn quanh các khu đô thị mới đang ngày ngày khốn khó chống đỡ cơn lốc đô thị hoá thì biết bao trai gái các vùng sâu vùng xa từ Thanh Hoá, Nghệ an, Hoà Bình  ..cho đến An Giang, Cần thơ, Cà Mau . …vì nghèo đói, vì không có ruộng vườn đã chẳng những trở thành nguồn lao động rẻ mạt tại các khu công nghiệp đang làm ăn thất bát với tình trạng tăng vọt tỉ lệ con gái chưa chồng nạo thai, con trai thành trộm cướp, nghiện hút gây ra các vụ án động trời mà còn là nguồn cung cấp bất đắc dĩ cho các dịch vụ ăn chơi của những kẻ lắm tiền nơi Đồ Sơn, Quất Lâm, khu nứơc nóng Thanh thuỷ…Phía Bắc. Các khu ăn chơi ở Thành phố Hồ chí Minh, Vũng Tàu, Đà Lạt ..phía nam…
          
Để kết thúc bài viết này tôi xin kể câu chuyện nhỏ. Tuần trước anh họ tôi ở làng Mỹ Đình gọi điện bảo tôi vào chơi. Khi tôi vào thì anh đưa tôi lên gác tư. Tôi chưa kịp hỏi gì anh tôi thì thào:
        
- Thằng lớn thì anh sắn cho một khoảnh đất hơn trăm mét. Nó káy vợ, làm nhà xong tưởng yên ổn. Ai ngờ vừa rồi phải bán tống bán táng đi lấy tiến trả nhưng vẫn không đủ nên giờ chạy bán tháo chả biết ở đâu vì dính lô đề, cá cựơc bóng đá, hụi hiệc gì đấy. Còn thằng út này thì cho anh ở trên này vì nó không chịu được mùi thuốc lào và xấu hổ khi bè bạn nó vào thấy bố cổ lỗ, không hợp lối sống mới .
          
Anh tôi rít đén tụ nõ điều thuốc lào rồi chỉ tay bảo cùng anh lên sân thượng. Vừa lên đến nơi, tôi chưa nhận ra điều gì thì anh tôi đứng sững giữa sân giơ ngón tay trỏ lên lên, xuống xuống. Rồi tiếng chim ngói bỗng cất lên gióng giả bổ đôi, bổ ba. Anh tôi vẫn đều đặn giơ tay lên làm nhịp cho chim gù nhưng nứơc mắt rấn rấn. Tôi im lặng không nói gì thì anh tôi quay sang lảm bẩm như nói một mình:
         
- Bẩy mốt rồi cứ mỗi lần nghe tiếng chim cu gù mà anh nhớ đồng làng quá. Ngày xưa gạo Mỹ đình ngon lắm có lẽ chỉ có cái gié, với tám thơm thì không bằng bên Mễ Trì, chứ nếp thì…Cốm làng Vòng ngon là do nếp Mỹ Đình…Ấy thế mà bây giờ đến cốm làng Vòng nó cũng tẩm hoá chất cho xanh chú bảo thế nào…
           
Tôi ngẩn người nhìn lão nông bảy mốt tuổi đang bị con cái cầm tù nơi gác thượng vì không bỏ được thuốc lào, vì nhớ về nông thôn thời xa xưa. Nhưng dù sao anh tôi vẫn còn may mắn hơn chán vạn hàng triệu triệu nông dân Việt nam. Rõ ràng đất ruộng là thế, nứơc non có giặc giã gì đâu mà bỗng bị đẩy xuống, dồn lại thành giai tầng khốn khổ nhất xứ Việt nam đang nhiễu loạn này…
     
Quỳnh Mai ngày 29/6/2013
       Nhà văn Nguyễn Hiếu
(Pháp Luật và đời sống)

GS.Võ Tòng Xuân: ’Hãy cứu nông nghiệp và nông dân thiệt thòi’

"Nhà nước giao tất cả quyền hành xuất khẩu gạo cho một Vinafood 2 - kiêm luôn Hiệp hội Lương thực VN lũng đoạn thị trường lúa gạo trong nước. Họ không lo xây dựng thương hiệu gạo VN, mà lo cạnh tranh dìm giá lúa thấp nhất để hưởng lợi, mặc cho nông dân... đem lúa cho vịt ăn", GS. Võ Tòng Xuân viết.
LTS: Từ ngày 5/7, báo Phunutoday.vn khởi đăng loạt bài viết về thực trạng nền nông nghiệp VN, với ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại… Chúng tôi xin khởi đăng bài phân tích của GS.TS Võ Tòng Xuân về thực trạng nông nghiệp VN hiện nay và bàn một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền nông nghiệp.
Bài 1: Độc quyền ép giá nông dân
Tình trạng nông nghiệp VN hôm nay thật không sáng sủa, nông dân tiếp tục là nạn nhân của tình trạng này. Có ý kiến cho rằng phải để đời con của nông dân có trình độ học vấn cao hơn mới nhận thức được vấn đề để hội nhập vào nền kinh tế thị trường. Nhưng thực ra, nông dân chỉ là một trong 3 tác nhân đưa đến tình trạng nông nghiệp bi đát hiện nay: (1) Nhà doanh nghiệp tiêu thụ nông sản; (2) Nhà nước chưa có chiến lược và chính sách cần thiết; (3) Bản thân người nông dân chậm đổi mới trong thời đại hội nhập kinh tế thế giới.
Thứ nhất, nhà doanh nghiệp tiêu thụ nông sản, phần lớn các doanh nghiệp VN không được trang bị kiến thức và kỹ năng kinh doanh nông sản, nên rất thụ động không biết tìm/mở thị trường cho nông sản của mình, không khả năng tổ chức nghiên cứu chế biến nông sản thô (nguyên liệu) thành sản phẩm có giá trị gia tăng có thương hiệu độc đáo để đưa ra thị trường trong nước hoặc quốc tế.
Không có những doanh nhân có kỹ năng chuyên môn và có dũng khí để tổ chức được những vùng sản xuất liên hoàn từ ứng dụng khoa học công nghệ, đến tổ chức nông dân sản xuất theo qui trình tiên tiến (GAP), đến xử lý nguyên liệu, bảo quản và chế biến ra thành phẩm có thương hiệu.
Cả doanh nghiệp và nhà nước đều bỏ rơi nông dân, để mặc họ muốn trồng gì thì trồng, nuôi con gì thì nuôi. Đối nông dân trồng lúa, khi thu hoạch họ lệ thuộc vào thương lái chứ ít có doanh nghiệp nào trực tiếp mua nguyên liệu từ nông dân. Hàng trăm thương lái thu mua lúa với chục giống lúa khác nhau bán lại cho doanh nghiệp chế biến thì làm sao doanh nghiệp có gạo rặc một giống để bán được giá cao?
Thêm vào đó, máy móc thiết bị chế biến chưa hiện đại nên doanh nghiệp khó có thể có sản phẩm có chất lượng cao, nên giá sản phẩm bán ra thấp.
Trong khi đó doanh nghiệp “đầu nậu” độc quyền xuất khẩu gạo không thương hiệu của Việt Nam - Vinafood 2 (Tổng công ty Lương thực miền Nam) đi đấu thầu bán gạo cho nước ngoài đã cam tâm hạ thấp giá gạo VN để dành trúng thầu (thí dụ điển hình Bangkok Post ngày 30/4/2013 đưa tin VinaFood 2 trúng thầu với giá 459,75 USD/tấn gạo 25% tấm, rẻ hơn Thái Lan 108,25 USD/tấn cung cấp gạo cho Philippine từ tháng 7 đến 9/2013) thì nhóm độc quyền này phải hạ giá lúa của nông dân thấp xuống mới mua cung cấp được cho Philippine.
giao-su-Vo-Tong-Xuan-Phunutoday.vn
GS.TS Võ Tòng Xuân (ngồi) đang hướng dẫn cho một kỹ sư người châu Phi về cách trồng lúa.
Đối với trái cây thì cũng tương tự như thế, không doanh nghiệp nào tổ chức với nhà vườn để sản xuất, xử lý và bảo quản trái cây tạo thêm giá trị gia tăng, mà chỉ có thương lái mua gom với giá rẻ mạt mà thôi, không kể gì chất lượng hoa quả.
Thứ hai, Nhà nước chưa có chiến lược và chính sách cần thiết, từ Chính phủ đến Bộ NN&PTNT và Bộ Công thương dù có chính sách tự do mậu dịch, nhưng trong thực tế lại giao tất cả quyền hành xuất khẩu gạo cho một Vinafood 2 - kiêm luôn Hiệp hội Lương thực VN lũng đoạn thị trường lúa gạo trong nước. Họ không lo xây dựng thương hiệu gạo VN, mà lo cạnh tranh dìm giá lúa thấp nhất để hưởng lợi, mặc cho nông dân “đem lúa cho vịt ăn”.
Chính sách ruộng đất của nhà nước đặt ra chủ yếu để duy trì hiện trạng sản xuất manh mún nhỏ lẻ, trong khi Luật Hợp tác xã Nông nghiệp (HTXNN) hoàn toàn không khuyến khích gì cho nông dân gia nhập Hợp tác như Nghị quyết TW 5, Khóa IX và Nghị quyết TW 26, Khóa X chỉ đạo về kinh tế tập thể và hợp tác hóa nông nghiệp.
Ở Nhật bản, quốc gia có lực lượng nông dân giàu ngang bằng các thành phần khác trong xã hội, Chính phủ dùng HTXNN làm công cụ xóa nghèo cho nông dân, bằng cách bơm tiền tài trợ sản xuất cho nông dân qua HTX của họ. Nếu chúng ta cũng có HTXNN đều khắp, mỗi khi nhà nước muốn giúp nông dân tạm trử lúa thì chỉ rót tiền về HTX ứng trước tiền cho nông dân chi xài, ai nấy giữ lúa của mình, đến khi giá lúa tốt hơn thì họ bán lúa lấy tiền trả lại nợ cho nhà nước.
Nhưng việc đáng tiếc nhất là cho đến nay nhà nước, cụ thể là Bộ NN&PTNT, hành động chỉ theo kiểu chắp vá, thấy hư đâu sửa đấy, bị thương chỗ nào băng bó chỗ đấy, không có một chiến lược dài hạn khả thi một cách đồng bộ có hệ thống. Chờ đến khi nào có bệnh dịch Bộ đề nghị cứu trợ vài ngàn tỷ đồng; khi nông dân kêu ca bán lúa không được, Bộ đề nghị cho doanh nghiệp vay không lãi để mua lúa tạm trử; thấy vài nơi có cánh đồng mẫu lớn để bán thuốc, bán phân cho dễ thì Bộ cũng hô hào xây dựng cánh đồng mẫu lớn; và bây giờ thì đang đề nghị “tái cơ cấu nông nghiệp” trồng cây khác thay cho lúa.
Một chính sách nông nghiệp chỉ biết có cây lúa đã ăn sâu vào xương tủy lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương nhỏ ở nông thôn đã giúp mọi người phá rừng làm lúa, ngăn chận mọi mầm mống đa dạng hóa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mãi cho đến năm 2000 mới nới lỏng cho đa dạng hóa nhưng không cụ thể gì cả.
Một yếu kém nữa là trong thực tế mọi chương trình phát triển nông nghiệp, Bộ NN&PTNT khuyến khích mạnh ai nấy làm: anh khuyến nông thì hô hào trồng giống này, nuôi con kia mà không mua; anh bán thuốc, bán phân thì lo hô hào nông dân mua dùng, và nông dân thì mạnh ai nấy lo, trăm người trăm vẻ, khi thu hoạch thì có hàng chục giống, mặc sức cho hàng trăm thương lái ép giá. Trong khi đó thì các công ty lương thực của nhà nước thì lo o bế thương lái không đếm xỉa gì đến nông dân.
Và vì Bộ NN&PTNT cứ làm như thế thì lúa cũng chịu thua, trái cây cũng chịu thua, cà phê cũng chịu thua, cá cũng chịu thua, và do đó nông dân đành bó tay. Không nông sản nào có thương hiệu mạnh được vì chúng đã được sản xuất một cách không đồng bộ, chuỗi giá trị sản xuất bị tháo ra từng khoen không ráp lại được, mạnh anh này lợi dụng anh kia.
Phải chi chúng ta có tầm nhìn toàn vẹn hơn, thấy sự phát triển theo hệ thống đồng bộ theo chuỗi giá trị từ giống cây con cho đến thị trường trên bàn ăn của người tiêu dùng trong nước và thế giới. Thí dụ, đối với mặt hàng gạo, chuỗi giá trị gắn liền giống lúa với đồng ruộng sản xuất, nông dân gắn liền nhau trong HTXNN, cánh đồng mẫu lớn của HTX gắn với doanh nghiệp chế biến gạo có thương hiệu được phân phối trong nước hay xuất khẩu.
Đối với mặt hàng trái cây, chuỗi giá trị bắt đầu từ việc quy hoạch vùng trồng thích hợp với giống cây ăn trái đặc biệt, mọi nông dân trồng cây ăn trái sẽ gắn liền với một trung tâm xử lý và bảo quản trái cây, để khi thu hoạch họ sẽ đưa trái cây về trung tâm bảo quản đưa nhiệt độ trái xuống 5 độ C trước khi đưa vào kho phân loại kích cỡ, đóng gói bao bì và bảo quản ở 5 độ C chờ đến khi bán cho các siêu thị lúc có giá tốt.
Thứ ba, những bất cập trong đời sống của nông dân một phần cũng do chính bản thân người nông dân tạo nên. Nông dân ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, manh mún, thích sản xuất tự do, không muốn hợp tác hóa.
Phần lớn bà con nông dân không được học hành từ căn bản mà rất tự hào vì kinh nghiệm thực tế sản xuất của mình, không thấy và hiểu được những cơ sở khoa học của từng lãnh vực sản xuất, cho nên bà con nông dân làm theo ý mình và theo lời quảng cáo hơn là theo khoa học.
Do đó, họ phải tốn kém nhiều, đội giá thành sản xuất lên cao nên không lời thỏa đáng, có khi bị lỗ.
Nếu nông dân chịu khó học hỏi để trở thành nông dân kiểu mới thì họ sẽ sáng suốt hơn trong các quyết định sản xuất, không xa rời HTXNN và chấp nhận thành viên trung thực, thực hiện theo qui trình GAP một cách tự giác trong chuỗi giá trị sản xuất. Được như thế đời sống nông gia sẽ đổi mới ngay.


GS.TS. Nhà giáo Nhân dân Võ Tòng Xuân hiện là Hiệu trưởng trường ĐH Tân Tạo (Long An). Ông sinh năm 1940 tại Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang, nguyên là Hiệu trưởng trường ĐH An Giang.

GS. Võ Tòng Xuân chuyên nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là lúa nước, với nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu cây lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, cũng như trong sự nghiệp giáo dục tại vùng này. Ông vinh dự đựơc nhà nước trao tặng rất nhiều danh hiệu cao quý như Anh hùng Lao động (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1986), Nhà giáo Nhân dân (2000), Huy chương vì giai cấp Nông dân Việt Nam (1994)…
  • GS. Võ Tòng Xuân (Đại học Tân Tạo, Long An, ngày 10/7/2013)
(Phunutoday)

Chuyện hai ông Nghị

Trong nghị trường của Việt Nam có hai ông nghị khá nổi tiếng. Một ông thì vốn nổi tiếng từ lâu về sự thành đạt, giàu có ở thương trường. Một ông khác thì tuy danh không nổi như ông kia, nhưng các bước đi bài bản trên con đường quan lộ làm cho thiên hạ phải ngả mũ kính nể. Hai ông có những nét chung nhưng cũng có rất riêng. Cả hai đều là đại biểu cho khối doanh nghiệp và thuộc số 38 doanh nhân trong Quốc Hội. Họ chính là ông Đặng Thành Tâm và ông Thân Đức Nam.
1 – “LẠC NƯỚC HAI XE ĐÀNH BỎ PHÍ.."
Ông Đặng Thành Tâm là một người lớn lên trong môi trường CHXH ở miền Bắc. Cũng như những người khác, ông trở thành nhân viên công chức của một doanh nghiệp Nhà nước. Thời đất nước mở cửa cho làm kinh tế ông đã nhanh nhậy nhìn thấy cơ hội của mình. Ông bỏ doanh nghiệp Nhà nước, quyết tâm tự kinh doanh. Sau những năm tháng lặn lội ở thương trường ông nhận thấy đất nước đang cần có những khu công nghiệp lớn. Ông Tâm và người chị, bà Đặng Thị Hoàng Yến, mở khu công nghiệp Tân Tạo. Với số vốn ki cóp ban đầu không nhiều, nhưng đánh trúng nhu cầu của doanh nghiệp có vốn FDI và các doanh nghiệp trong nước nên việc huy động vốn đã thành công. Việc Tân Tạo thành công đã làm rạng danh hai chị em nhà ông Tâm đồng thời cũng đưa tài sản của hai chị em lên hàng Top Ten trong những người giàu có của Việt Nam. Từ kinh doanh đất đai, bất động sản ông lấn sang nhiều lĩnh vực khác như giao thông, truyền thông, tài chính chứng khoán và cả đào tạo – giáo dục. Giai đoạn này có thể nói ông đã gặp thời và hùng mạnh nhất về tài lực cũng như uy thế. Gia đình họ Đặng có rất nhiều ảnh hưởng tới các nhà chính trị Việt Nam.
Tiếng tăm của ông lại càng lừng lẫy, nhất là khi ông có mặt trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới. Doanh nghiệp của ông là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Lao độgn hạng nhất. Phải nói rằng ông là một người có khá nhiều công lao trong việc kết nối thương trường trong nước với quốc tế.
Không những thành công rạng rỡ trong lĩnh vực kinh tế mà ông còn là người „ vua biết mặt, chúa biết tên“. Ông luôn có mặt trong những cuộc tọa đàm về kinh tế nước nhà. Ông được xem như một điển hình tiêu biểu cho tư nhân làm kinh tế ở thời kỳ Đổi mới.
Nhưng tham vọng của ông không dừng ở lĩnh vực kinh tế. Ông cũng như bà chị của mình đã lấn sân sang lĩnh vực chính trị. Thời đại Kim Tiền đã đưa cả hai chị em nhà ông Tâm trở thành nghị sĩ Quốc Hội ( đúng hơn là đại biểu Quốc Hội) khóa 13. Một lần nữa hai chị em của ông Tâm làm rạng rỡ „ Danh vọng gia tộc“ nhà họ Đặng.
Thế nhưng lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực hoàn toàn khác kinh tế. Ở đó người ta sống trong môi trường „ nhạy cảm“ , đầy rẫy những tính toán mưu lược. Các thành công ở đây phụ thuộc nhiều yếu tố ngoại vi. Người ta cần cẩn trọng với các mối quan hệ, công việc phụ thuộc rất nhiều vào thời cuộc. Nếu gió đã đổi chiều thì cần phải có những biện pháp chống đỡ và nhất là khi phát ngôn cần phải lắng nghe ý kiến của đám đông.
Ông Đặng Thành Tâm đã có dịp gặp gỡ, tiếp xúc nhiều nguyên thủ quốc gia Mỹ, Nga, Nhật,..
Trong ảnh là buổi tiếp kiến với Tổng thống Mỹ Barack Obama.
 Hoạt động kinh tế ông Tâm có thể nói là xuất sắc, nhưng làm chính trị xem ra lại ấu trĩ ngay từ ban đầu bước chân vào nghị trường. Khi nghe thiên hạ khen ngợi về con đường công danh của nhà Họ Đặng, ông chủ quan. Ông cho rằng ông vào Quốc Hội để nói lên tâm tư nguyện vọng của những người như ông, là đại diện nói lên tâm tư tình cảm của giới doanh nhân. Dư luận báo chí lập tức đặt ra câu hỏi, vậy cử tri bầu ông bầu ông để làm gì? Sao ông không hề nhắc đến những người đã bỏ lá phiếu cho ông. Ngạc nhiên hơn khi nghe ông chất vấn người đứng đầu Chính phủ. Ông thiết tha xin Thủ tướng cho một lời khuyên, chỉ cho những doanh nhân như ông nên tập trung đầu tư vào lĩnh vực gì để „ giúp“ đất nước vượt qua cơn suy thoái kinh tế (!)
Ông Đặng Thành Tâm (trái) và ông Thân Đức Nam
Những phát biểu mang đầy cảm tính của ông làm cho người ta nghi ngờ. Hẳn không ít người đặt câu hỏi, liệu phải chăng ông là người đại biểu nhân dân hay đại biểu cho „ nhóm lợi ích“ trong chốn nghị trường?
Thời điểm ông bước chân vào Quốc Hội cũng là lúc nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam bộc lộ rõ yếu kém sau nhiều năm phát triển. Nhẽ ra ông nên tập trung trong lĩnh vực của mình. Tìm các giải pháp tối ưu để giữ những cái gì mình có, hạn chế thất thoát thành quả của mình. Thế nhưng cơn lốc suy thoái kinh tế đã không chừa ai. Các doanh nghiệp của ông suy thoái dần. Tiền bạc lần lượt ra đi, mối quan hệ vĩ mô cũng nhạt dần, các danh hiệu quốc tế cũng không giúp gì cho ông nhiều.
Cổ nhân có câu „ Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí“ có vẻ đúng với gia đình nhà ông Tâm. Bà chị tài ba dính dáng đến nhiều chuyện riêng tư. Báo chí lên tiếng về cách lấy lòng cử tri nơi bầu cử. Đến khi có chuyện tố giác về lý lịch thì Quốc hội phải vào cuộc. Kết cục là người chị bị bãi miễn chức danh đại biểu Quốc hội.
Mới tham gia chưa trọn nhiệm kỳ Quốc Hội mà chuyện chính trường làm ông Đặng bạc cả tóc. Ông Đặng Thành Tâm đang tiếp xúc với phóng viên bề lề kỳ họp QH 13 (anh của báo NLĐ)
Đáng ngại hơn là nhân viên của chị em nhà ông lần lượt bị công an Việt Nam bắt giữ, mà trong cáo buộc đều dính dáng đến an ninh quốc gia. Ông Đặng Thành Tâm cực chẳng đã phải thư từ cầu cứu đến những cấp cao nhất của Nhà nước. Thế nhưng cho đến nay phía công an Việt Nam vẫn chưa có đáp án rõ cho các vụ bắt bớ đó. Như vậy vận mệnh chính trị vẫn treo lơ lửng trên đầu ông Tâm.
Sau đơt vắng mặt ở kỳ họp Quốc hội gây nhiều đồn thổi, ông Đặng Thành Tâm xuất hiện trở lại. Chính ông cũng thừa nhận với báo chí là việc ông tham gia Quốc Hội là một sai lầm. Ông cũng không nghĩ hoạt động nghị trường là hoạt động chính trị (!) Nhẽ ra ông không tham gia thì mới đúng. Từ nay ông mong muốn yên thân và „ hãi“ cho đến già, chỉ mong sớm kế thúc nhiệm kỳ khóa 13.
Như vậy một nhân vật như ông đã từ bỏ con đường Nhà nước thành Tư nhân và với tư cách Tư nhân để tham gia hoạt động chính trường hoàn toàn thất bại. Cách này chưa phù hợp với hiện trạng thực tại ở Việt Nam. Nguy hiểm hơn nó còn mang lại nhiều hệ lụy lâu dài cho sự nghiệp cá nhân.
2- “GẶP THỜI MỘT TỐT CŨNG THÀNH CÔNG.“
Ông Thân Đức Nam đang phát biểu ở nghị trường
Khác với ông Tâm, ông Thân Đức Nam có một tiền vận long đong vất vả. Ông tự mình bươn chải làm kinh tế tư nhân. Tuy không có điều kiện học hành đến nơi đến chốn, nhưng ông lại có đầu óc nhanh nhạy trong thực tiễn. Ông không có ước mơ bước đi lớn hay tầm vĩ mô, chỉ làm theo thời cuộc . Ban đầu ông thiên về buôn vặt, chăm chỉ kiếm tiền lẻ, vun đắp kinh nghiệm cho mình và chờ cơ hội
Thời kỳ đất nước cho Tư nhân bung ra làm kinh tế, ông thành lập ngay công ty Nam Việt Á, chạy làm thầu phụ cho các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế khó khăn khi Tư nhân làm kinh tế đã dạy cho ông bài học chỉ có liên doanh, dính dáng đến chút Nhà nước thì mới cơ may nhận được hợp đồng.
Cơ hội đến với ông Thân Đức Nam khi ông Tuân, Tổng giám đốc Cienco 5 mời ông mang vốn của mình tham gia vào doanh nghiệp Nhà nước. Ông Thân Đức Nam ( Thời) đã gặp đúng cơ hội lớn đúng như cái tên cúng cơm cha mẹ đặt.ông Thời gặp thời.
Cienco 5 là một doanh nghiệp Nhà nước. Cán bộ lãnh đạo vẫn điều hành theo lối cũ của thời bao cấp, công việc được chăng hay chớ, nhân viên làm việc theo bầu sữa của Nhà nước. Vì vậy Cienco 5 nợ nần chồng chất. Ông Nam Thời tính toán kĩ, dù vốn liếng của mình tích lũy cũng khá, nhưng so với doanh nghiệp Nhà nước thì chẳng đáng bao lăm. Ông chơi một canh bạc lớn. Ghép doanh nghiệp mình vào vốn Nhà nước. Cái ông có và giá trị nhất là kinh nghiệm tích lũy được từ thời tư nhân, khả năng quan hệ ngoại giao, biết luật chơi trong kinh tế. Ông cải tổ lại hệ thống quản lý của Cienco 5, dám chọn người ( kể cả người thân) đưa vào guồng máy quản lý.
Với ưu thế của doanh nghiệp Nhà nước ông nhanh nhậy chuyển hướng mạnh sang lĩnh vực mới là đất đai và bất động sản. Giá đất, giá bất động sản lên vù vù và kết cục là Cienco 5 thoát nợ. Không những thế Cienco 5 đã trở nên có danh tiếng chỉ trong vòng mấy năm.
Những vất vả của ông Nam Thời mang lại vinh quang cho ông. Nhà nước đã trao cho ông danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Hơn thế nữa người Đà Nẵng đề cử ông làm đại biểu Quốc Hội khóa 13.
Khi dấu hiệu kinh doanh giao thông, bất động sản có dấu hiệu thoái trào ông Thân Thời nhanh chóng nhận biết mình phải làm gì. Ông tạm rút về phía sau, đề đạt lớp trẻ thay mình đứng mũi chịu sào. Còn ông, ông tính nước cờ mới.
Trong kỳ họp Quốc Hội tháng 5, cả nghị trường đang bức xúc vì nước nhà chưa có lối thoát cho kinh tế và buồn ngủ vì các báo cáo thông lệ của các thành viên Chính phủ. Bỗng dưng không khí nghị trường chợt bừng tỉnh khi Thường vụ Quốc Hội bất ngờ thông báo bổ nhiệm ông Thân Thời làm Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội ( tương đương hàm Thứ trưởng).
Với quyết định đó, ông Thân Đức Nam đương nhiên không thể kiêm nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp kinh tế Cienco 5 được nữa. Ông đã trở thành ông nghị chuyên nghiệp và rất có thể là một chính khách trong tương lai.
Một lần nữa các ông nghị đồng nghiệp và bàn dân thiên hạ đều ngả mũ bái phục cái phép „ kim thuyền thoát xác“ hoàn hảo của ông. Từ nay ông có thêm quyền lớn và tiền tài thì vốn có sẵn từ thời ông còn là tư nhân. Không ai có thể soi mói hay bắt ông phải giải trình gì về tài sản của mình trên con đường quan lộ.
Thành công của ông Thân Đức Nam cũng cho ta thấy, trong hoàn cảnh như ở Việt Nam hiện nay Tư nhân chỉ có thể đắc dụng khi biết kết hợp với Nhà nước và nếu có cơ hội hoạt động chính trị thì cũng từ địa hạt của Nhà nước trở đi mới thành công.
Cả hai ông nghị đều là người tài trí hơn người. Nhưng ai cũng có Thời của mình.
Hình như thời của ông Tâm sắp qua, thời của ông Thời đang đến…
Dân Choa
(Quê Choa)

Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm trong thời gian dài

Hôm nay, 12/07/2013, Ngân hàng Thế giới đã công bố bản báo cáo cập nhập tình hình phát triển kinh tế Việt Nam tháng 07/2013, trong đó định chế tài chính quốc tế này cảnh báo về nguy cơ kinh tế của Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm trong thời gian dài. Tiến trình cải cách và cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước bị đánh giá là « hết sức chậm chạp », hai năm sau khi chính phủ phê duyệt chủ trương và lộ trình cải cách.
Trong bản báo cáo nói trên, Ngân hàng Thế giới nhận định rằng môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay là « tương đối ổn định », với mức lạm phát tính đến tháng 06/2013 chỉ là 6,7% và năm 2012, Việt Nam đạt thặng dư thương mại lần đầu tiên từ năm 1992. Trong năm ngoái, thặng dư cán cân thanh toán cũng đạt mức kỷ lục là 5,9%.
Tăng trưởng của Việt Nam một phần lớn có được nhờ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong ảnh, dây chuyền sản xuất tại một xí nghiệp xe máy Piaggio tại Vĩnh Phúc, phía tây bắc Hà Nội, 11/06/2011.
Tăng trưởng của Việt Nam một phần lớn có được nhờ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong ảnh, dây chuyền sản xuất tại một xí nghiệp xe máy Piaggio tại Vĩnh Phúc, phía tây bắc Hà Nội, 11/06/2011. REUTERS/Kham
Cũng theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được ước tính tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái, thế nhưng xuất khẩu tăng ở mức cao như vậy chính là nhờ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã giảm từ 11,8% GDP năm 2008 xuống chỉ còn 7,7% trong sáu tháng đầu năm nay. Đáng ngại hơn nữa là các nước trong khu vực như Thái Lan và Indonesia có sức cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam trong việc thu hút đầu tư. Ấy là chưa kể một đối thủ lợi hại khác vừa xuất hiện, đó là Miến Điện, quốc gia đang trở thành địa điểm đầu tư ngày càng hấp dẫn, kể từ khi chính phủ nước này tiến hành những cải cách sâu rộng cả về mặt chính trị lẫn kinh tế.
Nói chung, theo Ngân hàng Thế giới, kinh tế Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức, với thời gian tăng trưởng chậm kéo dài nhất kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách kinh tế những năm 1980. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2012 chỉ đạt 5,25%, mức thấp nhất kể từ năm 1998. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ vẫn ở mức thấp 5,3% năm 2013 và 5,4% năm 2014. Từ năm 2010 đến 2013, Việt Nam tăng trưởng chậm hơn Indonesia và Philippines, lần đầu tiên trong hai thập kỷ qua.Tăng trưởng kinh tế chậm và khó khăn trong sản xuất kinh tế khiến ngân sách Nhà nước của Việt Nam càng eo hẹp.
Trong khi đó, theo Ngân hàng Thế giới, tiến trình cải tổ cơ cấu của Việt Nam còn chậm và chưa được thực hiện một cách quyết liệt. Khu vực tài chính ngân hàng vẫn còn mỏng manh. Việc thành lập Công ty quản lý tài sàn của các tổ chức tín dụng ( VAMC ) là bước đi cụ thể của chính phủ Hà Nội trong việc quản lý nợ xấu, nhưng theo Ngân hàng Thế giới, việc xử lý nợ xấu đòi hỏi phải có cách tiếp cận « tích cực và dài hạn ».
Tiến trình cải cách và cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước bị đánh giá là « hết sức chậm chạp », hai năm sau khi chính phủ phê duyệt chủ trương và lộ trình cải cách. Theo Ngân hàng Thế giới, việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam khó có thể thành công « nếu không có một cơ chế điều phối liên ngành hữu hiệu và không tăng cường tính minh bạch ».
Trong bản báo cáo, Ngân hàng Thế giới lưu ý một số rủi ro đang chờ đón Việt Nam. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chậm lại có thể tạo sức ép tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa, từ đó sẽ tạo áp lực lạm phát và làm xói mòn các thành quả mong manh của ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, việc triển khai chậm trễ các chương trình cải cách cơ cấu sẽ làm suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư và tiếp tục tác động tiêu cực tới triển vọng tăng trưởng.
Thanh Phươn
(RFI)

Địa ốc: Bi kịch sẽ nằm ở nửa cuối năm

  Theo GS. Đặng Hùng Võ, bi kịch thực sự của bất động sản Việt Nam sẽ rơi vào cuối năm nay. Sẽ còn nhiều đại gia bất động sản “ngã ngựa” hơn nữa.
Trước việc ngày càng có nhiều các công ty bất động sản phải đóng cửa, có đại gia phải bán nhà, bán xe, thậm chí có người còn lâm vào vòng lao lý. Mới đây nhất là vụ bắt giữ ông Nguyễn Hoàng Long – Chủ tịch Vina Megastar đang khiến dư luận xôn xao vì không biết số phận của các dự án do công ty này thực hiện sẽ đi đâu về đâu.
Nguyên nhân do thị trường đi xuống, do kinh tế khó khăn thì đã rõ, nhưng theo GS. Đặng Hùng Võ, nguyên nhân chủ quan chính là lối làm ăn chộp giật đã khiến cho nhiều đại gia phải “ngã ngựa” như thời gian gần đây.

Liên tiếp đại gia “ngã ngựa”

- Thời gian gần đây liên tục xuất hiện thông tin về việc nhiều ông chủ của doanh nghiệp bất động sản đứng trước nguy cơ phải phá sản, ôm nợ nần, thậm chí đã có người bị rơi vào vòng lao lý. Phải chăng do tình hình của thị trường bất động sản đã đến lúc “báo động đỏ”?
Bối cảnh kinh tế khó khăn chung chỉ là một phần. Tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do lối làm ăn chộp giật của các doanh nghiệp.
Không ít các doanh nghiệp bất động sản ở Việt Nam năng lực tài chính yếu, dùng nguồn vốn chính là đi vay ngân hàng. Trong khi đó, lãi suất lại cao, có thời kỳ lên đến gần 30%. Với mức trả lãi này, nếu không đẩy giá nhà lên cao thì chắc doanh nghiệp cũng khó có thể lãi được.
Tôi cho rằng, việc “ngã ngựa” là chuyện tất yếu với những doanh nghiệp làm ăn chộp giật. Giống như một đoàn ngựa đang phi rất nhanh thì đột nhiên dừng lại, không ngã mới là lạ.
Trước kia, khi thị trường “sốt nóng”, nhiều ông chủ phất lên nhờ bất động sản, trở thành các đại gia, tiêu tiền không tiếc tay, đổi xe, đổi nhà như thay áo, lúc nào xung quanh cũng đầy chân dài bu bám. Thì nay, thị trường đi xuống, họ phải chấp nhận thôi.
- Nhưng câu chuyện của thị trường bất động sản Việt Nam không đơn giản là “ai làm nấy chịu”. Khi các đại gia “ngã ngựa”, số phận của các dự án sẽ chưa biết đi đâu về đâu và các khách hàng cũng sẽ chịu thiệt?
Tôi xin nói là khách hàng mua dự án từ giai đoạn trước những người có nhu cầu thực là rất ít, chủ yếu là mua để đầu cơ. Vì đa số các dự án thực hiện trong giai đoạn này là dự án trung bình và giá cao, nên chủ yếu dân buôn bất động sản, muốn tìm kiếm lợi ích từ thị trường.
Cái chết của họ là vì lợi nhuận, nên coi thường pháp luật, không đánh giá và tìm hiểu kỹ về dự án, năng lực chủ đầu tư. Họ coi thị trường như một bức tranh màu hồng, siêu lợi nhuận, vì vậy tính rủi ro trong các thương vụ mua bán này cũng rất cao.
Tôi cho rằng đã là đầu tư thì thắng – thua là chuyện bình thường. Trước đây họ có thể kiếm được lợi ích từ thị trường, thì nay thị trường khó khăn, họ phải chấp nhận thôi.
- Tất nhiên khách hàng cũng có lỗi, nhưng điều đó không có nghĩa chủ đầu tư cứ thu tiền rồi bỏ mặc dự án?
Đúng vậy. Như tôi đã nói ở trên, nhiều chủ đầu tư Việt Nam luôn nuôi dưỡng tư tưởng làm ăn chộp giật. Khi có dự án thì huy động vốn của người dân, vay tiền ngân hàng. Có tiền thì lại không xây dựng mà đem đi đầu tư dự án khác, rồi lại bán,…Và cuối cùng tiền của khách hàng đi đâu và bỏ vào túi ai thì chỉ còn cách “bắc thang lên hỏi ông trời”.
Thị trường bất động sản Việt Nam và một số nước có cơ chế chuyển đổi không có một lộ trình hợp lý để dẫn dắt người mua, tất cả chỉ tập trung vào việc có tiền để đầu tư.
Quản lý nhà nước cũng không chuyên nghiệp, không dẫn dắt được thị trường. Nhà đầu tư chỉ chăm chăm vào lợi nhuận. Ai cũng nghĩ 1 năm tới lợi nhuận sẽ rất nhiều.
Câu chuyện huy động vốn rồi chiếm dụng vốn ở Việt Nam dường như quá dễ dàng. Chỉ khi thị trường bất lợi nó mới thể hiện tính 2 mặt, sống dao thành lưỡi dao.
- Chủ đầu tư thì “ngã ngựa”, tài sản còn lại chưa biết có đủ để trả nợ không, vậy khách hàng phải làm thế nào để lấy lại được tiền của mình?
Sẽ có 3 kịch bản có thể xảy ra. Hoặc là chủ đầu tư cùng khách hàng sẽ bắt tay nhau vượt qua khó khăn. Thực tế cũng có một số dự án khách hàng chấp nhận đóng tiền trước tiến độ để chủ đầu tư có tiền hoàn thiện dự án.
Kịch bản thứ hai thì xấu hơn và thực tế đã xảy ra phổ biến suốt gần 2 năm qua. Đó là khách hàng đấu tranh với chủ đầu tư. Đấu tranh có thể bằng hình thức biểu tình hoặc kiện nhau ra tòa. Thậm chí dùng cả xã hội để xử nhau.
Kịch bản thứ 3 có lẽ đang diễn ra phổ biến nhất. Chủ đầu tư phó mặc cho khách hàng, còn khách hàng thì chấp nhận chờ đợi cho thị trường tốt lên.

Xu hướng phá sản sẽ gia tăng

- Tâm lý chờ đợi có lẽ cũng chỉ có giới hạn vì theo như đánh giá của các chuyên gia, thị trường chưa biết đến bao giờ sẽ “ấm” lên?
Tôi cho rằng bi kịch thực sự của bất động sản Việt Nam sẽ rơi vào cuối năm nay. Sẽ còn nhiều đại gia bất động sản “ngã ngựa” hơn nữa.
Bây giờ thực chất mọi việc vẫn chỉ đang nằm im, xem có gì có thể giải cứu được thì giải cứu. Từ nay đến cuối năm, tính kịch liệt sẽ bùng bổ vì vấn đề vốn bao gồm nợ xấu, nợ đọng vẫn chưa được giải quyết.
Thị trường sẽ tiếp tục vỡ vì bất động sản giá cao tồn đọng vẫn còn nguyên, chưa chuyển đổi được công năng.
Câu chuyện giải quyết nợ xấu sẽ là câu chuyện của nhiều người có tiền tìm cách giải quyết lẫn nhau nhằm đảm bảo an toàn tài sản của mình.
Việc giải quyết nợ xấu ngay cả khi giao cho công ty quản lý nợ cũng không giải quyết được câu chuyện của những người góp vốn khi chủ đầu tư chính không có tiền để trả.
Một trong những giải pháp mà nhiều doanh nghiệp hiện nay buộc phải chấp nhận làm để tồn tại là hạ giá nhà
- Vậy theo ông từ nay đến cuối năm sẽ có làn sóng hạ giá nhà mới không?
Tôi cho rằng ở phân khúc nhà giá rẻ sẽ khó hạ thấp hơn mức như hiện nay, tức là dưới 15 triệu đồng/m2, trừ khi áp dụng công nghệ xây dựng mới.
Còn ở phân khúc giá cao thì tùy theo chủ đầu tư và cung – cầu thị trường quyết định.
Từ nay đến cuối năm, xu hướng phá sản cũng sẽ gia tăng. Ở các nước có hệ thống pháp luật lành mạnh thì phá sản người mua vẫn không bị thiệt hại. Nhưng hệ thống pháp luật ở Việt Nam chưa hoàn thiện, nên rất có thể khách hàng sẽ là người bị thiệt.
Xin cảm ơn ông!
Theo VCT News

Luật Phá sản: Muốn “chết” cũng không xong

Luật Phá sản dù bảo vệ quyền lợi của nhiều phía, nhưng thực tế vẫn chỉ là những quy định trên giấy. Nhiều doanh nghiệp muốn được “chết” mà vẫn không thể được.

Luật Phá sản: Muốn “chết” cũng không xong
Hiểu rõ các ích lợi của Luật Phá sản, ông Nguyễn T. – giám đốc một công ty xây dựng nộp đơn xin phá sản do đầu tư sai. Hiện tại doanh nghiệp của ông không thể trả nổi khoản nợ gần chục tỷ đồng. Nhưng chính ông cũng không ngờ mình dính vào mớ bùng nhùng suốt hai năm chưa giải quyết dứt điểm được, mà sự trắc trở đến từ cả doanh nghiệp lẫn tòa án xử lý vụ việc.
Nhọc nhằn xin “chết”
Ông T. cho biết, tòa tiến hành các thủ tục rất chậm, như triệu tập chủ nợ, xác định loại chủ nợ, các khoản nợ… Nhưng vướng mắc lớn nhất chính là xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Theo ông T., nếu giải quyết nhanh chóng, số tài sản đó được doanh nghiệp khác tiếp quản để sản xuất thì còn giá trị đền bù cho các chủ nợ. Giờ đây, khối tài sản ấy chỉ bán được cho người mua ve chai. Tòa lần nữa phải tiến hành lại các thủ tục định giá ban đầu nên vẫn chưa thể tuyên bố doanh nghiệp phá sản.
Bi đát hơn ông T., chủ một doanh nghiệp kinh doanh nông sản tên H., muốn nộp đơn phá sản để giải thoát khỏi tình trạng không có lối ra trong kinh doanh, nhưng các chủ nợ gây sức ép để không phải ra tòa. Ông H. có các khoản vay từ cá nhân và ngân hàng nhưng đa phần là vay ngân hàng. Chính ông chủ lớn này đề nghị doanh nghiệp giải quyết món nợ theo cách khởi kiện vụ án dân sự chứ không đồng ý nộp đơn ra tòa xin phá sản. Theo ông H., lập luận của ngân hàng là các khoản vay nợ của doanh nghiệp đều có tài sản đảm bảo. Nếu phát mãi, họ sẽ thu hồi được gần hết món nợ. Còn theo Luật Phá sản, tài sản sẽ được chia theo quy định, đến lượt chủ nợ có khi không còn bao nhiêu. Chưa hết, nếu doanh nghiệp nộp đơn phá sản, có nghĩa món vay phải đưa vào lập dự phòng, mà thời gian tòa tuyên phá sản khá dài thì khoản nợ ấy bị treo lâu, dễ bị liệt vào nợ xấu, ảnh hưởng đến lợi nhuận cả năm.
Tại sao nên nỗi?
Theo báo cáo của 12/52 tòa án nhân dân cấp tỉnh, kể từ khi áp dụng Luật Phá sản (năm 2004) đến nay, những đơn vị này không thụ lý bất cứ yêu cầu phá sản của doanh nghiệp nào. Việc chậm chạp trong ra quyết định tuyên bố phá sản nằm ở những bất cập trong Luật Phá sản, mà gần đây giới thẩm phán tòa án đưa ra kiến nghị sửa đổi 57/95 điều khoản vì những quy định gây phiền hà và thiếu thực tế. Chẳng hạn, quy định hội nghị chủ nợ phải có mặt hơn 50% tổng số chủ nợ là một tỉ lệ cao, sẽ gây đình trệ trong việc giải cứu, tái cơ cấu doanh nghiệp. Hay có doanh nghiệp không còn đồng nào, cũng không còn tài sản nào để nộp lệ phí tòa án, mà không nộp lệ phí tòa án thì không xử được. Hoặc có những vụ phá sản mà chủ doanh nghiệp là người nước ngoài đã bỏ về nước thì tòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý tài sản của doanh nghiệp ấy.
Luật sư Trần Đình Phương, Văn phòng Luật sư Trần và Liên danh, người nhiều năm tư vấn phá sản cho doanh nghiệp, cho biết: doanh nghiệp gặp nhiều bất lợi khi mở thủ tục phá sản. Đó là chủ doanh nghiệp bị tuyên phá sản không được quyền thành lập và giữ các chức vụ quản lý doanh nghiệp. Đây là hình phạt nặng và làm giảm tinh thần khởi nghiệp. Nếu kinh doanh lừa đảo thì đó là hình phạt hợp lý, nhưng việc mất hết tài sản do kinh doanh thất bại vì không may hay gặp rủi ro đã là một sự trừng phạt. Tại Việt Nam rất dễ chuyển từ vụ việc dân sự sang hình sự mà ngay trong Luật Phá sản cũng quy định khá rõ: Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì thẩm phán phải gửi hồ sơ cho cơ quan viện kiểm sát nhân dân xem xét, khởi tố về hình sự.
Chưa kể, việc kéo dài thủ tục phá sản khiến khả năng thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn và tài sản bị giảm giá trị. Điều này khiến cả chủ nợ và con nợ đều không muốn sử dụng thủ tục phá sản. Chẳng hạn, quy định trong Luật Phá sản chỉ được tuyên bố phá sản khi nào thu hồi hết nợ và thanh lý hết tài sản doanh nghiệp, nhưng trong thực tế, quy định ấy chỉ góp phần kéo dài vụ việc.
Những hệ lụy mang tên nợ xấu, rủi ro
Luật Phá sản hiện nay không chỉ đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà còn có mục tiêu bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và tạo cơ hội cho doanh nghiệp ấy tự tái tổ chức, phục hồi kinh doanh.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc chậm chạp ra quyết định tuyên bố phá sản tạo ra nhiều bất lợi và rủi ro trong các quan hệ kinh tế. Trong quá trình chờ tòa tuyên phá sản, các nguồn lực của doanh nghiệp dừng hoạt động, không những lãng phí mà còn liên lụy đến các doanh nghiệp đang hoạt động lành mạnh khác. Việc không cho doanh nghiệp “chết” là cách bóp méo và tạo ra ảo tưởng về một nền kinh tế lành mạnh. Chẳng hạn, thay vì để doanh nghiệp phá sản thì ngân hàng do sợ ảnh hưởng đến lợi nhuận đã cho đảo nợ, hay bơm vốn duy trì sự sống cho doanh nghiệp. Điều này chỉ làm tăng thêm rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mà biểu hiện qua “nợ xấu” được nói nhiều trong thời gian qua.
Câu chuyện này tương đồng với sự e ngại phá sản các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thất bại. Đó là nỗi sợ gây thất nghiệp ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng ngàn lao động, sợ ảnh hưởng đến thành tích của cơ quản quản lý nhà nước, sợ phơi bày các yếu kém quản lý. Trong khi đó, nếu cho những doanh nghiệp nhà nước yếu kém ấy phá sản thì không những ngưng được việc cung cấp tài chính một cách vô ích mà còn giúp tái cơ cấu doanh nghiệp, đặt ra nền tảng giám sát một cách minh bạch.
 
Thực tế từ những con số
 
Theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2008 đến năm 2011, ngành tòa án đã nhận được 636 đơn yêu cầu được phá sản, trong đó trả lại đơn 13 vụ, ra quyết định mở thủ tục phá sản 518 vụ, ra quyết định không mở thủ tục phá sản 9 vụ, ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản 18 vụ. Đặc biệt trong 636 đơn của bốn năm (2008 - 2011), tòa án chỉ ra được quyết định tuyến bố phá sản 45 vụ.
 
 
 
 
 
 
 
Theo Thái Thanh
Doanh Nhân

Gói 30.000 tỷ: ‘Giải quyết một tí, rồi cúng tiền cho chuyện khác’

Ngay từ đầu đã nhiều người và ngay cả tôi cũng đã nói là cho các ngân hàng đứng ra rồi các ngân hàng lại ưu tiên các DN sân sau dưới cái danh nghĩa này để giải quyết việc khác. Hoặc là chỉ giải quyết một tí việc này còn đang “cúng” tiền vào việc khác – TS Phạm Sỹ Liêm nhận định về giải ngân gói 30.000 tỷ.
Liên quan đến việc triển khai gói tín dụng 30.000 tỷ hỗ trợ BĐS và lượng tồn kho BĐS còn lớn nhưng vẫn đổ xô xây thêm nhiều dự án nhà ở xã hội (NOXH), PV báo Đất Việt đã có cuộc trao đổi với TS. Phạm Sỹ Liêm – Phó Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng.
Chủ trương đúng nhưng thực hiện thế nào đến tôi cũng chẳng rõ


PV: – NHNN triển khai gói tín dụng kích cầu 30.000 tỷ đã được hơn 1 tháng, nhưng mới chỉ có 2 khách hàng ở BIDV và 6 khách hàng ở Vietcombank tiếp cận được gói này. Trong khi đó đã có 2 doanh nghiệp được giải ngân vốn và 10 doanh nghiệp khác đã được ký kết cho vay 30% của gói 30.000 tỷ. Ông có nhận xét gì về diễn biến này?
TS. Phạm Sỹ Liêm: – Tôi chỉ đặt ra một câu hỏi thế này: cho vay tiền mua nhà, nhưng vay xong có tiền để mua không? Mua ở đâu? Mua ở chỗ nào? Chẳng hạn như tôi muốn tự chọn để mua chứ không muốn bị ấn định phải mua chỗ này, chỗ kia. Tôi ở đầu thành phố mà chỉ định tôi phải mua ở cuối thành phố thì tôi mua làm gì?
Nói tóm lại là đã có hàng chưa? Hiện nay chắc là đã có nhưng rất ít (!?). Vậy phải làm thế nào cho có hàng đã. Có hàng thì mới phát triển số lượng người mua nhà lên. Cho nên theo tôi trước mắt mà nói thì chưa có gì đáng lo ngại. Nhưng cái đáng lo ngại theo tôi là tại sao lại chỉ có mấy người tiếp cận được? Kiểu cách nào?
Thôi thì có muốn mua thì cũng chưa có cái mà mua, nhưng có nhiều người muốn mua bây giờ mà lại không biết cách tiếp cận thế nào. Họ sẽ phải tìm đến các ngân hàng để nộp hồ sơ, sau đó ngân hàng sẽ khảo sát hồ sơ, giấy tờ… Những cái đó giá mà người đưa ra thủ tục này ngồi để viết ra từng cái một, thống kê xem có bao nhiêu loại giấy tờ, gồm giấy tờ gì… chứ không phải chỉ đưa ra các điều kiện thì chắc sẽ tốt hơn. Còn bây giờ tôi thấy nhiều người muốn mua mà vẫn không biết phải chuẩn bị những giấy tờ gì.
Tôi còn lo ngại một cái nữa là ngân hàng này thì yêu cầu 5 giấy tờ này, nhưng ngân hàng khác lại yêu cầu 7 loại giấy tờ khác, chẳng có một quy định thống nhất gì cả.
PV: – Thực tế lượng tồn kho BĐS của chúng ta vẫn rất lớn. Chẳng hạn như tại Hà Nội, tính đến tháng 5/2013 số lượng căn hộ chung cư tồn kho là 5.789, tương ứng với hơn 566 nghìn m2157. Còn theo Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng thì có đến 157 dự án NOXH đang được triển khai xây dựng trên cả nước, với quy mô 68.500 căn hộ. Lượng tồn kho nhiều nhưng vẫn xây thêm nhiều NOXH thì liệu có hợp lý không, thưa ông?
TS. Phạm Sỹ Liêm: – Việc phát triển này là phát triển thêm loại nhà mà người dân muốn mua. Chẳng hạn như đi ngoài đường, tôi thấy người ta tồn kho rất nhiều túi xách Gucci, nhưng tiền đâu mà tôi mua? Trong khi tôi chỉ cần cái túi xách chỉ khoảng 200 – 300 nghìn đồng thôi, thì lại không thấy. Tôi lấy ví dụ như vậy. Cái tồn thì vẫn cứ tồn nhưng cái thiếu thì cứ việc thiếu.
PV: – Tuy nhiên gần đây Bộ Xây dựng đã có chủ trương cho các DN có nhu cầu chuyển từ ở thương mại sang nhà ở xã hội để đáp ứng nhu cầu của người dân. Hoặc là chẻ nhỏ căn hộ để hạ giá thành xuống cho người dân tiếp cận được. Vậy theo ông tại sao chúng ta không đẩy mạnh chủ trương này để vừa giải quyết tồn kho lại vừa đáp ứng được nhu cầu của người dân, thay vì cứ đi xây thêm NOXH và có nguy cơ tồn kho hơn nữa?
TS. Phạm Sỹ Liêm:- Đẩy mạnh thì vẫn cứ đẩy mạnh nhưng liệu các DN có muốn hay không? Chủ trương là thế nhưng đã có ai chuẩn bị đổi? Và liệu đổi có phù hợp với điều kiện không? Ví dụ như doanh nghiệp muốn đổi một dự án tận trên Hoài Đức thì tôi nghĩ có đổi cũng chưa chắc đã bán được.
Tôi là người cần mua nhà ở Hà Nội này chứ không phải là ở Hoài Đức. Ở Hoài Đức nói thế chứ người dân có nghèo cũng vẫn có nhà cả rồi.
PV: -Theo thống kê mới đây thì đã có đến 50 dự án thương mại xin được chuyển đổi sang NOXH mà vẫn chưa được duyệt. Vậy theo lý giải của ông liệu có hợp lý?
TS. Phạm Sỹ Liêm: – Tôi thấy chủ trương thì rất đúng đắn nhưng thực sự thực hiện thế nào thì tôi cũng chẳng rõ.
Tại sao lại 5 ngân hàng đó?
PV: – Gần đây, nhiều ý kiến cho rằng chỉ có DN của Bộ Xây dựng, ngành xây dựng mới tiếp cận được nguồn vốn vay để xây nhà, trong khi đó có rất nhiều DN khác lại không vay được dù đã nộp đầy đủ hồ sơ. Phải chăng ở đây có một sự ưu ái đặc biệt dành cho các Công ty của Bộ? Ông đánh giá thế nào về nhận định này?
TS. Phạm Sỹ Liêm: – Tôi chẳng biết là của Bộ Xây dựng hay là của ai và cũng không chắc là tất cả DN của Bộ Xây dựng là đã được vay tất. Nhưng có hai vấn đề thế này: một là các DN trong Bộ Xây dựng chắc là được hướng dẫn sớm hơn chăng?
Hai là cái lo ngại lâu nay, ngay từ đầu đã nhiều người và ngay cả tôi cũng đã nói là cho các ngân hàng đứng ra rồi các ngân hàng lại ưu tiên các DN sân sau dưới cái danh nghĩa này để giải quyết việc khác chứ không phải là giải quyết việc này. Hoặc là chỉ giải quyết một tí việc này còn đang “cúng” tiền vào việc khác.
Nói tóm lại là cần phải có một sự minh bạch trong chính sách. Cho đến hiện nay không rõ ràng nên người ta mới đặt câu hỏi.
Tôi nói ví dụ như tại sao lại là 5 ngân hàng? Tại sao lại là 5 ngân hàng ấy mà không phải là ngân hàng khác? Chỉ cần lên một danh sách cần vay, có 1 hội đồng và 1 người nào đó có đủ độ tin cậy thì đến 5 ngân hàng hay 7 ngân hàng không quan trọng. Nhưng tôi chạy ngân hàng này không được, chạy qua ngân hàng kia cũng không được. Tôi chạy tít mù 5 ngân hàng chỉ để hầu hạ các vị để các vị cho vay, thì không rõ ràng gì cả.
Tôi hoàn toàn ủng hộ chủ trương, chính sách và cũng không mong nhanh. Bởi vì đây là những việc cần phải có thủ tục nhất định, vì nó có ưu đãi. Chính vì có ưu đãi nên dễ bị lên án, dễ bị lợi dụng. Dễ bị lợi dụng thì phải tăng cường kiểm soát. Cho nên tôi nghĩ nhanh thì không thể nhanh nhưng vấn đề là phải minh bạch. Kể cả cho các DN vay hay cho người dân vay.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Theo Đất Việt

Một Trục Chống Mỹ Mới?

Chuyến bay của kẻ rò rỉ thông tin Edward J. Snowden từ Hong Kong đến Moscow hồi tháng trước đã có thể không thực hiện được nếu thiếu sự hợp tác giữa Nga và Trung Quốc. Cách hành xử của hai nước này trong vụ Snowden thể hiện tính quyết đoán ngày càng tăng và tư thế sẵn sàng hành động của họ bằng cái giá phải trả của Mỹ.
Ngoài việc bảo vệ ông Snowden, các chính sách của Trung Quốc và Nga đối với Syria đã làm tê liệt Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trong hai năm, ngăn chặn hoạt động quốc tế chung. Vấn đề tin tặc Trung Quốc tấn công các công ty Mỹ, cũng như các vụ tấn công mạng của Nga nhắm vào các nước láng giềng cũng đã gây ra mối quan ngại đối với Washington. Trong khi Moscow và Bắc Kinh thường ủng hộ các nỗ lực quốc tế nhằm chấm dứt chương trình vũ khí hạt nhân của Iran, rõ ràng là họ không sẵn sàng tiến xa như Washington, còn bất kỳ sự thay đổi nào trong cách tiếp cận phối hợp của họ có thể ngay lập tức phá hủy chính sách của Hoa Kỳ về vấn đề này và gây nguy hiểm cho lợi ích an ninh và năng lượng của Mỹ. Để nhấn mạnh tiềm năng hợp tác mới, Trung Quốc giờ đây triển khai các cuộc tập trận hải quân lớn chưa từng có – với Nga.
Để thúc đẩy tốt hơn các lợi ích của họ, Nga và Trung Quốc dường như đã quyết định rằng họ cần phải làm cho Washington hết vênh váo. Có thể cả hai đều không muốn bắt đầu một cuộc chiến tranh lạnh mới, chưa nói đến các cuộc xung đột nóng, và các hành động của họ trong trường hợp ông Snowden đã thể hiện điều đó. Trung Quốc cho phép ông ta nhập vào Hồng Kông, nhưng lại nhẹ nhàng thúc giục ông ta ra đi, trong khi đó nước Nga, sau khi có một vài lời lẽ khiêu khích, dường như đã dịu giọng.
Tuy nhiên, cả hai nước đang tìm kiếm sức mạnh ngoại giao lớn hơn, mà họ hiển nhiên cho là chỉ có thể có được bằng cách kiềm chế Mỹ. Trong các vấn đề thế giới, không có cách nào tốt hơn để phô trương sức mạnh của một quốc gia bằng cách làm giảm rõ rệt sức mạnh của cường quốc mạnh nhất.
Cách tiếp cận mới này xuất phát một phần từ ý thức về sức mạnh ngày càng tăng của họ so với Mỹ và sự nhấn mạnh ngày càng lớn về những khác biệt trong các vấn đề như Syria. Cả Moscow và Bắc Kinh đều phản đối nguyên tắc can thiệp quốc tế vào các vấn đề chủ quyền của một quốc gia, dù không nghiêm trọng như hành động lật đổ một chính phủ, như đã xảy ra ở Libya năm 2011. Xét cho cùng, nguyên tắc đó luôn có thể phản tác dụng đối với họ.
Hai nước này cũng không ưa phải chứng kiến phương Tây có hành động chống lại các nhà lãnh đạo thân thiện với họ, như Tổng thống Bashar al-Assad của Syria. Khi ý thức về những lợi ích chung này trở nên cố thủ, sự tăng cường hợp tác giữa Nga và Trung Quốc có thể gây rủi ro nghiêm trọng đối với Mỹ và thế giới.
Trung Quốc và Nga không ủng hộ Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trên vấn đề Syria ? (Ảnh: Internet)
Hành vi của họ cho thấy họ coi cái giá phải trả sẽ ít hơn khi thách thức Mỹ, cũng sẽ ít được lợi hơn khi cư xử với Mỹ như một đối tác. Những toan tính này xuất phát từ hai nhận thức nguy hiểm.
Đầu tiên, họ nhìn thấy sự suy tàn và sa sút của Mỹ. Theo quan điểm của họ, Mỹ đứng bên lề của lịch sử, vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với châu Âu và một phần châu Á, trong khi mất đi đòn bẩy kinh tế và thẩm quyền đạo đức đối với phần còn lại của thế giới. Việc Mỹ rút quân khỏi Iraq và Afghanistan mà không giành chiến thắng đã góp phần tạo nên một ấn tượng có liên quan rằng ưu thế quân sự không bị tranh cãi của Mỹ không có mấy giá trị trong việc đạt được các mục tiêu chính sách trong nội bộ dân chúng.
Thứ hai, nhiều người thuộc giới tinh hoa Nga và Trung Quốc xem các mục tiêu chính sách của Mỹ là đối nghịch cơ bản với lợi ích sống còn của họ. Không nhóm nào coi sự thúc đẩy nền dân chủ Mỹ như là sự phản ánh của bất cứ cam kết tự do thực sự nào; thay vào đó, cả hai nhận thấy đó như là một cuộc thập tự chinh có chọn lọc để làm suy yếu các chính phủ thù địch với Mỹ hoặc nắm giữ quá nhiều quyền lực khiến cho Mỹ không thấy yên tâm.
Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc đã làm rõ rằng sự ủng hộ của Washington đối với các nước láng giềng của hai nước này trong mọi tranh chấp có liên quan đến Bắc Kinh hay Moscow không phải là vấn đề tôn trọng luật pháp quốc tế, mà là một hình thức ngăn chặn nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng khu vực và toàn cầu của hai cường quốc lớn.
Sự ủng hộ của Mỹ đối với Georgia và các nước Cộng hòa Liên Xô cũ ở Trung Á làm phiền Nga. Tương tự như vậy, Trung Quốc xem việc Mỹ ủng hộ Việt Nam và Philippines trong các tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh là một mối đe dọa.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Tập Cận Bình của Trung Quốc thực hiện chuyến đi quốc tế đầu tiên của ông ta đến Moscow trên danh nghĩa Chủ tịch nước, nơi ông ta nói với người tương nhiệm của ông ta, Tổng thống Vladimir V. Putin, rằng Bắc Kinh và Moscow nên “kiên quyết ủng hộ lẫn nhau trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền quốc gia, các quyền lợi an ninh và phát triển”, và hứa sẽ “phối hợp chặt chẽ” về các vấn đề khu vực và quốc tế. Ông Putin đáp lại bằng cách nói rằng “quan hệ đối tác chiến lược giữa chúng ta có tầm quan trọng lớn trên cả bình diện song phương lẫn toàn cầu.” Trong khi lời nói của hai nhà lãnh đạo có thể tạo ra ấn tượng của sự thông đồng với nhau hơn là cần thiết, để cho chắc chắn, nên cho rằng họ hiểu chính xác thông điệp mà họ đã gửi đi.
Các nhà hoạch định chính sách ở Washington phải cẩn thận đánh giá sự thân mật ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Nga, đồng thời ý nghĩa của mối quan hệ này đối với Mỹ. Bỏ qua điều này sẽ là việc làm ngu ngốc.
Vâng, Trung Quốc và Nga vẫn tiếp tục bị chia rẽ bởi lịch sử nghi kỵ lẫn nhau, cũng như các lợi ích kinh tế gây mâu thuẫn, và các tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Mối quan tâm của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên vượt quá sự quan tâm của Nga, còn phần can dự của Nga ở Syria lớn hơn so với Bắc Kinh. Còn ở Trung Á, hai nước lại là đối thủ cạnh trạnh công khai. Hơn nữa, Trung Quốc là một siêu cường đang lên, còn Nga đang đấu tranh để được ở lại trong sân chơi lớn, khiến cho họ có những quan điểm khác nhau về các vấn đề thế giới.
Dẫu sao, cả hai nước đều chia sẻ một mối quan tâm mạnh mẽ cho việc duy trì mối quan hệ đối tác với Mỹ và Liên minh châu Âu, những đối tác thương mại chính của họ, đồng thời cũng là những người cai quản hệ thống tài chính quốc tế, nơi mà mỗi nước đều góp một phần quan trọng. Đây là những lý do mạnh mẽ để họ tiếp tục cộng tác với Washington, nhưng Mỹ không nên nghĩ rằng chúng sẽ ngăn cản đường lối chống Mỹ mới ở Bắc Kinh và Moscow. Điều đó có thể là một hiểu lầm lịch sử đầy nguy hiểm.
Trước Chiến tranh Thế giới thứ I, nhiều người giả định rằng sự vướng vứu kinh tế lẫn nhau, cũng như những phí tổn khổng lồ của chiến tranh sẽ có thể ngăn chặn xung đột giữa các cường quốc châu Âu. Vào đêm trước Chiến tranh Thế giới thứ II, Cộng sản Nga và Đức Quốc xã dường như là những đồng minh mà không ai nghĩ đến, cho đến khi hiệp ước bất tương xâm kéo dài hai năm có tên là hiệp ước Molotov-Ribbentrop đã để lại châu Âu trước đống đổ nát và hàng triệu người chết.
Tổng thống Obama không nên nhìn Trung Quốc và Nga như kẻ thù hay bạn bè, nhưng nên nhìn họ như là những cường quốc quan trọng có những lợi ích riêng của họ, như vụ việc Snowden đã cho thấy. Ban đầu, ông Obama chửi bới cả hai một cách công khai nhưng vô hiệu, rồi thúc giục họ dẫn độ ông Snowden. Chỉ đến khi ông Obama làm dịu lập trường công cộng và củng cố đường lối riêng của ông thì Bắc Kinh và Nga mới bắt đầu nhìn thấy những lợi thế của việc tránh đối đầu kéo dài.
Washington cần phải hiểu rằng các mối đe dọa an ninh lớn nhất trên thế giới – từ Syria đến Iran và Bắc Triều Tiên – sẽ không thể được xử lý một cách an toàn và thành công mà không có sự hợp tác của Nga và Trung Quốc. Đối với Syria, phương pháp này có nghĩa là đánh giá cao mối quan hệ lịch sử giữa Moscow và giới lãnh đạo Alawite của đất nước, cũng như sự quan tâm của Nga về số phận người Kitô hữu ở Syria, đặc biệt là Kitô hữu Chính Thống Giáo. Trong cách đối phó với Bắc Kinh, điều này có nghĩa là bảo vệ mạnh mẽ các lợi ích thương mại của Mỹ, trong khi biết rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt với những trở ngại thực sự trong việc xử lý các vấn đề kinh tế nội bộ của họ.
Để đạt được sự tôn trọng của Nga và Trung Quốc, Nhà Trắng đầu tiên phải chứng minh rằng giới lãnh đạo Mỹ giữ vai trò thiết yếu để giải quyết các vấn đề thế giới quan trọng, bao gồm cả những vấn đề quan trọng đối với Trung Quốc và Nga. Nước Mỹ không không thể bị xem như là ở thế bị động.
Các mối quan hệ với Nga và Trung Quốc đáng được dành ưu tiên, nhưng Mỹ không nên e ngại khi giữ vững lập trường trong một số trường hợp, hoặc trong những trường hợp khác, hợp tác với hai cường quốc độc tài, nhưng rốt cuộc vẫn là những cường quốc thực dụng. Nếu làm khác đi sẽ lại là một hành động dại dột có tầm vóc lịch sử.
LESLIE H. GELB and DIMITRI K. SIMES - The New York Times
Mai Xương Ngọc dịch - A New Anti-American Axis?
* Ông Leslie H. Gelb, một bình luận viên, biên tập viên và phóng viên trước kia của tờ The New York Times, là chủ tịch danh dự của Hội đồng Quan hệ đối ngoại (Council on Foreign Relations). Ông Dimitri K. Simes là chủ tịch Trung tâm vì Quyền lợi Quốc gia (Center for the National Interest), và phát hành tạp chí The National Interest thuộc Trung tâm này.
Một phiên bản của bài viết có quan điểm khác này xuất hiện trên bản in ngày 07 Tháng Bảy 2013, trên trang SR5 của ấn bản New York với tiêu đề: Một Trục Chống Mỹ Mới?.
Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle

Chui đầu vào thòng lọng Trung Quốc

Tuần trước, ông Bùi Tín, cựu phó chủ bút báo Nhân Dân (Hà Nội) hiện đang tị nạn tại Pháp, viết một bài nhận xét về bản “Tuyên bố chung” giữa Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, ký ngày 21 Tháng Sáu vừa qua tại Bắc Kinh: “Không hề có một chữ nào (xác định) về Hoàng Sa, Trường Sa là đất Việt Nam bị cưỡng chiếm bằng vũ lực. Không một lời yêu cầu nào đòi bảo vệ tính mạng tài sản của ngư dân Việt Nam trong vùng biển quốc gia của mình. Không một lời bác bỏ nào đối với cái ‘lưỡi bò’ phi pháp trên bản đồ Trung Quốc. Chủ quyền quốc gia đã bị hoàn toàn từ bỏ.”
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ cũng công bố một bản Nhận Ðịnh về cùng vấn đề này, ngài viết: “Tuyên bố chung tại Bắc Kinh không hề có một dòng nào xác định việc Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần đảo Trường Sa của Việt Nam, hoặc hàng nghìn cây số trên đất dọc biên giới, đặc biệt tại Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, v.v. hay đòi hỏi Trung Quốc hoàn trả biển và đất đã xâm chiếm.”
Những lời lên án trên khiến dư luận chú ý hơn đến văn kiện mà hai ông Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình đã ký sau một chuyến công du ba ngày. Trong thực tế, xưa nay người Việt ở trong và ngoài nước không mấy khi chú ý đến các bản thông cáo chung của lãnh tụ hai đảng Cộng Sản, vì biết trước rằng đó thường chỉ gồm những lời tuyên truyền trống rỗng.
Nhưng khi vị tăng thống thứ năm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải viết rằng Hội Ðồng Lưỡng Viện của giáo hội “vô cùng quan ngại về nội dung bản tuyên bố chung này” thì mọi người Việt Nam yêu nước phải cùng chia sẻ nỗi lo lắng đó. Mặc dù bản tuyên bố chung có nhắc đến quan hệ giữa hai đảng Cộng Sản, Trương Tấn Sang đã ký kết với tư cách là chủ tịch nhà nước Việt Nam, nhân danh cả đất nước và dân tộc Việt Nam.
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ phải cảnh cáo: “Với kẻ cướp đã vào chiếm đóng một góc nhà rồi, ông chủ tịch nước vẫn ‘nhất trí’ với mưu kế của kẻ xâm lăng...” Giống như nhà báo Bùi Tín viết: “Lũ giặc bành trướng được coi là bạn bè thân thiết nhất, là đồng chí tin cậy nhất.” Ông lên án: “Chưa bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và nhục nhã đến như vậy.”

Ðầu hàng nhanh chóng như thế nào? Chỉ trong ba ngày, ông Trương Tấn Sang đã ký tên vào một văn kiện dài bốn ngàn chữ, trong đó đề cập đến hàng chục bản văn khác về việc hợp tác giữa hai nhà nước; và hai bên cũng ký kết nhiều văn bản mới khác nữa. Chỉ trong ba ngày, họ đã xem lại để “nhất trí hợp tác” thi hành rất nhiều văn kiện. Trong đó có, thí dụ, “Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại Giao; Ðối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng; Thỏa thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011-2015; Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp Ðịnh Văn Hóa Việt-Trung giai đoạn 2013-2015; Kế hoạch công tác năm 2013 của ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền hai nước,” vân vân. Hai bên còn thảo luận và “nhất trí” về việc “hoàn thành việc xây dựng trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực. Hai bên nhất trí tổ chức Liên Hoan Thanh Niên Việt-Trung lần thứ 2 vào nửa cuối năm nay;” lại “tăng cường hơn nữa hợp tác” giữa các bảy tỉnh của Việt Nam và bốn tỉnh của Trung Quốc ở hai bên biên giới. Bao gồm mọi lãnh vực, chỉ trong ba ngày đã ký kết xong.
Hãy nhìn vào danh sách các văn kiện mới được Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình cam kết với nhau, với các “thỏa thuận” cũ được duyệt xét, sửa đổi, bất cứ người nào có suy nghĩ cũng phải tự hỏi làm sao họ “thỏa thuận” với nhau nhanh chóng như vậy? Xin kể ra mấy bản văn mới ký: Một “Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc Phòng hai nước Việt Nam-Trung Quốc;” một “Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc;” một “Thỏa thuận giữa Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển.” Lại thêm, “Thỏa thuận giữa Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Tổng Cục Giám Sát Chất Lượng, Kiểm Nghiệm, Kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu;” “Ðiều lệ công tác của ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc;” “Bản ghi nhớ giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc về việc thành lập trung tâm văn hóa tại hai nước;” “Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2013-2017 giữa liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc;” “Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập Ðoàn Dầu Khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới vịnh Bắc bộ;” đặc biệt còn có một bản “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc;” và nhiều thỏa hiệp hợp tác kinh tế khác. Tất cả đều được ký kết trong chuyến thăm trong ba ngày.
Trong trường bang giao quốc tế, ít có hai quốc gia nào lại ký kết với nhau, cùng một lúc, nhiều văn kiện “hợp tác” bao trùm đủ các lãnh vực sinh hoạt của quốc dân như vậy. Hai nước Canada và Mỹ đã sống bên cạnh nhau một cách hòa bình hơn hai thế kỷ, kinh tế, quốc phòng, ngoại giao lãnh vực nào cũng hợp tác với nhau. Nhưng họ cũng chưa bao giờ ký kết cùng một lúc nhiều thứ cam kết ràng buộc nhau, sau ba ngày thăm viếng như vậy!
Phải nhấn mạnh đến các điều liên quan đến quân đội, vì quân đội nước nào cũng là lực lượng bảo vệ quốc gia. Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang ký kết, hứa hẹn với nhau sẽ “...làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước... đi sâu trao đổi kinh nghiệm công tác đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ.” Chúng ta phải chú ý tới việc “đào tạo cán bộ” trong quân đội, đặc biệt về “công tác đảng” và “chính trị,” nghĩa là giáo dục, đào tạo não bộ của các sĩ quan trong quân đội. Theo tinh thần những cam kết này, chúng ta có thể thấy tái diễn cảnh “rèn cán chỉnh quân” mà Hồ Chí Minh đã đem vào Việt Nam trong thời kháng chiến chống Pháp: Việc huấn luyện chính trị và nhồi sọ lý thuyết Mác Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Ðông cho các sĩ quan trẻ Việt Nam có thể sẽ được đặt dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Cộng; hoặc đưa họ sang Trung Quốc thụ huấn các giáo điều tương tự! Chính trong các đợt “rèn cán chỉnh quân” bắt đầu từ những năm 1950, sau khi Hồ Chí Minh đưa tư tưởng Mao Trạch Ðông lên hàng lý thuyết chỉ đạo cho đảng Lao Ðộng, mà rất nhiều sĩ quan trẻ tài ba đã bị nghi kỵ, bị hạ tầng công tác, nhường chỗ cho thành phần bần cố nông được các cố vấn Trung Cộng chấp thuận.
Tuy việc nhồi sọ các cán bộ trong quân đội là điều đáng lo ngại nhất, nhưng bản Tuyên bố chung của Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang còn mở rộng chương trình “đồng hóa” về tư tưởng, về lý luận bao trùm hầu hết các lãnh vực khác, không giới hạn trong quân đội. Họ ký kết như sau: “Hai bên... nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai ban đối ngoại và ban tuyên giáo, tuyên truyền của hai đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo cán bộ đảng và nhà nước. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ, cùng nhau tổ chức tốt hội thảo lý luận hai đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa trao đổi kinh nghiệm về xây dựng đảng và quản lý đất nước... ở mỗi nước.”
Ðọc những lời cam kết bao gồm đủ các lãnh vực từ quân sự đến “đào tạo cán bộ đảng và nhà nước,” đến “Ðối ngoại, Tuyên giáo, Tuyên truyền” như trên, chúng ta cảm thấy có một “âm mưu đồng hóa” của đảng Cộng Sản Trung Quốc; mà họ đang được đảng Cộng Sản Việt Nam tích cực ủng hộ để thi hành. Chưa kể tới những cam kết giữa hai đảng cộng sản khi nhắc tới các tranh chấp đang xảy ra trên biển Ðông; sẽ bàn trong mục này vào dịp khác.
Nhà báo Bùi Tín cũng nhận thấy: “Ðọc kỹ các văn bản, có cảm giác như Việt Nam đã hội nhập vào trong lòng Trung Quốc. Tuy hai mà một. Hòa nhập triệt để về mọi mặt, đặc biệt là về quốc phòng, về đối ngoại, về an ninh, trị an xã hội, về đảng, nhà nước, về quân đội, về công tác đảng, bảo vệ đảng, bảo vệ quân đội.”
Có thể nói, Cộng Sản Việt Nam đang tiếp tục đưa cả nước chui đầu vào trong cái thòng lọng do Trung Cộng đưa ra. Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ giải thích sự hợp tác mật thiết giữa hai đảng cộng sản hiện nay đã “xuất phát từ ý thức nô lệ của ông Hồ Chí Minh khi ông làm bài thơ tuyên truyền ‘Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ’ (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình) đưa đăng trên báo Cộng Sản Tàu Cứu Vong Nhật Báo năm 1940 tại Quế Lâm.” Chúng ta thông cảm với Hòa Thượng Quảng Ðộ khi ngài viết: “Người con Phật không thể khoanh tay đứng ngó hay chỉ thắp hương cầu nguyện, mà phải đem từng biệt nghiệp chuyển hóa cộng nghiệp ác hành.”
Hơn tám mươi triệu người Việt Nam cũng không thể chỉ “khoanh tay đứng ngó hay chỉ thắp hương cầu nguyện!”
Ngô Nhân Dụng
(Người Việt)

Việt Nam vẫn chỉ chống tham nhũng bằng miệng

Các vụ án tham nhũng “chưa tương xứng với tình hình” là nhận định của nhiều người trong buổi hội thảo về thực trạng và các giải pháp chống tham nhũng, do Thanh tra Chính phủ CSVN tổ chức.
Trong hội thảo vừa kể hồi tuần qua, tất cả mọi người đồng ý rằng, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở tất cả các cấp, các ngành với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm dân chúng mất lòng tin vào chính quyền.
Ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam, thừa nhận, chủ trương, chính sách, việc áp dụng quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa sát thực tiễn, thiếu hiệu quả. Số vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý còn thấp, chưa tương xứng với tình hình.
Tuy phát giác nhiều vi phạm về kinh tế nhưng thanh tra, kiểm toán còn lúng túng khi xác định hành vi tham nhũng nên xử lý hình sự ít. Việc xét xử các bị cáo tham nhũng chưa nghiêm, hình phạt nhẹ, số bị cáo được hưởng án treo chiếm đến 45%. Chưa kể, số trường hợp bị can phạm các tội tham nhũng được đình chỉ điều tra hoặc miễn trách nhiệm hình sự lên tới gần 30%.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Việt Nam minh họa thêm về chuyện Việt Nam vẫn đang chống tham nhũng bằng miệng: Năm 2012, số lượng bị can trong các vụ án tham nhũng được Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định đình chỉ điều tra cao gấp ba lần so với các địa phương. Đáng nói là trong nhiều năm qua, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu phải xem lại, phải giải thích rõ ràng về thực trạng phổ biến này nhưng “mèo vẫn hoàn mèo”.
Tòa án thành phố Hải Phòng xử sơ thẩm vụ án “cố ý làm trái” tại Vinashin tháng 3 năm 2012. Tham nhũng tràn lan nhưng số vụ án về tham nhũng luôn luôn rất thấp. (Hình: Thông tấn xã CSVN)
Một thực tế khác liên quan đến chống tham nhũng tại Việt Nam, đã kéo dài nhiều năm nhưng vẫn nguyên vẹn như cũ là chuyện “tự phát hiện tham nhũng trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị còn rất hạn chế”.
Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, cho rằng, chính quy định “người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm và xử lý khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách”  khiến lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị không làm gì hết bởi “sợ ảnh hưởng đến uy  tín, phải chịu trách nhiệm cá nhân và ảnh hưởng tới khả năng thăng tiến của họ”.
Tham nhũng tràn lan còn vì việc thực hiện yêu cầu “công khai, minh bạch” trong các cơ quan, đơn vị còn hình thức, đối phó. Trách nhiệm của người đứng đầu ở nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị còn nặng về hình thức.
Nhiều người đề nghị, muốn chống tham nhũng có hiệu quả thì phải xử người đứng đầu. Mặt khác, cần sửa đổi luật Hình sự, xác định rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những tội phạm liên quan tới tham nhũng. Định nghĩa rõ hơn về các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “rất lớn”, “thu lợi bất chính lớn” trong các tội phạm về kinh tế, chức vụ và tham nhũng. Phân định rành mạch thẩm quyền hành chính và quyền hạn tố tụng.
Thanh tra Chính phủ Việt Nam cho biết, mỗi năm, trung bình chỉ có 282 vụ án tham nhũng và 600 bị can được điều tra, truy tố, xét xử. Trong khi đó, kết quả cuộc khảo sát mới nhất về quan điểm và trải nghiệm của dân chúng đối với tình trạng tham nhũng, do Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) vừa thực hiện tại Việt Nam, cho thấy, 55% dân chúng tin rằng, tham nhũng tại Việt Nam chỉ tăng chứ không giảm.
Cũng theo kết quả từ cuộc khảo sát này, sự bi quan của dân chúng Việt Nam về thực trạng tham nhũng, đang đứng hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á. Niềm tin của những người được khảo sát về hiệu quả của các nỗ lực chống tham nhũng từ phía nhà cầm quyền CSVN chỉ đạt tỷ lệ 24%, thua Thái Lan (25%), Malaysia (31%), Philippines (41%) và Campuchia (57%).
Một điểm đặc biệt khác từ kết quả cuộc khảo sát về quan điểm và trải nghiệm của dân chúng đối với tình trạng tham nhũng tại Việt Nam, do Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố là tỷ lệ dân chúng Việt Nam muốn trực tiếp tham gia đấu tranh chống tham nhũng hiện thấp nhất khu vực Đông Nam Á
(Người Việt)

Cuộc so găng lịch sử (Phần 3)

Nhắc đến ông Ba, dân Việt có những ấn tượng khác nhau, đi từ ngạc nhiên này đến sửng sốt khác, nhưng hầu như đều có chung cảm tưởng: Đây là con người kì la, rồi bật ra câu hỏi: Ông là ai mà từng bước, từng chặng’’đi tới đỉnh vinh quang’’ khiến chính trường và đất nước VN xao động… có lúc chao đảo?

Muốn biết cặn kẽ quá khứ ông, đã có từ điển điện tử Wikipedia, chúng ta chỉ tìm hiểu trong vòng 10 năm (gần 2 nhiệm kì Thủ Tướng), những kết qủa ông đã tạo ra và hậu quả ông để lại.

Phe chống đối vẫn thường’’rêu rao’’: Bước vào chính trường rồi bắt tay điều hành guồng máy lãnh đạo đất nước, ông Ba thuộc giới ’’chân đất’’,’’văn hóa tiểu học’’. Thế mà, không thể phủ nhận dưới thời ông, ’’trị vì’’, đất nước đã có được một số thành tựu làm bộ mặt Việt Nam thay đổi trên trường quốc tế và khu vực.

Diễn giải minh họa cho nhận định này, hệ thống truyền thông do ông thiết lập đã làm, bài viết này không cần nhắc lại… Nhiều chuyện’’kinh thiên động địa’’ được ông tạo ra, đem so với các vị TT tiền nhiệm có thể nói chưa ai’’sánh kịp’’ ông!

Chỉ chọn vài ba sư kiện để khảo sát:

1 – Tại sao ông lại để cho Tham Nhũng (TN) tràn lan, phát triển, dẫn đến thất thoát khối tài sản khổng lồ của nhân dân, của đất nước (…), khi ông trong lễ nhậm chức hùng hồn tuyên bố trước quốc dân đồng bào: Sẵn sàng từ chức nếu không chống được Tham Nhũng!

Trên thực tế, hơn 7 năm cầm quyền (TT, Trưởng ban Chống Tham NhũngTW), Tham Nhũng như ’’con bạch tuộc thành tinh’’ có bộ vòi ma quái, len lỏi vào mọi ngóc ngách trên thân thể con mồi là đất nước Việt Nam, dùng xúc tu hút hết sinh khí con mồi bị quấn chặt: Chỉ mấy vu VINA… Tầu biển, VINA Than, Điện… công quỹ đã mất hơn chục tỉ USD (hơn chục phần trăm GDP một năm của đất nước). Điều tiếp theo còn khủng khiếp hơn : Gần 250 triệu tỉ VNĐ – hơn 100 tỉ USD – ông giao cho’’tay thủ quỹ bất hảo’’ giũ chia khóa két, thế mà chẳng hiểu sao gã kia lại được mở két ’’vô tội vạ, vung xích chó’’‚ rút tiền (…) cho những đầu nậu núp dưới những cái vỏ bọc Doanh nghiệp, vay, chiếm dụng vốn, để hôm nay trở thành’’núi’’ NỢ XẤU, KHÓ ĐÒI, có cơ vỡ toác khiến kẻ vay ăn quỵt, chủ nợ – nhà nước và nhân dân – có cơ mất trắng.
thu-tuong-chinh-phu-nguyen-tan-dung-1

2 . Khi ông làm Trưởng ban chống tham nhũng TƯ, lại là Thủ Tướng, UVBCT – một trong’’Tứ trụ triều đình’’ – đã cất lời hứa hẹn trước nhân dân, trước tiền nhân, trước vong linh của tổ tiên – lời hứa của chính khách, người công dân số 1 của đất nước, trước gần 90 triệu người , lẽ nào ông lai để Tham Nhũng cứ trơ lì và phát triển trong khi ông vẫn an tọa nhìn ’’con bạch tuộc thành tinh’’ hoành hành mà không hề ngăn cản (…), thậm chí không đả động đến 2 tiếng – Từ chức!?

3 – Dưới thời ông ’’trị vì’’, việc bắt bớ, đàn áp những người bất đồng chính kiến – những người con trung kiên, không sợ tù đầy dám lên tiếng can ngăn – ông lại cho thuộc hạ đàn áp bằng những bản án rất nặng… khiến nhân dân nước mình cảm thấy ngột ngạt như đang sống dưới thời Thực dân Pháp thống trị cách đây gần ¾ thế kỉ, dư luận thế giới ngạc nhiên trước quốc gia ông đang lãnh đạo, tồn tại ở thòi đại Toàn cầu hóa, lại dùng chính sách’’trị quốc an dân’’ bằng dùi cui, bằng sư hà khắc quái gở! ’’Thành tựu’’ ông đạt được, hơn hẳn bất cứ các TT tiền nhiệm khác trong quá khứ.

Vân vân và v…v…

Cho dù ông có một giàn’’đệ tử ruột’’ hết lòng ủng hộ, bảo vệ nên vẫn ung dung tại vị’’làm đất nước nghèo, hèn đi, nhân dân cực khổ chất chồng’’ – thế mà ông không cảnh tỉnh, vẫn muốn lên cao nữa để thâu tóm quyền lực. Phải chăng, đất nước như thế này – với bao tai họa do ông lãnh đạo (…) – vẫn chưa thức tỉnh, chưa làm vừa lòng ông hay sao?
Ông có thể tiếp tục thoát hiểm qua đại hội giữa nhiệm kì, cho tới hết nhiệm kì ĐH XI, thậm chí leo tiếp ở nhiệm kì ĐH XII, nhưng sau đó vẫn phải rời bỏ quyền lực và …’’lên đường theo tổ tiên’’. Lúc đó guồng máy của lịch sử Việt đương đại, dân tộc VN sẽ rà soát rồi đánh gia về ông một cách nghiêm khắc!

Tổ tiên ta có câu cảnh báo: Nợ cha con trả! Không một ai vay mà quỵt được nợ lịch sử của dân tộc. Nhiều nhân vật điển hình của lịch sử đã phải trả’’khoản vay’’ mà họ đã vay trong quá khứ, trả đời đời, kiếp kiếp…

Nói đi cũng phải nói lại: Có một phần lí do ông phải bó tay vì cái mô hình tổ chúc nhà nước này do’’Đảng lãnh đạo’’. Mọi sai lầm của ông đều bắt nguồn từ chính sách đảng trị. Mà đảng là số đông! Cái gì họ cũng muốn ’’dúng’’ vào , quyết sách nhưng không có ai chịu trách nhiêm cụ thể. Nếu nhìn vào các khuôn mặt trên chính trường VN hiện nay, chưa có nhân vật nào ’’Anh hoa phát tiết ra’’ so vói ông Ba.

Nếu ở cương vị ông, một trong các khuôn mặt kia có khi làm còn tồi hơn ông (…). Từ đó rút ra: Ông là người xứng đáng ngồi vào ghế Tổng Thống hơn ai hết nếu tự lột xác, phá bỏ cái công thức’’Đảng lãnh đạo’’ thay đổi thể chế chính trị để trỏ thành’’Vua mới’’ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Chủ tịch nước kiêm TBT) rồi thực thi các tiêu chí tiên bộ của nhà nước pháp quyền, như các nước dân chủ phát triển Âu – Mỹ:

Dân tộc Việt Nam thực sự đươc hưởng quyên Dân Chủ – Tự Do – Nhân Quyền phổ quát, triệt để.

Đất nước phát triển bền vững, toàn vẹn lãnh thổ, giầu mạnh.
Nhân dân ấm no hạnh phúc sống trong tình’’Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng’’!

Để có thể gây được lòng tin cho nhân dân, trực tiếp chứng minh với đối thủ và xin Lịch sử Dân tộc, đưa đất nước bứt phá, tiến lên, ông hãy bắt tay thay đổi một số chính sách, phong cách lãnh đạo… Tiền ông kiếm được như vậy là quá đủ rồi, không thể mang theo được xuống mồ. Quyền lực – đã lên đến tột đỉnh… vậy thì hãy ’’cho dân’’ những thứ ’phi vật thể’’ – Tự do – Dân chủ – Nhân quyền – Bác ái, niệm khao khát ngàn đời của nhân loại!

Việc trước hết phải làm là:

1 – Thu xếp tàn cuộc của ’’nơ xấu, khó đòi’’, trừng phạt thich đáng đám tham nhũng trong guồng máy Đảng và Nhà nước, lôi cổ nhưng’’con sâu bự’’ ra trước vành móng ngựa…

2 – Thay đổi cách trị quốc an dân hiện hành bằng chính sách cởi mở, nhân ái, dân chủ, tự do. Rà soát lại những cái án gán cho những con dân mà vì lòng hăng hái muốn đất nước tiến bộ thể hiện qua các bài viết trên các trang Nhật kí điện tử, các bài nói, các hành động mang tính phản biện nghiêm túc trước chính sách có nhiều sai lầm… bị ông cho thuộc cấp gán tội, đầy đọa, giam giữ!

3 – Thả dần, thả hết tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm – đại xá thiên hạ như Tổng thống nước Miến Điện đã làm và gặt hái được vinh quang!

4 – Sửa đổi, bổ sung những khiếm khuyết vào bản Hiến Pháp….

Thay đổi thể chế chính trị từ độc đảng cộng sản (CHXHCN) sang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đa nguyên, thực hiện Tam quyền Phân lập, đại nghị, Dân chủ hóa triệt để.
Nếu ông Ba làm được như vậy nhân dân VN sẽ vui mừng, chấm dứt mọi bất mãn, thay đổi ấn tượng bằng sự vinh danh: Lịch sử sẽ ghi vào trang mới công lao to lớn của ông, sẽ đúc tượng vàng, con cháu ông đêm đêm, đời đời sẽ ’’kê cao gối’’ mà ngủ ngon giấc, ngày ngày tha hồ tiêu xài món của cải ông để lại mà không sợ ai dòm ngó, dị nghị !…

Nếu ông làm được chỉ một điều thứ 4 trên đây, tức là ông đã trả xong món nợ đời, ông sẽ đàng hoàng đi lên, bước vào ngôi vị tột đỉnh vinh quang: Tổng thống nước Việt Nam – Dân Chủ – Cộng Hòa, với một chế độ tiến bộ tuy ’’Cũ’’ người, nhưng’’Mới’’ ta !…

Lúc đó, toàn dân tộc sẽ hết lòng ủng hộ, bao dung, chấp nhận – ông!

1.7.2013

Nhiếp Vĩnh Trang
© Đàn Chim Việt

Ủy ban Kiểm tra T.Ư yêu cầu kỷ luật hàng loạt cán bộ

Từ ngày 2 đến 11.7.2013, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra T.Ư khóa XI (UBKTTƯ) đã họp kỳ thứ 20. UBKTTƯ đã xem xét, quyết định và đề nghị thi hành kỷ luật đối với một số cán bộ cao cấp.
Tại kỳ họp này, UBKTTƯ đã xem xét, kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng UBND tỉnh và ông Nguyễn Trung Hiếu-Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng. Theo đó, Ban cán sự đảng UBND tỉnh Sóc Trăng chậm xây dựng, bổ sung quy chế làm việc của Ban cán sự đảng UBND tỉnh sau mỗi nhiệm kỳ; tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy chưa kịp thời; lãnh đạo việc phân công nhiệm vụ còn chồng chéo. Trong việc chấp thuận chủ trương cho Công ty Satraco đầu tư xây dựng nhà hàng, khách sạn, khu du lịch gần chùa Dơi, Ban cán sự đảng chưa lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh lập hồ sơ di tích theo quy định của Luật Di sản văn hóa; chưa xin ý kiến Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch và không báo cáo với Ban Thường vụ Tỉnh ủy là vi phạm quy chế làm việc của Tỉnh ủy.
Nhiều dự án đầu tư chậm triển khai dẫn đến tình trạng đất để hoang (ảnh chụp trong KCN Quế Võ, Bắc Ninh).
Nhiều dự án đầu tư chậm triển khai dẫn đến tình trạng đất để hoang (ảnh chụp trong KCN Quế Võ, Bắc Ninh).
Ông Nguyễn Trung Hiếu chưa chỉ đạo Ban cán sự đảng UBND tỉnh kịp thời xây dựng và bổ sung quy chế làm việc của Ban cán sự đảng và của UBND tỉnh; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nội bộ UBND tỉnh; vi phạm quy chế làm việc của Tỉnh ủy trong việc cho chủ trương đầu tư dự án khu du lịch, nhà hàng, khách sạn gần chùa Dơi; thiếu kiểm tra, để xảy ra sai phạm trong việc thực hiện dự án, gây dự luận xấu; cho ý kiến về việc xử lý vi phạm khai thác cát trái phép không đúng thẩm quyền… UBKTTƯ yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sóc Trăng chỉ đạo Ban cán sự đảng UBND tỉnh và ông Nguyễn Trung Hiếu, những tổ chức, cá nhân có liên quan nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm về những khuyết điểm, vi phạm nêu trên.
UBKTTƯ yêu cầu ông Hà Hùng Cường-Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, kiểm điểm rút kinh nghiệm trước Ban cán sự đảng về việc ký quyết định bổ nhiệm một cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận không đúng quy định. UBKTTƯ yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận tổ chức kiểm điểm các ông: Huỳnh Tấn Thành-nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận; Võ Duy Quang-Tỉnh ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, nguyên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh do liên quan đến vụ việc trên.
Tại kỳ họp, UBKTTƯ cũng đã xem xét, quyết định và đề nghị thi hành kỷ luật đối với một số đảng viên. UBKTTƯ đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật ông Nguyễn Đình Nhương- nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Huyện ủy, nguyên Chủ tịch HĐND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 2003 - 2010, với trách nhiệm là Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện, ông Nhương đã vi phạm nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng đất, nhất là trong việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; thiếu kiểm tra, đôn đốc để tình trạng vi phạm Luật Đất đai không được khắc phục; vi phạm trong công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính, ngân sách huyện; buông lỏng công tác quản lý đầu tư xây dựng.
UBKTTƯ đã xem xét, xử lý kỷ luật đối với các ông: Nguyễn Huy Dự- Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP.Điện Biên Phủ; Nguyễn Đức Đuyện- Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch UBND TP.Điện Biên Phủ; Nguyễn Quang Sáng-Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên, nguyên Chủ tịch UBND TP.Điện Biên Phủ. UBKTTƯ quyết định thi hành kỷ luật 3 cán bộ trên bằng hình thức khiển trách, vì đã vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai. UBKTTƯ cũng thống nhất đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật cách chức Tỉnh ủy viên đối với ông Đào Tấn Nguyên- Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Phú Yên; thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông Nguyễn Thành Tẩm-Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Thông tin-Truyền thông, nguyên Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP.Trà Vinh.
(TTXVN)
 

Tổng Bí thư: "Không chịu nhận khuyết điểm thì mới kỷ luật"

(haixz, chả muốn bình loạn nữa........)

"Dư luận vẫn còn không ít băn khoăn cho rằng bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình vừa qua như "hòa cả làng"..., thậm chí có tâm tư, tâm trạng chưa hài lòng, cho rằng "không thành công" vì không kỷ luật được ai."
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chia sẻ như vậy trong cuộc trả lời phỏng vấn TTXVN nhân dịp Xuân Quý Tỵ 2013.

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

- Thưa Tổng Bí thư, năm 2012 đã đi qua với rất nhiều khó khăn, thách thức. Tổng Bí thư đánh giá như thế nào về những kết quả mà toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được trong năm qua?

- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Năm 2012 - năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI - Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, quyết sách nhằm định hướng giải quyết nhiều vấn đề lớn và hệ trọng của Đảng, của đất nước. Với sự nỗ lực phấn đấu to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đất nước ta đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; lạm phát được kiềm chế thành công ở mức một con số (6,81% so với 18,13% năm 2011); tăng trưởng GDP đạt trên 5%.

Lần đầu tiên Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu kỷ lục - gần 115 tỷ USD; vươn lên đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, với gần 8 triệu tấn. Dự trữ ngoại hối cao nhất từ trước tới nay, tỷ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam được nâng lên, an sinh xã hội được bảo đảm, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 1.500 USD/người/năm.

Trong bối cảnh khó khăn chung, Việt Nam vẫn huy động trên 13 tỷ USD vốn FDI, gần 6,5 tỷ vốn ODA, cho thấy niềm tin và sự ủng hộ của các nhà đầu tư, các đối tác đối với tiến trình phát triển của Việt Nam.

Du lịch được coi là một điểm sáng, đã đón hơn 6,8 triê%3ḅu lượt khách quốc tế, 32,5 triê%3ḅu lượt khách nô%3ḅi địa, tổng thu đạt khoảng 160.000 tỷ đồng.

Năm 2012, phong trào xây dựng nông thôn mới, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng được triển khai sâu rộng với tinh thần nghiêm túc, cầu thị và xây dựng, đã mang lại những kết quả bước đầu quan trọng . Không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội tiếp tục được phát huy.

Bên cạnh đó, công tác đối ngoại được triển khai sâu rộng, với tinh thần chủ động, tích cực và hiệu quả, cả trên bình diện song phương và đa phương; cả đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, qua đó tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi giữa Việt Nam với các nước, củng cố và nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, phải nói rằng, năm 2012 là một năm đầy khó khăn. Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đã tác động bất lợi đến công cuộc xây dựng, phát triển của nước ta.

Ở trong nước, nền kinh tế bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém; kinh tế vĩ mô chưa ổn định vững chắc; lãi suất tín dụng vẫn còn cao; nợ xấu, hàng tồn kho lớn; thị trường bất động sản đóng băng. Hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hàng loạt doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động… đã tác động tiêu cực đến công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đối tượng người nghèo, người lao động có thu nhập thấp rất khó khăn; chênh lệch giàu-nghèo gia tăng. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội; tình trạng ô nhiễm môi trường, vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, tai nạn giao thông vẫn đáng lo ngại. Vấn đề Biển Đông diễn ra phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tìm mọi cách chống phá Đảng, Nhà nước ta, nhằm gây mất ổn định chính trị-xã hội và đe dọa chủ quyền, an ninh quốc gia.

- Gần đây, trong các văn bản, nghị quyết của Trung ương, trong phát biểu của Tổng Bí thư tại các diễn đàn hội nghị, các cuộc làm việc, cụm từ "tái cơ cấu," "đổi mới mô hình tăng trưởng" thường được nhấn mạnh. Phải chăng đây là một tư tưởng mới của Đảng ta trong đường lối phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xin Tổng Bí thư chia sẻ thêm về vấn đề này?

- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một nội dung tư tưởng mới, có ý nghĩa xuyên suốt của Nghị quyết Đại hội XI là đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, giải quyết hài hòa hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội, trong đó, cần chú ý ba trụ cột: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tập trung giải quyết 3 khâu đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trải qua 6 kỳ Hội nghị Trung ương, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, đề ra những chủ trương lớn về nhiều vấn đề, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội đất nước, trong đó đều nhấn mạnh mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, thực hiện tốt các chính sách xã hội, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục-đào tạo; sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển khoa học và công nghệ, tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái... đó là vì sự phát triển bền vững. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng... chính là vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, sự phát triển bền vững của đất nước.

Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là một nhiệm vụ lớn và phức tạp, cần được triển khai thực hiện đồng bộ ở các ngành, các lĩnh vực, trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, đơn vị cơ sở. Trước mắt, tập trung ưu tiên tái cấu trúc ba lĩnh vực đặc biệt quan trọng là đầu tư công; hệ thống ngân hàng thương mại và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Qua làm việc, tiếp xúc, lắng nghe các ý kiến đóng góp, phản hồi, có thể thấy cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đều đồng tình, đánh giá cao, cho rằng Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết rất "đúng," rất "trúng," vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện ra sao, kết quả đến đâu, có tạo được chuyển biến thực sự trên thực tế hay không. Đi làm việc các nơi, tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần, để nghị quyết đi vào cuộc sống, mỗi bộ, ngành, địa phương, đơn vị cần nắm chắc nội dung, tinh thần nghị quyết, vận dụng sáng tạo vào thực tế tại địa phương, đơn vị, xác định mục tiêu ưu tiên trong từng giai đoạn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường kỷ luật kỷ cương trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng.

Càng đi xuống cơ sở càng thấy rõ, sự năng động, sáng tạo của cán bộ, nhất là người đứng đầu, có vai trò rất quan trọng. Như xã Phú Hiệp, huyện Tam Nông, một xã thuộc diện khó khăn ở vùng sâu Đồng Tháp Mười, nhưng đã rất thành công với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh nhờ biết vận dụng những tiêu chí phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương.

Hay xã Trạm Tấu, một trong 10 xã vùng cao của huyện Trạm Tấu - huyện đặc biệt khó khăn nằm ở phía Tây của tỉnh Yên Bái, có hơn 80% diện tích là đất rừng, đất lâm nghiệp, nhưng không để xảy ra cháy rừng; 97% dân số là đồng bào Mông nhưng bà con đã thực hiện định canh định cư. Đảng ủy, chính quyền xã đã thành công trong việc vận động người dân có đất, hiến đất cho người thiếu đất, nhờ vậy 100% số hộ trong xã đều có đủ đất sản xuất.

Nhưng ở xã Quảng Tâm, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông, nơi có điều kiện đất đai, khí hậu rất thuận lợi cho phát triển các cây công nghiệp giá trị kinh tế cao, thì tỷ lệ hộ nghèo vẫn trên 40%, tình trạng phá rừng, xâm canh xâm cư vẫn diễn biến phức tạp...

- Sau gần một năm thực hiện, Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã có sức lan tỏa sâu rộng, dù còn có ý kiến cho rằng việc thực hiện Nghị quyết chưa mang lại kết quả như mong muốn. Là người thiết kế và đã dành nhiều tâm huyết cho công việc này, xin Tổng Bí thư cho biết cần phải làm gì để Nghị quyết tiếp tục được triển khai quyết liệt và hiệu quả?

- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Trong lịch sử, đây không phải lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết về xây dựng Đảng. Nhưng ngay từ khi ra đời, Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng đã thu hút sự quan tâm, đồng tình hưởng ứng của tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, cho rằng Đảng ta đã bắt trúng bệnh và bốc đúng thuốc. Bản thân tiêu đề "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã nói lên tính thời sự, cấp bách của việc ban hành Nghị quyết này.

Bước vào kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhiều vấn đề mới đang đặt ra, cả về lý luận và thực tiễn. Trong khi đó, công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên còn những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm đáng lo ngại, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên... Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng đã chỉ rõ ba vấn đề cấp bách, bốn nhóm giải pháp cần làm ngay để xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về tư tưởng, tổ chức và cán bộ.

Sau gần một năm triển khai, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã được tiến hành từ cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng đến từng đảng viên, trở thành đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, dư luận vẫn còn không ít băn khoăn cho rằng bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình vừa qua như "hòa cả làng," chẳng biết bộ phận không nhỏ (tham nhũng, biến chất...) nằm ở đâu, thậm chí có tâm tư, tâm trạng chưa hài lòng, cho rằng "không thành công" vì không kỷ luật được ai.

Đằng sau sự quan tâm và nỗi băn khoăn đó, có thể cảm nhận nhân dân trông đợi và kỳ vọng nhiều lắm, yêu cầu, đòi hỏi cao lắm và trách nhiệm chính trị của Đảng lớn lắm. Cần nhận thức rõ rằng Nghị quyết này với yêu cầu trước mắt chủ yếu là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn, nếu ai không chịu nhận khuyết điểm, không chịu sửa thì mới kỷ luật, xử lý.

Vả lại, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 không phải chỉ có kiểm điểm tự phê bình và phê bình mà còn một loạt biện pháp, giải pháp về cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, chế độ sinh hoạt, cơ chế giám sát , công tác giáo dục...

Có thể dễ dàng nhận thấy, các nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 đang được triển khai thực hiện rất khẩn trương và nghiêm túc. Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã ban hành một loạt nghị quyết, kết luận, quy định quan trọng về giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên; sự gương mẫu của người đứng đầu; về xây dựng quy hoạch cán bộ cấp Trung ương... , đã lập lại Ban Nội chính Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết; chấn chỉnh ngay một số khuyết điểm; đổi mới ngay một số lề lối, phong cách công tác; xử lý nghiêm một số cán bộ có sai phạm ở các cấp...

Tinh thần Nghị quyết cũng đã lan tỏa sâu rộng trong hoạt động của toàn hệ thống chính trị, phả vào hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng thành luật pháp, chính sách, thành các chương trình hành động cụ thể.

Mới đây nhất, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thông qua nhiều luật, nghị quyết quan trọng, đáng chú ý là Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi), Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

Hà Nội đã đi đầu cả nước, thí điểm thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy và đối với lãnh đạo một số sở, ngành thành phố ngay từ đầu năm 2013. Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động nhằm tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó xác định các nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao chất lượng thực thi công vụ; đề cao và phát huy vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí... Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra đều đang tích cực vào cuộc. Nhiều địa phương đã có chương trình, kế hoạch sửa chữa ngay một số khuyết điểm, khắc phục sớm một số yếu kém...

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất khó khăn, phức tạp; đó là cuộc đấu tranh cam go ngay trong mỗi con người, mỗi tổ chức, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người.

Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, bình tĩnh, tỉnh táo. Mỗi cá nhân tốt thì tổ chức sẽ tốt, mỗi tổ chức tốt thì Đảng ta sẽ mạnh, mà Đảng vững mạnh thì dân tộc ta sẽ mãi trường tồn.

- Nhân dịp Xuân mới Quý Tỵ 2013, Tổng Bí thư có điều gì nhắn gửi tới đồng bào, chiến sỹ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài?

- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Năm 2013, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu đã đạt được, dự báo tình hình thế giới cũng như ở trong nước sẽ còn tiếp tục khó khăn. Tôi mong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta hãy vững một niềm tin, đồng lòng nhất trí, quyết tâm đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục những bước phát triển vững chắc. Mỗi gia đình, mỗi người dân Việt Nam có một năm mới nhiều niềm vui, hạnh phúc và thành công. Từ niềm vui nhỏ sẽ nhân nên niềm vui lớn, từ thành công nhỏ sẽ làm nên thành công lớn của đất nước, dân tộc.

- Xin trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư.
(Kiến thức)

Trung Quốc muốn Nguyễn Tấn Dũng phải ra đi.

Trong bài “Chỉnh đảng, âm mưu gì của Nguyễn Phú Trọng, Trung Quốc” xuất bản đầu tháng 3/2012, khi chỉnh đảng mới nhen nhóm, khi vẫn chưa ai hiểu thực chất của chỉnh đảng là gì, tôi đã đưa ra nhận định:
Chỉnh đảng nhằm “…sắp xếp lại lực lượng, chuẩn bị đưa các nhân vật là “bạn” của Trung Quốc, là phe cánh của Nguyễn Phú Trọng lên nắm các vị trí then chốt của nhà nước Việt Nam… Then chốt nhất, đứng sau các sắp xếp nhân sự của ĐCS VN, lại là ý đồ của Trung Quốc:
Đảm bảo Việt Nam là hậu thuẫn, là phên dậu, là thuộc quốc của Trung Quốc trong ván cờ toàn cầu mà Trung Quốc đang chơi với Hoa Kỳ.”/xem [1]/
Hôm nay, sau một năm rưỡi Nguyễn Phú Trọng tiến hành chỉnh đảng, lấy thời điểm chốt cuối cùng là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từ 19 đến 21/6/2013, tôi xin phân tích một số sự kiện và các nhân vật chính của chỉnh đảng để chứng minh cho nhận định vừa nêu ở đoạn trên.
Đến thời gian 7-8/2012, khi Bộ chính trị ĐCS VN tiến hành tự  kiểm điểm, không cần phải sử dụng suy diễn, hay phương pháp qui nạp, phương pháp loại trừ …,  thì những người quan tâm đến tình hình chính trị đã có thể nắm được mục đích chính của chỉnh đảng là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, qua chính những thông tin trên báo chí “lề đảng”.
Kết thúc của đợt kiểm điểm tại Bộ chính trị, sau đó phải dùng đến phiên họp toàn thể của Ban chấp hành trung ương tại hội nghị 6 để nhằm đánh đổ Thủ tướng là thất bại của Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang. Chính Tổng bí thư đã phải nước mắt cá sấu hòng gỡ lại chút thể diện của mình. Còn Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì đi rêu rao về 1 đồng chí X, một ngón đòn dưới thắt lưng.
1. Đánh đổ Thủ tướng là mục đích của cuộc phê và tự phê tại BCT ĐCS VN, là có lệnh từ Trung Quốc.
Mũi nhọn chĩa vào Nguyễn Tấn Dũng là cáo buộc công khai về Tham nhũng và Điều hành kinh tế kém.
Thế nhưng những lỗi mà Thủ tướng mắc phải về điều hành kinh tế hoàn toàn có thể đổ lỗi ngược trở lại lên BCT vì nguyên tắc cơ bản của BCT là điều hành tập thể.
Về cáo buộc Tham nhũng, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang không tìm ra được 1 bằng chứng đắt giá nào, mặc dù hậu thuẫn Tổng bí thư là Tổng cục 2 Bộ quốc phòng.
Thực ra buộc tội Thủ tướng tham nhũng và điều hành kém thì Thường trực Trương Tấn Sang đã làm trong Đại hội đảng cộng sản VN XI với vụ chìm xuồng Vinashin, nhưng không thành công.
Tuy ở thời gian tháng 4-5/2013, vụ Vinalines vỡ lở với kết luận thất thoát do lỗ và lãng phí trên 2000 tỷ đồng, nhưng trách nhiệm chung vẫn thuộc về BCT, thuộc về đường lối xây dựng những tập đoàn kinh tế khổng lồ do BCT đề ra.
Tại sao hôm nay họ lại lặp lại những cáo buộc này mặc dù trong tay vẫn chưa có bằng chứng cụ thể?
Ở đây ta phải sử dụng đến phương pháp phân tích và phải chú ý đến yếu tố Trung Quốc.
Cần nhắc lại rằng năm 2009, Trung Quốc đệ trình lên Liên Hợp Quốc bản đồ vẽ đường lưỡi bò trên Biển Đông. Cuối năm ấy, Đới Bỉnh Quốc tuyên bố đây là “lợi ích cốt lõi của Trung Quốc”.  Giới ngoại giao thế giới hiểu cụm từ này rằng: phần lãnh hải tại Biển Đông nằm trong  “Đường lưỡi bò” được coi là phần lãnh hải quan trọng đối với Trung Quốc như lãnh thổ Tây Tạng hay Tân Cương của Trung Quốc, nơi Trung Quốc vẫn coi là lợi ích cốt lõi của họ.
Việc Trung Quốc tuyên bố gần 80% lãnh hải Biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc đã gây nên  phản đối gắt gao của những nước Asean có lãnh hải bị đường 9 đoạn chồng lấn lên. Nhằm dành phần lợi cho mình trong các đàm phán tranh chấp, phía Trung Quốc chủ trương: chỉ đàm phán song phương giữa Trung Quốc và nước có lãnh hải bị xâm phạm.
Nếu tình hình tại Châu Á không xẩy ra  sự kiện  thay đổi chiến lược quay về Thái Bình Dương của Mỹ (Tuyên bố Hà Nội của Hillary Clinton 24/7/ 2010 tại Hà Nội), thì chắc chắn với ban lãnh đạo Việt Nam gồm Trọng, Sang, Dũng, Trung Quốc cũng không có yêu cầu gì hơn.
Trung Quốc muốn thắng thầu EPC thì họ dành được  90% các gói thầu.
Trung Quốc muốn đưa người vào các cánh rừng chiến lược của Việt Nam thì chính phủ Việt Nam cũng đã tạo điều kiện để họ được thuê các cánh rừng ấy.
Trung Quốc muốn đưa ô nhiễm môi trường và khống chế yết hầu Tây Nguyên, thì Bộ Chính Trị ĐCS VN cũng giở mọi thủ đoạn, như chia nhỏ dự án để tránh thông qua Quốc hội Việt Nam, để họ vào được Tây Nguyên.
Trung Quốc muốn không một người Việt Nam nào được ghét Trung Quốc, được công khai bầy tỏ sự bất bình trước xâm lăng của Trung Quốc thì Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha,…đều bị bắt vào tù, mặc dù hành vi của họ không cấu thành tội…
Việc Hoa Kỳ quay trở lại Châu Á-Thái Bình Dương là khởi nguồn chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Mỹ tại Biển Đông.
Tuyên bố Hà Nội Clinton có những nét cơ bản sau:
1. Hoa Kỳ có  lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải, trong tiếp cận mở đối với các không gian hàng hải quốc tế và với việc tôn trọng luật biển quốc tế của các nước có duyên hải với Biển Đông.
2. Hoa Kỳ ủng hộ, thúc đẩy các đàm phán đa phương để giải quyết các tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông.
3.  Hoa Kỳ thẳng thừng phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông.
Rõ ràng, Tuyên bố Hà Nội Clinton là một chiến lược ngoại giao nhằm chế ngự tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông.
Truyền thông thế giới đã mô tả sự hồ hởi của các nước Asean hoan nghênh Tuyên bố này.
Trung Quốc bị bất ngờ
Họ không ngờ Thủ tướng Việt Nam đi một nước cờ ngoại giao không nằm trong dự tính của họ. Hoa Kỳ tuyên bố một chiến lược ngoại giao nhằm chế ngự tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, ngay tại thủ đô của 1 quốc gia mà bấy lâu nay Trung Quốc đã coi là thuộc quốc của họ.
Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã tức sùi bọt mép, chỉ tay vào đại diện Singapore, lúc đó đang hoan nghênh Tuyên bố của bà Clinton, mà nói rằng: Các anh chỉ là 1 tiểu quốc, sau đó bỏ ra ngoài phòng họp. Sau Hội nghị Diễn đàn khu vực Asean lần thứ 17 này, đã có bàn luận công khai trên báo chí Trung Quốc về việc cách chức Dương Khiết Trì khỏi chức Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Nhưng sự dũng cảm của cặp đôi Nguyễn Tấn Dũng- Phạm Gia Khiêm vì lợi ích quốc gia Việt Nam, cũng phải trả giá. Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm đã bị mất nghế ủy viên TW  ĐCS VN tại đại hội đảng 11.
Còn nhiều sự kiện về vai trò của Thủ tướng trong việc phản đối chính sách bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, thí dụ như:
- Phát biểu của Thủ tướng tại Quốc hội Việt Nam 25/11/2011, khẳng định khúc chiết :
“… Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ Thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình.”
-  Cuộc họp báo 26/5/2011 của PVN về vụ cắt cáp tầu Bình Minh2  và cuộc họp báo 30/5/2011 của Bộ ngoại giao VN khẳng định viêc Trung Quốc ngang ngược cắt cáp tầu Bình Minh 2 trong hải phận EEZ của Việt Nam .
Do vậy,  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng không tránh được trả thù của Trung Quốc.
Đây chính là lý do Trung Quốc của Chỉnh đảng do Tổng bí thư ĐCS VN phát động tháng 2/1011.
Như vậy, Chỉnh đảng là đợt Trung Quốc trả thù Thủ tướng Dũng vì đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ triển khai 1 chiến lược kiềm chế bành trướng Trung Quốc tại Biển Đông, nhằm loại trừ Nguyễn Tấn Dũng qua bàn tay Nguyễn Phú Trọng với hậu thuẫn của 1 trang mạng mới lập, đây là ủng hộ cụ thể của Trung Quốc.
Trong cuộc chiến tranh dành ngôi vị bá chủ thế giới, Trung Quốc muốn có 1 thuộc quốc tin cậy, muốn có 1 phên dậu chắc chắn, muốn có 1 Việt Nam không có người chống lại chính sách của Trung Quốc.

Trung Quốc muốn Nguyễn Tấn Dũng phải ra đi.
bo tu

2. Chỉnh đảng tiến hành dựa theo mô hình mẫu của Cách mạng văn hóa vô sản do Mao phát động vào những năm 60-70 thế kỷ trước.
Mao che lấp mục đích thực sự của mình là đánh đổ tập đoàn cộng sản Lưu Thiếu Kỳ bằng kích động quần chúng tiến hành Cách mạng văn hóa vô sản, tiến hành cách mạng không ngừng chống sự trở lại của tư tưởng tư sản.
Chỉnh đảng che lấp mục đích đánh đổ Thủ tướng Dũng bằng khẩu hiệu chống tham nhũng nhằm xây dựng đảng.
Điểm khác là Mao dùng lực lượng hồng vệ binh đánh đổ chóp bu cộng sản đối địch với Mao, nhuộm ĐCS TQ từ hồng sang Chủ nghĩa đại hán bành trướng cực đoan, mà sau này Đặng Tiểu Bình là người kế tục trung thành tư tưởng bành trướng của Mao.
Chỉnh đảng do uy tín mỏng manh của Nguyễn Phú Trọng nên đấu đá diễn ra chủ yếu trong BCT ĐCS VN và chỉ xuống đến hội nghị TW 6 ĐCS VN là mất sinh khí. Nguyễn Phú Trọng đã không đánh đổ được Nguyễn Tấn Dũng, người có tư tưởng kháng Trung Quốc cao nhất trong BCT, người có xu hướng chính trị hướng về Hoa Kỳ rõ ràng nhất trong BCT. Nguyễn Phú Trọng đã thất bại.
3. Thủ tướng Dũng là người kích thích tính cạnh tranh của Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang.
Ta lấy ví dụ điển hình nhất làm chứng minh cho nhận định trên.
Ngày 24/11/2011, tại Quốc hội Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa. Phát biểu này có tính bản lề cho đối sách của Việt Nam với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ 14/9/1958, ngày Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa tới ngày 24/11/2011, không có 1 lãnh tụ cao cấp Việt Nam nào tuyên bố dõng dạc trước Quốc hội Việt Nam Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh hải thiêng liêng của Việt Nam.
Thủ tướng Việt Nam sau 11 cuộc xuống đường của nhân dân Hà Nội, Sài Gòn phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa, mùa hè 2011 đã hiểu rằng không được im lặng thêm nữa trước vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Sau phát biểu của Thủ tướng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng cũng ganh đua với Nguyễn Tấn Dũng trong thể hiện lòng “yêu nước” của mình.
Ông Sang thì làm 1 tua du lịch lên Thác Bản Giốc.
Còn Nguyễn Phú Trọng thì lắp bắp đôi điều đại ý: Chủ quyền quốc gia là rất quan trọng tại 1 số hội nghị.
4. Tuyên bố Shangri-La của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trong bài phát biểu tại Shangri-La ngày 31/05/2013, Thủ tướng Việt Nam đã đề cập đến một số vấn đề quan trọng, nhưng tôi lưu ý đến các dòng sau:
- “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”, nói về Trung Quốc.
- “Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung”.
- “Tôi cũng muốn đề cập trường hợp của Mi-an-ma như một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Mi-an-ma mà cho cả khu vực chúng ta”.
Những câu này không phải là nội dung quan trọng nhất của bài phát biểu, nhưng là những câu mà Chủ tịch Sang và Tổng bí thư Trọng không bao giờ nói được.
Kết luận.
Phát biểu Shangri-La của Thủ tướng Việt Nam đã làm Trung Quốc phật ý.
Ông Trương Tấn Sang vội vã sang Trung Quốc sau 19 ngày kết thúc Shangri-La.
Những ký kết của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Trung Quốc thực tế là dọn địa bàn, chuẩn bị cho Trung Quốc hoàn toàn chinh phục, thống trị Việt Nam. Đây là phiên bản của Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc do Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn của ông ta ký khi thăm Trung Quốc, qua chữ ký của CT nước Việt Nam.
Sự kiện Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là vấn đề an ninh quốc gia, quyết không thể là vấn đề chỉ của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc.
Rõ ràng Luật Biển Việt Nam ghi:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam;
Quốc hội Trung Quốc trong tháng 7/2012 đã thông qua quyết định thành lập thành phố Tam Sa gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Như vậy Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam.
Đây không phải là tranh chấp lãnh hải, mà là Xâm lược lãnh hải.
Hợp tác với quốc gia xâm lược nước mình, ông Trương Tấn Sang còn thanh minh, trước các cử tri đã bầu ông ta vào Quốc hội, là không làm mất chủ quyền sao?
Chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới thực tế là 1 ganh đua sáng kiến chính trị của CT Sang với ông Dũng.
Vấn đề Hoa Kỳ rất quan tâm là Nhân quyền sẽ không được CT Sang đưa ra 1 thỏa thuận nào.
Rõ ràng, nếu muốn có chuyển biến về Nhân quyền, phải có 1 nhân vât khác Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang thăm Mỹ.
Người đó có thể là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chăng?
© Nguyễn Nghĩa
© Đàn Chim Việt

Đề nghị kiểm điểm bộ trưởng Bộ Tư pháp

Ngày 2 - 11/7, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI đã họp kỳ thứ 20 để xem xét, thống nhất kết luận và giải quyết nhiều nội dung quan trọng liên quan trong đó có việc yêu cầu kỷ luật một số cán bộ.

Cụ thể, Ủy ban đã xem xét, kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng UBND tỉnh và ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng. [Chi tiết vụ việc].

Tại kỳ họp, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, quyết định và đề nghị thi hành kỷ luật đối với các đảng viên:

Ông Nguyễn Đình Nhương, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Huyện ủy, nguyên Chủ tịch HĐND huyện Quế Võ (Bắc Ninh). Năm 2003 - 2010, với trách nhiệm là Phó bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện, ông Nhương đã vi phạm nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng đất, nhất là việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; thiếu kiểm tra, đôn đốc để tình trạng vi phạm Luật Đất đai không được khắc phục; vi phạm trong công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính, ngân sách huyện; buông lỏng công tác quản lý đầu tư xây dựng. Đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật ông Nguyễn Đình Nhương theo thẩm quyền.

Ông Đào Tấn Nguyên, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Phú Yên vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống của người cán bộ lãnh đạo; thực hiện không đúng quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, vi phạm quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây dư luận không tốt tại địa phương. Ủy ban Kiểm tra Trung ương thống nhất đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật cách chức Tỉnh ủy viên đối với ông Đào Tấn Nguyên.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, xử lý kỷ luật khiển trách vì vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai đối với các ông: Nguyễn Huy Dự, Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Điện Biên Phủ; Nguyễn Đức Đuyện, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó chủ tịch UBND thành phố Điện Biên Phủ; Nguyễn Quang Sáng, Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Điện Biên, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Điện Biên Phủ.

Ông Nguyễn Thành Tẩm, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Thông tin, Truyền thông, nguyên Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Trà Vinh đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý, dẫn đến Ban quản lý dự án thành phố có những vi phạm trong thực hiện quy chế quản lý đẩu tư xây dựng cơ bản; vi phạm quy định trong việc quản lý tài chính. Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông Nguyễn Thành Tẩm.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, kết luận giải quyết tố cáo đối với các đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý:

Ông Vũ Văn Sơn, Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hải Dương: Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận, đơn tố cáo ông Vũ Văn Sơn nghỉ ốm dài ngày năm 2008, vẫn được công nhận là đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là có thật.

Nội dung tố cáo “khai hồ sơ có 3 năm sinh (1957, 1958, 1959)”, qua kiểm tra, hồ sơ cán bộ, đảng viên của ông Vũ Văn Sơn có hai năm sinh (1958 và 1959). Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu ông Vũ Văn Sơn nghiêm túc rút kinh nghiệm việc bỏ phiếu đề nghị xếp loại đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong khi bản thân nghỉ công tác dài ngày trong năm.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương chỉ đạo cơ quan tư pháp của tỉnh cùng ông Vũ Văn Sơn thực hiện các thủ tục pháp lý để thống nhất một năm sinh trong hồ sơ của ông theo quy định.

Ủy ban Kiểm tra T.Ư yêu cầu Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường kiểm điểm rút kinh nghiệm.
hahungcuong-1373682922_500x0.jpg
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường
Ông Hà Hùng Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Đơn tố cáo ông Hà Hùng Cường ký quyết định bổ nhiệm một cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận theo đề nghị của Vụ Tổ chức cán bộ Tổng cục Thi hành án dân sự không đúng quy định là có cơ sở. Các nội dung khác không có cơ sở kết luận.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu ông Hà Hùng Cường kiểm điểm rút kinh nghiệm trước Ban cán sự đảng; yêu cầu Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp chỉ đạo kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan; lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp cấp có thẩm quyền miễn nhiệm chức vụ đối với trường hợp bổ nhiệm không đúng.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận tổ chức kiểm điểm các ông: Huỳnh Tấn Thành, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận; Võ Duy Quang, Tỉnh ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, nguyên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh do liên quan đến vụ việc trên. Quá trình kiểm điểm, nếu tổ chức, cá nhân có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì phải áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm minh.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, cho ý kiến và kết luận giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với các đảng viên:
Ủy ban Kiểm tra Trung ương thảo luận, cho ý kiến đối với báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh của Đoàn giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban Bí thư đối với bà Lương Thị Cẩm Sự, nguyên Đảng ủy viên, Phó Bí thư Chi bộ Hành chính, Điều dưỡng trưởng Khoa Sản, Bệnh viện đa khoa huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định xóa hình thức kỷ luật khiển trách đối với bà Dương Thị Anh Tài, thuộc Đảng bộ Công an tỉnh Quảng Trị; giữ nguyên hình thức kỷ luật cách chức Bí thư Chi bộ đối với ông Phạm Trọng Nhã, thuộc Đảng bộ xã Lộc Thuận, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.
Ngoài ra, Ủy ban Kiểm tra Trung ương còn xem xét kết quả kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đối với Ban Thường vụ và Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy các tỉnh: Bắc Kạn, Bắc Giang, Nam Định, Hà Tĩnh, Đắk Lắk, Long An và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.
Một số địa phương được kiểm tra chưa thực hiện giám sát chuyên đề đối với đảng viên; chưa quan tâm đúng mức trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; có cấp ủy chưa chủ trì tổ chức tổng kết công tác kiểm tra, giám sát. Việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại có lúc, có việc còn chưa dứt điểm; có cuộc kiểm tra, giám sát nội dung dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Hiệu quả phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng còn hạn chế.
Việc chủ động phát hiện, quyết định kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm chưa đúng với tình hình vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên hiện nay; có đơn vị chưa kiểm tra tài chính đối với cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp. Chất lượng, hiệu quả giám sát còn hạn chế; có trường hợp xử lý kỷ luật đảng viên chưa bảo đảm quy trình, chưa tương xứng với vi phạm…
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu các tổ chức đảng nói trên khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định, tập trung vào những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm. Các tổ chức đảng tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên diện cấp ủy quản lý; đôn đốc, theo dõi việc thực hiện các kết luận kiểm tra, giám sát; quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra các cấp; đẩy mạnh tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng…
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét kết quả kiểm tra tài chính đảng đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa, Nghệ An và phát hiện, các tỉnh này chưa thường xuyên, kịp thời cụ thể hóa cơ chế quản lý tài chính đảng; chưa có biện pháp quyết liệt chỉ đạo các cơ quan chức năng bảo đảm kinh phí hoạt động cho các tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp xã, phường; có trường hợp chưa thực hiện đúng quy định về cơ chế quản lý tài chính, tài sản đảng; chưa quan tâm đúng mức việc kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm quá trình triển khai các quy định về quản lý tài chính đảng… Có khoản thu, chi chưa đúng chế độ.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, Khánh Hòa rút kinh nghiệm về những khuyết điểm, hạn chế đã chỉ ra; chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tăng cường kiểm tra, giám sát tài chính, nhất là đối với cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Cụ thể hóa, rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý tài chính, tài sản đảng; thực hiện đầy đủ chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính trong các cơ quan khối đảng cấp tỉnh và huyện; nghiên cứu chuyển đổi mô hình, cơ chế hoạt động của Nhà khách Tỉnh ủy, Nhà in Báo Nghệ An; thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về quản lý, sử dụng tài chính, tài sản đảng; xem xét, xử lý, chỉ đạo xử lý các khoản chi chưa đúng quy định.
Tại kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thảo luận, quyết định ban hành hoặc lấy thêm ý kiến để ban hành một số văn bản nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
(VnExpress)

Johnny Trí Nguyễn 'quật' lại Cục Điện ảnh

Johnny Trí Nguyễn đã không ngại ngần phản pháo lại lãnh đạo Cục điện ảnh, khi ông này cho rằng hãng phim phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong vụ rò rỉ phim hi hữu 'Bụi đời chợ Lớn'.

Bụi đời Chợ Lớn vẫn chưa hết nóng, khi các cáo buộc, nghi ngờ và chỉ trích vẫn được "đá" qua lại giữa hãng phim, cục điện ảnh và những tổ chức liên quan.

Vẫn chưa có kết luận chính thức từ cơ quan chức năng, tuy nhiên những nhận định từ các lãnh đạo cục Điện ảnh có vẻ như đang làm Johnny Trí Nguyễn không giữ nổi sự bình tĩnh. Mới đây, chàng diễn viên Việt kiều đã cho đăng tải những phát ngôn khá gay gắt và nhạy cảm của mình về "nghi án" lộ phim, trong đó đề cập tới cả vai trò của những người kiểm duyệt.

Đáng chú ý, trong lời chia sẻ này, Trí Nguyễn đã đưa ra thông tin quan trọng: ngoài 2 hãng phim Chánh Phương và Galaxy, còn một đơn vị nữa là Cục Điện ảnh cũng nắm giữ bản nháp của Bụi đời Chợ Lớn. Chính vì vậy, việc gói gọn "thủ phạm" vào 2 hãng phim là một nhận định có phần khiên cưỡng và hơi vô lý. Cục Điện ảnh cũng hoàn toàn có khả năng là nơi làm rò rỉ bộ phim, bởi cũng như 2 hãng phim Chánh Phương và Galaxy, họ chính là đơn vị nắm bản nháp của bộ phim.


 Johnny Trí Nguyễn
 
Không chỉ vậy, chàng diễn viên Việt kiều còn không ngại ngần công kích chính phát biểu của vị lãnh đạo Cục Điện ảnh, khi ông này tuyên bố 2 hãng phim phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc bộ phim bị rò rỉ. Anh ví von vụ việc này cũng giống như "nhà bạn bị mất trộm xong công an tới chưa điều tra gì đã nói bạn phải chịu trách nhiệm cho việc trộm cắp kia!".

Trong phần chia sẻ của mình, Trí Nguyễn viết: "Trước khi bị leak lan tràn trên internet cũng như DVD lậu thì bản nháp của phim Bụi Đời Chợ Lớn có 3 đơn vị lưu giữ. 1 Hãng phim Chánh Phương, 2 Hãng Phim Thiên Ngân (Galaxy), 3 Cục Điện Ảnh.

Cả hai hãng phim đã sản xuất khá nhiều bộ phim trong mười năm qua nhưng chưa bao giờ bị rò rỉ một tác phẩm nào trước khi phát hành như vầy. Còn về phía đơn vị thứ 3 thì tôi không biết thật hư như thế nào, nhưng xin share status của bạn Phim Việt Nam… 'Ông bạn bảo trước đây phim Người Mỹ trầm lặng của Phillip Noyce khi duyệt ở Việt Nam cũng bị leaked lên mạng. Nhưng mà tụi nó có hidden watermark nên tụi nó biết thằng nào leak. Hóa ra là từ Cục…'.


Những chia sẻ đầy bức xúc của Johnny Trí Nguyễn
 
Ai cũng biết khi phim Bụi đời Chợ Lớn bị leak lên mạng như thế này thì hai hãng phim là đơn vị bị thiệt thòi nhất, còn phía cục thì có mất mát công lao hay của cải gì đâu. Thế nhưng trong khi nguồn gốc của sự rò rỉ này còn chưa được điều tra rõ ràng thì tiến sĩ Cục trưởng nhà mình đã phát biểu với báo giới 'phim cấm phổ biến dưới mọi hình thức và hai hãng phim trên không được để lọt phim Bụi đời Chợ Lớn ra thị trường… Như vậy, hai hãng phim trên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật việc bảo quản, bảo mật bộ phim.
Ví dụ, nhà bạn bị mất trộm xong công an tới chưa điều tra gì đã nói bạn phải chịu trách nhiệm cho việc trộm cắp kia có hợp lý không?
Thật là buồn…".

P.A
(Tri Thức Thời Đại) 

Chỉ nhà giàu mới thành người thủ đô (?!)

Chỉ nhà giàu mới thành người thủ đô (?!)
Ảnh minh họa
Nghị quyết kỳ họp thứ bảy HĐND TP.Hà Nội quy định: Người ngoại tỉnh muốn nhập hộ khẩu nội thành Hà Nội phải tạm trú liên tục từ 3 năm trở lên. Diện tích bình quân đối với nhà thuê ở nội thành để công dân được đăng ký hộ khẩu thường trú ở nội thành Hà Nội đến hết năm 2015 là 15m2 sàn/người.
Với quy định này, các kỹ sư, cử nhân mới ra trường và người lao động nghèo từ các tỉnh về Hà Nội làm ăn sinh sống sẽ chẳng còn cơ hội trở thành công dân thủ đô. Cho dù họ có việc làm ổn định, đóng góp tuổi thanh xuân cho thủ đô 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Vì để có được số tiền thuê 15m2 nhà ở nội thành Hà Nội trong thời kỳ việc ít, lương thấp hiện nay sẽ mãi là giấc mơ của họ. 
Các kỹ sư, cử nhân sẽ còn phải bươn trải rất lâu nữa, còn phải lo toan biết bao nhiêu điều để tồn tại, giúp đỡ gia đình. Không biết đến khi nào họ mới có thể ổn định được cuộc sống là một câu hỏi mở. Một vận động viên bơi lội bị cụt 2 chân, quê Thanh Hóa ra Hà Nội- bằng những nỗ lực phi thường- anh đã được chọn vào đội tuyển bơi người khuyết tật Hà Nội. Nhưng với mức lương thấp, dù cộng với làm thêm ngoài giờ, thu nhập của anh chỉ khoảng 4 triệu đồng/tháng. 
Nếu để được nhập hộ khẩu, ngoài các quy định khác cộng với việc phải thuê nhà 15m2, thì chắc chắn dù có mang về cho Hà Nội những tấm huy chương danh giá, anh cũng sẽ không bao giờ hoàn thành ước mơ có thể trở thành người thủ đô vì quy định của chính quyền thành phố Hà Nội.
Với quy định mới này, chỉ những người giàu có, những quan chức từ các địa phương mới dễ dàng trở thành người thủ đô. Vì họ có tiền! Họ không cần thuê mà mua hẳn nhà, biệt thự tại thủ đô. Để rồi họ đương nhiên được trao danh hiệu công dân thủ đô, không phải do những đóng góp của họ cho Hà Nội, mà đơn giản vì họ có tiền.
Trong khi quy định diện tích 15m2 sàn/người đối với người nhập cư thì Hà Nội chỉ khiêm tốn đề ra mốc phấn đấu diện tích nhà ở tối thiểu đến năm 2015 đạt 6,5m2 sàn/người. Rõ ràng mốc 15m2 sàn/người mà HĐND TP đề ra chỉ để cho người giàu.
Tất nhiên chính sách nào cũng có mặt được, mặt chưa được. Và để hạn chế dân nhập cư vào nội thành, cần phải có những giải pháp đồng bộ, nhận được sự đồng thuận của đông đảo người dân. Có thể đề ra chính sách, trong một thời gian nhất định sẽ tạm ngừng nhập khẩu cơ học vào nội thành (trừ những trường hợp luật cho phép); Khuyến khích người dân ở nội thành, đặc biệt là các khu phố cổ, ra sinh sống tại các khu đô thị ngoại thành; có cơ chế mời gọi người tài về với Hà Nội; cho phép nhập hộ khẩu ngay đối với các nhà khoa học, trí thức trình độ cao, các vận động viên hàng đầu…
Trong nền kinh tế thị trường, không thể có một chính sách cứng nhắc đóng và mở về dân số cho thủ đô. Cần có những chính sách cho từng thời điểm, nhận được sự đồng thuận của số đông. Để những ai gắn bó, đóng góp trí tuệ và sức lực cho Hà Nội đều có cơ hội trở thành người thủ đô, chứ không phải cơ hội chỉ dành cho người giàu như chính sách hiện thời.
 ( Theo Laodong )
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét