Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Tin thứ Hai, 11-02-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Một độc giả vừa méc sáng nay: Bâng Khuâng Trường Sa – Nhiều ca sĩ Vpop 2013 [MV YAN Media]: Thật đẹp, hay và cảm động! Có điều … biết là nghệ thuật thì khó có thể “lắp ghép” khiên cưỡng, nhưng thiếu Hoàng Sa là lại lo và buồn.
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=wFfJGyci-rU

- Ngày Xuân VN lo sức khỏe ở biển đảo (BBC).  – Tôi đi như mơ trên đảo Song Tử Tây (NLĐ). - Xuồng CQ – cái tâm, cái tình với biển đảo, Trường Sa (TT). - Một ngày trên đảo Nam Yết anh hùng (PT). - Chào cờ giữa sóng biển Trường Sa (VNE). - Bí ẩn những ngọn bạch lạp Trường Sa (TP). - Hải quan Phú Quốc nâng tầm cùng đảo ngọc (Hải quan).
“Ông Biển Đông” dự báo về năm Quý Tỵ (DT). - Trung Quốc với chiến lược ‘đại hải phòng’ trên Biển Đông (TP/ Tổng hợp từ báo chí Trung Quốc và Mỹ).
- Hải giám Trung Quốc “xông đất” Senkaku (NLĐ).  - “Vụ tàu Trung Quốc chĩa radar là cực kỳ nguy hiểm” (TTXVN). - Tàu hải giám Trung Quốc lại xuất hiện gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư (RFI).  – Trung Quốc cho Hải quân chuẩn bị chiến tranh? (VnMedia).
- Brunei chủ tịch ASEAN : Trung Quốc khó lòng o ép như đối với Cam Bốt (RFI). - “Lục tung” phi đội tàu chiến “máu mặt” của Hải quân Myanmar (KT).
Những thất bại ngoại giao nguy hiểm ở Đông Á (Project Syndicate/ KT).
Bán đảo Triều Tiên căng thẳng: Mỹ – Hàn tập trận giữa mùa Đông (GDVN).
- Bùi Chí Vinh – Mùng 1 Tết năm Quý Tỵ nói về kẻ thù đất nước (Dân Luận). “Năm 1978 hồi xưa tôi đánh giặc ngoại xâm bằng súng/ 24 tuổi vác AK đi kiếm bọn Tàu/ 24 tuổi bỏ Thành Đoàn đâm đầu đi lính/ Bọn Tàu vẫn còn nguyên còn tôi bị nhốt quân lao/… Năm nay 2013 tự nhiên mê tập bắn/ Bia bắn giờ đây là bọn xâm lược cường hào/ Bia bắn giờ đây là lũ tay sai bán nước/ Thèm bắn một lần xuyên thấu tận ngàn sau!
- Chúng biến quê anh thành “QUÊ TÀU”? (Mai Thanh Hải). “Mình ngỡ ngàng đầu năm, khi về quê hôm nay, là những chiếc đèn lồng đủ loại, từ màu đỏ đến vàng, trang kim óng ánh, cong queo chữ Tàu, treo khắp hè đường, cửa nhà, trong ngõ xóm.  Hỏi ra mới biết, mỗi chiếc đèn lồng như vậy, giá không dưới 100 nghìn đồng và người dân, được ‘vận động’ mua – treo, theo hệ thống chỉ đạo”.
- Âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền Nghệ An đối với Giáo hội Công giáo: Huy động quân đội tàn sát giáo dân (NVCL). “Không phải ngẫu nhiên, mà báo chí Nghệ An đã khen nức nở Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp trong vụ Con Cuông, nhưng đồng thời âm thầm chuẩn bị những phương án tàn sát giáo dân bằng cách dựng lên những vở kịch khủng khiếp như chiếm UBND Tỉnh, Đài Phát Thanh – Truyền hình tỉnh hoặc các cơ quan nhà nước, nhằm huy động không chỉ công an, mà cả hệ thống chính trị, không chỉ là toàn bộ hệ thống chính trị mà cả quân đội và đàn áp giáo dân và nhân dân khi cần thiết“.
- COI CHỪNG NHỮNG BIẾN ĐỘNG LỚN TRONG NĂM RẮN (Phạm Viết Đào). – Quý Tỵ 2013, năm rắn đen tiềm ẩn biến động khó lường (RFI). – Điềm báo Diệt Vong (Minh Văn). “Ban đầu người dân cũng tin theo, vì nhà sản nói là họ đại diện cho giới cần lao để đấu tranh cho hạnh phúc muôn dân. Nhưng với thời gian, họ mang cái chủ nghĩa ‘Mác – Lê’ vào áp dụng, nước Việt từ đó lầm than, muôn lần cực khổ hơn xưa. Nghe thiên hạ nói, đây là một thứ chủ nghĩa hoang tưởng và ngược đời. Tự do dân chủ thì không thấy đâu, chỉ thấy một triều đại độc tài tàn ác hơn Kiệt – Trụ xưa”.
- Bùi Tín: Quý Tỵ – Năm Hy Vọng (VOA’s blog).

2- Trần Hoàng Lan: Đảng sửa hiến pháp – Lợn lành chữa thành lợn què (DLB). Mời tham khảo lại: GS Nguyễn Minh Thuyết: “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn đậm đà ngôn ngữ văn chương”  (GDVN) và  Gs.Ts NGUYỄN MINH THUYẾT: Có thể cần coi đây là một bản Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 2013 (ĐBND). - Đảng, Quốc Hội và Hiến Pháp (DLB).
- LOẠI TRỪ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP 1992 KHÁC CHI LOẠI TRỪ QUÂN VIỄN CHINH MỸ RA KHỎI VIỆT NAM NĂM 1973 (Phạm Viết Đào).  – Lê Văn Trực: Bản Hiến Pháp nào? (Thông Luận). “Nhưng ĐCSVN còn cơ hội rửa mặt bằng cách chấp nhận một bản hiến pháp khác đáp ứng đúng đắn những nguyện vọng của dân tộc, phù hợp với những giá trị phổ cập của loài người. Cơ hội này sẽ chẳng bao lâu.  Thay đổi không chết, ngoan cố là tự sát”. – Hồ Anh Hải: VẤN ĐỀ ĐẢNG TRONG HIẾN PHÁP TRUNG QUỐC (Phạm Viết Đào).
- Vũ Thế Phan: Rắn lột da biến ra con gì ? (Thông Luận). “Gây niềm tin không khó, phá vỡ niềm tin không khó, lấy lại niềm tin thì không dễ. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân: Hãy tự vấn vì đâu tha nhân hết tin mình”.
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực (TP/ Ba Sàm). Phỏng vấn GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý.
“Không phải Quốc hội, không phải Chủ tịch nước, Chính phủ hay Tòa án cho dân quyền này, quyền kia. Chính nhân dân trao cho các cơ quan này quyền lực và họ có trách nhiệm thực thi nó phù hợp với ý chí của nhân dân được thể hiện trong Hiến pháp.”
“Đảng với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội cũng phải đảm bảo để quyền phúc quyết của nhân dân được thực hiện. Giữa phúc quyết và lấy ý kiến nhân dân có sự khác nhau rất lớn về mức độ đảm bảo dân chủ, sự thượng tôn vai trò của nhân dân.”
- Tối qua, một luật gia liên lạc với chúng tôi đưa ra một thắc mắc quan trọng. Đó là theo ông, không hiểu sao trang “Cùng viết Hiến pháp” lại vừa cho đăng Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Nguyễn Phi Anh), để bên cạnh Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Bauxite Việt Nam), mà cái “dự thảo” của Nguyễn Phi Anh kia lại có tới khoảng 50% nội dung giống với bản Dự thảo Hiến pháp của Bauxite Việt Nam (tức bản tham khảo, đi kèm “Kiến nghị 72″ của các nhân sĩ trí thức), mà theo ông, những phần được coi là sao chép này, thì chưa từng có ở bản hiến pháp nào trên thế giới cả.
Thắc mắc đó mới chỉ là … nghi vấn. Song, có một điều đáng nghi vấn, đáng ngờ hơn nữa, có thể thấy rõ hơn về một sự sắp đặt có tính toán và thiếu trung thực, của những người điều hành trang “Cùng viết Hiến pháp”, nhất là nó lại là một trang web hết sức quan trọng của một nhà báo lõi đời – cựu TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn. Để hiểu rõ về đánh giá đó, xin trở lại từ ngày 3/2/2013, sau khi chúng tôi thắc mắc về bài vở trên “Cùng viết Hiến pháp” toàn là từ báo nhà nước, họ cho đăng bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 – boxitvn. Thế nhưng, khi đó, người ta đã có vẻ “quên” không đăng luôn cả bản Dự thảo Hiến pháp 2013, bất chấp bản dự thảo này nằm ngay cùng một trang với bản Kiến nghị. Và … họ có “quên”, hay là cố tình “để dành” cho một toan tính khác? Xin coi tiếp:
Trong bản Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Bauxite Việt Nam) nói ở trên mới được đăng hôm qua, BBT “Cùng viết Hiến pháp” có lời nói đầu như sau: Theo chúng tôi biết, bên cạnh Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 của Quốc Hội, còn có bản Dự thảo Hiến pháp 2013 do một nhóm trí thức đề xuất trên trang Boxitvn.net. Bản dự thảo này được kèm theo Kiến nghị về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (mà vừa được đại diện nhóm trí thức khởi xướng trao cho Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào ngày 4/2/2013). Trước đó chúng tôi đã giới thiệu bản Kiến nghị về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nay xin trân trọng giới thiệu vơi bạn đọc bản Dự thảo Hiến pháp năm 2013 đăng trên trang  Boxitvn.net.”
Như vậy có thể tạm hình dung “kịch bản” là: cố tình không đăng bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đi kèm bản “Kiến nghị 72″, bất chấp một điều quá dễ hiểu là tuy được coi như tài liệu tham khảo, nhưng nó hết sức quan trọng để độc giả đánh giá tinh thần bản Kiến nghị, thái độ trách nhiệm và phương pháp làm việc khoa học của những người khởi xướng, và nhiều điều nữa, trong đó có việc nó phục vụ người đọc rất nhiều về kiến thức pháp luật, hiến pháp. “Cùng viết Hiến pháp” đã cố tình như vậy, để tới nay mới tung ra bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đó, để bên cạnh một bản “dự thảo” khác, được cho là cọp lại rất nhiều nội dung của Dự thảo Hiến pháp 2013 của các nhân sĩ trí thức. Lại còn nói là “theo chúng tôi biết …”, ra vẻ rất vô tư, như thể việc bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đi kèm “Kiến nghị 72″ là chuyện “bí mật”, họ biết qua nguồn thông tin riêng thôi, chứ không phải ai ai cũng đã biết cả rồi, không phải là họ đã cố tình cắt xén một tài liệu quan trọng đến vậy, theo kiểu khuất tất vậy. Lại còn “tinh tế” (hoặc kém tinh tế?) tới độ cuối bản Dự thảo Hiến pháp 2013, họ đã không để đường dẫn (link) tới bản gốc, đi kèm bản Kiến nghị, trên trang chủ Bauxite Việt Nam.
Còn câu hỏi rằng việc họ cắt xén tài liệu, rồi giờ sắp xếp phần bị giấu nhẹm đi đó bên cạnh một bản “nhái” là để nhằm những mục đích gì, thì xin được tạm bỏ ngỏ ở đây.
Tuy nhiên, để thận trọng hơn cho những đánh giá có tính nghi vấn cao của chúng tôi ở trên, xin mời những người khởi xướng và điều hành trang “Cùng viết Hiến pháp” trả lời. Cũng xin lưu ý, để tránh gây hiểu lầm từ việc trang “Cùng viết Hiến pháp” có thể làm để “sửa sai” bằng cách lặng lẽ thêm nội dung vào, chỉnh sửa lại câu chữ sau khi đã đăng bài, không một lời thông báo, mà nhiều báo điện tử trong đó có VNN từng làm, chúng tôi đã  tải xuống, lưu lại toàn bộ các bài trên, kể cả trang chủ sáng nay với 2 bản “dự thảo” bên cạnh nhau.
Bổ sung, muốn hiểu rõ hơn vụ việc trên, thậm chí đề phòng có kẻ bên trong Ban biên tập trang “Cùng viết Hiến pháp” đã thao túng, gây dư luận không tốt và chia rẽ, chúng tôi đã nhờ người liên lạc với các thành viên BBT trang này. Một vị cho biết không rõ tác giả “Nguyễn Phi Anh” hay “Dương Phi Anh” là ai và cả việc có hay không người này đã sao chép “cơ học” nhiều nội dung trong bản Dự thảo Hiến pháp 2013 (đi kèm “Kiến nghị 72″) mà không ghi chú rõ ràng.
Bổ sung, trên trang “Cùng viết Hiến pháp” vừa có bổ sung một số nội dung mới nhất cuối buổi sáng nay của cả BBT lẫn tác giả bài viết. Chúng tôi sẽ xin bình luận về vấn đề này vào sáng mai.
3
- Tổng Bí thư công bố 5 Phó Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng (DT). - Nhà báo Hữu Thọ nói về tham nhũng, quan liêu của một bộ phận Đảng viên (ANTG/GDVN). =>
- Đàn tế trời của UBND tỉnh Bình Định (DLB). – Hằng Phương: Bài thơ GÒ ĐỐNG ĐA, Xưa và Nay (TSYG).
- Phan Châu Thành – Thịnh vượng và rác (Dân Luận). “Đến khi có Tư duy Thịnh vượng tôi hiểu rằng chính quyền này sẽ không bao giờ xử lý được rác – một việc đơn giản nhất mà mọi chính quyền có thể làm, vì chính họ đã là rác rồi, họ chấp nhận rác trong ý thức hệ rồi, nên họ sẽ không thể mang lại cho dân sự thịnh vượng được”.
- HẺM “BUÔN CHUYỆN” – (KỲ 63) Giao thừa…giao thừa… (Nhật Tuấn).
- Phỏng vấn bọ Lập: Trí thức trùm chăn rất đáng khinh bỉ (Đào Tuấn). – Phỏng vấn nhà thơ Hải Như: Nhà văn: Xin đừng tự trói buộc mình (TVN). – Nguyễn Thanh Hà khai bút: THỨC THỜI VÀ THỜI THỨC (Phạm Viết Đào).
- Thư ngỏ Về Pháp Luân Công (VLB).
- Trung Quốc qua mặt Mỹ trong tư cách cường quốc thương mại số một thế giới (RFI).  – Siêu cường bị từ chối? Tại sao ‘Trỗi dậy’ của Trung Quốc đã lên đến đỉnh điểm (Diplomat/ Gốc sân). – Trung Quốc : Khu vực nhà nước lũng đoạn thị trường (RFI). – Trung Quốc phải để các chuyên gia làm chính sách đối ngoại  (SCMP/ Gốc sân).
- Nhà ‘ngoại giao bóng bàn’ TQ vừa qua đời (BBC).  – Tay vợt Trung Quốc trong vụ ‘ngoại giao bóng bàn’ Mỹ-Trung qua đời (VOA).
- Một tạp chí tại Nhật thân Bình Nhưỡng gây nghi ngờ về vụ thử hạt nhân (RFI).  – Trung Quốc có thể ủng hộ trừng phạt, nếu Bắc Triều Tiên thử hạt nhân (RFI).
- Miến Điện tấn công nạn tham nhũng trong giới quan chức (RFI).
- Nhà đối lập Oudaltsov bị quản chế (RFI).  – STALINE: ĐẠI DIỆN CHO BẢN CHẤT TÀN ÁC VÀ DÃ MAN CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN (TNM).

- ĐẢNG ĐÃ LÀM GÌ CHO DÂN? (William Truong). “Đảng đã không lo được cho dân thì cũng đừng ngăn cản người dân tự lo lấy. Đảng đã không cho dân được mùa Xuân thì cũng đừng ngăn cản mùa Xuân về theo quy luật tự nhiên. Đảng đã không đủ tài năng, thiện tính và can đảm viết nên một bản Hiến Pháp văn minh cho dân tộc thì chớ nên ngăn cản trái tim và khối óc của hàng triệu con người. Dòng thời gian luôn chảy và bánh xe lịch sử luôn quay-đó là điều không một ý chí cá nhân nào cản nổi”. – Sức mạnh lòng dân – bài học không bao giờ cũ (ĐT).
- PHẢN ỨNG CỦA MỘT DƯ LUẬN VIÊN VỀ BÀI “NIỀM TIN” CỦA ÔNG HÀ ĐĂNG (TSYG). “Thật tình tôi cho rằng chỉ có ông Trời mới biết ông có ý định ngầm ví von, so sánh điều gì đó hay không khi dùng niềm tin của một tên trộm để mở đầu cho bài viết vể chủ đề cực kỳ nghiêm túc và vô cùng thiêng liêng là niềm tin về Đảng?
- Lâm Lễ Trinh NGÀN GIỌT LỆ RƠI – A THOUSAND TEARS FALLING của Đặng Mỹ Dung (TNM).
- Nguyễn Văn Thạnh: QUYỀN ĐƯỢC SỐNG AN TOÀN (Huỳnh Ngọc Chênh).

- Lấy phiếu tín nhiệm: Phải đứng trên góc độ vì lợi ích của nhân dân (ĐBND).
KINH TẾ
Một tín hiệu đáng mừng cho năm 2013, nhưng…!  (DT).
- TS Trần Đình Thiên: Năm xoay chuyển: Giảm để tăng, chậm mà nhanh (VEF).
- Một năm vượt sóng của Thống đốc ngân hàng (VNE/ Vietstock).
Chứng khoán sẽ đi lên sau Tết (VNE).
Đã qua thời “vàng bỏ ống cũng có lãi”? (VOV).
4<- Kịch bản nào cho bất động sản 2013? (VOV).
- Chính thức có hướng dẫn giảm, giãn thuế (TBKTSG/ Vietstock).
Tiến sĩ Alan Phan: Sĩ diện là vấn đề lớn nhất của các đại gia Việt (GDVN).
Doanh nghiệp phải biết “lột xác” để phát triển (VOV).
- Chợ Lớn rong chơi (NLĐ).
- Thị trường giờ chót: Hàng tươi sống bán chạy (NLĐ).
- Buôn bán Tết sôi nổi tại Little Saigon (RFA).
Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2017 (VNN).

- TS Lê Xuân Nghĩa: Ổn định để sống sót (ĐTCK).

VĂN HÓA-THỂ THAO
- Buồn vui ngày giáp Tết (Diễn Đàn).
- Ông đồ viết câu đối chào đón năm Quý Tỵ (AFP/ Global Post/ TCPT).
- NGÀY XUÂN KHAI BÚT – thơ Nguyễn Đăng Hưng (Tễu). – Bá Tân: Khai rượu (Nguyễn Thông). – TIỄN RỒNG ĐÓN RẮN – Thơ Chu Hảo (Tễu).
- Khóc cười chuyện lì xì (NLĐ).
GS Nguyễn Minh Thuyết: Năm mới thích… lên chức (VTC).
Nhớ tết ở quê năm ngoái… (Gocomay).
Ngày xuân về trên Sóc Bom Bo (PT).
Châu Á bước sang năm con rắn (VOA).  - Hơn một tỷ người châu Á đón mừng năm Quý Tỵ trong không khí lễ hội (RFI). - Celine Dion hát tiếng TQ mừng năm Quý Tỵ (BBC).
5- Giám đốc Ban Việt Ngữ RFA chúc Tết khán thính giả (RFA). Nguyễn Khanh, Giám đốc Ban Việt Ngữ RFA =>
- Nhất Linh – Bản chúc thư văn học vừa tròn một hoa giáp của Nhất Linh (DĐTK).
- Nguyễn Tùng: Mừng anh Lê Thành Khôi 90 tuổi (Diễn Đàn). – Phan Huy Lê: Hai chứng từ về Lê Thành khôi (Diễn Đàn).
- Từ Trì – GIAI THOẠI NGOẠI GIAO, 2012 (DĐTK).
- Hoàng Xuân Hãn: Đoàn Tử Quang (Diễn Đàn).
- Trần Mộng Tú – NGƯỜI THÂN CUỐI (DĐTK).
- Đứa con ngoài giá thú (Nguyễn Tường Thụy).
- Nguyễn Ðức Tường – Cỗi rễ bậc hai (DĐTK).
- Lê Xuân Quang: Thiến sót (Nguyễn Tường Thụy).
- Nguyễn Thị Từ Huy: Tinh thần tiểu thuyết (Diễn Đàn).
- Tây Nguyên váy áo và… ngực trần (TVN).
- Vẻ đẹp Việt – Vẻ đẹp riêng biệt (Life Style/ TVN).
- Năm mới học thêm được một chữ (Đông A).
- Đặng Đình Cung: Công nghệ phở – II (Diễn Đàn).
- Vũ Quý Hạo Nhiên: Rắc rối chuyện đồng tính diễu hành (BBC).
- Tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích chùa Bút Tháp (TTXVN).
- 30 triệu tín đồ Hindu tắm sông rửa tội (VOA).  – Ảnh: Lễ hội Kumbh Mela (BBC).
- Lễ hội Carnival ở Nam Mỹ bắt đầu (VOA). – ‘Cape Town: Thành phố của tôi’ (BBC).
- Sắc màu huyền ảo dưới ống kính hồng ngoại (Kiến thức).
- Nguyễn Quang Riệu: Từ thế giới lượng tử đến vũ trụ bao la (Diễn Đàn).
- Điểm phim: Hoàng Nhất Phương – The Last Of The Mohicans – Người Mohican Cuối Cùng (Dân Luận).
- Tết ở Mỹ và Super Bowl (Bùi Văn Phú).

- Sự khôi hài của người Việt (Nguyễn Thế Thịnh).
- Chúc Thọ (Nguyễn Vĩnh).
- Trần Mộng Tú: Chim Kêu Vượn Hú (DĐTK).
- HOA DỌC ĐƯỜNG XUÂN (Mai Thanh Hải).
- Đạo diễn nổi tiếng từ chối tước hiệu Hiệp sĩ (ANTG/PLTP). Ông này giống đạo diễn Kim Chi, từ chối làm hồ sơ nhận bằng khen có chữ ký của “đồng chí X”: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân”.

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Trò chuyện với Bộ trưởng ‘không né ý trái chiều’ (VNN).
- Giáo dục năm cũ qua con mắt các chuyên gia (Soha).
6- Cái tựa ngồ ngộ: GS Toán rời rạc bàn chuyện tiền cho giáo dục (TP). Để mấy chữ “Toán rời rạc” trong dấu móc kép thì tốt hơn.
<- Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm: Càng khó khăn, tinh thần hiếu học càng phát triển mạnh mẽ (DT).
- Khi thầy giáo là… sao quảng cáo (NLĐ).
Hãy phát hiện những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi em (GD&TĐ).
Vợ chồng nhặt rác nuôi 4 con học đại học (VNE).
Cơ chế thông thoáng cho khoa học công nghệ (VietQ).
- “Các nhà khoa học đóng góp hơn nữa cho đất nước” (DT).
- Tàu thăm dò Curiosity khoan một hòn đá trên Sao Hỏa (VOA).
- Phát minh “độc”! (NLĐ).
Qua 2012, vẫn còn nguy cơ tận thế? (Bóng đá).

- Tết thầy (Tin tức).

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền nói về công tác bảo đảm an sinh xã hội (GDVN).
- Đầu năm, người dân hai miền Nam – Bắc nô nức đi lễ cầu may (Soha). – Mồng 1 Tết nô nức trải hội chợ Gò (GD&TĐ). – Khoảnh khắc đầu năm nơi cửa chùa (VNE).
- Đền Sóc trong ngày đầu tiên của năm mới (GD&TĐ). – Giao thừa ở Sóc Trăng: Biển người về trung tâm thành phố đón giao thừa (GD&TĐ).
- Năm mới Quý Tỵ xuất hành thế nào cho tốt? (DT).
- Hà Nội phố không người (DT). – Phố phường vắng lặng sáng mùng 1 Tết (VNE).
7- Ăn Tết trên “kho vàng 4.000 tấn” (DT).
Xuân về với đồng bào dân tộc Sán Chí (Tin tức). =>
- Năm Quý Tỵ nói chuyện cứu hộ rắn (DT).
Tuyệt chiêu tặng quà (TP).
- Cuộc hội ngộ kỳ diệu của 2 anh em ruột sau… 70 năm (DT).
Nơi bảo tồn rắn hổ mang chúa (TP).
- Vùng đông bắc nước Mỹ dọn dẹp sau cơn bão tuyết hung bạo (VOA).
- Ấn Độ: Giẫm đạp ở ga tàu hỏa, 20 người thiệt mạng (DT).

- Trần Mộng Tú: Sông Mã êm đềm (DĐTK).
Hoảng vì ‘thần tài’ đến nhà ngày Tết (VNE). QUỐC TẾ
- Iran kỷ niệm Cách mạng Hồi giáo 1979 (VOA). – Iran bác bỏ áp lực của phương Tây (VOA). – Mỹ chiếu bộ phim bị cấm ở Iran (VOA). - Iran thử tên lửa không đối không tự tạo Fakour 90 (TTXVN).
- ‘Liên quân đang thắng ở Afghanistan’ (BBC).  – Lực lượng liên quân tại Afghanistan có tư lệnh mới (VOA).
- Giao tranh ở biên giới Sudan, 24 người thiệt mạng (TTXVN).
8<- Đánh bom ở Thái Lan làm 11 người bị thương vong (TTXVN).
- Tấn công tự sát tại Gao tiếp diễn (RFI).
- 3 bác sĩ Triều Tiên bị giết tại Nigeria (VOA).
- Phe đối lập ở Ai Cập đã lên kế hoạch biểu tình lớn (TTXVN).
- Tây Ban Nha: Thủ tướng Rajoy công bố bản khai thuế để gạt bỏ nghi ngờ tham nhũng (RFI).
Những nét nổi bật của thế giới đương đại (VOV).
5 gương mặt có ảnh hưởng nhất năm 2012 (Hải quan). - Sự biến động của quyền thế (DĐDN).
- Năm con Rắn: Chính trị – kinh tế – xã hội thế giới sẽ ra sao? (PT). - Nước Mỹ độc lập về năng lượng, thế giới sẽ thay thay đổi… (PT).


* VTV1: + Chào buổi sáng – 10/02/2013; + Dấu ấn thể thao Việt Nam 2012 – 10/022/013; + Thể thao 24/7 – 10/02/2013; + Siêu đầu bếp – 10/02/2013; + Chúng tôi là chiến sĩ – 09/02/2013; + Cuộc sống thường ngày – 10/02/2013; + Thư giãn cuối tuần – 09/02/2013; + Thời sự 12h – 10/02/2013; + Thời sự 19h – 10/02/2013.

Danlambao 11/2/2013

Đảng sửa hiến pháp – Lợn lành chữa thành lợn què

Trần Hoàng Lan (Danlambao) – Câu thành ngữ “Lợn lành chữa thành lợn què” có nghĩa: (Mọi vật) đang yên lành, bình thường lại đem ra sửa chữa cải tạo làm cho chúng thành hư hỏng. Nó thường được dùng để “bóng bẩy” chỉ những sự kiện xảy ra trong thực tế mà ở đó có “lợn lành”, “lợn què” và “người chữa”. Phổ biến có hai loại: “Người chữa” thực sự mong muốn “lợn lành” hơn nhưng vì “lực bất tòng tâm” thành ra lại làm cho “lợn què” hơn. “Kẻ chữa” dư sức làm được cho “lợn lành hơn” nhưng lại cố ý làm cho nó “què” để trục lợi. Sau đây là hai câu chuyện thuộc hai loại trên.

Mậu Thân 1: Đòn đánh nhá của Tướng Giáp

Square1 (Danlambao) – Xin gởi đến thôn Danlambao tập 1 của 3 video về Mậu Thân. Trước, square1 đã dịch và đăng trong blog của mình, nhưng ngay sau đó bị… ai đó, chắc là “người quen” vào phá, làm mất đường link, không thể xem được nữa. Nay square1 dịch lại, xin gửi đến các bạn trong thôn Danlambao để biết thế giới biết gì về tết Mậu Thân.

Sử Gia và Sử Gian

“Cháu ơi chớ lộn gia, gian
Sử gia thì học, sử gian thì đừng”
Các cháu yêu quí ,
Nhân dịp đầu năm, bác thân ái gửi đến các cháu những lời cầu chúc tốt đẹp nhất mà các cháu từng được chúc hoặc nghe người ta chúc nhau, và thêm vào đó là lời chúc đặc biệt: chúc các cháu trong năm mới này phân biệt được sử Gia với sử Gian.

2 năm rồi…

Huỳnh Bá Hải (Danlambao) – Hôm nay ngày 10.2 cũng là ngày đầu năm âm lịch của dân tộc. Một ngày rất có ý nghĩa với tôi và kỷ niệm với các anh chị trong Dân Làm Báo.
Tôi chuẩn bị rất nhiều cho bài viết mới: “Câu chuyện của…”, một người có thật chứ không phải ông X bà Y nào cả. Nhưng vì số phận của người này trong những ngày tới nên tôi đành gác lại bài viết này. Để chuẩn bị cho bài viết này tôi đã tốn kém nhiều thời gian và công sức để thực hiện những cuộc phỏng vấn và chụp những bức hình ưng ý nhất. Với tôi thì bảo vệ nguồn tin và bảo vệ nhân vật chính nghĩa của mình là quan trọng hơn hết. Đây cũng chính là cách mà các anh chị trong Dân Làm Báo áp dụng để giúp đỡ tôi và gia đình tôi có ngày hôm nay.

Chuyện cuối năm

Thằng Nẫu (Danlambao) – Việt gia trang, chạng vạng, ngày cuối năm.
Sau cả chục ngày đi ngoại giao tận bên trời Tây, rồi cả tuần tiếp khách đến quà cáp chúc tụng năm mới tại văn phòng, đến chập tối ngày cuối năm Lão Sản mới lọ mọ ghé nhà vợ cũ để dự cái tiệc tất niên theo lệ cùng lũ con ghẻ. Nói là con ghẻ vì trong cái nhà đó chỉ toàn là con riêng của mụ Việt, vợ lão, còn con riêng của lão hay con chung thì đứa đang học bên Tây, đứa đi bù khú với bạn bè, xưa giờ chúng chưa bao giờ có mặt ở cái tiệc tất niên họp mặt ở cái nhà này cả.

Dự báo năm Quý Tỵ

Đầu Xuân thử dự báo một chút chơi:
1/ Đồng chí Ếch sẽ đi về Trời
Khi nào và tại sao thì chưa nói
Việc quân cơ đâu phải chuyện chơi

Đàn tế trời của UBND tỉnh Bình Định

Người Bình Định (Danlambao) – Ấm ức trước sự xâm lấn biển đảo của ngoại bang phương Bắc mà không được biểu tình, tết này tôi về quê ăn tết và quyết tâm ở lại quê cho đến ngày mồng 5 để dự lễ kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa: “Quân Ta đại phá quân Tàu”.

Bản lên tiếng yêu cầu trả tự do cho 14 thanh niên yêu nước

Hơn 3.500 người ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do 14 Thanh Niên Yêu Nước

Blog Thanh Niên Công Giáo – Diễn tiến và kết quả luận tội, tuyên án của phiên tòa kéo dài 2 ngày, 8-9/1/2013, xét xử 14 thanh niên yêu nước tại toà án Vinh, Nghệ An của đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị quốc tế lên án, nhân dân phẫn nộ.
Những người bị mang ra kết án gồm có các anh chị: Hồ Đức Hòa, Nông Hùng Anh, Lê Văn Sơn, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Duyệt, Hồ Văn Oanh, Thái Văn Dung, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Trần Minh Nhật. Họ đều là những công dân đầy nhiệt huyết, tận tâm phục vụ con người và xã hội, tràn đầy tình yêu đối với đất nước.

Bộ trưởng Văn hóa Thể thao Du lịch

Người yêu nước (Danlambao) – Ông Bộ trưởng của Bộ Văn-Thể-Du Hoàng Tuấn Anh rất ít khi được lên báo “lề Dân” vì ông được coi là ít “nổ” và ít phốt. Nhưng thực ra tất cả những chuyện lình xình về mặt văn hóa xã hội ở ta hiện nay đều có bóng dáng của ông.

Kỷ niệm Chiến thắng Đống Đa – Mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789) 

Hôm nay
Ngày kỷ niệm chiến thắng Đống Đa
Lừng danh Lịch Sử.
Chúng tôi, đàn con lưu vong viễn xứ
Xin cúi đầu lạy tạ Cha Ông.
Những bậc Anh Hùng bảo vệ núi sông
Qua chiến tích nghìn thu dũng liệt.
Đuổi xâm lăng, rạng ngời trang Sử Việt
Nét vàng son Tự Chủ giống Rồng Tiên.

Đảng, Quốc Hội và Hiến Pháp

Ngọc Ẩn (Danlambao)Hiến pháp do các đại biểu quốc hội làm ra. Đại biểu quốc hội do đảng tuyển lựa thì kết quá rõ ràng là hiến pháp do đảng CSVN làm ra.
92% đại biểu quốc hội là đảng viên đảng CSVN đã được Mặt Trận Dân Tộc Tổ Quốc sàng lọc kỹ lưỡng trước khi được phép làm ứng viên đại biểu quốc hội. Người dân chỉ có quyền bầu cho những đại biểu quốc hội do đảng đề cử. Thế là đảng cử và dân bị lừa đi bầu. Đảng CSVN vẫn tuyên bố (láo) quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước. Xin trích nguyên văn một phần lời phát biểu của đại biểu quốc hội Dương Thu Hương “Thế rồi, nhận xét về dân chủ xã hội có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được nâng cao, dân chủ trong đảng được mở rộng. Thì tôi thấy, tôi không biết dân chủ trong đảng được mở rộng kiểu gì. Nhưng mà tôi vẫn cảm nhận rằng là cái dân chủ trong đảng vẫn là mất dân chủ nhất so với quốc hội. Và đấy, tôi nghĩ rằng mình là đảng viên, mà mình cũng không được đi bầu Tổng Bí Thư của mình, chẳng được là cái quyền gì cả ngoài cái quyền họp chi bộ hàng tháng để ngồi kể lể cho nhau nghe thôi.” “nói chẳng ai nghe”

Tết của người dân oan tại vườn hoa vườn hoa Lý Tự Trọng

Thanh Trúc (RFA) - Tết Quí Tị năm nay dân oan từ các tỉnh kéo về Hà Nội khiếu kiện đã giảm bớt vì một số được công an đưa lên xe chở về nguyên quán, trong lúc vườn hoa Mai Xuân Thưởng bị phong tòa và vườn hoa Lý Tự Trọng thì chỉ còn mười mấy người ở lại vì không có nhà để về.

“Quê Tàu” ? ..

Mai Thanh Hải – Đầu giờ chiều ngày mồng 1 Tết, mới sấp ngửa chạy từ “Chùa Bà Đanh khổng lồ” Hà Nội về quê Hải Phòng.
Cứ nghĩ đường 5 vắng lắm, như bao lần đầu năm mình tất tả lên lên xuống xuống, nhưng năm nay, có lẽ kinh tế yếu kém, tiền ít ăn dè, nên thiên hạ nhong nhong ra đường đứng hóng, làm đường 5 đông xe, chả kém ngày thường.
Về đến quê, ngỡ ngàng khi nhìn đâu cũng thấy rừng rực đỏ…

Đảng đã làm gì cho dân

William Truong“Đảng đã không lo được cho dân thì cũng đừng ngăn cản người dân tự lo lấy; đảng đã không cho dân được mùa Xuân thì cũng đừng ngăn cản mùa Xuân về theo quy luật tự nhiên; đảng đã không đủ tài năng, thiện tính và can đảm viết nên một bản Hiến Pháp văn minh cho dân tộc thì chớ nên ngăn cản trái tim và khối óc của hàng triệu con người. 
 
Dòng thời gian luôn chảy và bánh xe lịch sử luôn quay – đó là điều không một ý chí cá nhân nào cản nổi.”

Chuyên đề Mậu Thân – Bài 2

Một vụ thảm sát bình thường vào đầu xuân 1968 ở Gia Hội, Huế
 
Don Oberdorfer, Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch – Phạm Văn Tường, người gác dan bán thời gian ở phòng thông tin chính quyền, sống trong căn nhà nhỏ dưới tán một cây lớn trên một con đường nhỏ vắng vẻ. Ông và gia đình-vợ, tám đứa con và ba cháu – cả ngày gần như núp dưới hầm sát bên nhà. Ngày nọ, bốn hay năm người mặc áo bà ba đen đến nắp hầm. Họ gọi: “Ông Phạm, ông Phạm cán bộ phòng thông tin, ra đây!”

Điềm báo diệt vong

Minh Văn (Danlambao) – Triều đại Cộng Sản (sau đây gọi là Triều Sản) tính đến nay đã tồn tại gần 70 năm. Năm ấy (1945) thế giới hỗn mang, thiên hạ đại loạn, thừa cơ tiên đế liền dấy binh mà lập ra triều sản. Triều đại mới định ra hai lá đại kỳ lớn làm quốc hiệu, lá thứ nhất có hình búa liềm (thực tế là dùng để đập đầu và cắt cổ thiên hạ), lá thứ hai có hình vàng sao (dân gian gọi là vàng mắt). Giới sử học thì gọi đây là “cuộc cách mạng ăn may”, vì chỉ với mấy cây mã tấu cùng gậy gộc mà giành được chính quyền từ tay phát xít Nhật có trang bị tàu bay, xe tăng và đại bác. Nguyên là lúc này quân Nhật đã đầu hàng đồng minh, không còn bụng dạ nào đánh nhau nên đã rút hết quân. Thừa thắng xông lên, triều sản tung hô rằng đây là cuộc cách mạng long trời lở đất, có một không hai trong lịch sử.

1604. Hoàng Sa Trường Sa – Nơi ghi dấu hồn thiêng Đất Việt

Đôi lời: Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc vừa gửi cho chúng tôi đĩa DVD cuốn phim tài liệu Hoàng Sa Trường Sa – Nơi ghi dấu hồn thiêng Đất Việt, tập 1, và đánh giá nội dung phim khá tốt. Phim do Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao thực hiện.
Thử tìm trên YouTube thì thấy cả 2 tập mới được ai đó tải lên, nhưng còn rất ít người biết, tên phim lại không đầy đủ. Cũng không rõ các cơ quan, đơn vị thực hiện bộ phim này đã làm những gì để quảng bá nó.
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=N5a2zCEkA0E


HSTS

http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=HsWI55BfXQM

1605. Tâm nguyện cho một năm mới

FB Tuấn Khanh (*)

Tâm nguyện cho một năm mới

09-02-2013
H2Tôi quyết định chọn những giờ phút thiêng liêng nhất của sự chuyển giao cũ-mới, để tự mình ký tên vào danh sách những người ủng hộ việc sửa đổi hiến pháp 1992, như một lời chúc cho nhân dân và quê hương của mình. Cầu mong cho mọi thứ sẽ như một cuộc sang mùa êm ả, đem lại hạnh phúc, tự do, dân chủ cho đất nước Việt Nam đã quá nhiều khổ đau này.
Có những người bạn của tôi đã hỏi rằng “liệu ký vào đó có ích gì, và liệu có thay đổi gì không, hoặc đó chỉ là một màn kịch?”. Tôi không thể trả lời hết những thắc mắc đó. Thật ra đó là những suy tư có thật – đáng trân trọng – của những người đã sống, đã cảm nhận và lo âu về xã hội của chúng ta, nhiều năm nay, đặc biệt là với người Việt ở miền Nam Việt Nam, từ sau 1975.
Tôi gửi những dòng chữ này đến những anh chị em của tôi, rằng tôi góp phần vào danh sách những người muốn thay đổi Hiến pháp, đặc biệt là thay đổi Điều 4 – quyền lãnh đạo duy nhất và tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam – để xác định rằng tôi không ỷ lại vào sự vận hành tự nhiên phát triển của đời sống chính trị xã hội, mà muốn khẳng định một ước muốn thay đổi từ trái tim mình, khẳng định một thái độ sống với chính kiến tự do trong suy nghĩ, khẳng định với quyền làm người sống với trách nhiệm công dân, không kèm sợ hãi.
Có thể mọi thứ sẽ không có thay đổi nào. Có thể mọi thứ sẽ lại buồn chán như những điều buồn chán mà đám đông đã từng thấy. Có thể! Nhưng tôi tin rằng ký ức và lịch sử người Việt mai sau sẽ ghi lại những nỗ lực này. Cuộc sống sẽ phải có những di chỉ kiêu hãnh về những ước mơ đổi thay cho dân tộc mình, cho dù những ước mơ đó sẽ bị chôn lấp bởi các động cơ khách quan hay chủ quan.
Cầu chúc cho quê hương và dân tộc này sẽ bừng bừng sức mạnh trước cánh cửa thời đại mới, khi mà kẻ thù ngoại xâm đang ngày càng man trá nuốt dần lãnh thổ của cha ông từng đổ máu gìn giữ, và cũng là lúc mà chưa bao giờ trong lòng dân tộc lại có quá nhiều kẻ hèn đến mức trở thành nhu nhược, bán nước, dối trá… như hiện tại.
Cầu chúc cho một đêm đen giao thừa rồi sẽ bừng sáng một niềm tin, bước sang một ban mai mới rực rỡ cho dân tộc này, trước mọi thứ trở thành quá muộn.
Và trước khi biết mình có thể làm được gì khác hơn, tôi đặt bút ký vào kiến nghị sửa đổi Hiến pháp do trang Bauxite Vietnam khởi xướng, như một ước nguyện đầu năm, nhỏ nhoi và mong mỏi cho đất nước mình.
Nguồn: FB Tuấn Khanh
H3
(*) Tác giả: Nhạc sĩ Tuấn Khanh là người đã tham gia biểu tình chống TQ năm 2007. Anh cũng là người đã trình bày bài hát: Này người anh em do NS Trần Lê Quỳnh sáng tác, bài hát đã làm rung động nhiều trái tim.

Mời độc giả thưởng thức bản Trái tim Việt Nam của anh, sáng tác và trình bày vào thời điểm nổ ra các cuộc biểu tình chống TQ xâm lấn biển đảo cuối năm 2007:
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=qMndBB_PKFI

1606. Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”

Diễn đàn

Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”

Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX
Nguyễn Ngọc Giao *
Hiệp định Paris “về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).

Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy “palace siêu hạng” của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày “mất nước”, hay “quốc hận”), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại “cải tạo”, chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington – Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị… , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định — Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa — đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.
Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về  lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí “lề phải” vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với “đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn”. Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng “khai thác độc quyền” (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của “sử đảng”, nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang “sử” ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là “không thể tin được” những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.
Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập “Giải Phóng” và “Quyền Bính” của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva… với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc “động đất lịch sử” ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là “ngợp” trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là “thất vọng” hay “mong mỏi” những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các “dư luận viên” mà nhà nước đang huy động để “đánh Huy Đức” và của các chuyên gia “chống cộng tới chiều” đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận).
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?
Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định…) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và “khoanh” lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.
Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :

Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?

Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ “chiến tranh giải phóng” mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói “chiến tranh giải phóng dân tộc”, đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 — ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”. Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề “hốt cắt đục”) đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.
Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.
Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định “rút pháo ra”, ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và… Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).
Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở “bên thua cuộc” nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù “Việt cộng cướp nước”, oán hận “Mỹ bỏ rơi”.

Nội chiến ?

Đối với quan điểm tuyên truyền “chính thống” của Đảng Cộng sản Việt Nam, “nội chiến” là một điều cấm kị. “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ – Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự “dũng cảm” (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, “dũng cảm” không phải là thuộc tính độc quyền của “ông chủ” (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.
Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ “quốc-cộng”. Tôi để hai chữ “quốc-cộng” trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là “quốc gia”, những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho “chủ nghĩa cộng sản ngoại lai”, quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).
Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). “Nam Kỳ tự trị” năm 1946, “Quốc gia Việt Nam” năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.
Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức…
Chính đường lối “tả khuynh” theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã “bưng mâm bầy cỗ” cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng “chống Pháp” vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một “quốc gia” với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về “phe kháng chiến” nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !
Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do…  Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.
Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động “cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để” (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào “can chú Thanh”, cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất “triệt để mao-ít”. Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc “cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện” ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về “cải tạo công thương nghiệp” do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.

Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?

Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ “Nam quốc sơn hà…” của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (ông ta cũng đủ dí dỏm để,  đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : “Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris”).
Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh ý thức hệ”.
Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.
Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được “ủy nhiệm” để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương “bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không “ăn giơ” với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).

Yếu tố quyết định

Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?
Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).
Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công ?
Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.
Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản “Định ước quốc tế”, tức là đơn thuần “chứng giám” sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái “thế chiến quốc” ở Genève năm 1954 đã qua rồi.

Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc

Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :
Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền “cộng sản” thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một “khoảng thời gian vừa phải” (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian “decent”.
Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách “cải tạo” thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.
Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.
Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.
Berlin, 8.2.2013
Nguyễn Ngọc Giao
Nguồn: Diễn đàn

Ghi chú: GS Nguyễn Ngọc Giao, từng là Phó Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Pháp, tham gia phiên dịch cho Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam.

Đảng sửa hiến pháp - Lợn lành chữa thành lợn què

 
Câu thành ngữ "Lợn lành chữa thành lợn què" có nghĩa: (Mọi vật) đang yên lành, bình thường lại đem ra sửa chữa cải tạo làm cho chúng thành hư hỏng. Nó thường được dùng để "bóng bẩy" chỉ những sự kiện xảy ra trong thực tế mà ở đó có "lợn lành", "lợn què" và "người chữa". Phổ biến có hai loại: "Người chữa" thực sự mong muốn "lợn lành" hơn nhưng vì "lực bất tòng tâm" thành ra lại làm cho "lợn què" hơn. "Kẻ chữa" dư sức làm được cho "lợn lành hơn" nhưng lại cố ý làm cho nó "què" để trục lợi. Sau đây là hai câu chuyện thuộc hai loại trên.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước, phương tiện lưu thông là xe máy đã khá phổ biến. Chủ yếu là các dòng xe nhập từ các nước Đông Âu, Liên Xô cũ, xe bãi Nhật, xe còn lại ở miền Nam từ trước 1975. Bạn bè đồng nghiệp của tôi nhiều người đã có xe máy. Cọc cạch xe đạp nhìn họ nhàn nhã, oai vệ, phóng vèo vèo mà phát thèm. Còn những khi phải còng lưng "guồng" ngược chiều gió nghĩ tới họ thấy mình thật thảm hại, khổ sở. Bởi vậy niềm mơ ước được sở hữu một chiếc ngày một nung nấu, cháy bỏng trong tôi.
Sau khi thuyết phục được mụ vợ vốn được coi là "thần giữ của" chịu bỏ ra vài chỉ và đứt ruột bán đi đôi lợn đang trên đà lớn thì ước mơ ấy đã trở thành hiện thực. Tôi đã có xe máy. Chỉ có điều chiếc xe của người khác có giá bằng một gia tài thì của tôi chỉ đáng giá non nửa. Nó là chiếc Honda 50 cũ kỹ vì đã ra đời cách lúc tôi mua không dưới 20 năm. Nhưng quan trọng là vẫn nổ máy, vẫn chạy được, giúp tôi thoát khỏi cảnh xe đạp lọc cọc mỗi tuần hai lần trên quãng đường ngót ngét 50 km.
Giá kể tôi cứ hài lòng với chất lượng của nó, cứ sử dụng khi hỏng mang ra hiệu sửa thì câu chuyện sẽ dừng lại ở đây. Nhưng tôi lại không như vậy. Vốn dĩ cẩn thận một cách quá mức nên tôi thường không yên tâm về chất lượng của xe và hầu như tuần nào cũng phát hiện được một điểm chưa vừa ý ở nó. Cộng thêm với cả tính tò mò, táy máy nên hễ rảnh rỗi là tôi lai tranh thủ tháo tháo, lắp lắp,.... Tất tật từ những việc đơn giản mà bất kỳ ai cũng làm được đến những việc đòi hỏi phải có tay nghề và dụng cụ chuyên dùng.
Thấy các ngày nghỉ chỉ loay hoay đánh vật với cái "của một đống tiền" vợ tôi cũng đành thôi không sai tôi làm "việc này, việc kia" như trước. Hai nhà bên hàng xóm thì luôn miệng kêu ca, phàn nàn vì tiếng máy nổ và mùi xăng xe. Tôi còn mang cả thói quen "hay tự sửa xe" tới cơ quan nên đành bỏ chơi cầu lông môn thể thao yêu thích sau giờ làm việc buổi chiều. "Đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma".
Liên tục tự sửa chữa chiếc xe cũ với một "tay không có nghề" tôi đã nhiều lần làm nó hỏng nặng thêm. Chưa đầy nửa năm, chiếc xe cũ qua bàn tay tôi đã ngày một nát dần và nát hẳn. Bao phen nó đã phải nhờ tới chiếc xe khác kéo ra hiệu sửa. Lần cuối cùng bị hỏng nặng không thể kéo được buộc tôi phải tháo cụm máy, chất lên xe đạp chở tới hiệu và bán nó. Cũng may là nó thuộc dòng xe dễ tân trang nên không bị lỗ nhiều. Trở lại cảnh xe đạp cọc cạch được một năm tôi lại tiếp tục mua chiếc xe khác. Chiếc này tốt hơn và dù chỉ hỏng lặt vặt tôi cũng mang tới hiệu để sửa. Chuyện "lợn lành chữa thành lợn què" của tôi kết thúc từ đó.
Câu chuyện thứ hai có nhan đề là "đảng sửa hiến pháp"
Giành được chính quyền vào tháng 8 năm 1945 thì tới tháng 11 đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và đến năm sau thì hiến pháp 1946 ra đời.
Động thái đầu tiên để chứng tỏ nhà nước VNDCCH không có dính líu gì tới cộng sản, nhằm được cộng đồng quốc tế trong đó có các nước dân chủ vốn ghét, tẩy chay cộng sản công nhận. Nhưng đó chỉ là động tác giả vì sau khi tuyên bố giải tán, đảng cộng sản vẫn hoạt động núp dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương và những hoạt động của đảng này được trộn chung với những hoạt động của Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1951 sau khi được Liên Xô, Trung Quốc công nhận, đảng cộng sản tiếp tục công khai với tên mới là đảng lao động. Năm 1976 sau khi chiếm được hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước đảng lao động trở lại tên là đảng cộng sản Việt Nam.
Động thái thứ hai để khoe nhà nước mới thành lập cũng có một hiến pháp như của các nước dân chủ tất sẽ là nhà nước dân chủ như tên gọi và cũng nhằm mục đích như động thái đầu tiên. Nhưng rốt cuộc hiến pháp 1946 sinh ra lại chỉ để "trang trí".
Đánh giá hiến pháp 1946 một số chuyên gia pháp luật đã cho rằng: Tuy vẫn còn một số phiếm khuyết nhưng nó đã có nhiều ưu điểm như hiến pháp của các nước dân chủ, là một văn bản lập hiến tương đối gần gũi với các bản hiến pháp dân chủ hiện đại, không áp đặt nguyên tắc “tập trung dân chủ” của Lenin vào hoạt động của Nhà nước, ngắn gọn, súc tích các điều khoản về dân quyền rõ ràng, không mập mờ bởi cụm từ “theo quy định của pháp luật” đồng thời phân định rõ quyền lập pháp, hành pháp, tòa án. Đặc biệt điều 32 và điều 70 ghi rõ quyền phúc quyết của toàn dân về các vấn đề trọng đại của đất nước, về sửa hiến pháp. Tiếc rằng nó lại bị "bỏ quên" không hề được thực thi.
Trong 8 năm kháng chiến chống Pháp nhiều người còn lầm tưởng là do hoàn cảnh chiến tranh khó thực thi. Nhưng khi hòa bình lập lại chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất "long trời lở đất" cướp đi sinh mạng của hàng vạn người vô tôi, xét xử vụ án nhân văn giai phẩm đày đọa, bỏ tù các văn nghệ sĩ chỉ vì họ sử dụng quyền tự do ngôn luận thì người ta hiểu 8 năm chỉ là thời gian chờ đợi thời cơ chín mùi để nhà nước cộng sản công khai "nhổ toẹt" vào nó. Cho tới khi nước VNDCCH đã được các nước trong phe XHCN công nhận, các đảng phái đối lập bị dẹp gần hết để có một quốc hội gồm đa số là đảng viên cộng sản thì vai trò "trang trí" của hiến pháp 1946 đã hết. Dù chưa được sử dụng nó vẫn được sửa đổi để trở thành một hiến pháp mới là hiến pháp 1959 với lý do muôn thuở là để "phù hợp với giai đoạn cách mạng mới".
Là sửa đổi của hiến pháp 1946 nhưng hiến pháp 1959 có tới 10 chương 112 điều so với 7 chương 70 điều của hiến pháp 1946. Trong bối cảnh mới vai trò "trang trí" của nó cũng được giảm nhẹ hơn hiến pháp 1946. Mặt khác nó lại được sửa đổi bởi một quốc hội mà đa số đảng viên. Bởi vậy nó đã bắt đầu có những dấu hiệu xa rời hơn với một hiến pháp dân chủ so với hiến pháp 1946. Chẳng hạn quyền phúc quyết của toàn dân đã bị thay bằng quyền phúc quyết của quốc hội. Các quyền tự do của công dân trong điều 25 đã có sự can thiệp của nhà nước qua câu thêm thắt "nhà nước đảm bảo các điều kiện vật chất để công dân được hưởng các quyền đó"... Nhưng trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, chuẩn bị tiến chiếm miền Nam qua chiêu bài"giải phóng" hiến pháp 1959 chưa dám có những nội dung vi hiến, phản dân chủ, chà đạp nhân quyền lộ liễu, trắng trợn như hiến pháp 1980.
Ra đời sau khi cuộc tiến chiếm miền Nam thành công mà vẫn tự xưng là "giải phóng miền Nam", đất nước đã không còn chia cắt, tên nước VNDCCH đã được đổi thành CHXHCNVN đảng lao động trở lại là tên đảng cộng sản, hiến pháp 1980 đã thể hiện bản chất kiêu căng, phản dân chủ qua lời nói đầu và 147 điều trong 12 chương của nó. Lời nói đầu dài lê thê là một bản ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của đảng nhằm định hướng để nêu ra các điều vi hiến, phản dân chủ. Trong số 147 điều của hiến pháp 1980 điều 4 là điều mà dư luận đề cập đến nhiều nhất. Người ta phân tích điều 4 mâu thuẫn với điều 3, 8, 15, 16, 21, 83. Chỉ ra nó vi phạm quyền con người. Tố cáo nó phá hủy nền tảng của chính bản hiến pháp. Tìm thấy nguồn gốc của nó là từ điều 6 của Liên Xô. Thấy nó hao hao giống bộ luật 26/5/1933 của Hítle. Và nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã thú nhận điều 4 là để bảo vệ chế độ độc tài toàn trị của đảng qua câu nói bất hủ "bỏ điều 4 là tự sát". Ngoài điều 4 còn nhiều điều khác trong hiến pháp 1980 cũng có biểu hiện vi phạm quyền con người chẳng hạn như điều 28, 67.
Hiến pháp 1992 là sửa đổi của hiến pháp 1980 ra đời trong bối cảnh: Các chế độ cộng sản ở Liên Xô, Đông Âu tan rã. Việt Nam nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sau hội nghị "đầu hàng" ở Thành Đô. Đang tiến hành công cuộc "đổi mới" thực chất là quay trở lại với kinh tế thị trường. Cũng có 12 chương và 147 điều như hiến pháp 1980. Điều 4 gần như giữ nguyên, các điều nói về quyền tự do đều có kèm "theo quy định của pháp luật" thể hiện sự luẩn quẩn với mục đích hạn chế quyền này. Đặc biệt điều 17, 18 quy định hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai là nguyên nhân của hiện tượng lạm dụng chức quyền tham chiếm dụng đất đai của nông dân gây ra cảnh dân oan khiếu kiện ngày càng tăng hiện nay.
Giống như hiến pháp 1980 hiến pháp 1992 cũng có một chương về bảo vệ tổ quốc nhưng số điều đã tăng từ 3 tới 5. Nhưng thật khôi hài số điều được tăng lên thì đất đai của tổ quốc ngày càng mất dần. Sau hiệp ước phân định biên giới năm 2000 Việt Nam đã mất hàng chục nghìn cây số vuông đất biên giới về tay Trung Quốc các địa danh quen thuộc như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc nay cũng không hoặc chỉ còn một nửa. Năm 2009 nhà nước cộng sản Việt Nam còn để Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên một địa bàn chiến lược quan trọng, bán với thời hạn 50 năm hàng chục nghìn ha rừng biên giới đe dọa nghiêm trọng an ninh quốc gia.
Sau đại hội đảng lần thứ 11 bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam ngày càng ảm đạm, mà thủ phạm chính là "bầy sâu" tức một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên bất tài, tham nhũng, suy thoái về đạo đức lối sống. Điều này đã làm mất lòng tin của người dân, nhà nước cộng sản đứng trước nguy cơ tan rã, sụp đổ.
Để yên lòng dân đảng cộng sản phải gấp rút ban hành nghị quyết 4 và tổ chức hội nghị TW 6 nhằm chỉnh đốn đảng nhưng họ đã thất bại. Tiếp tục mị dân, cuối 2012 đầu 2013 họ lại tiếp tục diễn trò sửa đổi hiến pháp 1992 để cho ra đời hiến pháp mới vào tháng 10/2013. Nội dung của "vở diễn" là đưa ra một dự thảo hiến pháp sửa đổi để toàn dân góp ý sau đó ban soạn thảo hiến pháp sẽ biên tập và công bố. Chưa đến thời điểm công bố nhưng căn cứ vào tuyên bố răn đe các ý kiến đóng góp trái chiều thì có thể thấy hiến pháp 2013 là "nguyễn y vân" như bản dự thảo.
Dự thảo sửa đổi hiến pháp có 10 chương, 124 điều trong đó có một số điều giữ nguyên, một số sửa đổi, một số gộp lại, một số đưa thêm vào. Cũng như các hiến pháp trước lời nói đầu không thể thiếu phần nói về sự lãnh đạo tài tình của đảng để làm cớ giữ nguyên điều 4. Tiếp tục giữ nguyên các điều hạn chế quyền tự do của con người của hiến pháp 1992 và còn đưa thêm vào điều 16 cũng với mục đích trên. Điều 58 "hợp hiến hóa" việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế- xã hội tạo điều kiện cho tham nhũng về đất đai phát triển. Điều 70 yêu cầu lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng cộng sản trước tiên sau đó mới đến tổ quốc và nhân dân có nghĩa nếu quyền lợi của dân và của đảng mâu thuẫn quân đội phải bảo vệ đảng chống lại nhân dân.
Như vậy kể từ hiến pháp đầu tiên 1946 tới nay đã và sẽ có thêm 4 hiến pháp nữa. Nếu lấy thước đo là một hiến pháp dân chủ tiến bộ thì các hiến pháp 1959, 1980, 1992 và dự thảo sửa đổi hiến pháp 2013 là những bước thụt lùi ngày càng lớn so với hiến pháp 1946. Chúng hoàn toàn không đủ tiêu chuẩn để gọi là hiến pháp mà chỉ đáng gọi là những "bộ luật cai trị dân của đảng". Lý do hết sức đơn giản là: quốc hội cũng chính là đảng đã sửa hiến pháp với mục đích công khai "cần có một bản hiến pháp để thể chế hóa đường lối của đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới" mà dân chủ với đảng thì không đi chung một con đường.

2/2013
Trần Hoàng Lan
(DLB)

Trung Quốc với chiến lược ‘đại hải phòng’ trên Biển Đông

Tienphong

TP – Kiên định chiến lược phòng vệ biển quy mô lớn, Trung Quốc tích cực nâng cao năng lực tác chiến trên biển đảo.
Cùng với giá trị chiến lược và tiềm năng kinh tế ở biển Đông ngày càng rõ nét, về nguyên tắc, khả năng Trung Quốc nhượng bộ và thỏa hiệp là rất nhỏ. Thủ đoạn giải quyết các vấn đề liên quan của nước này có thể sẽ càng linh hoạt.
Ngày 27-12-2012, lần đầu tiên Trung Quốc triển khai trên biển Đông một tàu tuần tra được trang bị bãi đáp<br />
            trực thăng. Con tàu này tên là Haixun 21 (Hải tuần) trực thuộc Sở An toàn hàng hải Hải Nam. Ảnh: China Daily” src=”<a href=http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=282047&Width=400&#8243; />
Ngày 27-12-2012, lần đầu tiên Trung Quốc triển khai trên biển Đông một tàu tuần tra được trang bị bãi đáp trực thăng. Con tàu này tên là Haixun 21 (Hải tuần) trực thuộc Sở An toàn hàng hải Hải Nam. Ảnh: China Daily.
Ông Futai Lin, Phó giáo sư khoa học chính trị Học viện Masachusetts (Mỹ), cho rằng, quyết tâm bảo vệ các đảo ở biển Đông và quyền lợi biển liên quan của Trung Quốc là rất kiên định. Trung Quốc coi biển Đông là phạm vi tác chiến của hải quân, lấy lực lượng quân sự để bảo vệ biển Đông.
Có thể dùng biện pháp quân sự
Theo ông Lin, một mặt, cùng với sự tăng trưởng về thực lực, Trung Quốc có khả năng sử dụng quân sự để giải quyết vấn đề biển Đông.
Mặt khác, một Trung Quốc hùng mạnh có thể sẽ tăng sự tự tin, vì vậy sẽ hiệu quả hơn khi lợi dụng các biện pháp phi quân sự để giải quyết tranh chấp biển Đông.
Dự báo trong tương lai gần, Trung Quốc có thể có nhiều chiến lược táo tợn hơn, sau khi thử nghiệm thành công tàu sân bay Liêu Ninh.
Ông Lưu Mộng Hùng, Ủy viên Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc cho rằng trong vấn đề biển Đông, “các nước liên quan tạo nên xung đột”, Trung Quốc có thể thực thi “chống xung đột”.
Khi đối phương thường trú tại vùng biển do Trung Quốc quản hạt, phía Trung Quốc có thể sử dụng biện pháp tập kích cắt lương thực, cắt nguồn nước, buộc đối phương không thể bảo đảm được cuộc sống mà phải tự động rút lui.
Vì thông tin là sự bảo đảm tất yếu của việc thường trú, phía Trung Quốc có thể sử dụng những biện pháp quấy nhiễu không định kì…
Đối với ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở biển Đông, có thể yêu cầu chính phủ cử quân hạm, tàu hộ tống để bảo vệ tàu cá, ông Lưu nói.
Mặt khác, phải tăng cường khai thác dầu khí, cùng bắt tay hợp tác với Đài Loan trong lĩnh vực thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí ở biển Đông.
Đồng thời, phân chia các ngư trường tại vùng biển tranh chấp cho ngư dân; đối với các đảo không người ở bị chiếm bởi các nước xung quanh, chính phủ Trung Quốc nên bỏ kinh phí để khích lệ ngư dân lên đảo định cư, ông Lưu đề xuất.
Khi xảy ra xung đột tại vùng biển tranh chấp, Trung Quốc trước tiên gửi công hàm ngoại giao cứng rắn đến nước láng giềng liên quan, sau đó gửi thông điệp cuối cùng hạn cho trong vòng hai tháng phải rút khỏi toàn bộ các đảo đã xâm chiếm.
Sau khi đến hạn, Trung Quốc sẽ đưa ba đội tàu tổ hợp từ ba hạm đội tinh nhuệ Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải tới quần đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền, ông Lưu nói.
Biến hóa chiến lược biển Đông
Năm 2012 là một năm biển Đông không ngừng dậy sóng. Tham vọng độc chiếm biển Đông của Trung Quốc được thể hiện ngày càng thực chất và rõ ràng.
Trung Quốc liên tục có hành động gây hấn ở biển Đông. Các lực lượng hải quân, hải giám, hải tuần, thực thi luật pháp cùng nhau tham gia hiện thực hóa chiến lược xuyên suốt, chủ trương dài hạn này của chính phủ Trung Quốc, nhiều nhà quan sát kết luận.
Với những động thái gây hấn của Trung Quốc thời gian qua, các nước trong khu vực có thể khẳng định một điều rằng, Trung Quốc đang có những động thái thực chất nhằm hiện thực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông với cái gọi là “đường 9 đoạn” hay còn gọi là “đường lưỡi bò”.
Xét về bản chất, chiến lược biển Đông của Trung Quốc thuộc chiến lược biển quốc gia với nội dung đa dạng.
Nhìn từ góc độ kinh tế là phát triển kinh tế biển; nhìn từ góc độ chính trị là xây dựng liên minh chính trị ở biển Đông; nhìn từ góc độ quân sự thì đó là việc bảo vệ và phát triển quyền lợi biển. Vì thế, hai năm trở lại đây, chiến lược biển của Trung Quốc đã có những điều chỉnh lớn.
Năm ngoái, Trung Quốc đã tuyên bố “vấn đề biển Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc” và thông báo với thế giới rằng, nước này có chủ quyền với hầu hết diện tích biển Đông.
Biển Đông dậy sóng
Ngày 19-7-2012, Trung Quốc chính thức quyết định thành lập “Cơ quan chỉ huy quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 21-7-2012, Trung Quốc tổ chức bầu cử đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân khóa I của cái gọi là “thành phố Tam Sa”.
Trung Quốc còn xuất bản trái phép bản đồ Tam Sa, với phạm vi bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam… Theo các nhà phân tích, những động thái gây hấn này hiển nhiên đã làm tăng mức độ chấp pháp đối với biển Đông về mặt hành chính, đồng thời cho thấy, vấn đề biển Đông sẽ trở thành trọng điểm chiến lược quan trọng nhất của an ninh quốc gia Trung Quốc.

Hơn 10.000 tàu cá Trung Quốc từ tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến đổ ra biển Đông ngày<br />
            16-9-2012, dưới sự hướng dẫn của tàu hải giám.<br />
            Ảnh: Xinhua” src=”<a href=http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=282048&Width=400&#8243; />
Hơn 10.000 tàu cá Trung Quốc từ tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến đổ ra biển Đông ngày 16-9-2012, dưới sự hướng dẫn của tàu hải giám. Ảnh: Xinhua.
Trong một động thái khác, ngày 23-6-2012, Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc thông báo chào thầu quốc tế tại 9 lô dầu khí nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đối tượng mời thầu lại nhằm vào các công ty quốc tế.
Như vậy, Trung Quốc đã dùng công cụ kinh tế, ngang nhiên mời thầu để một mặt để xác lập quyền chủ đạo của mình trên biển Đông, mặt khác dùng sự hợp tác thương mại để đổi lấy sự ủng hộ về chính trị.
Nằm trên “trận địa tuyến đầu” trong tranh chấp biển Đông, tỉnh Hải Nam ngày 27-11-2012 thông qua “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam”, cấm thuyền bè nước ngoài xâm nhập phi pháp vào vùng biển Đông, nơi mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
Đồng thời, lần đầu tiên, đưa ra một cách rõ ràng “các biện pháp trừng phạt” bao gồm kiểm tra, giam giữ, trục xuất… Có thể nói, đây là hành động đầu tiên mang tính cưỡng chế trong vấn đề biển Đông.
Tuy nhiên, sau đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo, quy định mới của tỉnh Hải Nam có hiệu lực từ ngày 1-1-2013, nhưng chỉ được áp dụng trong phạm vi 12 hải lý tính từ bờ biển đảo Hải Nam theo luật Trung Quốc thông qua năm 1999.
Trước đó, Trung Quốc công bố đã phát hành phiên bản hộ chiếu mới, đưa khu vực bao gồm các đảo tranh chấp ở biển Đông vào hình bản đồ Trung Quốc in trong hộ chiếu, làm dấy lên sự phản ứng dữ dội của nhiều nước trên thế giới.
Gần đây, Bộ Quốc phòng Trung Quốc thiết lập chế độ tuần tra chiến đấu bình thường ở biển Đông.
Theo các nhà phân tích, động thái quân sự này có ý nghĩa sâu rộng về tương lai phát triển của tình thế biển Đông. Chế độ tuần tra chiến đấu này nghĩa là luôn luôn sẵn sàng tham gia chiến đấu.
Hành động này không nói cũng hiểu, nó mang tính răn đe đối với các nước láng giềng có tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Đông. Như vậy, Trung Quốc đã đưa việc sử dụng vũ lực vào phương án giải quyết vấn đề biển Đông.
Theo các nhà phân tích, trước và sau năm 2012, chiến lược “Tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương” của Mỹ ảnh hưởng tới các nước láng giềng của Trung Quốc, làm cho nước này càng bất mãn. Vì thế, Trung Quốc một mặt gay gắt chỉ trích Mỹ, mặt khác, áp dụng nhiều biện pháp gây hấn nhằm vào Philipinnes và Việt Nam.
Trong thời gian diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á cuối năm 2012, Tổng thống Mỹ Barack Obama lần đầu tiên sau khi tái đắc cử đã có những hoạt động ngoại giao quy mô lớn hướng vào các nước láng giềng của Trung Quốc nằm xung quanh biển Đông.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng đến du thuyết các nước trong khu vực. Ngày cuối cùng của hội nghị, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo không ngần ngại nói trước Tổng thống Philippines Aquino III rằng, bãi cạn Hoàng Nham/Scarborough mà hai bên đang tranh cãi kịch liệt là của Trung Quốc.
Xuân Phúc
Tổng hợp từ báo chí Trung Quốc và Mỹ

Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực


Tienphong

TP – “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Không một ông vua, không một chính phủ nào có thể tồn tại nếu không có dân”- GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý trao đổi nhân việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Các bạn thanh niên bỏ phiếu bầu cử. Ảnh: Hồng Vĩnh
Các bạn thanh niên bỏ phiếu bầu cử. Ảnh: Hồng Vĩnh.
GS.TS Lê Hồng Hạnh nói:
Ý nghĩa nổi bật nhất của việc lấy ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là sự thừa nhận ý chí, quyền lực của nhân dân, vị trí tối thượng của nhân dân đối với nội dung bản tuyên ngôn chính trị pháp lý quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Không một ông vua, không một chính phủ nào có thể tồn tại nếu không có dân.
“Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”- triết lý này Nguyễn Trãi nói cách đây hơn 5 thế kỷ rồi. Việc lấy ý kiến về Hiến pháp làm tăng giá trị nhân dân, giá trị dân chủ và tính khả thi của Hiến pháp sau khi được ban hành.
Dân phúc quyết Hiến pháp

“Tha hóa quyền lực, lạm dụng quyền lực là điều khó tránh nếu quyền lực không được kiểm soát?”. GS.TS Lê Hồng Hạnh
“Tha hóa quyền lực, lạm dụng quyền lực là điều khó tránh nếu quyền lực không được kiểm soát?”. GS.TS Lê Hồng Hạnh.


Trong thảo luận tại Quốc hội, một số đại biểu đề xuất bổ sung quy định về việc dân phúc quyết Hiến pháp. Phúc quyết, trưng cầu ý dân là quyền rất quan trọng nhưng chưa được quy định rõ ràng là quyền hiển nhiên của người dân cần được hiến định. Lần sửa đổi này theo ông nên được quy định ra sao?
Tôi ủng hộ những ý kiến đó vì những người đưa ra đề xuất như vậy thực sự muốn bản Hiến pháp có nền tảng dân chủ, nền tảng xã hội lớn hơn. Hiến pháp là tuyên bố của nhân dân trao quyền cho các thiết chế chính trị thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực được giao phó.
Không phải Quốc hội, không phải Chủ tịch nước, Chính phủ hay Tòa án cho dân quyền này, quyền kia. Chính nhân dân trao cho các cơ quan này quyền lực và họ có trách nhiệm thực thi nó phù hợp với ý chí của nhân dân được thể hiện trong Hiến pháp.
Không ít người, kể cả đại biểu Quốc hội, nhiều chính khách cho rằng Quốc hội có quyền lựa chọn và quyết định hiến định những vấn đề quan trọng của đất nước, ví dụ chọn mô hình nhà nước, chọn chế độ chính trị, vấn đề sở hữu vv…
Tôi cho rằng hiểu như vậy chứng tỏ chưa hiểu bản chất của Hiến pháp. Chỉ có nhân dân mới có quyền lựa chọn và quyết định những điều đó. Chính vì thế, phúc quyết của nhân dân đối với bản Hiến pháp mới hay Hiến pháp sửa đổi phải được coi là quyền đương nhiên của nhân dân.
Dù có đưa vào Hiến pháp quyền phúc quyết hay không, các cơ quan quyền lực nhà nước cũng phải có trách nhiệm đảm bảo để nhân dân thực hiện nó. Đương nhiên chính là ở chỗ đó.
Đảng với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội cũng phải đảm bảo để quyền phúc quyết của nhân dân được thực hiện. Giữa phúc quyết và lấy ý kiến nhân dân có sự khác nhau rất lớn về mức độ đảm bảo dân chủ, sự thượng tôn vai trò của nhân dân.
Tôi không thấy có lý do nào để không qui định quyền phúc quyết của nhân dân trong Hiến pháp sửa đổi lần này. Ngay khi đất nước mới giành được độc lập, thù trong giặc ngoài bao vây, chống phá, đa số người dân còn mù chữ, song Đảng và Bác Hồ vẫn chủ trương để nhân dân phúc quyết bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước.
Trở lại lịch sử, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định nguyên lý mọi quyền bính đều thuộc về dân. Nhân dân là gốc của mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước. Do đó nhân dân phải được quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng nhất của đất nước, thưa ông?
Tôi cho rằng quyền lực của nhân dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cần thể hiện theo tinh thần và lời văn của Hiến pháp 1946. Có người cho rằng quay trở lại Hiến pháp 1946 là không đúng, không phù hợp, thậm chí chệch hướng do bối cảnh ngày nay khác với thời điểm năm 1946.
Nếu thực sự hiểu đúng dân chủ, hiểu đúng vai trò của nhân dân thì không có sự đoạn tuyệt như vậy được.
Dù ở trong bối cảnh hiện nay, bối cảnh của 100 năm trước hay của 100 năm sau nếu chúng ta thực sự hiểu đúng bản chất của dân chủ và quyền lực nhân dân thì tuyên ngôn của Hiến pháp 1946 “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” vẫn hoàn toàn mang tính thời đại.
Một tuyên ngôn thượng tôn nhân dân trong trong thực thi quyền lực nhà nước in đậm dấu ấn tư tưởng của Bác Hồ mãi mãi là một thiên cổ hùng văn thể hiện khát vọng dân chủ của Nhân dân và của Đảng ta.
Giá trị của tuyên bố trên trong Hiến pháp 1946 thiêng liêng chẳng khác gì tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” mà Lý Thường Kiệt đọc trên sông Như Nguyệt.
Quyền lực phải được kiểm soát
Theo Hiến pháp, quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân, quyền lực của Nhà nước là quyền phái sinh, từ nhân dân mà ra, do nhân dân trao cho. Theo ông sửa Hiến pháp lần này cơ chế kiểm soát quyền lực cần được quy định ra sao và cần nhấn mạnh những yếu tố nào?
Tha hóa quyền lực, lạm dụng quyền lực là điều khó tránh nếu quyền lực không được kiểm soát, cân bằng bởi cơ chế thích hợp. Nguy cơ này trở nên đáng sợ hơn ở những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển. Ở Việt Nam cũng vậy, nếu chúng ta đi sâu vào thực tiễn kinh tế, xã hội của đất nước.
Thú thực, đôi khi tôi thấy kỳ lạ là ngay nhiều người làm bảo vệ cũng tìm cách thực thi quyền “cho qua cổng” theo hướng tối đa hóa sức nặng của nó, chưa nói đến cảnh sát giao thông, nhân viên thuế vụ và trên nữa là nhiều quan chức cao cấp.
Với xu thế thích làm quan, thích thể hiện quyền lực như vậy thì lạm dụng, tha hóa quyền lực là đại vấn đề của bộ máy nhà nước và xã hội ta hiện nay.
Quyền lực muốn được kiểm soát trước hết phải được phân định rõ ràng, cơ quan nào thực hiện quyền gì và phạm vi đến đâu, trách nhiệm của các cơ quan quyền lực như thế nào khi có những vi phạm hay có sự trì trệ, tắc trách. Theo tôi, Hiến pháp khó có thể qui định đầy đủ và chi tiết song những điểm sau đây nhất thiết cần phải được hiến định:
Thứ nhất, phải xác định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp và tạo ra được những cơ chế kiểm soát lẫn nhau có hiệu quả giữa các cơ quan này.
Đây là điều kiện tiên quyết cho việc hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực. Khi không được phân công rõ, không phải chịu trách nhiệm thì các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước dễ lạm dụng để rồi “khiên và áo giáp” bảo vệ các cơ quan này khỏi trách nhiệm pháp lý sẽ là “lỗi hệ thống”, “ý kiến của tập thể”.
Có mấy ai phải chịu trách nhiệm về những yếu kém, sai lầm trong thực thi quyền lực nhà nước nếu như những việc đó chưa đẩy đến mức trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, cần tăng cường sự giám sát thực chất của nhân dân. Sự giám sát của nhân dân, không chỉ là sự thể hiện quyền lực tối thượng của nhân dân mà còn là sự đảm bảo cho quyền lực nhà nước không bị tha hóa.
Hiện tại, việc giám sát của nhân dân được thực hiện qua các tổ chức chính trị và chính trị xã hội là chủ yếu và các tổ chức này thì khó có được ý kiến độc lập thực sự.
Cơ chế giám sát hiện hành còn hình thức và ngay cả việc nhân dân lựa ai thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước cũng như vậy.
Cần có sự giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội với những ý kiến độc lập, mang tính chất phản biện thực sự. Với việc sửa đổi Hiến pháp lần này, hãy để cho nhân dân chọn phương thức giám sát phù hợp với nguyện vọng của mình.
Thứ ba, cần lựa chọn kỹ các thiết chế kiểm soát và cân bằng quyền lực có khả năng phát huy tốt trong điều kiện chính trị xã hội của đất nước. Theo tôi Kiểm toán nhà nước, Ủy ban bầu cử độc lập là những lựa chọn có thể phù hợp. Dĩ nhiên, những thiết chế khác cũng hoàn toàn có thể hiến định nếu phần lớn nhân dân yêu cầu phải có những thiết chế đó.
Cám ơn ông.
Hà Nhân
thực hiện
> Cần bản Hiến pháp có đời sống bền vững
> Hiến pháp phải để toàn dân hiểu

Ông "lão" Dương Danh Dy - người “nặng lòng” với biển, đảo quê hương

Là một nhà nghiên cứu về Biển Đông lâu năm, dù đã ở tuổi hơn 80 nhưng ông "lão" Dương Danh Dy vẫn kiên trì bền bỉ theo dõi tình hình Biển Đông và động thái của Trung Quốc.
Nhà nghiên cứu Trung Quốc, Dương Danh Dy
Hơn 80 tuổi vẫn đau đáu chủ quyền biển, đảo quê hương

Ngôi nhà cấp 4 gần đường Bưởi, nhà ông già Dy, luôn có khách đến chơi, nhất là khi Biển Đông có sự kiện nổi sóng. Những khách đến chơi ấy thường là cánh nhà báo viết về Biển Đông. Từ ông già đã về hưu đến hơn 20 năm nay, ẩn dật trong con hẻm nhỏ nay ông đã được nhiều người biết đến hơn. Người dân nhận ra hình ảnh ông lão móm mém nhưng khẩu khí mạnh mẽ, rắn rỏi. Nhất là khi trò chuyện về vấn đề Biển Đông, khuôn mặt ông hồng hào, đầy sức sống, giọng nói trở nên khúc triết rõ ràng hơn. Ông lão ấy là Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu (TQ).
Năm nay, đã vượt qua tuổi xưa nay hiểm, bước sang tuổi hiếm hơn nữa (hơn 80 tuổi) nhưng ông già Dy vẫn giữ một tác phong làm việc lớp trẻ cũng phải thua. Hàng ngày ngoài giờ đi tập thể dục, đi dạo nâng cao thể lực ông vẫn vào máy tính kỳ cạch đọc các bài bằng tiếng Trung Quốc để tìm hiểu xem Trung Quốc đang nói gì, làm gì?
Mỗi khi cánh phóng viên chúng tôi gọi đến hỏi về các sự kiện trên Biển Đông, ông đều nắm rất rõ và thể hiện quan điểm kịp thời. Ông kể: Sự kiện Trung Quốc in bản đồ hình lưỡi bò lên hộ chiếu, ngay tối hôm đó, một tờ báo đã gọi điện ngay cho ông và sáng hôm sau, trả lời của ông đã được hiển hiện trên tờ báo phát hành cả nước.
Mặc dù sống trong ngôi nhà cấp 4 đơn sơ, nhưng ông vẫn miệt mài nghiên cứu Biển Đông. Ông vẫn thường phải bỏ tiền túi ra để in tài liệu. Ông rất vui khi kể về tình cảm của người dân đối với những người dám nói về Biển Đông. Ông kể: “Có lần tôi đi sửa máy in, cậu chủ cửa hàng in nhận ra tôi xuất hiện trên báo. Chúng tôi nói chuyện một lúc rồi cậu ấy bảo: ‘Cháu rất bức xúc trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, cảm ơn bác đã nói hộ chúng cháu. Và nói cho người dân hiểu về tình hình Biển Đông. Cháu không lấy tiền của bác’”. Mặc dù số tiền không phải là nhiều, chỉ dưới 100 ngàn nhưng ông rất vui. Niềm vui nhỏ nhoi ấy là một sự động viên đáng kể với những người nghiên cứu Biển Đông như ông.
Công việc nghiên cứu Trung Quốc, nghiên cứu Biển Đông ông làm đã lâu, chẳng ai yêu cầu ông làm, chẳng ai nhờ ông làm và cũng chẳng được hưởng thù lao gì từ công việc này. Ông chỉ tâm niệm còn hơi sức nào, làm được gì cho tổ quốc thì mình làm. Mong muốn lớn nhất của ông là Nhà nước sớm tập hợp những nhà nghiên cứu kỳ cựu, đưa họ vào cơ quan nghiên cứu tầm quốc gia để họ có được những cống hiến nhiều hơn cho tổ quốc.

(Infonet)

“Ba chàng ngự lâm”:Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười- tam nhân thành hổ (1)

Phamvietdao.net: Sở dĩ chủ blog lấy tựa đề này vì hôm nay là ngày tất niên, năm nay là năm thiếu, không có ngày 30 nên tất niên rơi vào ngày 29, ngày mà dân gian vẫn gọi là “năm cùng tháng tận”…Đã có nhiều lời bàn về cái ngày tất niên này; một trong những đặc điểm của cái ngày tất niên đã đúc kết thành thành ngữ: “tối như đêm ba mươi”; Không hiểu sao dân gian lại cũng có một thành ngữ khác: ông ba mươi…để chỉ về con hổ, một loài thú ăn thịt hung dữ; Không biết có liên quan gì giữa 2 thành ngữ này trong các nội hàm của nó, ai biết mách dùm…

Trong loạt bài dưới đây trích từ trong cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức, chủ blog mượn uy của hổ để nói về 3 người gác cửa cung đình, “ ba chàng ngự lâm” trong những năm 90 của thế kỷ trước: ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười, ông Võ Văn Kiệt; đó là những năm tháng mà đất nước vừa ra khỏi chiến tranh chưa lâu những vẫn ở trong cái tình thế tứ bề thọ địch; đất nước rối ren, lòng dân ly tán…tiền đồ đất nước mịt mù, tăm tối y như “ đêm ba mươi”…

Ba chàng ngự lâm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt này đã chèo chống, dẫn dắt dân tộc thoát ra khỏi khu rừng rậm nhiều đèo dốc, suối sâu, vực thẳm và thú dữ như thế nào người đọc có thể phần nào hình dung qua những ghi chép của Huy Đức …

Xin trân trọng cảm ơn Huy Đức và xin hứa sẽ dành thời gian đọc kỹ Bên thắng cuộc , sẽ phát biểu những cảm nghĩ trân trọng của mình về tập tư liệu quý do anh với tư cách một nhà báo hiến tặng độc giả…

Nhân đây xin làm rõ thêm cái thành ngữ “ Tam nhân thành…hổ “ của Trung Quốc mà chủ blog vay mượn một cách khiên cưỡng, “áp đặt” nhằm làm tựa đề cho đoạn trích giới thiệu đoạn Bên thắng cuộc của Huy Đức; đoạn ghi chép liên quan tới các ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí Thư; ông Đỗ Mười nguyên TBT; ông Võ Văn Kiệt nguyên Thủ tướng...

Khảo dị về xuất xứ của thàng ngữ Tam nhân thành hổ:

“Câu thành ngữ này có từ thời Chiến Quốc (từ thế kỉ thứ V đến năm 221 TCN). Đại khái có nghĩa đen như sau : Ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật. Qua đó mà nói đến một ý nghĩa sâu xa hơn : Một việc, dù cho sai lầm đến nhiều người đã có cùng một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dễ khiến người ta nghi nghi hoặc hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải. Một chân lý có chứng minh rõ ràng, mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận.

Những lời lưỡi mềm độc quá đuôi ong hoặc sức mạnh của dư luận cũng khiến cho những người tin tưởng bạn nhất, yêu thương bạn nhất cũng có thoáng chút phải lung lay. Câu “tam nhân thành hổ” rút ra từ câu chuyện của Bàng Thông tâu với Nguỵ Vương. Quân - thần có lúc tin có lúc ngờ, dụng nhân thế nào cho tốt là tài của người lãnh đạo. Người xưa có câu “dùng thì không nghi, nghi thì không dùng” là lẽ ấy. Nhưng tình mẫu - tử chí than còn có lúc không tin vào con mình, dù người ấy có là bậc đại hiền như Tăng Sâm.

Câu chuyện “Tăng Sâm giết người” có lẽ sẽ khiến ta có nhiều ngẫm nghĩ hơn cả câu chuyện “tam nhân thành hổ” :

“Ông Tăng Sâm ở đất Phi, ở đấy có kẻ trùng tên với ông giết chết người.

Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng:

"Tăng Sâm giết người."

Bà mẹ nói: "Chẳng khi nào con ta lại giết người". Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi.

Một lúc lại có người đến bảo:

"Tăng Sâm giết người."

Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi .

Một lúc lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người."

Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn.” (Cổ Học Tinh Hoa)

Miệng lưỡi thế gian ghê gớm đến vậy, lung lay được cả lòng những người cương nghị nhất. Một người nói sẽ không tin, hai người nói sẽ đặt ngay câu hỏi, ba người thì cơ hồ chuyện ấy là có thật. Việc này không phải là hiếm, có thể trong một ngày ta có tểh gặp đến những mấy lần việc “tin chuyện từ “ba người nói”.

Bậc đại hiền như Tăng Sâm khi biết chuyện chắc hẳn nhiên đã không bao giờ dám oán mẹ. Nhưng chắc chắn ông sẽ tự ngẫm mình có gì lỗi đạo hay không mà để mẹ không hoàn toàn tin tưởng, có lúc lung lay về mình ? Chúng ta đôi khi cũng bị người thân, bạn hữu nghe lời thị phi mà gây ra nhưng hiểu lầm với mình. Vậy ta có tự ngẫm mình như ông Tăng Sâm không ?

Lời qua tiếng lại chắn chắn không ít những điều thêm bớt, tam sao thất bản cũng chưa phải là quá nhiều. Số đông chưa chắc là sẽ đúng, và cố nhiên số ít chưa chắc là sẽ sai. Vậy nên xem xét việc thì cần tỉnh táo, có được như vậy thì tránh biết bao lỗi lầm ? .

Chuyện xưa chuyện nay, truyện nào cũng mang tính răn đời. Đời thì nhiều người nghe và cũng đều ít nhiều hiểu cả. Nhưng dễ mấy ai thấy đúng mà theo, thấy hay mà ngẫm, mà theo lời người xưa tự răn mình. Thậm chí còn có người biết là mình đang nói sai đấy nhưng vì lẽ gì đó vẫn phải nói…”( Nguồn Hoa tình thương )...

Mượn câu chuyện “ tam nhân thành hổ” nhằm muốn vận ít nhiều về cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức; mong muốn Bên thắng cuộc... của anh có thể có những tư liệu, tình tiết chưa chuẩn xác, chưa khách quan…song không vì thế mà phải chịu số phận bị vu oan, xa lánh như Tăng Sâm thời Chiến quốc…




Chương XIV: Khoảng cách Linh - Kiệt
Sau thành công của “cởi trói” và “những việc cần làm ngay, “khoảng cách” giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các thành viên khác trong Bộ Chính trị không còn chỉ “cách nhau sợi tóc” như ông ví von lúc đầu. Khác với Lê Duẩn và Trường Chinh, quyết định nhân sự dưới thời Nguyễn Văn Linh không còn là công việc của Ban Tổ chức. Sự quyết đoán của ông trong một số trường hợp, mở đầu bằng việc lựa chọn Đỗ Mười thay vì Võ Văn Kiệt đứng đầu Chính phủ, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình cải cách của Việt Nam. Mối quan hệ giữa Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh tưởng như rất gần gũi, nhưng trên thực tế, trong tính cách cá nhân và trong chính trị giữa hai người có rất nhiều khác biệt.
Tại sao Đỗ Mười
Ngày 10-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời. Người kế nhiệm, ông Đỗ Mười, kể: “Anh Hùng đi đột ngột. Anh ấy đang bình thường, khỏe mạnh, ăn cơm xong nằm nghỉ trưa nghe vọng cổ rồi bị sặc cơm mà mất”. Thể theo hiến pháp, ngày 11-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công ký quyết định cử ông Võ Văn Kiệt, phó Chủ tịch thường trực làm quyền chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng “cho đến khi Quốc hội bầu chủ tịch mới”. Ông Đỗ Mười nói tiếp: “Tôi thấy bình thường. Tôi từ khi tham gia cách mạng tới giờ Đảng bảo làm gì làm nấy, không đòi hỏi gì cả, không xin gì cả”.
Ông Đỗ Mười coi việc ông Võ Văn Kiệt tạm đứng đầu Chính phủ là bình thường không chỉ là một phát biểu xã giao. Theo ông Nguyễn Đình Hương, phó Ban Tổ chức Trung ương: “Từ Đại hội IV, năm 1976, khi đưa Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười đứng vào hàng ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã bàn với nhau và có sự ủng hộ của Phạm Văn Đồng, thống nhất đặt ba người vào trong đội dự bị. Năm 1982 khi điều ông Võ Văn Kiệt từ Sài Gòn, ông Lê Đức Thọ nói đưa Sáu Dân ra Hà Nội là để chuẩn bị làm thủ tướng. Khi ấy Tố Hữu cũng được chuẩn bị cho chức vụ tổng bí thư. Nhưng Tố Hữu khi làm phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng vướng vào sai lầm trong vụ giá-lương-tiền  nên uy tín sút giảm. Tại Đại hội VI tuy Tố Hữu vẫn được đề cử vào Trung ương nhưng khi bầu thì không trúng”.
Tháng 6-1988, Quốc hội khóa VIII nhóm họp kỳ thứ Ba, nhiều đại biểu ngạc nhiên khi người được đề cử chính thức thay thế ông Phạm Hùng là ông Đỗ Mười thay vì ông Kiệt. Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo, một phụ nữ thân thuộc với cả ông Kiệt và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói trước Quốc hội: “Chúng tôi tha thiết đề cử đồng chí Võ Văn Kiệt. Nhân dân miền Nam, nhất là Sài Gòn rất kính trọng đồng chí Võ Văn Kiệt. Chúng tôi chỉ biết Võ Văn Kiệt, tôi tha thiết đề nghị Quốc hội bầu đồng chí Võ Văn Kiệt”.
Đại biểu Lý Chánh Trung đề nghị đưa hai ứng cử viên để Quốc hội bầu, ông nói: “Một trong những động lực giúp chúng tôi vận động bà con Sài Gòn xuống đường là để chống bầu cử độc diễn ở Sài Gòn. Bây giờ chúng ta có độc lập mà vẫn độc diễn thì chúng tôi khó ăn nói với bà con lắm”. Ý kiến của bà Ba Thi đã bị một đại biểu ở miền Bắc, bà Nguyễn Thị Kim Đính, chủ tịch Liên hiệp Xã Hải Hưng, phản đối: “Tôi đồng tình có hai ứng cử viên nhưng tôi không đồng ý với chị Ba Thi, nếu chúng tôi cũng nói là miền Bắc chỉ biết đồng chí Đỗ Mười thì sao”.
Thực ra không chỉ có các đại biểu đến từ miền Nam, Quốc hội biết khá rõ ông Đỗ Mười. Bầu “tư lệnh” của cả hai chiến dịch “cải tạo tư sản” đứng đầu chính phủ trong thời kỳ thực hiện chính sách “kinh tế nhiều thành phần” không khỏi làm cho nhiều đại biểu băn khoăn, thắc mắc.
Theo ông Vũ Mão, có 33 trên tổng số 53 đoàn đại biểu quốc hội đề cử ông Võ Văn Kiệt như một ứng cử viên thứ hai để Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; ngoài ra, còn có bốn đoàn giới thiệu Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một đoàn giới thiệu ông Nguyễn Cơ Thạch. Tuy nhiên, ông Võ Văn Kiệt kiên quyết từ chối, ông nói: “Tôi là đảng viên, tôi tuân thủ nguyên tắc Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã giới thiệu đồng chí Đỗ Mười rồi thì nếu có gì khác, chúng ta phải báo cáo Trung ương”. Ban Bí thư phải họp, và theo ông Vũ Mão, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội: “Anh Nguyễn Văn Linh rất hay ở chỗ, dù không ưa anh Kiệt, anh vẫn đồng ý để Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với hai ứng cử viên”.
Khi từ chối không tham gia cuộc bầu cử này, ông Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ “ý thức chấp hành” của một quốc hội mà cho dù tỉ lệ đảng viên là bao nhiêu thì tất cả đại biểu đều là người của Đảng. Nhưng, sau cuộc họp của Ban Bí thư, giữa đêm khuya, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tìm đến nhà ông Kiệt nói: “Ban Bí thư bàn, thấy xưa nay chưa có tiền lệ đưa hai ứng cử viên ra Quốc hội nhưng các đoàn đề nghị gay gắt quá. Đề nghị anh không rút tên”.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, Quốc hội bầu một chức danh mà có hai ứng cử viên trên lá phiếu. Việc làm này không chỉ mới mẻ với những đảng viên thường mà với cả những người trong cuộc. Theo ông Vũ Mão: “Anh Đỗ Mười nói với tôi: cả tuần nay, mình mất ngủ, không hiểu tại sao trong Đảng ta lại có hai ứng cử viên. Tôi nói: thưa anh, đấy là thành quả của đổi mới”. Chiều 22-6-1988, Quốc hội bỏ phiếu, kết quả: ông Đỗ Mười đắc cử với 296 phiếu; 168 đại biểu bỏ phiếu cho ông Võ Văn Kiệt; một đại biểu bỏ phiếu trắng.
Ông Đỗ Mười nhận chức nhưng rất lo lắng vì ông, ứng cử viên của Đảng, chỉ có được 63% số phiếu bầu thay vì 100% như tiền lệ. Điều ông lo lắng hơn là sự ủng hộ của các địa phương miền Nam. Ông Kiệt kể: “Tôi nói với anh Mười, tôi trực, tôi sẽ làm hết sức mình, còn đối với anh em miền Nam anh cứ mạnh dạn vào làm việc, tôi tin là anh em sẽ ủng hộanh”. Nhớ lại thời kỳ này, ông Đỗ Mười nói: “Hai anh em cộng tác rất tốt, tôi với anh Kiệt cũng gắn bó lắm”.
Một năm sau, ông Kiệt nói: “Khi kiểm điểm trong Bộ Chính trị, có hai ba ý kiến đánh giá một trong những ưu điểm của tôi là cộng tác tốt với anh Đỗ Mười. Tôi nói với họ các anh nói ưu điểm thì tôi cũng vui nhưng tôi rất lạ là tại sao các anh có thể nghĩ là tôi không thể cộng tác với anh Mười. Tôi đâu có cạnh tranh, lẽ ra tôi dứt khoát rút tên nhưng Ban Bí thư đã quyết định thì tôi phải theo. Đây là công việc đâu phải là vấn đề riêng tư để tôi có thể không cộng tác với một người được Trung ương chọn”.
Đã từng là bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Linh cũng tiên liệu được sự phản ứng của miền Nam khi quyết định chọn Đỗ Mười. Trợ lý của Nguyễn Văn Linh, ông Bùi Văn Giao, kể: “Sau khi ông Phạm Hùng chết, anh Linh lên Hồ Tây họp bàn trước với hai ông cố vấn: Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Họp xong, ông Linh kêu tôi qua nói: ‘Giao à, bọn tôi bàn để Đỗ Mười thay Phạm Hùng’. Tôi kêu lên: ‘Trời ơi, sao lại Đỗ Mười’. Ông Linh: ‘Tôi biết, nhưng từ khi làm tổng bí thư tôi nói Đỗ Mười nghe rồi’. Rồi ông Linh kêu tôi chuẩn bị, hôm sau đi cùng ông. Ông Linh nói: ‘Trung ương giao tôi vào miền Nam, Võ Chí Công vào miền Trung, Nguyễn Đức Tâm đi các tỉnh miền Bắc làm công tác tư tưởng’. Ông Linh đi tới đâu cũng gặp phản ứng. Ông phải nói: ‘Đây là quyết định của Bộ Chính trị”.
Một ủy viên Trung ương thân cận của ông Nguyễn Văn Linh, Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân, kể: “Anh Linh giải thích: Hồi cải tạo, tôi với anh Đỗ Mười khác nhau lắm, đụng nhau dữ lắm. Nhưng anh Đỗ Mười có cái hay, điều gì Đảng đã quyết rồi thì anh ấy thi hành quyết liệt”. Một người từng làm trợ lý cho ông Nguyễn Văn Linh, ông Dương Đình Thảo, bổ sung: “Ông Mười Cúc đã từng cãi nhau rất găng với ông Đỗ Mười về đổi mới nhưng ông nghĩ, Đỗ Mười là người trung thành, tổ chức thực hiện kiên quyết khi đã có nghị quyết”.
Nhưng vấn đề không phải là tán thành hay không tán thành ông Đỗ Mười. Tuy Nguyễn Văn Linh sinh ra và lớn lên ở miền Bắc nhưng cuộc đời hoạt động của ông gắn với miền Nam, gắn với Sài Gòn. Năm 1956, ông Võ Văn Kiệt gặp ông Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên và cho đến cuối đời ông Kiệt vẫn nhắc món bê non thui chấm nước mắm gừng theo kiểu Bắc mà ông Linh đãi ông năm ấy. Tại sao ông Linh đã không chọn ông Võ Văn Kiệt trở thành câu hỏi của rất nhiều cán bộ miền Nam, những người đã gắn bó với cả ông Kiệt và ông Nguyễn Văn Linh từ thời Trung ương Cục.
Ông Bùi Văn Giao kể: “Vừa nghe ông Linh nói chọn ông Mười, tôi thắc mắc ngay ‘Sao không chọn ông Kiệt?’. Ông Linh kể một loạt cái xấu của ông Kiệt rồi nói: ‘Khi tôi mất Bộ Chính trị, về Sài Gòn, Sáu Dân không bao giờ gặp tôi’. Anh Linh tốt nhưng thành kiến ai thì chết người đó”. Ông Chín Đào Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đảng cho biết: “Ông Kiệt nhiều lần tâm sự, ‘Chín Đào coi mình với anh Linh có gì không đúng?’. Tôi nói với ảnh: Khi ra Hà Nội anh có thơ gởi đồng bào từ giã, trong thơ có dặn dò về anh Linh. Anh Linh cho là trịch thượng. Chị Bảy Huệ cũng đồng ý với chồng. Anh Kiệt cười: ‘Chín Đào biết mình coi anh Linh là đàn anh về tuổi, là thầy về cách mạng. Sao ảnh nỡ nói vậy. Nhưng thôi, kệ ảnh”.
Cuối năm 1981, ông Nguyễn Văn Linh được điều trở lại Sài Gòn như một động thái cơ cấu lại cán bộ chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ V họp vào đầu năm 1982. Thế chính trị của ông Linh lúc ấy rất khó khăn, ông bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị vài tháng sau đó. Phó Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Đình Hương nói: “Nếu ông Lê Duẩn còn sống tới Đại hội VI thì sẽ không có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vì từ Đại hội V, ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã thống nhất quy hoạch Tố Hữu sẽ làm tổng bí thư, Võ Văn Kiệt làm thủ tướng và đặt ông Linh ra rìa”. Trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương nói: “Anh Ba đánh giá Mười Cúc rất thấp”. Theo ông Võ Văn Kiệt, chính ông đã đề nghị ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ điều ông Nguyễn Văn Linh trở lại Thành phố Hồ Chí Minh khi ông Linh không được dự kiến cho một chức vụ gì cụ thể.
Trong tình huống đó, trước khi chính thức ra Hà Nội nhận chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đã viết một bức thư ngỏ đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau khi chúc Tết và cám ơn “nhân dân Thành phố”, ông Võ Văn Kiệt đã giới thiệu về ông Nguyễn Văn Linh như là nói về một người tiếp theo mình chứ không rõ ra là nói về một đàn anh của mình156.
Theo ông Tô Hòa, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng: “Ông Kiệt cũng cân nhắc, viết rất trân trọng và thận trọng. Nhưng ông Linh phản ứng với tôi ngay: Sáu Dân lấy tư cách gì để giới thiệu tôi”. Ông Linh về Thành phố làm bí thư, ông Kiệt ra Trung ương làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, Thành phố cũng có nhiều việc phải trao đổi và gặp gỡ. Ông Tô Hòa nói: “Trong quan hệ, ông Kiệt cũng rất dở. Có lần ông Kiệt về nhà ở An Phú, Sài Gòn. Sáng ra khi ông đang chơi tennis với ông Ngô Công Đức thì ông Linh lên gặp. Lẽ ra nên ra tiếp ngay thì ông Kiệt lại ham bóng, cố theo cho xong trái bóng. Ông Linh rất bực”.
Cũng theo ông Phan Minh Tánh: “Trước Đại hội VI, ông Linh cũng nghi ông Kiệt vận động Trường Chinh ở lại và không bỏ phiếu ủng hộ ông Linh làm tổng bí thư”. Tại Hội nghị Trung ương 12, khóa V, khi thảo luận nhân sự cho khóa VI, theo ông Lê Văn Triết157: “Tôi nói: ‘Anh Trường Chinh nên tiếp tục làm tổng bí thư thêm một thời gian nữa rồi bàn giao cho anh Nguyễn Văn Linh. Thủ tướng thì nên để anh Võ Văn Kiệt. Chủ tịch nước, theo tôi bây giờ không ai có uy tín qua anh Giáp’. Nghe tới đó, ông Linh - đang thảo luận cùng tổ - đập bàn cái rầm, quát: ‘Thôi! Bộ Chính trị yêu cầu các đồng chí tập trung thảo luận hai vấn đề mà Bộ Chính trị hướng dẫn: cơ cấu và tiêu chuẩn. Tôi đề nghị đồng chí tổ trưởng điều hành đúng’. Ủy viên Trung ương Lê Phước Thọ thấy căng, đề nghị giải lao. Ra hành lang, Nguyễn Văn Linh nói: ‘Cậu biết gì về Sáu Dân? Tôi đề nghị cậu không được nói tới vấn đề Sáu Dân nữa. Dốt mà không chịu học. Làm Ủy ban Kế hoạch còn không xong lấy đâu ra thủ tướng’”. Không chỉ ông Triết, nhiều người bất ngờ với thái độ này của ông Nguyễn Văn Linh nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó.

( Còn nữa )

Huy Đức

( * ) Rút từ trong tập Bên thắng cuộc; Đầu đề là của Phamvietdao.net...

Bên thắng cuộc: “Ba chàng ngự lâm”:Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười- tam nhân thành hổ (2)

Đầu thập niên 1990, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang có những nỗ lực vận động quốc tế để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt đến Davos và bắt đầu nhận thấy khoảng cách giữa chủ nghĩa xã hội mà ông chứng kiến ở Đông Âu và “tư bản giãy chết” mà Marx nói là một chặng đường xa xôi. Ông Võ Văn Kiệt cũng nhận thấy, chế độ đang có những bế tắc mà “xé rào” cuối thập niên 1970 hay “đổi mới” của thập niên 1980 là không thể nào tháo gỡ được...
Cimexcol hay “Vụ án Dương Văn Ba”
Tháng 12-1987, Bộ Nội vụ khởi tố vụ án Cimexcol, Phó Giám đốc Dương Văn Ba bị bắt. Dương Văn Ba, cựu thành viên báo Tin Sáng, là người mà năm 1971 khi tái tranh cử dân biểu tại Sóc Trăng đã được ông Võ Văn Kiệt, khi ấy là bí thư Khu ủy, cử người liên lạc và ngầm ủng hộ.
Tiền thân của Cimexcol là một liên doanh giữa Minh Hải và Thành phố Hồ Chí Minh, được lập ra để hợp tác khai thác gỗ với Công ty Phát triển miền rừng núi Lào158. Trước khi Cimexcol ra đời, với sự thu xếp của ông Trần Bạch Đằng, ông Lê Văn Bình khi ấy là ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Minh Hải đã gặp báo cáo với Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh.
 Năm 1985, Cimexcol ra đời, Minh Hải cử ông Nguyễn Quang Sang, ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, giám đốc Sở Tài chánh, giữ chức giám đốc, nhưng người điều hành công ty trên thực tế là Dương Văn Ba.
Việc sử dụng ông Dương Văn Ba, theo ông Đoàn Thành Vị, lúc đó là bí thư Minh Hải: “Anh Lê Quân, nguyên phó bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng, nói, lúc kháng chiến chống Mỹ, anh Kiệt có phân công anh liên hệ với Dương Văn Ba. Anh Võ Văn Kiệt nói với chúng tôi, Dương Văn Ba thuộc thành phần thứ ba, việc làm ăn bây giờ thì tôi không rành nhưng các anh sử dụng được. Bất cứ ai mà làm ăn phi pháp thì phải ở tù. Anh Kiệt dặn làm ăn với Lào thì phải lợi ích sòng phẳng, đừng đem kinh nghiệm phá rừng ở Việt Nam sang Lào phá tiếp”.
Bằng cách khai thông những con đường hiểm trở nhất, đưa gỗ từ Lào qua Vinh xuất khẩu, cả Cimexcol và phía đối tác Lào cùng kiếm được hàng chục triệu đôla và biến một vùng hẻo lánh cách biên giới Việt Nam 20km thành một thị trấn nhộn nhịp về sau gọi là thị trấn Lạc Sao.
Vào lúc công việc kinh doanh đang làm hài lòng cả Chính phủ Lào và chính quyền Minh Hải thì ngày 4-12-1987, Ngô Vĩnh Hải, tổ trưởng tổ kiều hối của Cimexcol bị bắt. Ngô Vĩnh Hải từng là một phóng viên của báo Tin Sáng, anh trai của ông là Giáo sư Ngô Vĩnh Long khi ấy đang là Việt kiều ở Mỹ. Ngày 25-12-1987, Dương Văn Ba bị bắt và sau đó, công an bắt tiếp các thành viên khác trong ban giám đốc và các trưởng phòng ban của Công ty Cimexcol.
Cũng trong tháng 12-1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền đưa vụ án “Hoàng Cơ Minh và đồng bọn” ra xét xử. Hoàng Cơ Minh là phó đề đốc, tư lệnh Vùng II Duyên hải, Hải quân Việt Nam Cộng hòa, di tản sang Mỹ từ tháng 4-1975. Năm 1981, ông về Thái Lan, lập căn cứ tại Udon một tỉnh gần biên giới Lào. Năm 1982, ông tổ chức đại hội thành lập Đảng Việt Tân và Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam. Trong khoảng thời gian Cimexcol đưa người sang Lào khai thác gỗ, lực lượng Hoàng Cơ Minh tổ chức nhiều cuộc thâm nhập vào biên giới Việt Nam mang tên “Đông Tiến I”, “Đông Tiến II”… nhưng tất cả đều thất bại. Hoàng Cơ Minh bị thương và tự sát vào đêm 27-8-1987.
Có thể đã không có vụ án Cimexcol nếu như tư lệnh cuộc hành quân “Đông Tiến I” không có tên là Dương Văn Tư. Một số bị can trong vụ Cimexcol đã bị thẩm vấn: “Dương Văn Tư có phải là em ruột của Dương Văn Ba không?”. Một thành viên của “Ban chuyên án Cimexcol”, ông Tống Kỳ Hiệp, phó bí thư thường trực tỉnh Minh Hải, thừa nhận: “Vụ án Cimexcol lúc đầu là vụ án chính trị, khởi tố theo thư từ tố cáo của cán bộ về hưu cũng như đương chức tỉnh Minh Hải: Dương Văn Ba đưa vào Công ty hơn bốn mươi người của chế độ cũ, thao túng và vô hiệu hóa ban giám đốc Cimexcol để hoạt động chống cách mạng”159.


Trung tướng Võ Viết Thanh, khi ấy là thứ trưởng Bộ Nội vụ, nói: “Phụ trách an ninh, tôi thấy không có cơ sở nào để tin Cimexcol sang Lào chuẩn bị chiến khu, làm cơ sở thâm nhập vào Việt Nam. Khi ấy ai cũng biết ông Võ Văn Kiệt rất ủng hộ nhóm anh em ở Cimexcol hợp tác với Lào. Trong khi giữa ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Văn Kiệt lại đang có vấn đề. Ông Linh chỉ đạo ông Lâm Văn Thê trực tiếp làm án. Ông Thê lúc ấy là thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh”.
Khi không tìm thấy bằng chứng của một vụ hoạt  động chính trị, lẽ ra phải đình chỉ điều tra, vụ Cimexcol  lại được chuyển qua thành vụ án kinh tế.
Để có thể xét xử Cimexcol như một vụ án kinh tế, chuyện Dương Văn Ba “móc nối với một số tư nhân có xe ô tô trốn cải tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai về Minh Hải hợp đồng kéo gỗ do Ba làm đại diện từ năm 1979” đã được lật lại. Cho dù Cimexcol “lãi 2,235 triệu đôla và đang có tổng tài sản trị giá mười ba triệu đôla”, nhưng các cơ quan tố tụng chỉ ghi nhận con số mà Cimexcol đang nợ ngân hàng - 5,3 triệu đô la - để đánh giá công ty làm ăn thua lỗ. Việc nhập xe gắn máy “Honda nghĩa địa” với giá từ 180-200 đôla/chiếc về bán “theo chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy cho cán bộ” với giá từ 400-600 đôla cũng bị coi là “tội” vì tuy công ty vẫn lãi gấp đôi, gấp ba nhưng so với “giá thị trường” thì giá bán này của Cimexcol đã gây “thiệt hại 1063 lượng vàng” cho Nhà nước.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Minh Hải Lê Văn Bình, tên thường gọi là Năm Hạnh, đã bị đưa ra trước vành móng ngựa. Báo cáo trước cuộc họp ngày 9-3-1994 của Ban Bí thư tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Tống Kỳ Hiệp nói: “Lúc đầu chọn đưa anh Ba Hùng ra, vì anh Ba Hùng lúc Cimexcol hoạt động là chủ tịch, nhưng anh Nguyễn Đức Tâm nói: Ba Hùng đã về hưu đưa ra xử lý không có ý nghĩa, phải chọn người đương chức, nên chọn anh Năm Hạnh. Lúc đó anh Ba Hương (Lâm Văn Thê), thứ trưởng Bộ Nội vụ, kêu chúng tôi nói với Năm Hạnh ra tòa đừng nói gì cả, chỉ nhận là thiếu trách nhiệm được rồi, để xử lý bọn kia thôi. Nhưng anh Năm Hạnh không làm vậy, ra tòa anh còn phát biểu bào chữa cho Cimexcol”.
Ở thời điểm ấy, ông Năm Hạnh đang là chủ tịch kiêm trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Minh Hải. Ông vừa tu nghiệp ở Liên Xô về và khi ấy đang là một cán bộ có nhiều triển vọng. Việc truy tố ông Năm Hạnh Lê Văn Bình gây ngạc nhiên cho toàn miền Tây.
Đầu thập niên 1970, Năm Hạnh từng là cánh tay mặt của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt là bí thư Khu ủy Tây Nam Bộ, Năm Hạnh là bí thư Khu Đoàn được những cán bộ trẻ của Khu Tây Nam Bộ coi như thần tượng.
Phiên tòa xử vụ án Cimexcol diễn ra từ ngày 14 đến 22-4-1989 theo thủ tục kết hợp “sơ chung thẩm”, nghĩa là các bị án không có quyền kháng cáo. Theo ông Phạm Văn Hoài (Ba Hùng), người tiền nhiệm của ông Năm Hạnh: “Vì tính chất điển hình, Tòa mời đại diện các tỉnh thành thuộc B2 cũ tham dự rút kinh nghiệm, bố trí lực lượng cảnh sát dày đặc, cả công an chìm vừa để ngăn chặn biểu tình, vừa để trấn áp. Lãnh đạo cơ quan thông tin đại chúng đưa tin trước, trong và sau phiên tòa để hướng dẫn dư luận. Hơn sáu mươi phóng viên báo đài từ trung ương đến địa phương đã có mặt. Riêng tại Minh Hải thì truyền thanh trực tiếp phiên tòa và truyền hình mỗi đêm. Phải nói tổ chức một phiên tòa quá đặc biệt”. Tuy nhiên, dư luận thay vì được “hướng dẫn” bởi phiên tòa đã quay sang chia sẻ rất nhiều với các bị cáo.
Trước phiên tòa, Bộ Thông tin và Tòa án đã tổ chức họp báo tại Bạc Liêu. Báo chí và dư luận hết sức xôn xao. Tòa chưa khai mạc, báo Công An Nhân Dân đã cho xuất bản phụ san “Cimexcol trả giá đắt” đưa xuống bán 5.000 đồng một tờ ở Minh Hải. “Phụ bản đã có nhiều nội dung xuyên tạc, vu cáo, không những đả kích cá nhân mà còn xâm phạm đến uy tín danh dự của Đảng bộ và nhân dân Minh Hải. Đặc biệt, do đăng mức án theo dự kiến cho từng bị cáo trước khi phiên tòa diễn ra nên có những bị cáo như Ngô Vĩnh Hải, án theo phụ san là ba năm tù, phiên tòa đã tuyên vô tội”160.
E-kip truyền hình của Đài Cần Thơ theo dõi phiên tòa suốt bảy ngày sau đó về biên tập lại thành bảy chương trình có thời lượng tương đương với 4 giờ 30 phút. Thay vì nói đủ về hai mươi mốt bị cáo, nhà báo Ngô Hoàng Giang đã xoay quanh ba bị cáo gây tranh cãi nhất tại phiên tòa. Như tên được đặt cho chương trình, "Buộc tội và Gỡ tội", trong từng phần, ý kiến của công tố viên và luật sư được tường thuật đối nhau. Theo bà Ngô Hoàng Giang161:
“Đồng bằng sông Cửu Long xem xong phản ứng dậy sóng luôn, Mười Mẫn, chủ tịch tỉnh Cửu Long, khen hết lời còn cấp ủy các địa phương trong vùng thì rất ủng hộ”. Sau khi theo dõi phiên tòa qua đài truyền hình, Ban Liên lạc đồng hương Minh Hải ở Hậu Giang, gồm hai mươi cụ đang nghỉ hưu ở Cần Thơ, gửi thư phản đối phiên tòa. Một số nhà báo ở miền Tây cũng soạn thảo một lá đơn kiến nghị.
Ngày 20-5-1989, Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc tỉnh Minh Hải sau khi “tham khảo dư luận xã hội đối với phiên tòa” đã có một bản báo cáo nói rằng: “Phiên tòa thể hiện thiếu dân chủ ngay từ đầu: Cáo trạng và luận tội giống nhau, bất chấp diễn tiến công khai xét hỏi và tranh luận; Cấm không cho báo chí bình luận, cấm không được hoan nghinh khi bị cáo nói đúng; Báo Công An Nhân Dân đã sử dụng tài liệu của Cục An ninh điều tra bôi nhọ các bị cáo… đầu độc tâm lý quần chúng, hướng dư luận hiểu sai sự thật. Buộc tội Lê Văn Bình thiếu trách nhiệm là không đúng, suốt thời gian Cimexcol hoạt động, Lê Văn Bình chỉ là phó chủ tịch, khi lên chủ tịch thì được đưa đi học ở Liên Xô, Lê Văn Bình trở về chỉ được bốn tháng thì Cimexcol bị thanh tra; Phiên tòa đã sử dụng Nguyễn Quang Sang, Thạch Phen để buộc tội Dương Văn Ba nên tạo thời gian cho họ mặc sức tố Dương Văn Ba trong khi khống chế thời gian bào chữa của các luật sư và bị cáo”. Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc kết luận: “Ở những phiên tòa khác thì các bị cáo thường bị quần chúng căm ghét, nhưng ở phiên tòa này quần chúng lại xót thương và phải rơi lệ đối với tội phạm. Quần chúng vỗ tay hoan nghinh bị cáo, nhứt là với bị cáo Lê Văn Bình”.
Ngày 4-5-1989, ông Võ Văn Kiệt viết thư gửi Đài Cần Thơ: “Đề nghị các đồng chí gửi cho tôi số băng ghi chương trình đã phát. Đồng thời các đồng chí sang băng toàn bộ số băng ghi hình để làm tư liệu của Đài cho tôi mượn”. Khi mang số băng ghi hình này lên cho ông Võ Văn Kiệt, nhà báo Ngô Hoàng Giang nhớ lại: Có lẽ tình hình rất căng nên khi tôi xin ông cái biên nhận thì vợ ông, bà Cầm ngăn lại, nhưng ông la bà rồi lấy giấy ra viết biên nhận cho tôi. Xong, ông dặn: “Tiếp tục dũng cảm đồng chí con nhé!”. Tôi nói: “Chuyện người lớn con không biết, cái gì thấy đúng thì con sẽ làm”. Ngày 15-5-1989, Văn phòng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cũng cử Trợ lý Trương Anh Dũng vào xin các cuộn băng về “vụ án Dương Văn Ba”.
Ngày 19-5-1989, Ban Bí thư điện cho Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin Trần Hoàn về “dư luận sau khi tòa án xử vụ Cimexcol” và yêu cầu kiểm tra việc đưa tin của Đài Truyền hình Cần Thơ. Bộ trưởng Trần Hoàn đã cử ông Lê Quý, giám đốc cơ quan thường  trú phía  Nam, ngay trong ngày 20-5-1989, xuống Đài Cần Thơ làm việc. Ông Lê Quý đã yêu cầu Truyền hình Cần Thơ “tạm ngưng tuyên truyền”, cho dù theo Ban Giám đốc Đài thì họ nhận được rất nhiều thư yêu cầu phát lại và đưa thêm ý kiến.
Ông Lê Quý lưu ý: “Nhiều đồng chí nói, các buổi tường thuật của Đài cho thấy tòa án của ta yếu quá, kém quá, hỏi các bị cáo nhiều câu ngớ ngẩn quá. Trong khi đó lời bào chữa của bị cáo chính và của luật sư thì vững vàng, có lý có lẽ và có tính thuyết phục”. Báo cáo nhanh ngày 22-5-1989 của ông Lê Quý viết tiếp: “Có thể đó là sự thật, nhưng nếu kết quả đối với người xem tường thuật vụ án chỉ có vậy thì đúng là cần phải rút kinh nghiệm”.
Trong hai ngày 29 và 30-5-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng họp nghe báo cáo “diễn biến trước, trong và sau phiên tòa Cimexcol". Trong ngày 30-5, Ban Bí thư ra Thông báo 142 do chính Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký, khẳng định: “Kết quả phiên tòa xét xử cơ bản là tốt vì đã xử đúng người đúng pháp luật. Nhưng trước phiên tòa, chung quanh phiên tòa và sau phiên tòa có những luồng dư luận phủ nhận kết luận của phiên tòa và có những hoạt động không lành mạnh gây hoang mang trong dư luận”. Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng: “Sở dĩ có tình hình đó là do có những người liên quan đến can phạm và vụ án đã hoạt động chống lại việc xét xử”.
Ông Linh thừa nhận một số thiếu sót của các cơ quan tố tụng và: “Yêu cầu làm ngay các việc sau đây: a) Tỉnh ủy Minh Hải phải có thông báo đánh giá tính chất, hậu quả của vụ án, rồi đăng lên các báo khẳng định: tòa xử là đúng không phải Trung ương trù dập Minh Hải như một số dư luận loan truyền; b) Ban Tư tưởng-Văn hóa làm việc với một số trưởng ban tuyên huấn của một số tỉnh thành phía Nam và một số báo, đài để thông tin rõ cho chị em hiểu, không phải như những dư luận không đúng đã và đang loan truyền; kiểm điểm và xử lý nghiêm khắc một số cá nhân cố ý đưa tin, viết bài, quay phim một cách lệch lạc (chú ý kiểm điểm Đài Cần Thơ, Đài Truyền thanh và báo Minh Hải, báo Công An Nhân Dân). Hướng ngay báo đài viết một số bài về vụ án”.
Ngay sau đó, đích thân Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin Lê Thành Tâm dẫn đầu các đoàn làm việc xuống kiểm điểm Đài Cần Thơ và nhà báo Ngô Hoàng Giang. Bà Giang nhớ lại: “Họ đặt ra cho tôi một loạt câu hỏi: tại sao đặt tên chương trình là “buộc tội và gỡ tội”, tại sao tường thuật phiên tòa lại quay cảnh nhân dân ngồi dưới loa nghe các bị cáo nói rồi khóc, tại sao quay hình ảnh bị cáo, luật sư thì đẹp còn tòa viện thì tối um…”. Cho dù bà Ngô Hoàng Giang giải trình ra sao thì trước chỉ thị của tổng bí thư, Đài Truyền hình Cần Thơ cũng phải nhìn nhận là đã “đưa tin phiến diện, một số câu hỏi sắc sảo của Viện Kiểm sát, của Tòa đã không được tường thuật”.
Phó Giám đốc Đài Cần Thơ Trần Quang Mẫn bị khiển trách vì “chủ quan, tin ở cán bộ biên tập”. Phó Giám đốc Châu Ngọc Tiếp bị cảnh cáo vì “đã theo dõi phiên tòa, hiểu vấn đề phức tạp nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm”. Phó Phòng Thời sự Ngô Hoàng Giang bị cách chức vì “vi phạm tính chân thật của báo chí cách mạng”. Ngày 10-6-1989, Tỉnh ủy Minh Hải cũng phải cho ra Thông báo số 19, yêu cầu: “Cán bộ, nhân dân Minh Hải cần tỉnh táo, nhận thức đúng đắn kết quả phiên tòa, cảnh giác các luận điệu của bọn xấu khai thác sơ hở thiếu sót của phiên tòa để phủ nhận kết quả phiên tòa hoặc gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Việc tổng bí thư phải chủ trì hai ngày họp Ban Bí thư và đích thân ký vào Thông báo 19 cho thấy ông Linh hiểu tính nghiêm trọng của dư luận xã hội. “Phủ nhận kết quả phiên tòa Cimexcol” là thách thức trực tiếp tới uy tín của ông ở vùng đất mà ông đã từng là bí thư Trung ương Cục. Lúc ấy, ông Linh có đủ quyền bính để kỷ luật các nhà báo không đưa tin về phiên tòa theo định hướng của ông.
Tuy nhiên, càng có nhiều nạn nhân ở miền Tây thì lòng trắc ẩn đối với những người như ông Năm Hạnh, Dương Văn Ba càng dâng lên; đội ngũ cán bộ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trước đó kỳ vọng vào cả ông Linh giờ đây nghiêng sang gửi gắm niềm tin của họ vào vai trò của ông Kiệt. Ông Dương Đình Thảo kể: “Khi ông Linh điều tôi từ Thành phố ra trung ương giúp việc cho ông, tôi nói: tôi ra phục vụ anh nhưng tôi đề nghị, nếu anh thương Nam Bộ thì phải thương Sáu Dân. Ông Linh trả lời: thương thế nào được, tôi cứu nó bao lần rồi. Tôi bảo: anh nhớ là anh em người ta thương anh nhưng người ta cũng rất thương anh Kiệt”.
Hai tính cách
Vụ Cimexcol gây sứt mẻ không ít tình cảm giữa ông Kiệt, các đồng đội cũ ở miền Tây với ông Linh, đặc biệt là những người đã từng gắn bó với ông Kiệt, ông Linh và vợ ông, bà Bảy Ngô Thị Huệ. Một bên là chồng một bên là bạn bè, đồng đội, bà Bảy Huệ là người day dứt nhất. Ông Kiệt là người đồng hương Vĩnh Long và vẫn được bà Bảy Huệ coi như một người em trai. Ông Kiệt cũng đã từng là người kế nhiệm ông Linh cả trước và sau chiến tranh.
Năm 1960, sau ba năm thay thế ông Linh làm bí thư Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, tại Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông Kiệt được chính ông Linh giới thiệu và được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong thời gian hai ông chiến đấu ở miền Nam, bà Bảy Huệ đã chăm sóc Võ Dũng, rồi Võ Hiếu Dân, hai người con của ông Kiệt với người vợ đầu, bà Trần Kim Anh. Cũng chính bà Bảy Huệ đã tìm gặp Phan Thanh Nam, đứa con lưu lạc của ông Kiệt với bà Hồ Thị Minh. Sau vụ Cimexcol, Trần Bạch Đằng sang nhà gặp bà Bảy Huệ, sau khi văng tục theo kiểu Nam Bộ, ông Đằng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”.
Về sau, khi nhắc lại những xung đột giữa hai người, bà Bảy Huệ nhận xét: “Mỗi người đều có cái ưu, ông Sáu là người dám rẽ sóng ra khơi xa, dám chịu trách nhiệm. Nhưng mỗi ông cũng có cái nhược. Ông Sáu thì Nam Bộ phóng khoáng. Ông Mười thì kỹ lưỡng Bắc Kỳ, nội chuyện ông Sáu lấy vợ, ông Mười cũng không chịu”.
Cuộc sống và ý thức hệ
Kể từ năm 1952, khi rời Việt Bắc về Nam, năm 1973 ông Võ Văn Kiệt mới trở lại miền Bắc. Lần này, kinh nghiệm sử dụng võ trang của ông ở Khu IX đã đóng vai trò quan trọng để Hội nghị Trung ương 21 quyết định “đánh”, thay vì “gò cương vỗ béo” trước Hiệp định Paris. Nhưng chuyến đi còn giúp ông Kiệt lần đầu tiên thực sự trải nghiệm chủ nghĩa xã hội sau gần hai mươi năm áp dụng trên miền Bắc.
Lúc đó, tuy tạm thời chấp nhận sự quy lỗi nghèo đói cho chiến tranh nhưng ông Kiệt không khỏi băn khoăn khi thấy trong một xã hội đòi đấu tranh cho bình đẳng mà những người đứng đầu xã hội đó lại thi hành một chế độ không bình đẳng với ngay những người ruột thịt của mình. Theo quy định, chế độ dinh dưỡng bao cấp cho cán bộ cao cấp khác với những cán bộ bình thường cho nên trong nhiều gia đình, chồng ăn “tiểu táo” do đầu bếp của Văn phòng Trung ương nấu, trong khi vợ con phải tự nấu, tự ăn với nhau theo chế độ “đại táo”. Trước ngừng bắn, khi phải rời khỏi Hà Nội, có những cán bộ đã về nơi sơ tán một mình bằng xe hơi trong khi vợ con lếch thếch đi bộ vì không có cùng tiêu chuẩn.
Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt đi gặp ông Ung Văn Khiêm169   cả bạn bè và tổ chức đều có những lời khuyến cáo ông. Tuy nhiên, với tư cách là một cấp dưới, một học trò, ông Kiệt vẫn đi thăm thầy cũ. Ông Kiệt kể: “Từ khi ông Khiêm bị kỷ luật, không ai dám đến gặp, nếu có tình cờ thấy ông thì cũng ít ai dám chào”. Mấy hôm sau, khi ông Kiệt đang ngồi với ông Nguyễn Văn Trấn thì, theo hẹn, bà vợ ông Ung Văn Khiêm đến, ông Bảy Trấn nhìn thấy, lập tức rời phòng. Hôm sau gặp lại, Bảy Trấn giải thích: “Mày ở trong kia không sao, tụi tao ở đây léng phéng qua lại với ổng là bị cắt sổ gạo, cả thuốc lá cũng không có mà hút mày ạ”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều. Cho dù ông Khiêm có sai thì cái sai đó cũng là với tổ chức; chế độ chính trị thế nào mà bày tỏ tình nghĩa anh em, đồng chí cũng không được. Một con người như ông Bảy Trấn, từng tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn năm 1945, từng làm tới chức chính ủy Khu IX, từng được coi là ‘hung thần Chợ Đệm’ mà cũng phải sống trong sợ hãi thì vấn đề không còn là của từng cá nhân nữa”170.
Ông Võ Văn Kiệt tìm thấy niềm vui và cả lợi ích chính trị khi thỉnh thoảng ngồi uống rượu và đàm đạo với các trí thức và quan chức của chế độ Sài Gòn. Ông thừa nhận, nhiều kiến thức về kinh tế, quốc tế và đặc biệt là tư duy pháp trị mà ông có được là nhờ học ở những “người thua cuộc”.
Khi chiến tranh kết thúc, cả ông Kiệt và ông Linh đều từ một căn cứ trong rừng sâu về Sài Gòn sống trong những biệt thự sang trọng. Trong khi ông Nguyễn Văn Linh vẫn giữ lối sinh hoạt của một người cộng sản khắc khổ 171 thì ông Võ Văn Kiệt bắt đầu chơi tennis. Ông Linh nhìn những cán bộ chơi tennis như những người học đòi ăn chơi, “xa rời lối sống, đạo đức cách mạng”. Còn ông Kiệt nhìn thấy ở đó, không chỉ là một thú vui thể thao mà còn là một cách để đưa Sài Gòn trở lại cuộc sống bình thường.
Ông Kiệt giải thích: “Những ngày mới về Thành phố, tôi chỉ chơi bóng bàn hoặc cầu lông với anh em. Sau, để ý thấy các sân tennis trong Thành phố đều bị bỏ hoang hoặc đem phơi củi. Đi vào trong dân, thấy các nhà khá giả vẫn treo vợt trên tường nhưng không ai chơi. Tìm hiểu thì mới biết là người ta sợ. Tôi quyết định cho sửa sân tennis Trương Định, phong trào chơi tennis mới dần được khôi phục rồi rộ lên. Anh Mười thấy, cho người phê phán trong các cuộc họp nội bộ”.
Khi được điều ra Hà Nội, ông Kiệt tiếp tục giữ sở thích chơi tennis. Khi ông Linh làm tổng bí thư, theo ông Kiệt, ông nói gần nói xa: “Các tỉnh ở dưới đua đòi làm sân tennis cũng tốn kém lắm”. Ông Kiệt kể, một lần ông Đào Duy Tùng, ủy viên thường trực Bộ Chính trị, nhắc khéo: “Có người nói anh còn khỏe mà đi chơi tennis bắt người khác mang vợt”. Theo ông Kiệt: “Tôi biết anh Tùng nói vậy là có thiện chí, mình dư sức mang cái túi vợt, nhưng thường khi xe vừa dừng thì anh em bảo vệ đã nhanh chân hơn lấy vợt cho. Từ đó, khi ra sân tôi không đi xe nữa, mà từ 57 Phan Đình Phùng, tôi mang túi vợt đi bộ, vòng qua trước nhà ông Linh ở Nguyễn Cảnh Chân, ra sân”.
Cũng làm cách mạng, nhưng một người tạo lập uy tín chính trị theo nguyên tắc giữ “cần kiệm liêm chính”, một người làm chính trị theo kiểu chịu chơi của “anh Hai Sài Gòn”. Cung cách ứng xử này đã làm cho ông Kiệt và ông Linh càng thêm khác biệt. Ông Võ Văn Kiệt không được văn nghệ sỹ tung hô như thời ông Nguyễn Văn Linh kêu gọi cởi trói. Nhưng với phong cách “anh Hai”, ông Võ Văn Kiệt lại kiến tạo được những mối liên hệ cá nhân bền lâu.
Nhà thơ Nguyễn Duy kể: “Tôi gặp ông Kiệt lần đầu vào giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị kéo dài mười ngày căng thẳng để chuẩn bị đại hội thành lập Hội Nhà văn Thành phố. Cuối đợt kiểm điểm, Thành ủy cho ít tiền liên hoan, ông Kiệt mang đến một chai rượu. Mãi sau này chúng tôi mới biết chai rượu ấy cũng xoàng, nhưng lúc ấy thấy rượu Tây là nhiều anh nhốn nháo”.
Theo Nguyễn Duy: Trong buổi liên hoan đó, nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu. Ông Nguyễn Duy cũng đứng lên nói: “Hôm nay Bí thư Thành ủy mang rượu đến đây, nối rượu cho nhà văn thì cũng như nối giáo cho giặc, tôi xin phép đọc mấy bài thơ mới làm”. Ông Bảo Định Giang khéo léo ngăn lại: “Thôi đã mười một giờ, khuya rồi để anh Sáu nghỉ”. Nguyễn Duy khi ấy đã có hơi men, nói: “Anh Bảo Định Giang ngồi xuống, đây không có anh năm, anh sáu gì hết, chỉ có bí thư. Tôi là đảng viên phải để đảng viên nói với bí thư”. Ông Kiệt lên tiếng: “Cứ để anh em tự nhiên, tôi đã đến đây là chơi tới cùng”.
Sau khi đọc bài Ông Già Sông Hậu, Nguyễn Duy nói: “Tôi xin đọc bài thơ tôi làm như một bản báo cáo với Ban Thường vụ Thành ủy thực tế đời sống của văn nghệ sỹ Thành phố”. Đó là bài thơ Bán Vàng.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhớ lại, Nguyễn Duy cao hứng đặt một chân lên ghế, nhìn thẳng vào ông Kiệt, mở đầu nhỏ nhẹ: “Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng với trời cao/ Để xa cách những gì thân thuộc nhất…”. Rồi Nguyễn Duy nhấn giọng: “Cái ác biến hình lởn vởn quanh ta/ tai ách đến bất thần không báo trước/ tờ giấy mong manh che chở làm sao được/ một câu thơ chống đỡ mấy mạng người…”. Ông Kiệt có vẻ như lặng đi. Nguyễn Duy kết thúc bài thơ: “Thì bán bớt đi một ít vàng ròng/ để sống được qua ngày gian khổ đã/ phải sống được qua cái thời nghiệt ngã/ để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời!”. Khi Nguyễn Duy ngồi xuống, ông Kiệt uống với nhà thơ một ly.
Sau cuộc họp đó, theo nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cũng có người trong giới văn nghệ định “dao búa” với Nguyễn Duy, còn ông Kiệt thì cho Thư ký Trần Hữu Phước tới gặp nhà thơ đề nghị chép cho ông hai bài thơ Nguyễn Duy đọc hôm đó để ông “làm kỷ niệm”. Nguyễn Duy kể rằng, nghe vậy, ông cũng hơi ngại nên đi hỏi Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu cần văn bản chứng cớ để xử lý?”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng cần gì”. Nguyễn Duy nói: “Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận dưới tên mỗi bài: ‘Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỉ niệm tình cảm’, như một nhắc nhở với ông rằng, ông xin để làm kỷ niệm chứ không phải để làm bằng chứng đâu đấy”.
Bẵng đi một thời gian, nhân dịp đại hội thành lập các hội nghệ thuật  của Thành phố, cũng trong một bữa tiệc do Thành ủy chiêu đãi ở Khách sạn Bến Nghé, ông Kiệt đã nhắc lại bài thơ Bán Vàng. Ông nói: “Vừa rồi, tôi trực tiếp nghe được bài thơ Bán Vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo tôi, đây là một bản án nhân tình đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự thật. Chúng ta cần chân thành nhìn nhận sự thật, để cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn này. Muốn vượt qua, theo tôi phải có niềm tin, mà cốt lõi của niềm tin là tin ở con người. Hôm nay, có thể có đồng chí không tin tôi, có thể tôi không tin một đồng chí nào đó, nhưng chúng ta thì phải tin ở con người”.
Nguyễn Duy nhớ lại: “Lần đầu tiên ngồi với một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, định mượn hơi rượu nói cho bõ hờn, không ngờ lại mở đầu cho một cuộc giao du tình nghĩa”. Từ lần nghe đọc thơ ở Hội Nhà văn Thành phố, ông Võ Văn Kiệt tạo lập được một mối quan hệ rất bạn bè với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy và tiếp đó là nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Nguyễn Duy thỉnh thoảng lại làm tiết canh, còn Nguyễn Quang Sáng lâu lâu lại lập mưu… làm thịt chó. Ông Kiệt rất nhiều lần tham gia và khi nào ông cũng hết mình.
Thật khó để phân biệt đâu là nhu cầu bè bạn, đâu là nhu cầu chính trị trong mối quan hệ giữa ông Võ Văn Kiệt với Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Trịnh Công Sơn… cũng như mối quan hệ giữa ông với các tên tuổi thời Việt Nam Cộng hòa như Tiến sỹ Nguyễn Xuân Oánh, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn… Nhưng sự thật là nhiều kiến thức về kinh tế, chính trị và xã hội mà ông Kiệt có được là thông qua những lần đàm đạo với những con người ấy.
Đầu thập niên 1990, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang có những nỗ lực vận động quốc tế để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt đến Davos và bắt đầu nhận thấy khoảng cách giữa chủ nghĩa xã hội mà ông chứng kiến ở Đông Âu và “tư bản giãy chết” mà Marx nói là một chặng đường xa xôi. Ông Võ Văn Kiệt cũng nhận thấy, chế độ đang có những bế tắc mà “xé rào” cuối thập niên 1970 hay “đổi mới” của thập niên 1980 là không thể nào tháo gỡ được.
( Còn nữa... )
Huy Đức
( * ) Rút từ trong tập Bên thắng cuộc; Đầu đề là của Phamvietdao.net...

Nguyễn Ngọc Giao - Từ Hiệp định Paris đến "Bên Thắng Cuộc"

Hiệp định Paris "về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam" đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ: Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế: Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).
Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy "palace siêu hạng" của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra: ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày "mất nước", hay "quốc hận"), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại "cải tạo", chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington - Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị... , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định -- Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa -- đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.
Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về  lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí "lề phải" vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với "đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn". Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng "khai thác độc quyền" (nói cho chính xác: độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là: sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của "sử đảng", nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang "sử" ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả: một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là "không thể tin được" những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.
Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập "Giải Phóng" và "Quyền Bính" của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva... với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc "động đất lịch sử" ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực: một mặt là "ngợp" trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là "thất vọng" hay "mong mỏi" những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các "dư luận viên" mà nhà nước đang huy động để "đánh Huy Đức" và của các chuyên gia "chống cộng tới chiều" đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (Xin xem bài của Hòa Vân: Bên Thắng Cuộc và dư luận)
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là: tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất? Hay nội chiến (Quốc Cộng)? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh?
Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định...) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và "khoanh" lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.
Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung:
Chiến tranh giải phóng 1945-1975?
Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ "chiến tranh giải phóng" mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói "chiến tranh giải phóng dân tộc", đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do: điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1: "Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 -- ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc". Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể: tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề "hốt cắt đục") đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.
Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.
Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam: bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định: ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định "rút pháo ra", ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và... Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).
Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở "bên thua cuộc" nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù "Việt cộng cướp nước", oán hận "Mỹ bỏ rơi".
Nội chiến?
Đối với quan điểm tuyên truyền "chính thống" của Đảng Cộng sản Việt Nam, "nội chiến" là một điều cấm kị. "Hai mươi năm nội chiến từng ngày", câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ - Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự "dũng cảm" (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, "dũng cảm" không phải là thuộc tính độc quyền của "ông chủ" (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm): tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.
Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn: ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ "quốc-cộng". Tôi để hai chữ "quốc-cộng" trong ngoặc kép, vì hai lẽ: tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là "quốc gia", những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho "chủ nghĩa cộng sản ngoại lai", quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phong từ năm 1917).
Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). "Nam Kỳ tự trị" năm 1946, "Quốc gia Việt Nam" năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm: từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.
Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói: lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức...
Chính đường lối "tả khuynh" theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã "bưng mâm bầy cỗ" cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước: gia đình một ông quan chỉ được tiếng "chống Pháp" vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một "quốc gia" với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về "phe kháng chiến" nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !
Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của "đệ nhất cộng hòa" đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do...  Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị... có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.
Nói như vậy có cường điệu lắm không? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này: một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra: đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động "cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để" (với ý đồ dễ đoán: phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào "can chú Thanh", cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất "triệt để mao-ít". Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc "cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện" ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ): xin mời độc giả tìm đọc những chương về "cải tạo công thương nghiệp" do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.
Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ?
Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành "tiền đồn thế giới tự do" đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là "tay sai" ("agent" của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ "Nam quốc sơn hà..." của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam" (ông ta cũng đủ dí dỏm để,  đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình: "Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris").
Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là "chiến tranh ủy nhiệm", "chiến tranh ý thức hệ".
Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.
Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được "ủy nhiệm" để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy: khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương "bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không "ăn giơ" với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là: sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 "chổi ngắn không thể quét xa" không chỉ là một lời nói suông).
Yếu tố quyết định
Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì?
Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).
Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là: nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công?
Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.
Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản "Định ước quốc tế", tức là đơn thuần "chứng giám" sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái "thế chiến quốc" ở Genève năm 1954 đã qua rồi.
Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc
Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm:
Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau: một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền "cộng sản" thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một "khoảng thời gian vừa phải" (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian "decent".
Người ta có thể phản biện: nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách "cải tạo" thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm: cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.
Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là: cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.
Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.
Berlin, 8.2.2013
Nguyễn Ngọc Giao
(Diễn Đàn)
 

Nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa TƯ. Hà Đăng: Niềm tin vào đảng của tôi chỉ là niềm tin của một tên trộm?

Đồng chí Hà Đăng (ảnh), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI, nguyên Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, nguyên Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, nguyên Trợ lý Tổng Bí thư
Ông Hà Đăng
Ông đã mở đầu bài viết về niểm tin vào Đảng bằng niềm tin của một tên trộm . Đây chính là tử huyệt mà các thế lực thù địch rất dễ dàng sử dụng đề chống phá niềm tin chúng ta, ngay cả khi chúng ta chẳng có niềm tin vào bất cứ điều gì. Thật là vô cùng nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm !
Với tinh thần trách nhiệm vô cùng cao cả, ý thức cảnh giác cách mạng hết sức cao độ, với tư cách là một dư luận viên gương mẫu, nhiệt tình, tôi yêu cầu ông Hà Đăng khẩn cấp hạ bài báo này xuống, đưa về làm kỷ niệm ?!
Đúng ngày Mùng 1 Tết, tình cờ tôi được đọc bài Niềm tin của ông Hà Đăng trên Tuần Việt Nam. Trong bài, thấy ông Hà Đăng “khoe” rằng ông đã 65 năm tuổi Đảng, đã từng dự Hội nghị Paris 1973. Có lẽ tác giả Hà Đăng chính là ông Hà Đăng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Văn hóa tư tưởng Trung ương ?
Nhưng, cho dù ông Hà Đăng từng giữ chức vụ to như thế, trong một lĩnh vực rất thiêng liêng là mặt trận tư tưởng văn hóa, thì với tư cách là một dư luận viên, tôi vẫn buộc lòng phải đặt một dấu hỏi cực to về bài viết của ông: Ông viết bài này với mục đích gì?
Tiêu đề bài viết là Niềm tin. Trong bài viết, ông đã chia sẻ với độc giả về niềm tin của ông trong cuộc đời, nếu tôi không nhầm, là niềm tin vào Đảng. Ông khẳng định trong bài viết của mình: “tôi vẫn nghiệm ra rằng chỉ có giữ trọn niềm tin vào Đảng, hành động theo Đảng thì tự mình mới đứng vững được”.
Và để chứng minh cho luận điểm này, ông đã dẫn ra những câu thơ của Tố Hữu, những lời dặn dò của đồng chí Tô (Phạm Văn Đồng) khi ông được kết nạp Đảng năm 1947, câu Kiều mà anh Sáu Lê Đức Thọ đọc trong thời gian Hội nghị Paris 1973…
Ông tin vào Đảng? Ô kê, dư luận viên là tôi rất nhiệt liệt hoan nghênh ông. Tuổi Đảng của tôi chỉ mới được 4 năm, chưa bằng số lẻ của 65 năm tuổi Đảng của ông. Nhưng có lẽ ông không hiểu được rằng tôi đang có một niềm tin vào Đảng mãnh liệt như thế nào đâu. Nói không phải khoe: Trong giới trẻ bây giờ chẳng mấy ai được như tôi đâu ông ạ.
Và cũng chính vì điều ấy, chính vì niềm tin và tình cảm  vô cùng thiêng liêng ấy của tôi, tôi buộc lòng phải thưa với ông rằng trong bài viết của ông có hai chỗ cực kỳ nhạy cảm, nếu không muốn nói rằng đó là những tử huyệt vô cùng nguy hiểm. Cứ đọc đến hai chỗ này là bầu máu nóng trong con người tôi lại dâng lên ngùn ngụt. Bực quá, giận quá, căm thù quá!
Thôi thì để tôi lấy hơi thở, bình tĩnh trở lại để thưa với ông, hai chỗ ấy là hai chỗ như sau:
Thứ nhất, trong bài viết, không biết vô tình hay cố ý, ông đã tiết lộ một sự kiện vô cùng nhạy cảm: “Ngày 27-11-1972, sau những phiên họp mật kéo dài một tuần với Kissinger mà chưa ngã ngũ, nhân ngày nghỉ, cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy sao thăm Đoàn miền Nam tại Verie lơ Buy xông”.
Vào thời điểm đó, hiệp định Paris chưa được ký kết. Chính quyền Sài gòn vẫn là kẻ thù của ta. Phái đoàn miền Nam ở đây là phái đoàn nào, Cộng hòa miền Nam Việt Nam hay là Việt Nam Cộng hòa? Sao ông không nói thẳng, viết thẳng cho nó rõ ràng ra, lại viết ỡm ờ hết sức nguy hiểm là “Đoàn miền Nam”?
Nhưng cái điều thứ nhất này cũng mới chỉ là tép riu, không bằng một phần trăm của cái điều thứ hai dưới đây.
Thứ hai, Ông mở đầu một cách rất hấp dẫn, lôi cuốn và cũng rất chi là gây hồi hộp. Ông cũng đã rất công phu trong phần mở đầu, đến nỗi nếu toàn bộ là 7 phần, trọng tâm  là 3 phần thì mở đầu cũng chiếm tới 3 phần, chỉ 1 phần là dành cho kết luận.
Bài viết của ông có thể khẳng định là viết về niềm tin của ông đối với Đảng. Nhưng thật oái oăm, ông lại lai dắt, lại ví dụ để mở đầu bằng“niềm tin của một tên trộm”.
Để tôi dẫn ra những câu ông viết để chứng minh cho ông nhá: “Mỗi khi anh ta (tức là tên trộm) trở về, Hasan đều hỏi: Có trộm được gì không?”, và anh ta đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thế lắm chứ” Hasan chưa bao giờ thấy tên trộm ấy trong tình trạng tuyệt vọng, anh ta luôn hạnh phúc. Nhiều năm sau, có lúc Hasan rơi vào tình trạng tuyệt vọng, nghĩ rằng phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa của cuộc sống. Nhưng sau đó, ông chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ”. Thông điệp Hasan nhận được từ tên trộm, nói đúng hơn, từ cuộc sống, mà ông rút ra thành triết lý sống là không được đánh mất niềm tin và đừng bao giờ tuyệt vọng”.
Ông viết như thế là có dụng ý, ẩn ý, hàm ý gì ? Ông định ám chỉ ai, ám chỉ điều gì, thưa ông Hà Đăng ? Thật tình tôi cho rằng chỉ có ông Trời mới biết ông có ý định ngầm ví von, so sánh điều gì đó hay không khi dùng niềm tin của một tên trộm để mở đầu cho bài viết vể chủ đề cực kỳ nghiêm túc và vô cùng thiêng liêng là niềm tin về Đảng ?
“Tên trộm luôn hạnh phúc” ư ? Nói thế chẳng khác nào chỉ cho lớp trẻ chúng tôi rằng muốn có hạnh phúc thì cứ việc đi … ăn trộm ?
Niềm tin của tên trộm ở đây là “ngày mai tôi sẽ làm được”, tức là sẽ tiếp tục ăn trộm của thiên hạ một cách thành công. Vậy mà ông dám gọi đó là “thông điệp từ cuộc sống”, rồi lại tôn nó thành “triết lý sống” ư ?
Ông đã mở đầu bài viết về niểm tin vào Đảng bằng niềm tin của một tên trộm . Đây chính là tử huyệt mà các thế lực thù địch rất dễ dàng sử dụng đề chống phá niềm tin chúng ta, ngay cả khi chúng ta chẳng có niềm tin vào bất cứ điều gì. Thật là vô cùng nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm !
Đã từng là Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương, ông thừa hiều sức mạnh của ngôn ngữ có khi bằng cả đạo quân triệu người chứ? Và hẳn là ông có biết tới bài học nhãn tiền vừa giáng xuống đôi vai gầy và cái đầu xxx của Đại tá Phó Giáo sư Tiến sĩ Nhà giáo ưu tú Trưởng khoa Học viện Quân sự Trần Đăng Thanh ?
Với tinh thần trách nhiệm vô cùng cao cả, ý thức cảnh giác cách mạng hết sức cao độ, với tư cách là một dư luận viên gương mẫu, nhiệt tình, tôi yêu cầu ông Hà Đăng khẩn cấp hạ bài báo này xuống, đưa về làm kỷ niệm.
Và tôi cũng chân thành đề nghị ông hãy nghiêm túc soi lại bản thân mình với tinh thần phê và tự phê một cách thực sự cầu thị, xem đây là một bài học quí giá, cho dù người dạy cho ông bài học này chỉ là một dư luận viên trẻ tuổi chưa ai biết như tôi.
Mong ông bình tĩnh, bình thản, bình ổn và bình tâm !
Dư luận viên VO VĂN VE
(Tâm sự Y giáo)
----------------------
Hà Đăng: Niềm tin
Vào những lúc đó, dẫu có chút phân tâm, tôi vẫn nghiệm ra rằng chỉ có giữ trọn niềm tin vào Đảng, hành động theo Đảng thì mới tự mình đứng vững được.
Tình cờ  trên một tờ báo quen thuộc, ở gần những trang cuối, đăng lại câu chuyện về nhà hiền triết Hasan của Hồi giáo Ai là thầy của ngài? Câu chuyện cũng xưa rồi. Khi nhà hiền triết Hasan sắp qua đời, có người hỏi ông: "Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?". Nhà hiền triết bảo "Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy, hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta...". Ba người thầy ấy, lần lượt theo lời thầy kể, là một tên trộm, một con chó,  cuối cùng là một đứa bé. Mỗi người thầy này đều cho nhà hiền triết một bài học quý.
Tôi chọn vị thầy thứ nhất "một tên trộm" để giới thiệu, bởi câu chuyện có liên quan đến "niềm tin".
Tóm tắt câu chuyện thế này: Một lần, Hasan đi lạc trong sa mạc, khi ông tìm đến một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả, chỉ một người còn thức, đang khoét vách một căn nhà trong làng. Hasan hỏi người đó xem có thể tá túc ở đâu, "Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm", người kia bảo. Hasan nán lại đó hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm tên trộm bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!". Mỗi khi anh ta trở về, Hasan  đều hỏi: "Có trộm được gì không?", và anh ta đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Hasan chưa bao giờ thấy tên trộm ấy trong tình trạng tuyệt vọng, anh ta luôn hạnh phúc. Nhiều năm sau, có lúc Hasan rơi vào tình trạng tuyệt vọng, nghĩ rằng phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa của cuộc sống. Nhưng ngay sau đó, ông chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết "Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ". Thông điệp Hasan nhận được từ tên trộm, nói đúng hơn, từ cuộc sống, mà ông rút ra thành triết lý sống là không được đánh mất niềm tin và đừng bao giờ tuyệt vọng.
Từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, những câu thơ của Tố Hữu, do anh tôi - anh Đặng Minh Phương - chép tay từ một chiến sĩ cách mạng tù Buôn Ma Thuột về và cho tôi đọc, đã gieo cho tôi một niềm tin mãnh liệt.
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là  phải chịu tù đày

Là gươm kề tận cổ súng kề tai

Là thân sống chỉ  coi còn một nửa
Năm 1947, tôi được kết nạp vào  Đảng. Trong thư gửi các đảng viên mới "lớp Tháng Tám". Đồng chí Tô (Phạm Văn Đồng) dặn dò: Vào Đảng là để suốt đời phấn đấu hy sinh cho cách mạng, cho Tổ quốc. Niềm tin vào Đảng, vào cách mạng đã dẫn dắt cuộc đời tôi từ bấy đến nay. 65 tuổi Đảng rồi mà vẫn nhớ như in cái ngày tôi giơ nắm tay trái lên thề trước bàn thờ Tổ quốc: Suốt đời phấn đấu hy sinh!
Tôi đã được sống những ngày hào hùng, xen lẫn ưu tư, của các thời kỳ cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở  ta, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo  điều và sự chia rẽ trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới, kể cả khi chế  độ xã hội chủ nghĩa bị phản bội và  sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô. Vào những lúc đó, dẫu có chút phân tâm, tôi vẫn nghiệm ra rằng chỉ có giữ trọn niềm tin vào Đảng, hành động theo Đảng thì mới tự mình đứng vững được.
Nhớ lại những ngày đối mặt với kẻ thù tại Hội nghị Pa-ri về Việt Nam. Biết là Hội nghị sẽ kéo dài nhưng ai ngờ nó lại kéo dài tới hơn bốn năm. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được thỏa thuận từ 20-10-1972. Thế mà ngay sau đó, Mỹ lại lật lọng. Ngày 27-11-1972, sau những phiên họp mật kéo dài một tuần với Kissinger, mà chưa ngã ngũ, nhân ngày nghỉ, cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy sang thăm Đoàn miền Nam tại Verie lơ Buyxông. Báo chí Pa-ri được dịp đưa tin rằng đó là cuộc "hội kiến" giữa hai đoàn Việt Nam để thống nhất kế hoạch đấu tranh cho một Hiệp định cuối cùng. Thật ra, chỉ là chuyện trò, thông báo tình hình các cuộc họp mật. Và anh Sáu Lê Đức Thọ đã kết thúc cuộc "hội kiến" không phải bằng một kết luận chính trị hay ngoại giao mà là một câu Kiều hàm ý nhắc nhủ:
Dằn lòng chờ đợi ít lâu
Chầy ra thì cũng năm sau vội gì?
Hai tháng sau, Hiệp định chính thức  được ký kết. Phải chăng đó cũng là niềm tin?
Tết năm nay, Tết Quý Tỵ. Tôi nghĩ  năm Nhâm Thìn vừa qua là một năm sôi động. Vì cả nước gồng mình lên chống chọi với những khó khăn về kinh tế - xã hội. Vì Đảng ta dồn tâm sức cho việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, mong muốn ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống.
Những lời dặn của Bác Hồ luôn là  điểm tựa để ta đi lên: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ  đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Tết Quý Tỵ
Hà Đăng
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI - Tổng biên tập báo Nhân Dân - Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương

Không đoàn kết là thời cơ cho Trung Quốc hành động

Dantri/ Tienphong

‘Ông Biển Đông’ Trần Công Trục (nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ) chia sẻ: Không tạo được sức mạnh đoàn kết thì rất nguy hiểm và đó là thời cơ cho Trung Quốc hành động.
Ông Trần Công Trục
Ông Trần Công Trục.

Nhìn lại một năm liên tục nóng với các diễn biến trên biển, với lịch trả lời phỏng vấn dày đặc, với cuốn sách “Dấu ấn VN trên Biển Đông” được xuất bản, “ông Biển Đông” Trần Công Trục (nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ) chia sẻ nhiều tâm huyết về “nghề”, về “nghiệp”…
Các vấn đề biển Đông “nóng” suốt 2 năm qua, trong khi ông là một chuyên gia, một địa chỉ mà báo giới tìm đến mỗi lần có những động thái, diễn biến mới trên biển. Xuất hiện với mật độ khá lớn như vậy, có khi nào ông thấy “mệt”?
Tất nhiên với tuổi 70, đã nghỉ công tác quản lý 10 năm nay rồi mà vẫn tiếp tục nghiên cứu để có nội dung thông tin đáp ứng được đòi hỏi của dư luận cũng như các phóng viên có hiểu biết rất sâu rộng không hề dễ. Nếu chỉ nói dăm ba câu về lập trường tôi không muốn. Tôi quan niệm nói phải có nội dung, phải đi sâu những lĩnh vực mà mình có tri thức, có kinh nghiệm, có thực tế vì đòi hỏi của dư luận là phải có những phân tích khoa học, khách quan. Việc đó đòi hỏi sự nghiên cứu, đầu tư tâm trí, sức lực.
Vấn đề biên giới, chủ quyền lãnh thổ dường như ám ảnh ông nhiều, đã về hưu nhiều năm nay, ông vẫn không thoát được “nghiệp”?
(Cười)… Vì tôi gắn bó với công việc này gần 40 năm rồi, bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1970, 1976 thì chính thức “vào biên chế” của Ban Biên giới Chính phủ, đến 2004 mới nghỉ hưu, từ cương vị một chuyên viên lên làm lãnh đạo Ban trong nhiều năm. Tôi có quá trình nghiên cứu khá dài, rồi đi thực tế cũng không ít. Tôi đã đi tất cả các đảo ven biển của tổ quốc, ra đảo bắc Trường Sa. Chỉ Hoàng Sa đến nay vẫn chưa đi được vì quần đảo này đã bị Trung Quốc chiếm mất rồi.
Đã đến nhiều đến các vùng hải đảo, biên giới như, thực tế cuộc sống ở những nơi địa đầu, sóng gió, kỷ niệm nào, địa danh nào để lại dấu ấn không thể phai với ông?
Tôi ấn tượng, xúc động nhất với sự hi sinh gian khổ, sự chịu đựng của những người lính, người dân khu vực biên giới, hải đảo. Những thiếu thốn, vất vả ở đây không chỉ về mặt vật chất mà cả mặt tinh thần. Vậy nên phải làm sao để người lính cầm súng, chịu đựng gian khổ để bảo vệ đất đai hiểu rõ ràng vùng đó thuộc chủ quyền của đất nước ra sao.
Tôi đã thực sự cảm nhận được niềm xúc động chưa bao giờ có trong đời khi bước chân lên đỉnh núi, sờ được vào cột mốc biên giới. Rồi có những chuyến đi biển, tôi phải bơi ra tận những ngách đá hẻo lánh, nguy hiểm nhất. Tôi còn nhớ lần đầu ra Trường Sa năm 1990, trong đoàn có cả Phó Thủ tướng Trần Đức Lương và Thứ trưởng thường trực Tài chính Nguyễn Sinh Hùng thời đó. Đến giờ tôi vẫn lưu tấm ảnh Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng quần soọc áo cộc đứng ở mũi tàu.
Ở góc độ bên ngoài, có cảm giác lĩnh vực nghiên cứu của ông khá khô khan. Là người trong cuộc, ông thấy công việc này thế nào?
Chỉ khô khan khi anh chỉ ngồi trong bàn làm việc, làm theo những nguyên tắc, tư duy một cách chủ quan mà không muốn tìm hiểu để đưa ra quan điểm có tính khoa học. Nhưng thực chất công việc, muốn làm sâu sắc phải nghiên cứu rất đa dạng, phải lăn lộn ở những khu vực khó khăn, phải hiểu được cảnh đi bộ hàng ngày trời chỉ với cơm nắm giắt lưng, ba tong, lên đường như một người lính đi Trường Sơn hay phải ra sóng gió, đi biển, lênh đênh trên tàu nhiều ngày thậm chí hàng tháng trời mới hiểu rõ sự gian khổ của người dân đi biển, người đi bảo vệ biển, người cầm súng trên đảo… Từ đó mới thấy yêu nghề thế nào, yêu đất nước ra sao.
Có tờ báo đã từng đặt cho ông một cái tên mới – “ông Biển Đông”. Ông nghĩ gì về tên gọi này?
Đó là vì các bạn thấy tôi nói nhiều về Biển Đông, trả lời nhiều về Biển Đông, dành nhiều quan tâm nghiên cứu về Biển Đông nên nói thế thôi chứ thực tế làm gì có ông nào như vậy. Tuy nhiên, việc các nhà báo gọi vậy tôi cũng thấy có điểm phản ánh được tư tưởng, nguyện vọng của tôi, những mong muốn và sự nghiệp của tôi qua cái tên này. (Cười).
2012 tiếp tục là một năm Biển Đông không lặng sóng với những tranh luận, những vấn đề nảy sinh giữa Việt Nam – Trung Quốc, Philippine – Trung Quốc. Khái quát tình hình, ông đánh giá thế nào về độ “nóng” của vấn đề trong năm vừa qua?
Rõ ràng câu chuyện Biển Đông năm 2012 không hề giảm bớt sự căng thẳng mà còn tích tụ nhiều hơn, mạnh hơn ở vấn đề hiệu ứng tranh chấp. Nói chung, về chiến lược và các bước đi của Trung Quốc không thay đổi, họ vẫn từng bước muốn khống chế tình hình để đi theo hướng đòi hỏi yêu sách của mình.
Về cách đi, họ dùng nhiều phương thức có tính chất dân sự, hành chính như dùng tàu hải giám, tàu tuẫn tiễu, các lực lượng chấp chính trên biển; dùng nhiều thủ thuật trong cuộc đấu tranh để giành sự công nhận mặc nhiên của các bên có liên quan về tranh chấp và công khai hóa yêu sách đường lưỡi bò trên cơ sở đó tiếp tục các hoạt động trong thực tế.
Trong khi đó, khu vực Đông Nam Á lại có một số biểu hiện chưa thống nhất. Hội nghị Phnompenh không ra được tuyên bố chung, không đưa vấn đề Biển Đông vào dù ai cũng thấy đó là nội dung cần quan tâm xử lý. Sau đó, nội dung đàm phán với Trung Quốc cũng dừng chân tại chỗ trong khi trên thực tế, nhiều hoạt động của nước này không hề dừng lại. Tàu hải giám vẫn tiếp tục đầu tư mạnh hơn, tàu tuần hải cũng thế, hoạt động vận chuyển, đánh cá, khai thác du lịch… cũng rầm rộ.
Trên biển Hoa Đông, Nhật và Trung Quốc cũng căng thẳng không kém.
Điều đó thể hiện rõ chiến lược của Trung Quốc là muốn trở thành một siêu cường kinh tế, với việc trước hết là trở thành một cường quốc biển. Và con đường ra đại dương thông qua Biển Đông là điều rất hiện hữu, là hướng chính cho họ ra biển.
Tất cả những điều đó thể hiện, năm 2012 tình hình không giảm phức tạp, thậm chí nhiều học giả còn nhận định biển Đông thành tâm điểm đang đứng bên miệng hố chiến tranh. Có thể nhận định chưa chuẩn xác lắm nhưng nó chứng tỏ mức độ phức tạp của tình hình.
Nhìn sang 2013, ông đánh giá thế nào về khả năng diễn biến của câu chuyện trên Biển Đông? Tình hình chung liệu có thể hạ nhiệt hay còn nóng hơn?
Khó có thể đoán trước điều gì. Chỉ có thể nói chủ trương, sách lược, yêu sách của Trung Quốc rất rõ và chắc chắn họ sẽ cố thực hiện.
Họ có thể đạt được mục đích hay không sẽ phụ thuộc lớn vào sự đoàn kết, sức mạnh trong việc tập hợp tiếng nói chung trên các mặt trận đấu tranh hay chia rẽ của đối phương. Không tạo được sức mạnh đoàn kết thì rất nguy hiểm và đó là thời cơ cho Trung Quốc hành động.
Qua năm 2012 có thể thấy các bên cùng với tranh chấp đều đã tăng cường tiềm lực, gia tăng sức mạnh quân sự. Và thực tế có những lo ngại, thời gian tới, mức độ tranh chấp có khả năng dẫn đến những đụng độ ở phạm vi nào đó?
Các quốc gia trong khu vực, các nước lớn trên trường quốc tế đều đang rất quan tâm đến câu chuyện trên biển, không chỉ trên phương diện chính trị ngoại giao mà còn bằng cả sức mạnh với việc tăng cường ngân sách quốc phòng, mua thêm trang bị vũ khí. Điều đó khiến người ta lo là nếu không có giải pháp thích hợp làm giảm căng thẳng thì những đụng độ có thể có. Đương nhiên là việc để xảy ra đụng độ chiến tranh, nổ súng không phải dễ, không hẳn thời gian ngắn trước mắt có thể có, đặc biệt khi vấn đề đến giờ không chỉ dừng ở câu chuyện của các nước trong khu vực nữa.
Việt Nam dĩ nhiên cũng không hề muốn gây ra đụng độ. Các nước Châu Á khác cũng vậy. Vấn đề phụ thuộc vào xử sự của các nước lớn. Về phía Trung Quốc, ta vẫn hi vọng vào tuyên bố muốn đàm phán hòa bình, giải quyết mọi tranh chấp bằng phương pháp hòa bình của họ. Tuy nhiên, thực sự, họ có làm theo lời phát biểu không thì rõ ràng, thực tế vừa qua, họ đã không làm thế.
Xin cảm ơn ông!
Theo Cấn Cường – Phương Thảo
Dân Trí
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét