Rơi vào ván bài nước lớn, Việt Nam lỡ bước
Việt
nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đã cản trở. Việt Nam
đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một
con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc nào.
LTS:
Có thể nói trong quá trình bình thường hoá và phát triển quan hệ Việt -
Mỹ gần 4 thập kỷ qua, ông Lê Văn Bàng là người chứng kiến và tham gia ở
các mức độ khác nhau hầu như từ đầu tới cuối.
Từ
một chuyên viên theo dõi tình hình thực hiện Hiệp định Paris, theo dõi
báo chí và dư luận Mỹ để báo cáo cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Chính
trị, đến vị trí phụ trách quan hệ của Vụ Bắc Mỹ.
Từ một trưởng phòng liên lạc, đại biện lâm thời, rồi trở thành đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ.
Thôi
chức thứ trưởng ngoại giao vào đầu năm 2008, ông lại tham gia dự án
KX03 về chính sách đối ngoại của Đảng, trong đó phần của ông là quan hệ
song phương Việt - Mỹ trong các mối tương quan song phương và đa phương
khác.
Kể
từ tháng 4. 2011, ở tuổi 64, ông lại tham gia vào một chương trình khác
liên quan đến hai quốc gia nhiều duyên nợ này - dự án bệnh viện Việt -
Mỹ.
Tuần
Việt Nam xin giới thiệu của trao đổi với cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê
Văn Bàng về những dấu mốc trong tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt -
Mỹ, với cả những nỗ lực xích lại gần nhau và những hiểu lầm, những bước
tiến và bước hụt, trong những bối cảnh lợi ích của hai bên tham gia
tiến trình này bị tác động, chi phối bởi những lợi ích trong những mối
quan hệ khác.
- Nhà báo Huỳnh Phan: Lần đầu tiên ông tiếp xúc với người Mỹ là khi nào?
- Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng:Đó
là khi ông Henry Kissinger vào Hà Nội đầu năm 1973 (10.1-13.1), do ông
Lê Đức Thọ mời, trước khi hai bên chính thức ký Hiệp định Paris vào
27.1.1973. Một dịp may bất ngờ đối với một nhân viên ngoại giao mới vào
ngành được vài tháng như tôi (ông Lê Văn Bàng vào Bộ Ngoại giao tháng
10.1972, sau khi tốt nghiệp đại học ở Cuba, chuyên ngành tiếng Anh -
TG).
Đoàn
của ông Kissinger đến Nội Bài vào buổi tối. Khi đó, sân bay Nội Bài còn
tung toé hết lên, chỉ được mỗi cái đường băng là tử tế. Tôi được giao
toàn bộ nhóm phi công chuyên cơ, khoảng 20 người, làm hướng dẫn và phiên
dịch cho họ.
Tuy vậy, tôi vẫn có hai kỷ niệm đáng nhớ về ông Kissinger.
Kỷ
niệm thứ nhất là khi dẫn cả đoàn ông Kissinger đến thăm Bảo tàng Mỹ
thuật (ở đường Nguyễn Thái Học), nhân dân nghe tin có Kissinger đến, họ
tập trung rất đông dưới sân bảo tàng biểu tình phản đối. Nhiều người còn
cầm đá, cầm gạch, bịt chặt cửa không cho đoàn ra.
Tôi
cảm thấy căng quá. Hà Nội vừa mới trả qua đợt tàn phá kinh khủng của
B52 Mỹ suốt 12 ngày đêm mà. Tuy nhiên, cuối cùng, chúng tôi cũng dẫn
được đoàn Kissinger ra ngoài theo lối cửa sau, ra đường Cao Bá Quát.
Kỷ niệm thứ hai là khi dẫn ông tới Bảo tàng Lịch sử. Khi nghe dịch cái biển ghi 4 câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư", ông ấy nói luôn: "Đây là Điều khoản 1 của Hiệp định Paris (khẳng định độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam)".
Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng
|
Ấn tượng của ông về ông Kissinger?
Trước
đó, tôi cũng đọc nhiều về Kissinger, và, khi gặp, tôi cảm nhận ông quả
là một người giỏi giang, uyên bác, và có nhiều mưu mẹo. Hơn nữa, đối đầu
được với ông Lê Đức Thọ trên bàn đàm phán suốt 4 năm ròng chắc hẳn
không phải tay vừa.
Ý
ông muốn nói đến việc ông Kissinger đã khéo léo "đẩy" cam kết cụ thể
phía Mỹ trong viện trợ giúp hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết
thời hậu chiến ở Việt Nam (3,25 tỷ USD viện trợ không hoàn lại trong 5
năm và khoảng 1-1,5 tỷ USD viện trợ lương thực và hàng hoá), như ông Lê
Đức Thọ đã kiên quyết đòi hỏi, sang bức công hàm của Tổng thống Richard
Nixon gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng (ngày 1.2.1973)?
Hơn
nữa, trong bức công hàm này, Tổng thống Nixon còn gài thêm rằng "mỗi
thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến pháp của mình". Theo
qui định của Hiến pháp Mỹ, có viện trợ không và viện trợ bao nhiêu là
do bên lập pháp quyết định, chứ không phải bên hành pháp.
Đúng vậy. Và không ngờ đó lại là chỗ nghẽn trong đàm phán bình thường hoá giữa Việt Nam và Mỹ trong những năm sau đó.
Trong
cuộc Chiến tranh Việt Nam, phía Việt Nam đã chiến thắng khi buộc Mỹ
phải ký hiệp định hoà bình và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Thế
nhưng, tiếp nhận một đất nước bị tàn phá vào thời điểm thống nhất đất
nước, cộng với kinh tế ngày càng khó khăn những năm sau đó, yêu cầu kiên
quyết của phía Việt Nam là Mỹ viện trợ để tái thiết, theo điều khoản 21
của hiệp định, là hoàn toàn hợp lý.
Tuy
nhiên, kể từ khi Tổng thống Jimmy Carter của Đảng Dân chủ lên nắm quyền
(đầu năm 1977), và thể hiện mạnh mẽ mong muốn bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam, ông ta lại vấp phải một thách thức rất lớn từ phái Cộng
hoà trong Quốc hội.
Khi
thấy vấn đề MIA/POW (người mất tích trong chiến tranh và tù binh) của
Mỹ bị phía Việt Nam gắn với điều 21 của Hiệp định, và cả bức thư hứa hẹn
của Tổng thống Nixon, những nghị sĩ Cộng hoà đã phản ứng rất mạnh. Đỉnh
điểm là đầu tháng 5.1977, khi Mỹ và Việt Nam bắt đầu đàm phán bình
thường hoá ở Paris, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu cấm bất kỳ viện trợ nào cho
Việt Nam.
Có
phải đó là lý do, trong chuyến đi một số nước châu Á vào tháng 7.1978,
Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền đã tuyên bố với báo chí quốc tế là Việt
Nam không yêu cầu thực hiện điều 21 của hiệp định nữa, hay không? Bởi
trong ba vòng đàm phán trong năm 1977 ở Paris, do chính ông Phan Hiền
làm trưởng đoàn, Việt Nam luôn coi việc thực hiện điều 21 là điều kiện
tiên quyết để bình thường hoá.
Tôi
nghĩ còn có thêm một lý do quan trọng khác nữa. Đến lúc đó, lãnh đạo
Việt Nam đã nhận thức được tình hình đã thay đổi quá nhiều, nhất là sự
căng thẳng với Trung Quốc, với việc cắt viện trợ và rút chuyên gia về
nước, và Campuchia, khi chính quyền Khmer Đỏ đã có các cuộc xâm phạm
biên giới phía Tây Nam, lên tiếng đòi xem lại vấn đề phân định lãnh thổ
giữa hai nước, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Việt
Nam, lúc đó, đã đồng ý vào COMECON (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), chuẩn
bị ký một hiệp ước đồng minh với Liên Xô, và cho phép hải quân của họ sử
dụng Cảng Cam Ranh. Đổi lại, Liên Xô cam kết tăng viện trợ cho Việt
Nam.
Tức
là đến thời điểm đó, lãnh đạo Việt Nam đã có sự chuyển hướng chiến
lược. Và, như vậy, nhu cầu tái thiết từ viện trợ của Mỹ không còn quan
trọng như trước nữa.
Tức
là chính sức ép từ phía Bắc, và phần nào đó từ phía Tây Nam, đã khiến
lãnh đạo Việt Nam quyết định phải nhanh chóng bình thường hoá vô điều
kiện với Mỹ?
Đúng
vậy. Trước sức nóng chủ yếu từ phương Bắc, nếu khộng có luồng gió ôn
hoà từ phía Tây thì căng lắm. Và, vì vậy, vào tháng 9.1978, Việt Nam cử
một trưởng đoàn mới là Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sang đàm
phán kín với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Holbrooke, chấp nhận bình thường hoá
vô điều kiện.
Thoả
thuận xong với ông Holbrooke, ông Thạch chờ suốt mà không có câu trả
lời từ Bộ Ngoại giao Mỹ. Sự nhượng bộ của Việt Nam đã quá muộn, bởi,
trong thời gian đó, đã có những biến chuyển mạnh mẽ của tình hình thế
giới, và Mỹ không thể ứng xử như cũ. Bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc lúc đó là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.
Mike
Morrow, người đầu tiên phỏng vấn được ông Nguyễn Cơ Thạch khi ông lên
nhậm chức Bộ trưởng Ngoại giao năm 1980, có kể rằng, trong cuộc phỏng
vấn đó, ông Thạch tiết lộ rằng ông đã nói thẳng với người đồng cấp
Holbrooke rằng Mỹ không cần phải lựa chọn giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Tức là có thể bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, rồi sau đó với
Việt Nam.
Việc
Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Trần Quang Cơ, người sang New York cùng ông Thạch
hồi tháng 9.1978, còn cố chờ sang cả tháng 1.1979, tức là sau khi Mỹ đã
ký thoả thuận xong với với Trung Quốc, càng khẳng định cho quyết tâm
"còn nước còn tát" này của phía Việt Nam.
Đúng
là Việt Nam đã thực sự hy vọng sẽ bình thường hoá được với Mỹ trong
thời gian đó. Tôi còn nhớ là đã được Bộ Ngoại giao cử vào biên chế đại
sứ quán tương lai, phụ trách mảng văn phòng. Tuy đại sứ chưa chọn, nhưng
biên chế sứ quán thì đâu vào đấy. Tháng 12.1978, Bộ Ngoại giao Mỹ còn
chuyển cho phía Việt Nam ảnh chụp toà đại sứ ở Washington D.C. của chính
quyền Sài Gòn cũ nữa.
Tức là chúng ta đã tính đến việc lập ngay sứ quán khi thoả thuận bình thường hoá được ký kết.
Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn tiếp Đại sứ Lê Văn Bàng tại Lễ trình Quốc thư.
|
Phóng
viên kỳ cựu của hãng AP là Peter Arnett, người đã tháp tòng đoàn nghị
sĩ Mỹ vào Hà Nội mùa hè năm 1976, đã nói rằng dưới thời Tổng thống
Carter, Mỹ muốn cải thiện quan hệ của mình ở Trung Mỹ với việc trả kênh
đào Panama cho nước này quản lý. Ông đã tập trung nhiều công sức và thời
gian để thuyết phục Quốc hội phê chuẩn hiệp ước mà ông ký với Tướng
Omar Torrijos vào tháng 9.1977, và vì vậy đã sao nhãng phần nào câu
chuyện bình thường hoá với Việt Nam.
Ông có ý kiến gì về nhận định đó?
Tôi
nghĩ ông ta hoàn toàn chính xác khi nói tới nỗ lực của Tổng thống
Carter trong việc lấy lại hình ảnh và ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Mỹ, và Mỹ
La tinh nói chung. Bởi, sau Việt Nam, Mỹ thất thế cả về uy tín lẫn kinh
tế, và Liên Xô đã tranh thủ mở rộng ảnh hưởng, rất mạnh. Họ vươn tay
tới Angola, Mozambique, hay Ethiopia ở châu Phi, và nhất là Nicaragua -
một quốc gia nằm ngay "sân sau" của Mỹ.
Nhưng
quan trọng hơn, Mỹ đã phải tập trung vào "con bài" Trung Quốc, dựa trên
cơ sở sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Quốc, nhằm thay đổi cán
cân quyền lực trên thế giới giữa Mỹ và Liên Xô.
Đến
thời điểm lãnh đạo Việt Nam thực sự mong muốn bình thường hoá ngay với
Mỹ, phía Mỹ lại chưa muốn. Bởi, như vậy, họ khó thúc đẩy bình thường hoá
và cải thiện quan hệ với Trung Quốc được.
Tóm
lại, Việt nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đã cản
trở. Việt Nam đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và
lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc
nào.
Khi
Việt Nam đưa quân vào Campuchia cuối năm 1978, mọi mối tiếp xúc hầu như
bị cắt đứt. Ngay cả vấn đề MIA/POW, một trong những lời hứa của ông
Jimmy Carter với hiệp hội những gia đình có người Mỹ mất tích trong
chiến tranh khi tranh cử, Mỹ cũng chẳng quan tâm nữa.
Thậm
chí đến năm 1981, khi chúng tôi đã chuẩn bị rất kỹ một chuyến thăm cho
ông Andrew Young, cựu Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc và cựu cố vấn của
Tổng thống Carter, Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời Tổng thống Ronald Reagan
vẫn không chấp thuận cho họ sang Việt Nam.
Mọi chuyện phải chờ đến năm 1985, Mỹ mới quay lại Việt Nam...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét