Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

Hà Nội và canh bạc nhân quyền & Nợ xấu không hề mất đi

Hà Nội và canh bạc nhân quyền

000_Hkg9235491-305.jpg
Một thanh niên đang sử dụng laptop trong một quán cà phê nhỏ ở Hà Nội hôm 28/11/2013
AFP photo
Khúc dạo đầu. . .

Người Pháp chầm chậm rời khỏi quán cà phê nhỏ trên đường Đại Cồ Việt. Nền trời Hà Nội xâm xẩm mây mù đầu đông. Mắt ông ngỡ ngàng. Ngay trên vỉa hè lớp nhớp trước mặt ông, một viên cảnh sát trật tự cấp hàm đại úy đang hùng hổ vung tay chỉ đạo cấp dưới quẳng bàn ghế của quán cà phê lên chiếc xe thùng nhỏ - vốn được dành riêng cho thể loại “sinh hoạt đường phố” này. Những bóng người mờ nhạt loăng quăng trong tiếng quát tháo chói tai như càn khoét vào làn sương cô tịch của Hà thành.

Màn sương trước khi diễn ra đại hội đảng lần thứ 12 vào năm 2016.

Quầng sáng cuối cùng của mặt trời cũng vừa tắt hẳn. Gương mặt viên bí thư thứ nhất về chính trị của tòa đại sứ Pháp đầy vẻ u ám. Ngán ngẩm và khinh bỉ, giọng Jean Philippe Gavois trầm đặc buồn bã hướng đến chúng tôi: “Các bạn không cần phải nói cho tôi về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam nữa. Tôi đã nhìn thấy tất cả”.

Trước đó ít phút trong một quán cà phê khác, ông đã vô tình lặp lại một cử chỉ đặc trưng cho nền văn hóa đối lập đương đại ở Hà Nội: chụp ảnh những nhân viên an ninh trước một vòng rào máy quay phim chĩa vào ông từ những người không mặc sắc phục.

Một trong hai người chúng tôi là Nguyễn Văn Đài - một luật sư được chính quyền khoác cho bộ trang phục “tuyên truyền chống nhà nước” và đã phải thụ án tù vì tội danh cao quý đó, đã không còn được ông chủ quán cà phê quen thuộc nồng hậu đón tiếp, sau lời cảnh cáo đanh thép sẽ “đóng cửa quán” từ những người đại diện cho pháp luật Việt Nam.

Thêm ít phút nữa, bà chủ của quán cà phê thứ hai mà chúng tôi đặt chân vào ôm ngực hổn hển nói với Đài “Các anh mà không ra thì họ đến đóng cửa quán của tôi mất”. Tròng mắt bà ngân ngấn một vẻ đồng cảm xót xa. Hình như một cơn đau tim ngôn luận đang quấn siết ngực bà.
Thưa các ông nhân quyền, Hà nội chúng tôi đây!

Câu chuyện mặt đối mặt đậm sắc thái bất hòa ấy xảy ra vào ngày 28/11/2013, chỉ nửa tháng sau khi giới cầm quyền Hà Nội lần đầu tiên được lọt qua cánh cửa của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc.

Jean Philippe Gavois đã có được một kỷ niệm không hiếm hoi: trước và sau tuyên thệ “Luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người”, bản cương lĩnh đảng - vừa giành được tỷ lệ phiếu thuận ngất ngưởng đến 98% thông qua hiến pháp mới nơi nghị trường quốc hội - đã ngay lập tức quay lưng với bài học đáng quên trong lịch sử phong kiến về quyền tự do cá nhân của dân chúng.

Một ngày sau kỷ niệm không đáng nhớ trên, tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Thanh Giang tại nhà ông. Cũng như luật sư Nguyễn Văn Đài, vị tiến sĩ địa vật lý này được Công an Hà Nội đặc tả như một nhân vật chống đối và áp dụng chế độ cách ly đặc biệt, cho dù những gì tôi biết về ông là tư chất ôn hòa, tuổi già và những kiến nghị đau đáu cuối đời.

Vào lần này, kỷ niệm đầu đông Hà Nội thật nồng cháy. Ngôi nhà cô tịch của Nguyễn Thanh Giang nằm trong một ngõ nhỏ đã bị đội ngũ dày đặc nhân viên an ninh che kín từ hồi nào. Ngay cả lời mời tha thiết của chủ nhà cũng không làm cho hàng rào cách ly lay động. Không vào nhà cùng tham dự cuộc thăm hỏi theo lời đáp từ của nhà văn Nguyễn Thanh Giang, những viên chức an ninh lạnh lùng còn lập tức xô đẩy các vị khách của ông ra khỏi cửa.

Dĩ nhiên tôi cũng nằm trong số khách bất hạnh đó.

Hà Nội những ngày lập đông như đóng băng trong dòng người lặng cúi trên phố. Không may mắn như viên bí thư của Đại sứ quán Pháp, tôi chẳng có cơ hội nào diện kiến người mà tôi muốn học hỏi những kiến thức cao niên.

Thay vào đó, một thể tài kiến thức rất chuyên biệt đang chờ tôi.

Bởi trong khi những vị khách khác chỉ bị “mời” về, một chiếc xe hơi đã trờ tới cạnh tôi. Tôi hiểu, mình đã bị “đón lõng”.

Đồn công an Trung Mỗ thuộc huyện Từ Liêm cách nhà ông Nguyễn Thanh Giang khoảng một cây số, nằm trong một khu vực nhà cao tầng đang thi công, gạch vữa bặm trợn cùng những khuôn mặt cũng chẳng thiện cảm hơn. Trong đồn, một kế hoạch đã được sắp đặt từ hồi nào để tiếp đón tôi.

Ngồi trên xe và áp tải tôi là Trung, một cán bộ của A67 - Cục bảo vệ chính trị 7 thuộc Bộ Công an. Tuổi trung niên, Trung khá điển trai và có lẽ không thiếu tham vọng. Trung hứa hẹn sẽ chỉ “trao đổi” với tôi khoảng một tiếng đồng hồ.

Nhưng buổi lấy cung đã kéo dài gấp sáu lần so với hứa hẹn ban đầu - một tỷ lệ khiến tôi liên tưởng đến hố phân hóa không tưởng về nợ xấu ngân hàng trong báo cáo của cùng hai cơ quan nhà nước là Ủy ban giám sát tài chính quốc gia - từ 35-37%, và từ Ngân hàng nhà nước - gần 6%.

Tỷ lệ 1/6 cũng là một đặc trưng hiếm có của thể chế độc trị ở Việt Nam: cứ 6 người dân lại có một người trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lực lượng công an.

Có lẽ cũng vì nguyên do bội cung như thế mà buổi hỏi cung tôi tập hợp đến hơn một chục nhân viên an ninh. Cùng với A67, cơ quan chủ trì lấy cung là Phòng PA24 - Cơ quan an ninh điều tra của  Công an Hà Nội, chứ không phải PA83 về chính trị nội bộ hay một bộ phận an ninh nào khác. Hai phiên hiệu A67 và PA24 lại chính là cơ chế phối hợp để bắt khẩn cấp và khởi tố tôi về tội danh “Âm mưu lật đổ chính quyền” vào tháng 7/2012.

A67 cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời tôi. Thủ trưởng cơ quan đặc biệt này là Hoàng Phước Thuận. Trước chiến dịch bắt giam tôi vào năm ngoái, Hoàng Phước Thuận đóng lon đại tá. Sau đó, ông được thăng hàm thiếu tướng.
Tôi không bị bắt, các ông thấy đấy. . .

Không nhiều thời gian để người dân kiếm sống, nhưng lại quá dư dả thời giờ cho công an quản lý họ.

Một hồ sơ chi tiết về tôi đã được Công an Hà Nội xác lập. Lý lịch cá nhân. Gần 200 bài viết và trả lời phỏng vấn trên các báo quốc tế VOA, BBC, RFA, RFI, ABC… và báo chí hải ngoại. Và tất nhiên cả mục đích chuyến đi Hà Nội cùng các cuộc gặp gỡ vào tháng 11/2013 của tôi với nhiều “đối tượng” như các ông bà Nguyễn Trọng Vĩnh, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân…

Toàn bộ các vấn đề đều được nhân viên an ninh hỏi và ghi chép một cách chu đáo, hoàn toàn không khác với những gì mà tôi đã trải nghiệm trong trại tạm giam B34 ở Sài Gòn. Tất cả đều có thể làm cho bạn hình dung ra một cuộc bắt giữ không chính thức.

Không chính thức vì đơn giản là không có bất cứ một giấy tờ nào liên quan đến thủ tục giữ người mà phải được PA24 thông báo cho tôi - âu cũng là một hiện tượng ngoài lề phổ biến trong hoạt động “bảo vệ an ninh quốc gia” ở Việt Nam.

Không ngạc nhiên và hoàn toàn bình tâm, tôi thỏa mãn cơ bản các câu hỏi của giới điều tra, bất chấp tính chất ngoài lề của họ. Kể cả việc tôi sẵn lòng chịu đựng nếu họ bắt giam tôi thêm một lần nữa.

Điều an ủi duy nhất cho tôi là gương mặt đôn hậu, trung thực và biểu cảm có văn hóa của người hỏi cung chính - một cán bộ thuộc Cơ quan an ninh điều tra Hà Nội. Đức khoảng trên ba chục tuổi, thông minh và mẫn cảm. Nếu không phải vì những cuộc hỏi cung đầy tính sách nhiễu và giáo điều như thế này, những nhân viên an ninh như Đức sẽ không quá xa cách với những người như tôi trong quán cà phê.

Đa số nhân viên an ninh bao quanh tôi cũng trẻ như Đức. Không đề cập đến những bất đồng sắc cạnh xung quanh điều 4 hiến pháp, tôi nhận ra vẻ ưu tư đầy đặn trong mắt họ, trong thần sắc của họ khi tôi nói về nạn tham nhũng kinh hoàng, các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, các bất công kinh tế cùng bất ổn xã hội đang lên đến tột đỉnh. Đó cũng là những nội dung trong các bài viết đăng công khai của tôi.

Ít nhất, tôi không nhận ra thái độ hoàn toàn vô cảm của họ - những người làm công ăn lương như tôi. Tối thiểu, tôi nhận ra họ khác với nhũng quan chức bệ vệ, giả dối và “ăn của dân không chừa thứ gì” như bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan từng thốt lên. Và tuy vẫn giữ im lặng, cơ mặt họ đã không tránh khỏi vài co giật bức xúc.

Diễn dịch theo người xưa, trong cái rủi lại có cái may. Không phải tất cả những người có học vây quanh tôi đều thiếu văn hóa đến mức có thể sẵn sàng thượng cẳng chân hạ cẳng tay với dân oan đất đai hoặc giới hoạt động nhân quyền. Lần đầu tiên từ khi rời trại giam, tôi được cọ xát với giới chức an ninh Hà Nội.

Cũng theo cái cách mà họ hài hước là muốn “giao lưu” với tôi.
Sau 16 năm, tôi vẫn không thể hiểu

Văn hóa là sự khởi đầu và cũng là điểm kết thúc của loài người. Tôi đã nghe một người bạn kể lại chuyện anh bị công an đọc lệnh bắt, và ngay sau đó anh quay lưng lại, cùng lúc vỗ vào… mông.

Nhưng cũng ngay sau cái vỗ mông như một tác phẩm chưa từng có trong hồ sơ văn chương thế giới, tờ lệnh bắt anh đã được cho vào ngăn kéo. Người ta quẳng đồ lại cho anh rồi đẩy anh ra ngoài đường.

Thật kinh khủng! Thật khó hình dung nổi vì sao có những người dân Hà Nội lại chọn cách thức trình diễn như thế để đối sánh với ngành công an.

Không thật tán đồng về cách hành xử của người bạn đó, trong tôi vẫn chằn chặn dấu hỏi: vì cái gì và do ai mà khuynh hướng đối đầu giữa dân chúng và công an ngày càng khẩn trương?

Cũng khẩn cấp đến mức bất đồng về ý thức hệ đã cùng lúc hóa thân vào những xung đột cá nhân?

Bầu không khí Thủ đô đang đậm đặc tia kích nổ. Ở khắp nơi, người ta công khai nói về những nhược điểm và sai lầm quá lớn của chế độ và cá nhân lãnh đạo. Ở nhiều nơi, những đám đông tự phát có thể hiện ra, bùng phát bất cứ lúc nào vì những lý do nhỏ nhặt, và càng ghê gớm nếu lý do liên quan mật thiết đến nhân viên công lực. Dù rằng vẻ nín lặng đến mức kinh ngạc của người Hà Nội vẫn làm cho nhà cầm quyền chưa bỏ được thói quen hoang tưởng về quyền năng của mình, song cái âm ỉ trong dân chúng lại giống với hình ảnh một thùng thuốc súng.

Sẽ ra sao nếu vào một ngày nào đó, con sóng biểu tình sôi trào sẽ khiến không thể cứu vãn mối dây lỏng lẻo còn lại giữa lực lượng an ninh với rất nhiều người dân bị thiệt thòi quyền lợi? Sẽ có bao nhiêu nhân viên an ninh giữ được sự đồng cảm với chính những người đã sinh ra họ hoặc là đồng bào của họ? Hoặc ở một thái cực quá trái ngược, họ sẽ nổ súng vào đoàn biểu tình như quang cảnh đẫm máu đã loang tràn ở Romania dưới thời cai trị độc tài của Ceaucescu?

Công tác an ninh, xét cho cùng, là tư chất và hành động nhân văn. Từ trái tim đến trái tim chứ không thể là cái gì khác. Nhân tâm phải là trái tim để các mạch máu của chế độ và dân chúng chung hòa một mối. Nhân tâm cũng là cứu cánh duy nhất trong thế cùng tắc biến cho một chính thể không còn đủ lý do để tồn tại… Trong 16 năm là cán bộ nghiên cứu về chính sách an ninh, tôi đã rút ra kết luận quý giá này. Giá trị của kết luận đó còn cao cả hơn rất nhiều lần sự tồn tại của một nền chính trị.

Thế nhưng vì sao những người được xem là “bạn của dân” lại đang bị không ít dân chúng coi là “côn đồ”?

Hà Nội làm sao vậy? Trong tận cùng trái tim của Thủ đô, đất trời Hà Nội đang chao đảo bởi một nền văn hóa cướp hoa, nền văn hóa giành giật bánh sushi và bây giờ đang nhanh chóng tiến đến nền văn hóa đấm đá nhân quyền.

Trong tận cùng của nhân quyền lại là quyền lợi sinh tồn của những dân oan đất đai - một đòi hỏi chính đáng và chính danh đến mức không thể bị bất kỳ quan chức xảo ngôn nào đánh tráo khái niệm. Nhưng nhiều năm qua, nhiều nhân viên an ninh đã rơi vào cái vòng xoáy tráo trở ấy, trở thành một thứ công cụ đặc thù và diệu nghiệm để các nhóm lợi ích bất động sản trục lợi. “An ninh quốc gia” được trưng ra như một thứ bùa được trả lương. Còn nếu cuộc đối đầu với dân oan rơi vào thảm cảnh và đổ máu như vụ cưỡng chế gia đình Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, sẽ chỉ có lực lượng công an và người dân bị thí chốt. Trong khi đó, những bóng ma nhóm lợi ích và quan chức nhúng chàm đều biến mất…

Nhưng sau tất cả những suy tưởng mông lung, tôi lại tự cật vấn mình rằng nếu tôi bị công an và dân phòng Hà Nội đánh bầm dập như họ đã hành xử đối với Phương Uyên, Lê Quốc Quyết và một số blogger vào tháng 9/2013, hay với Lê Thị Công Nhân và Trương Dũng vào tháng 11/2013, liệu tôi có giữ được bình tâm để suy nghiệm về cái chân thiện mỹ trong con người cán bộ an ninh thời nay?

Cuộc bắt giữ và câu lưu tôi đã thành công. Tôi không còn thời gian để gặp nhà văn Nguyễn Thanh Giang. Tôi cũng chẳng thể đến nhà thờ Thái Hà để thăm linh mục Nguyễn Nam Phong. Chỉ còn vừa đủ thời gian ra sân bay Nội Bài để về Sài Gòn theo vé khứ hồi đã đặt.

Ngược lại, giới chức an ninh Hà Nội đã có dịp “giao lưu” khá đầy đủ với tôi về những chủ đề thật nhạy cảm như quan điểm của tôi về Diễn đàn xã hội dân sự, những tổ chức “chống đối” như Dân Làm Báo, Việt Tân… Ngay cả những bài viết của tôi đã đăng trên báo chí quốc tế cũng được họ cẩn thận đề nghị tôi lưu bút về “quyền tác giả” - một động tác không thừa nếu sau này họ muốn bắt lại tôi.

Cuối cùng, sau khi đáp lại gợi ý của cán bộ A67 về “ở chơi Hà Nội đến ngày mai” bằng lời chân thành nhất “tôi đã sẵn sàng nếu bị bắt”, tôi được thông báo về một bản cảnh cáo viết tay, không đóng dấu, liên quan đến việc tôi tiếp xúc với các “đối tượng” Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân. Tất nhiên, tôi không ngần ngại bút ký vào biên bản ấy nội dung “Tôi không vi phạm pháp luật”.

Chỉ có lời tự vấn về phẩm chất và văn hóa an ninh của tôi vẫn còn ở phía trước.

Và những gì còn lại

Nhưng ngay trước cái phía trước ấy lại là một kết quả gây ra sự ồn ào vào ngày 29/11/2013 mà những người chỉ đạo chiến dịch “phân hóa” có lẽ đã không lường hết: vào cuối ngày, báo chí  quốc tế và giới truyền thông xã hội đồng loạt đưa tin và bình luận về vụ việc cách ly ông Nguyễn Thanh Giang, tất nhiên không quên trường hợp bị cản trở hôm trước của luật sư Nguyễn Văn Đài. Một người quen ở nước ngoài còn cho tôi biết đã có sự lên tiếng trong giới nghị sĩ quốc hội Australia về câu chuyện đặc biệt này - đặc biệt như một dẫn chứng hùng hồn cho 14 lời cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Chủ tịch đại hôi đồng Liên hiệp quốc, và như một minh họa không thể sinh động hơn cho điều được xem là “thành tâm chính trị” của Nhà nước Việt Nam ngay sau khi được chấp thuận vào Hội đồng nhân quyền.

Những người bạn của tôi trong giới truyền thông quốc tế còn nêu lên những câu hỏi không thể lẩn tránh: Ai đã chỉ đạo “chiến dịch” sách nhiễu luật sư Nguyễn Văn Đài, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và bắt câu lưu nhà báo Phạm Chí Dũng? Phải chăng là Bộ Chính trị? Hoặc nếu không phải từ những cấp lãnh đạo tối cao thì lẽ nào các cơ quan cấp dưới đã tự tung vận hành cái thói quen trấn áp và đàn áp của thời phong kiến như thế?

Giới truyền thông cũng bình phẩm về một đặc trưng không thể đặc biệt hơn trong nền chính trị đương đại Việt Nam: ngành công an chính là những chuyên gia tạo event giỏi nhất. Ai và cái gì đã tạo nên khả năng và kỹ năng tuyệt vời gây sự kiện, hơn nữa lại là sự kiện quốc tế, như thế?

Chỉ có điều, mọi lý giải cho những câu hỏi trên có thể đều không còn cần thiết nữa. Trong con mắt giới nhân quyền và các nhà nước dân chủ quốc tế, Nhà nước Việt Nam vừa ghi thêm một điểm xấu về thành tích “bảo đảm quyền con người”.

Nếu không vì sứ mệnh ngoại giao bắt buộc, hẳn những người như viên bí thư Jean Philippe Gavois đã lập tức xách vali rời khỏi đất nước quá giả dối chính trị cộng thêm sự ghẻ lạnh tình người này.
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam
2013-12-03

Trịnh Hội - Những điều chúng ta cần làm


Phiên họp của Ðại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva.

02.12.2013
Tất nhiên tôi cũng biết có rất nhiều điều chúng ta cần làm. Và mỗi người cuối cùng đều phải quyết định điều gì cần phải làm ngay và điều gì có thể gác sang một bên đợi đến khi rảnh rỗi làm tiếp. Nhưng hôm nay tôi muốn nhắc đến một vấn đề - liên quan đến hai chữ Việt Nam – mà tôi nghĩ ai cũng cần phải làm ngay. Đặc biệt là đối với những người còn quan tâm đến tình trạng nhân quyền ở trong nước và chúng ta có thể làm gì để cải thiện nó.

Đó là việc Việt Nam sẽ phải ra điều trần trước Liên Hiệp Quốc ở Geneva vào ngày 28 tháng 1 năm 2014 sắp tới. Theo đúng tiến trình Universal Periodic Review (UPR) mỗi 4 năm mới có một lần như tôi đã trình bày trước đây.

Đây là một cơ hội hy hữu để các tiếng nói của công dân và các tổ chức xã hội dân sự được lắng nghe một cách chính thức và có hệ thống hẳn hoi ngay tại diễn đàn lớn nhất và có sự tham dự của tất cả các nước. Đặc biệt là phần trình bày của nước phải điều trần trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc mà chính họ cũng vừa mới được gia nhập: Việt Nam.

Đương nhiên vào ngày 28 tháng 1 đại diện cho Việt Nam sẽ thông cáo cho cả thế giới biết rằng chính phủ Việt Nam đã đạt được những thành tích lẫy lừng về nhân quyền đến độ nào. Họ cũng sẽ cố chứng minh cho thấy trong 4 năm vừa qua chính phủ Việt Nam đã và đang tiếp tục ủng hộ và bảo vệ quyền làm người của mọi công dân đến ngần nào. Và thế thì làm gì có cái gọi là tù nhân lương tâm Việt Nam!

Nhưng sự thật có phải vậy không?

Cả tôi và bạn thừa biết.

Giáo dân Thái Hà ở Hà Nội thắp nến cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân.
Giáo dân Thái Hà ở Hà Nội thắp nến cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân.

Đã đến lúc chúng ta không chỉ lên các báo, đài tiếng Việt, các trang mạng truyền thông xã hội để nói cho nhau nghe về những điều tàn tệ đang xảy ra ở Việt Nam. Một nhà giáo Đinh Đăng Định đang bị ung thư nhưng vẫn phải ngồi tù vì tội “tuyên truyền”. Một Lê Quốc Quân và những tù nhân khác đang tiếp tục bị ngược đãi vì không được phép có luật sư đại diện làm kháng cáo mà phải tự biên, tự viết trong ngục tù trong vòng 15 ngày kể từ ngày bị xử, theo đúng Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành.

Những sự thật hiển nhiên như vậy. Những điều luật mơ hồ, bất cập. Một hệ thống pháp lý từ trên xuống dưới phải phục tùng Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tất cả cần phải được trình bày cho cả thế giới nghe.

Một cách bài bản. Có hệ thống. Và hoàn toàn từ tốn.

Đã đến lúc chúng ta không thể và không chỉ nói cho nhau nghe. Để sau đó tất cả đều phải nhẫn nhịn, không dám lạm bàn.

Vì đây là một cơ hội hiếm có và cũng là điều mà ai cũng có thể làm được.

Đối với những anh em trong nước, các bạn có thể đích thân tìm đến các toà đại sứ ở Hà Nội để thông báo cho họ về điều này. Chưa hẳn ai cũng biết sáng ngày 28 tháng 1 sắp tới đây là phần điều trần của Việt Nam ở Geneve. Cũng chưa hẳn họ biết là chúng ta cần họ làm gì.

Đối với các cá nhân, hội đoàn ở hải ngoại, chúng ta nên phát động một phong trào vận động các nước thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, liên lạc, tiếp xúc với họ để nói lên, thứ nhất, những gì đã xảy ra ở Việt Nam trong 4 năm qua. Và thứ hai, quan trọng hơn, yêu cầu họ đặt thẳng vấn đề với chính phủ Việt Nam. Điều gì họ hứa họ sẽ làm và điều gì họ sẽ chối bỏ. Ít nhất ra thế giới cũng sẽ có cơ hội thấy được bộ mặt thật của nhà cầm quyền Hà Nội.

Nếu làm được như vậy tiếng nói của chúng ta, của những người đang thật sự quan tâm về tình trạng nhân quyền ở quê nhà, sẽ được đi xa hơn, được nhiều người nghe hơn và chắc chắn sẽ trở thành tiếng nói chính thức ngay tại buổi điều trần sáng ngày 28 tháng 1 năm 2014.

Riêng đối với VOICE và các tổ chức phi chính phủ đang cùng hợp tác, chúng tôi sẽ cùng đưa ra 4 Đề nghị (Recommendations) sau:
  1. Việt Nam huỷ bỏ những điều khoản mơ hồ và bất cập trong Bộ Luật Hình Sự theo đúng các quy ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đặc biệt là các điều khoản liên quan đến an ninh quốc gia như điều khoản 79 (hoạt động lật đổ nhà nước), 88 (tuyên truyền chống phá chế độ) và 258 (lợi dụng các quyền tự do dân chủ làm tổn hại lợi ích nhà nước).
  2. Việt Nam sửa đổi và ban hành luật công nhận quyền của tất cả mọi công dân được xét xử công bằng và được luật sư bảo vệ ngay từ lúc bị bắt cho đến khi hồ sơ kết thúc mà không cần phải xin phép bất kỳ một tổ chức hay toà án nào.
  3. Việt Nam tôn trọng và tạo điều kiện cho mọi công dân tham gia vào các hoạt động xã hội dân sự theo như các biểu quyết của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua mà Việt Nam giờ là thành viên.
  4. Việt Nam thực thi những cam kết mà chính họ đã hứa vào năm 2009 trong tiến trình UPR đầu tiên nhưng trong 4 năm vừa qua họ đã không thực hiện.
Đọc đến Đề nghị 4 chắc có lẽ một số bạn sẽ ồ lên bảo: năm 2009 tụi nó cũng hứa đó mà có làm đâu. Vậy thì tiếp tục vận động để làm gì, mất cả công lẫn của?

Thưa bạn, nếu nghĩ như thế thì chúng ta sẽ không thể tranh đấu để thay đổi được bất kỳ điều gì trong xã hội. Chúng ta phải làm vì chúng ta không còn một sự lựa chọn nào khác. Thứ nhất, chúng ta phải nói thay cho những người không có tiếng nói hiện đang phải ngồi tù. Thứ hai, chúng ta phải nói để thế giới biết được sự thật về những gì đang xảy ra ở quê hương chúng ta. Và thứ ba chúng ta phải nói vì đó là điều cần phải làm.

We do it because it’s the right thing to do.

Thế không biết có ai muốn cùng tôi đi vận động không nhỉ?

* Blog của Luật sư Trịnh Hội là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Hiến pháp của đảng hay của dân?

017_195431-305.jpg
Những người buôn bán hàng rong ngồi dưới một pano tuyên truyền của ĐCS hôm 30/11/2013.
AFP photo

Sau khi Quốc Hội VN thông qua bản Hiến pháp với tỷ lệ phiếu tán thành gần như tuyệt đối, thì công luận vốn đã hoài nghi từ lâu giờ lại mạnh mẽ đặt nghi vấn về vai trò của Quốc Hội VN. Thanh Quang tìm hiểu và trình bày về vấn đề này như sau:

Hiến pháp mới nhưng không mới

Tại một nước mà lãnh tụ đảng CS khẳng định Hiến pháp là văn bản quan trọng nhất sau Cương lĩnh đảng, thì hẳn người dân VN không ngạc nhiên khi Quốc Hội VN gồm đại đa số đảng viên thông qua một bản Hiến Pháp cũ sửa đổi để hình thành Hiếp Pháp mới 2013 với nội dung bị than phiền “chẳng những không có gì mới mà thậm chí còn thụt lùi”.

Nhưng có lẽ điều gây ngạc nhiên là, sau khi giới cầm quyền kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiếp pháp mà “không có vùng cấm”, sau thời gian bàn cãi, đề nghị, góp ý sôi nổi, kể cả tại diễn đàn Quốc Hội…, thì cái tỷ lệ phiếu tán thành tới 97,59%  - tức 486/488 và không có phiếu chống – của các đại biểu khiến công luận không khỏi liên tưởng đến những “đại diện của dân”, thêm một lần nữa, trở thành “đại diện của đảng”.

Có lẽ đây là một lý do khiến nhà báo Hạ Đình Nguyên trong nước lưu ý rằng “Hiến pháp là của đảng, không phải là của dân, vì không do dân, nên cũng không vì dân”.

Câu hỏi mà đã từ lâu, và đặc biệt là bây giờ, được mạnh mẽ nêu lên là đại biểu Quốc Hội VN có thực sự do người dân bầu chọn và thật sự đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của dân hay không ? Hay họ dưới hình thức cơ quan lập pháp để làm công cụ và phục vụ cho đảng ?

Từ Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu chua chát rằng “Nếu phải ngụy tạo một ưu thế đẹp thì dù được 100% nghị gật bỏ phiếu cũng nên giảm đi còn 70-80% thôi mới đáng mặt những kẻ nói dối thức thời. Con số 97,59% dù thật hay giả cũng là một con số dại dột trong tuyên truyền, vì nó gây ấn tượng một con số chua chát đáng buồn... cười!”.

Lên tiếng với Đài ACTD, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng từ Hà Nội cho biết:

Quốc hội hiện nay không đáp ứng được nguyện vọng của rất nhiều quần chúng. Rất nhiều người không tán thành việc Hiến pháp được thông qua… Họ là những người mà quần chúng mất hết sự tin tưởng.

Nhưng khi kịp nghĩ lại, có thể công luận cũng bớt ngạc nhiên về kết quả biểu quyết cao ngất ngưỡng tại Quốc Hội như vừa nói, vì, Dân Làm Báo nhắc lại, “ đối với một Quốc hội có đến 500 đại biểu đều là đảng viên CS thì ai cũng biết trước kết quả…”.

TS Hà Sĩ Phu cũng không quên lưu ý rằng “đa số trong Quốc hội với 95% đảng viên chính là một ‘nhóm lợi ích’ khổng lồ mà quyền và lợi gắn chặt với điều 4 và với ‘sở hữu toàn dân” thì đa số ấy chỉ là đa số của một phe nhóm”. TS Hà Sĩ Phu nhân tiện trích dẫn lời nhà khoa học Albert Einstein từng khẳng định “Chúng ta không thể thắng được lũ ngu bởi chúng quá đông.

Như vậy là bản Hiến Pháp 2013 của VN – một văn kiện “hạng hai sau cương lĩnh đảng” – tiếp tục dọn đường cho vai trò mà nhà báo Hạ Đình Nguyên gọi là “thế thiên hành đạo” của ĐCSVN quyết định số phận của người dân Việt “vô hạn định qua Điều 4”. Nó làm bình phong để thể chế hóa cương lĩnh của đảng; để, ngòai việc đảng lãnh đạo tuyệt đối, những vấn đề mà người dân muốn có đổi thay sẽ vẫn không có gì thay đổi, từ việc “kiên định” theo con đường CNXH dù “đến hết thế kỷ này không biết đã CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”, cho đến chuyện công hữu đất đai, quân đội trung thành với đảng, công an chỉ biết “còn đảng còn mình”, quốc doanh chủ đạo kinh tế thị trường…

Nhà báo Hiệu Minh từ Hoa Kỳ báo động rằng “Hiến pháp được thông qua với điều 4 ‘Đảng lãnh đạo toàn diện’ được giữ nguyên tại kỳ họp Quốc hội này thì các vị (đại biểu) ‘Yes – Đồng ý’ sẽ giúp cho ‘quyền lực tuyệt đối’ được tiếp tục”.

Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh xem chừng như không “dằn được bực tức” mà phải thốt lên rằng “Đến cái cơ quan gọi là lập pháp cũng không được quyền công khai góp ý sửa đổi hiến pháp” và “người ta dựng ra cả một hệ thống cơ quan dân cử từ trung ương xuống tận xã, phường để ngồi họp bàn và thông qua những vấn đề mà người ta đã quyết định sẵn từ trước. Người ta có thể huy động toàn dân một cách tốn kém vào việc góp ý để thay đổi hiến pháp nhưng rồi hiến pháp vẫn cứ như xưa”.

Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn cảnh báo:

Vấn đề Quốc Hội đề ra việc sửa đổi Hiến pháp và lấy ý kiến toàn dân cũng chỉ là, một lần nữa, đảng CS tiếp tục dùng chiêu bài Hiến pháp để mị dân và lừa dối quốc tế. Nhưng thực ra chẳng có điều gì thay đổi cả.

Theo nhà báo Hạ Đình Nguyên thì việc 97,59% “những khuôn mặt trên các chiếc ghế trong Quốc Hội” thông qua bản Hiến Pháp 2013 vừa rồi chỉ có ý nghĩa là “một bài toán cộng” trong nội bộ giới cầm quyền, nhưng lại là “bài toán trừ” đối với cộng đồng rộng lớn vì “tâm thế dân tộc đã đổi khác”. Nhà báo Hạ Đình Nguyên khẳng định “Tư tưởng của một bộ phận (đảng) có thể suy thoái, nhưng tư tưởng của “toàn thể” (nhân dân) thì không thể suy thoái”, và ông bày tỏ tin tưởng rằng bản “Hiến pháp tân trang” hiện nay sẽ được thay bằng một Hiến pháp mới, bởi chính nhân dân Việt Nam, vào một lúc nào đó, “không phải hôm nay thì sáng mai vậy!”.
Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-12-03 

Người Buôn Gió - Niềm tin đủ tồn tại

Trong thực trạng xã hội có nhiều bất công, bất cập và tình trạng tham nhũng, lộng quyền, pháp luật bị chà đạp dẫn đến nhiều phản kháng trong xã hội từ mọi giai tầng. Nóng bỏng nhất là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của những tình trạng đó , ví dụ chính sách đất đai và những người nông dân về đền bù, giải tỏa đất. Ngoài đất đai vấn đề tôn giáo, tự do ngôn luận cũng là trọng điểm của những bức xúc trong nhân dân. Hầu hết tất cả những người dân đều có chung bức xúc tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ...

Phải nói dù chính quyền tuyên truyền thế nào thì sự bức xúc vẫn âm ỉ và sẵn sàng bùng nổ khắp mọi nơi từ miền núi, nông thôn đến thành thị. Những đám đông vì quá thiếu tin tưởng vào những kẻ hành pháp đã tự bảo vệ tài sản của mình một cách tiêu cực như những vụ cả làng đánh chết kẻ trộm, cả làng đứng ra nhân tội, số người làm đơn tự thú nhận tội đánh chết người lên đến ngót cả ngàn người. Không chỉ kẻ trộm chịu sự cuồng nộ của nhân dân, thậm chí là cả phương tiện giao thông của cảnh sát và chính bản thân cảnh sát cũng chịu sự phẫn nộ tập thể này.


Những hành động cuả đám đông nhân dân mà báo chí chính quyền nói rằng vô pháp luật đấy nói lên điều gì.? Đó là vô pháp luật bởi người dân tin rằng pháp luật, chính sách không minh bạch, không để họ đắt được niềm tin vào. Hành động vô pháp luật ấy của người dân xuất phát từ niềm tin của họ rằng họ không trông chờ được gì vào pháp luật bởi những người hành pháp, cầm quyền cũng xử sự vô pháp luật.

Bởi thế trước khi trách người dân vô pháp luật, những người phát ngôn điều ấy có bao giờ tự nhìn mình xem họ hành động lúc nào cũng minh bạch và theo pháp luật hay không đã,có ăn hối lộ, có chạy chức quyền, bè phái để leo lên đến cái vị trí phát ngôn đó hay không đối với quan chức. Có nhận tiền bồi dưỡng, có nhận hối lộ để bẻ cong ngòi bút hay không đối với những phóng viên, nhà văn viết bài.?

Ở đâu đó niềm tin vẫn còn sót lại - quân đội và quốc hội.

Trong một bối cảnh xã hội đầy những điều như thế, niềm tin của nhân dân đã sa sút thảm hại, dân không tin chính quyền, dân không tin dân, người tiêu dùng không tin vào doanh nghiệp...cuộc sống ngột ngạt. Con người mở mắt là lo đối phó với đủ thứ cạm bẫy rình rập để moi túi tiền của họ, đồng nghiệp giành vị trí của họ. ... thế nhưng đâu đó niềm tin vẫn còn le lói sống, như niềm hy vọng trông chờ lực lượng xã hội nào đó sẽ làm thay đổi tất cả. Lập lại niềm tin của nhân dân với chính quyền, làm cơ sở nền tảng để tạo niềm tin với pháp luật và những niềm tin dân sự khác với nhau. Tóm lại khi dân tinh chính quyền, tin pháp luật sẽ là cơ sở để các niềm tin khác trong xã hội hồi sinh trở lại, đất nước sẽ thôi không còn cảnh nghi ngờ ngột ngạt đang ngự trị triền miên.

Giữa lúc suy thoái niềm tin như thế, không hiếm lần, thậm chí là nhiều lần người dân hỉ hả rỉ tai nhau rằng - quân đội sẽ đứng về nhân dân..quốc hội sẽ đứng về nhân dân....người ta hy vọng như thế đó. Bởi đó là những lực lượng mà từ sâu trong tâm khảm, tiềm thức người dân có tình cảm sẵn. Mỗi lần họp quốc hội, vừa có tin thông báo quốc hội bác bỏ điều này, điều kia của chính phủ đưa ra...người dân lại ồ lên hỉ hả, quốc hội sáng suốt, quốc hội biết thương dân...báo chí đua nhau ca ngợi khiến người dân cảm tưởng chín trường đang sôi động. Có nhiều nhiều ông nghị, bà nghị đang đứng về phía quyền lợi nhân dân.

Nhưng rồi sao? Giá cả vẫn tăng, tham nhũng không hề giảm, bất công vẫn lan tràn. Và quyền quyết định lãnh đạo đất nước vẫn thuộc về một tổ chức mà đến hơn 90% ông nghị và nghị nằm trong cái tổ chức đó. Chính cái tổ chức đẻ ra chính quyền và chính quyền ấy đẻ ra hàng vô số nghị định, luật, chính sách khiến đất nước mất niềm tin như ngày nay.

Nhiều cuộc khiếu kiện đông người diễn ra, người dân ngây thơ tin rằng quân đội sẽ không đàn áp họ, quân đội đứng về phía họ. Quân đội không thích gì công an, quân đội là để bảo vệ nhân dân, chỉ có công an mới là lực lượng chính đối chọi với nhân dân trong những cuộc khiếu kiện đông người, tụ tập đông người phản đối chính sách nào đó của chính quyền....

Không phải chỉ người trong nước, mà ngay cả người Viêt ở nước ngoài cũng nghĩ vậy. Hôm qua ngồi dự một cuộc gặp mặt những người phóng viên từ Siry, xem họ trình chiếu một đoạn clip người dân Siry biểu tình bị quân đội tấn công. Người bạn Việt Kiều quay sang nói tôi rằng- Ở Việt Nam đỡ hơn nhỉ, quân đội không làm thế với nhân dân. Tôi cười và trả lời - Bạn có thấy người dân ở Việt Nam biểu tình thái độ như người dân ở Siry hay không.? Chừng nào bạn thấy người dân Việt Nam biểu tình thái độ như thế mà không thấy quân đội Việt Nam làm như quân dội Siry, lúc ấy bạn hãy nhận xét. Bạn nên nhớ quân đội VN và quân đội Liên Xô, Trung Quốc là cùng một hệ thống chính trị giống nhau. Và chắc bạn biết sự kiện Thiên An Môn, sự kiện tháng 10 ở Hung Ga Ry, ở Tiệp Khắc .

Người bạn Việt Kiều không nói gì, bạn xa quê hương hàng chục năm rồi. Bạn không hiểu mỗi cuộc biểu tình đông người ở Viêt Nam ngày nay ngoài cái bạn nhìn thấy còn cái gì nữa, may lắm bạn thấy hình ảnh công an có sắc phục bên cạnh cuộc biểu tình. Bạn không thấy hàng trăm công an khác mặc thương phục trà trộn trong đám biểu tình, bạn cũng không thể thấy những trung đội cảnh sát cơ động vũ khí hiện đại đang âm thầm trú trong những trường học, trụ sở, địa điểm nào đó quanh khu vực biểu tình.

Nếu như bạn biết chút nào đó qua hình ảnh, tin tức trên mang, bạn sẽ trách công an ác, công an thẳng tay với người biểu tình, với người dân oan.

Nhưng bạn không bao giờ biết rằng các đơn vị bộ đội khổng lồ với xe tăng, xe bọc thép, trực thăng ở khu vực đó cũng đang trong tình trạng chiến đấu, bạn khó mà nghe được những lời tuyên truyền sắt máu về thế lực thù địch trong quân đội, để biết quân đội thương mến nhấn dân thế nào !!!. Chính những lực lượng hùng hậu ẩn mình này là hậu thuẫn để lực lượng công an thấy yên tâm trấn áp người dân, người biểu tình. Người dân cứ thử biểu tình thái độ như Siry khiến công an không ngăn chặn được đi, lúc đó sẽ biết quân đội nhân dân Việt Nam sẽ đối xử với nhân Việt Nam có bằng quân đội Siry hay không.?

Nếu theo dõi về sự tuyên truyền cho rằng những người biểu tình, khiếu kiện là thù địch thì những tờ báo của công an còn thua xa những tờ báo quân đội về độ thâm độc. Báo công an chỉ nói về hành vi gây rối, hay những động cơ lặt vặt. Nhưng báo quân đội thì mở hẳn một mục mang tính lý luận chính quy để rèn giũa tư tưởng cho quân đội rằng đằng sau biểu tình là bọn thế lực thù địch, là bọn âm mưu xấu để phá hoại đất nước....thậm chí một thiếu tướng quân đội còn tiếc nuối sự kiện Đông Âu CNXH bị sụp đổ vì trong lúc người dân Đông Âu biểu tình người chỉ huy quân đội đã không biết chỉ đạo quân đội mình bắn. Cứ đọc hai tờ báo công an , quân đội bạn sẽ thấy tờ báo nào sắt máu và sặc thù hận hơn tờ nào.

Quân đội kinh doanh xăng dầu, viễn thông, ngân hàng, xây dựng... những miếng bánh rất lớn mà chỉ có thể chế này mới đem lại được cho họ.

Niềm với quân đội của người dân cũng loanh quanh như niềm tin của họ với quốc hội. Ông TBT NPT e ngại rằng đảng của ông mất niềm tin trong nhân dân sẽ dẫn đến nguy hại về tồn vong của đảng .

Thưa ông TBT , đừng lo hão. Có thế người dân không tin vào đảng ông, như họ vẫn tin vào những đứa con đẻ trung thành của đảng ông như quốc hội, quân đội thì ông chưa cần phải lo. Chưa kể niềm tin nhân dân còn bị chi phối vào những người cộng sản được suy tôn là thánh thần nữa...chỉ cần những niềm tin ấy, đảng của ông cũng dư sức thọ thêm ít là 50 năm nữa.

Ông lo gì mà lo sớm quá vậy thưa ông.?
(Blog Người Buôn Gió)

VN nằm đâu trong xếp hạng tham nhũng?

Việt Nam xếp thứ 116 trên tổng số 177 nước trong bảng đánh giá hàng năm về tham nhũng trong khu vực công của Tổ chức Minh bạch Quốc tế.
Năm ngoái Việt Nam xếp thứ 123 trên tổng số 176 nước trong bảng xếp hạng này, với số điểm không đổi là 31/100.
Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận về mức độ tham nhũng trong khu vực công.
Việt Nam tăng hạng nhưng điểm không đổi trong khảo sát
Minh bạch Quốc tế nói Chỉ số của họ tìm hiểu cảm nhận về tham nhũng của những người ở vị trí có thể đưa ra đánh giá về tham nhũng trong khu vực công.
Họ gọi đây là phương pháp “đáng tin cậy nhất” để so sánh mức độ tham nhũng một cách tương đối giữa các quốc gia.
Năm nay, Tây Ban Nha sụt 6 điểm, xếp thứ 40 sau khi chứng kiến nhiều bê bối liên quan tiền chuyển cho chính khách và gia đình hoàng gia.
Chỉ có Syria, đang hứng chịu nội chiến, mất nhiều điểm hơn trong khảo sát năm nay của tổ chức đặt ở Berlin.
Đan Mạch và New Zealand cùng dẫn đầu với 91/100 điểm.
Anh xếp thứ 14, so với hạng 17 năm ngoái, với 76/100 điểm.
Mỹ xếp thứ 19 và Trung Quốc 80, không đổi so với năm ngoái.
Nga cải thiện chút ít, với vị trí 127 so với 133 năm ngoái.
Các vị trí chót bảng vẫn là Somalia, Bắc Hàn và Afghanistan.
Tại Tây Ban Nha, cựu thủ quỹ của Đảng Nhân dân cầm quyền nói với quan tòa rằng ông ta đã chuyển tiền tài trợ từ các công ty xây dựng vào túi giới chính trị gia.
Bản thân ông ta có gần 50 triệu euro trong một tài khoản ở Thụy Sĩ.
Con rể của nhà vua cũng bị truy tố trong năm nay vì biển thủ quỹ công.
(BBC)

GS Võ Tòng Xuân: Ai tiếp tay cho giống lúa Trung Quốc tràn vào Việt Nam

GS Võ Tòng Xuân nói thẳng: “[…] nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân, khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa Việt Nam.” Như thế đủ để Bộ Công An vào cuộc để đưa “nhiều quan chức” này ra ánh sáng chưa, thưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng? Hay chuyện tiếp tay phá hoại nông nghiệp Việt Nam tuy khó chịu nhưng chỉ là như “ngứa ghẻ”, buộc “hệ thống chính trị” phải động tay, không đáng? Hay là đằng sau nhóm lợi ích này còn có nhóm lợi ích khác to hơn, huy động công an, không tiện? Hay là chuyện này “nhạy cảm” vì động đến ông bạn 4 tốt, 16 chữ vàng, không dám?
Bauxite Việt Nam
Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu lại nhập chủ yếu từ Trung Quốc. Đề án phát triển sản phẩm quốc gia cho mặt hàng gạo đã được thông qua nhưng theo GS Võ Tòng Xuân, chuyên gia về Nông nghiệp, đề án này không có tính khả thi.
clip_image001
GS Võ Tòng Xuân

PV: - Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng đầu vào như giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu lại nhập khẩu 50-70% từ Trung Quốc. Xin ông cho biết nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là gì?

GS Võ Tòng Xuân: - Nông dân hiện vẫn tự do sản xuất, không có người chỉ đạo, muốn cấy giống gì thì cấy, bón phân loại nào thì bón.

Thấy sản phẩm được thương lái mua nhiều, họ sẽ ồ ạt trồng theo kiểu của họ. Bón phân cũng sai, mật độ trồng sai dẫn đến nhiều sâu bệnh, sau đó phải mua thuốc để phun.

Nguyên nhân sâu xa do nhà nước đã bỏ mặc, không quan tâm tới người nông dân, dù có khuyến nông nhưng nông dân lại không mặn mà, tin tưởng vì chưa đủ trình độ để quản lý, tham gia tư vấn.

Giống lúa Việt Nam do các viện làm ra nhưng quảng cáo không mạnh bằng những công ty nhập giống của Trung Quốc. Ngoài ra, giống lúa Trung Quốc cũng nhận được sự hỗ trợ của chính quyền, khuyến khích dân mua giống lúa đó.

PV:- Dù chất lượng gạo của lúa lai Trung Quốc không cao, độ dinh dưỡng không bằng giống lai hoặc lúa thuần của VN sản xuất tuy nhiên năng suất lại cao hơn nhiều và phù hợp với từng trà đất, từng mùa vụ.

Tại sao Việt Nam lại không tự sản xuất lúa giống để phục vụ thị trường trong nước và tự cung cấp giống cho nông dân sản xuất, thưa ông?

GS Võ Tòng Xuân: - ĐH Nông nghiệp Hà Nội và những viện, trung tâm làm được nhưng năng suất hạt giống của mình không thể địch nổi với giống Trung Quốc.

Một lý do quan trọng hơn là nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân, khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa Việt Nam. 
clip_image002
Phụ thuộc đầu vào từ TQ, chuỗi giá trị như giống, kỹ thuật, chế biến, tiêu thụ còn lỏng lẻo là những rào cản khiến VN khó sản xuất lúa chất lượng cao để xuất khẩu.

PV: - Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thông qua đề án phát triển sản phẩm quốc gia cho mặt hàng gạo. Mục tiêu là chọn ra 5- 7 giống lúa thơm, ngắn ngày, có chất lượng cao, hướng đến xuất khẩu với giá 600- 800 USD/tấn để có thể cạnh tranh với gạo chất lượng cao của Thái Lan vào năm 2020. Xin ông cho biết, đề án liệu có khả thi không?

GS Võ Tòng Xuân: - Theo tôi, tính khả thi của đề án hầu như không có vì không có sự tổ chức đồng bộ. Việc phát triển ngành lúa gạo còn rời rạc từng ban ngành, mạnh ai người ấy lo trong khi người nông dân cần nguyên một chuỗi giá trị nhưng giống, kỹ thuật, chế biến, tiêu thụ với mức giá tốt.

Dưới danh nghĩa tái cơ cấu tỉnh nào cũng nói mình trồng giống lúa chất lượng cao nhưng không biết ai mua và người nông dân cứ trồng theo họ.

Ngoài ra, sức cạnh tranh từ 2 thị trường Thái Lan, Ấn Độ cũng rất lớn vì họ cùng sản xuất lúa gạo trong mùa khô. Giá gạo xuất khẩu của Thái Lan hiện 800 USD/tấn trong khi của mình là gần 1.000 USD/tấn.

Nếu cứ để nông dân tự phát thì không đời nào chấm dứt tình trạng này, không thể có sản phẩm độc đáo trên thị trường.

Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hương My
Nguồn baodatviet.vn

Doanh nghiệp tiếp tục chết hàng loạt

Luật phá sản (minh họa)
Luật phá sản (minh họa) Files photos

Khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam vẫn đang trong tình trạng khó khăn với số lượng doanh nghiệp đóng cửa tăng hơn cùng thời gian năm trước.

Nhiều hệ lụy khi doanh nghiệp chết hàng loạt

Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 2/3 tổng sản phẩm nội địa (GDP), 3/4 giá trị sản xuất công nghiệp và tạo 100% việc làm mới cho nền kinh tế. Như vậy sức khỏe của khu vực này có thể xem là thước đo của nền kinh tế, nhất là trong 11 tháng vừa qua đã có khoảng 55.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động. Nếu cộng chung với số liệu tồng hợp 2011-2012 thì trong vòng 35 tháng vừa qua đã có 155.000 doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc ngừng hoạt động. Điểm đáng nói là số lượng này nhiều hơn con số gộp các doanh nghiệp đóng cửa trong vòng 20 năm qua.

Theo ông Bùi Kiến Thành, chuyên gia tài chính hiện sống và làm việc ở Hà Nội, tác động của việc doanh nghiệp chết hàng loạt gây ra nhiều hệ lụy. Ông nói:

“ Nếu mà hàng chục ngàn doanh nghiệp mà phải giải thể như thế thì tất nhiên số lao động bị mất việc rất nhiều. Thị trường là gì, thị trường là sức mua của người lao động có thu nhập. Người lao động bị mất việc thì tất nhiên không có sức mua nữa, hàng hóa trên thị trường không có chỗ tiêu thụ. Vì vậy bây giờ phải cố gắng làm sao cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, phát triển lại, hồi phục lại thì mới có công ăn việc làm thì lúc đó mới có nguồn tiêu thụ được, ngược lại không thể trông đợi sức mua tăng lên được.”


Nhận định về nguyên nhân của tình trạng doanh nghiệp chết hàng loạt trong thời gian qua, chuyên gia Bùi Kiến Thành phát biểu:

“Trong những năm qua các doanh nghiệp đã vay tiền ngân hàng và không có khả năng hoàn trả nợ. Những nợ đó biến thành nợ khó đòi nợ xấu rất nhiều và cho tới năm nay chưa giải quyết được. Vừa rồi Ngân hàng Nhà nước tổ chức ra công ty mua bán nợ xấu (VAMC) để mua lại những nợ xấu đó làm sạch kế toán của ngân hàng vướng vào nợ xấu, cũng như làm sạch kế toán của một số doanh nghiệp có nợ xấu. Mục đích để cho ngân hàng và doanh nghiệp tiếp tục một bên thì cho vay một bên thì đi vay. Nó mở ra được khả năng cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay để hoạt động. Những chuyện này mới bắt đầu thôi và dầu sao đi nữa các doanh nghiệp cũng chưa tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý, cho nên rất nhiều doanh nghiệp khó khăn không giải quyết được nhu cầu về tài chính thì phải đi đến chỗ giải thể ngưng hoạt động thôi.”

Trong khi đó TS Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương đặt ra nhiều câu hỏi về tương lai hoạt động của VAMC với nguồn vốn rất giới hạn là 400 tỷ đồng.

“VAMC có thể mua nợ xấu ào ạt như một phó Tổng giám Đốc VAMC nói là có thể mua tất cả nợ xấu trong một thời gian ngắn. Thế nhưng vấn đề là các món nợ xấu mà VAMC mua là nợ xấu có bảo đảm,  VAMC sẽ bán tài sản bảo đảm ấy như thế nào để thu hồi lại vốn. Nếu như không giải quyết được nợ xấu thì sau 5 năm VAMC sẽ giải quyết nợ xấu ấy như thế nào? Hay lại bàn giao lại cho Ngân hàng Nhà nước? Như vậy tức là thay vì giải quyết thực chất về nợ xấu thì đấy chỉ là một thủ thuật bút toán. Tức là chuyển nợ xấu từ sổ kế toán của ngân hàng thương mại có nợ xấu sang sổ kế toán ghi nợ của VAMC và sau một thời gian sẽ hoàn lại, tất cả những câu hỏi đó hiện nay đang còn ở trước mặt và  chúng ta đang chờ xem VAMC sẽ giải quyết thế nào.”

Nhiểu công trình xây dựng phải bỏ dở dang vì cụt vốn
Nhiểu công trình xây dựng phải bỏ dở dang vì cụt vốn. RFA
Doanh nghiệp tư nhân là nòng cốt của kinh tế thị trường

Theo Bộ Công thương, số doanh nghiệp mới đăng ký thành lập trong 11 tháng vừa qua là 71.000 doanh nghiệp so với 55.000 đơn vị đóng cửa, nhưng vốn đăng ký lại giảm 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy những doanh nghiệp mới đa số có qui mô nhỏ hơn những doanh nghiệp đã chết. Theo các chuyên gia, không loại trừ những doanh nghiệp mới thành lập có dính dáng tới những doanh nghiệp đã ngừng hoạt động.

Trước ý kiến cho rằng, sự tái cấu trúc nền kinh tế không rõ nét và chậm chạp là nguyên nhân của việc chậm hồi phục khu vực kinh tế tư nhân. Ông Bùi Kiến Thành nhận định rằng hệ thống ngân hàng ở Việt Nam không hoạt động như ở các nước có cơ chế chính sách tiền tệ rõ ràng. Ông nói:

“ Ở Việt Nam hiện còn lại 39 ngân hàng, trong đó chừng 10 ngân hàng hoạt động có qui củ, 5 ngân hàng hoạt động chừng chừng, còn lại là những ngân hàng nhỏ thực chất không phải là ngân hàng mà chỉ là những tổ chức cho vay thôi. Cho vay như hình thức tiệm cầm đồ, có tài sản thế chấp thì vay không thì thôi, một phần lớn các ngân hàng ấy không phục vụ cho doanh nghiệp mà chỉ phục vụ chính ông chủ những ngân hàng ấy, phục vụ sân sau những nhóm quyền lợi. Người ta lợi dụng giấy phép ngân hàng để huy động vốn và tài trợ cho những dự án riêng tư của những người chủ ngân hàng ấy mà thôi.

Như vậy rất nguy hiểm, Nhà nước Việt Nam cũng biết nhưng chưa thể giải quyết được vấn đề  sở hữu chéo sở hữu ngân hàng, dẫn đến việc phục vụ cho những người có cổ phần lớn trong ngân hàng. Việc này chưa làm sạch được để đưa hệ thống ngân hàng vào hoạt động có qui củ.”

Hiến pháp sửa đổi vừa được thông qua ngày 28/11/2013 vẫn duy trì vai trò chủ đạo nền kinh tế của khu vực kinh tế Nhà nước, tuy vậy cũng xác định mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật. Công luận luôn tranh cãi về việc đã có một thành phần gọi là chủ đạo thì không thể có bình đẳng với các thành phần khác. Theo số liệu chính thức, trong giai đoạn 2006-2010, khu vực doanh nghiệp nhà nước được phân bổ 45% tổng đầu tư nhưng chỉ tạo ra 28% GDP, trong khi đó khu vực tư nhân chỉ chiếm 28% tổng đầu tư nhưng lại tạo ra 46% GDP. Hiện nay khu vực kinh tế ngoài nhà nước gồm cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và tư nhân nội địa được cho là đang đóng góp tới 2/3 GDP.

Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, chuyên gia Bùi Kiến Thành nhận định, doanh nghiệp nhà nước nói là chủ đạo nhưng chẳng chủ đạo được gì, hiệu suất đầu tư không có, sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cần tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển vì nó là nòng cốt của nền kinh tế thị trường. Ông Bùi Kiến Thành kiến nghị Nhà nước cần có chính sách tiền tệ thích hợp để khu vực kinh tế tư nhân có thể tiếp cận nguồn vốn với lãi suất hợp lý và phục hồi hoạt động.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-12-03 

Nợ xấu không hề mất đi

Sau khi tạm chuyển nợ cho VAMC, ngân hàng lành mạnh hơn về bề ngoài nhưng nợ xấu trong nền kinh tế không hề mất đi.

Việc mua nợ của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đang thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, khối nợ sau khi mua về sẽ được xử lý ra sao lại là vấn đề đáng quan tâm. TS Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, có một số nhận định về vấn đề này.

Chuyển nợ sang kho cất trữ tạm

. Phóng viên:TS Trần Du Lịch cho rằng việc bán nợ xấu chưa hẳn đã giúp các ngân hàng (NH) trút được gánh nặng nợ xấu, mà trước mắt chỉ có thể đưa được nợ xấu ra ngoài bảng cân đối kế toán. Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?

+ TS Đỗ Thiên Anh Tuấn: Đúng vậy, hiện nay VAMC đang mua nợ xấu theo giá trị sổ sách. Và cách này không phải xử lý nợ về chất mà chỉ về danh nghĩa. Hay nói cách khác sau khi tạm chuyển nợ cho VAMC, bảng tài sản của NH không còn nợ xấu, NH trở nên lành mạnh hơn về bề ngoài nhưng nợ xấu trong nền kinh tế không hề mất đi.

. Nhưng bước tiếp theo của VAMC sau khi mua nợ là phân loại, sắp xếp để tái cấu trúc nợ nên không thể coi xử lý nợ xấu hiện nay chỉ ở vẻ bên ngoài?

+ Để xử lý nợ xấu về chất phải có dòng tiền thật, mà dòng tiền này phải được tạo từ con nợ chứ không phải từ nguồn thứ cấp nào khác. Hiện nay cách mình xử lý nợ là chuyển theo giá trị sổ sách cho VAMC, sau đó VAMC sẽ trao cho NH trái phiếu đặc biệt không trả lãi. NH sẽ cầm cố trái phiếu lên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để tái đầu tư. Tuy nhiên, nguồn tiền vững chắc phải được tạo ra từ con nợ. Vì con nợ đã lấy tiền, sử dụng một dòng tiền lớn của NH trước đây nên khi xử lý nợ các con nợ cũng phải trả nợ. Nhưng hiện nay VAMC không có động cơ để mà xử lý nợ một cách triệt để. Vì thế xử lý nợ không thực sự bền vững về chất. Mà chỉ là tạm thời, các đối tác chuyển một khoản nợ sang cho VAMC như một cái kho cất trữ tạm trong năm năm.
VAMC có thể xử lý nợ xấu tốt nhất khi lợi ích giữa NH và VAMC cùng đạt được. Ảnh minh họa: HTD
. Tại sao ông lại cho rằng VAMC không có động cơ để xử lý nợ một cách triệt để, thưa ông?

+ Cái quan trọng để VAMC xử lý tốt nhất nợ xấu là dựa trên lợi ích của NH thì hiện nay không có. Nhưng rõ ràng ở đây không gắn được lợi ích của VAMC vào NH, hay nói cách khác VAMC không có động cơ gì mà hành xử dựa trên lợi nhuận của NH. Vì tôi thu được hay tôi không thu hồi được khoản nợ thì cũng không bị tổn thất gì cả. Nghĩa là không có thang đo để đánh giá hiệu quả của VMAC. Cách mình đang xử lý nợ là dùng lợi nhuận tương lai của các NH để xử lý nợ xấu. NH bán nợ cho VAMC để lấy tiền nhưng VAMC không đưa tiền mà đưa giấy nhận nợ. Nên VAMC đáng ra phải trả lãi cho NH thương mại. Nhưng trong trường hợp này lãi suất lại bằng 0%, nghĩa là không phải trả lãi. Anh đi phát hành nợ mà anh không phải trả lãi. Điều này không tạo cho anh động cơ để xử lý nhanh nợ. Bởi nếu phải trả lãi thì anh sẽ nhanh chóng tìm cách xử lý nợ ngay để có tiền trả lãi. Vậy nên với cách xử lý của mình tạo nên tâm lý ỷ lại.

Mua nợ theo giá thị trường 
. Vậy làm thế nào để VAMC xử lý tốt nhất?
Đến nay Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam đã ký hợp đồng mua nợ của khoảng 20 NH. Dự kiến hết năm 2013, VAMC sẽ mua khoảng 30.000-35.000 tỉ đồng nợ xấu từ các NH.
+ VAMC có thể xử lý tốt nhất khi lợi ích NH đạt được và lợi ích của VAMC cùng đạt được. Trước hết phải trả lãi cho trái phiếu có giá trị đáo hạn, thứ hai phải đẩy nhanh việc mua lại nợ theo giá thị trường chứ không mua theo giá sổ sách như hiện nay. Điểm thứ ba phải tạo điều kiện về cơ chế, khuôn khổ pháp lý… cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để có dòng tiền sạch. Dòng tiền sạch ở đây được hiểu là dòng tiền được tạo ra từ sản xuất chứ không phải các nguồn khác như NHNN bơm ra hay được bơm ra từ quan hệ sân sau của NH.
. Nhưng trái phiếu này là trái phiếu đặc biệt, thưa ông?

+ Trái phiếu là phải có lãi suất, phải có giá trị đáo hạn. Nhưng giá trị đáo hạn của trái phiếu này phải được dựa trên xác suất và giá trị kỳ vọng thu hồi của khoản nợ đó. Như vậy trái phiếu đặc biệt, từ này thực ra chúng ta né tránh từ biên nhận giữ hộ nợ chứ không phải là trái phiếu. Vậy nên trái phiếu chúng ta đang làm cần phải được tái cấu trúc, ít nhất là phải trả lãi, thứ hai phải có giá trị đáo hạn. Mà giá trị đáo hạn của trái phiếu đó phải dựa trên giá trị kỳ vọng của khoản nợ có thể thu hồi được chứ không chỉ giá trị đáo hạn bằng 0. Nếu giá trị đáo hạn bằng 0 là không ràng buộc nghĩa vụ nợ của VMAC với trái phiếu đó.

. Lãi suất áp dụng cho trái phiếu bao nhiêu thì phù hợp?

+ Nguyên tắc phải trả lãi phụ thuộc rất nhiều yếu tố như mặt bằng lãi suất hiện nay thế nào, lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất trái phiếu chính phủ, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế như thế nào... Nhưng về nguyên tắc là không thể bằng 0.
Xin cảm ơn ông.
YÊN TRANG thực hiện
  (PLTP)

Dân chúng khổ sở vì lũ thủy điện

000_Hkg9202223-305.jpg
Người dân di chuyển đồ đạc do lũ tràn về tại Qui Nhơn, Bình Định hôm 16/11/2013.
AFP photo

Tình trạng các nhà máy thủy điện đồng loạt xả lũ dẫn đến thiệt hại nhân mạng và tài sản lớn của người dân vùng hạ du trong mùa mưa bão vừa qua khiến dư luận hết sức bất bình.
Lũ thủy điện, hiện tượng mới

Cơn bão Hải Yến sau khi mất hết sức mạnh của nó tại Philippines đã chạy dọc bờ biển miền Trung Việt Nam gây ra mưa to như thường lệ hàng năm ở vùng này. Những trận mưa hàng năm ấy trong khoảng mười năm trở lại đây mang tính chất tàn phá hơn khi rừng đầu nguồn ở vùng đất này bị tàn phá nhiều. Và gần hơn nữa, sự dữ dội của các cơn lũ được nhân lên bởi hàng hoạt các nhà máy thủy điện trên thượng nguồn xả nước giữa lúc mưa to. Vì vậy cho nên trong cơn thoi thóp của mình Hải Yến cũng đã gây nên tai ương vào trung tuần tháng 11 vừa qua khi 15 nhà máy thủy điện ở miền Trung đồng loạt xả lũ.

Theo tin của truyền thông trong nước, hơn 40 người bị thiệt mạng do nước lũ về quá nhanh. Nhiều tài sản bị cuốn trôi ra biển Đông. Người dân miền Trung đã nghèo lại còn nghèo hơn.

Tại huyện Tư nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, 1000 hộ nông dân chuyên trồng hoa cho dịp Tết nguyên đán đã trắng tay vì cơn lũ thủy điện vừa qua. Một người dân tại Tư Nghĩa cho chúng tôi biết:

“Khu của tôi làm hoa, thiệt hại rất là nhiều. Cơn lũ như thế này lớn rất là nhanh, người ta không kịp trở tay. Với cái lượng mưa như thế, dưới đây đâu có mưa nhiều lắm đâu, có thể là mưa nhiều trên nguồn, nhưng mà những người sống lâu ở đó nói là họ chưa bao giờ thấy trong lịch sử lũ lớn như vậy, kể cả so với hồi năm Thìn 1964. Những người già, người ta không hiểu nhưng người ta nói rằng nó rất là kỳ lạ vì nó lớn rất là nhanh, chỉ có hai tiếng đồng hồ mà lên cả thước nước.”

Chuyện lũ lụt mưa bão ở miền Trung thì mọi người dân Việt Nam đều biết qua cá bài học địa lý, chuyện phá rừng gây nên lũ lớn thì những người Việt nam nào quan tâm đến xã hội chính trị tại Việt Nam cũng biết, nhưng chết do bị thủy điện cuốn trôi thì quả là mới gần đây, và người dân thấy rằng nó kỳ lại cũng là điều dễ hiểu. Một người dân Quảng Nam sống tại huyện Đại Lộc, là nơi cũng ngập nặng do lũ thủy điện vừa rồi, cho biết:

Từ năm 99 đến giờ thì lụt này lớn nhất. Đặc điểm của lụt này là nó lớn rất nhanh. Dân miền Trung mình thì năm nào cũng bị bão lũ nên nó trở thành bình thường rồi. Tuy nhiên những năm gần đây thì lại có đặc điểm là những đập thủy điện người ta xây dựng lên; Ban đầu người ta nói là sẽ phát điện và sau đó vào mùa lũ thì người ta sẽ điều tiết nước lũ.

Người ta giải thích là khi lũ về người ta sẽ chứa nước lại bớt, người ta sẽ giảm thiểu nước trong cơn lũ. Qua thực tế thì những năm vừa rồi thì những điều người ta nói là không đúng. Lượng nước trong hồ luôn rất nhiều rồi vì vậy khi lũ về người ta sợ vỡ đập nên lại càng xả nước nhiều ra thêm nữa làm cho lũ càng trầm trọng hơn nữa. Nguy hiểm nữa là khi xả nước, người ta làm cho mực nước dâng lên rất là nhanh. Nhiều người dân trở tay không kịp.”

Phản ứng trước tình trạng của những cái chết vì thủy điện, phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nói rằng tất cả các hồ thủy điện vừa qua xả lũ đúng qui trình. Một vị giáo sư tại TP HCM là ông Nguyễn Bách Phúc thì lên tiếng rằng: “Thủy điện không sinh ra nước nên lũ đấy là lũ trời.”

Trước những trả lời này, kỹ sư Phạm Phan Long, thành viên sáng lập của Viet Ecology Foundation, và là người theo dõi rất sát các biến động về môi trường tại Việt nam có liên quan đến những dòng sông, ông Long cũng là người gởi bức thư ngõ lên Thủ tướng Lào đề nghị dừng đập thủy điện Don Sahong vì nó gây nguy hại cho hàng chục triệu người Việt, Campuchia và Lào, ông nói rằng"

“Theo tôi nghĩ nếu mà mình xả lũ mà có một người chết thì mình đã sai rồi, mà nay có nhiều người chết, hàng năm có nhiều người chết như vậy mà vẫn cho là đúng thì thật là ngu xuẩn.”
Kiện các nhà máy thủy điện!

Những cái chết theo sau qui trình xả lũ của các nhà máy thủy điện miền Trung đã thực sự làm rung động phòng họp của quốc hội vừa qua. Chính phủ Việt Nam đã cho dừng lại 400 dự án nhà máy thủy điện.

Tin mới nhất liên quan đến vụ xả lũ vừa rồi là ông Nguyễn Bá Thanh đương kim trưởng ban nội chính trung ương phát biểu với cử tri Đà Nẵng, nơi ông đã một thời tạo nên thanh thế của mình, rằng: "Nguyên tắc thủy điện gây thiệt hại là phải đền, không có nói vòng vo tam quốc gì hết. Anh ấy tham lam tích cho đầy nước để phát điện nhiều. Khi mưa đầy đập thì xả ào ào vì sợ vỡ đập."

Trước khi ông trưởng ban nội chính phát biểu như thế thì kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh, người có quê ở Bình Định nơi cơn lũ thủy điện vừa qua làm 11 người chết và hàng ngàn hộ dân trắng tay, đã quyết định chuẩn bị hồ sơ kiện những nhà máy thủy điện đã gây nên tai hoạ vừa qua.

Người dân ở Tư Nghĩa mà chúng tôi tiếp xúc ủng hộ việc làm này của kỹ sư Thạnh.

“Tôi tâm đắc ý kiến của anh Thạnh, ít nhất cũng phải như vậy, chứ nếu không người ta coi thường người dân quá, nếu mà không kiện thì nó tiếp tục xả, hàng năm ngày càng lớn. Mưa vừa rồi không lớn mà lũ thì quá lớn, cho nên không có nguyên nhân nào khác ngoài chuyện thủy điện xả lũ cả.”

Chúng tôi cũng tiếp xúc với kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh, và anh có dành cho chúng tôi một cuộc trao đổi về vấn đề này. Kính mời quí vị đón nghe trong bài kế tiếp.
Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-12-03 

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năngmà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
1468720_354694488000497_1492264788_n
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
PKý lễ
Một buổi lễ ở trường Petrus Ký ( trường Lê Hồng Phong ngày nay )
 Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh.
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh vànhững bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
750Thay_Co_truong_QGNT
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
vnch-giao-duc6
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốclấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa cáccá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôngiáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
vnch-giao-duc1 (1)
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong nhữngnền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếpnhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinhthần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việchiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minhthế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH:

Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
Thanh nữ VNCH
Thanh nữ VNCH
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ýthức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệmvà kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường  chiến sĩ)
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
chiến sĩ)

Giáo dục tiểu học:

Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).   Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
Niên học Số học sinh Số lớp học
1955 400.865 8.191
1957 717.198[9]
1960 1.230.000[9]
1963 1.450.679 30.123
1964 1.554.063[10]
1970 2.556.000 44.104
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học(chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa. ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ. )
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lậphay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dânđức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản

 Giáo dục trung học:

Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1971 sau 1971
lớp năm lớp một
lớp tư lớp hai
lớp ba lớp ba
lớp nhì lớp tư
lớp nhất lớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thất lớp sáu
lớp đệ lục lớp bảy
lớp đệ ngũ lớp tám
lớp đệ tứ lớp chín
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tam lớp mười
lớp đệ nhị lớp 11
lớp đệ nhất lớp 12
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàngnăm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trảhọc phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường Marie Curie
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
Nam sinh Võ Trường Toản
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
Niên học Số học sinh Số lớp học
1955 51.465 890
1960 160.500[9]
1963 264.866 4.831
1964 291.965[10]
1970 623.000 9.069
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinhđậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường Gia Long
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đemáp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinhnhững kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trunghọc. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị nhữngmôn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp,nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và SươngNguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B'Lao
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáodục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấphọc bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắtbuộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầuhết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.

Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử

Các trường tư thục và Bồ đề:
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tưthục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng sốhọc sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhấtđịnh cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học chính trongcác trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité - Bac Ai datant de 1908, se situe 4 - rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 - Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhậnhọc sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúpđỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầuhoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế,và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gianghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không đượchuấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinhquân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
VienDaiHocVanHanh Saigon
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là  Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học
Niên học Số sinh viên
1960-61 11.708[45]
1962 16.835[10]
1964 20.834[10]
1974-75 166.475[46]
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Luat Khoa Sai gon
Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứngvới một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
25-khach_vieng_truong_01
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngànhhọc. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, vàTrường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học”cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình việnđại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của QuốcHội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các“đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Namđổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trướcnăm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưngsau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từnăm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức:Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoađại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học& Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm việntrưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thậpniên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phânkhoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quảntrị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoahọc Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại họcnày do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Viện Pasteur Nha Trang
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền nhưthuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài GònViện Pasteur Đà LạtViện Pasteur Nha TrangViện Hải dương học Nha TrangViện Nguyên tử lực Đà LạtViện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở  ĐàNẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc.[74] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật:
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn TâyPhương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu Trần Thanh Tâm (đờn kìm) Phan Văn Nghị (đờn cò) Trương Văn Đệ (đờn tam) Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hìnhvới các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.

TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA

Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa cuối sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
KohoReader
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

NHÀ GIÁO

Đào tạo giáo chức:

Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.  Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê ThuộtHuếVĩnh LongLong An, và Quy Nhơn[85] Nha TrangMỹ ThoCần ThơLong Xuyên.[86] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[87] Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[88] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[89] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm).[90] Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.[91]
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như AnhPhápHoa KỳNhậtĐức, v.v…[87]
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở PhápĐức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.[56]
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Đời sống và tinh thần giáo chức:

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.[87]
Scan_Pic0046
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm.

THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP

Chứng chỉ Tú Tài 1
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.[27]
Chứng chỉ Tú tài 2
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[27]

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:[96]
Phan_Huy_Quat
Ông Phan Huy Quát

ĐÁNH GIÁ

hocba1950
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét )
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.[107]
(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)

Những bất thường khi máy soi triệu USD hỏng bất thường


Chiếc máy soi chiếu trị giá 1,2 triệu USD của TCS bị “hỏng” bất thường vào ngày lô hàng 600 bánh heroin gửi đi? Ảnh: P.V
  Hải quan “đổ” lỗi cho hệ thống máy soi chiếu là thuộc an ninh sân bay. Nhưng câu hỏi lớn nhất hiện nay đó là tại sao máy soi chiếu trị giá hàng triệu USD, thuộc loại hiện đại nhất, lại bị “hỏng” đúng lúc lô hàng 600 bánh heroin thông quan? Chưa hết, mặc dù được dùng máy soi chiếu khác, lô hàng ma túy cực lớn này vẫn “lọt” qua.

Vận chuyển ma túy qua đường xe khách
Tuyên tử hình, chung thân 2 "nữ quái" vận chuyển ma túy
Tử hình 2 “chân rết” vận chuyển ma túy xuyên châu lục

Máy soi bỗng “đột quỵ”

Ngày 3.12, PV Báo Lao Động tiếp tục tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến vụ 229kg ma túy “lọt” qua cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Theo nguồn tin riêng của Lao Động, chiếc máy soi chiếu này được Cty TNHH dịch vụ hàng hóa Tân Sơn Nhất (gọi tắt là TCS) nhập khẩu về từ năm 2011, với giá “khủng” 1,2 triệu USD (tương đương 25 tỉ đồng). Sau khi để “lọt” vụ vận chuyển 229kg heroin, Cảng vụ Hàng không miền Nam cũng đã đề nghị TCS cung cấp toàn bộ hồ sơ gói thầu cùng các giấy tờ liên quan của các đợt kiểm tra bảo hành, sửa chữa định kỳ của máy soi chiếu hiện đại này. Ngày 3.12, được biết Bộ GTVT cũng đã cử đoàn công tác vào làm việc với TCS để làm rõ nhiều vấn đề xung quanh chiếc máy có giá “khủng” 25 tỉ đồng.

Theo điều tra của Lao Động, vào năm 2011, TCS được đầu tư hơn 280 tỉ đồng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó TCS chi 1,2 triệu USD mua máy soi chiếu hàng hóa (XR1) được nhập về lắp đặt tại kho hàng của TCS, số 46 đường Hậu Giang, phường 4, quận Tân Bình (sát bên sân bay). Bên cạnh việc lắp đặt chiếc máy soi chiếu hiện đại này, TCS còn chi số tiền lớn để mua hệ thống quản lý bằng phần mềm từ Ấn Độ. Tuy nhiên, không những tốn kém mua máy, phần mềm, TCS còn phải thuê các chuyên gia từ nước ngoài sang bảo trì, sửa chữa máy này và cũng tốn tiền cho cán bộ ra nước ngoài để đào tạo, nhằm về vận hành hệ thống quản lý phần mềm cùng với chiếc máy soi chiếu hiện đại, nhưng nó đã “đột quỵ” một cách bất thường đúng lúc lô hàng ma túy “khủng” thông quan.

… Những bất thường khác

Tốn kém cho đầu tư máy soi chiếu XR1, cùng phần mềm quản lý hiện đại bậc nhất hiện nay là vậy, nhưng đúng cái ngày lô hàng 12 thùng loa chứa 600 bánh heroin gửi xuất đi Đài Loan (TQ), thì chiếc máy của TCS “đột quỵ” bất thường, rồi dùng máy soi chiếu khác (loại máy cũ) và không phát hiện lô hàng ma túy. Trong khi đó, một cán bộ từng làm việc với máy soi chiếu cho biết: “Cho dù dùng máy soi chiếu cũ, là loại máy soi chiếu thông thường theo hệ thống phần mềm gọi tắt là CMS, nhưng với số lượng cực lớn ma túy, đóng thành 600 bánh, nặng đến 229kg (trong khi lô hàng khai báo nặng 500kg), được phủ một lớp sôcôla chống chó nghiệp vụ đánh mùi, vậy mà máy soi chiếu không phát hiện sự bất thường với 600 bánh heroin gói đặt chi chít trong 12 thùng loa là điều bất thường?”.

PV Báo Lao Động liên tục tìm mọi cách để liên lạc với TCS, nhưng đều không được. Đối với ông Tổng Giám đốc TCS Vũ Hải Thanh, mọi liên lạc cũng đều bất thành. Ngay cả khi PV Báo Lao Động liên lạc với vị lãnh đạo Cảng Hàng không miền Nam, thì điện thoại có đổ chuông, nhưng không ai nghe máy! 
  (Lao động)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét