Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

Vài ý kiến đầu năm 2014 cùng Bà Con VN về việc mất Hoàng Sa

Thị trường và đạo đức

Trần Hữu Dũng
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, mọi sinh hoạt, mọi hàng hóa, mọi dịch vụ dường như ngày càng “thương mại hóa”, đã nổi lên nhiều ưu tư về sự suy thoái đạo đức của xã hội lẫn con người.  Có người giải thích sự kiện này với khẳng định: Thị trường khiến con người tham lam hơn, xấu xa hơn.  Song, như nhiều học giả đã lý luận: Lòng tham thì vô bờ bến, những tính xấu của con người thì đã có từ khi loài người xuất hiện trên địa cầu, và chắc chắn sẽ tiếp tục cho đến ngày tận thế, trong bất cứ thể chế chính trị hoặc kinh tế nào. Thế nên, đi tìm lý do của sự suy kiệt đạo đức (nếu có) đặc thù của kinh tế thị trường thì phải đưa bằng chứng là hiện tượng ấy gắn liền với những đặc tính cá biệt của thị trường, chứ không phải chỉ vì bản tính chung chung của loài người.

Vài năm gần đây, người có nhiều đóng góp nhất về vấn đề này có lẽ là Michael Sandel, giáo sư triết học của đại học Harvard.  Khởi điểm lý luận của Sandel là câu hỏi: Vì bản chất của thị trường là thương mại, có chăng những loại phẩm vật (hàng hóa hoặc dịch vụ) mà, xét theo một tiêu chuẩn đạo đức nào đó, không nên được mua bán trên thị trường?  Theo Sandel, nếu có những vật phẩm như thế thì sự xuất hiện thị trường cho chúng trong một xã hội sẽ làm suy bại đạo đức của xã hội ấy.

*

Để trả lời câu hỏi “tiền nên mua được cái gì và không nên mua được cái gì”  Sandel đề nghị hai tiêu chuẩn: một là sự bất công bằng, hai là sự tổn thương các giá trị đạo đức.

 (1) Thứ nhất, sự chọn lựa (trong việc mua bán) trong một thị trường có thể phản ảnh sự bất bình đẳng thu nhập và, quan trọng hơn, bất công bằng trong xã hội.  Trong một xã hội mà mọi thứ đều có thể bán và mua, cuộc sống của những người có thu nhập khiêm tốn sẽ khó khăn hơn.  Tiền càng mua được nhiều thứ thì sự dồi dào tiền bạc càng quan trọng.  Nói rõ hơn, nếu lợi thế của người giàu chỉ là có thể mua xe sang, ở nhà đẹp, dùng hàng hiệu, du lịch nước ngoài, thì sự bất quân bình thu nhập (tuy sẽ tạo ganh tỵ) cũng không gây nhiều hậu quả tai hại.  Nhưng trên thực tế thì tiền bạc còn mua được nhiều thứ nữa: thế lực chính trị, sức khỏe, biệt thự ở khu vực yên tịnh, và con cái thì được vào những trường ưu tú… Chính những thứ này sẽ khiến độ chênh lệch thu nhập ngày càng lớn, làm sâu thêm sự bất công bằng trong một nước, và gây những chia rẽ trong xã hội nặng nề hơn từ thế hệ này sang những thế hệ tương lai.. .  Chính vì thế, theo Mandel, xã hội phải hạn chế quyền lực của tiền bạc để giảm những hậu quả tai hại của những sự không bình đẳng ấy. Đặt một số hàng hóa và dịch vụ ra ngoài sự chi phối của thị trường là một cách chặn bớt hậu quả tai hại của sự bất công bằng xã hội.

(2) Thứ hai, thị trường của một phẩm vật có thể gây thương tổn cho những giá trị của con người và xã hội. Nhìn quanh, ta thấy ngay có nhiều thứ rất tốt đẹp (tình bạn, chẳng hạn) nhưng khi bị gán cho một giá tiền thì giá trị của chúng sẽ gần như không còn nữa.  Một người mà anh phải trả tiền mới nhận làm “bạn” của anh thì rõ ràng không phải là bạn anh.  Đừng nhầm lẫn tổng thể một thứ tốt đẹp như thế và những dịch vụ mà nó có thể “cung cấp” cho anh. Anh có thể thuê một người để trông nhà cho anh (dịch vụ của một người bạn) khi anh đi vắng, thậm chí anh có thể thuê một cố vấn tâm lý để nghe anh giải bày “tâm sự”, nhưng, hiển nhiên, những người này không phải là “bạn” anh theo cái nghĩa thật sự của chữ này.  Nói cách hoa mỹ, thị trường không chỉ là một cơ chế để phân bố hàng hóa và dịch vụ, nó còn phản ảnh và khuyến khích một thái độ nào đó đối với những hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi. Thái độ này biến đổi chính bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ ấy.

Một ví dụ khác: Khi cha mẹ cho con tiền để nó đọc sách nhiều hơn thì đúng là đứa bé ấy có thể đọc nhiều hơn, nhưng đứa con ấy cũng được gián tiếp dạy rằng đọc sách là một “cực hình” hơn là một thú vui có giá trị tự tại.  Tương tự, thuê người nước ngoài để chiến đấu cho chúng ta có thể tiết kiệm sinh mạng đồng bào ta, nhưng cũng làm suy kiệt ý niệm “công dân” một nước.

Như vậy, Sandel lý luận, có nhiều thứ mà tiền không thể nào mua, bởi vì nếu những thứ ấy mà được bán thì chúng không còn là chúng nữa. 

*.

Trên thực tế, hai tác hại của một số thị trường như đã nói trên (“không công bằng” và “tổn thương đạo đức”) thường quyện quấn vào nhau, đi đôi với nhau, và không phải bao giờ cũng trắng đen rõ ràng: Có nhiều mức độ “không công bằng” và nhiều mức độ “tổn thương đạo đức”.

Lấy “thị trường” nội tạng (để ghép) của con người làm ví dụ.  Dù rằng tiền có thể mua một quả thận, một nhãn cầu, mà không làm giảm giá trị y khoa của chúng, nhưng có nên cho phép nội tạng được tự do mua bán không? Có hai lý do để ngăn cấm sự mua bán này. Một là, thị trường ấy sẽ có khuynh hướng bốc lột những người cùng cực nghèo khổ.  Khó nói rằng quyết định bán thận của họ (để mua thức ăn chẳng hạn) là hoàn toàn “tự nguyện”.  Cho phép một thị trường như thế tồn tại là vi phạm tiêu chuẩn “công bằng”, chẳng khác gì cho phép người giàu bốc lột người nghèo.  Hai là, thị trường ấy sẽ làm tổn thương nhân phẩm, vì trong một xã hội như thế thì hóa ra con người chỉ là một tổ hợp những “linh kiện” (máu, mắt, thận, tim, phổi…) có thể lấy từ thân thể người bán để thay thế những bộ phận “hỏng hóc” ở thân thể người mua.  Rõ ràng là tư duy ấy sẽ xúc phạm trầm trọng chuẩn mực đạo đức của đa số chúng ta. 

Trẻ em là một ví dụ khác.  Hiển nhiên, nếu muốn, chúng ta có thể cho phép một “thị trường” con nuôi.  Nhưng không nên cho phép thị trường ấy vì hai lý do.  Thứ nhất là vì công bằng.  Một thị trường như thế sẽ thiên vị những người giàu có, bởi lẽ những người thu nhập thấp mà muốn có con nuôi thì sẽ chỉ “mua” được những đứa trẻ ít người muốn “mua” (vì đứa bé có dị tật hay thiểu năng, chẳng hạn).  Thứ hai là thị trường ấy sẽ xúc phạm những giá trị nhân bản. Gắn cho trẻ em một giá tiền thì chuẩn mực “yêu thương vô điều kiên” của cha mẹ đối với con cái, mà mọi xã hội xưa nay đều coi là thiêng liêng, sẽ không còn nữa. Hơn nữa, sự chênh lệch giá cả (chắc chắn sẽ xảy ra) giữa em này và em khác sẽ củng cố ấn tượng rằng giá trị một đứa bé là tùy vào chủng tộc, giới tính, tiềm năng trí tuệ, thể hình của nó.  Tương tự, “thị trường” nô lệ là kinh tởm vì nó xem con người như một loại hàng hóa, có thể (đấu giá) bán và mua. “Nhân phẩm” là vô nghĩa trong những cuộc đấu giá như thế.

Một ví dụ nữa: Lá phiếu của công dân một quốc gia dân chủ cũng không thể mua hoặc bán (dù có người sẵn sàng bán, mua!) vì bổn phận mỗi người dân là một trách nhiệm cộng đồng, không thể được xem là sở hữu của cá nhân.  Cho phép mua bán lá phiếu là hạ thấp giá trị của nó, cho nó một nghĩa khác.

Những ví dụ trên đây đủ cho thấy giá trị của nhiều vật phẩm sẽ sút giảm, hoặc mất hẵn, nếu chúng có thể được mua bán trên thị trường. Khi chúng ta quyết định rằng một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó có thể mua và bán là chúng ta mặc nhiên chấp nhận rằng hàng hóa ấy có thể được xem như một món đồ, là một công cụ để sử dụng hoặc kiếm lời.  Không phải giá trị của mọi thứ (ví dụ sức khỏe, giáo dục, đời sống gia đình, thiên nhiên, nghệ thuật, trách nhiệm công dân…)  đều là như vậy.  Để quyết định thứ nào được phép buôn bán, thứ nào không, xã hội phải thỏa thuận cách thẩm định giá trị thật của chúng. Đó là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức và chính trị, không chỉ kinh tế, và lời giải sẽ tùy mỗi trường hợp. Không có một đáp số chung cho mọi thứ, mọi thời.

*

Cho đến gần đây một giả định căn bản trong kinh tế học là sự “trung tính” của thị trường, nghĩa là bản chất hàng hóa hoặc dịch vụ được đổi trao sẽ không bị ảnh hưởng của thị trường.  Nhưng, như Mandel và nhiều người khác đã phát hiện, giả định này không luôn luôn đúng.  Thị trường có thể ảnh hưởng đến giá trị tự tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiền.  Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường át hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị phi thị trường này mới đáng giữ. Tất nhiên, không phải mọi người đều đồng ý giá trị nào là đáng giữ, và tại sao chúng đáng giữ.  Do đó, để quyết định cái gì nên được mua bán trên thị trường, và cái gì là không nên, chúng ta phải quyết định giá trị nào cần được bảo tồn trong những bối cảnh khác nhau.

Theo Mandel, nên phân biệt kinh tế thị trường và xã hội thị trường. Kinh tế thị trường là một công cụ để cơ cấu hoạt động sản xuất và phân bố sản phẩm. Dù không tuyệt hảo (ngay những nhà kinh tế sùng bái thị trường cực đoan cũng nhìn nhận rằng thị trường có nhiều “thất bại” cần sự can thiệp của nhà nước) công cụ ấy có những ích lợi và hiệu quả khó chối cãi. Xã hội thị trường, mặt khác, là một lối sống của con người trong xã hội trong đó giá trị thị trường chi phối mọi hoạt động, tư duy.  Như vậy, thị trường, ngoài những “thất bại” theo nghĩa thông thường còn có những ảnh hưởng sâu sắc, có thể là tai hại, đến đạo đức xã hội.  Chúng ta có muốn trở thành một xã hội thị trường trong đó những liên hệ xã hội được tái lập theo hình mẫu của thị trường không? Đâu là vai trò và tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta?  Đó là những vấn đề cần suy nghĩ.

Trần Hữu Dũng
Dayton
15-12-2013

Tham khảo:
Eduardo Porter, 2011, The Price of Everything, New York: Penguin
Michael J. Sandel, 2012, What Money Can’t Buy – The Moral Limits of Market, New York: Farrar, Straus and Giroux

Chủ nghĩa xét lại thắng thế: Chiến lược ngoại giao của Hà Nội thời kỳ Nixon

Nghiên cứu Quốc tế

Nguồn: Pierre Asselin (2011). “Revisionism Triumphant: Hanoi’s Diplomatic Strategy in the Nixon Era”, Journal of Cold War Studies, Vol. 13, No. 4, (Autumn), pp. 101-137.
Biên dịch: Đỗ Hải Yến | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Chien luoc ngoai giao cua Ha Noi thoi ky Nixon.pdf 
Bài liên quan: #94 – Nhân tố Mỹ: Trung – Mỹ xích lại gần nhau và thái độ của TQ đối với Chiến tranh Việt Nam, 1968-72
Giới thiệu
Tiếp nối sự khởi đầu mạnh mẽ của cuộc “Kháng chiến chống Mỹ cứu nước” vào mùa xuân năm 1965, các lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN – Đảng Cộng sản), cơ quan dẫn dắt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Nam DCCH, tức Bắc Việt Nam) sau khi đất nước chia cắt năm 1954, đã thề sẽ đánh bại “quân xâm lược” ngoại bang cũng như “tay sai” của chúng ở miền Nam Việt Nam cho đến khi họ đạt được “thắng lợi hoàn toàn” và “giải phóng” miền Nam.[1] Tiến tới những mục tiêu ấy, chính sách đối ngoại của Việt Nam DCCH xoay chuyển theo hướng bảo toàn nguồn viện trợ vật chất tối ưu cho chiến tranh từ các đồng minh xã hội chủ nghĩa cũng như hỗ trợ chính trị từ các lực lượng “tiến bộ” trên khắp thế giới. Với ý định “giành thắng lợi toàn diện”, các lãnh đạo ĐLĐVN đã khước từ một cuộc dàn xếp chiến tranh thông qua đàm phán.[2]
Trên thực tế, họ thậm chí không chấp nhận hội đàm hòa bình với kẻ thù bởi điều đó có thể báo hiệu sự thiếu quyết tâm từ phía họ trong việc đạt được mọi mục tiêu của mình.[3] Họ sẽ không “để lộ bất kỳ điểm yếu nào”, đồng nghĩa với việc “không chấp nhận thêm một hiệp ước Munich – không giành lấy hòa bình trong ô nhục”.[4]
Vì thấm nhuần chủ nghĩa giáo điều, các lãnh đạo ĐLĐVN đã đi quá đà khi khởi xướng một cuộc thanh trừng các nhân vật nổi bật thuộc đảng, chính phủ và các nhân vật khác vào cuối năm 1967 nhằm dập tắt những bất đồng quan điểm đang hiện hữu cũng như tiềm tàng (nghĩa là “tư tưởng hữu khuynh”) trong Việt Nam DCCH. Theo Sophie Quinn-Judge, cuộc thanh trừng bắt nguồn từ “cuộc đấu tranh” giữa bộ phận ôn hòa vốn theo đuổi “thống nhất nước nhà, phát triển khoa học và tiến bộ kỹ thuật” với bộ phận cực đoan vốn tin vào “sức mạnh chuyển hóa của bạo lực cách mạng”. “Những bất đồng” giữa hai phe, theo như bà viết, về bản chất là “một phần của xung đột Trung – Xô xoay quanh ‘chủ nghĩa giáo điều’ và ‘chủ nghĩa xét lại hiện đại’”. Việc khai trừ và buộc 300 nhân sỹ ôn hòa phải đồng loạt câm lặng trong cái gọi là Vụ án Chống Đảng đã hủy hoại nghiêm trọng nền dân chủ của đảng, thông qua việc “hạn chế những lựa chọn của đội ngũ lãnh đạo cộng sản”, tạo nên một bức mành “bí mật hoàn toàn” bao phủ cơ chế ra quyết định của ĐLĐVN (“đời sống nội bộ của đảng”), đồng thời tăng cường quyền lực của những nhà ra quyết định cực đoan, độc đoán và không khoan nhượng tại Hà Nội.[5]
Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Việt Nam DCCH đồng ý đàm phán với các đại diện của Hoa Kỳ ở Paris. Nhưng Bắc Việt Nam đã sử dụng các cuộc hội đàm sau đó với chính quyền Johnson không để đàm phán theo ý nghĩa truyền thống mà nhằm thăm dò ý định của Hoa Kỳ và tác động lên chính trị nội bộ của những nhà nước khác.[6] Hà Nội tiếp tục trò chơi này cho đến năm 1969, thời điểm tình hình trong nước và quốc tế buộc Hà Nội phải đánh giá lại từ từ nhưng toàn diện chiến lược ngoại giao của mình.
Bài báo này nghiên cứu quá trình đánh giá lại đó. Vấn đề liên quan đến câu chuyện “đấu tranh ngoại giao” của Hà Nội – những sáng kiến chính sách đối ngoại được thực hiện nhằm đáp ứng các mục tiêu của cuộc kháng chiến – và của chặng đường hướng đến một dàn xếp chiến tranh thông qua đàm phán với Hoa Kỳ. Bài báo hình thành dựa trên những nỗ lực toàn diện hơn trước đây của Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Ang Cheng Guan, Liên Hằng Nguyễn và những cá nhân khác (trong đó có tôi), những người đã nghiên cứu các sự kiện vốn thúc đẩy Hà Nội lựa chọn một chiến lược ngoại giao mới trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống của Richard M. Nixon mà đỉnh điểm là việc ký Hiệp định Hòa bình Paris vào tháng 1 năm 1973.[7]
Nhờ những nguồn tư liệu tiếng Việt đã xuất bản và chưa xuất bản, tài liệu tiếng Pháp và Bungary cũng như những tư liệu chưa được khai thác hoặc đa phần bị xem nhẹ của các học giả, bài báo góp phần làm sáng tỏ chiến lược ngoại giao của Hà Nội và những sáng kiến liên quan đến cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đồng thời giải thích cho sự chuyển dịch nhận thức về mục đích ngoại giao của ĐLĐVN suốt thời kỳ đó. Bài báo xác định những lực lượng định hình nên chiến lược, các sáng kiến và nhận thức.[8] Những thất bại về quân sự và kinh tế ở miền Nam và miền Bắc, kết hợp với việc thừa nhận các hạn chế của khối đoàn kết xã hội chủ nghĩa đã buộc Hà Nội trước hết phải hội đàm bí mật và sau đó là đàm phán nghiêm túc với chính quyền Nixon, và rốt cục là chấp nhận một thỏa thuận hòa bình không đáp ứng hoàn toàn những mục tiêu từng được tuyên bố của cuộc kháng chiến.
Mặc dù không đưa ra một quan niệm mới hoàn toàn về các khía cạnh ngoại giao trong Chiến tranh Việt Nam, bài báo nêu bật cách nhìn mới đối với các khía cạnh này, cách tư duy về vai trò ngoại giao trong việc tiến hành chiến tranh của Hà Nội, và về cách diễn giải những quyết định chủ chốt của các nhà hoạch định chính sách Bắc Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1973. Đặc biệt, thảo luận nhấn mạnh vai trò tích cực của các nhà hoạch định chính sách Việt Nam DCCH trong những sự kiện mà họ tham gia.
Có một giả định lâu đời trong nghiên cứu lịch sử về Chiến tranh Việt Nam, được nhắc lại hay ngầm định qua nhiều tác phẩm, đó là sau khi mở các cuộc hòa đàm, Hà Nội đã đi theo chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” mang tính “nguyên thủy, sơ khai”.[9] Cách diễn giải này đã hạ thấp tầm quan trọng của các khía cạnh ngoại giao khác ngoài đàm phán và ít nhiều hạn chế nhận thức về tiến trình vận dụng ngoại giao của Hà Nội cũng như những lý do khiến Hà Nội khước từ đàm phán nghiêm túc trong một thời gian dài. Vận động công luận thế giới, lôi kéo đồng minh và các lực lượng tiến bộ toàn cầu, tuyên truyền phổ biến vai trò tiên phong của Việt Nam trong tiến trình cách mạng thế giới, và hạn chế những tác động tiêu cực từ xung đột Trung – Xô cũng là những vấn đề quan trọng đối với chiến lược ngoại giao của Việt Nam DCCH không kém gì việc đàm phán nhằm chấm dứt hoàn toàn sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam theo những điều khoản có thể chấp nhận được. Mặc dù tầm quan trọng của mỗi nhu cầu cấp bách này lên xuống theo thời gian, các lãnh đạo Hà Nội luôn nhận thức được những giá trị của đấu tranh ngoại giao. Đấu tranh ngoại giao có thể còn quan trọng hơn so với đấu tranh quân sự trong việc quyết định kết cục của Chiến tranh Việt Nam.
Nhiều lực lượng khác nhau đã định hình nên chiến lược ngoại giao của Hà Nội thời kỳ Nixon. Sau khi mở hòa đàm, ban đầu các lãnh đạo Bắc Việt Nam khước từ đàm phán và không chấp nhận thỏa hiệp bởi những lý do thuộc ý thức hệ. Các khái niệm như chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không thể chung sống và bạo lực cách mạng mang trong mình những quyền lực chuyển hóa đã điều khiển tư duy chiến lược của họ về điểm này. Nhưng trong giai đoạn 1970-1971, tình hình khó khăn ở miền Nam cũng như những nơi khác ở Đông Dương buộc họ phải tư duy thực tế hơn, giống như các lãnh đạo Liên Xô từng làm trong một thời gian và người Trung Quốc lúc đó cũng bắt đầu tiến hành, đồng thời phải thừa nhận rằng một dàn xếp mang tính thỏa hiệp với Washington có thể phù hợp hơn so với việc tiếp tục giao tranh về quân sự cũng như chính trị mà lúc đó vẫn đang là chính sách chủ đạo.
Từ quan điểm ấy, các lãnh đạo ĐLĐVN không còn xem ngoại giao là một vũ khí chiến tranh bổ trợ như quan điểm của học thuyết Mác – Lê nin,  mà chấp nhận ngoại giao như một giải pháp khả dĩ thay thế chiến tranh, một biện pháp đạt được hòa bình mà họ có thể vận dụng để theo đuổi các mục tiêu cách mạng. Chủ nghĩa thực dụng trong cơ chế ra quyết định của ĐLĐVN thậm chí trở nên rõ ràng hơn vào năm 1972, khi tình trạng hòa dịu Mỹ – Xô và việc Trung – Mỹ xích lại gần nhau đã phơi bày những hạn chế của chủ nghĩa quốc tế vô sản như một nền tảng chiến lược chống Mỹ của Việt Nam DCCH. Nhận thức này kèm theo nỗi thất vọng của cái gọi là Cuộc tấn công lễ Phục sinh (tức cuộc tấn công xuân hè 1972 – NBT) và những e ngại về tác động của việc Hoa Kỳ ném bom trở lại miền Bắc đã thuyết phục các lãnh đạo ĐLĐVN đi đến đàm phán nghiêm túc và có chủ đích. Vì vậy, mặc dù ý thức hệ đã định hướng cơ chế ra quyết định của Hà Nội sau khi chiến tranh bắt đầu, nhưng chủ nghĩa thực dụng – hay “chủ nghĩa xét lại” như cách mà giới lãnh đạo Hà Nội trước đây gọi sự chung sống với phương Tây với cái giá phải trả là sự phương hại đối với ý thức hệ và tiến trình cách mạng thế giới – cuối cùng đã chiến thắng.
Đấu tranh ngoại giao của Hà Nội thời kỳ đầu nhiệm kỳ Nixon
Việc Nixon lên cầm quyền vào tháng 1 năm 1969, qua đó chỉ huy cuộc chiến của Hoa Kỳ, đã đánh động Hà Nội. Việc một chiến binh trung thành của Chiến tranh Lạnh (tức Nixon – NBT) lên cầm quyền và tình hình quân sự bất ổn ở miền Nam đã thúc đẩy các lãnh đạo ĐLĐVN “mở rộng” đấu tranh ngoại giao – chiến lược cho đến lúc đó được tính toán nhằm vận động công luận thế giới, củng cố mối quan hệ với các đồng minh xã hội chủ nghĩa và các quốc gia không liên kết, đồng thời xoa dịu ảnh hưởng của xung đột Trung-Xô – và chấp nhận đề nghị mở các cuộc hội đàm bí mật (chứ không chỉ là riêng) từ Nixon trong khi vẫn duy trì đối thoại bán công khai vốn được khởi xướng vào năm cuối nhiệm kỳ tổng thống Lyndon Johnson.[10] Cùng với quyết định chấp thuận đối thoại bán công khai trước đây, Bắc Việt Nam đã thực hiện bước đi này mà không tham khảo ý kiến hay thông báo cho Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa  hay Liên Xô. Họ hành động như vậy trước hết là bởi lực lượng quân sự ở miền Nam vẫn đang chịu hậu quả nặng nề của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân và bởi xung đột Trung-Xô đang tiến lên những nấc thang mới với các cuộc xung đột chết người dọc biên giới trên sông Ussuri vào tháng 3 năm 1969.
Hà Nội thấp thỏm hy vọng rằng những cuộc hội đàm bí mật với Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ cuộc kháng chiến nhờ ngăn cản được Nixon leo thang chiến tranh. Hội đàm bí mật nghĩa là Hà Nội có ít nguy cơ thất bại khi chấp thuận đối thoại vì bản thân tính bí mật không phương hại đến các mục tiêu cách mạng hay tư duy ý thức hệ đang làm cơ sở cho các mục tiêu ấy. Tuy nhiên, tính bí mật lại đặt ra những thách thức làm trì hoãn hội đàm, khiến đối thoại mãi đến tháng 8 mới bắt đầu. Sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 9 dường như đã hợp thức hóa quyết định tán thành các cuộc đàm phán bí mật của Hà Nội. Trên vũ đài quốc tế, Hồ Chủ tịch là “hạt nhân đoàn kết mạnh mẽ nhất cho những người cộng sản” như nhà sử học Ang Cheng Guan từng ghi nhận; và sự ra đi của Người “đã làm suy yếu… mối quan hệ cân bằng khéo léo của Hà Nội với Matxcơva và Bắc Kinh”.[11] Trong hoàn cảnh ấy, các cuộc hội đàm bí mật trở thành một chiếc van an toàn, một kênh ngoại giao mà Hà Nội có thể khai thác nếu đấu tranh vũ trang bế tắc hay các điều kiện quốc tế trở nên bất lợi.
Quyết định tổ chức hội đàm bí mật khiến Bắc Kinh ngạc nhiên, cho rằng ĐLĐVN đã quyết định kết thúc chiến tranh bằng thỏa hiệp và tiến hành sớm còn hơn muộn.[12] Thất vọng bởi viễn cảnh ấy, Bắc Kinh hối thúc Hà Nội bám lấy mục tiêu giành chiến thắng quân sự. Tại thời điểm đó, người Trung Quốc đang “dần chứng minh họ đã thông thoáng hơn với ý tưởng đàm phán” nhưng vẫn chưa “hoàn toàn ủng hộ” ý tưởng đó hoặc “chưa từ bỏ phương châm [của họ] về ‘chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng’”.[13] “Các đồng chí có thể đàm phán”, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông cảnh báo vào tháng 5 năm 1970, “nhưng sức mạnh chủ đạo của các đồng chí nên dồn vào chiến đấu”.[14] Bắc Việt Nam không bằng lòng với lời rao giảng này và nhắc nhở người Trung Quốc rằng chính Trung Quốc đã thúc giục họ chấp nhận các thỏa hiệp trong Hiệp định Geneva 1954, lấy đi của Hà Nội những thành quả từ chiến thắng Điện Biên Phủ. “Chúng tôi sẽ luôn ghi nhớ kinh nghiệm của năm 1954”, ủy viên Bộ chính trị ĐLĐVN kiêm “đặc phái viên” của Việt Nam DCCH trong các cuộc hòa đàm Paris Lê Đức Thọ đã bình luận ngắn gọn sau đó. “Bởi cả Liên Xô và Trung Quốc đều gây sức ép, hậu quả đúng như những gì đã xảy ra”. Giờ đây, Hà Nội “cần phải độc lập về tư duy”.[15]
Ban đầu, ĐLĐVN khước từ đàm phán thực chất tại các cuộc hội đàm bí mật như cách họ đang làm trong các cuộc đối thoại bán công khai và trong các cuộc thảo luận riêng với các quan chức chính quyền Johnson trước đây. Chủ nghĩa giáo điều cứng nhắc của các lãnh đạo Bắc Việt Nam đã cản trở các hướng đi khác. Bên cạnh đó, họ tự tin rằng sớm hay muộn, áp lực trong nước và quốc tế cũng sẽ buộc Nixon phải thực hiện những nhượng bộ lớn, có lẽ bao gồm cả việc đơn phương rút quân.[16] Tình hình kháng chiến ở miền Nam vẫn còn nhiều vấn đề, nhưng Hà Nội không thấy có lý do nào để nhượng bộ trong lúc ý chí chính trị của Washington dường như đang hao mòn. Quan trọng hơn, các lãnh đạo ĐLĐVN nghĩ rằng về lâu dài, cuộc chiến vẫn có thể thắng lợi về mặt quân sự và vì vậy vẫn có thể góp phần thúc đẩy cách mạng thế giới (cho dù thắng lợi chậm trễ có khả năng không còn mang tính trọng tâm đối với đấu tranh cách mạng thế giới như họ từng dự tính).[17]
Cũng bởi những lý do ý thức hệ, các lãnh đạo ĐLĐVN nghi ngờ động cơ của Nixon trong việc theo đuổi đàm phán bí mật trong khi vẫn tiếp tục các cuộc đối thoại bán công khai. “Gần đây,” Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH lúc đó lưu ý, “Hoa Kỳ đã lớn tiếng công bố việc đơn phương rút một số quân” cũng như việc các cuộc đàm phán bán công khai đang diễn ra. Bộ cho rằng chính quyền Hoa Kỳ đang cố gắng “xoa dịu công luận vốn đang đòi hỏi chấm dứt chiến tranh, rút toàn bộ và vô điều kiện quân đội Hoa Kỳ cũng như quân đội nước ngoài thuộc phe Mỹ, đồng thời kết thúc kế hoạch tiếp tục chiến tranh, kéo dài tình trạng chiếm đóng quân sự và bám níu miền Nam Việt Nam”. Vì vậy, “cái gọi là ‘phi Mỹ hóa’ và ‘Việt Nam hóa’ chiến tranh” thực chất là “[những] thủ đoạn để tiếp tục và tăng cường chiến tranh dưới danh nghĩa mới, mở rộng sự hiện diện của các quân đoàn viễn chinh Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam”.[18]
Vì vậy, mặc dù mở các cuộc hội đàm bí mật, chiến lược ngoại giao của Việt Nam DCCH ở điểm này về cơ bản vẫn duy trì những gì đã áp dụng khi mới bắt đầu chiến tranh. Chiến lược bao gồm việc thúc đẩy hỗ trợ về vật chất và chính trị từ nước ngoài cho cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam dưới danh nghĩa đoàn kết xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh tinh thần đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời khai thác các “mâu thuẫn” trong hàng ngũ quân thù để đưa cách mạng Việt Nam và thế giới tiến lên. Mục tiêu cuối cùng này phải được xúc tiến bằng cách khơi dậy quan điểm chống chiến tranh ở Hoa Kỳ và những nơi khác nhằm “cô lập” đội ngũ ra quyết định của Hoa Kỳ khỏi dư luận và do đó buộc họ phải rút bớt quân đội Hoa Kỳ đóng tại Đông Dương. Theo Nguyễn Khắc Huỳnh, một nhà ngoại giao cấp cao của Bắc Việt Nam, những chiến lược này được hiểu là “tiến hành ngoại giao và hội đàm hòa bình nhằm phục vụ cuộc đấu tranh vũ trang [và] chính trị trên chiến trường [cũng như] tập hợp bạn bè quốc tế, đồng thời hỗ trợ phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ”.[19]
Vì những mục đích ấy, tháng 6 năm 1969, Hà Nội đã phê chuẩn việc thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời (CPCMLT) của Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Một CPCMLT có khả năng tồn tại được xem là giúp thúc đẩy tính hợp pháp cho cuộc nổi dậy ở miền Nam và tập hợp sự ủng hộ cho cuộc kháng chiến.[20] “Đối với chúng tôi và Nixon, ngoại giao là một trò chơi chữ”, Thủ tướng Việt Nam DCCH Phạm Văn Đồng phát biểu trước Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vào tháng 9 năm 1970. “Chúng tôi hay ông ta đều không có bất kỳ ảo tưởng nào về ngoại giao [song phương Việt Nam DCCH – Hoa Kỳ]”. Tuy nhiên, duy trì đàm phán, đặc biệt các cuộc đàm phán bán công khai, là vấn đề quan trọng để “giành được sự đồng cảm từ nhân dân miền Nam, nhất là người dân thành thị” và “tác động đến dư luận chống chiến tranh ở Hoa Kỳ, trong đó, ngoài đại bộ phận nhân dân còn có các nhóm chính trị, kinh doanh, trí thức và nhà thờ”. Mục tiêu là “dồn Nixon vào thế bí” trong lúc “hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam”. Các lãnh đạo ĐLĐVN không mang “ảo tưởng” rằng các cuộc đàm phán, dù bí mật hay hình thức nào đi chăng nữa, “sẽ đem lại kết quả” ngoài những kết quả mà Nixon phải hứng chịu thông qua áp lực chính trị.[21] “Tôi thấy rằng các đồng chí có thể tiến hành đấu tranh ngoại giao và các đồng chí làm tốt”, Mao phát biểu, đáp lại một cách hòa giải trước sự thể hiện tinh thần độc lập này (của Bắc Việt Nam). “Đàm phán đã diễn ra được hai năm. Đầu tiên chúng tôi hơi lo sợ các đồng chí bị gài bẫy. Chúng tôi giờ không còn lo lắng nữa”.[22] Vào thời điểm Mao phát ngôn, Bắc Kinh không chỉ chấp nhận các cuộc đàm phán của Hà Nội với Hoa Kỳ mà còn ủng hộ lập trường đàm phán của Hà Nội.[23] “Cuối cùng”, như một cuốn sách lịch sử của Việt Nam về những sự kiện này kết luận, Bắc Kinh “đã ủng hộ sách lược vừa đánh vừa đàm của ta”.[24]
Ngoại giao như một công cụ hòa bình
Mưu đồ “Việt Nam hóa” chiến tranh của Nixon rốt cuộc đã tạo ra một thay đổi quan trọng trong chiến lược ngoại giao của Hà Nội. Bằng cách từ từ biến xung đột ở miền Nam thành một cuộc nội chiến giữa những phe phái người Việt mâu thuẫn nhau, chiến lược Việt Nam hóa khiến ngày càng khó mô tả cuộc đấu tranh của những người Cộng sản như là một sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa và chống đế quốc, và vì thế cũng khó khăn hơn để duy trì sự ủng hộ các quốc gia và các nhóm phương Tây, không liên kết, thậm chí là chủ nghĩa xã hội.[25] Trong vòng luẩn quẩn đó, Việt Nam hóa chiến tranh “[đã] hạn chế sự hỗ trợ quốc tế cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược Hoa Kỳ”.[26] Việt Nam hóa chiến tranh “không phải là thành công như ngài Nixon và nội các của ông ta khẳng định”, một quan sát viên phương Tây ghi nhận vào thời điểm đó, nhưng chính bởi mưu đồ này mà “Hà Nội không còn hy vọng áp đặt đường lối của mình lên miền Nam bằng sức mạnh”.[27] Việt Nam hóa chiến tranh đồng thời ở Campuchia và Lào đã gây thêm lo âu trong lòng Hà Nội theo cách thức tương tự, như cuộc xâm lược Campuchia của Hoa Kỳ từng gây ra vào tháng 5 năm 1970 (trước đó là cuộc lật đổ chế độ trung lập của Hoàng thân Norodom Sihanouk bởi viên tướng “phản động” Lon Nol) và cuộc xâm lược Lào của các lực lượng miền Nam Việt Nam vào tháng 1 năm 1971.[28]
Trước những thách thức này, các lãnh đạo ĐLĐVN đã ngừng nhìn nhận ngoại giao như một chức năng của đấu tranh cách mạng, thứ yếu so với mệnh lệnh chiến thắng quân sự. Giờ đây, lần đầu tiên họ nhận ra và chấp thuận đàm phán như một công cụ hòa bình, một phương tiện để giải quyết xung đột. Điều đó dẫn tới việc chấm dứt chính sách đối thoại đơn thuần thay vì đàm phán thực chất.[29] Kể từ nay, Hà Nội sẽ đàm phán thực sự một khi tình hình quân sự, chính trị và ngoại giao tỏ ra không hứa hẹn, nhằm giảm thiểu tổn thất nếu cần trong khi vẫn bảo vệ thành quả nếu có thể. Nếu điều kiện tiến triển, Việt Nam DCCH sẽ quay lại lập trường ban đầu, cả về phương diện đàm phán lẫn đấu tranh ngoại giao nói chung, nhằm đẩy mạnh các mục tiêu kháng chiến. “Khi… thế cân bằng lực lượng xoay chuyển có lợi cho ta”, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nói về sách lược này, “chúng ta sẽ… buộc kẻ thù… chấp nhận thất bại của chúng”.[30]
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Chu Ân Lai đến Hà Nội với những tin tức đáng lo ngại: Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Henry Kissinger, người tương nhiệm của Lê Đức Thọ trong các cuộc hội đàm bí mật Paris, vừa có chuyến viếng thăm bí mật Bắc Kinh và các lãnh đạo Trung Quốc đã đồng ý mời Tổng thống Nixon đến Trung Quốc để tiến hành các cuộc thảo luận khác nhau.[31] Tin tức khiến Hà Nội sửng sốt. Phạm Văn Đồng bày tỏ với Chu rằng bất kỳ giao thiệp nào với Nixon cũng đều “đi ngược lại lợi ích của Việt Nam và các quốc gia Đông Dương khác”, cũng như lợi ích của “tiến trình cách mạng thế giới”.[32] Đối diện với sự thẳng thừng ấy, Chu cố gắng cam đoan với Phạm Văn Đồng và Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, một “nhân vật cực đoan hàng đầu”, rằng “Trung Quốc sẽ luôn bảo vệ cho lợi ích của người Việt Nam cũng như các quốc gia Đông Dương khác”. Những lời cam đoan được bỏ ngoài tai. Cả Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đều lặp lại quan điểm của cá nhân và của ĐLĐVN “phản đối quyết định của Trung Quốc mời Nixon sang thăm vào năm tới”.[33] Các lãnh đạo Bắc Việt Nam đặc biệt lo ngại rằng Mao sẽ đồng ý để Nixon gắn việc dàn xếp vấn đề Đài Loan với việc giải quyết cuộc Chiến tranh Việt Nam.[34] Hà Nội đã “thất vọng và không chấp nhận các biện pháp mà Trung Quốc xúc tiến nhằm cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ cũng như quyết định mời Nixon đến Bắc Kinh”, một báo cáo hội đàm với Chu nêu rõ.[35] Lời mời như “một quả ngư lôi” nhắm vào cuộc Kháng chiến chống Mỹ mà rộng hơn nữa là chủ nghĩa quốc tế vô sản.[36] Sự kiện Lin Biao (Lâm Bưu) diễn ra trước đó và những thay đổi liên quan trong giới lãnh đạo Trung Quốc cũng khiến các lãnh đạo ĐLĐVN lo ngại, họ “nghĩ rằng những thay đổi này… liên quan đến những thay đổi trong chính sách dành cho Hoa Kỳ và lời mời Nixon”, đồng thời đe dọa “lập trường tương lai của Trung Quốc về Đông Dương”.[37]
Bắc Việt Nam có lý do để lo lắng về những tình thế này, ít nhất là ở một mức độ nào đó. Sau chuyến viếng thăm đầu tiên của Kissinger, những người Trung Quốc với bản tính thực dụng ngày càng tăng nhìn thấy rằng tương lai mối quan hệ của họ với Hoa Kỳ ngày càng gắn kết chặt chẽ với tình hình Việt Nam và vì vậy hy vọng cuộc chiến tại đó sẽ kết thúc nhanh chóng. Ngày 15 tháng 7, Nixon công khai ý định viếng thăm Trung Quốc vào đầu năm 1972. “Theo Hà Nội”, Liên Hằng Nguyễn viết về tuyên bố này, “chỉ riêng việc tuyên bố về chuyến thăm của Tổng thống Nixon đến Trung Quốc cũng đã cản trở cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam”.[38] Các nhà ngoại giao Pháp tại thủ đô của Trung Quốc kết luận tương tự rằng “vì những lý do can hệ trực tiếp đến vấn đề an ninh, Trung Quốc mong muốn có được một dàn xếp tổng thể và dứt khoát cho cuộc xung đột ở Đông Dương”.[39] Tuy nhiên, mong muốn ấy đã không tạo ra bất kỳ sức ép được ghi nhận hay cảm nhận nào khiến Hà Nội phải đẩy nhanh việc chấm dứt chiến tranh.
Bất chấp những mối đe dọa hiển nhiên đối với mức độ tin cậy của Trung Quốc trong vai trò một đồng minh cũng như những hạn chế rõ ràng của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, giới lãnh đạo ĐLĐVN nuốt giận đồng thời từ chối “cho phép mối quan hệ của mình với CHND Trung Hoa trở nên xấu đi”.[40] Người Việt Nam “phải chiến đấu chống lại một đế quốc lớn”, Lê Đức Thọ giải thích trước các đồng minh Campuchia. “Vì thế không lợi ích gì nếu chúng ta chọn phe” trong cuộc xung đột Trung – Xô, vốn sẽ là hệ quả nếu Hà Nội rời xa Bắc Kinh vào thời điểm mùa thu năm 1971.[41] Thay vào đó, Hà Nội nỗ lực chia rẽ việc Trung – Mỹ xích lại gần nhau bằng cách tán dương những ưu điểm của khối đoàn kết xã hội chủ nghĩa. Các phái viên Trung Quốc được cử đến Hà Nội nhằm làm dịu lo ngại của Việt Nam đã nhận được những bài thuyết giảng về cam kết của Việt Nam DCCH đối với tinh thần đoàn kết ấy. “Tôi hy vọng rằng Đảng của chúng tôi sẽ làm mọi thứ liên quan để hỗ trợ hiệu quả cho việc khôi phục khối đoàn kết của các đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”, Phạm Văn Đồng bày tỏ trước các phái viên. “Nhân dân Việt Nam chúng tôi cùng dốc toàn bộ trí lực và tinh thần nhằm củng cố khối đoàn kết quân sự với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phong trào cộng sản quốc tế, các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, Phi và Mỹ Latinh cũng như các quốc gia trên toàn thế giới”.[42]
Mặc những lời bên ngoài ấy, các lãnh đạo Bắc Việt Nam vẫn mất tinh thần vì những hành động của Trung Quốc, khiến Hà Nội nghiêng về phía Matxcơva. “Đương nhiên là các lãnh đạo Việt Nam buộc phải tiến tới hợp tác chặt chẽ hơn với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác”, một nhà ngoại giao Bungary ở Hà Nội đưa ra báo cáo vào thời điểm đó.[43] “Nhân dân Việt Nam sẽ luôn sát cánh cùng nhân dân Liên Xô”, Phạm Văn Đồng phát biểu trước vị đại biện của Liên Xô tại Hà Nội vào ngày 24 tháng 11.[44] Tuy nhiên, Bắc Việt Nam vẫn phải duy trì cảnh giác. Matxcơva cũng đã đồng ý tiếp kiến Nixon vào mùa xuân năm 1972, tin tức được tổng thống Hoa Kỳ công khai vào ngày 12 tháng 10.[45]
Mặc dù các lãnh đạo ĐLĐVN đã cố gắng giảm nhẹ ảnh hưởng từ các quyết định đồng thời của Bắc Kinh và Matxcơva nhằm thu hút sự chú ý của chính quyền Nixon, diễn biến này đã giáng một đòn đau vào lòng tin mà các lãnh đạo ấp ủ khi tiến hành đấu tranh ngoại giao. Theo kế hoạch, Bắc Kinh chủ trì các cuộc đối thoại kéo dài với Nixon vào cuối tháng 2 năm 1972. Các lãnh đạo Hà Nội tin tưởng chắc chắn rằng việc Hoa Kỳ và Trung Quốc xích lại gần nhau có liên hệ với tình trạng bớt căng thẳng diễn ra đồng thời trong quan hệ Mỹ – Xô và họ lên án cả hai là những âm mưu nhằm “cô lập cách mạng Việt Nam”, lôi kéo những người khổng lồ xã hội chủ nghĩa nhằm thu hẹp sự trợ giúp từ họ.[46] Một nguồn tư liệu ở Bắc Việt Nam gọi những mánh khóe này là trò giả dối, là “chiến tranh bóp nghẹt”.[47] Nguồn khác lại đánh giá chúng theo cách này: “Ý định của Mỹ là lợi dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để tạo ra tình trạng bớt căng thẳng với cả hai nước, hy vọng cả hai sẽ tác động đến Việt Nam trong các cuộc đàm phán [Paris]”. Vì vậy, Washington cố gắng “dùng Liên Xô và Trung Quốc để tạo áp lực buộc chúng ta chấp nhận” những điều khoản hòa bình, không vì lợi ích của Việt Nam mà vì lợi ích của những người khổng lồ xã hội chủ nghĩa.[48]
Giới lãnh đạo ĐLĐVN thừa nhận rằng người Mỹ giờ đây đang tiến hành cuộc đấu tranh ngoại giao của riêng họ hoặc một cuộc tấn công nhằm cô lập Hà Nội trên bình diện quốc tế. “Hoa Kỳ là kẻ thù số một không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể nhân loại tiến bộ”, một quan chức Việt Nam DCCH bình luận. “Những động thái và nỗ lực của chúng nhằm tìm kiếm giải pháp có lợi trong vấn đề Việt Nam, thông qua các biện pháp và các quốc gia khác, sẽ không giúp ích gì chúng”.[49] Tuy nhiên, Hà Nội không thể kiểm soát những diễn biến này hay giảm nhẹ tác động của chúng lên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản vốn từng khuếch trương lòng tin của Hà Nội về khả năng đánh đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Một báo cáo tiếng Việt bày tỏ sự tiếc nuối: “Chúng ta đã không phát hiện kịp thời [các điều khoản của] thỏa hiệp [đạt được] giữa Washington, Bắc Kinh và Matxcơva [cũng như những tác động của chúng] đến cuộc chiến tranh của nhân dân ta”.[50]
Các lãnh đạo ĐLĐVN xem việc Trung-Mỹ xích lại gần nhau – và “sự mềm yếu” đi kèm trong lập trường của Bắc Kinh đối với cuộc chiến – là điều đặc biệt gây hại cho lợi ích của họ, xem những diễn biến ấy là khởi đầu cho sự chấm dứt khối liên minh ý thức hệ mà họ từng có với Bắc Kinh. “Những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa khó tránh khỏi tình trạng xói mòn khi đội ngũ cộng sản Nga, Trung Quốc và Việt Nam trở nên bận tâm hơn bởi các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc riêng rẽ của họ”, David Marr viết.[51] Sau chuyến thăm của Nixon, Bắc Kinh không còn ủng hộ lời kêu gọi mang tính chiến lược cho một “thắng lợi dứt khoát của chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam.[52]
Đối với các lãnh đạo ĐLĐVN, chuyến thăm của Nixon tới Bắc Kinh khẳng định rằng viện trợ của Trung Quốc không còn – nếu như đã từng  – là kết quả từ cam kết của Bắc Kinh đối với chủ nghĩa quốc tế vô sản mà là một biểu hiện cho lợi ích dân tộc theo nhìn nhận của Trung Quốc . Việc xích lại gần với Nixon vì thế báo hiệu “sự phản bội” sắp diễn ra của Trung Quốc.[53] “Nền tảng cho mọi hành động của Trung Quốc chính là chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa sô-vanh nước lớn Trung Quốc”, một quan chức Việt Nam DCCH kết luận.[54] Hoặc, như một nhà ngoại giao Bungary tại Hà Nội diễn tả vào cuối năm 1971 “Các đồng chí Việt Nam nhận thức rõ rằng giới lãnh đạo Trung Quốc còn lâu mới hy sinh ‘lợi ích dân tộc tối thượng’ của họ trong cuộc đấu tranh ở Việt Nam nếu trong thời gian dài Trung Quốc vẫn không chịu chấp nhận một sự hy sinh ít ỏi để có được sự đoàn kết của các quốc gia xã hội chủ nghĩa”.[55] “Trung Quốc muốn chúng tôi đấu tranh lâu dài”, một nghiên cứu bằng tiếng Việt gần đây đưa ra kết luận về những diễn biến của thời kỳ 1971-1972, và “dùng những sự kiện ở Đông Dương để ghìm chân người Mỹ [trong lúc] cố gắng xích lại gần với Mỹ và tập hợp các lực lượng thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển [và] các phong trào giải phóng dân tộc, nhằm phục vụ cho chiến lược của họ”.[56] Với tính toán ấy, Bắc Kinh đã thao túng Bắc Việt Nam, xem họ như những quân tốt để gia tăng ảnh hưởng của mình lên Đông Nam Á và những nơi khác thuộc Thế giới thứ ba, gây bất lợi cho cách mạng thế giới”.[57]
Đối với Hà Nội, sự sai lệch ý thức hệ của Bắc Kinh còn đáng lo hơn của Matxcơva bởi Bắc Kinh có tiếng nói mạnh mẽ và quan trọng hơn trong việc thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở Thế giới thứ ba.[58] Tình trạng hòa dịu của Liên Xô (với Mỹ) cũng không tốt gì, nhưng rốt cuộc cũng không dẫn đến điều gì khác hơn là sự tiếp nối chính sách chung sống hòa bình sẵn có của Matxcơva. Bên cạnh đó, các lãnh đạo Liên Xô đã hứa hẹn hỗ trợ Hà Nội “cho đến thắng lợi cuối cùng” đồng thời tăng cường viện trợ quân sự về mặt số lượng và chất lượng ngay cả khi họ theo đuổi sách lược giảm nhẹ căng thẳng.[59] Nhưng sự từ bỏ thấy rõ của Bắc Kinh đối với cách mạng thế giới tại một thời điểm trọng yếu của cách mạng Việt Nam là điều hoàn toàn không được mong đợi và gây bối rối. “Trong mắt Hà Nội”, Chen Jian viết, “hành xử đáng ngờ của Bắc Kinh đã hình thành một sự tương phản sắc nét so với lý luận cách mạng về chống chủ nghĩa đế quốc và chống chủ nghĩa xét lại mà các lãnh đạo Bắc Kinh đã nhào nặn xuyên suốt những năm Chiến tranh Việt Nam”.[60] Năm 1965, một lãnh sự Anh tại Hà Nội báo cáo: “Bắc Việt Nam an tâm và được tiếp sức khi biết rằng đất nước của họ được hỗ trợ về mặt địa lý và chính trị bởi Trung Quốc, đất nước Cộng sản duy nhất mà kể từ năm 1949 chưa bao giờ ‘đứng ngoài’, ‘từ bỏ’ hay không hỗ trợ toàn diện cho ‘cuộc chiến tranh giải phóng’ đang được tiến hành” ở Đông Dương.[61]
Tới năm 1972, kinh nghiệm đã chỉ dạy lãnh đạo ĐLĐVN rằng họ phải nhẫn nhịn “những người theo chủ nghĩa xét lại” Liên Xô, nhưng sẽ là đòi hỏi quá mức nếu họ cũng phải chấp nhận bản tính tự phụ thấy rõ của “những kẻ theo chủ nghĩa bá quyền” Trung Quốc.[62] Sau này, khi nhìn lại về hệ quả lý thuyết của việc Trung – Mỹ xích lại gần nhau, một quan chức Việt Nam DCCH đã phát biểu đầy mỉa mai với các đồng nghiệp châu Âu rằng trong tư duy của những nhà tư tưởng Trung Quốc, “tư tưởng Mác – Lê nin là khó nắm bắt và vận dụng”, đồng thời “cách mạng vô sản không thể được dẫn dắt bởi ý thức hệ của nông dân và thợ thủ công”.[63]
Quá sửng sốt trước hành xử của Trung Quốc, một số nhân vật Việt Nam DCCH lên tiếng thắc mắc liệu Bắc Kinh có phá hoại các phong trào giải phóng dân tộc và những sự nghiệp tiến bộ mà họ vừa cổ vũ gần đây hay không. Mối quan ngại này còn trở nên đáng báo động hơn bởi sự gia tăng rõ ràng vị thế quốc tế của Trung Quốc. Một trong những điều mà Nixon và các quan chức Trung Quốc thảo luận tại Bắc Kinh là viễn cảnh CHND Trung Hoa sẽ giành lại ghế đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc (LHQ), đi kèm với vị trí thường trực tại Hội đồng Bảo an và quyền phủ quyết đối với mọi quyết định của hội đồng. “Nếu CHND Trung Hoa có mặt ở LHQ”, quan chức Việt Nam DCCH nói về viễn cảnh này, thì “chắc chắn sẽ có thêm một tiếng nói chống lại lập trường của Việt Nam”.[64]
Việc Trung-Mỹ xích lại gần nhau cũng khiến Hà Nội lo âu bởi những nguyên do lịch sử và địa lý.[65] Việt Nam và Trung Quốc là những láng giềng và đồng minh lâu đời, thân tình như “răng với môi”, như câu sáo ngữ thường dùng. “Nếu tồn tại một mối quan hệ đặc biệt trong lịch sử của chủ nghĩa cộng sản châu Á”, Christopher Goscha viết về tình huống này, “thì đó chính là mối quan hệ gắn bó những người Cộng sản Việt Nam với những người anh em Trung Quốc”.[66] Cả Trung Quốc và Việt Nam đều là những quốc gia phi phương Tây, thuộc châu Á và Thế giới thứ ba với tiến trình lịch sử cận đại nối kết bền chặt với nhau. “Nền tảng cho mối quan hệ thân tình về chính trị, kinh tế và xã hội giữa Bắc Kinh và Hà Nội không khó để nhận diện”, một lãnh sự Anh tường trình vào thời điểm mở đầu cuộc chiến tranh. “Đó là sự kết hợp của sự gần gũi về mặt địa lý, tính tương đồng dân tộc, sự ngưỡng mộ, e sợ và hàm ơn… Sẽ không có chiến thắng Điện Biên Phủ nếu thiếu đi những khẩu pháo 105mm do Trung Quốc viện trợ”.[67]
Là quốc gia nhỏ hơn và phụ thuộc vào Trung Quốc hơn, Bắc Việt Nam càng mong mỏi, đặc biệt là lòng trung thành và sự hỗ trợ về chính trị từ người láng giềng Trung Quốc, nhiều hơn là từ các đồng minh xã hội chủ nghĩa khác. “Nếu Bắc Kinh và Hà Nội không quá thân tình như vậy, họ sẽ ít có dịp gặp phải những bất đồng”, Chen bình luận. “Một mối quan hệ quá mật thiết tạo thêm nhiều cơ hội mâu thuẫn”.[68] David Marr cũng phát biểu như thế về việc Bắc Kinh và Washington xích lại gần nhau, rằng “hơn bất kỳ nhân tố nào khác, mâu thuẫn này làm sống lại  những nỗi sợ hãi nguyên sơ của người Việt về trò chơi hai mặt của người Hán”.[69] Chính vì sức nặng của những suy xét này, một nhà sử học ngày nay có thể sẵn sàng chấp nhận một bản báo cáo đánh giá của Lê Duẩn về chuyển biến của các sự kiện lúc đó. Đảng Cộng sản Liên Xô, theo nhận định được cho là của Lê Duẩn “là đội ngũ lãnh đạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tận tâm với cách mạng thế giới, trung thành với các nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Nhưng, ông tiếp tục, “các lãnh đạo Trung Quốc hiện thời không phải là những nhà cách mạng mà thực chất họ hành động như những kẻ phản bội lợi ích của các lực lượng cách mạng trên thế giới”.[70] Tương tự, Phạm Văn Đồng được cho là đã thúc giục đại sứ Cuba “thuật lại cho Fidel biết rằng các lãnh đạo Trung Quốc không phải những nhà cách mạng, không phải những người theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và đang tạo ra cũng như sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho cuộc cách mạng ở Đông Dương”.[71]
….
Lời kết
Xem phần còn lại của nội dung văn bản tại đây: Chien luoc ngoai giao cua Ha Noi thoi ky Nixon.pdf

[1] Việc đạt được các mục tiêu của cuộc “Kháng chiến chống Mỹ” là yếu tố cần thiết cho việc đạt được mục tiêu của “Cách mạng Việt Nam”, cuộc cách mạng nhằm mang lại tái thống nhất và chuyển đổi xã hội chủ nghĩa cho một quốc gia đi theo chủ nghĩa Cộng sản.
[2] Robert S. McNamara, James Blight và Robert Brigham, Argument without End: In Search of Answers to the Vietnam Tragedy (New York: Public Affairs, 1999), trang 183, nhấn mạnh theo nguyên văn.
[3] Về những nỗ lực nhằm khởi động đàm phán trước năm 1968, tham khảo Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Tiếp xúc bí mật trước Hội nghị Pa-ri (Hà Nội: Viện quan hệ quốc tế, 1990); David Kraslow và Stuart A. Loory, The Secret Search for Peace in Vietnam (New York: Random House, 1968); Wallace J. Thies, When Governments Collide: Coercion and Diplomacy in the Vietnam Conflict, 1964-1968 (Berkeley: NXB Đại học California, 1980); George C. Herring, ed., The Secret Diplomacy of the Vietnam War: The Negotiating Volumes of the Pentagon Papers (Austin: NXB Đại học Texas, 1983); James G. Hershberg, “A ‘Half-Hearted Overture’: Czechoslovakia, Kissinger, and Vietnam, Autumn 1966,” trong Lloyd C. Gardner và Ted Gittinger, eds., The Search for Peace in Vietnam, 1964-1968 (College Station, TX: NXB Đại học Texas A&M, 2004), trang 292-320; và James G. Hershberg cùng L.W. Gluchowski, “Who Murdered ‘Marigold’? New Evidence on the Mysterious Failure of Poland’s Secret Initiative to Start U.S. – North Vietnamese Peace Talks, 1966,” CWIHP Working Paper Số 27 (Washington, DC: Cold War International History Project, 2000).
[4] Những bình luận của của một nhà ngoại giao Việt Nam DCCH trước người tương nhiệm Pháp, được trích dẫn trong Moscow to Foreign Office (FO), London, 7 tháng 4 năm 1965, trang 1, trong FO 371/180524, Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Vương quốc Anh (TNAUK).
[5] Sophie Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti-Party Affair, 1967-68,” Cold War History, Quyển 5, Số 4 (2005), trang 479-500. Tính “bí mật hoàn toàn” (trang 494) mà các lãnh đạo ĐLĐVN duy trì trong “đời sống nội bộ của đảng” sau Sự kiện Chống Đảng là một phần lý do khiến cơ chế ra quyết định của ĐLĐVN vẫn ở trong tình trạng khó đánh giá. Có bằng chứng mạnh mẽ dù dựa trên suy luận chỉ ra rằng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ đã chi phối quy trình ra quyết định trong Việt Nam DCCH sau năm 1968, với sự ủng hộ từ nhà lý luận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh và Bí thư Trung ương Cục miền Nam Việt Nam Phạm Hùng. Nhưng vẫn chưa thể khẳng định sự chi phối ấy ra sao, đảng đã tiến tới những quyết định như thế nào và ai là người đứng sau mỗi quyết định ấy. Bằng chứng tư liệu sẵn có không cho phép chúng ta bàn luận về cơ chế hoạt động của nội bộ đảng một cách chi tiết.
[6] “Báo cáo tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần 15, ngày 29 tháng 8 năm 1968: Về thắng lợi to lớn của ta trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và hoạt động quốc tế từ đầu xuân 1968 đến nay” trong Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng – Toàn tập, Tập 29: 1968 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004), trang 362; và Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, 1945-1995, Tập I: Ngoại giao Việt Nam, 1945-1975 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996), trang 273.
[7] Những nghiên cứu sâu sắc nhất về chiến lược ngoại giao của Hà Nội sau 1968 bao gồm: Allen E. Goodman, The Lost Peace: America’s Search for a Negotiated Settlement of the Vietnam War (Stanford, CA: Nhà xuất bản Đại học Stanford, 1978); Gareth Porter, A Peace Denied: The United States, Vietnam and the Paris Peace Agreement (Bloomington: NXB Đại học Indiana, 1975); William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, ấn bản thứ 2 (Boulder, CO: NXB Westview, 1996); Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Pari (Hà Nội: Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1996); Ang Cheng Guan, Ending the Vietnam War: The Vietnamese Communists’ Perspective (New York: Routledge, 2004); Liên Hằng Nguyễn, “Between the Storms: An International History of the Second Indochina War, 1968-1973”, Luận án Tiến sỹ, Đại học Yale, 2008; và Pierre Asselin, A Bitter Peace: Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement (Chapel Hill: NXB Đại học Bắc Carolina, 2002). Các tác phẩm hữu ích gián tiếp liên quan đến chủ đề bao gồm: Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars (Chapel Hill: NXB Đại học Bắc Carolina, 2000); Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill: NXB Đại học Bắc Carolina, 2001); Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1996); Lorenz M. Luthi, “Beyond Betrayal: Beijing, Moscow, and the Paris Negotiations, 1971-1973”, Journal of Cold War Studies, Quyển 11, Số 1 (Mùa đông 2009), trang 57-107; Jeffrey Kimball, Nixon’s Vietnam War (Lawrence: NXB Đại học Kansas, 1998); và Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam (New York: Simon and Schuster, 2002).
[8] Bài báo dựa vào các tài liệu tiếng Pháp và Bungary để chứng minh cho những lập luận dựa trên các tư liệu tiếng Việt, một yêu cầu cần phải thực hiện do hồ sơ tư liệu bằng tiếng Việt còn chưa đầy đủ, việc nhà cầm quyền Việt Nam từ chối không cho các nhà nghiên cứu tiếp cận hồ sơ ngoại giao cấp cao của đảng, tính hữu dụng hạn chế của các tài liệu chính phủ có tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3 tại Hà Nội, và tính chủ quan của các nguồn tư liệu thứ cấp bằng tiếng Việt. Được nhà cầm quyền Việt Nam DCCH đánh giá tốt vì động thái phản đối Chiến tranh Việt Nam, chính phủ Pháp được tiếp cận nhiều thông tin nhạy cảm xuất phát từ Hà Nội. Tổng Phái đoàn của Pháp đặt tại thủ phủ Bắc Việt Nam, vốn trở thành tòa đại sứ sau khi Hiệp định Paris được ký vào năm 1973, đã duy trì một cách tương tự mối quan hệ gần gũi và thân tình với nước chủ nhà, cũng như phái đoàn ngoại giao của các nước xã hội chủ nghĩa, vốn được tiếp cận nhiều thông tin còn nhạy cảm hơn. Các hồ sơ ngoại giao của Pháp vì thế có nhiều các báo cáo và tài liệu sâu sắc về chính sách đối ngoại của Bắc Việt Nam. Các tài liệu tiếng Bungary, chưa được các học giả phương Tây khai thác rộng rãi, chứa đựng những góc nhìn sâu sắc về quan điểm của Hà Nội đối với Moscow, Bắc Kinh và các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ. Người Bungary duy trì quan hệ thân tình với Việt Nam DCCH/ĐLĐVN. Vì vậy chúng ta có thể giả định một cách an toàn rằng “những thú nhận” của Việt Nam trước các nhà ngoại giao Bungary nhìn chung là thành thật và do đó cũng đáng tin cậy. Tôi rất biết ơn Lorenz Luthi thuộc Đại học McGill vì đã chia sẻ nguồn tư liệu này với tôi.
[9] Tham khảo William H. Sullivan, lời nói đầu của cuốn Goodman, Lost Peace, xv; và George Donelson Moss, Vietnam: An American Ordeal, ấn bản thứ 3 (Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall, 1998), trang 310.
[10] Ang Cheng Guan, Ending the Vietnam War, trang 20-22.
[11] Ang Cheng Guan, The Vietnam War from the Other Side: The Vietnamese Communists’ Perspective (New York: RoutledgeCurzon, 2002), trang 142.
[12] Bắc Kinh biết về các cuộc đàm phán bí mật vào tháng 9 năm 1970, có khả năng là sớm hơn. Tham khảo “Zhou Enlai and Pham Van Dong, Beijing, 19 September 1970”, trong Odd Arne và cộng sự, eds., 77 Conversations between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964-1977, CWIHP Working Paper số 22 (Washington, DC: Cold War International History Project, 1998), trang 173.
[13] Direction des Affaires Politiques Asie-Océanie – Ministère des Affaires Étrangères (DAPAO), “Note: Des prises de positions chinoises sur le problème vietnamien”, 4 tháng 1 năm 1971, trang 4, trong Số 145, Asie-Océanie: Vietnam Conflict (AO:VC), Archives Diplomatiques de France, La Courneuve, Paris (ADF).
[14] “Meeting Minutes of Mao Zedong Meeting with North Vietnamese Leaders, 11 May 1970”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 163-169.
[15] “Le Duc Tho and Ieng Sary, 7 September 1971”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 178.
[16] Chủ tịch Hồ Chí Minh và công tác ngoại giao (Hà Nội: Nhà xuất bản Sự thật, 1990), trang 231-233; và Robert K. Brigham, Guerrilla Diplomacy: The NLF’s Foreign Relations and the Viet Nam War (Ithaca, NY: NXB Đại học Cornell, 1998), trang 85.
[17] Asselin, Bitter Peace, trang 20-21.
[18] Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, “Bản ghi nhớ dịp Kỷ niệm lần thứ 15 ngày ký Hiệp định Geneva 1954 của Việt Nam (20 tháng 7, 1954-1969)”, Hà Nội, 1969, trang 3, 8, trong kho tư liệu cá nhân của tác giả.
[19] Nguyễn Khắc Huỳnh, “Les pourparlers de Paris 40 ans après – un regard rétrospectif et réflexions”, tham luận trình bày tại Colloque International: “Guerre, diplomatie et opinion: Les négociations de paix à Paris et la fin de la guerre au Vietnam (1968-1975)”, Paris, 13-14 tháng 5 năm 2008, trang 2-3.
[20] Brigham, Guerrilla Diplomacy, trang 85-91; và Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 2: 1955-1976 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2008), trang 347.
[21] “Zhou Enlai and Pham Van Dong, 17 September 1970”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 172.
[22] “Mao Zedong and Pham Van Dong, 23 September 1970”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 175.
[23] Ngoại giao Việt Nam, 1945-2000 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2005), trang 244; Chen Jian, “China, the Vietnam War, and the Sino-American Rapproachement, 1968-1973”, trong Odd Arne Westad và Sophie Quinn-Judge, eds., The Third Indochina War: Conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-1979 (New York: Routledge, 2009), trang 47-48; và William S. Turley, The Second Indochina War: A Concise Political and Military History, ấn bản thứ 2 (Lanham, MD:  Rowman & Littefield, 2009), trang 184. Theo Chen, Bắc Kinh đã điều chỉnh lập trường của mình đối với các cuộc đàm phán Hoa Kỳ – Việt Nam DCCH sau năm 1968 bởi Liên Xô đã thế chỗ Hoa Kỳ trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc. Tham khảo Chen, “China, the Vietnam War, and the Sino-American Rapproachement”, trang 41-42.
[24] Học viện quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại: Vì sự nghiệp giành độc lập, tự do, 1945-1975 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2001), trang 223; nhấn mạnh tính nguyên bản.
[25] Gary R. Hess, Vietnam and the United States: Origins and Legacy of War, Bản sửa đổi, (New York: Twayne Publishers, 1998), trang 113-115; và Asselin, Bitter Peace, trang 21-22.
[26] Le Kinh Lich, ed., The 30-Year War, 1945-1975, Tập II, 1954-1975 (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới, 2002), trang 192
[27] Các bình luận của một nhà ngoại giao Anh được thuật lại trong Tokyo đến Paris, 23 tháng 4 năm 1971, trang 2, trong Số 145, AO:VC, ADF.
[28] Văn Tiến Dũng, Cuộc kháng chiến chống Mỹ: Toàn thắng (Hà Nội: Nhà xuất bản Sự thật, 1991), trang 47-48.
[29] “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, số 214-NQ/TW, ngày 1 tháng 3 năm 1971”, trong Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng-Toàn tập, Tập 32: 1971 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004), trang 192-243; Lê Mậu Hãn, Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Đại hội và Hội nghị Trung ương (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995), trang 92; và Cao Van Luong, “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – Thành quả tổng hợp sức mạnh của cả nước của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, Nghiên cứu Lịch sử, Số 2 (1985), trang 6.
[30] Nguyen Thanh Le, Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam, 1968-1973 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1998), trang 74-75.
[31] Luthi, “Beyond Betrayal”, trang 67.
[32] “Memorandum by Aleksander Aleksandrov, First Secretary of the Embassy of the PRB in the City of Hanoi: Regarding Meeting with Bertold [Bergold], Advisor Charge d’ Affaires in the Embassy of the GDR”, n.d., trang 165, trong, Archivna Edinitsa [File] (AE) 33, Opis (Op.) 22p, Arkhiv na Ministerstvoto na Vunshnite Raboti [Hồ sơ của Bộ Ngoại giao], Sofia (AMVR); Simeon Mitropolitski dịch.
[33] “Memorandum from Boris Stoichev, Attaché of the Embassy; Regarding Information Received on the Attitude of the DRV Toward the Impending Visit of Nixon in Bejing”, n.d., trang 163, trong AE 33, Op. 22p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch. Việc miêu tả Lê Duẩn là một người cực đoan hàng đầu của ĐLĐVN được lấy từ “Ideological Debate in the DRV”, Quinn-Judge, trang 488.
[34] Lưu Đoàn Huynh, “The Paris Agreement of 1973 and Vietnam’s Vision of the Future”, trong Westad và Quinn-Judge, eds., Third Indochina War, trang 89; và Zhai, China and the Vietnam Wars, trang 196.
[35] “Memorandum from Boris Stoichev”, trang 163a.
[36] “Information on the Visit of the Vietnamese Party-Government Delegation in Beijing”, 5 tháng 12 năm 1971, trang 303, trong AE 90, Op. 22p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[37] Như trên, trang 304. Tướng Lâm Bưu là người kế nhiệm theo chỉ định của Mao. Ông qua đời một cách bí ẩn sau khi bị cho là âm mưu đảo chính lật đổ Mao.
[38] Liên Hằng T. Nguyễn, “The Sino-Vietnamese Split and the Indochina War, 1968-1975”, trong Westad và Quinn-Judge, eds., Third Indochina War, trang 22.
[39] Beijing to Paris, 18 tháng 9 năm 1971, trang 1, trong Số 145, AO:VC, ADF. Bắc Kinh đặc biệt lo ngại việc người Việt Nam trở thành bá quyền khu vực liên minh với Moscow không bao lâu sau khi hoàn thành tái thống nhất và sẽ hoàn thành “vòng vây” chiến lược của Liên Xô đối với Trung Quốc, kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc tại thời điểm đó. Đối với Bắc Kinh, “hình ảnh Đông Dương trong tương lai là hình ảnh một khu vực không có sự hiện diện của một cường quốc cũng không bị áp đảo [bởi Việt Nam]”. Beijing to Paris, 17 tháng 2 năm 1972, trong Số 145, AO:VC, ADF.
[40] “Memorandum from Boris Stoichev”, trang 163a.
[41] “Le Duc Tho and Ieng Sary, 7 September 1971”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 178.
[42] “Information on the Visit of the Vietnamese Party-Government Delegation in Beijing”, 5 tháng 12 năm 1971, trang 307-308, trong AE 90, Op. 22p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[43] “Information: Regarding the Position of the Vietnamese Side on the Improvement of Sino-American Relations”, n.d., trang 3, trong AE 33, Op. 22p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[44] “Information on the Visit of the Vietnamese Party-Government Delegation in Beijing”, trang 309.
[45] “Information by Aleksander Aleksandrov, First Secretary of the Embassy of the PRB in the City of Hanoi: Regarding Attitude of the DRV Leaders”, n.d., trang 12, trong AE 33, Op. 23p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[46] Trần Quang Cơ, “Đường lối quốc tế đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước”, trong Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004), trang 72; Nguyễn Khắc Huỳnh, “Nghệ thuật đàm phán và phương châm giành thắng lợi từng bước”, trong Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao, trang 429, 436; và Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Lịch sử chính phủ Việt Nam, trang 300.
[47] Học viện quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại, trang 256.
[48] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, trang 249, 300.
[49] “Report by Vladislav Videnov, Ambassador of the PRB in the DRV: Regarding Talks with the Deputy Minister Hoang Van Tien during the Farewell Lunch with the Delegation of the Foreign Ministry of the PRB, Led by Comrade M. Tarabanov on 19 August 1971”, trang 214, trong AE 33, Op. 23p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[50] Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam, 1945-1975: Thắng lợi và bài học (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000), trang 233.
[51] David G. Marr, “Sino-Vietnamese Relations”, The Australian Journal of Chinese Affairs, Số 6 (tháng 7 năm 1981), trang 54.
[52] Chu Ân Lai nói riêng với các nhà ngoại giao Pháp rằng Bắc Kinh đã chuẩn bị chấp nhận một kết thúc chiến tranh thông qua đàm phán và “một sự trì hoãn trong vòng vài năm” trước khi Việt Nam tái thống nhất. Tham khảo DAPAO, “Note: Entretients récent avec les dirigeants chinois”, 10 tháng 2 năm 1972, trang 1, trong Số 145, AO:VC, ADF. Các lãnh đạo Trung Quốc vẫn duy trì quan điểm như trước đây rằng bình thường hóa quan hệ Trung – Mỹ đòi hỏi giải pháp đối với các vấn đề bức thiết; đó là, Đài Loan và Việt Nam. Tham khảo Bejing to Paris, 28 tháng 6 năm 1972, trang 2, trong số 145, AO:VC, ADF.
[53] “Report by Apostol Kolchev, Ambassador of the PR Bulgaria in the DR Vietnam: Regarding the Visit of Ngo Diem, Head of Department ‘Print and Information’ in the Ministry of Foreign Affairs of DR Vietnam”, 19 tháng 8 năm 1972, trang 22, trong AE 33, Op. 23p, AMR; Petia Draguieva dịch. Đồng tham khảo, Nguyen, “Sino-Vietnamese Split”, trang 22.
[54] “Memorandum by Verban Tsanev, Head of the Fifth Department”, 13 tháng 9 năm 1971, trang 157, trong AE 33, Op. 22p, AMVR, Simeon Mitropolitski dịch.
[55] “Information on the Visit of the Vietnamese Party-Government Delegation in Beijing”, trang 304.
[56] Học viện quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại, trang 209.
[57] Có thể tồn tại một sự thật nào đó đằng sau luận điểm này. Tháng 6 năm 1965, Chu Ân Lai nói với Tổng thống Tanzania Julius Nyerere “sức mạnh của Mỹ càng bị sa lầy ở Việt Nam, thì phong trào giải phóng và giành độc lập dân tộc càng phát triển”. Tham khảo “Zhou Enlai and Tanzanian President Julius Nyerere, Dar es Salaam, 4 June 1965”, trong Westad và cộng sự, eds., 77 Conversations, trang 86.
[58] Luthi, “Beyond Betrayal”, trang 73.
[59] DAPAO, “Note: L’URSS et le conflit indochinois”, 15 tháng 2 năm 1972, trang 2, trong Số 320, AO:VC, ADF.
[60] Chen, “China, the Vietnam War, and the Sino-American Rapprochement”, trang 59.
[61] British Consulate-General, Ha Noi (BCGH) to Southest Asia Department, London (SEAD), 18 tháng 11 năm 1965, trang 1, trong FO 371/180528, TNAUK.
[62] Gaiduk, Soviet Union and the Vietnam War, trang 68.
[63] “Memorandum by Verban Tsanev, Head of the Fifth Department”, trang 157.
[64] Như trên.
[65] Trong một cuốn sách lịch sử ngoại giao chính thức của Việt Nam DCCH, Lưu Văn Lợi có viết: Hà Nội đã trải qua khó khăn trong các cuộc đàm phán Paris bởi xung đột Trung – Xô và sự “phát triển quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ”. Ông không đề cập đến những tác động bất lợi của tình trạng bớt căng thẳng trong quan hệ Mỹ – Xô. Tham khảo Lưu Văn Lợi, Ngoại giao Việt Nam, trang 340.
[66] Christopher E. Goscha, “Vietnam, the Third Indochina War and the Meltdown of Asian Internationalism”, trong Westad và Quinn-Judge, eds., Third Indochina War, trang 157.
[67] BCGH to SEAD, 18 tháng 11 năm 1965, trang 1.
[68] Chen, Mao’s China, trang 236.
[69] Marr, “Sino-Vietnamese Relations”, trang 57.
[70] “Report by Vladislav Videnov, Ambassador of the PR Bulgaria to the DR Vietnam: Regarding Some Assessments and Points of View of the VWP on the Events and the Situation in Vietnam during the Last Two Months (since April 15 till June 10)”, 22 tháng 6 năm 1972, trang 27, trong AE 33, Op. 23p, AMVR; Simeon Mitropolitski dịch.
[71] Như trên.

Vài ý kiến đầu năm 2014 cùng Bà Con VN về việc mất Hoàng Sa:

Phạm đình Tấn FB

Hôm nay còn 10 ngày nữa là tròn 40 năm Trung cộng dùng súng đạn tàu chiến với lực lương hơn 20 ngàn đánh chiếm Hoàng sa của Việt nam ta. Có 74 Chiến sĩ của QL VNCH đã hy sinh , 4 chiến hạm bị chìm và hư hại , nhưng Trung cộng cũng trả giá đắt là Tướng tá tàu bè bị tiêu diệt bỡi QL HQ VNCH.
Tôi không muốn nhắc đến QL VNCH nữa trong 40 năm nay , vì tôi là một “thành viên” trong lực lượng đó dù đã hy sinh một phần thân thể trước 30-4 để bảo vệ cho thể chế VNCH non trẻ – Đã thua CSVN , là thực tế – Đừng bàn tới chuyện thắng thua ,nay thì dư thừa rồi – ĐCSVN hay là nhà nước CHXHCN VN mấy mươi năm là đã làm nhưng hình như chưa đủ với đám Ngụy quân Ngụy quyền VNCH bán nước cho Đế quốc Mỹ , tức là bán Đất nước này cho ngoại bang , liếm giày liếm đít liếm khu hay liếm cái gì gì đó của bọn Đế quốc mà cầm đầu là tên ĐQ sen đẩm Mỹ mà quay lại đàn áp bóc lột bắt gà bẻ bí…trộm heo của Nhân dân ta , vay nợ máu của Nhân dân ta….ai cũng đã nghe đã đọc thì nói lại tốn thì giờ.
Gần nửa tháng nay, do đọc nhiều bài của Báo chí trong nước nói hơi bị nhiều về cái ngày khốn nạn 19/1/1974 Trung cộng chiếm được Hoàng sa của Tổ quốc VN ta mà Tổ tiên ta đã hàng ngàn năm gây dựng để lại cho con chấu là chúng ta – Nói làm gì, để làm gì đến hơn 40 năm sau??? – Với nhà nước hiện nay của VN và ĐCSVN lãnh đạo quản lý tất tần tật đất nước này, và chính ĐCSVN cùng chung ý thức hệ và là đồng chí của Trung cộng , còn biết bao câu kinh nhật tụng tung hô cái tình của Trung cộng và ĐCSVN mấy mươi năm nay mà là người VN ai cũng nghe cũng biết cũng đọc cũng hiểu. Nói lại nó quá thừa và nhàm tai mắt.
Trung cộng có chiếm HS là chiếm của Bọn Ngụy Sài gòn , đâu phải của VNDCCH phải hông nào . Mà Trung cộng cũng nhất định tiến tỡi Chủ Nghĩa CS , ĐCSVN cũng sẽ tiến tới CNCS phải hông nào ,thế là một thế giới đại đồng không biên giới không giai cấp không nhà nước… thì Trung cộng có chiếm HS từ Ngụy quyền SG bán nước thì cũng là để xây dựng cho CNCS trong tương lai chớ có gì đâu.
………………………………………………………………………………………….
Tôi không thích nói dong dài và cố chứng minh cho mình là thế nào đó, nhưng hôm nay tôi có 2 lời nói cùng Bà con Người Việt Nam như sau:
1- Với những Chiến hữu QLVNCH còn sống sót cho đến hôm nay , chúng ta ( Nếu quí vị cho phép, còn không thích thì cứ coi như tôi nói bậy hay bắt quàng làm họ) , việc HS bị Trung cộng chiếm là do chúng ta phải chiến đấu với nhiều người , trên đất liền cùng Biển đảo- Chúng ta thua là điều dĩ nhiên ,cũng đừng đổ lỗi cho Mỹ , Hoàng sa đâu phải của Mỹ , chúng ta không thể đủ khả năng để chống cự tùm lum mặt được, chúng ta chịu tội với Tổ tiên VN – Nếu còn đến hôm nay thì chúng ta thế nào cũng tổ chức đánh chiếm lại HS dù có hy sinh nhiều người VN hơn nữa – Nhưng nay đã gần 40 năm , chúng ta đã thua Cong sản , thì coi như chúng ta đã chết hết , sống cũng là những thây ma thôi , có oán hận cũng là cói âm – Không phải dương trần – Chúng ta đành chịu lỗi với Tổ tiên ta , do chúng ta dở nên để mất nước , giờ Tổ tiên VN nếu linh thiêng muốn làm tội thế nào chúng ta cũng chấp nhận- Tôi không thích bất kỳ ai mượn vụ Hoàng sa để lợi dụng và lừa bịp Đồng bào ta , chúng ta thua Trung cộng là thua, thế thôi – Chúng ta thất bại chịu thất bại và tạ lỗi với Tổ tiên VN cùng Đồng Bào VN

Tôi không muốn với bất cứ lý do , cũng chỉ là ngụy biện để hòng lừa bịp những Công Dân Việt Nam yêu Tổ quốc VN mong mỏi để được vinh danh “chống ngoại xâm”- Bảo vệ và giữ gìn Giang sơn này là trách nhiệm và bổn phận của mỗi công dân VN, không của riêng ai- Bọn ăn đóm theo tàn, thừa nước đục béo cò… lợi dụng sự hy sinh của các chiến hữu bảo vệ Hoàng sa phải hy sinh để hòng kiếm lợi lộc hiện nay, tôi không chấp nhận- Đảng nCSVN đã chưởi bới  không chừa một ngôn từ tiếng Việt nào mấy chục năm nay chưa đủ sao??? Hãy cho những chiến hữu của chúng tôi yên nghỉ nơi cõi vính hằng , mai sau con cháu chúng ta sẽ nhận xét về việc ai bán nước ai không bán nứớc , ai quì mọp Trung cộng và xem Trung cộng là bạn vàng, ai bán nước cho Trung cộng….


2- Thành thật cám ơn và tri ơn tất cả những ai trong 40 năm qua (Dù là các Anh Chị Em trong QĐNDVN – Đảng viên ĐCSVN) đã nghĩ đến và nói đến sự hy sinh của các Quân nhân ở Hoàng sa bị Trung cộng giết – Và tôi xem như những vị này là Đồng Bào VN ruột thịt .- Công lao Quí vị về việc này đã lâu và nhiều , nhưng ĐCSVN không nghe và không làm theo những đề nghị của Quí vị đâu – Quí vị chờ cóc mọc râu đi. – Cái Bóng của Trung cộng nó còn lớn và đè nặng lắm.Thoát không khỏi đâu , trừ khi tỏ rõ thái độ chống lại bá quyển Trung cộng
Vài dòng tâm sự cùng Bà con Việt Nam còn là Người VN đầu năm 2014.

Kính chúc Bà con ta mọi việc như ý mong muốn.
Phạm đình Tấn.
CẢ NƯỚC BỊ LỪA
 CHÂU HIỀN LY

 Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
  

150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 35 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.
Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.

Nhìn lại sau hơn nữa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :
_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?
Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
_ Tại sao đàn ông ?của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường , phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?
Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xả hội phi nhân tính . Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghỉa.

Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.

Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.

Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .

Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.

Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lý tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.

Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối , những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.

Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.

Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…

Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.

Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang , vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian .
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.

Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rủ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xả hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vủ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muổi mòng giửa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.

Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.

Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lổi tầy trời của mình . Đảng sẻ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chấp vá một cách trơ trẻn.

Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng
Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :

“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”


Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ? Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy ?

Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chổ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai !

Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.
Châu Hiển Lý
Bộ đội tập kết 1954

Danlambao 8/1/2014

Một câu chuyện buồn ‘74


Nhóm Hành Khất (Danlambao) – Trong không khí ấm cúng của Tết, miền Nam Việt Nam đã trở lại sinh hoạt bình thường từ sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 sáu năm về trước do cộng sản Hà Nội cùng với cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam đã ngang ngược vi phạm Hiệp ước Ngưng bắn trong những ngày trước và trong Tết mà họ đã ký kết. Đó là vào lúc gần cuối năm 1973, dịp Tết Giáp Dần 1974 đang đến, con tàu Hộ tống Hạm Nhựt Tảo vừa hoàn tất chuyến hải trình 2 tháng xa nhà, đang tiến về bến cảng Tiên Sa để chuẩn bị đón Xuân và phục hồi sức lực trước khi nhận thêm những nghĩa vụ mà Tổ quốc đang mong đợi.

Bảy mươi tư anh hùng năm bảy mươi tư


Trần Mạnh Hảo (Danlambao)(Tưởng nhớ 74 chiến sĩ anh hùng của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hi sinh anh dũng trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1/1974)
Ai chết vì lý tưởng lý tung?
- Các anh chết vì Tổ Quốc!
Năm bảy tư của bảy tư anh hùng
Linh hồn các anh bạc đầu sóng nước
Hoàng Sa Trường Sa máu Việt gầm rung

Ông Dương Chí Dũng khai cả bộ trưởng Trần Đại Quang

Video: Lời khai của ông Dương Chí Dũng liên quan đến thứ trưởng bộ CA Phạm Quý Ngọ và bộ trưởng Trần Đại Quang (Nguồn: Tuổi Trẻ Online
CTV Danlambao – Báo Tuổi Trẻ Online vừa công bố một đoạn clip khá đầy đủ về lời khai của ông Dương Chí Dũng trong phiên tòa ngày 7/1/2014. Trong vai trò nhân chứng, ông Dũng đã cung cấp thêm nhiều thông tin, bằng chứng về các khoản hối lộ lên 1,5 triệu đô-la cho thứ trưởng bộ công an Phạm Quý Ngọ. Ngoài ra, một số nhân vật đang giữ các vị trí quan trọng trong bộ công an và cả giới tài phiệt cũng đã được nêu đích danh tên tuổi, chức vụ.
Đáng chú ý, bộ trưởng bộ công an Trần Đại Quang cũng xuất hiện trong lời khai của ông Dương Chí Dũng liên quan đến khoản hối lộ 20 tỷ, tức 1 triệu đô-la Mĩ cho tướng Ngọ. Bộ trưởng Quang được nói là người đã ‘nêu ý kiến với anh Ngọ’ để ‘anh Ngọ không can thiệp hay gây khó cho danh nghiệp’.

Ông Dương Chí Dũng xác nhận hối lộ 1,5 triệu đô cho tướng CA Phạm Quý Ngọ


CTV Danlambao – Chiều ngày 7/1/2014, phiên tòa liên quan đến vụ án Dương Chí Dũng trốn đi nước ngoài tiếp tục diễn ra với những lời khai gây chấn động. Xuất hiện trước tòa trong vai trò nhân chứng, ông Dương Chí Dũng đã công bố thông tin về việc thứ trưởng bộ CA, thượng tướng Phạm Quý Ngọ nhận hàng triệu đô-la tiền hối lộ và chạy án.
Báo Thanh Niên cho biết, bắt đầu phiên xử buổi chiều, ông Dương Chí Dũng nói “Tôi là bị cáo trong một vụ án khác và phải chịu mức án cao nhất nên tôi chẳng có gì phải giấu giếm và sẽ khai thật”. Sau đó, ông Dũng khai nhận việc đã rải tiền hối lộ cho hàng loạt quan chức cao cấp bộ công an để chạy án, trong đó có việc mang đến nhà riêng của thứ trưởng bộ CA Phạm Quý Ngọ một túi tiền lên đến 500 ngàn đô-la mĩ. Ngoài ra, ông Ngọ còn bị tố cáo đã nhận hối lộ 1 triệu đô-la trong một vụ khác.

Tiết lộ chấn động: Tướng CA Phạm Quý Ngọ đã mật báo để Dương Chí Dũng trốn thoát

Nghe lời khai của ông Dương Chí Dũng về việc được tướng CA Phạm Quý Ngọ mật báo để bỏ trốn
CTV Danlambao – Sáng ngày 7/1/2014, tòa án Hà Nội đã mở phiên xử đối với phó giám đốc công an Hải Phòng, ông Dương Tự Trọng về hành vi ‘tổ chức cho người khác trốn ra nước ngoài’. Người được ông Trọng tổ chức đưa đi trốn thoát là ông Dương Chí Dũng, anh trai ông Trọng, cựu chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines.
Trong vai trò nhân chứng, ông Dương Chí Dũng đã khai trước tòa một thông tin gây chấn động: Chính thượng tướng, thứ trưởng bộ CA Phạm Quý Ngọ là nhân vật đã mật báo để ông Dương Chí Dũng bỏ trốn trước khi quyết định khởi tố được ban hành.

Tiêu roài anh Quý Ngựa ơi


Nguyên Anh (Danlambao)Một thứ trưởng mà tư cách như vậy thì trách gì bọn đàn em bên dưới và cứ từ đó suy ra nguyên hệ thống, một tầng lớp lãnh đạo thì sẽ biết tư cách của những kẻ miệng lúc nào cũng xoen xoét: sống, chiến đấu, học tập theo tấm gương đạo đức giả của già hồ…

Năm Ngựa chưa tới, đã lòi mặt Ngọ


Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) – Bọn phản động luôn chống phá tổ cò. Vườn rau xã hội chủ nghĩa xanh tươi đẹp đẽ ngon lành ai cũng thèm thuồng như vậy mà chúng cứ bày trò vạch lá tìm sâu Kách Mạng. Âm mưu tìm sâu của chúng hoàn toàn thất bại. Chỉ có đảng ta mới làm được chuyện bắt sâu. Bắt, nhưng chẳng cần phải vạch lá vì sâu đang bò lổm ngổm giữa… Ngọ. Dưới đây là báo cáo tình hình sơ bộ bắt sâu Kách Mạng:

Phóng lao thì phải theo lao


Nguyên Thạch (Danlambao) – Nếu (chữ nếu to tướng) nhìn vấn đề theo góc độ lý luận của người cộng sản về phương diện quốc gia với sự lãnh đạo của nhà cầm quyền, thì những vụ việc đã và đang xảy ra trong thời gian gần đây, nó được xem như một mũi lao đã phóng, ắt phải theo.

Nô tài và Chủ tử


Ngô Việt (Danlambao)Nô tài lâu nay đánh nhiều quả nhưng không lo sợ gì. Nhưng kỳ này sao lòng dạ Nô tài lúc nào cũng bất an. Nay nghe Chủ tử nói như vậy thì lòng dạ lạ càng rối loạn lo sợ một ngày nào đó chắc không tránh khỏi tù tội… Không sao đâu mà. Có ta đây, không lẻ Chủ tử ta để Nô tài người phải chịu thiệt thòi sao. Nào an tâm đi, rót rượu đi…

Từ công an nhân dân đến côn đồ của đảng


Nguyễn Hùng (Danlambao) – Lần đầu tiên vào ngày 09/12/2007 trước sứ quán của Tàu tại Hà Nội và Sài Gòn, người dân Việt Nam cả nước bắt đầu công khai đứng lên chống xâm lược Tàu khựa đã bắt bớ, bắn giết ngư dân, cướp đoạt tàu thuyền và tài sản trên Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa mà Tàu cộng đang chiếm đóng. Đây cũng là lần đầu tiên có cuộc biểu tình tự phát mà không có sự chủ động của đảng cộng sản Việt Nam (CSVN). Tất cả những lần xuống đường phát sinh từ mối quan tâm đến chủ quyền lãnh thổ trước những hành động xâm lược hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thái độ giống như hải tặc của Tàu cộng đối với ngư dân Việt Nam đều được thực hiện trong tinh thần hòa bình, văn minh, trật tự, tự giác và tôn trọng luật pháp.

Quốc kỳ VN: Cờ đỏ sao vàng – từ đâu ra?


Phan Châu Thành (Danlambao) –  “Logo nước Việt” hôm nay
Là người Việt Nam hôm nay, chúng ta ai cũng bị phải quá quen với Cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của quốc gia “mình”, là cái logo nước Việt, mà mấy ai giải thích được nó xuất phát từ đâu và nó có ý nghĩa gì và đại diện cái gì, tại sao nó – cái hình chữ nhật đặc màu đỏ máu có ngôi sao vàng năm cánh ở giữa đó – lại được Hồ Chí Minh chọn là lá cờ đại diện cho đất nước và dân tộc Việt ta từ cái ngày ở hang Pắc Bó, cho đến hôm nay?

Mùa xuân có bầy quạ đỏ

>
Những cánh mai vàng rụng xuống bên ven rừng buổi chiều.
Những giọt nước mắt nhỏ xuống bên nấm mồ hoang trong sương đêm.
Những em bé khát sữa gào khóc trong cơn đói lạnh.
Những cô phụ đầu chít vầng tang trắng trong nỗi buồn bất hạnh.
Những mẹ già mắt nhòa ướt lệ nhìn về một phương trời xa.
Và tôi – một thằng tôi đang nhìn về một tương lai nhạt nhòa.
Bởi em đã thấy và tôi cũng đã thấy.
-Mùa xuân năm nay có bầy quạ đỏ!

Nếu mai Ếch chết em có mừng không!?


Uyển Thi (Danlambao) – Vào ngày chúa nhật vừa rồi sau khi tham dự thánh lễ ở nhà thờ Đức Bà, nhóm bạn xa nhà chúng tôi hẹn nhau uống cafe ở quán SAO bên cạnh hồ Con Rùa Q1 Sài Gòn, nói là uống cafe nhưng thực tế là ăn sáng, bởi ở đây giá 1 ly cafe hay bất cứ thức uống khác kể cả dĩa cơm chiên, hay mì xào đều có giá 50.000 đồng vượt quá khả năng của những đứa sinh viên nghèo phải sống xa nhà như chúng tôi. Mục đích đến đây là để nhìn thẳng vào lãnh sự quán tàu khựa bên kia đường, và dõi mắt qua phía công viên 30/4 xem coi có dân oan biểu tình để giúp đỡ.

Đầu năm chém gió cùng thông điệp Thủ Tướng


Công dân Việt Nam 2014 (Danlambao) – Đầu năm nhiều người hứng khởi với thông điệp của ngài thủ tướng, nghe rất tâm huyết và quyết liệt. Thông điệp có vẻ là chuyện lạ ở cái xứ Việt Nam ta. Nhưng chớ vội mừng, ở xứ ta nói đấy nhưng làm thì chưa biết đến bao giờ. Dân chủ là cái từ từ năm 1946 đã có trong hiến pháp vậy mà đến nay cả gần 80 năm rồi. Cũng chưa ai thấy dân chủ đâu. Chủ Nghĩa Xã Hội thì đã xây dựng cả 40 năm rồi, giờ vẫn đang “định hướng”. Vậy “định hướng” xong rồi, còn “tiến tới”, còn “hoàn thành” nữa thì bao giờ CNXH sẽ thành công? Đặc điểm của các chính trị gia Việt Nam là thích đề ra kế hoạch, thích ăn to nói lớn nhưng lại không ấn định một thời hạn để hoành thành, không cam kết một kết quả cuối cùng.

Những chiếc bánh vẽ trên mâm cỗ đầu năm 2014 của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng


Ngô Việt (Danlambao) - Đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viết bài đặt tựa: “Hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của Nhân Dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền tảng phát triển nhanh và bền vững.”
Bài được nhiều người đánh giá trên mạng xã hội mấy ngày nay. Không kiềm được tò mò, chúng tôi cũng tìm đọc nguyên văn và xin đưa ra một vài ý nghĩ sau đây về một vài vấn đề mà ông Thủ Tướng đã đưa ra trong bài viết nêu trên:

Khi đảng CS ‘nắm chắc ngọn cờ dân chủ’


Bùi Tín (VOA)Không bao giờ chiếc mũ dân chủ đẹp đẽ có thể đội vừa đầu các nhà độc đoán – độc tài – độc đảng tham quyền và tham nhũng, luôn quay lưng lại với nhân dân, bỏ tù người yêu nưóc chống bành trướng, coi báo chí tự do là tử thù, săn lùng các blogger, tha hóa ngành công an từ lực lượng “thức cho dân ngủ” thành kẻ “tay sai giữ nhà và giữ tài sản phi pháp cho các quan tham các cấp”…

Giới hạn cải cách trong Hiến Pháp mới của Việt Nam


Rodion Ebbighausen – Bản dịch của Nguyễn Thị Yến Trang (DTD) – Kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã có một hiến pháp mới sau khi thông qua cuộc bỏ phiếu công khai của Quốc Hội vào tháng 11 năm 2013. Bản hiến pháp mới này đã bỏ rơi nhiều nguyện vọng trong việc cải cách về chính trị và kinh tế.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã nắm quyền ở quốc gia Đông Nam Á này trong suốt 68 năm. Và đó là một trong các đảng đã nắm quyền lực lâu nhất trên thế giới. Nhưng đến nay, quyền lực của đảng đang bị đe dọa. Vì để bảo vệ quyền lực của mình nên đảng đã đặt ra một Hiến pháp mới.

Kẻ sống sót trong trận Hải chiến Hoàng Sa


Nhóm Hành Khất (Danlambao) - Đây là một câu chuyện hiếm hoi, có thật của một quân nhân Hải quân Việt Nam Cộng hòa thoát hiểm và kể lại trên mạng Hải quân. Xin chia sẻ cùng bạn đọc, gọi là tưởng nhớ đến những người quên mình vì đất nước Việt Nam, nhưng bị ruồng bỏ trong lịch sử đảng nơi mà rồi đây sẽ được ghi đậm dòng chữ “đảng Cộng sản Hà Nội thông đồng thừa nhận Hoàng Sa là của Trung Cộng vì âm mưu của Bắc Việt muốn thôn tính miền Nam Việt Nam Cộng hòa.”

Không hẳn đối phương cao hơn, mà vì chính họ tự cúi đầu thấp xuống


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Biết là nói mãi cũng bằng thừa vì “đảng ta nó thế” (lời nhân dân truyền khẩu). Nhưng, 40 năm trận Hoàng Sa – 26 năm trận Gạc Ma Trường Sa, nỗi đau của 138 chiến sĩ hai miền Nam Bắc và hàng trăm ngàn liệt sĩ đồng bào trận chiến 1988 chống TQ xâm lược Bắc biên giới còn đó, chưa có một đền đài miếu mạo nào chính thức tôn vinh thờ tự thì không thể nào không nhắc lại để biết rằng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, chúng ta hãnh diện tự hào vì tấm gương bất khuất oanh liệt của tiền nhân trước đại họa giặc Tàu phương bắc bấy nhiêu thì dưới chế độ CS độc tài chúng ta lại đớn đau chứng kiến những vết ô nhục khó mà tẩy rữa bấy nhiêu, khi biết rằng: Trong tất cả những cái chết thì hy sinh vì tổ quốc, vì bảo vệ cương thổ quốc gia, được trân trọng, tôn vinh cao cả hơn hết.

Mùa xuân Yêu Thương


Mí Rưỡi (Danlambao) – Một năm cũ lại trôi qua. Đất trời, vạn vật đang chuyển mình để bước vào mùa Xuân mới. Dẹp bỏ những bộn bề, lo toan của công việc thường nhật, tôi tham gia cùng với Câu lạc bộ từ thiện tổ chức chương trình định kỳ Mùa Xuân Yêu Thương. Chương trình lần này hướng về các em nhỏ và những gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở Bạc Liêu.
Chào đón đoàn chúng tôi cũng là những gương mặt khắc khổ của các cụ già, những ánh mắt lạ lẫm, hiếu kỳ của các em nhỏ. Đa phần họ là người dân tộc Khơ Me, quanh năm sống bằng nghề làm muối và nuôi tôm, nên cuộc sống lam lũ và phụ thuộc nhiều vào thời tiết.

Những tỳ vết của viên ngọc Singapore (3)


Phan Châu Thành (Danlambao)Đầu năm mới 2014, tôi cứ chần chừ mãi việc viết nốt phần cuối về “những tỳ vết của viên ngọc Singapore” như đã tự hứa này. Chần chứ, là vì ai lại thích đi nói về tỳ vết của những người hàng xóm làm chuyện đầu năm cơ chứ. Nhưng đã hứa rồi… Mà tôi thì không thích là “Con ma nhà họ Hứa” như thủ tướng X nổi tiếng trơ trẽn của dân Việt đau khổ chúng ta hôm nay, kẻ lại vừa mới có “lời hứa đầu năm” còn trơ hơn nữa. Trơ, vì với kẻ như X, có hứa lớn có nghĩa là sẽ có hại lớn…

Phượng Yêu (Tập 31)


Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - “Đất không nghe trời thì trời nghe đất”. Năm mới năm me năm ngày rồi mà vẫn nín khe meo cháu Phượng chúc bác Chổi, thì bác Chổi đành có meo này chúc mừng cháu Yêu vậy.
Chúc mừng vì không ai ngờ đất Rạch Giá phèn chua, “dưới sông cá Chốt trên bờ Mai liên”* nhà ta lại nẻ ra một Gô Ba Chớp Ba Nháng vừa có thông điệp đầu năm khiến cho nhiều người hồ hởi phấn khởi: “Đổi mới thể chế”. Thế là sang năm mới 2014, chắc chắn Việt Nam ta có thể chế mới, vì Kách Mạng nói là làm liền, như nói đổi mới văn hóa là a lê hấp Tổng bí thư Trường Chinh làm gương lôi cổ cha mẹ ra đấu tố liền, như bác Hồ cho bắn cái đoàng bà Nguyễn Thị Năm là đại ân nhân của Kách Mạng, đại khái kể sơ bộ là như vậy.

Vì sao Thứ trưởng Bộ CA Phạm Quý Ngọ đột ngột “đổ bịnh”?


Cầu Nhật Tân - Bằng quyết định phút chót sau cuộc họp bất thường rất gay gắt của Bộ Chính trị hôm Chủ Nhật, số phận Thượng tướng bất đắc dĩ Phạm Quý Ngọ coi như đã được định đoạt. Trong cuộc họp, một số ý kiến đề nghị chỉ xử lý khoanh vùng nhưng cuối cùng tập thể BCT đã quyết là công khai hết, không có vùng cấm. Như vậy, việc khởi tố và bắt tạm giam Thượng tướng Thứ trưởng Bộ CA này chỉ là vấn đề thời gian. Trước đó, chức vụ Thủ trưởng Cơ quan Điều tra Bộ CA đã bị tước từ tay tướng Ngọ trao sang tay tướng Lê Quý Vương. Hồi 2006 vụ PMU18, chức này bị tướng Ngọ đoạt từ tay tướng Cao Ngọc Oánh. Mới cách đây ít ngày, người ta còn thấy Thượng tướng rất hăng hái đi chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ mà giờ Thượng tướng đã đột ngột “đổ bịnh”. Tuy nhiên, ngay chiều nay, khi được phóng viên phỏng vấn về lời khai của Dương Chí Dũng trước tòa thì Thượng tướng tỏ ra vô cùng minh mẫn và cãi rất khỏe.

Phê bình tiếp tập thơ dở nhất nước vừa được hội nhà văn Việt Nam trao giải thưởng văn học 2013


Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Vừa qua, chúng tôi (TMH) đã gửi in trên mạng bài: “Những lớp sóng ngôn từ hay những lớp sóng giải thưởng đánh chìm thơ” nhằm phê bình tập thơ của tác giả Mã Giang Lân: “Những lớp sóng ngôn từ” (NXB Hội nhà văn 2013). Tập thơ “Những lớp sóng ngôn từ” là tập thơ duy nhất nhận được giải thưởng Hội nhà văn VN năm 2013.

Nhìn tới năm 2014: Lo

Chiến binh al-Qaida vũ trang diễu hành tại  thị trấn  Tel Abyad của Syria, gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 2/1/2014.Chiến binh al-Qaida vũ trang diễu hành tại thị trấn Tel Abyad của Syria, gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 2/1/2014.

Nguyễn Hưng Quốc
Nhìn lại năm 2013 vừa qua, đặc biệt ở xu hướng dân chủ hóa, người ta thấy buồn. Nhìn tới năm 2014 trước mặt, người ta lại thấy lo.

Lo nhất ở cả hai khía cạnh: dân chủ và hòa bình. Ngay ở ngưỡng đầu năm đã thấy bao nhiêu là dấu hiệu không lành, phần lớn đều gắn liền với các lực lượng Hồi giáo cực đoan và đầy bạo động.

Ở Iraq, lần đầu tiên kể từ ngày Mỹ tấn công Iraq, lực lượng Hồi giáo cực đoan chiếm được trọn một thành phố, thành phố Fallujah, khiến cho chính quyền trung ương do Mỹ xây dựng và hỗ trợ vốn đã yếu lại càng thêm yếu và cũng khiến cho nguy cơ nội chiến tại Iraq cũng như nguy cơ trở lại độc tài tại Iraq càng lúc càng dễ bùng nổ.

Nhiều quốc gia Trung Đông và Phi châu khác cũng ở tình trạng đầy hỗn loạn tương tự. Ở Syria, cuộc nội chiến vốn bắt đầu từ tháng 3 năm 2011 vẫn tiếp tục, hơn nữa, càng ngày càng dữ dội với trên 120,000 người bị giết chết. Điều nguy hiểm nhất là trong lực lượng nổi dậy chống chính quyền Bashar al-Assad, thành phần Hồi giáo cực đoan vốn có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức khủng bố càng ngày càng mạnh.

Cuộc nội chiến ở Syria có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nước, nhưng  nghiêm trọng nhất là đối với Lebanon, nơi, một, phải tiếp nhận rất nhiều người Syria tị nạn, và hai, cũng là nơi cung cấp thật nhiều cảm tử quân cho lực lượng nổi dậy tại Syria. Xung đột ở Syria càng nặng, mâu thuẫn tại Lebanon, do đó, càng căng thẳng. Từ cuối năm 2013 đến đầu năm 2014, đã có nhiều vụ nổ bom xảy ra ngay tại thủ đô Beirut khiến nhiều người lo ngại một cuộc nội chiến tại Lebanon có thể sẽ bùng nổ. Nếu Lebanon có nội chiến, sự xáo trộn sẽ lan rộng ra nhiều nước khác, ít nhất là Jordan, Iraq, Turkey và dĩ nhiên, Israel.

Ở Ai Cập, Libya, Cộng hòa Trung Phi (Central Africa Republic), Somalia và ngay cả Afghanistan, nơi quân đội Mỹ vẫn còn hiện diện, các thành phần Hồi giáo cực đoan vẫn càng ngày càng mạnh.

Có thể tóm tắt tình hình thế giới hiện nay vào mấy điểm chính:

Thứ nhất, như một bài báo trên The New York Times số ra ngày 4, tháng 1, 2014 nhận định, ở Trung Đông trong giai đoạn hậu-Hoa Kỳ (Post-American) hiện đang có một khoảng trống quyền lực: Sau khi Mỹ rút quân khỏi Iraq và chuẩn bị rút quân khỏi Afghanistan, không có quốc gia nào đủ mạnh và đủ thiện chí để đóng vai trò hòa giải cũng như hóa giải các xung đột trong khu vực.

Thứ hai, trong cái khoảng trống khủng khiếp ấy, hai quốc gia dầu lửa, Iran và Saudi Arabia nổi lên. Cả hai đều là Hồi giáo nhưng thuộc hai phái khác nhau: ở Iran là Shia và ở Saudi Arabia là Sunni. Chính phủ Iran, một mặt, tiếp tục theo đuổi giấc mơ chế tạo vũ khí hạt nhân và, mặt khác, sử dụng lực lượng Hezbollah, một nhóm Hồi giáo vũ trang theo phái Shia để gây bất ổn và tạo áp lực lên khu vực. Kẻ thù chính của Hezbollah lại là Israel.

Những quả bom nguyên tử đầu tiên Iran chế tạo ra được, nếu có thể, chắc chắn cũng sẽ được sử dụng để đe dọa, trước hết, Israel. Thành ra, mâu thuẫn chính ở Trung Đông vẫn là mâu thuẫn giữa Israel và Iran. Mà Mỹ thì lại không thể bỏ Israel được. Nhưng ở đây lại xuất hiện vai trò của Saudi Arabia: Mới đây họ tuyên bố viện trợ cho quân đội Lebanon ba tỉ đô la để mua thêm vũ khí với mục đích trấn áp các lực lượng Hezbollah trong nước. Như vậy, mâu thuẫn ở Trung Đông hiện nay có hai khía cạnh: một, trong nội bộ Hồi giáo, giữa phái Shia và phái Sunni, hoặc cụ thể hơn, giữa Iran và Saudi Arabia; và hai, giữa Hồi giáo và Israel cũng như Tây phương nói chung.

Thứ ba, vai trò nổi bật của cả Iran lẫn Saudi Arabia, thật ra, chỉ làm phức tạp hóa vấn đề hơn là giải quyết chúng. Hơn nữa, cả hai đều không mạnh và lớn đủ để gây ảnh hưởng lâu dài. Khoảng trống, do đó, vẫn là khoảng trống. Kẻ được hưởng lợi nhất trước khoảng trống quyền lực ấy không ai khác hơn là các thành phần khủng bố, chủ yếu tập trung trong tổ chức Al Qaeda, mục tiêu tiêu diệt chính mà Mỹ nhắm đến sau biến cố 11/9/2001. Có thể nói cả hai cuộc chiến tranh Mỹ phát động ở Iraq và Afghanistan cũng như cuộc chiến tranh chống khủng bố trên phạm vi toàn thế giới do Mỹ phát động từ năm 2001 không mấy thành công. Osama bin Laden đã bị giết chết. Nhưng các tay súng thuộc Al Qaeda vẫn tiếp tục phát triển, thậm chí, lần đầu tiên có mặt một cách mạnh mẽ tại Iraq và có khả năng quay lại cầm quyền, ít nhất ở một số địa phương nào đó ở Afghanistan.

Thứ tư, tất cả các sự kiện ấy đều đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan: Họ muốn rút ra khỏi Trung Đông nhưng chưa chắc đã làm được. Chính phủ Mỹ, trước, thường nhấn mạnh: nhiệm vụ của họ ở Trung Đông đã hoàn tất; sau, lợi ích của Mỹ không còn nằm ở các cuộc chiến tranh hầu như kéo dài vô tận ấy. Nhưng đó chỉ là những lý do để rút quân. Không ai tin là Mỹ cứ tiếp tục nhắm mắt để Trung Đông lại rơi vào tay các lực lượng Hồi giáo cực đoan lần nữa. Mà nếu để tình trạng ấy xảy ra, an ninh của Mỹ lại tiếp tục bị đe dọa và nguy cơ xảy ra khủng bố ngay trên đất Mỹ cũng khó tránh được. Thành ra, hiện nay, dù Mỹ muốn rút, Trung Đông vẫn chưa phải là một quá khứ đối với họ.

Thứ năm, như hệ quả của điều vừa trình bày, Mỹ không thể rảnh tay ở Trung Đông để có thể tập trung hoàn toàn ngân sách và lực lượng vào vùng châu Á - Thái Bình Dương như  điều họ dự định cách đây hai năm. Như vậy, ngay chính ở vùng châu Á - Thái Bình Dương cũng có một khoảng trống quyền lực mà không có một quốc gia nào có thể trám lấp được. Nhật Bản: Không. Ấn Độ: Không. Nam Triều Tiên: Không. Úc: Không.

Thứ sáu, nếu ở Trung Đông, kẻ được hưởng lợi nhất là các thành phần Hồi giáo cực đoan, thì ở châu Á - Thái Bình Dương, đó chính là Trung Quốc. Trung Quốc thừa biết trong tình hình hiện nay Mỹ không thể có bất cứ phản ứng mạnh nào đối với họ. Có thể xem việc họ thành lập khu nhận diện phòng không (ADIZ) ở vùng biển Hoa Đông vào cuối tháng 11 vừa qua là một sự thăm dò. Nhiều quốc gia, từ Mỹ đến Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Philippines và Úc cũng như một số nước ở châu Âu phản đối. Nhưng chỉ phản đối suông. Mỹ đưa phản lực cơ bay ngang vùng nhận diện phòng không do Trung Quốc thiết lập vài ba lần. Rồi thôi. Nhiều hãng hàng không dân sự trên thế giới, để bảo đảm an toàn cho hành khách và cũng để tránh gây xáo trộn cho công việc làm ăn của họ, đã ngoan ngoãn làm theo các mệnh lệnh ngang ngược của Trung Quốc: họ thông báo trước cho chính phủ Trung Quốc về các chuyến bay của mình như Trung Quốc yêu cầu. Chuyện ấy, nếu tiếp tục kéo dài thêm năm bảy năm nữa, cái gọi là khu vực nhận diện phòng không do Trung Quốc thiết lập trên vùng biển Hoa Đông sẽ mặc nhiên được thừa nhận. Lúc ấy, Trung Quốc có thể tuyên bố là họ đã thành công. Và, như mọi người tiên đoán, sau Hoa Đông là Biển Đông, ngay trên khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Có thể nói khoảng trống quyền lực ở Trung Đông là một đe dọa nghiêm trọng đối với tiến trình dân chủ hóa trong khu vực, khoảng trống quyền lực ở châu Á - Thái Bình Dương lại là một đe dọa đối với chủ quyền của nhiều quốc gia, trong đó, có Việt Nam, nếu không muốn nói, đặc biệt là Việt Nam.

Trên thế giới, người ta lo một; người Việt Nam cần thấy lo mười.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét