Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Bầu Kiên 30 năm tù, khởi tố thêm 2 vụ án hình sự

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Bầu Kiên 30 năm tù, khởi tố thêm 2 vụ án hình sự

TTO CẬP NHẬT TRỰC TUYẾN TẠI TÒA - Bên cạnh việc tuyên mức án trọng vụ bầu Kiên, Hội đồng xét xử cũng công bố 2 quyết định khởi tố vụ án hình sự tại tòa.
 
1. Quyết định khởi tố vụ án kinh doanh trái phép: HĐXX xét thấy có dấu hiệu phạm tội kinh doanh trái phép tại ngân hàng ACB và ngân hàng Vietbank, quyết định khởi tố vụ án hình sự tại ngân hàng ACB và ngân hàng Vietbank.

2. Vụ án lừa đảo: HĐXX thấy hành vi của Huỳnh Thị Bảo Ngọc (phó phòng quản lý quỹ ACB) có dấu hiệu đồng phạm với Huỳnh Thị Huyền Như trong việc lừa đảo, Hội đồng xét xử quyết định khởi tố vụ án hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Mức án cụ thể của các bị cáo:

Nguyễn Đức Kiên (nguyên chủ tịch hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB, nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ACB, nguyên phó chủ tịch hội đồng sáng lập ACB): 20 tháng tù về tội kinh doanh trái phép, 18 năm tù về tội cố ý làm trái, 6 năm 6 tháng tù về tội trốn thuế và 20 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tổng hợp hình phạt chung của bị cáo Kiên là 30 năm tù.

Nhóm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

- Bị cáo Trần Ngọc Thanh (62 tuổi, nguyên giám đốc Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội): 5 năm 6 tháng tù

- Bị cáo Nguyễn Thị Hải Yến (45 tuổi, nguyên kế toán trưởng Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội): 5 năm tù

Nhóm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng:

- Bị cáo Lê Vũ Kỳ (58 tuổi, nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ACB): 5 năm tù, cấm đảm nhiệm chức vụ trong vòng 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt.

- Bị cáo Lý Xuân Hải (49 tuổi, nguyên tổng giám đốc Ngân hàng ACB): 8 năm tù

- Bị cáo Trịnh Kim Quang (60 tuổi, nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ACB): 4 năm tù

- Bị cáo  Phạm Trung Cang (60 tuổi, nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ACB) 3 năm tùHuỳnh Quang Tuấn (nguyên thành viên hội đồng quản trị Ngân hàng ACB) 2 năm tù.


11g50:

Hội đồng xét xử: Bị cáo Nguyễn Đức Kiên phạm tội phạm nhiều tội, thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, liên tục trong thời gian dài, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc.

Tòa tuyên án Nguyễn Đức Kiên (nguyên chủ tịch hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB, nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ACB, nguyên phó chủ tịch hội đồng sáng lập ACB) đã phạm 4 tội, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành là 30 năm tù về các tội: lừa đảo, trốn thuế, kinh doanh trái phép và cố ý làm trái.

Tòa cũng tuyên phạt Bầu Kiên 75 tỉ đồng về tội trốn thuế để sung công quỹ, phạt 100 triệu đồng về tội lừa đảo.

11g20:
Tăng tín dụng ảo
Về hành vi đầu tư cổ phiếu ACB gây thiệt hại cho ACB 687 tỉ đồng:
HĐXX xét thấy các thành viên thường trực HĐQT ACB đã chỉ đạo công ty ACBS (công ty do ngân hàng ACB sở hữu 100% vốn điều lệ) đầu tư vào chính cổ phiếu của ACB.
Các bị cáo lợi dụng kẽ hở của pháp luật, thực hiện kinh doanh không đúng quy định của pháp luật. Tiền chạy từ ngân hàng này qua ngân hàng khác, tạo lợi nhuận ảo, tăng trưởng tín dụng ảo, quy luật thị trường bị bóp méo, phục vụ lợi ích cá nhân.

Tại tòa, luật sư và các bị cáo cho rằng ACB chưa mất 718 tỉ đồng vì Vietinbank mới là đơn vị phải hoàn trả. HĐXX xét thấy sau khi ACB chuyển tiền cho các cá nhân đi gửi tiền tại Vietinbank, đã bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt. Các nhân viên ACB được ủy thác không quan tâm đến việc gửi tiền, để Huyền Như làm giả thẻ, chiếm đoạt tiền.

ACB đã chủ trương ủy thác tiền gửi để Huyền Như chiếm đoạt tiền, do đó việc Vietinbank hay Huyền Như phải trả tiền thì ACB vẫn mất số tiền nêu trên, ACB chưa thu hồi được.

Hành vi của các bị cáo nguyên là lãnh đạo ACB đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội Cố ý làm trái.

HĐXX thấy rằng VKSND Tối cao truy tố các bị cáo Nguyễn Đức Kiên cùng các bị cáo Lê Vũ Kỳ (nguyên phó chủ tịch hội đồng quản trị ACB), Lý Xuân Hải (nguyên tổng giám đốc ACB), Phạm Trung Cang, Trịnh Kim Quang (cùng nguyên Phó chủ tịch HĐQT), Huỳnh Quang Tuấn (nguyên thành viên HĐQT) về tội cố ý làm trái là có căn cứ.

Về trách nhiệm dân sự, số tiền 718 tỉ đồng đã được xem xét trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như nên không xem xét trong vụ án này.

HĐXX xét thấy, bà Huỳnh Thị Bảo Ngọc (phó phòng quản lý quỹ ACB) là người liên hệ với Huyền Như để mở tài khoản gửi tiền tại Vietinbank. Huỳnh Thị Bảo Ngọc đã thực hiện sai các quy định, để Huyền Như chiếm đoạt tiền.

Huỳnh Thị Bảo Ngọc đã được hưởng lợi 3 tỉ đồng từ việc gửi tiền, xét thấy có dấu hiệu đồng phạm với Huyền Như, cần khởi tố vụ án, kiến nghị VKSND Tối cao điều tra làm rõ.

10g45:

- Về hành vi cố ý làm trái của Nguyễn Đức Kiên: Tại thời điểm các thành viên HĐQT ACB ủy thác cho các cá nhân đi gửi tiền, Luật các tổ chức tín dụng chưa có hiệu lực. Việc ủy thác được thực hiện theo quyết định 742/2002 của Ngân hàng Nhà nước, nội dung chỉ quy định về ủy thác cho vay, không có nội dung quy định về ủy thác cho cá nhân đi gửi tiền.

HĐXX khẳng định việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác tiền gửi trước khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực là không đúng quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa việc HĐQT ACB ủy thác cho cá nhân đi gửi tiền là hoàn toàn sai.

Đặc biệt khi Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ 1-1-2011, thường trực HDQT ACB đã họp nhưng vẫn tiếp tục chủ trương ủy thác tiền gửi. HĐQT ACB biết hoạt động ủy thác phải có hướng dẫn nhưng vẫn tiếp tục thực hiện. Các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

- Về hành vi lừa đảo chiếm đoạt của Bầu Kiên (xảy ra tại công ty ACBI): HĐXX nhận thấy qua lời khai tại cơ quan điều tra và tại tòa, phía tập đoàn Hòa Phát đã khẳng định không biết 20 triệu cổ phần đã thế chấp, việc chuyển nhượng cổ phần là mua bán độc lập, không phải hoán đổi.

Sau khi nhận được 264 tỉ đồng của công ty Thép Hòa Phát chuyển, bị cáo Kiên đã chỉ đạo cấp dưới sử dụng tiền vào các mục đích khác nhau. Bị cáo không có động thái đến ngân hàng ACB xin giải chấp cổ phần để chuyển nhượng cho Thép Hòa Phát. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành.

HĐXX cho rằng VKSND Tối cao truy tố bị cáo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng người đúng tội. Tại tòa, bị cáo Kiên không thành khẩn nhận tội nên phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cần phải phạt bị cáo 100 triệu để bổ sung công quỹ nhà nước.

Đề nghị điều tra sai phạm của vợ, em gái Bầu Kiên

10g30:

- Về hành vi trốn thuế của Bầu Kiên: HĐXX phân tích việc ủy thác kinh doanh vàng của công ty B&B cho bà Nguyễn Thúy Hương (em gái Kiên) là không hợp pháp. Hợp đồng này chỉ là hợp đồng khống nhằm chuyển toàn bộ lợi nhuận từ B&B cho bà Nguyễn Thúy Hương.

Chi cục Thuế Đống Đa cho biết năm 2009, Chi Cục Thuế thanh tra thuế tại công ty B&B, kết quả truy thu thuế và tiền phạt đối với công ty B&B là hơn 440 triệu đồng. Công ty này đã không kê khai lãi từ hoạt động ủy thác kinh doanh vàng với bà Hương.

Từ các phân tích nêu trên, HĐXX có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Đức Kiên trốn thuế với số tiền 25 tỉ đồng. VKS tối cao truy tố bị cáo là đúng người đúng tội. Bị cáo là chủ mưu. Tại tòa và tại cơ quan điều tra không thành khẩn nhận tội, hậu quả gây ra không được khắc phục.

Bên cạnh đó, Đặng Ngọc Lan (vợ ông Kiên) là Nguyễn Thúy Hương đã giúp sức cho Nguyễn Đức Kiên phạm tội trốn thuế, xét thấy cần thiết kiến nghị cơ quan điều tra làm rõ, nếu có vi phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật.

Về dân sự, cần buộc công ty B&B nộp 25 tỉ đồng tiền thuế đã trốn cho Chi cục thuế Đống Đa. Về hình phat bổ sung, cần phạt gấp 3 lần mức thuế đã trốn là 75 tỉ đồng.

10g20:

- Về hành vi kinh doanh vàng trái phép tại công ty Thiên Nam: HĐXX cho rằng lời khai của Nguyễn Đức Kiên tại tòa là không đủ căn cứ để chấp nhận, Kiên là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Taị tòa không thành khẩn khai báo, vì thế cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

9g50: Sau khi tóm tắt nội dung vụ án và diễn tiến việc xét xử tại tòa, Hội đồng xét xử nêu đánh giá vụ án trên sơ sở xem xét tài liệu hồ sơ, quá trình thẩm vấn công khai tại tòa.

Cần khởi tố vụ án, điều tra sự tiếp tay của Ngân hàng ACB

Về hành vi kinh doanh trái phép của Nguyễn Đức Kiên thông qua 6 công ty (do Kiên là chủ tịch HĐQT, hội đồng thành viên):

Tại tòa, bị cáo Kiên thừa nhận dùng tiền của các công ty đầu tư vào việc mua cổ phần, cổ phiếu của doanh nghiệp khác tuy nhiên cho rằng pháp luật không cấm. Các luật sư cũng nói hoạt động đầu tư tài chính, kinh doanh tài chính theo điều 13 Luật Doanh nghiệp, không cần đăng kí kinh doanh.

HĐXX xét thấy lời khai của Nguyễn Đức Kiên tại cơ quan điều tra cũng như tại tòa đều xác nhận việc đầu tư cổ phần cổ phiếu vào doanh nghiệp để sinh lợi theo quy định của khoản 1, điều 7, điều 8… Luật doanh nghiệp năm 2005. Đồng thời doanh nghiệp phải tuân thủ theo điều 9, Luật doanh nghiệp: phải kinh doanh theo giấy phép đăng kí kinh doanh.

Các công ty của Nguyễn Đức Kiên không đăng kí kinh doanh cổ phần cổ phiếu, góp vốn vào doanh nghiệp.

Theo nghị định 88/2006 của chính phủ, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đăng kí kinh doanh. Nguyễn Đức Kiên là người hoạt động doanh nghiệp, khi kinh doanh đã không theo đúng giấy phép. Hành vi kinh doanh mua cổ phần cổ phiếu đã vi phạm điều 159 Bộ Luật hình sự - Hành vi này thỏa mãn dấu hiệu tội kinh doanh trái phép.

Qua đây HĐXX xét thấy việc phát hành trái phiếu tại các công ty của Nguyễn Đức Kiên là vi phạm pháp luật, có sự giúp sức của các thành viên ngân hàng ACB. HĐXX xét thấy cần khởi tố vụ án để điều tra hành vi này của các cá nhân tại ACB, nếu có vi phạm cần xử lý theo quy định của pháp luật.

* 8g15 sáng nay 9-6, sau một tuần nghị án, TAND TP Hà Nội bắt đầu tuyên bản án đối với Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên) và các đồng phạm với việc tuyên đọc bản án, mở đầu bằng việc tóm tắt các nội dung chính của vụ án. 
Nguyễn Đức Kiên căng thẳng trong giờ tòa tuyên án - Ảnh: Tâm Lụa

* Trước đó, qua màn hình, các phóng viên nhận thấy khác với trong 11 ngày xét xử vừa qua, bị cáo Nguyễn Đức Kiên khá căng thẳng trong ngày tòa chính thức công bố bản án.

Phòng xử TAND TP Hà Nội chật kín người. Trên bàn làm việc của Hội đồng xét xử, hồ sơ vụ án xếp thành hàng dày - đây là một trong những vụ án có lượng hồ sơ kỉ lục.

* Hội đồng xét xử đã làm việc trong 11 ngày (từ ngày 20-5), các bị cáo bị xét xử về 4 tội: trốn thuế, kinh doanh trái phép, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Tại phiên tòa ngày 2-6, trong lời nói sau cùng với Hội đồng xét xử trước khi vào nghị án, Nguyễn Đức Kiên (nguyên chủ tịch Hội đồng đầu tư Ngân hàng ACB) vẫn đề nghị tòa đừng vội tuyên án.

Tuổi Trẻ điểm lại diễn biến phiên xử Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm trong 11 ngày qua:

Đồng loạt phản bác cáo trạng


Tại tòa, 8 bị cáo trong vụ án Nguyễn Đức Kiên đã đồng loạt phản bác cáo trạng. Các bị cáo cho rằng cáo trạng truy tố không đúng người đúng tội.

Bị cáo Nguyễn Đức Kiên cho rằng mình không kinh doanh trái phép, “không thiếu tiền để phải đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “cơ quan điều tra hình sự hóa quan hệ kinh tế”. 

Về tội trốn thuế, Bầu Kiên cho rằng giám định viên thuế quên quy định pháp luật nên giám định sai. Về tội cố ý làm trái, Bầu Kiên cho rằng thời điểm năm 2010, bị cáo không có quyền gì trong HĐQT ACB để buộc các thành viên khác làm theo ý mình.

Bầu Kiên cũng nói việc chuyển nhượng cổ phần cho Công ty Thép Hòa Phát thực chất là thực hiện hoán đổi cổ phần giữa hai công ty, phía tập đoàn Hòa Phát biết cổ phần đã thế chấp vẫn nhận chuyển nhượng với giá 264 tỉ đồng. Vì thế, Bầu Kiên nói cáo buộc của VKS rằng bị cáo lừa đảo là không có căn cứ.

Trong khi đó, ông Trần Đình ông Long, chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát khẳng định nếu biết 20 triệu cổ phần đã thế chấp cho ACB thì sẽ không bao giờ mua.

Tuy nhiên trong các ngày xét xử tiếp theo, ông Long thừa nhận Tập đoàn Hòa Phát có sai sót khi đã ký vào đề nghị phong tỏa các cổ phần này để công ty ACBI thế chấp cho ACB, nhưng lại quên không thông báo cho hệ thống công ty biết.

Tranh luận lại với các bị cáo và luật sư, đại diện VKS ND TP. Hà Nội đã dùng từ “lợi ích nhóm và đường vòng tội lỗi” khi đề cập đến hành vi cố ý làm trái xảy ra tại ngân hàng ACB. Đại diện VKS cho rằng chỉ vì lợi ích nhóm mà các bị cáo đã phạm tội một cách mù quáng. Đại diện VKS khẳng định VKS ND Tối cao truy tố các bị cáo là đúng người đúng tội.

Đại diện VKS đã đề nghị mức án 30 năm tù cho cả 4 tội danh đối với bị cáo Nguyễn Đức Kiên.

ACB và Vietinbank "tố" nhau vi phạm

Bà Huỳnh Thị Huyền Như (nguyên trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ thuộc Vietinbank chi nhánh TP.HCM) được di lý ra Hà Nôi tham dự phiên tòa Nguyễn Đức Kiên với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trả lời tòa về thủ thuật chiếm đoạt 718 tỉ đồng của ACB gửi tại Vietinbank, Huỳnh Thị Huyền Như cho biết đã chiếm tiền một cách “đơn giản” và thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc chiếm đoạt số tiền này.

Không đồng tình với ý kiến này của Huyền Như, đại diện ACB đã đề nghị tòa xem xét trách nhiệm của VietinBank vì Vietinbank không kiểm soát nhân viên, để nhân viên dùng chữ chữ ký giả rút tiền của khách hàng mà không phát hiện được. ACB còn đề nghị VietinBank phải chịu trách nhiệm về số tiền 718 tỉ đồng đã bị Huyền Như chiếm đoạt.

Tuy nhiên, phía Vietinbank lại cho rằng Huyền Như chiếm đoạt tiền thì phải chịu trách nhiệm chứ không liên quan đến Vietinbank.

Tại tòa, đại diện ACB, Vietinbank cũng như các luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho 2 ngân hàng đã dùng nhiều từ ngữ nặng nề để chỉ trích lẫn nhau và đổ trách nhiệm cho nhau trong việc để Huyền Như chiếm đoạt 718 tỉ đồng.

Luật sư của ACB cho rằng “Vietinbank đã sơ hở, dễ dãi, chủ quan và rất yếu kém, để tội phạm rút tiền khỏi tài khoản của khách hàng, đồng thời cũng chính là rút tiền trong két của Vietinbank”.

Trong khi đó, đại diện Viettinbank đã “tố” ACB quá liều lĩnh, lừa dối Ngân hàng Nhà nước, lách luật, có các công ty sân sau, tạo vốn ảo lãi thật, bóp méo quy luật thị trường. Đại diện Vietinbank còn cho rằng ACB mượn diễn đàn để chỉ trích các cơ quan nhà nước, để bôi nhọ lẫn nhau…

Đề nghị khởi tố vụ thiếu trách nhiệm tại Ngân hàng Nhà nước

Trả lời tòa về chủ trương ủy thác cho các nhân viên gửi tiền vào Vietinbank để hưởng lãi suất cao hơn lãi suất trần, các bị cáo nguyên là lãnh đạo ngân hàng ACB đều cho rằng mình làm đúng chứ không vi phạm điều 106 Luật các Tổ chức Tín dụng năm 2010 như cáo buộc của cáo trạng.

Tại tòa, các bị cáo nguyên là lãnh đạo ACB đã “tố” Ngân hàng Nhà nước chậm ban hành hướng dẫn Luật các Tổ chức Tín dụng. Trong thời điểm kinh tế khó khăn, các bị cáo đã áp dụng quyết định 742/2002 của Ngân hàng Nhà nước để ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền.

Theo các bị cáo, quyết định 742 không hề có quy định ngăn cản các cá nhân gửi tiền, vì thế việc ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền năm 2010 là không sai. Năm 2011, Luật Các tổ chức Tín dụng mới có hiệu lực và mãi đến năm 2012, Ngân hàng Nhà nước mới có hướng dẫn.

Trả lời tòa, đại diện Ngân hàng nhà nước cho biết trước khi Luật các Tổ chức tín dụng có hiệu lực thì có quyết định 742 quy định về hoạt động ủy thác. Thời điểm các bị cáo phạm tội, hoạt động ủy thác vẫn áp dụng quyết định 742. Tuy nhiên, việc ủy thác gửi tiền tiết kiệm chưa có văn bản nào hướng dẫn.

Luật sư Hoàng Đôn Hùng (bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức Kiên) cho rằng từ khi Luật các Tổ chức Tín dụng có hiệu lực, Ngân hàng Nhà nước chưa có ý định ban hành hướng dẫn. Từ những căn cứ nêu trên, luật sư kiến nghị HĐXX xem xét khởi tố hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Ngân hàng Nhà nước.

Theo luật sư Hùng, với tư cách là cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý các ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã chậm ban hành hướng dẫn luật, Thanh tra Ngân hàng nhà nước đã không can thiệp, không ngăn chặn xử lý kịp thời các cá nhân có hành vi ủy thác gửi tiền dẫn dến việc Bầu Kiên và một số lãnh đạo ACB bị truy tố về hành vi cố ý làm trái.

Đại diện nhiều cơ quan nhà nước từ chối trả lời

Tại phiên tòa xét xử Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm, đại diện một số cơ quan nhà nước được mời đến tòa đã không trả lời được câu hỏi mà HĐXX đặt ra. Một số vị từ chối trả lời, một số vị đùn đẩy cho cơ quan khác, một số khác lại cho rằng luật chưa quy định nên không thể trả lời.

Trả lời câu hỏi của tòa “hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp khác có phải đăng kí kinh doanh hay không”, đại diện Phòng đăng kí kinh doanh Sở Kế hoạch Đầu tư TP.HCM không có câu trả lời mà cho biết đã hỏi Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ lại hướng dẫn Sở phải hỏi Bộ Tài chính.

Cũng câu hỏi nêu trên, đại diện Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội đã đề nghị tòa hỏi đại diện Ủy Ban chứng Khoán nhà nước, Bộ kế hoạch Đầu tư.

Trả lời tòa, đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết vấn đề này phải là người có thẩm quyền trả lời.

Trả lời câu hỏi của tòa về hoạt động ủy thác mua bán vàng trên tài khoản nước ngoài có đúng luật hay không, đại diện các cơ quan nhà nước cũng khá lúng túng, không có câu trả lời. Đại diện Ngân hàng nhà nước có mặt tại tòa đã khẳng định rất nhiều lần rằng hoạt động ủy thác kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài hiện chưa có quy định.

TÂM LỤA
(Tuổi trẻ)

Phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống ngoại xâm

Nhiều người chưa ý thức rõ vai trò của thể chế hay chế độ chính trị trong đời sống con người và xa hơn nữa là xã hội, văn hóa, văn minh. Chính vì lẽ đó, mà chúng ta nên có một cái nhìn xét lại, rõ ràng hơn nhất là trước nguy cơ bành trướng của Tàu cộng. Hơn nữa bài học trước mắt tại Ukrain, người dân đã xuống đường lật đổ chế độ độc tài, tham nhũng của Yanukovych, kẻ đã vì quyền lợi cá nhân, gia đình sẵn sàng bó gối quy hàng Nga, sau đó bầu ra vị tổng thống mới với chủ trương đoàn kết toàn dân, thân thiện với thế giới tự do, đối thoại bình đẳng với Nga để bảo toàn lãnh thổ.

Thể chế hay chế độ chính trị là mô hình tổ chức nhân xã, nói một cách dễ hiểu, là tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp của một cộng đồng con người.

Người ta thấy có chế độ độc tài, chế độ dân chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa là chế độ mà quyền hành nằm trong tay một người hay một nhóm người (oligarchie). Trong chế độ dân chủ, có nghĩa là chế độ mà quyền hành nằm trong tay người dân, người dân có quyền quyết định số phận của mình, người ta thấy có dân chủ trực tiếp, như ở Thụy sĩ, những quyết định quan trọng đều do trưng cầu dân ý quyết định; và chế độ dân chủ gián tiếp, người dân bầu ra đại diện của mình, trong một nhiệm kỳ, những người được bầu này thay mặt dân lấy những quyết định. Hiện nay, phần lớn những chế độ dân chủ là những chế độ dân chủ gián tiếp.

Trong chế độ dân chủ gián tiếp, người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh và phần lớn ở các quốc gia trên thế giới. Người ta cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống chế, nửa đại nghị chế, như ở bên Pháp.

images

I ) Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người

Thể chế chính trị giữ một vai trò tối quan trọng trong sự phát triển đời sống con người. Vì vậy có người ví thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm. Con người dù là da vàng, da trắng hay da đen có thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt, chế độ tôn trọng con người, những quyền căn bản của nó, đồng thời được hướng dẫn, dìu dắt bởi một nền giáo dục tốt, một hệ thống an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm này sẽ kết bông, nẩy trái. Ngược lại, nếu hạt mầm này được gieo trên một mảnh đất khô cằn, tức một thể chế chính trị xấu, không lo đến quyền lợi của người dân, mà chỉ lo đến quyền lợi của một số người, coi thường những quyền căn bản của con người, áp dụng một hệ thống giáo dục, tuyên truyền nhồi xọ, đa số đời sống của người dân trở nên cơ cực, trong khi một thiểu số cầm quyền tiêu sài theo kiểu vất tiền qua cửa sổ, an sinh xã hội của dân không được bảo đảm, trẻ em sơ sinh thì thiếu dinh dưỡng, khi bệnh thì thiếu thuốc, không có bác sĩ, không dám đi nhà thương, thì tất nhiên hạt mầm này sẽ thui chột, chẳng khác nào được gieo trên một mảnh đất khô cằn, toàn là xỏi đá.

Ngày hôm nay, theo những nhà và viện nghiên cứu về dân chủ, thì chế độ dân chủ, mặc dầu không được coi là chế độ hoàn hảo nhất, nhưng nó được coi là chế độ hiện hành tốt nhất để giúp con người và xã hội phát triển.

Chúng ta hãy lấy thí dụ điển hình để dễ hiểu, hai chế độ chính trị Nam Hàn và Bắc Hàn. Chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc tài, người dân sống dưới chế độ này không những không thể phát triển được, mà hàng năm còn bị nạn đói hoành hành từ bao chục năm nay. Ngoài xã hội thì những hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong khi những công thự, những chỗ tôn thờ lãnh tụ, thì điện chan hòa cả ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền giáo dục nhồi sọ, từ trẻ cho đến dân chỉ biết vâng lời, gọi dạ bảo vâng, nhắc lại những khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch.

Trong khi đó thì Nam Hàn hiện nay vô cùng phát triển. Chúng ta chỉ cần lấy một vài thí dụ điển hình : Nền khoa học kỹ thuật tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối tân, thế mà Nam Hàn với hãng Sumsung đứng đầu trong việc sản xuất và bán trên thị trường đã lâu, trên cả hãng Apple của Hoa kỳ và hãng Nokia của Phần Lan. Ngành xe hơi cũng vậy, hãng Kia của Nam Hàn, mặc dầu mới xuất hiện, nhưng cũng không thua gì những hãng quốc tế nổi tiếng lâu đời khác như hãng Général Motor, Toyata, Wolkswagen, Renault. Nam Hàn từ mấy chục năm nay đã nổi tiếng về giáo dục, người thợ Nam hàn có một trình độ hiểu biết tổng quát đứng đầu thế giới. Người chuyên viên Nam Hàn cần cù làm việc, chịu khó học hỏi, đi làm việc nơi nào cũng được trọng. Bằng cớ là hai tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp quốc và Ngân Hàng quốc tế, đều được cầm đầu bởi người Nam Hàn.

Được như vậy, tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một trong những lý do chính, đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tự do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng thập niên 80.

Không nói đâu xa, chúng ta trở về Việt Nam thời cận đại :

Hai chế độ miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có thể nói là 2 chế độ dân chủ, tất nhiên không thể so sánh với những nước dân chủ tiền tiến, nhưng nó là một trong những nước dân chủ đầu tiên ở châu Á, chỉ thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền Nam cũng đã phát triển, hơn cả Nam Hàn và Đài loan lúc bấy giờ. Nếu tính theo sản lượng đầu người hàng năm thì vào cuối thời Đệ Nhất Cộng hòa, sản lượng của miền Nam Việt nam là 118 $, trong khi đó của Nam Hàn và Đài loan là trên dưới 80 $. Sự phát triển của miền Nam được ngay những người cộng sản công nhận, như ông Lê đăng Doanh, « nhà kinh tế « cộng sản, trong một bài phỏng vấn của đài BBC, cũng công nhận là sau 1975, ông vào thăm miền Nam đầu tiên, ông đã phải ngạc nhiên về trình độ phát triển, ông đi thăm những vùng quê, ông thấy nơi nào cũng có điện, có máy cày, đời sống người dân tương đối đầy đủ. Nhà văn Dương thu Hương, cùng với « Đoàn quân chiến thắng » vào miền Nam, trước đời sống dân miền Nam, bà đã sửng sờ, bà tìm một góc phố, như lời bà kể, để khóc, và sau đó tuyên bố : « Tôi đã cùng một đoàn quân chiến thắng, nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô hình của kẻ chiến thắng” .

Chính « Luật Người cày có ruộng « của thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt nam đã được chính phủ Đài loan bắt chước và đem áp dụng thành cộng ở nước này. Chỉ tiếc rằng những gì đã được xây dựng ở miền Nam đã bị cộng sản đổ xuống sông, xuống biển. Chính vì vậy mà dân miền Nam đã có câu: «Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học, thằng ngu làm thầy”.

Hiện nay cộng sản nói rằng đổi mới, nhưng thực sự là trở lại những thành qủa của miền Nam trước kia đã đạt được, nhưng khập khiểng, vì thể chế chính trị vẫn là chế độ cộng sản độc tài, vẫn lấy lý thuyết Mác Lê làm nền tảng cho chế độ, như đã được ghi trong hiến pháp; giáo dục thì nhồi sọ, đạo đức thì suy đồi, an sinh xã hội thì không có.

Nếu chúng ta nói đến sự quan trọng của thể chế chính trị trong sự phát triển con người và xã hội, văn minh, văn hóa, thì chúng ta có thể dẫn chứng rất nhiều.

Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến ông Alexis de Tocqueville ( 1805 – 1859), với hai quyển sách nổi tiếng « De la Démocratie de l’Amérique ( Về chế độ dân chủ ở châu Mỹ ), viết từ năm 1835 tới 1840, và quyển « De l’Ancien Régime et la Révolution « ( Về Chế độ cũ và Cách mạng) xuất bản năm 1856.

Sở dĩ tôi nói đến ông Tocqueville là vì hiện nay, đảng Cộng sản Trung cộng, nhất là Ban Tư tưởng và ý thức hệ đang khuyên các đảng viên đọc và suy ngẫm về quyển sách của ông, đặc biệt là câu trong quyển sách thứ nhì: «Giai đoạn nguy hiểm nhất cho một chế độ, đó là lúc mà nó bắt đầu cải tổ.”

Theo Tocqueville, thì « Ý tưởng dân chủ, bắt đầu bằng sự công bằng điều kiện ( égalités des conditions) là một cái gì thiêng liêng, không thể tước bỏ được và nó chính là một động lực làm cho những chế độ độc tài sụp đổ ». Quyển sách về dân chủ Hoa kỳ là một quyển sách cho tới bây giờ, giới trí thức nước này vẫn cho là một trong những quyển sách hay nhất qua nhận xét, phân tích và tiên đoán về Hoa Kỳ.

Theo Tocqueville thì đây quả là một nền dân chủ gián tiếp, với một hiến pháp thành văn, tôn trọng những quyền căn bản của con người, tôn trọng tam quyền phân lập, và nhất là sự quân bằng quyền hành, giữa quyền trung ương và địa phương, giữa quyền hành pháp và lập pháp, giữa quyền lập pháp và tư pháp. Từ đó cho tới nay, không ai chối cãi rằng nền dân chủ Hoa Kỳ quả là một mảnh đất mầu mỡ cho mọi con người đến từ mọi chủng tộc, nẩy mầm và phát triển.

Với quyển sách thứ nhì, mà nay Ban Tư tưởng Trung ương Trung cộng đang yêu cầu cán bộ học hỏi, nói về tại sao chế độ cũ, tức chế độ quân chủ của vua Louïs XVI Pháp lại sụp đổ. Câu trả lời của Tocqueville tất nhiên là vì chế độ này đã cấm đoán tự do. Tuy nhiên ông cũng cảnh cáo chế độ dân chủ là không nên mắc vào « nạn độc tài số đông « ( despotisme de la majorité). Để tránh điều này thì nên có sự tản quyền, tôn trọng quyền tự do báo chí và làm thế nào để tam quyền phân lập rõ ràng và nhất là quyền tư pháp được độc lập.

Một câu hỏi đến với chúng ta là tại sao Ban Tư tưởng của Trung Ương đảng Cộng sản Trung cộng lại yêu cầu cán bộ học hỏi tư tưởng của Tocqueville và nhất là suy ngẫm câu vừa nói ở trên: « Thời điểm nguy hiểm nhất của một chế độ …. « .

Vì đảng Cộng sản Tàu cũng ý thức rất rõ rằng mình không thể nào đi ngược lại trào lưu tiến bộ của văn minh nhân loại, đó là đi đến thể chế chính trị tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và từ đó tất nhiên là phải cải tổ, vứt bỏ tư tưởng Mác Lê Mao, chủ trương độc khuynh, độc đảng, độc tài. Tuy nhiên vấn đề là cải tổ thế nào để không đi đến cách mạng, làm sụp đổ chế độ, mất hết những đặc quyền, đặc lợi của một thiểu số người nắm quyền.

Đây là một vấn đề nan giải mà Tocqueville đã nhìn thấy và đặt ra với chế độ quân chủ Pháp thời vua Louïs XVI và cho rằng một trong những lý do chính của sự sụp đổ chế độ là vì chế độ này bắt đầu cải tổ.

Từ cái nhìn của Tocqueville, chúng ta nhìn vào lịch sử cận đại.

Chúng ta thấy rằng lịch sử, trái lại với một số nhà tư tưởng cho rằng biến chuyển thế này thế nọ, theo đường thẳng, đường trôn ốc, theo óc tưởng tượng đã đánh đồng lịch sử với toán học, tóm gọn sự biến chuyển lịch sử qua một phương trình toán học, rồi từ đó suy đoán ảo tưởng, nhưng nhiều khi lịch sử chỉ là một sự lập lại, nếu chúng ta đem so sánh sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên sô dưới thời Gorbatchev và sự sụp đổ của triều đình quân chủ Pháp Louïs XVI.

Nhưng phải chăng trong lịch sử cận đại không có một chế độ độc tài nào tự sửa đổi, cải tổ để đi đến chế độ dân chủ mà thành công? Câu trả lời là có. Chúng ta chỉ cần lấy thí dụ gần chúng ta và chúng ta cũng biết đôi chút. Đó là Nam Hàn và Đài loan. Nam Hàn và Đài loan trước thập niên 80 là dưới chế độ độc tài.

Có người nói, độc tài Nam Hàn và Đài loan là độc tài hữu, khác với độc tài Trung cộng và Việt Nam là độc tài tả, có sự khác biệt. Điều này không sai.

Tuy nhiên trong chính trị, dù là tả hay hữu, nhất là người lãnh đạo, khi đã sáng suốt, có ý chí nhất quyết làm vì nước vì dân, thì cũng có thể làm nhiều chuyện, trong đó có cả việc thay đổi một chế độ.

II ) Sự quan trọng của thể chế chính trị trong xã hội, văn hóa và văn minh nhân loại

Xã hội chúng ta có thể định nghĩa đơn giản là cách sống của một nhóm người có tổ chức, với những truyền thống, luật lệ, cơ chế, trải qua những thời đại. Nói một cách khác đi, đó là cách tổ chức xã hội con người ở vào một thời điểm nhất định nào đó, chính là chế độ, thể chế, tức cách tổ chức chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, xã hội.

Văn hóa, văn là đẹp, hóa là biến đổi, đây là tất cả những hành động của con người làm thăng tiến đời sống của mình trên hai phương diện vật chất và tinh thần. Một khi những hành động này có ảnh hưởng rộng lớn, trong một vùng, trải qua một thời gian dài, thì nó trở thành văn minh.

Văn cũng là đẹp, minh là chiếu sáng, có ảnh hưởng lâu dài và rộng lớn.

Một số sử gia và nhân chủng học cho rằng con người trải qua 5 thời kỳ văn minh :

Văn minh trẩy hái, vào lúc con người mới xuất hiện trên trái đất, sống trong hang đá, hái trái cây, săn bắn ở chung quanh để sinh sống.

Văn minh du mục: rồi cây trái, súc vật ở chung quanh cũng trở nên khan hiếm, con người phải đi xa để tìm kiếm, nó bước sang thời kỳ văn minh du mục.

Nhưng ngay dù đi xa để kiếm ăn, thức ăn cũng trở nên khó khăn, con người phải trồng trọt, nuôi súc vật. Nó bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp.

Với nền văn minh này, con người đã có thể thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mình, nghĩa là khi đói thì có ăn, khi lạnh thì có áo để bận, con người bắt đầu nghĩ đến những nhu cầu xa xỉ, muốn ăn ngon, mặc đẹp, con người trao đổi với nhau về những s ản phẩm mình làm ra, có nghĩa là tôi trồng lúa mì để ăn, nhưng tôi thích ăn lúa mạch, thì tôi trao đổi với người trồng lúa mạch; tôi có thể dệt vải để mặc, nhưng thôi thích mặc lụa, thì tôi trao đổi với người dệt lụa. Con đường Gia vị, con đường Tơ lụa nối liền đông tây trong lịch sử nhân loại, có nghĩa là thế.Từ đó con người bước sang nền văn minh trao đổi thương mại.

Ngày xưa, con người phải đi xa để trao đổi, nhưng từ ngày có phát minh ra điện, điện thoại, điện toán, con người không cần phải đi xa để trao đổi, con người bước sang nền văn minh tri thức điện toán, như ngày hôm nay.

Vào thời văn minh trẩy hái, du mục, canh nông, lao động chủ yếu là dùng sức mạnh bắp thịt chân tay. Nhưng bước sang văn minh thương mại, nhất là văn minh tri thức điện toán ngày hôm nay, lao động chủ yếu là tư tưởng, phát minh sáng kiến, từ đầu óc con người.

Mỗi một thời văn minh có một hình thức tổ chức nhân xã tương xứng . Thời văn minh trẩy hái, du mục, đó là chế độ gia tộc, bộ lạc. Bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp, là chế độ quân chủ.

Nhưng sang thời kỳ văn minh thương mại, tri thức, điện toán, đó là chế độ dân chủ, vì để trao đổi là phải có người khác, phải có đối thoại.

Socrate nói: «Nơi nào có đối thoại, nơi đó mới có tiến bộ và dân chủ « là như vậy.

Nhất là vào thời kỳ văn minh tri thức điện toán ngày hôm nay, để phát minh, sáng kiến, con người bắt buộc phải sống dưới chế độ dân chủ, vì phải có tự do tư tưởng, trao đổi tư tưởng, công trình tìm kiếm, thì lúc đó con người mới có thể có những ý kiến mới.

Voltaire đã từng nói: «Tự do tư tưởng và ngôn luận là hai cột trụ chính của chế độ dân chủ.«

Mỗi một mô hình tổ chức nhân xã là một bước tiến của nhân loại. Nhưng nếu kéo dài quá thì lại trở thành vật cản trở, như chế độ quân chủ là một bước tiến so với chế độ gia tộc và bộ lạc, nhưng kéo dài lâu quá thì trở thành lạc hậu, ngăn cản bước tiến của con người.

Trong khi đó chế độ như chế độ quân chủ kéo dài cả bao ngàn năm, không những lỗi thời, mà còn trở nên giết người, vì một thiểu số nắm quyền, muốn kéo dài đặc ân, đặc lợi, bổng lộc của mình, không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào, từ thông tin tuyên truyền lừa bịp, đến dùng cái còng với công an và dùng cái súng với lính để đàn áp dân.

Người ta nói: «Chế độ độc tài là chế độ của cái loa, cái còng và cái súng « là vậy.

Nhìn vào lịch sử cận đại, 2 chế độ cái loa cái còng và cái súng là chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản.

Cả hai đều dựa trên quan niệm triết lý, tư tưởng bất bình thường:

Hitler cho rằng chủng tộc Aryen là chủng tộc tinh khiết, không pha trộn với những chủng tộc khác, nên thông minh. Đây là một cái gì vô cùng phản khoa học. Dân tộc Đức tiêu biểu cho chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới. Chính vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi.

Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp, không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn thư Cộng sản: «Lịch sử nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp.»

Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người cộng sản, bắt đầu bởi Marx thường rêu rao: «Khoa học lịch sử, khoa học biện chứng.»

Không cần chứng minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và những người chung quanh, xét cuộc đời thì chúng ta rõ: Bình thường con người muốn sống hòa bình. Con người chỉ dùng bạo động trong những trường hợp bị bắt buộc, trường hợp bất bình thường. Điều này đúng với cả lịch sử của những quốc gia.

Marx và những người cộng sản đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất bình thường, bệnh hoạn.

Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu, chế độ cộng sản, bề ngoài thì mang nhãn hiệu « Thế giới đại đồng, Anh em cộng sản « , nhưng bề trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bành trướng. Bề ngoài mang nhãn hiệu « Liên bang các cộng hòa xã hội Xô viết « (URSS), nhưng bên trong, Lénine, qua tay em của mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc, tìm cách ép buộc, đàn áp, giết hại những dân tộc chung quanh, bắt họ đi theo Liên sô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.

Chính vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ tranh chấp Nga – Hoa ở biên giới vào những năm 60, tranh chấp giữa Việt Cộng và Trung cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979, tranh chấp Việt Miên rồi cũng đi đến chiến tranh trước đó một năm, 1978.

Sau khi Liên sô sụp đổ, thì Việt cộng vội chạy đi thần phục Trung cộng, mở đầu bằng Hội nghị Thành đô tháng 3/1990, và không ngừng ký những hiệp ước dâng đất nhượng biển cho Trung cộng. Nhưng vì Trung cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc nào cũng rêu rao « Bốn tốt và 16 chữ vàng «; nhưng đùng một cái, Trung cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.

Nhiều người vì tin tưởng ở những câu nói đầu môi, chót lưỡi của cộng sản, «Tình Huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản « , đã ngỡ ngàng về sự việc Trung cộng đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng sa, thuộc về chủ quyền Việt Nam.

Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa của cộng sản, thì chúng ta không có gì ngạc nhiên. Trung cộng và Việt cộng đã nhiều lần đánh nhau.

Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt Nam và Trung hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý thuyết Marx làm nền tảng cho chế độ, kêu gọi đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi chiến tranh triền miên, không những chiến tranh trong chính nội bộ, mà còn chiến tranh với nước ngoài, chừng đó hai dân tộc không thể nào sống hòa bình, hòa bình với chính mình, hòa bình với các nước chung quanh và với cộng đồng thế giới.

Người dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc tài cộng sản không những chỉ như một hạt mầm gieo trên một mảnh đất khô cằn, mà còn bị giới lãnh đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng và đế quốc của mình.

Vì vậy, ngày hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của con người là như vậy.

Quả thưc nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục, quân chủ tới dân chủ ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một mô hình tổ chức nhân xã khác nhau, hay nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn là cách tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, hoặc chế độ hay thể chế chính trị khác nhau, từ thể chế gia tộc, bộ lạc, tới quân chủ và dân chủ.

Nước Tàu và Việt Nam hiện nay nói riêng và các nước phương đông nói chung trong đó có cả các nước Trung Đông, những nước này đã có một nền văn minh rất sớm, hơn cả tây phương. Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu. Ngày hôm nay chế độ cộng sản ở Tàu và Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến trá hình. Chế độ quân chủ này trước khi tàn thì bùng lên ở phía phải tức chế độ phát xít, bùng lên ở phía tả, tức chế độ cộng sản, để rồi sẽ tắt luôn như một nhóm lửa trước khi tàn.

Tây phương, mặc dầu văn minh đến chậm hơn đông phương, nhưng đã biết từ bỏ sớm chế độ quân chủ để bước sang chế độ dân chủ và kinh tế thị trường, và họ đã phát triển rất mạnh, vượt mặt đông phương.

Đối với những chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông, cấm đoán ngay cả những người phụ nữ làm đủ mọi thứ nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản tước hết mọi quyền căn bản nhất của con người; người xưa có câu « Trễ còn hơn không «, hãy từ bỏ thể chế chính trị quân chủ phong kiến để bước sang chế độ dân chủ, tôn trọng những quyền căn bản của con người trong đó có nam nữ bình quyền, có quyền tự do tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy vọng theo kịp những nước văn minh. Gương Nam Hàn và Đài loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước sang chế độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay 2 nước này có thể sánh cùng với những nước văn minh khác trên thế giới.

Đất nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì đảng cộng sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân, ngoài thì Tàu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển Việt Nam. Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị, từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do vì có như thế giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tàu cộng. (1)
Paris ngày 05/06/2014
Chu chi Nam và Vũ văn Lâm
© Đàn Chim Việt

Hà Sĩ Phu - Không thể “Thoát Trung” mà không “Thoát Cộng”!

Từ hơn một tháng nay, giàn khoan Trung Quốc thăm dò dầu khí chỉ cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý, nằm sâu trong khu vực mà Việt Nam khẳng định là vùng đặc quyền kinh tế, tạo sự phẫn nộ và lo lắng cho người Việt khắp nơi.
Vào chiều ngày 5/06/2014, tại trụ sở Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hà Nội, đã diễn ra một cuộc hội thảo mang tên « Làm sao để thoát Trung ? ». Hội thảo do Quỹ Văn Hóa Phan Chu Trinh tổ chức.
http://hasiphu.com/baivietmoi_38_files/image002.jpg
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu
Về sự kiện này Tiến sĩ Hà Sĩ Phu trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành đã bình luận như sau:
Trần Quang ThànhThưa tiến sĩ Hà Sĩ Phu, mấy ngày hôm nay dư luận rất quan tâm đến một cuộc hội thảo tổ chức tại 53 Nguyễn Du Hà nội về vấn đề làm sao để thoát Trung, riêng tiến sĩ nghĩ thế nào về vấn đề này?
Hà Sĩ Phu: Bây giờ thì thoát Trung trở thành ý nghĩ chung của nhiều người rồi, Thấy mình bị phụ thuộc vào Tàu nhiều quá, bọn nó đè nén mình, thậm chí sẽ là một cuộc Bắc thuộc kiểu mới. Nó đến nơi rồi, gần quá rồi, cho nên kể cả những người từ những phía khác nhau cũng gặp nhau ở chỗ “thoát Trung”!
Thế nhưng đi vào cụ thể cũng còn khác nhau rất nhiều đấy. Thứ nhất về nội dung thoát Trung là thoát những gì thì cũng dễ hiểu thôi, thoát Trung là phải thoát cả từ ngày xưa cơ, trước khi có Cộng sản mình cũng đã bị ảnh hưởng Trung Quốc rất nhiều, Phong kiến ngày xưa cũng chịu ảnh hưởng Trung Quôc rất nặng chứ không phải chỉ từ chủ nghĩa cộng sản ta mới bị Trung Quốc đè nén như thế đâu, Điều đó là rất đúng. Thoát Trung là cả một vấn đề rất lớn, nó kéo dài rất nhiều thế kỷ rồi.
Nhưng thoát Trung liên quan đến thoát Cộng như thế nào thì tôi thấy trong cuộc hội thảo đó chưa được đặt ra một cách cụ thể rõ ràng, tuy cũng có người nhắc đến. Nhưng quan trọng là thế này, bây giờ muốn thoát Trung thì gặp trở ngại gì? Chính cái chủ nghĩa Cộng sản, đảng Cộng sản là yếu tố cản trở cái việc thoát Trung hiện nay, vì thế trước mắt không thể thoát Trung mà lại không tấn công vào cái yếu tố Cộng sản được, vẫn còn thể chế Cộng sản này mà muốn thoát Trung thì khó, cực kỳ khó. Ví dụ đơn giản thế này, muốn biểu tình chống Trung Quốc thôi, một việc quá nhỏ trong chuyện thoát Trung, mà cũng bị cấm. Nhân ngày kỷ niệm cuộc đàn áp Thiên An Môn, báo chí cũng muốn đưa một cái tin về sự kiện cách đây 25 năm rồi, ôn lại lịch sử Trung Quốc thôi, cũng phải rút bài xuống. Những việc nhỏ như thế cũng không làm được huống chi là một việc quá to lớn như việc thoát Trung? Tôi đồng ý thế này, thoát Trung là một vấn đề lớn kéo dài và liên quan rất nhiều, còn thoát Cộng chỉ liên quan đến một giai đoạn ngắn hơn, nhưng cái ngắn hơn này lại đang là trở ngại như cái núi Thái sơn nó chặn cái đường thoát Trung, cho nên không thể thoát Trung mà lại không cần thoát Cộng! Tôi mới đọc bài của ông Ngô Nhân Dụng, tôi rất thích là sau khi đã giải thích nhiều ở phần trên rồi ông ấy mới kết luận rằng: vậy thời phải thanh toán chủ nghĩa cộng sản mới thoát Trung được. Tôi rất đồng ý với kết luận rất rõ ràng đó.
TQTThưa tiến sĩ Hà Sĩ Phu, ông đã khẳng định là “muốn thoát Trung trước hết phải thoát Cộng, vậy làm thế nào để thoát được Cộng?
HSP: Hiện nay đây mới là bài toán khó nhất đấy, nói thoát Trung thì rất dễ nhưng nói đến chuyện thoát Cộng thì lại rất rắc rối, ý kiến lại phân tán rất ghê. Trong cuộc hội thảo vừa rồi không phải là không có người nghĩ đến cái điều là muốn thoát Trung thì phải thoát Cộng bởi vì Cộng chính là một cái núi Thái sơn nó chặn đứng quá trình thoát Trung, không thể tiến hành cái gì hết. Nhưng mà nói hết sự thật ấy ra bây giờ là rất khó. Chuyện đấu tranh dân chủ trong nước chính là chuyện thoát Cộng đấy. Đấu tranh để giành lấy độc lập dân tộc, giành chính quyền thì đó là chống ngoại xâm, còn thoát Cộng chính là chống nội xâm. Đây là quan hệ giữa chống nội xâm và chống ngoại xâm.
Trước đây, khi Trung Quốc nó chưa thò cái nanh vuốt quá lộ liễu ra thì vấn đề dân chủ trong nước là rất khó, khộng biết làm thế nào, không biết phất cái lá cờ gì để tiến hành việc dân chủ trong nước được. Vì vừa thò ra cái tư tưởng phê phán Đảng, đòi thanh toán cái độc tài Đảng trị, thì bị đàn áp dễ như không. Thế nhưng bây giờ rất hay, Trung Cộng nó chơi những trò vỗ mặt mình, thế nên nhà nước này cũng không thể im tiếng như trước được nữa cho nên cũng phải đồng thuận với nhân dân lên án Trung Cộng. Thêm một lá cờ chống ngoại xâm thì cái chống nội xâm mới phát triển lên được. Cho nên cái anh Tàu nó lại giúp mình, mặc dù nó chơi đểu thế. Nó làm cho mình cũng dễ đấu tranh cho cái dân chủ. Tóm lại là thế này: quan hệ giữa thoát Cộng và thoát Trung chính là quan hệ giữa chống nội xâm và chống ngoại xâm đấy.
Thế thì làm cái gì trước và sẽ làm như thế nào? Tôi nghĩ hai cái đó nó nhịp nhàng, tức là không thể nói làm cái này xong rồi mới làm cái kia được. Tôi biết nhiều anh em ở hải ngoại cho rằng phải thanh toán xong cộng sản trong nước thì mới tính đến chuyện chống Tàu được, nhưng như vậy thì làm không nổi đâu. Vì thứ nhất không biết bao giờ mới thanh toán được cái nội xâm, nội gián, trong khi chưa chống được cái nội xâm ấy thì ngoại xâm đã tấn công ta rồi , trong nước chưa có dân chủ thì lãnh thổ Tổ quốc đã mất rồi! Thế thì không thể nói cái nào trước cái nào sau được đâu mà hai cái phải đồng thời, nhịp nhàng và  tùy theo tình hình. Nếu Trung Quốc gây hấn thêm nữa, thì ngay cả Trường sa cũng đang bị đe dọa, lúc nào cũng có thể bên miệng hố chiến tranh. Theo ý kiến của anh Ngô Nhân Dụng cũng không cần phải lo âu quá mà cũng đừng có ảo tưởng quá. Nhưng tôi nghĩ cũng phải nhịp nhàng mà tùy theo tình hình, không thể nói dứt khoát phải thoát Cộng trước hay thoát Trung trước, hai việc đó phải làm đồng thời nhịp nhàng và tùy theo tình hình.
TQT: Trong cuộc chống Trung Quốc xâm lược hiện nay nổi lên một nhân vật là ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông có nhiều tuyên bố mạnh mẽ về vấn đề chống Trung Quốc xâm lược. Ông nói tình hữu nghị không thể viển vông, ông còn nhắm vấn đề phải kiện Trung Quốc ra quốc tế. Nhưng cũng có một vị cách mạng lão thành là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh nói không hiểu được lời ấy nói thật hay giả, tiến sĩ Hà Sĩ Phu nghĩ thế nào?
HSP: Cái này cũng không mới gì: Bác Tấn Dũng thì cũng nói nhiều điều hay rồi nhưng mà đúng là nói xong lại chưa làm được cái đó, dù rất có cảm tình với thủ tướng thì cũng không thể bênh vực vì ông ấy nói mà không làm gì cả. Tôi nghĩ thế này, trong tình hình hiện nay cả giới lãnh đạo họ quá kém về mọi mặt, kém về dân chủ đã đành rồi mà còn kém cả vấn đề chống ngoại xâm. Họ rất là nhu nhược, rất là hèn. Thế thì ai nói ra điều gì tốt một tý ta vẫn phải túm lấy những câu đó để ta động viên đã. Tất nhiên phải phân biệt lời nói với con người. Lời nói đó hay thì ta cũng ghi nhận, động viên, rồi ta yêu cầu là nói rồi thì phải làm. Thái độ hơi cực đoan là xổ toẹt, tức là bất cứ câu nói nào hay dở cũng xổ toẹt hết. Đã đành xổ toẹt cũng có cơ sở bởi ông này nói hay nhiều quá nhưng chẳng làm gì. Có khi ông cũng nhằm giành ghế trong Đại hội Đảng sắp tới thôi. Thế nhưng cũng cứ động viên để gợi mở một khả năng khác, có khi vì đang bị cả một cái hệ thống o ép nên ông ấy cũng bó tay chưa làm được? Dù sao nói ra một lời tốt cũng hơn là hèn mạt hoặc im lặng không nói gì hết. Thế nhưng mình cũng không thể nhẹ dạ để bị lừa hết cái nọ đến cái kia. Cho nên phải nói như cụ Vĩnh (Nguyễn Trọng Vĩnh), nói thẳng cũng rất cần thiết. Cụ phê bình ông Nguyễn Tấn Dũng nói dối, phê bình luôn cả ông Phùng Quang Thanh với tư cách một ông tướng cha dạy một ông tướng con, tôi thấy những thái độ như thế là đều có ích cả.  
TQTThủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì bảo là kiên quyết chống, Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Thế nhưng đại tướng Phùng Quang Thanh thì bảo cái việc giàn khoan chỉ là việc nhỏ thôi chứ tình hữu nghị Trung Quốc – Việt Nam vẫn rất là đẹp đẽ. Vẫn là 16 chữ vàng, Vậy có phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược không?
HSP: Thì đúng quá,ở cái hội nghị Shangrila rất lạ là thủ tướng thì coi như là quan văn nhưng vẫn nói mạnh, thế còn quan võ thì rất kém phải nói là cái câu của ông Phùng Quang Thanh kém, kém nhất! Thứ nhất là muốn xem có kiện hay không lại phải chờ xem thái độ của họ thế nào đã, thứ hai là vẫn còn ôm cái 16 chữ vàng là cái mà cả thiên hạ họ chửi hết cỡ rồi , nên thái độ ông Phùng Quang Thanh này là không chấp nhận được.
Tôi xin mở ngoặc nói thêm thế này, anh có đọc bài của ông Phạm Đình Trọng, là người đồng đội với ông Phùng Quang Thanh trước đây? Trong một trận đánh ông Phạm Đình Trọng mô tả Phùng Quang Thanh cũng là một chiến sỹ dũng cảm cho nên mới được lên chức, tức là người cũng yêu nước và dũng cảm, vốn không phải là người hèn, tôi thấy chuyện ấy rất hay. Cái hèn, cái tồi tệ của một người vốn hèn vốn tồi tệ thì thực ra không có gì đáng quan tâm. Nhưng cái hèn, cái tồi tệ của người trước đây vốn không hèn không tồi tệ mới nói lên rằng cái hèn cái tồi tệ này không phải là của cá nhân nữa mà của cả một hệ thống , đã nằm ở trong cơ chế đó thì cũng phải tồi tệ thôi. Cái tồi tệ của cơ chế đã đến mức độ làm cho những người vốn tử tế cũng không tử tế được nữa, trước đây không hèn giờ cũng không thể không hèn, chứng tỏ cái hèn mạt tồi tệ không còn là của cá nhân nữa mà nó là của cái hệ thống. Tướng Phùng Quang Thanh nếu không phải nằm trong cái hệ thống này, cái Bộ Chính trị này, chắc ông ấy cũng không đến nỗi hèn như thế.
TQTTiến sĩ Hà Sĩ Phu vừa nói vấn đề cải cách cơ chế thì thông điệp đầu năm 2014 của ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rất mạnh vấn đề cải cách cơ chế nhưng mà gần 6 tháng của năm 2014 đã trôi qua tiến sĩ thấy vấn đề cải cách cơ chế như thế nào?
HSP: Nghe cái vấn đề cải cách cơ chế của ổng thì cũng nhiều người bàn đấy. Có phải là cải cách cái “thể chế chính trị” không hay là cải cách thể chế một cách chung chung? Mà cải cách thể chế chính trị thật tức là phải cải cách hệ thống, là hệ thống Cộng Sản, hệ thống Mác Lê nin! Cải cách hệ thống thật sự thì phải bỏ cái chủ nghĩa Mác Lê nin, bỏ được CS thì thành một nước dân chủ văn minh như các nước bình thường! Nhưng tôi nghĩ nói như thế thì ông Nguyễn Tấn Dũng cũng chưa thể làm được, không thể làm được, vì muốn làm được thì dũng khí cá nhân rồi phải có tổ chức, mà bao quanh thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện nay chả có một lực lượng nào có thể tin cậy được, hoặc cùng là một cánh tham nhũng, cũng phi dân chủ đàn áp biểu tình. Còn có một cánh không nhỏ Đảng viên có tiến bộ, người ta gọi là cánh “cải lương”, cũng hy vọng vào ông ấy, nay cũng mất lòng tín với ông Dũng rồi nên không có lực lượng nào đáng tin cậy đứng đằng sau thủ tướng cả, vậy thì cá nhân thủ tướng dẫu có những thiện ý cũng không có cái bối cảnh để mà triển khai.
Nhưng quan trọng nhất là bên cạnh vẫn có một thằng Tàu rất to, ta công nhận là Tàu hiện nay cũng không phải là mạnh đâu, nó cũng đang có rất nhiều khó khăn nội bộ, nhưng sức mạnh của nó vẫn đủ để kiềm chế VN, bởi VN hiện nay đang nằm trong tay nó rồi mọi thứ nằm trong ống tay áo của nó rồi! Dù đồng ý rằng TRUNG QUỐC không hề mạnh như chúng ta tưởng nhưng trong tình trạng yếu nó vẫn đủ sức kiềm chế VN! Ví dụ ông Dũng đòi cải cách thể chế mà bỏ cái CNCS này đi để khỏi có tình trạng hai đảng làm việc với nhau để quyết định số phận đất nước thì Tàu nó sẽ hủy ngay cái “chỗ” (nhân vật) đó. Nếu ông Dũng muốn thành Pu tin, bỏ cái Trung Cộng đi mà đi với nhân dân thì mới có một Pu tin thật, mới thoát Trung hoàn toàn, nhưng ở VN trong những điều kiện cụ thể hiện nay thì làm sao làm được như vậy? Thế nên những câu “cải cách thể chế” của ông Dũng cũng không ra ngoài cái quy luật chung (của ông) là chỉ nói thế chứ không làm được.
TQTNhư vậy thủ tướng có thể thoát Trung được không để nhân dân đứng sau thủ tướng thưa tiến sĩ?
HSP: thì tôi vừa nói rồi, nếu quả thật thủ tướng mà muốn thoát Trung thật, không có ôm ấp một cái hữu nghị viển vông, nhân dân sẽ đứng sau ông ngay. Nhưng mà ông cũng chỉ nói thế chứ làm thì không làm, ví dụ ông nói là chống Tàu thì tại sao những người biểu tình yêu nước thôi ông lại bắt, ông lại không cho biểu tình diễu hành? Hiện ông là thủ tướng ông điều khiển chứ ai nữa, dù tổng bí thư thì đang nắm bí thư tổng quân ủy, thì thôi ông Dũng chưa tác động được vào mạng quân đội, nhưng ông vẫn đang điều hành chính phủ…, nhưng vừa nói xong thì ông làm ngược lại, thế thì có ai tin nữa? Mặc dù chúng ta rất là rộng lòng, sẵn sàng chờ đón những thay đổi nên ai nói lời nói tốt thì ta cũng muốn động viên ngay, thế nhưng một lần bất tín vạn sự bất tin, bất quá tam thì đâu có tin được? Đến cụ Vĩnh cũng là người rất rộng lòng nhưng cũng không thể tin nổi.
TQTXin chân thành cảm ơn tiến sỹ Hà Sĩ Phu đã có những ý kiến rất thẳng thắn và quan tâm đến tình hình đất nước.

Có thể bạn chưa biết: Việt Tân ! Chiếc bóng dài 30 năm

( Bài viết này được viết lại sau khi có những stt trao đổi trong một nhóm kín về hoạt động công tác Nhân quyền , liên quan đến tổ chức chính trị Việt tân . Xét thấy cần cho sự tìm hiểu của nhiều anh chị em đang hoạt động cho nhân quyền trong và ngoài nước , tôi hiệu chỉnh lại từ các bình luận của tôi và chuyển lên trang fB công khai . Vừa là một sự chia sẻ thông tin , vừa là để tránh những ngộ nhận rằng tôi lôi kéo một số anh chị em vào group riêng để … đánh phá VT ! VT là một tổ chức chính trị có tham vọng giải phóng /chuyển đổi đất nước . Trong vị trí ấy , đương nhiên phải chịu những sự nghị luận của công chúng .Gọi sự nghị luận ấy là hành vi đánh phá , ít nhiều , đã là việc tự hạ thấp đi nhân cách chính mình . )
 photo vvtt1_zps9a88d5ce.jpg
Thêm chú thích
Tổng quan .
Việt Tân ! Anh là ai ?
Việt Tân là một tổ chức chính trị lớn tại hải ngoai, nhiều nhân sự và nhiều tài lực do truyền thừa vốn liếng của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam giai đoạn 1982/1986 . Thành lập tại căn cứ UBON , một tỉnh biên giới giữa Thái lan và Cam Bốt năm 1982 . Danh xưng đảng Việt Tân từ 12/1982 chỉ lưu hành trong các căn cứ phục quốc ở biên giới Thái , mãi 1984 mới ra hải ngoai (Pháp) qua một nhân lực tình nguyện xâm nhập nội địa để khai mở con đường kết nối hải ngoại quốc nội . Nhân lực đặc biệt ấy là thuyền nhân đến Pháp từ trại tỵ nạn Palawan Phi luật tân mang bí danh Cao Văn , ông phải lộn trở lại Pháp vì bản thân là thương phế binh sĩ quan VNCH , chiếc chân gỗ của ông đã không được đón nhận tại rừng núi Ubon . Ông đã có mặt tại vùng núi rừng chiến khu ấy cùng vơí đoàn người đặc biệt được dẫn đầu bởi cụ Phạm Ngọc Lũy , chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến . Trở lại Pháp , ông chịu trách nhiệm một ủy ban đặc biệt bí mật của tổ chức , Ủy Ban Ðông Tiến âu châu .
Danh xưng đảng Việt tân đến 1992 mới tràn lan hải ngoai sau khi đồng hóa toàn bộ tất cả các đoàn viên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam thành đảng viên Việt tân không qua nghi thức tuyên thệ lại .
Năm1984 tháng 10 xảy ra những xung đột trầm trọng ở thượng tầng lãnh đạo . Nguyên do xung đột đến từ nguyên nhân tài chánh là chủ yếu . Ðồng bào hải ngoại giai đoạn 1982/1984 góp qũy đông đảo . Các chiến dịch Yểm Trợ Kháng Chiến lan cực nhanh tại Tây âu và Mỹ Úc . Người chủ xướng Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến là ông Phạm Ngọc Lũy , thuyền trưởng tàu Trường Xuân .Con Tàu ông điều khiển thoát khỏi Việt nam ở những giờ phút cực kỳ sóng gió tháng Tư 1975 .Nhiều ngàn người chen chúc trên con tàu định mệnh ấy ,sáu năm sau trở thành những nhân tố đầu tiên để xây dựng nên cơ cấu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến loang khắp các quốc gia có người Việt sinh sống ,do đích thân chính cụ Phạm Ngọc Lũy chống gậy đi vận động . Các Ủy ban yểm trợ mọc lên như nấm . Việc này nằm ngoài cả trù liệu của ông Hoàng Cơ Minh và ban tham mưu . Chúng ta nhận rõ được sự lúng túng choáng ngợp của lãnh đạp Việt Tân lúc bấy giờ qua buổi đón tiếp ông Minh về Hoa Kỳ từ Thái /Nhật tháng 4 năm 1983 . Sự tiếp đón diễn ra như một thứ Hội Nghị Diên Hồng hải ngoại với hội trường đặc nghẹt từ trong ra ngoài khoảng 14 ngàn người về từ khắp các quốc gia , với tiếng cười tiếng khóc , với hân hoan và khát vọng cùng tâm thức hiến dâng . Ông Minh đã mất bình tĩnh trong không khí này và đã buột miệng trong một phát ngôn ở phần diễn văn (do ông Nguyễn xuân Nghĩa viết , nhưng ông Minh đã chỉ đọc chừng 60% , những phần trăm còn lại là phát ngôn tự do ) rằng lực lượng xâm nhập của Mặt Trận /VT đã VÀO ÐƯỢC ÐẤT MẸ VÀ BẮT TAY THỐNG HỢP ÐƯỢC 36 TỔ CHỨC TRONG NƯỚC VỚI HƠN 10 .000 TAY SÚNG . Ðây là câu phát ngôn đã đánh sập sự vững chãi của MTQGTNGPVN hai năm sau đó .
Ðồng bào nô nức góp tài lực qua các chiến dịch "Ký gạo cho Kháng Chiến Quân " (âu châu , do Tổng Hội Sinh Viên Việt nam phát ý qua sự điều hợp của các ông Nguyễn Ngọc Giáp , Nguyễn Ngọc Danh , Nguyễn Ngọc Vũ , BsNguyễn Ngọc Hoàng ( cựu thiếu tướng VNCH), Nguyễn ngọc Bảo ... trong vai trò Ủy Ban Ðiều Hợp Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến âu châu. Việt tân có tầm hoạt động lớn ở âu châu lúc bấy giờ là do lực hỗ trợ ban đầu của Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris, dùng tờ Nhân bản làm tờ báo hỗ trợ . Nhưng tới sau 1984 thì tổ chức Tổng Hội phân làm hai , phần đông là chống lại Việt tân kịch liệt vì đã nhìn thấy những sự bất tường bất minh của Việt tân , đặc biệt là sau khi vụ án ông Trần văn Bá tháng 12. 1984 xảy ra tại Việt nam (anh Trần văn Bá , lãnh đạo Tổng Hội Sinh Viên Paris 1975/1980 cùng ông Hồ Thái Bạch và ông Lê quốc Quân bị xử tử hình ngày 6 tháng 1. 1985 tại sân bắn Thủ Ðức).
Ở Mỹ ,các tổ chức yểm trợ hình thành khắp mọi nơi . Những tiệm phở Hòa ban đầu (dựng lên do tiền mượn học đại học của đông đảo đoàn viên là sinh viên ) được chiếu cố tận tình . Người ta sẵn sàng đứng hàng giờ chờ ăn Phở . Nhiều hàng Phở khách vào tận bếp mang phở ra bàn ăn rồi tự trả tiền , bao giờ cũng hơn số tiền bát phở đã ăn . Phong trào như hoa nở thơm ngan ngát ! Lòng ai cũng hừng hực nghĩ về lực lượng phục quốc . Các chiến dịch "Lon Kháng Chiến" được đặt hầu như khắp mọi nhà . Không khí đưa đẩy hầu như ai ai cũng đặt "lon kháng chiến " tại gia đình và tại các cửa tiệm , vừa là để chứng minh tấm lòng với đất nước , vừa là để tránh lập dị . Các chi bộ Mặt Trận và Phong Trào Yểm Trợ phát triển rộng khắp , áo nâu như một thứ mode của người Việt ở Mỹ . Những tờ báo nào chống lại Việt tân đều dẫn đến bị đốt hoặc thảm tử ( Ký giả độc lập Ðạm Phong hoặc như ký giả Lê Triết của tờ Tiền Phong phải lom khom đi mò giun trong lúc tuổi còn đầy sung mãn và kiêu mạn...) . Ðoàn viên Mặt Trận lý luận và tổ chức yếu nhưng rất đông đảo , dẫn đến sự tan rã ngay tức khắc , khi xảy ra lủng củng ở thượng tầng giai đoạn cuối 1984.
Diễn biến chi tiết .
Đảng Việt Tân thành lập khoảng tháng 12 năm 1982 nhưng người đứng đầu hải ngoai của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất không nắm vững chi tiết hoạt động ! Các hoạt động kháng chiến được loan báo trên tờ báo Kháng Chiến ở hải ngoại hầu hết chỉ là thông báo cho Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai là ông Phạm Văn Liễu/ Trần Trung Sơn biết khi đã đăng tin trên mặt báo. Mọi chi tiết mật về chi thu tài chánh , xây dựng lực lượng khu chiến… đều nằm trong vòng quản lý bảo mật của ông Hoàng cơ Minh và ông Hoàng Cơ Định , em ruột ông Minh . Người đứng đầu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến là cụ Phạm Ngọc Lũy cũng không biết được những chi thu của qũy ,vì các qũy ngay từ khi hình thành đã được khuyến khích làm việc trực tiếp với Vụ Tài Chánh của tổ chức Mặt Trận /Việt Tân do ông Phan vụ Quang (một bí danh của ông Hoàng Cơ Định ) điều hành. Yếu tố xây dựng cơ cấu nhân sự ban đầu dựa trên lòng tin đã dần bị nhìn nhận là đang có sự đánh tráo ! Vực thẳm tan vỡ xuất hiện .
Cơ cấu ban đầu .
Năm 1980/81 , màu đỏ cộng sản loang mạnh mẽ ở Cam Bốt , đe doạ cả những đồng minh chiến lược của Mỹ . Ngân sách phòng chống làn sóng đỏ của khối phòng thủ Asian tăng vọt . Làn sóng vượt biên gây khiếp hãi cho toàn bộ các quốc gia đông nam á . Mỹ quyết định phải tìm biện pháp ngăn chặn bằng các giải pháp vũ lực .Các đơn vị quân đội «gọi lạ tinh nhuệ» của Thái lan được bổ xung dọc biên giới Việt Miên Lào . Những tổ chưc kháng cộng của người Việt đươc âm thầm giúp đỡ qua trung gian Thái và Nhật . Những toán đi tắt vào thẳng Thái đều bị tan vỡ hoặc dậm chân tại chỗ (Lực lượng Ông Võ đại Tôn , lực lượng ông Thái Quang Trung…) lý do vì hầu hết các tướng lãnh Thái hoặc những nhân lực trung gian nói tiếng Thái Việt … đều nhận ân sủng lớn của an ninh cộng sản VN .
Năm 1981 đảng cầm quyền Nhật nhúng tay vào cuộc . Giáo sư Tonoka , đảng Tự do Nhật nhận nhiệm vụ thuyết phục và xây dựng một tổ chức chống cộng chuyên nghiệp người Việt tại biên giới Thái nhằm mục đích xâm nhập VN . Lực lượng sinh viên VN ở Nhật đươc tiếp xúc qua những nhân lực có liên hệ với phong trào Đông Du / Cường Đễ còn sót lại từ 1930 . Tập hợp đầu tiên do ông Đỗ Thông Minh lãnh đạo , phụ tá đắc lực là Hoàng Nhật /Ngô Chí Dũng với những tình nguyện viên quyết tử như Lâm Bích Sơn , Lâm Thao , Phùng tấn Hiệp , Nguyễn Hải Quốc Phục ,Trương Bổn Tài , Huỳnh Lương Thiện , Đẩu , Hưng … Khoảng 20 người tình nguyện rời Nhật để tìm đất lập chiến khu trên đất Thái . Truyền thống làm việc của tướng lĩnh quân đội Thái là chỉ nói chuyện với tướng ( hoặc cựu tướng) quân đội , từ chối nói chuyện với người đại diện nhóm lúc bấy giờ là cựu trung tá hải quân VNCH Trần văn Sơn/ Trần Bình Nam (bút danh cho tới hiện nay , cựu lãnh dạo tổ chức Phục Hưng , cựu dân biểu VNCH) . Việc tìm mướn đất nơi các tỉnh biên giới bế tắc . Giáo sư Tonoka cùng ông Đỗ Thông Minh (đại diện Tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật ) cùng sang Mỹ và Âu châu để tìm nhân lực cấp tướng của VNCH về Thái lập căn cứ phục quốc. Tại âu châu , ông Lâm Bích Sơn và đại diện nhóm vận động có gặp Tổng hội Sinh Viên Paris (thời anh Thanh , tác giả ca khúc Bên kia Sông Đuống ) làm chủ tịch . Ở Mỹ, nhóm vận động nhắm vào tổ chức Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoai Phục Quốc (đồng phục áo nâu quần vàng kaki , là đồng phục truyền thống của MT/VT cho tơí 2000 , mất hẳn sau khi cuộc tình duyên lỡ làng giữa Tổng vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoai Trần Xuân Ninh với Vụ trưởng Vụ Tổ chức Hoàng Cơ Định xảy ra 2004).
Lực lượng Quân Dân Hải Ngoại sau cuộc vận động của giáo sư Tonoka đã chia ra làm hai . Thủ lĩnh là tướng Nguyễn Chánh Thi không hợp tác . Người được mời thứ hai là tướng Ngô quang Trưởng và người thứ ba là tướng ….Nguyễn Cao Kỳ . Cả ba đều không hưởng ứng . Chuẩn tướng (phó đề đốc ) Hoàng cơ Minh đã tình nguyện , có sự đồng tình sát cánh của Trung Tá Lê Hồng (Nhảy Dù , chỉ huy tiểu đoàn 5 ) và sự hỗ trợ đắc lực của cựu đại tá Biệt Đông Quân / Cảnh sát Quốc Gia Phạm văn Liễu , cựu đại tá Học viện Cảnh sát Quốc Gia Trần Minh Công cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân Phạm Ngọc Lũy .Nhân sự ban đầu được công nhiên xác định :
A : Hoàng Cơ Minh đặc trách thành lập Chiến Khu tại Thái lan, tức tiền phương , mục đích xâm nhập móc nối vơí các nhóm kháng cự trong nội địa Việt nam .
B : Phạm Văn Liễu đặc trách địa bàn hải ngoại , trách vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai . Nhiệm vụ xây dựng đoàn viên cán bộ khắp các quốc gia có ngươì Việt nam sinh sống để hỗ trợ trực tiếp các công tác xâm nhập của bộ phận chiến khu , vận dụng mọi quan hệ nơi các nước sở tại để hình thành mặt trận quốc tế vận , cô lập cộng sản VN về mặt ngoai giao , đồng thời vận dụng sự đồng lòng của các chính đảng có khuynh hướng chống cộng trên thế giới vào mục tiêu lật đổ chế đổ chế độ cộng sản tại VN bằng TẤT CẢ MỌI HÌNH THỨC .
C : Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đặc trách Vận động Yểm Trợ Tiếp vận .
( Các Ông Cao thế Dung , Trần Minh Công giữ vai trò cố vấn và Phát ngôn ).
Cuối năm 1981 ông Hoàng Cơ Minh , ông Lê Hồng (Trung tá Nhảy Dù ) , ông Nguyễn Kim Hườn (Không quân thiếu tá ) , ông Nguyễn văn Lộc , ông Trần Thiện Khải (Trung úy Hải quân ), ông Trương Ngọc Ny (Ðại úy Nhảy Dù ) , ông Huỳnh Trọng ( Hải quân,Thụy sĩ )… đáp máy bay sang Tokyo khởi đầu chuyến di hành bất định về cố hương đầy lãng mạn và không ít sự …liêu trai . Với tôi ,đây là những người hùng , không thua kém gì ông Võ đại Tôn . Những con người kiệt hiệt này nay không còn ai ngoài một Nguyễn văn Lộc ẩn cư đâu đó và nghe đâu ông Huỳnh Trọng đã nhắm mắt với rất nhiều buồn phiền ở Thuy Sĩ , sau chuyến trở ra hải ngoai 1983 và ở luôn lại Thụy Sĩ làm người mai danh ẩn tích !
Tình hình ban đầu như vậy là quá đẹp. Khối tình ấy sẽ đẹp hơn nhiều nếu như không có sự xuất hiện đăc biệt của ông Hoàng cơ Định , một chuyên gia thương mại tốt nghiệp tại Pháp , mà như ông Trần đức Tường , Xứ bộ trưởng Pháp quyền lãnh đạo Âu châu , tháng 12/ 1984 từng nói trước mặt chúng tôi : « Là cái yết hầu ung thư trên cơ thể tổ chức » !

Chia lìa lần thứ nhất .
Ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam) đại diện tổ chức Phục Hưng đã lặng lẽ rời khỏi mô hình tập hợp ban đầu dưới tên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN gồm :
Tổ chức Người Việt Tự Do (Nhật ).
Tổ chức Phục Hưng ( Hoa Kỳ ).
Tổ chức Dân Quân Việt Nam Hải Ngoai (Hoa Kỳ ,một phần ) .
Năm 1982 ,tại Thái Lan , sau khi Mặt Trận mướn được khu rừng UBON làm căn cứ , ông Trần văn Sơn có cảm giác bị loại ra khỏi nhóm đầu lãnh MTQGTNGPVN , mặc dù ông là người sát cánh với anh em Tổ chức Người Việt tại Nhật ngay từ những nỗ lực đầu tiên . Sự nhẫn nhịn của ông đã vượt giới hạn và tổ chức do ông lãnh đạo chọn thái độ rời tập hơp , không lên tiếng thanh minh thanh nga bất kỳ một lời nào vơí công luận . Với tôi , đây là thái độ đáng kính phục . Mãi đến khi sự lộn xộn của tổ chức Việt Tân đã gây hỗn loạn môi trường hải ngoai giai đoạn 1992, tổ chức Phục Hưng mới lên tiếng xác nhận đã rời mô hình Mặt Trận / Việt Tân từ 1982 .
Tiền bạc ban đầu để chi phí cho chiến khu đến từ một nguồn qũy có tên là qũy MIA . Chính phủ Mỹ có yêu cầu phải tìm kiếm những người Mỹ mất tích (còn sống hay đã chết tại Ðông nam á) qũy này chi cho Việt Tân những ngân khoản chủ yếu ban đầu . Mặt khác , đảng Tự do của Nhật cũng giúp nhiều phần . Phần còn lại là sự đóng góp của đồng bào và đoàn viên (lúc bấy giờ ,trước 4/1982 nguồn kinh phí này chưa dồi dào) .
Một số người Mỹ đã cố vấn để Việt Tân làm cuốn băng video “đường về khu chiến” . Cuốn phim của đài SBS thực hiện có sự vỗ tay phụ họa kèm theo của loạt bài nhiều kỳ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong do ký giả Hoàng Xuyên (Hoàng xuân Yến) thực hiện. Sau này (khoảng 2000) Ông Yến có một bài trả lời phòng vấn tố cáo MT/VT nặng nề . Với tôi , những tình tiết ông nêu ra trong bài phỏng vấn ,sau khi đối chiếu kiểm chứng với những tiết lộ của những ngươì sống sót trong đoàn quân phục quốc lúc bấy giờ ,tôi nhận thấy là bản thân ông Yến không biết được nhiều ,nên những chi tiết nhận định nhiều phần là đã chỉ là do luận đoán . Thứ hai , thơì điểm cần ông lên tiếng đã trôi qua rất lâu … nên sự lên tiếng của ông Yến , chỉ còn có một nửa giá trị về những tình tiết lúc diễn ra hoạt cảnh làm cuộn phim .Giá trị nhân cách của nhân chứng gần như không còn hiện hữu .
Cuốn phim ấy có nhiều tình tiết không thực, lực lượng có mặt trong cuốn phim 1/3 là lực lượng người Lào kháng chiến H’Mong của tướng HMong Vàng Pao. Phim làm tại rừng Ubon nhưng được thổi khống là nội địa Việt nam . Ðây là đoạn phim ghi hình Lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt nam, thời gian ghi hình là cuối năm 1982.
Cuốn phim với sự trình chiếu của SBS Hoa Kỳ đã được nhân bản rất nhiều và ghép với video Ðại Hội Ðồng tâm 30/4 /1983 tại Nam Cali qui hội trên 10 ngàn người đón ộng Minh về từ chiến khu … làm thành tài liệu tuyên vận gây thành hiệu ứng náo nức mong muốn yểm trợ của hầu hết đồng bào thuyền nhân tỵ nạn cộng sản đang ở những năm đầu lưu vong . Hiện nay , VT hầu như không muốn nhắc về cuộn phim ấy nữa , nếu không muốn nói là phủ nhận để cố gắng chứng minh lòng chân thành của mình về chủ trương “ Tuyệt đối tiến hành đấu tranh bất bạo động để … chuyển hóa đất nước “ .
Tan tác 2 .
Suốt từ những tháng 7 đến tháng 11/ 1984 là sự sóng gió bão bùng cho tổ chức Mặt Trận VT.
Ông Phạm Văn Liễu quyền Tổng vụ Trưởng Tổng vụ hải ngoai yêu cầu phải minh bạch về thu chi của Mặt Trận/Việt tân, đây là yêu cầu hợp lý vì ông là ngươì trực tiếp chịu trách nhiệm với đồng bào hải ngoại về những khoản tiền đóng góp to lớn mà đồng bào đã nhiệt thành yểm trợ , nhưng ông Hoàng Cơ Định , vụ tài chánh không đáp ứng !
Ông Trần Minh Công (đại tá VNCH) Phát ngôn nhân MT/VT tuyên bố nếu không minh bạch , tổ chức có nguy cơ chia hai .
Ông Hoàng cơ Minh thành lập ra cơ cấu Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc . Một Hội Đồng gây bất ngờ hoàn toàn cho cánh ông Liễu . Hội đồng ấy ông Minh là chủ tịch và phong ông Lê Hồng thành Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội ( thực chất là quốc nội … chưa hề có ). Như vậy , hợp đồng nhân sự ban đầu đã bị vỡ . Ông Phạm văn Liễu ,ông Phạm Ngọc Lũy đương nhiên … “sụt hạng quyền bính” , xuống đứng ngang hàng với ông Lê Hồng, sẽ bắt buộc phải ngước lên để nhìn ông Minh những khi muốn nói chuyện !
Bác sĩ Nguyễn Chương là người duy nhất được ra vào chiến khu từ Hoa Kỳ , làm con thoi để hòa giải . Yêu cầu của cánh ông Phạm văn Liễu là những yêu cầu xét ra rất hợp lý , vì dù không nắm chi tiết chuyện tiền bạc , nhưng các Uỷ ban Yểm Trợ trên toàn thế giới báo sơ lược cũng đủ thấy là sức yểm trợ tài chánh khó tưởng tượng nổi . Đồng tiền ấy thay vì trực tiếp lo mục tiêu xâm nhập thì lại phát triển thành rất nhiều các tiệm ăn mang tên chuỗi kinh doanh Phở Hòa , các gara và thậm chí cả bất động sản .( Những vụ án của Mặt trận VT với các ông Cao Thế Dung và Nguyễn xuân Nghĩa giai đoạn 1985 đã là những tư liệu vững chắc để xác định sự lường định về lượng tiền qũy của cánh ông Cao Thế Dung , Phạm văn Liễu , Phạm Ngọc Lũy là hoàn toàn có cơ sở . Số tiền công khai công bố tại tòa đã trên 20 triệu , trong khi tiền nhập qũy đến 70% là tiền qũy đen không qua qui trình khai báo sở thuế …)
Ông Minh nhất định giữ em mình ở vai trò điều phối tiền bạc và đồng ý sự im lặng bất hợp tác vơí Tổng Vụ Tưởng Phạm Văn Liễu của ông Hoàng cơ Định . Tháng 12/1984 mọi sự hòa giải đều thất bại , ông Minh từ Nhật về Mỹ , công bố quyết định cách chức ông Phạm văn Liễu , đưa ông cựu thiếu tá phi công Nguyễn Kim Hườn từ khu chiến Ubon về Mỹ nhận vai trò Tổng vụ Trưởng dưới sự dìu dắt của ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa (chuyên gia kinh tế xuất thân từ Tổng Hội Sinh Viên Paris , từng bỏ Pháp về nước giúp cho Bộ Kinh Tế VNCH dưới quyền ông Nguyễn văn Hảo).Tổ chức MT/VT tan rã lần hai , kéo theo 2/3 nhân lực lặn vào im lặng trường kỳ.
Nhiều nước mắt của các đoàn viên đã ngỡ ngàng lăn trên các đôi gò má nhăn nheo , chưa phai màu nắng gió biển mặn . Tôi là một trong những người ấy .
Thay vì tan hàng , tôi cố gắng bám lực lượng chiến khu và tình nguyện xâm nhập VN mở đường liên lạc nội địa . Quan điểm của tôi lúc bấy giờ là anh em đang chiến đấu luôn là ưu tiên quan trọng nhất . Phải tập trung hết lực cho các anh ấy .
Tôi đã sai lầm , trở thành một nhân tố đắc lực tiếp diễn tấn tuồng lường gạt của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất /VT .
Sang ngang 3.
Bắt đầu giai đoạn tháng 1 năm 1985 , sự xuất hiện của ông Ðồng Sơn /Nguyễn xuân Nghĩa (Vụ Trưởng Vụ Tuyên vận , nay là bình luận gia về Kinh tế trên Ngươì Viêt TV) trở thành thường xuyên trên khắp các cuộc vận động của Mặt Trận /Việt Tân ở hải ngoại. Ở Mỹ cơ sở MT/VT gần như tê liệt , tờ báo Kháng Chiến ông Huỳnh Lương Thiện không còn giữ nhiệm vụ chủ biên . Các anh chị em thuộc tổ chức Người Việt Tự Do rời bỏ Việt Tân hầu hết . Ông Ðỗ thông Minh giữ im lặng gần như hoàn toàn . Ông Huỳnh Lương Thiện đi lập trang báo độc lập khác . Nhân vậy tương đối đình đám của tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật còn sót lại là ông Bùi Minh Ðoàn/Lý Thái Hùng ,gắn bó mật thiết với ông Phan Vụ Quang/Hoàng Cơ Ðịnh (fB Dinh Hoang ) trong mô hình bếp kiềng hai chân . Ông Phạm văn Liễu và Trần Minh Công thành lập tổ chức mới . Ông Cao Thế Dung bắt tay vơí các ông Nguyễn hữu Chánh , Nguyễn văn Chức ở biên thùy đông dương . Ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa và ông Trần xuân Ninh tập trung ổn cố tối đa địa bàn Âu châu qua vị trí chiến lược là cơ sở Pháp . Cơ sở Pháp là đầu tầu của Âu châu đã diễn ra một phiên bầu phiếu “bất tín nhiệm Hoàng Cơ Minh hay không ! ” vào đầu năm 1985 . Số phiếu được bầu gồm các trưởng cơ sở cấp Xứ , (Hàlan , Ðan mạch , Nauy ,Bỉ , Pháp , Ý . ) Nếu chỉ dựa trên số phiếu của các cấp trưởng của các Xứ , thì đương nhiên ông Minh bị loại vì Hà lan là cơ sở cực thân với cụ Phạm Ngọc Lũy, cơ sở Ý đại Lợi luôn sát cánh với ông Phạm văn Liễu. Cơ sở Nauy trưởng cơ sở có quan hệ thân thiết với ông Phạm văn Liễu từ Philuật tân lúc mới chân ướt chân ráo từ thuyền lên bờ làm người thuyền nhân bạt xứ .Cơ sở Pháp ông Trần đức Tường nắm , là người rất khéo câu thời vận, gió chiều nào ngả chiều nấy . Ông Nguyễn Kim và ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã đưa đẩy đến kết luận là thành viên ban chấp hành cấp Khu (tức trách nhiệm ban chấp hành MT/VT Âu châu ) cũng có quyền bỏ phiếu ! Thế tương quan thành nghiêng ngửa vì lớp trí thức đều có quan hệ từ thời sinh viên với ông Nguyễn Xuân Nghĩa như ông Lê Triệu Ðào , Nguyễn Ngọc Danh , Nguyễn Ngọc Bảo … vốn đang giữ một số trọng trách của Ban chấp Hành Khu Bộ âu châu sẽ đương nhiên đi theo tinh thần ông Nguyễn xuân Nghĩa, nghĩa là ủng hộ ông Hoàng cơ Minh , loại trừ ông Phạm văn Liễu . Phiên bầu trở thành nảy lửa dẫn đến suýt ẩu đả nhau trong phòng bầu. Phòng bầu phiếu văng tục lan ra cả bên ngoài cơ sở bí mật của tổ chức trụ đóng ở Antony, ngoai ô nam Paris . Kết quả là chỉ chênh nhau một phiếu . Ông Hoàng cơ Minh không bị “bất tín nhiêm” như đại đa phần các khu , xứ bộ tại Hoa Kỳ ! Cơ sở Âu châu sau đó lập tức có sự tách rời của Xứ bộ Ý đại Lợi . Xứ bộ Ý đại Lợi đem hết quan hệ ngoại vận của mình xây dựng cho Lực Lượng Biên Thùy Ðông Dương qua trung gian ông cao Thế Dung và sau này là Nguyễn hữu Chánh . Xứ bộ Hàlan đóng băng , duy nhất còn hai đoàn viên là Ðinh Hiền và Ðặng Thành. Xứ bộ Ðức cũng chia hai . Phong trào Yểm trợ Kháng chiến toàn âu châu khựng lại như cỗ xe lửa vỡ buồng than . Bắt đầu kéo theo sự lao dốc , phá sản niềm tin của cộng đồng người Việt hải ngoai . Không còn bất kỳ Tổ Tiếp Vận hay Ủy Ban Yểm Trợ nào còn hoạt động !
Từ đây , Mặt Trận / Việt Tân chỉ còn là chống chỏi để tự sinh tồn. Mục tiêu đấu tranh giải phóng được coi như vô phương hiện hữu , có chăng , chỉ là tự đánh lừa nhau , cố giữ cho nhau khỏi qụy ngã.
Trong hoàn cản rối bời ấy , mới thấy tài cán của Nguyễn Xuân Nghĩa . Ông có cái đầu cực giỏi và một ý chí rất lỳ đòn . Trước bao nhiêu thách thức , ông đã vực dậy các cơ sở từ Âu châu bật ngược lại Mỹ . Ròng rã suốt bốn năm , ông đã định hình lại tổ chức Việt Tân đứng vững lại sau cơn phong ba bão táp , dù rằng , số đoàn viên đã mất đến hai phần ba trên toàn thế giới.
Nhưng đúng như ông Trần đức Tường đã nói : “Hoàng cơ Ðịnh là một cái yết hầu ung thư của cơ thể tổ chức”. Dù bản thân ông Trần đức Tường đã quay mặt với “kẻ nâng đỡ “ mình là ông Phạm Văn Liễu, nhận những ân sủng của ông Hoàng cơ Ðịnh để giữ được vai trò lãnh đạo Âu châu , Ủy viên Trung Ương đảng với đồng lương yên ấm ,câu nói ở “buổi giao thơì “ của ông vẫn nguyên giá trị . Ông Hoàng cơ Ðịnh có thể mua bán được ông Trần đức Tường hay ông Nguyễn Kim Hườn …chứ không cách gì có thể mua bán được ông Nguyễn xuân Nghĩa hay ông Nguyễn Trường Lưu.
Cuối năm 1988 Tổng Vụ Hải Ngoại MT QGTNGPVN / Việt Tân xuất hiện một vụ mới , đó là Vụ Kế Hoạch .Người nắm Vụ Kế Hoạch là ông Nguyễn xuân Nghĩa và đương nhiên người bổ nhiệm là ông Nguyễn kim Hườn /Tổng vụ Trưởng . Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt . Ông Kim Hườn không bao giờ đủ khả năng để điều hành Tổng vụ nếu không có quân sư là Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa hao tâm tổn trí . Việc lập ra vụ Kế Hoạch , anh em Việt Tân trung cấp âu châu hình dung ngay đến một vụ đảo chánh nội bộ sắp diễn ra , hoặc ông Nguyễn xuân Nghĩa sụp hầm hoặc Ông Hoàng cơ Ðịnh ra chầu rìa ! Cuối năm 1988. Hơn ai hết , ông Nghĩa phải biết là ông Minh đã … sinh thì ở Lào ! Một người có trí năng cao như ông Nghĩa , sẽ không thể chịu bịt mắt bởi ông Hoàng cơ Ðịnh , rằng ông Hoàng cơ Minh “vẩn sống vẫn lãnh đạo “.Ở vị trí Vụ Kế Hoạch , gần như ngang quyền Vụ Tổ Chức do ông Ðịnh nắm , cho phép ông Nguyễn xuân Nghĩa có quyền đòi vào căn cứ chiến khu để lường định sự việc , dù rằng điều này , ông Hoàng cơ Ðịnh không bao giờ muốn !
Giữa 1989 ông và Trường Lưu , vụ Tuyên Vận , hai cái đầu giỏi nhất của VT giai đoạn 1985/1989 lặng lẽ rời tổ chức sau chuyến thị sát chiến khu Ubon .Trong chuyến đi có Trần đức Tường , một thiếu tá Quân y Dù kẹt lại Việt nam 1975 nhưng chỉ phải cải tạo có vài ba năm rồi ra mở phòng mạch ở vùng Bảy Hiền ,một người rất khéo nói và giỏi ngậm hột thị khi cần ,để ấm thân trong mọi hoàn cảnh .
Biệt ly 4.
1990 /95 , Bộ phận chiến khu Ubon đã hoàn toàn tan nát sau ba cuộc xâm nhập vũ trang hết sức ngớ ngẩn . Ðông Tiến 1 năm 1986 thất bại , chết gần chục người và hầu hết là bị bắt tại Pleiku ! Ðông Tiến 2 tháng 8 năm 1987 gần hai trăm đảng viên xâm nhập cùng ông Minh theo kế hoạch của Lê Phú Sơn . Ông Minh tự sát tại đường 9 Nam Lào sau hơn tháng trời bị vây đuổi đòi bắt sống bởi lực lượng quân đội cộng sản Quân khu 9 . Tử thương vài chục người , hơn trăm đảng viên sống sót bị bắt cầm tù từ 6 đến 18 năm ! Ðônhg tiến 3 (1989) tung gần trăm quân vào biên giơí Lào /Thanh hóa bị bắt sạch . Ðợt Ðông Tiến này phải đưọc hiểu là đợt thí quân . Quân đi mơ hồ mục tiêu !!! Phải chăng , đoàn quân này đưọc quyét định phải chết ,thay vì để tồn tại trở ra hải ngoại, sợ sẽ làm lộ các bí mật của cái gọi là chiến khu Việt Tân ?!
Tại hải ngoại ,vai trò lý thuyết của Việt Tân chủ yếu đặt trên vai vị bác sĩ mổ xẻ nổi tiếng của Chicago . Phó Tổng vụ Trưởng Trần Xuân Ninh với những cái đầu đặc biệt nổi lên từ miệt thấp của quả đất . Nam Dao từ Úc châu và nhóm khôn lỏi ở Paris đứng đầu bởi Lý Quảng / Nguyễn Ngọc Ðức. ( phù thủy của tổ chức Liên Minh VN Tự Do, nhân lực dắt mũi của Hội Chuyên Gia ).Tiến đến 1996,97 , Nguyễn Ngọc Ðức từ một chi bộ Orsay/Paris đã phăng phăng trèo vào Trung Ương đảng . Một khuôn mặt mà hầu hết những thành phần trí thức sinh viên của Tổng Hội Sinh Viên Paris đều coi thường ra mặt .
Tổ chức Việt Tân với sự sát cánh của ông Trần Xuân Ninh , ông Nguyễn Ngọc Ðức và bà Nam Dao , ông Ðỗ Ðăng Liêu (cựu sinh viên Tổng Hội Paris ) cố gắng phát triển cật lực trong giới trẻ ở Úc châu , xoay quanh trục nhân lực Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (cháu Hoàng cơ Ðịnh) , mong dùng các cơ sở này để vận động ngược lại cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ . Khối u tình này duy trì được đến sau năm 2000 và xảy ra tan tác sau lần va động “chệch hướng hay chuẩn hướng “ 2003/04 . Ðây là giai đoạn đấu tranh nội bộ gay gắt giữa cánh ông Hoàng cơ Ðịnh , Nguyễn Ngọc Ðức vơí cánh ông Trần xuân Ninh về quan điểm rất mới của VT , “hợp tác ,đối thoại để chuyển đổi hòa bình ” ! Bà Nam Dao cùng gần trăm đoàn viên rời tổ chức theo với bước chân rã rời “không chệch hướng “ của ông Trần xuân Ninh . Việt Tân còn trơ lại vài hàng binh tôm tướng cá với Lý Quảng Nguyễn Ngọc Ðức gần như làm chủ tế . Ðể mở đường bế tắc , ông Nguyễn Ngọc Ðức và người tình là bà Nguyễn Thanh Vân tận dụng quan hệ với RSF vác đả cẩu bổng sang Thái Miên . Binh đội tại Thái Miên những năm 2006/2007 có lúc lên đến những 5 ông bà Uỷ viên Trung ương đảng , thậm chí có lúc cả bốn ông Trung ương đảng đều xâm nhập vào nam VN cho một phi vụ “rải vài ngàn tờ truyền đơn “ ! Bốn bị bát ba ! Cãi nhau, đổ tội … ì xèo trong toà nhà B34 Sài gòn . Vài tháng thả trắng sau những biên bản khó hiểu !
Tống biệt 5
Truyền thông mở như một cơn lốc quét , phủ lên bối cảnh sinh hoạt truyền thông ở VN một màu sắc lấp lánh nhiều tích cực . Phong trào viết blog tự phát bùng lên ở VN . VT đã nắm bắt rất nhanh tình hình và làm ngay những cuộc liên đới với các anh chị em này . Cả hai bên đều là những con cá đang khát nước . Anh em nội địạ ráp lại vơí những ngươì hoạt động dân chủ ở Thái đã hoàn toàn tin tưởng những người cộng tác . Công sức của RSF trong mục tiêu thiết lập những nhóm truyền thông độc lập đã được đánh tháo sang hết cho một tổ chức có tên là Việt Tân . Các khoá học về nhân quyền , dân sự … đã được an ninh csvn theo dõi và bắt gọn dưới danh nghĩa “hoạt động khủng bố với VT” . Cả Trần Huỳnh Duy Thức cũng sập bẫy . Cả Tiến Trung , cả Lê Công Ðịnh… những đứa con kiệt xuất chưa đánh được đòn phép nào vào mặt chế độ ... đã bị sập hầm !
Trong cái họa nẩy ra cái phước . Một nhóm nhỏ trong những thành phần lãnh đạo Việt Tân chung công tác ở Thái Miên đã sáng suốt nhận ra vấn đề bế tắc nằm ở đâu . Cuộc chia tay thứ 5 đã diễn ra và trang Dân Làm Báo đĩnh đạc trưởng thành trong cay đắng , từ những con người đã đặt cược cả cuộc đời mình vào với vận mệnh Việt tân , sự bẽ bàng nhận ra chân tướng nhau đã làm nảy sinh ra một tập hợp mới, ly khai dứt khoát với cái tên đầy màu sắc tương lai nhưng lại chất chứa nhiều hầm chông bẫy độc .Khối kỳ vọng của RSF vào VN cũng từ đây sinh thành hai dòng chảy .
Lià xa 6
Vận dụng sự mở cửa của mạng truyền thông internet . Những người đặc trách phát triển quốc nội của Việt tân hải ngoại đã liên kết vơí những nhân lực có tiếng nói mang tinh thần phản kháng ở VN , đặc biệt là Hànội . Một nhóm nhân lực được móc nối và hoạt động khá rộng ở Hànội nói riêng , miền bắc nói chung . Bà Trần Khải Thanh Thủy là một nhân lực tiêu biểu. Tính khí ngang tàng của bà đưa bà đến cửa nhà tù và phải vào tận Trại 5 . Một trại Trung Ương khét tiếng từ thơì còn mang tên quần thể nhà giam Ðầm Ðùn Lý Bá Sơ 1954. Giết bà không được , nhốt chẳng ích gì mà thả ra ở VN thì càng to chuyện ! Tương kế tựu kế an ninh cộng sản tống xuất bà sang Mỹ, gây thêm thanh thế cho Việt Tân , vốn là một tổ chức chính trị hải ngoai mà an ninh csvn biết tỏng tòng tong là hữu danh vô thực . Ðiều bất ngờ là tính cách ương ngạnh dàng trời của bà TKTT đã tạo ra rất nhiều khó xử cho trung ương Việt Tân để sau hai năm , ngựa Hồ tung vó lên hướng bắc , chịm Việt soải cánh về đàng nam . Từ mặt nhau với những nỗi đau cay cào xé gan mật . Sự chia tay này cũng ảnh hưởng đến việc “dứt áo ra đi” của vị bác sĩ được coi là giỏi giang nhất ,còn sót lại của trung ương Việt tân : Nguyễn Trọng Việt .
Việt tân sau 30 năm , người tài thi nhau ngã bổ ngửa . Từ Phạm văn Liễu Trần Minh Công Phạm Ngọc Lũy đến Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Trường Lưu ! Từ Nam Dao/Phan văn Hưng đến Trần Xuân Ninh và rồi đến Ðặng Thanh Chi ,Huỳnh ngọc Phước , Nguyễn Trọng Việt … Giờ điểm lại , lôm côm những Nguyễn ngọc Bảo , Nguyễn Ngọc Ðức , Trần đức Tường , Nguyễn Thanh Vân , Nguyễn quốc Quân…với con em gia đình dòng họ Hoàng Cơ ,cắm cúi điều hành tổ chức gần giống như một công ty hàng quán thương mại !
Thế trận Nhân quyền !
Cuối năm 1998 , khi vừa bị trục xuất về Pháp, trong những lần điện đàm với ông Nguyễn Kim Hườn , tôi có đề cập đến một sự cần thiết về việc hình thành một thế trận nhân quyền ở hải ngoai . Lúc ấy , tổ chức VT , nếu tập trung thực lòng cho công tác nhân quyền , sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quê hương đất nước . Tiếc rằng , Ông Kim đã tỏ ý rất coi thường , ông nói “ … giờ này , chúng ta sắp thành công , tập trung vào công tác nhân quyền làm gì !”. Giờ đây , 15 năm đã trôi qua , chữ “sắp thành công “ của ông không biết phải định nghĩa thế nào , nhưng hành động lấn sân từ sinh hoạt chính trị tràn sang lãnh vực nhân quyền lại phơi bày quá sống sượng trong những tháng vừa qua .
Bản chất sức lực của hoạt động đấu tranh nhân quyền là độc lập phi đảng phái . Càng dính líu đến các tổ chức chính trị , đảng phái … hoạt động đấu tranh nhân quyền càng giảm ý nghĩa trước dư luận thế giới tự do . Ðáng ra , việc các nhân sĩ từ Việt nam sang điều trần về Nhân quyền ở các quốc hội hay ở trụ sở Liên Hiệp Quốc , dù có là đảng VT giúp sức , cũng nên phải dấu đi cái gốc gác là đảng chính trị Việt Tân chi phối . Ðàng này các ông các bà kéo đến ba bốn ông Trung Ương đảng để chụp hình chung ở Geneve ! Cũng vậy , làm điều trần cho các blogger từ VN sang , nhưng các ông đặt ghế chủ tịch đảng Việt Tân ngồi ngang với một nghị sĩ Mỹ ,cả hai đều cùng vắt vẻo kiểu chân số 5 quyền lực , đối diện là tội nghiệp bốn năm ông bà blogger đến từ VN , xúm xít ngồi ở một băng ghế chung ! hơn hai mươi năm lăn lóc trong sinh hoạt đấu tranh từ thượng vàng đến hạ cám , từ lên voi xuống lưng bò, tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh điểu trần như vậy !! Ðiều trần ấy là điều trần cho ai ? Ðiều trần với ai ? Ðiều trần vì quyền lợi gì ? Quyền lợi “credit” của VT hay quyền lợi của anh chị em truyền thông tự do ở Việt nam ? An ninh csvn có ý gì khi để các anh chị em ấy thong dong sang Mỹ với mỗi người vừa tròn một phút đề …làm điều trần ! Ðiều trần 1 phút thì điều trần việc gì ? Ðó là lời mời của quốc hội Mỹ to đùng hay chỉ là trò chơi chính trị bơm thổi credit cho một bà dân biểu Mễ cùng tổ chức Viêt Tân ? Anh em trong nưóc chấp nhận thật nhiều thử thách để chỉ được nói 1 phút trước rừng ngôn từ của hàng mấy trăm quân bài do hàng trăm nghị sĩ tranh giật lợi quyền ? Ai sẽ trả cái giá khắc nghiệt cho họ sau cuộc phiêu lưu vì tấm “paneaux vĩ đại quốc hội Mỹ” ? Tại sao an ninh cs ưu ái cho những người Việt Tân tổ chức mời đi , trong khi lại nghiêm khắc truất quyền xuất cảnh của facebooker Anh Chí chỉ vài tuần sau đó , bất chấp lời mời của Bộ Ngoai Giao một quốc gia cực kỳ thân thiện với Việt nam cs là Thụy Ðiển dành cho Anh Chí ?
Liệu có cần phải viện dẫn những cuộc xâm nhập 1986/1987/1989 từ Thái Lào và sau 1991 từ Ðông âu để dẫn chứng “khả năng siêu việt” của đảng Việt tân … cùng sự ma mãnh thổi phồng “kẻ thù ảo” của đối phương cs hay không ?
Vơí đồng tiền dồi dào của tổ chức ban đầu để lại , việc các ông bà VT chia sẽ cho an hem hoạt động dấu tranh nội địa là việc hết sức tự nhiên , nếu không muốn nói là việc bắt buộc . Chỉ mong rằng các ông bà hãy đặt quyền lợi của tổ chức thành thứ yếu , sau quyền lợi của cuộc đấu tranh chung . Ðược vậy , chẳng ai trách giận các ông bà làm gì . Cuộc đơì này , ai là ngươì nắm chặt tay được cả cuộc sống mình ? Mở lòng ra sẽ thấy tình người cao rộng và thật sự có ý nghĩa .
Lịch sử !
Mục tiêu và trách nhiệm .
Một quá trình ba mươi năm . Tháng 12 năm 1982 lễ tuyên thệ đảng Việt tân cho ông Dương văn Tư cùng mấy chục đảng viên khác đã xác định trách nhiệm của một tổ chức chính trị đối vơí lịch sử nói chung , đối với những thành viên tuyên thệ nói riêng . Tổ chức ấy ngày nay vẫn y xì tên gọi và nguyên bản lá cờ hoa mai. Ðồng tiền đồng bào đóng góp đại đa phần đã thành các quán ăn sầm uất suốt gần 30 năm . Sự liên tục ấy không cách gì có thể phủ nhận . Chỉ có những con người vô văn hóa mới cố chối bỏ lịch sử ấy , trong khi vẫn dùng đồng lương có từ lịch sử ấy mà ung dung vung vẩy giữa đời . Vật đổi sao dời , có thể các ông thay đổi phương lược chiến đấu , nhưng việc phủ nhận công lao máu xương của lớp khai phá là hành vi bất nghĩa. Việc không hề đoái hoài đến những kẻ đã vì Việt tân ban đầu mà phải chết thảm trên đường xâm nhập , phải tù tội từ hàng 6 năm đến 18 năm …là hành vi gì nếu không là hành vi bất nhân bất nghĩa ?
Khi chưa đủ can đảm để rạch ròi ân nghĩa với anh em mình và với đồng bào hải ngoại , thì việc ồn ã đấu tranh của các ông bà chỉ mang được một nửa phần ý nghĩa .
Khả năng phán đoán , tư duy chiến lược…không là những món hàng cợt đùa vô trách nhiệm .Trong môi trường đấu tranh nhân quyền , các ông bà đã có những lúc cực lực sỉ vả những người đấu tranh , gọi họ là cộng sản , bủa vây tất cả các bước đi của họ . Anh em họ trong nhà tù a20 Phú yên làm cuộc nổi dậy , tin tức đến tận tay các ông bà nhưng các ông bà lặng thinh . Hàng trăm ngươì tù thét gào ấy , chỉ duy có tổ chức ông Võ Văn Ái lăn xả trên truyền thông quốc tế để bảo vệ họ . Còn các ông bà thì đứng cười , ra chỉ thị tất cả các mạng báo chí của VT (vốn bao trùm hải ngoai lúc ấy /1994/95) hoàn toàn im lặng !
Tôi là nhân chứng trực tiếp của sự vụ ấy , nay xin hỏi giữa công luận rằng các ông bà là ai , và liệu sẽ có một cuộc nổi dậy đấu tranh nhân quyền ở VN sẽ bị các ông bà tận lực bưng bít nữa không ?
Ðó là lý do chúng tôi chủ trương thành lập và hỗ trợ các mô hình đấu tranh nhân quyền phi đảng phái , đặc biệt , phi Việt Tân .
Phạm văn Thành
8 quai de la Marne
77450 Conde St Libiaire . France .
_____
« Đá bạc trắng dẫu có vùi trong mực
Lòng phau phau vô biến cõi cơ cầu
Đường trần tục tỉnh say thân phù phiếm
Miệng can qua mưa nắng đãi bôi thôi. »
(…)
(FB. Phạm Thành)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét