THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ hai, ngày 9/1/2012
(phần 1)
TTXVN (Angiê 5/1)
Vào trung tuần tháng 11/2011, Tổng thống
Mỹ, Barack Obama, đã thực hiện một chuyên công du đến châu Á. Tại đây,
ông tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC ở Hawaii, hội nghị thượng đỉnh
ASEAN, rồi với các nước Đông Nam A tại Bali (Inđônêxia). Lịch trình đặc
biệt dày đặc trong chuyến đi này của Tổng thống Obama, theo đánh giá của
giới quan sát, cho thấy đây không phải là một chuyến đi mang ý nghĩa
kinh tế và hữu nghị đơn thuần với các nước trong vùng mà là biểu trưng
cho việc tái xác lập lợi ích của Mỹ ở châu Á cũng như gia tăng sự kình
địch với Trung Quốc.
Nhà phân tích Nikolas Jucha của tạp chí
“Phát thanh” gần đây cho rằng quãng thời gian đó tuy ngắn ngủi song cũng
đủ để mối quan hệ Mỹ- Trung thu hút mọi sự chú ý của dư luận quốc tế,
bộn bề giữa những bất đồng về tiền tệ liên quan đến vấn đề đồng nhân đân
tệ và sự kình địch địa chiến lược ngày càng rõ nét.
Một xu
hướng đặc biệt rõ nét xuất hiện liên quan đến vấn đề đồng nhân dân tệ.
Từ năm 2005, đồng tiền của Trung Quốc được định giá vào khoảng 18-20% so
với đồng USD. Đây cũng là một sự định giá lại có ý nghĩa nhưng được cho
là chưa đủ đối với Mỹ. Việc Mỹ không châp nhận mức chênh lệch đó trên
thực tế thể hiện trong các tuyên bố chính thức của Nhà Trắng yêu cầu
Trung Quốc phải tiếp tục có những nỗ lực theo hướng này.
Theo ông Philip Golub, chuyên gia về Mỹ
thuộc trường Đại học Pari VIII (Pháp), mất cân đối thương mại giữa Mỹ và
Trung Quốc nảy sinh do đồng nhân dân tệ yếu, đối với Tổng thống Obama,
là một việc nằm trong khuôn khổ chính sách đối nội. Điều chắc chắn là
Tổng thống Obama tính toán đến cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2012, khi
ông thúc ép Bắc Kinh phải định giá lại đồng nhân dân tệ, đồng thời phải
hành xử như một “nền kinh tế đã chín muồi” và “tôn trọng luật lệ” của
cuộc chơi. Báo chí chính thức của Trung Quốc như vậy đã không nhầm khi
cáo buộc Tổng thống Mỹ “có dụng ý lợi dụng bầu cử” khi ông công khai tấn
công Bắc Kinh về vấn đề đồng nhân dân tệ. Nhưng đối với chuyên gia
Philip Golub, đó là tất cả những gì mà Tổng thống Obama sẽ tiếp tục làm
trong năm tới với cuộc bầu cử tổng thống.
Liên quan đến tình thế mới trong vùng
châu Á-Thái Bình Dương, Tổng thống Obama nói rõ rằng Mỹ đã ký hiệp định
hợp tác quân sự với Ôxtrâylia. Việc “tái xác định vị thế” của Mỹ trong
vùng, như chuyên gia Andrew Jones nhận định, chắc chắn xuất phát từ việc
vùng châu Á-Thái Bình Dương hiện nay là vùng năng động nhất thế giới về
tăng trưởng kinh tế. Dự án trao đổi mậu dịch tự do của Mỹ đối với vùng
này cũng nằm trong lôgích đó. Mỹ tận dụng các cuộc gặp cấp cao trong
khuân khổ APEC, ASEAN và với các nước Đông Nam Á nói trên để nắm bắt cơ
hội kinh tế, từ đó đưa ra một kế hoạch hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP) có thể sẽ bao gồm 12 nước.
Đề xuất này khiến Trung Quốc lo ngại.
Trong khi nước này hy vọng thành lập một khu trao đổi mậu dịch tự do
“cấp vùng”, việc Oasinhtơn đưa ra những con bài của mình ở vùng này
không phải là để thúc đẩy kế hoạch của Bắc Kinh. Biện pháp này có thể
nhằm ngăn chặn việc Bắc Kinh tiếp tục thực hiện chính sách bảo hộ tiền
tệ và thương mại cũng như tiếp tục phớt lờ quyền sở hữu trí tuệ.
Nhưng chuyến đi châu Á của Tổng thống
Obama không đơn thuần chỉ nhằm mục đích thúc ép Trung Quốc trong vấn đề
đồng nhân dân tệ. Khi tham dự hội nghị cấp cao APEC ở Hawaii, hòn đảo
nơi ông sinh trưởng, Tổng thống Obama đã làm thay đổi tình thế khi ông
công bố trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ được đưa trở lại châu Á-Thái Bình
Dương. Qua chuyến công du của Tổng thống Obama, Mỹ đã khẳng định quyết
tâm tái xác lập lại lợi ích chiến lược của mình: Châu Á và Thái Bình
Dương là một trọng tâm chiến lược cốt lõi cả trong lĩnh vực kinh tế
(điểm tiếp nối tăng trưởng) lẫn trên phương diện chính trị (sự lớn mạnh
của Trung Quốc).
Các hội nghị cấp cao APEC và ASEAN là
nguyên nhân dẫn đến một số lo ngại về phía Trung Quốc. Vào một thời điểm
nào đó, nước này dường như đã nắm được trong tay tất cả các con bài ở
châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc đã hất chân Nhật Bản để đoạt lấy vị
trí nền kinh tế thứ hai thế giới, mua chiếc tàu sân bay đầu tiên và trở
thành cường quốc chính ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), về phần mình,
Mỹ gây được sự chú ý bằng thái độ và lập trường trong vụ bán vũ khí cho
Đài Loan.
Châu Á-Thái Bình Dương là nơi nảy sinh
nhiều vấn đề về an ninh. Thế giới đã thấy ý định tăng cường sức mạnh hải
quân của Trung Quốc là như thế nào.
Cũng như cựu Tổng thống Georges.w.Bush
trước đây, Tổng thống Obama cũng đã thấy được khả năng xoay xở của mình
trước Trung Quôc suy giảm do khó khăn kinh tế ở trong nước. Tình thế đó
buộc ông Obama một mặt phải tính tới dư luận và áp lực trong Quốc hội
hiện nằm trong tay phái Cộng hòa, mặt khác phải duy trì áp lực đối với
Trung Quốc.
Đối với Oasinhtơn, vấn đề dường như là
Mỹ muốn ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong vùng. Chính vì
vậy, người ta có thể hiểu việc Mỹ tái triển khai lực lượng quân sự ở
Thái Bình Dương. Theo chuyên gia Andrew Jones, phía Mỹ định tận dụng các
mối lo ngại mà Trung Quốc gây ra cho các nước láng giềng (Việt Nam,
Philíppin, Hàn Quốc, Nhật Bản, thậm chí cả Ôxtrâylia…) để xích lại gần
hơn các nước này.
Trung Quốc lo ngại khi thấy ý đồ bá
quyền của mình bị cản trở. Trong khi phản ứng của Mỹ có thể được nhìn
nhận như một hành động chiến thuật để ngăn cản sức mạnh đang lên của
Trung Quốc thì Bắc Kinh tức giận coi đó như một sự can thiệp vào công
việc nội bộ của mình. Để đáp trả lại các kế hoạch của Mỹ, Bắc Kinh cảnh
báo sự can dự của Mỹ vào công việc trong vùng sẽ không phải là điều tốt
lành cho các nước trong vùng và cũng không tốt cho chính nền kinh tế Mỹ.
Tuy nhiên, nhà phân tích Nikolas Jucha
cho rằng trong mối quan hệ Mỹ-Trung, thời thế đã thay đổi ở vùng châu
Á-Thái Bình Dương. Chuyến công du của Tổng thống Obama là biểu tượng cho
những vấn đề ưu tiên mới của Mỹ ở châu Á. Tất cả đều không có gì bất
ngờ trừ một thứ: đó là Thái Bình Dương đang trở thành một mối ưu tiên
đối với Oasinhtơn vào thời điểm Bắc Kinh muốn biến đại dương đó thành
chiếc ao nhà. Cũng có thể nói rằng gió đã đổi chiều ở vùng châu Á-Thái
Bình Dương và Trung Quốc không còn được tự do hành động như trước nữa.
Một quân át chủ bài khác của Mỹ trong
cuộc chơi với Trung Quốc là Mianma. Bắc Kinh kêu gọi Mỹ và châu Âu chấm
dứt trừng phạt đối với Mianma để thúc đẩy phát triển và ổn định trong
vùng. Phản ứng này được đưa ra trong lúc Ngoại trưởng Mỹ, Hillary
Clinton, đang ở thăm nước này. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc,
Hồng Lỗi, nói rằng Trung Quốc hoan nghênh mối quan hệ giữa Mỹ và Mianma
đang có vẻ “ấm lên” với biểu tượng là chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ.
Mianma và Trung Quốc đã phát triển mối quan hệ rất chặt chẽ, chủ yếu là
do lệnh cấm vận của phương Tây đối với Mianma. Hồng Lỗi kêu gọi các nước
có liên quan bãi bỏ cấm vận chống Mianma nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho sự ổn định và phát triển.
Tình hình chính trị ở Mianma có thay đổi
trong thời gian gần đây, với quyền tự do đượe chính quyền mở rộng hơn.
Việc trả lại tự do cho nhà hoạt động dân chủ Aung San Suu Kyi là một
hành động theo hướng này. Đồng thời, mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Mianma cũng thay đổi. Năm 2011, Mianma đã ngừng dự án xây đập được Trung
Quốc tài trợ khoảng 4 tỷ USD, mặc dù họ phụ thuộc vào đầu tư và hỗ trợ
chính trị cũng như thương mại của Trung Quốc.
Theo nhà phân tích Nikolas Jucha, Bắc
Kinh dường như sợ việc đến với Mianma trở thành phương tiện giúp Mỹ làm
suy giảm ảnh hưởng của mình trong vùng. “Thời báo hoàn cầu”, một tờ báo
theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa thường viết với giọng điệu hùng hổ, nói
rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận lợi ích của mình “bị chà đạp”, nhưng
lại không thấy có vấn đề gì nếu Mianma cải thiện mối quan hệ với phương
Tây.
Những tiến triển mới nhất trong tình
hình ở châu Á-Thái Bình Dương được đánh giá là thuận lợi cho ý định của
Mỹ tăng cường sự có mặt và ảnh hưởng của mình ở trong vùng. Mỹ cũng đang
bắt đầu một chiến dịch tái lập vị thế chiến lược ở châu Á-Thái Bình
Dương và cũng vừa mới ký hiệp định quân sự với Ôxtrâylia. Nhiều nhà quan
sát không ngần ngại nói rằng Mỹ đã bắt đầu “thực sự vào cuộc”.
Ước muốn của Lầu Năm Góc ở châu Á
Trong năm 2010, sau nhiều lần nhắc đi
nhắc lại rằng Hải quân Mỹ cũng như các chiến dịch tuần tra và hoạt động
của tàu chiến Mỹ không được hoan nghênh ở vùng Tây Thái Bình Dương,
Trung Quốc đang quan sát việc Mỹ tái bố trí lực lượng ở vùng này, dù
không thực sự ngạc nhiên, song với vẻ khó chịu xen lẫn lo ngại. Trong
lúc đó, Nhà Trắng vừa chính thức thông báo rút quân vĩnh viễn khỏi Irắc
và theo kế hoạch sẽ rút quân khỏi Ápganixtan vào năm 2014.
Sự đảo chiều đó, được hỗ trợ bởi sức
mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ như chuyên gia Franoois Danjou phân tích
trên tạp chí Trung Hoa ngày nay”, rõ ràng cho thấy nhãn quan mới trong
hoạt động của Oasinhtơn tự cho mình là ngọn cờ đầu của nhũng giá trị dân
chủ và nhân quyền. Sáng kiến này của Mỹ một mặt cho thấy đây là một
phản ứng mạnh về quân sự và an ninh, mặt khác tận dụng được bối cảnh
thuận lợi khi tình hình xấu đi ở Đông Nam Á do những mưu đồ quá đáng của
Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), gây ra.
Trước việc Mỹ tái khẳng định mình vẫn là
người chủ trò ở châu Á, Trung Quốc lúc này ở vào thế phòng ngự, ra sức
trấn an các đối tác của mình trong ASEAN bằng những lời hứa hẹn đối
thoại song phương liên quan đến các vùng tranh chấp và cả viễn cảnh can
dự sâu rộng hơn về kinh tê. Sự can dự đó sẽ được thúc đẩy với việc đi
vào thực hiện hiệp ước trao đổi mậu dịch tự do ký với các nước Đông Nam Á
(vào tháng 1/2010 với 6 nước sáng lập ASEAN và vào thảng 1/2015 với
Mianma, Việt Nam, Lào và Campuchia).
Trong thời gian tới, tình hình xấu đi
xung quanh sự kình địch giữa Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ trở thành một
cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa hai nước này để tìm kiếm đồng minh. Cuộc
cạnh tranh này sẽ không có lợi cho sự phát triển hài hòa trong vùng,
đặc biệt và nhất là nếu xuất hiện mối đe dọa leo thang quân sự tự nhiên
nhuốm màu chủ nghĩa dân tộc lo âu và có khả năng gây khó khăn về ngân
sách và ổn định kinh tế của các bên có liên quan.
Cuộc tiến công của Mỹ, được phát động
như để bác bỏ ý nghĩ cho rằng Mỹ đang suy tàn, được bắt đầu bằng một bài
viết dài của Ngoại trưởng nước này, bà Hillary Clinton, trong số tháng
11/2011 của tạp chí “Foreign Affairs”. Bài viết này có nhan đề “Thế kỷ
Thái Bình Dương của Mỹ” (Americas Pacific Century) đã điểm qua những ý
định cũng như phương thức hành động của Mỹ ở vùng này. Chi tiết về bức
ảnh minh họa bài viết cho thấy một chiếc tàu chiến Mỹ đang vào cảng Đà
Nằng của Việt Nam, không phải là không đáng quan tâm.
Nội dung bài biết cho thấy sự can dự của
Oasinhtơn ở châu Á cũng giống như khi Mỹ can dự vào châu Âu sau chiển
tranh và xác định các đối tác ưu đãi mới của Mỹ ngoài các đối tác cũ
(Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philíppin, Ôxtrâylia). Bà Hillary Clinton
cũng nói đến Ấn Độ, nước được Mỹ coi là “ván cá cược chiến lược”, và
Inđônêxia, nước được Mỹ đánh giá là “nền dân chủ thứ ba trên thế giới và
nước đông dân nhất trong các nước Hồi giáo”, là những nước nằm trong sự
lựa chọn của Mỹ. Theo bà Hillary Clinton, mục tiêu của Mỹ là xây dựng
một mạng lưới đồng minh và thể chế phù hợp với lợi ích của nước Mỹ và có
hiệu quả như mạng lưới hợp tác xuyên Đại Tây Dương.
Trong tổng thể các nước bạn bè của Mỹ,
Trung Quốc được coi là một mối quan hệ bắt buộc “đặt ra những thách thức
lớn nhất về chính sách đối ngoại chưa bao giờ được đặt ra với
Oasinhtơn” và “phải được cải cách”. Quả thực là Ngoại trưởng Mỹ ngay sau
đó nói thêm rằng “cái được mất ở Trung Quốc khiến không được để mối
quan hệ này sa lầy”.
Bài viết cũng 7 lần – trung bình mỗi
trang một lần – nêu lên vấn đề Biển Nam Trung Hoa và quyền tự do hảng
hải ở vùng biển này cũng như mối đe dọa của việc thu thập các dữ liệu
nhạy cảm bằng cách “thâm nhập qua mạng”.
Nhìn chung, dấu ấn quân phiệt trong bài
viết là mạnh mẽ và nổi lên gần như qua từng đoạn văn, hoặc với việc nhắc
đến các liên minh truyền thống, hoặc bằng cách nói đến việc phải hiện
đại hóa các liên minh đó, trong một bối cảnh sức mạnh quân sự được xem
như một trong các yếu tố chứa đựng những giá trị tổng hòa: “Sức mạnh
quân sự của chúng ta và sức mạnh của nền kinh tế chúng ta là những thế
mạnh chắc chắn nhất để bảo vệ dân chủ và nhân quyền”. Cuối cùng, cuộc
tiến công rất ngoạn mục ở chỗ gia tăng các góc độ tiếp cận mới, cộng với
các dấu ấn cũ của Mỹ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Philíppin.
Các góc độ tiếp cận nói trên thể hiện từ
dự án thương mại “Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Bình Dương
(TPP)” – trong đó loại trừ Trung Quốc do nước này không tôn trọng quy
định về sự minh bạch kinh tế và dân chủ đển việc thiết lập căn cứ thủy
quân lục chiến ở Ôxtrâylia và đưa tàu tuần tra đến đóng ở Xinhgapo, hay
viện trợ kinh tế cho các nước vùng hạ lưu sông Mê Công (được khởi động
năm 2009), một đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc khi các kỹ sư của
nước này bất chấp ý kiến của các nhà sinh thái và ngư dân ở vùng hạ lưu,
tăng cường xây đập ở thượng lưu con sông này. Cuộc tiến công mới nhất
là việc Oasinhtơn trở lại khu vực sân sau của Đông Dương với chính sách
cởi mở về chính trị đối với Mianma, khu vườn cấm của Bắc Kinh.
Tất cả các cuộc tiến công nói trên được
bổ sung bằng ý định duy trì một căn cứ quân sự ở Trung Á, ở bên sườn Tây
của Trung Quốc, kể cả sau khi đã rút quân khỏi Apganixtan. Đây là chưa
nói đến thương vụ bán 24 chiếc máy bay tiêm kích F-16 cho Inđônêxia, sau
khi nước này đã mua của Nga 6 chiếc SU-30. Trong bối cảnh đó, rõ ràng
là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc ở Đông Á và Nam Á không phải là
Nhật Bản, cũng không phải là Ấn Độ nữa, mà là Mỹ, với sự có mặt trong
vùng là một trở ngại lớn cho việc Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng.
Việc Mỹ xen vào như vậy lại càng làm Bắc
Kinh khó chịu vì tính hợp pháp chiến lược của Oasinhtơn, vốn có cội rễ
sâu xa trong lịch sử cuộc chiến tranh chống Nhật Bản và Bắc Triều Tiên,
nay dựa vào hình ảnh mới của Mỹ như người bảo vệ quyền lợi về biển và
lãnh thố của các nước nhỏ trong ASEAN đang bị đe dọa bởi những yêu sách
lố bịch của Bắc Kinh. Thêm vào đó là đầu tư của Mỹ vào Đông Nam Á vẫn
cao hơn của Trung Quốc (chiếm 8,5% tổng lượng đầu tư, đứng thứ 3, sau
Liên minh châu Âu và Nhật Bản, so với chỉ 2,4% của Trung Quốc).
Lúc đầu, Trung Quốc chỉ ra tuyên bố
miệng để phản ứng trước tình hình mới mà các chiến lược gia của nước này
đã dự đoán. Hãng thông tấn Tân Hoa Xã cáo buộc Oasinhtơn “muốn áp đặt
sự lãnh đạo của mình ở châu Á, xen vào lợi ích của nước khác, gây căng
thẳng và duy trì tư duy chiến tranh lạnh”. Rồi Thủ tướng Trung Quốc, Ôn
Gia Bảo, nói thêm rằng “các cường quốc ngoài vùng không nên can dự vào
dưới bất kỳ cái cớ nào”.
Cụ thể hơn, Bắc Kinh phải trấn an các
nước ASEAN về ý định của mình. Đó là điều mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo bắt
đầu làm khi ông nhắc lại rằng các bất đồng về lãnh thổ ở biển Nam Trung
Hoa sẽ được giải quyết theo Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông năm 2002, nhưng các điều khoản của văn bản này vẫn không mang tính
bắt buộc về mặt pháp lý. Để khẳng định ảnh hưởng của mình trong vùng,
Trung Quốc cũng có một thứ vũ khí thương mại: đó là các hiệp định trao
đối mậu dịch tự do ký với tất cả các nước ASEAN.
Đó là một đối trọng đáng kể với dự án
TPP được đưa ra chậm hơn nhiều, và lại được Bắc Kinh hứa hẹn sẽ bổ sung
thêm bằng tăng đầu tư vào vùng này. Cuối cùng, có thể Trung Quốc sẽ tiếp
tục sử dụng áp lực trực tiếp đối với một số nước. Một số báo của Trung
Quốc đã coi Philíppin là vật hy sinh, là mục tiêu đầu tiên của chiến
lược đe dọa và chia rẽ cô lỗ sĩ.
Cuộc điều chỉnh mang tính ganh đua này
không chắc có lợi cho Trung Quốc bởi lẽ nhờ đó sẽ có thêm triển vọng cho
vai trò đối trọng về an ninh mà Nhà Trắng muốn có và lại được phần lớn
các nước đón nhận với tâm trạng nhẹ nhõm. Vụ một thuyền trưởng tàu đánh
cá Trung Quốc sát hại một sĩ quan lực lượng bảo vệ bờ biển Hàn Quốc xảy
ra mới đây ở biển Hoàng Hải, sau vụ một tàu cá Trung Quốc hung hãn đâm
vào một tàu tuần tra của Nhật Bản ở biển Hoa Đông vào mùa Thu năm 2010,
là không thuận để xoa dịu nỗi lo ngại của các nước trong vùng trước thái
độ hiếu chiến của Trung Quốc. Hơn nữa, các nước này đang lo ngại theo
dõi các vụ thử nghiệm chiếc tàu sân bay đầu tiên của Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc.
Nhưng muốn lùi lại trước sự kình địch
sức mạnh đó, Oasinhtơn cần tự hỏi có cần thiết phải xác lập vị thế như
vậy không, vì làm như vậy, Nhà Trắng đang bị cuốn vào một chiến lược
nhằm vào Trung Quốc, nước muốn nói gì thì nói đang trở thành tiêu điểm
trong chính sách của Mỹ ở châu Á. Điều đó sẽ làm giảm khả năng xoay xở
của Mỹ. Thêm vào đó là trách nhiệm ngày càng nặng nề phải bảo đảm an
ninh của toàn vùng trong khi viễn cảnh cắt giảm mạnh ngân sách đang đè
nặng lên Lầu Năm Góc.
Quốc hội Mỹ đã có những dấu hiệu cho
thấy có thể sẽ có sự chuyển hướng chống Trung Quốc trái ngược với các
chiến lược hợp tác trước đây với Bắc Kinh. Theo định hướng mới, có thể
Trung Quốc không phải là một đổi tác vừa khó chơi vừa bắt buộc nữa, mà
có thể là một địch thủ có những ưu tiên đi ngược lại lợi ích của
Oasinhtơn. Mặc dù nói ra thì dễ nhưng làm thì khó, song chiến lược đó
chỉ hoàn toàn nhằm mục đích tách Trung Quốc khỏi các nguồn cung ứng và
các đối tác thương mại chính của nước này, đồng thời qua đó thậm chí đe
dọa sự tăng trưởng vốn là nguồn chính tạo ra tính hợp pháp của quyền
lực.
Ở Mỹ và Ôxtrâylia, có một số tiếng nói
lẻ tẻ phê phán trực tiếp lập trường của ngành ngoại giao Mỹ. Ông Kenneth
Lieberthal, một người gần gũi với Trung Quốc và trước là cố vấn về châu
Á trong Hội đồng an ninh quốc gia dưới thời Tổng thống Clinton, mới đây
giải thích rằng lối nói của Mỹ có tính khiêu khích không cần thiết.
Đầu tháng 12/2011, Pacific Center of
Hawai đăng một bài báo của một nhà nghiên cứu Ôxtrâylia nhấn mạnh đến
những rủi ro trong quan hệ kình địch giữa Mỹ và Trung Quốc vốn được coi
như tiêu chuẩn duy nhất cho ổn định và tiến bộ ở Thái Bình Dương. Quan
điểm này bỏ qua tầm quan trọng của tình hình nội bộ ở các nước – dù đó
là nước nào – vai trò trong tương lai cửa Nhật Bản, Ấn Độ, và của các
cường quốc trung bình ở Đông Nam Á, như Inđônêxia và Việt Nam. Bài viết
đó không quan tâm nhiều đến số phận của bán đảo Triều Tiên hay vai trò
của các thể chế trong ASEAN hiện vẫn chưa rõ ràng.
Khi điểm qua tính đa dạng của châu Á,
trái ngược với cách tiếp cận hai chiều, bài báo trên có vẻ quá lý tưởng
hóa, kết luận: “Châu Á thì quá đa dạng, song cực không tồn tại ở châu Á
và nay lại càng có ít chỗ đứng ở đây hơn. Các nước trong vùng có thể
phải cố gắng thoát khỏi lôgích song cực bó buộc đó. Trung Quốc và Mỹ có
thách thức nội tại của họ và đang nhảy vào vòng hứa hẹn. Đối với các
nước khác, đã đến lúc phải khích lệ một cách tiếp tận đa phương về cơ
cấu an ninh ở châu Á.”
Trong khung cảnh căng thẳng gia tăng vẫn
có một số dấu mốc có tính trấn an trong quan hệ Trung-Mỹ. Đúng là Trung
Quốc càng mở rộng sức mạnh mới thì mối quan hệ đó ngày càng gặp nhiều
trở ngại. Nhưng mối quan hệ đó cũng được đánh dấu bằng sự phụ thuộc lẫn
nhau nhiều về kinh tế và thương mại, được giới hạn bởi các hành động qua
lại ở cập cao nhất, như đối thoại kinh tế và chiến lược hay trao đổi
giữa các cơ quan quốc phòng, với phiên họp mới nhất vừa diễn ra ngày
7/12/2011 tại Bắc Kinh.
Các kênh tiếp xúc đó lại càng cần thiết
vì Bắc Kinh dường như không có khả năng thoát khỏi những lệch lạc mang
tính dân tộc chủ nghĩa đi kèm với giấc mộng đế chế ở biển Nam Trung Hoa,
vốn là một thứ thay thế cho tính hợp pháp đang lung lay ở trong nước.
Trong khi đó, phản ứng của Oasinhtơn hỗ trợ cho phát triển kinh tế, trao
đổi thương mại tự do, luật pháp quốc tế, sự lãnh đặo tốt và nhân quyền,
cũng làm cơ sở cho quyết tâm khước từ sự suy tàn của Mỹ, rất dân tộc
chủ nghĩa nhưng cũng rất xúc cảm.
Hợp tác hay kiềm chế ở châu Á-Thái Bình Dương?
Mọi hợp tác quân sự giữa Mỹ và Trung
Quốc đã bị đóng băng từ sau hợp đồng bán vũ khí trị giá 5,85 tỷ USD vào
tháng 9/2011 giữa Oasinhtơn và Đài Bắc. Tuy nhiên, tạp chí “Affaires
Stratégiques” nhận định cuộc gặp tham vấn lần thứ 12 trong lĩnh vực quốc
phòng (DCT) diễn ra ngày 7/12 tại Bắc Kinh được xem là một cơ hội thuận
lợi để làm tan băng mối quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực quân sự.
Trong khi Mỹ nới lỏng dần sự kiểm soát ở
Ápganixtan và Irắc, giới quan sát cho rằng Mỹ sẽ đầu tư nhiều hơn vào
châu Á-Thái Bình Dương. Tổng thống Obama mới đây thông báo Mỹ sẽ can dự
nhiều hơn vào toàn vùng châu Á-Thái Bình Dương. Tháng 11/2011, giới quan
sát nhận thấy các ưu tiên chiên lược của Mỹ được chuyển dịch thêm một
chút về phía Đông. Tổng thống Mỹ, Barack Obama, và Thủ tướng Ôxtrâylia,
Julia Gillard, cùng tuyên bố tại Canbơrơ sẽ triển khai hơn 2.500 lính
thủy đánh bộ Mỹ ở căn cứ Darwin (Ôxtrâvlia) bắt đầu từ giữa năm 2012.
Đồng thời Mỹ sẽ tăng cường các cuộc tập trận với các nước trong vùng.
Trung Quốc cáo buộc Mỹ áp dụng chiến
lược quân sự kiềm chế chống lại mình thông qua hợp tác chặt chẽ với Việt
Nam, Philíppin và Nhật Bản, cũng như không cung cấp đầy đủ thông tin về
tham vọng lâu dài của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương. Về phần mình, Mỹ tỏ
ra lo ngại sau khi Trung Quốc tiến hành thử nghiệm chiếc tàu sân bay đầu
tiên trên biển vào cuối tháng 11/2011, vì đối với Mỹ, đây là biểu tượng
của việc gia tăng ý đồ quân sự của Trung Quốc trong vùng. Do vậy, cuộc
gặp tham vấn ngày 7/12 cho thấy thực trạng mối quan hệ hợp tác quân sự
giữa Mỹ và Trung Quốc là như thế nào, mặc dù hai nước có quan hệ hợp tác
thương mại đáng kể. Dẫn đầu phái đoàn Mỹ là Thứ trưởng Quốc phòng phụ
trách chính sách, Michèle Flournoy, và về phía Trung Quốc là tướng Mã
Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc. Phái đoàn Mỹ bao gồm 20 quan chức thuộc các Bộ Quốc phòng và Ngoại
giao, và đại diện Bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương, Hải quân
và không quân.
Các cuộc gặp như thế này nhằm mục đích
kiểm soát và ngăn ngừa rủi ro cũng như tránh những sai lầm trong đánh
giá tình hình chiến lược ở phía bên này hay phía bên kia. Các cuộc gặp
này cũng giúp các đại diện cao cấp nhất của Bắc Kinh và Oasinhtơn có
được khuôn khổ thuận lợi cho việc thảo luận một số vấn đề liên quan đến
quốc phòng và an ninh mà hai nước cùng quan tâm.
Theo tướng Mã Hiểu Thiên, Chính phủ
Trung Quốc rất quan tâm đến các cuộc gặp tham vấn vì qua đó có thể cải
thiện tình hình cung cấp thông tin, tăng cường triển vọng hợp tác và
ngăn ngừa rủi ro. Ông còn cho rằng cuộc gặp lần này cho thấy thái độ
chân thành của hai nước trong việc duy trì hợp tác quân sự. về phần
mình, bà Michèle Flournoy nói rằng 2011 là năm có tính chất cốt tử đối
với mối quan hệ song phương với Trung Quốc. Bà cũng nhấn mạnh đến sự cần
thiết phải kiểm soát quá trình phát triển hợp tác về các vấn đề mà hai
nước cùng quan tâm.
Cuộc gặp tham vấn lần thứ 12 tại Bắc
Kinh xác định lịch trình các chuyến thăm viếng lẫn nhau trong lĩnh vực
quốc phòng. Hai bên thảo luận về hợp đồng vũ khí bán cho Đài Loan, mối
nguy hiểm của nạn cướp biển, an ninh liên quan đến Internet, thậm chí cả
cái được mất tại các vùng nhạy cảm như Bắc Phi, Trung Đông,
Ápganixtan-Pakixtan, bán đảo Triều Tiên và biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông). Các cuộc gặp tham vấn diễn ra gần như mỗi năm một lần kể từ năm
1997 sau thỏa thuận đạt được giữa Tổng thống Bill Clinton và Chủ tịch
Giang Trạch Dân. Trong cuộc tham vấn lần thứ 11 vào tháng 12/2010, chủ
đề chính là an ninh trong vùng, tại các vùng nhạy cảm như châu Phi, Bắc
Triều Tiên, Ápganixtan-Pakixtan, thậm chí cả Iran. Hai bên cũng đưa ra
một số ý kiến về cán cân tên lửa đạn đạo cũng như lập trường của Mỹ về
vấn đề hạt nhân.
Theo “Affaires Stratégiques”, cuộc gặp
tham vấn tại Bắc Kinh là hàn thử biểu đối với mối quan hệ quân sự giữa
Mỹ và Trung Quốc mới được khôi phục sau vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan.
Tại đây, chắc chắn Bắc Kinh đòi Oasinhtơn phải giải thích rõ ràng về
thỏa thuận quân sự mới Ôxtrâylia, các hoạt động quân sự xung quanh Trung
Quốc, đặc biệt là các cuộc tập trận ở biển Nam Trung Hoa với các nước
có xung đột biên giới với Trung Quốc. Tướng Lạc Viên, thuộc Viện hàn lâm
khoa học quân sự Trung Quốc, nói Mỹ luôn yêu cầu Trung Quốc phải minh
bạch về chiến lược và bây giờ đến lượt Mỹ phải nói rõ ý định của mình.
Cái được mất của các cuộc tham vấn dường
như trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh tái lập các cuộc trao đổi
giữa Bộ tổng tham mưu quân đội hai nước, kể từ sau tuyên bố của Tổng
thống Obama vào tháng 9/2011 liên quan đến hợp đồng bán vũ khí trị giá
5,85 tỷ USD cho Đài Loan Hợp đồng này quy định nâng cấp kỹ thuật cho 145
máy bay tiêm kích F16 A/B của Đài Bắc, nhưng không cung cấp công nghệ
F16 C/D mà Đài Bắc yêu cầu song bị Oasinhtơn từ chối dưới sức ép của Bắc
Kinh. Trong những tuần lễ sau khi hợp đồng này được quyết định, Chính
phủ Trung Quốc đã hoãn chuyến thăm của Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình
Dương, cũng như các cuộc tập trận chung hay trao đổi trong lĩnh vực quân
y. Mỹ đang có ý định đưa trở lại các sự kiện đó vào chương trình. Việc
nối lại các cuộc thảo luận trong khuôn khổ DCT dường như cho thấy Bắc
Kinh hiểu họ sẽ không có lợi gì nếu ngừng mối quan hệ quân sự song
phương. Hơn nữa, tiến bộ trong hợp tác quân sự giữa hai nước còn tương
đối ít so với sự gia tăng liên tục trong hợp tác kinh tế và thương mại
giúp hai nước được lợi về kinh tế.
Tuy nhiên, theo đánh giá của một số nhà
phân tích thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế, không chắc
Trung Quốc đã sẵn sàng khôi, phục toàn bộ hợp tác song phương trong lĩnh
vực quân sự. Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc chắc chắn sẽ phê phán
Mỹ về quyết định hồi tháng 11/2011 chuyển 2.500 lính thủy đánh bộ cũng
như một số phi đoàn máy bay tiêm kích từ Okinawa ở Nhật Bản sang
Ôxtrâylia, số lính này có thể sẽ huấn luyện chung với lực lượng quân đội
Ôxtrâylia tại căn cứ quân sự Darwin. Hơn nữa, Mỹ cũng tăng cường hợp
tác quân sự với Nhật Bản, Philíppin và Việt Nam. Điều này khiến Trung
Quốc lo ngại đây là chính sách kiềm chế của Mỹ chống lại họ. Trung Quốc
cũng có thể phê phán Mỹ tiến hành các phi vụ trinh sát và cảnh giới trên
vùng đặc quyền kinh tê (EEZ) của mình kéo dài 200 hải lý tính từ bờ
biển.
về phần minh, Trung Quốc cũng có những
hành động khiến Chính phủ Mỹ lo ngại. Việc thử nghiệm kỹ thuật chiếc tàu
sân bay đầu tiên vào cuối tháng 11/2011, theo “Affaires Stratégiques”,
là bằng chứng cho thấy Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự trên biến.
Hơn nữa, Chủ tịch Trung Quốc, Hồ cẩm Đào, ngày 5/12 đã kêu gọi Hải quân
nước này sẵn sàng chiến đấu và tiếp tục hiện đại hóa để bảo vệ an ninh
quốc gia và hòa bình thế giới. Với tư cách là Chủ tịch Quân ủy trung
ương, ông ra lệnh cho quân đội, đặc biệt là Hải quân, chuấn bị cho cuộc
chiến quân sự trong tương lai. Quân đội Trung Quốc trước đó đã thông báo
sẽ tiến hành tập trận ở Tây Thái Bình Dương. Kế hoạch này được công bố
ngay sau chuyển công du châu Á-Thái Bình Dương của Tổng thống Mỹ, Barack
Obama, trong đó ông thông báo tăng cường sự có mặt của Mỹ về quân sự ở
Ôxtrâylia.
Mối quan tâm của tất cả các chính quyền ở
Mỹ đối với Thái Bình Dương không phải là mới, nhưng dường như được tăng
cường hơn trong thời gian gần đây sau khi Tống thống Obama lên nắm
quyền. Liệu đó có phải là một cách để đáp trả tham vọng hải quân của
Trung Quốc hay không? Không ai không biết Trung Quốc muốn trong thời
gian sắp tới có khả năng kiểm soát toàn bộ việc đi lại trên biển trong
vùng và từ đó biến Thái Bình Dương thành lãnh thổ của mình. Rõ ràng là
tham vọng của Bắc Kinh đang chống lại các liên minh của Oasinhtơn. Nhưng
vào thời điểm này, chuyên gia Nikolas Jucha khẳng định các tham vọng đó
rõ ràng đang bị cản trở bởi mạng lưới đồng minh do Mỹ thiết lập, cụ thể
với Nhật Bản và Hàn Quốc, hai trong số các cường quốc trong vùng.
Hiện nay, Oasinhtơn đang khai thác mối
lo ngại mà Trung Quốc gây ra cho các nước láng giềng, đặc biệt là những
bất đồng trên biển liên quan đến các quần đảo Điếu Ngư. (với Nhật Bản),
Hoàng Sa, Trường Sa (với Việt Nam, Philíppin…). Theo ông Jean-Vincent
Brisset, Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế và chiến lược
Pháp (IRIS), những yêu sách của Trung Quốc và lập luận của họ – tính hợp
pháp lịch sử – là quá đáng, vì một vài (Hoàng Sa, Trường Sa) trong số
các quần đảo nói trên được quân đội Pháp phát hiện ra trong thời kỳ họ
chiếm đóng Đông Dương. Thái độ của Trung Quốc – khi Bắc Kinh tỏ ra không
muốn tiến hành đối thoại – rốt cuộc lại có lợi cho chính ngành ngoại
giao của Mỹ. Nhưng Mỹ cũng phải chấp nhận một hạn chế không nhỏ: các
nước láng giềng khác nhau của Trung Quốc, dù bản chất của bất đồng là
gì, cũng không thể để xảy ra cãi cọ quá mức với nước này vì họ còn có
nhu cầu thương mại.
Mỹ lo ngại trước mối nguy Trung Quốc
Thời gian gần đây, đối thoại chiến lược,
đặc biệt trong lĩnh vực quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đã được nối lại.
Nhưng giới quan sát nhận xét khó khăn ngày càng chồng chất, trái ngược
với sự chờ đợi của dư luận. Sau mỗi lần Oasinhtơn đưa ra tuyên bố khá
cứng rắn, Bắc Kinh ngay lập tức đáp trả. Tạp chí “Phát thanh” dẫn lời
một số nhà phân tích cho rằng tuy bề ngoài mối quan hệ trong lĩnh vực
quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ có vẻ hài hòa, song không thể che giấu
được những căng thẳng ngấm ngầm và sự kình địch chiến lược.
Các sĩ quan cao cấp Trung Quốc và Mỹ
giữa tháng 5/2011 đã gặp nhau tại Oasinhtơn để thảo luận về quan hệ giữa
hai nước cũng như những vấn đề quốc tế và khu vực. Cuộc gặp diễn ra
dưới sự chủ trì của tướng Trần Bính Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội
Trung Quốc; và Đô đốc Mike Mullen, Chử tịch Hội đồng tham mưu trưởng
liên quân Mỹ.
Tướng Trần cho biết chuyến thăm của ông
nhằm mục đích thực hiện thỏa thuận quan trọng đạt được giữa Chủ tịch
Trung Quốc, Hồ Câm Đào, và Tổng thống Mỹ, Barack Obama, nhằm phát triển
quan hệ song phương trong lĩnh vực quân sự. Đối với Đô đốc Mullen, đây
cũng là cơ hội để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ quân sự phục vụ cho lợi
ích của hai nước và mở rộng hợp tác trong nhiều vấn đề quốc tế và khu
vực.
Đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của một
Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc kể từ 7 năm nay. Tại Mỹ, tướng
Trần phê phán các cuộc tập trận của Mỹ ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông),
mô tả các cuộc tập trận đó là “cực kỳ không đúng lúc” và yêu cầu
Oasinhtơn tránh xa các cuộc xung đột trong vùng. Hải quân Mỹ hồi giữa
năm 2011 đã tham gia cuộc tập trận kéo dài 11 ngày với Philíppin và sau
đó với Việt Nam.
Giới chức Mỹ tuyên bố các cuộc tập trận
đó nằm trong một chương trình thông lệ. Tuy nhiên, tướng Trần dường như
đưa ra lời phê phán mạnh mẽ hơn. Tạp chí “Phát thanh” dẫn lời ông Trần
nói: “Đù phía Mỹ nhiều lần bày tỏ ý định không can thiệp vào tranh chấp ở
biển Nam Trung Hoa, song bằng hành động lại cho thế giới thấy dấu hiệu
trái ngược.” Đô đốc Mike Mullen đã bác bỏ lời phê phán đó, nhấn mạnh Mỹ
duy trì các cuộc tập trận như vậy với các đồng minh của mình trong vùng
và cảnh báo những hiểu lầm như vậy có thể dẫn đến một “bệnh dịch không
ai có thế báo trước được”. Giới quan sát cho rằng việc Mỹ tập trận chung
trên biển với các nước trong vùng khiến Bắc Kinh cảm thấy khó chịu.
Theo tạp-chí “Phát thanh”, tướng Trần
cũng than phiền việc máy bay và tàu chiến Mỹ “thường xuyên tiến hành
hoạt động do thám ngoài khơi bờ biển Trung Quốc”. Còn tờ “Wall Street”
dẫn lời Đô đốc Mike Mụllen đáp lại rằng “Mỹ sẽ không rời xa biển Nam
Trung Hoa” và các cuộc trinh sát là “phù hợp với công ước quốc tế”.
Tướng Trần còn nhận xét rằng Mỹ chi quá nhiều tiền vào lĩnh vực quân sự
và gợi ý một “kịch bản tốt nhất” theo đó Chính phủ Mỹ nên chi tiền nhiều
hơn để nâng cao mức sống của dân chúng.
Những lời đối đáp qua lại giữa Mỹ và
Trung Quốc, theo giới phân tích, cho thấy tuy đã nối lại đối thoại, song
quan hệ giữa hai nước vẫn không êm thấm. Bất đồng quan điểm về tình
hình Bắc Triều Tiên và các vụ bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan, hòn đảo mà
Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn, cũng như việc Trung Quốc gia tăng
tiềm lực quốc phòng, đã dẫn đến sự căng thẳng giữa hai cường quốc.
Trung Quốc gia tăng đáng kể năng lực
quân sự trong những năm gần đây, cụ thể là chế tạo máy bay chiến đấu
tàng hình thế hệ mới, tăng cường lực lượng tên lửa và các hạm đội tàu
ngầm hạt nhân có khả năng mang tên lưa đạn đạo và đưa vào chạy thử tàu
sân bay. Lầu Năm Góc đặt nhiều dấu hỏi về hậu quả của những hành động đó
đổi với sự ổn định trong vùng.
Theo ông Michael Schiffer, Thứ trưởng
Quốc phòng Mỹ phụ trách châu Á, nhịp độ và quy mô đầu tư ồ ạt vào quân
sự cho phép Trung Quốc đạt được năng lực mà Mỹ tin rằng hoàn toàn có thể
làm mất ổn định sự cân bằng quân sự trong vùng. Khả năng quân sự của
Trung Quốc làm gia tăng nguy cơ gây hiểu lầm và sai lầm trong tính toán,
và có thể làm gia tăng căng thẳng và lo ngại trong vùng. Để trấn an thế
giới về ý định của Trung Quốc, tướng Trần tuyên bố trước các sĩ quan Mỹ
tại Học viện quốc phòng: “Thế giới không có lý do gì để lo ngại. Sự lớn
mạnh của Trung Quốc không gây ra mối quan ngại.”
Trong thời kỳ 2000-2008, ngân sách quốc
phòng của Trung Quốc tăng gấp 3 lần. Mỹ, cường quốc quân sự hàng đầu thế
giới, tỏ ra lo ngại trước sự gia tăng này. Để theo dõi sự phát triển về
quân sự của Trung Quốc, Bộ Quốc phòng Mỹ hàng năm đều soạn thảo Báo cáo
về sức mạnh quân sự Trung Quốc rồi sau đó đệ trình lên Quốc hội. Việc
công bố báo cáo này cho năm 2010 đã bị chậm lại 5 tháng để khỏi trùng
với chuyến thăm Bắc Kinh của Phó Tổng thống Mỹ, Joe Biden, vào tháng
7/2011.
Trong bản báo cáo 94 trang có tên gọi
“Phát triển quân sự và an ninh liên quan đến Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa” nói về sự phát triển gần đây của hải quân và việc quân đội Trung
Quốc tiếp cận với công nghệ mới, Bộ Quốc phòng Mỹ lên tiếng cảnh báo
việc năng lực quân sự của Trung Quốc gia tăng sẽ tác động đến sự ổn định
trong vùng, nhấn mạnh đến hai điểm chính khiến Lầu Năm Góc lo ngại: kho
vũ khí hạt nhân của Trung Quốc được tăng cường và nước này sở hữu tàu
sân bay.
Hãng thông tấn Nhà nước Tân Hoa Xã cho
rằng sự bành trướng quân sự của Trung Quốc nằm trong khuôn khổ “chính
sách quốc phòng không xâm lược”. Hãng này hoan nghênh Mỹ đã “thừa nhận
và tỏ thải độ thuận lợi đối với những đóng góp của Trung Quốc vào an
ninh của thế giới”, nhưng cho rằng báo cáo này “không nói gì đến chính
sách quốc phòng hòa bình” của Trung Quốc.
Theo ông Jean-Vincent Brisset, Giám đốc
nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế và chiến lược Pháp (IRIS), trong
số các vấn đề được Bộ Quốc phòng Mỹ đề cập đến, quan trọng nhất chắc
chắn là ý đồ của Trung Quốc trong việc trang bị các loại vũ khí để trở
thành cường quốc hàng đàu ở Tây Thái Bình Dương và biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông).
Việc công bố chuyến bay thử đầu tiên của
máy bay tiêm kích thế hệ mới J-20, được cho là có thể tấn công tàu sân
bay Mỹ nhờ khả năng tàng hình, diễn ra ngay vào thời điểm Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ lúc đó là Robert Gates đang ở thăm Trung Quốc để “hàn gắn rạn
nứt”. Đối với các nhà quan sát nghiêm túc, sự kiện đó, được dự kiến từ
một thời gian trước đó, chắc chắn là một sự trùng lặp ngẫu nhiên hơn là
một cái gì khác. Cũng như vậy, những lần công bố tiếp sau đó chỉ đơn
thuần là sự phát triên lôgích của chính sách chế tạo vũ khí mới, trước
Hết là tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D. Thiết kế của loại tên lửa này
không phải là mới, song việc chế tạo thực tế đã đặt ra một số vấn đề mà
một số nước đã từng nghiên cứu vấn đề này, như Mỹ và Liên Xô, đánh giá
phức tạp đến mức họ đã hủy bỏ công tác nghiên cứu vì cho rằng công sức
và tiền của bỏ ra không xứng đáng. Điều đó hơn nữa cũng đúng vì ngoài sự
tồn tại và năng lực tác chiến có thể có của loại tên lửa đó, những hệ
lụy chính trị nảy sinh từ việc sử dụng loại trên lửa này có thể sẽ khiến
cho việc kiểm soát chúng trở nên khó khăn hơn.
Một thông báo khác, cũng được chờ đợi và
không mấy gây ngạc nhiên, là chuyến đi biển thử nghiệm đầu tiên của Thi
Lang, chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc. Trên thực tế, đây là
một con tàu sân bay cũ được đóng từ thời Liên Xô nhưng chưa hoàn thành,
và chiếc vỏ tàu rỗng được Trung Quốc mua với ý định biến thành một sòng
bạc nổi, nhưng sau đó lại phục hồi nguyên trạng. Con tàu này được cho là
sẽ trở thành tàu huấn luyện của lực lượng hải quân tương lai của Trung
Quốc vì cho đến nay nó chưa mang máy bay trên boong. Như Bắc Kinh thú
nhận, tàu Thi Lang không có khả năng trở thành một công cụ triển khai
sức mạnh mà chí là bước khởi đầu của việc thành lập các nhóm tàu tấn
công tương lai dường như đang được chuẩn bị.
Chuyên gia Jean-Vincent Brisset cũng
trấn an khi nói rằng cho đến lúc này chưa có một chiếc máy bay nào trên
đó. Ông dẫn lời ông Michael Schiffer, Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ, nói phải
mất một số năm nữa con tàu này mới đạt được khả năng tác chiến tối
thiểu. Mặt khác, báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết vì Trung Quốc mới
có tàu sân bay này trong năm nay nên phải đến năm 2015 con tàu này mới
có thể tác chiến được.
Mỹ lo ngại bước tiến của Trung Quốc gây
ảnh hưởng tới sự vượt trội lâu dài về quân sự của mình ở Thái Bình
Dương. Do đó, Mỹ cáo buộc Bắc Kinh sử dụng biện pháp hung hãn chống các
nước láng giềng mỗi khi xảy ra bất đồng về vấn đề lãnh thổ, như ở biển
Nam Trang Hoa. Ông Michael Schiffer cũng nhấn mạnh đến sự có mặt của Hải
quân Trung Quốc trong vùng có thể gây ra tác động nặng nề đối với toàn
vùng và sự kình địch giữa các nước trong vùng có thể lại tái diễn sau
một thời gian rơi vào quên lãng.
Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng mình
không có ý định bắt nạt ai và nói chương trình quân sự của mình chỉ là
một phương tiện đơn thuần để tự vệ trước các cuộc tấn công có thể xảy
ra. Mỗi lần khái niệm đe dọa được nói đến, Chính phủ Trung Quốc lại vẫn
dùng luận điệu quen thuộc, nhắc đi nhắc lại rằng họ không hề có ý định
sử dụng sức mạnh quân sự vào mục đích xâm hại nước khác. Bắc Kinh cũng
nhấn mạnh đến việc trong số 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc, họ là nước cuối cùng có tàu sân bay.
Nhưng các nước phương Tây vẫn rất nghi
ngờ trước lập luận này của Trung Quốc. Những công bố về “thành quả” quân
sự của Bắc Kinh củng cố các giả thiết theo đổ nước này muốn sở hữu một
lực lượng hải quân có khả năng không những chống lại được lực lượng can
thiệp của Mỹ mà còn “áp đặt” được sự kiểm soát của Trung Quốc trong vùng
đặc quyền kinh tế và thật xa hơn nữa. Trong giai đoạn đầu (đến năm
2020), “chuỗi đảo thứ nhất” có thể sẽ bao gồm Hoàng Hải, Đài Loan và
toàn bộ biển Nam Trung Hoa. “Chuỗi đảo thứ hai”, một đường biên giới mới
được vẽ ra cho năm 2040, có thể chạy tới tận giữa Thái Bình Dương, bao
gồm nhiều vùng, trong đó có một phần lớn của Nhật Bản, Philíppin và
Inđônêxia.
Mỹ lo ngại vì loại tên lửa mới của Trung Quốc có khả năng bắn tới Đài Loan. Chính quyền Mỹ rất quan tâm đến mối đe dọa này vì sợ có thể bị mất
sự vượt trội mà từ lâu không nước nào giành được từ tay Mỹ. Chuyên gia
Jean-Vincent Brisset cho rằng mối đe dọa đó không dẫn đến hậu quả trực
tiếp đối với Mỹ, song với các nước có liên quan khác thì lại ngược lại.
Các nước nằm ở ven biển Nam Trung Hoa có thể bị Hải quân Trung Quốc áp
đặt sự kiểm soát của họ trên các hòn đảo mà họ đòi chủ quyền, thậm chí
ngay cả trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước này. Đài Loan cũng có
thể bị lọt vào một vùng biển mà không có được bất kỳ quyền tự do nào ở
đó. Còn vùng biển của Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có thể rơi vào sự kiếm
soát của Trung Quốc. Tình hình đó sẽ làm nảy sinh các vụ va chạm có thể
lan rộng hơn và chuyến thăm Trung Quốc của Phó Tổng thống Mỹ, Joe Biden,
chắc chắn chưa mang lại được giải pháp nào cho trung và dài hạn.
Trung Quốc thường không muốn can dự vào
các cuộc xung đột. Con đường để nước này đi đến vinh quang, theo chuyên
gia Liselotte Odgaard, thuộc Học viện quốc phòng Đan Mạch, không phải là
các cuộc xung đột bởi lẽ nước này chưa tự khẳng định được mình như một
cường quốc quân sự. Cho đến lúc này, Bắc Kinh sẵn sàng thỏa hiệp để bảo
đảm ốn định trong vùng về phương diện an ninh. Nói như vậy không có
nghĩa là Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận mọi thỏa hiệp vì trong một số vấn
đề, nước này không sẵn sàng nhượng bộ.
Một trong những vấn đề đó là cách nhìn
nhận của nước này đối với vấn đề lãnh thổ và những vùng liên quan đến
lãnh thổ của Trung Quốc. Đối với họ, các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa
(Hoa Nam) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhãn quan đó lại hoàn toàn trái
ngược với nhãn quan của các nước láng giềng và với luật pháp quốc tế. Sở
dĩ Bắc Kinh bám lấy nhãn quan đó vì Trung Qụốc đã bị tấn công trong các
thế kỷ 19 và 20. Trong các cuộc tấn công đó, Trung Quốc đã bị mất một
phần lãnh thố. Nay họ đòi lại và muốn nhập vào vùng ảnh hưởng của minh.
Bắc Kinh sẽ không chấp nhận bất kỳ sự khoan nhượng nào cho đến khi các
vùng lãnh thố đó hoàn toàn được trả lại cho Trung Quốc. Theo chuyên gia
Liselotte Odgaard, Trung Quốc tin mình sở hữu các vùng lãnh thổ đó đến
mức thậm chí không muốn thảo luận về vấn đề này. Họ không xác định rõ
ràng những yêu sách của mình, cũng không muốn đưa ra lời giải thích. Đối
với Bắc Kinh, sự việc là như vậy và chấm hết, không có gì hơn.
Như vậy, sức mạnh quân sự trở nên có ý
nghĩa chiến lược đối với Trung Quốc. Người khổng lồ châu Á này đang tìm
cách bảo đảm an toàn các tuyến đường hàng hải và các vùng có nhiều tài
nguyên khoáng sản ở biển Nam Trung Hoa. Quả thực đây là một vùng luôn
xảy ra căng thẳng xung quanh Đài Loan. Đối với Lầu Năm Góc, mọi bước
tiến về quân sự của Trung Quốc đều nhằm mục đích chuẩn bị chủ yếu cho
một cuộc xung đột vũ trang tiềm tàng với Đài Loan. Từ năm 1949 và sau
khi lực lượng theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa Tưởng Giới Thạch chạy trốn
tới hòn đảo này, Bắc Kinh luôn có ý định tái thống nhất Trung Quốc, tái
nhập “tỉnh” này vào Đế chế Trung Hoa, thậm chí bằng vũ lực nếu cần
thiết. Tình hình là cực kỳ căng thẳng giữa hai người khổng lồ kinh tế
xung quanh vấn đề Đài Loan: Mỹ chính thức công khai ủng hộ Đài Loan và
cung cấp vũ khí cho hòn đảo này .
Theo Lầu Năm Góc, Trung Quốc ngày càng
phát triển sức mạnh của Hải quân và đã thành công trong việc lấp đầy
khoảng trống về công nghệ so với các cường quốc khác. Trung Quốc đã có
những nỗ lực lớn để chế tạo tên lửa có khả năng tiêu diệt tàu sân bay,
nâng cấp các dàn rađa cảnh giới và gia tăng hạm đội tàu ngầm hạt nhân.
Đấy là chưa nói đến những bước tiến của Trung Quốc trong lĩnh vực công
nghệ vệ tinh và chiến tranh mạng. Trong những năm gần đây, Trung Quốc
đầu tư lớn vào lĩnh vực quân sự và không ít nhà quan sát cho rằng nước
này đang trở thành một siêu cường quân sự có ảnh hưởng toàn cầu.
Tuy nhiên, chuyên gia Liselotte Odgaard,
khẳng định Trung Quốc có những bước tiến ngoạn mục trong lĩnh vực quốc
phòng, song hiện vẫn chưa phải là siêu cường quân sự và con đường để đạt
được mục tiêu đó còn rất dài. Theo bà, phương Tây phải sáng suốt nhìn
nhận sự bành trướng về quân sự của Trung Quốc khi dư luận thường nói
nước này đang trở thành một siêu cường quân sự. Điều đó là hiển nhiên về
kinh tế và ảnh hưởng chính trị ở quy mô toàn cầu, nhưng chưa đúng về
phương diện quân sự. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc chưa đạt tới trình
độ của các nước phương Tây. Vấn đề lớn nhất đối với nước này là không có
hệ thống đồng minh như phương Tây. Điều đó có nghĩa là cơ cấu quân sự
của Trung Quôc không lồng ghép được với cơ cấu của các nước đồng minh
khác. Nếu có thể có được một hệ thống như vậy, Trung Quốc mới có thể có
khả năng hành động ở quy mô toàn cầu. Nhưng đến lúc này, Trung Quốc chưa
có khả năng đó.
Trung Quốc cần nhiều năm nữa mới trở
thành siêu cường quân sự. Nước này cần trải qua luyện tập và tích lũy
kinh nghiệm. Chắc chắn vì lý do đó mà Bắc Kinh không muốn dấn vào các
cuộc xung đột không trực tiếp liên quan đến mình. Theo chuyên gia
Liselotte Odgaard, nước này vẫn đứng ở tuyến sau về phương diện quân sự
và luôn tìm cách tháo ngòi nổ các cuộc khủng hoảng và bất đồng. Trung
Quốc có lợi khi sử dụng chiến lược đó vì họ không chắc vào sức mạnh của
mình về mặt quân sự.
Một mặt, Bắc Kinh cho rằng họ không muốn
sử dụng quân đội vào mục đích xâm lược, mặt khác, không ai có thể tin
nước này không sử dụng vũ lực để bảo vệ lợi ích của mình. Nói Trung Quốc
sẽ sử dụng vũ lực để chống lại các nước láng giềng là một giới hạn
không nên vượt qua. Sự cáo buộc này không đáng tin cậy ở chỗ quân đội
Trung Quốc cần phải được tập luyện và đào tạo nhiều hơn nữa nếu muốn một
ngày nào đó đọ sức với quân đội các nước phương Tây, cụ thể là Mỹ.
Theo chuyên gia Jean-Vincent Brisset,
dẫụ sao giọng điệu của bản báo cáo và những lời đáp trả của Trung Quốc
cũng đánh dấu sự đoạn tuyệt với những cơn giận dữ và thái độ nghi kỵ của
những năm trước đây. Năm 2010 đã cho thấy mối quan hệ quân sự giữa hai
nước được cải thiện sau các cuộc trao đổi ở cấp cao trong lĩnh vực này.
Với một nền kinh tế thế giới vẫn mong manh, cả Mỹ và Trung Quốc có thể
hiểu rõ tầm quan trọng của việc thay sự nghi kỵ bằng hợp tác vững chắc,
ít nhất là trong lúc này.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét