Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Thứ Ba, 24-09-2013 - cập nhật

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT

Biển Đông: Vững vàng trước chiêu “chiếm đóng xen kẽ” của Trung Quốc  (Alobacsi)    —-Biển Đông đối mặt với tương lai đầy sóng gió  (KT)   —-Brunei tái khẳng định ủng hộ UNCLOS trên Biển Đông  (SM)   —-Nhân Dân nhật báo TQ đổ lỗi cho Philippines kiếm cớ thoái thác COC  (GDVN)
‘ASEAN, Mỹ, Nhật nên bắt tay nhau trước sự bành trướng của Trung Quốc’  (VOA)   —-Trung Quốc báo động về nạn đánh cắp di tích dưới đáy Biển Đông (VOA)    —-Trung Quốc trách cứ Philippines về COC  (VOA)
Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á: Giải pháp cho tranh chấp Biển Đông ?  (RFI)   —Siêu vũ khí, vũ khí độc sẽ làm sôi sục Biển Đông?  (ĐV)
Dân quân đảo Lý Sơn tập trận bắn đạn thật  (RFA)
Biểu ngữ kêu gọi phát huy quyền làm chủ
Kêu gọi thành lập diễn đàn xã hội dân sự  -(RFA) ===>>>
Tuyên bố thành lập Diễn đàn Xã hội Dân sự -(RFA)   —Tuyên bố quyền thực thi xã hội dân sự -(RFA)
Diễn đàn Dân sự: Chuyển đổi ôn hòa thể chế chính trị Việt Nam  (RFI)
 RSF bi quan về tự do thông tin tại Việt Nam (RFI)   -Một ngày trước chuyến viếng thăm nước Pháp của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) công bố báo cáo về tình trạng thiếu tự do thông tin tại Việt Nam. Báo cáo mang tựa đề « Cái chết được báo trước của tự do thông tin » tại quốc gia này.    —- RSF kêu gọi tự do báo chí cho Việt Nam -(RFA)—-  Việt Nam: Cái chết biết trước của tự do thông tin  (VOA)
Tuyên bố của Linh mục đoàn Giáo phận Vinh về Mỹ Yên -(RFA)   —Giám Mục Nguyễn Thái Hợp kể nguyên do vụ Mỹ Yên  (NV)
Việt Nam được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IAEA  (RFA)   —–Nhức nhối đời sống ven hồ Sông Tranh 2  (RFA)    —-Đường dây cán bộ làm bằng giả cho công chức  (ĐV)
Đoàn đại biểu Bộ Y tế Việt Nam kết thúc tập huấn về quản lý thông tin y tế tại Trung Quốc  (CRI)    —– Tham tán văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam khảo sát công tác giảng dạy tiếng Trung của Học viện Ngoại ngữ Thái Nguyên Việt Nam  (CRI)
 Minh Trang:  Lại cái Tết Trung Thu nhớ quê trong những năm du học tại Trung Quốc  (CRI) -chị Phạm Thị Minh Trang, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Tiếng Hoa hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay chị đang học Thạc sĩ tại trường Đại học Sư phạm Hoa Trung Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc, và hiệ
Quyết làm xong 10 ‘đại án’ tham nhũng  (TP) -Nhưng…cần …vài năm …nữa! Ông Nguyễn Bá Thanh:’Vụ Dương Chí Dũng phải mất mấy năm nữa’  (ĐV) 
Nguyên PTT Vũ Khoan không dám tin số liệu thống kê VN  (ĐV) – Từng làm Phó TT mà “xác định” thế thì là mà chuyện thật rồi.   —Dân đã quá sợ những con số dối trá!   (Dantri)   —-Sự tồi tệ của những con số thống kê  (LĐ)    —-Tham nhũng lớn nhất là từ chủ trương đầu tư  (DV)
Khó nhất là xử lý người đứng đầu  (TN) -Tham nhũng là vấn đề nổi cộm được đưa ra trong buổi tiếp xúc cử tri của Phó trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng chống tham nhũng, kiêm Trưởng ban Nội chính T.Ư Nguyễn Bá Thanh hôm qua tại Đà Nẵng.
GS.Trần Đại Phúc: Báo động đỏ nhân lực Điện hạt nhân VN  (ĐV)
Cách làm báo thời VNCH và thời CHXHCNVN  -(Chuacuuthe) – – “Sự khác biệt “quan trọng nhất” và “rõ nhất” giữa 2 nền báo chí thời VNCH và thời CHXHCNVN là: Thứ nhất, thời VNCH có “báo chí tư nhân, thời Cộng sản “thì không”. Thứ hai, thời VNCH người làm báo không có bổn phận phải tuyên truyền cho chủ trương và chính sách của nhà nước như thời Cộng sản. Thứ ba, thời VNCH không có người làm báo cũng là “cán bộ của đảng cầm quyền” hay “phải viết theo lệnh của Cơ quan Chủ quản.” Thứ tư, thời VNCH, người làm báo “có quyền phê bình chính sách của nhà nước và chỉ trích “những sai lầm của cấp lãnh đạo”. Thời CS thì không được phép.” Nhà báo Phạm Trần bình luận.
PGHH ra Tuyên Cáo: Bảo vệ danh dự Đạo Pháp đến cùng  (Chuacuuthe)
Thu ngân sách 2013: “Đuối”  (SM)    —-30% vốn viện trợ quốc tế cho Việt Nam đến từ Nhật Bản  (DV)
Trưởng Ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh: “Bà con cứ gửi đơn về nhà tôi”  (DV)—-Ông Nguyễn Bá Thanh chưa tin Ban Nội chính Đà Nẵng? (Infonet)   —-Ông Nguyễn Bá Thanh: “Ngành y tế chưa nắm được bệnh của mình”  (LĐ)
“Nặng gánh”… nông thôn mới: Bài 1- Kiệt sức vì các khoản phí(DV)
Nghỉ thai sản dành cho chồng: Thừa nhân văn, thiếu công bằng(DV)    —-Bệnh viện để sót nhau thai suốt 20 ngày, sản phụ nguy kịch  (DV)
Nhà máy tinh bột sắn xả thải độc: Sai phạm nghiêm trọng, chỉ phạt hành chính (!?)  (DV)
Người cai nghiện được 900.000 đồng/tháng, người cao tuổi chỉ 180.000 đồng!  LĐ)
Chính sách “giật lùi”  (TN) -Thay vì cải tiến quy trình, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thuế nhanh nhất, những quy định về việc hoàn thuế giá trị gia tăng mới ban hành gần đây lại đi giật lùi, gây khó khăn, bức xúc cho doanh nghiệp.  >>>>Khốn đốn với hoàn thuế
___________________________________________________________________________________________________________________
Danh sách ký tên Đợt 2 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9  (DĐXHDS)  -Danh sách này có Ông Nguyễn đình Lộc ,cựu Bộ trưởng Tư pháp và Ông Lê công Định , cự tù nhân lương tâm.
Về những chỉ trích của Trương Nhân Tuấn với bản đồ biên giới Việt Trung của Dương Danh Huy và Phan Văn Song  -Phạm Quang Tuấn – (Boxitvn)
Thử xét tính «cần thiết và bổ ích» của công trình vẽ bản đồ của nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông   -Trương Nhân Tuấn- (Boxitvn)
Vài nhận định sai lầm của Karl Marx về quan điểm của Adam Smith   -Karl Graf Ballestrem – Đỗ Kim Thêm dịch- (Boxitvn)
Ai Cập, thời của căm thù  -Newsweek -Lê Diễn Đức dịch  (RFA)

Mấu chốt của mọi vấn đề!   (Kami -RFA)
Thượng Nghị sĩ John McCain: Người Nga đáng có được một tổng thống tốt hơn Putin  (Danluan)
Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể còn tồn tại được bao lâu?  -Jamil Anderlini (Financial Times) * Người dịch: Nguyễn Quốc Khải (Danlambao)
Xin có vài lời với các vị phản đối “Tuyên bố 258”  – Nguyễn Mạnh Thái (Danlambao) Trước khi có vài lời đến quý vị, tôi xin tự giới thiệu là một đảng viên gần 40 tuổi đảng, từng công tác ở trung ương và ở địa phương, từng vào nam ra bắc, từng đào tạo qua đại học, qua trường đảng… Tôi từng là một đảng viên “trung kiên” đứng về phe bảo vệ đảng đến cùng. Nhưng có phép màu nào đã làm cho tôi như hôm nay, nếu nói về tư tưởng thì đã ở trong phe “phản động” (tôi không tuyên bố gì, nhưng bỏ sinh hoạt đảng từ lâu), xin thưa với quý vị, đó là nhờ có internet.
Xin ông Đông La bỏ thói vu cáo chính trị hèn hạ  – Trần Mạnh Hảo (Danlambao)
Thực hư việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh  (DLB)
Những phút cuối đời của Hồ ông: Ai bốc phét, ai nói láo? (DLB)
Ông Tiến sĩ Đoan lại lên tiếng đánh bóng cho PHÁP QUYỀN NHÀ NƯỚC (DLB)

Đảng ta ưu việt muôn năm  (DLB)  ====>>>

Sự lúng túng của bạo quyền  (DLB)    —-Như khùng như điên (DLB)
Thần đồng ca sĩ (DLB)    —-Sống Phúc Âm trong lòng dân tộc Việt! (DLB)
Luật rừng  (Huy Phương -Nguoiviet)  -  Công an đánh chết người trong khi “thi hành công vụ,” như Trung Tá Công An Nguyễn Văn Ninh đánh chết một người dân đi xe không đội nón bảo hiểm, chỉ bị xử 4 năm tù. Nguyễn Trọng Hiếu, công an viên xã Diên Khánh, Khánh Hòa, trong khi tuần tra giao thông, đã đuổi theo một nam thanh niên vì người thanh niên này không đội mũ bảo hiểm, đã dùng gậy giao thông đánh vào gáy thanh niên này làm anh mất thăng bằng ngã xuống quốc lộ, bị thương tích 77%, xếp loại thương tật vĩnh viễn. Tên công an chỉ phải ở tù 9 tháng và bồi thường 113 triệu VN (khoảng $6,000.00 đô la,) số tiền này không thể nào nuôi một người nằm liệt giường suốt đời. Ðó là luật rừng của kẻ cầm quyền.
TIÊN TRÁCH KỶ HẬU TRÁCH NHÂN (1)  -(NCTG)  -“Giặc đến khi nào? Xin trả lời ngay: Giặc chỉ đến khi đất nước rối ren, suy yếu. Vậy nếu giặc đến thì hãy trách ta trước rồi trách giặc sau. Mà trách giặc làm gì, vô ích” – bài viết của nhà giáo Vũ Quốc Lương từ Hà Nội.
Hợp tác với Hoa Kỳ là yêu cầu bức thiết (Nguyễn Thanh Giang) -Thongluan
Đảng Cộng sản còn tồn tại ở Trung Quốc được bao lâu nữa? »  - - Khi nền kinh tế giảm tốc độ tăng trưởng và nỗi bất bình của tầng lớp trung lưu tăng lên, đó là câu hỏi hiện đang được đặt ra không chỉ ở nước…
Từ ngõ Phất Lộc tới Weimar [24] »  -  (ĐCV) - Sau nhiều đe dọa, bắt bớ, o ép, một cán bộ an ninh cấp cao đã đến khuyên nhủ tôi từ bỏ viết blog. Nếu đồng ‎ thì họ sẽ sắp xếp cho…

KINH TẾ
- Nước mắt cá hồi: Gõ cửa các cơ quan chức năng (NNVN).
Nợ xấu của Việt Nam là cơ hội cho đầu tư nước ngoài  (RFA)   —-Mỹ chính thức bỏ vụ kiện chống trợ giá tôm VN  (RFA)
Nguyên thống đốc lý giải vì sao NH không muốn bán nợ xấu cho VAMC  (GDVN)
‘Kinh tế Việt Nam đang tụt hậu ngày càng xa’  (VEF)    —-Tái cơ cấu vẫn mang nặng tính hình thức  (TT)     —-Thuế, phí làm ôtô ở VN quá đắt (TT)
Trả lại khu công nghiệp  (TT) – Quy hoạch, đăng ký đầu tư rầm rộ vào thời kỳ kinh tế nóng trước đây, nhưng đến nay nhiều dự án đầu tư khu công nghiệp (KCN), khu đô thị phục vụ KCN, khu dân cư… ở nhiều địa phương đang bị các nhà đầu tư trả lại, tuyên bố ngưng đầu tư.
Bi kịch đại gia trốn nợ  (TP)    —-Giá xi măng dự kiến tăng 8-9% (TP)    —Giảm chỉ tiêu xuất khẩu gạo năm 2013 (TP)
BĐS sụp đổ, truy đại gia dự án VN khắp thế giới  (ĐV)-    —-Nỗi lo tăng trưởng thấp và ẩn chứa rủi ro  (VnEc)   —-Phát hiện hàng loạt doanh nghiệp FDI khai lỗ lớn  (VnEc)
Lạm phát tháng 9 “leo thang” 1,06%  (Dân trí)    —-“Đại gia” xe oằn mình trong thua lỗ  (KT)

VĂN HÓA-THỂ THAO
Tết văn nhân (Quê choa). - Chuyện buồn đau một thuở. - GIỖ Ở QUÊ (Văn Công Hùng).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo Phạm Vũ Luận:  Kiên quyết xử lý giáo viên vi phạm quy định dạy thêm (SGGP).
Bỏ bớt một kỳ thi: Không nên cải cách nửa vời  (TP)
9X xinh đẹp được Tổng thống Mỹ tặng bằng khen  (TP) -  Với thành tích học tập phổ thông xuất sắc Nguyễn Ngọc Minh (tên thân mật là Eve) đã vinh dự là 1 trong 3 học sinh của trường St. Margaret’s School được nhận bằng khen danh giá từ Tổng thống Mỹ.:
Nước Mỹ là nơi cho phép và khích lệ bạn bộc lộ và khẳn định bản thân. Mình đã dẹp bỏ mọi sự chần chừ, nỗi sợ hãi để thử những cái chưa dám làm trước đây.
ĐH Ngoại ngữ – ĐHQGHN: Sinh viên “vỡ mộng” vì ngành học kép?  (DT)

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Một người Trung Quốc lãnh án tù do buôn bán phụ nữ Việt  (RFA)   —Công viên cõi âm lớn nhất Sài Gòn  (Zing)

Cập nhật vụ nổ súng trạm CSGT: Hé mở nguyên nhân  (ĐV)   —Bộ Công an kiểm tra vụ 3 CSGT bị bắn tại trạm  (ĐV)    —-Thiếu tá CSGT bị bắn chết: Công an Đồng Nai nói gì?  (VTC)   —  Thiếu tá CSGT tử vong vì bị bắn 2 phát vào bụng  (ĐV)
Buôn bán vũ khí từ Campuchia vào Việt Nam  (ĐV)   —Yêu cầu giải trình và xử lý nghiêm vụ Giám đốc đánh nhân viên sân golf nhập viện  (TP)
Ông Tây bị đâm vì tuân thủ luật giao thông Việt Nam  (ĐV)  -Mặc dù đi bộ đúng vạch sang đường nhưng người đàn ông là du khách nước ngoài vẫn bị hai chiếc xe máy đâm liên tiếp khiến ông nằm bất tỉnh giữa đường.
Bãi rác khổng lồ: 10 năm chính quyền không bắt được vụ vi phạm nào! (Infonet)    —-Giết chết bé gái trong vườn mía  (NLĐ)

QUỐC TẾ 
Thủ tướng Angela Merkel hứa sẽ cùng nhân dân Đức làm hết sức mình trong 4 năm tới, để những năm ấy sẽ là những năm thành công cho nước Đức.
Bầu cử Ðức: Phe bảo thủ của bà Merkel thắng lớn  (VOA)  ====>>>
Gia tăng cách biệt về tuổi thọ phụ nữ giữa nước giàu và nghèo  (RFA)   —-Tiến trình xóa bỏ lao động trẻ em toàn cầu diễn ra quá chậm   (RFA)
Iran sẽ họp với 6 cường quốc về hạt nhân trong tuần này   (RFA)
Bà Suu Kyi kêu gọi tu chính hiến pháp trước kỳ bầu cử 2015   (RFA)   —Aung San Suu Kyi kêu gọi người Miến Điện lưu vong hồi hương  (RFI)  —Bà Suu Kyi khuyến khích Miến kiều trở về quê nhà  (VOA)
Campuchia: Ông Hun Sen làm thủ tướng thêm một nhiệm kỳ  (RFA)
Bình Nhưỡng ngấm ngầm thử tên lửa tầm xa (RFI)    —-Bắc Triều Tiên nổi giận trước video khiêu dâm liên quan tới gia đình lãnh tụ (VOA)    —-Lãnh tụ Bắc Triều Tiên hành quyết 9 người để tránh tai tiếng cho vợ  (VOA)    —-Nam Triều Tiên kêu gọi miền Bắc cho nối lại đoàn tụ gia đình (VOA)
Bạc Hy Lai : Hổ nhốt trong chuồng  (RFI)    —  TQ muốn gì khi xử tù Bạc Hy Lai?   (VNN)—-Trung Quốc chỉ trích Nhật Bản bố trí radar tiên tiến (VOA)    —TQ phóng vệ tinh Phong Vân-03 hay vũ khí?(ĐV)
Cách đọc phương tiện truyền thông của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐKN)  -Trước hết, bất cứ điều gì được cho là “tin xấu” như là thảm họa, những câu chuyện về an ninh công cộng hoặc an toàn công cộng, hay tham nhũng, thực tế thường là tồi tệ hơn nhiều so với những gì được báo cáo. Nguyên tắc của ĐCSTQ là chỉ thông báo thông tin sao cho người khác thấy họ tốt.
Học sinh Trung Quốc ào ạt vào trung học Mỹ (NV)- Kỳ dzậy- Ở Trung cộng tốt nhất không học lại chạy qua học cái “bóc lột, xấu xa” của Đế quốc Mỹ???- Ha !ha! “nói dzậy mà không phải dzậy”.
Bộ trưởng Nội vụ Kenya: Ða số các con tin đã được giải cứu  (VOA)    —Tử vong trong 2 vụ đánh bom nhà thờ ở Pakistan tăng tới 81 người (VOA)
Trung Quốc lo lắng về radar của Mỹ đặt tại Nhật  (SM)

Những tiết lộ chấn động về cái chết của Công nương Diana  (GDVN)
Nhà giàu Trung Quốc tìm người Mỹ đẻ mướn  (TN)  -Thế thì nó mang máu của Đế Quốc Mỹ , mất mẹ nó máu Hán rồi , “máu” nhé , chớ ADN vẫn Hán nhưng thành lai rồi.-Sao không mướn Bắc Hàn, Cu ba , Việt nam cho nó cùng chung “ý thức hệ” nhỉ???- Nó muốn lấy Quốc tịch của ĐQ Mỹ chớ mẹ gì. Lại cũng muốn theo tên “Đầu sỏ Tư bản xấu xa”- Sao CS tốt nhất trần ai mà lại chạy đi??? Cho nó nhiễm cái “xấu xa “???

Đảng ta ưu việt muôn năm

Nguyên Anh (Danlambao) - Có lẽ không có một quốc gia nào trên thế giới có lối điều hành rừng rú, bộ lạc như tại Việt Nam!  Tất cả guồng máy đều cúc cung tận tụy chủ thuyết cộng sản mà đảng là chúa tể tối cao, và những ai muốn bước qua cánh cửa đại đăng khoa đều phải bán linh hồn cho... đảng.
Làm quan tại xứ thiên đường này rất dễ chứ không hề khó, chỉ cần lòng trung thành khuyển mã (thật) hoặc giả vờ miệng la lớn quang vinh xúi dại người khác chứ ai chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi!
Nếu các quốc gia văn minh đòi hỏi người đứng đầu nhà nước phải uyên bác, có hành vi chuẩn mực trong con mắt người dân thì tại đây chuyện đó: khỏi!
Các quan xứ thiên đường này không cần phải có bằng cấp cao trước khi tham chính mà chỉ cần một yếu tố duy nhất: là giọt... tinh trùng có nhuộm... thuốc đỏ của cha ông để lại làm giống! 
Thành ra vô cùng dễ hiểu khi thấy hoàng thân Hùng hói nick chat tocgiothoibay mang họ Nguyễn Sinh (chắc không ai dám mạo nhận đâu nhỉ?)
Và các quan chức khác cũng thế, bố tôi, ông tôi, bác tôi, chú tôi, chị tôi, em tôi là...(!)
Nói chung nhìn giống như là cái rỗ trong đó các quan bò lúc nhúc…
Và khi đã làm quan, các quan xứ chúng ta tha hồ mà bốc hốt trong lĩnh vực mình phụ trách, cốt cho đầy túi tham chứ còn bọn dân đen có chết thì cũng mặc mẹ nó thành ra người ta không lấy làm lạ khi ngư dân bị bọn Tàu khựa bắt đòi tiền chuộc thì anh Tư Sâu đến ủy lạo và diễn thuyết biển của ta, ta cứ ra khơi hay Vinashine tòe loe như bịch mắm tôm thối mà anh 3 Ếch vẫn cười tươi như hoa cứt lợn...
Nhưng một khi nhà nhà hóa sâu thì dân chịu đời không thấu, tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa cũng tới tai hoàng thân Hùng hói!
Những kiến nghị, rĩ tai, truyền miệng đều đến tai ngài, thậm chí các con sâu cũng kèn cựa với nhau tranh ăn ó ré đấu tố nhau ì xèo, điều này làm cho ngài vô cùng khó xử, nhưng sau nhiều kiến nghị của đám sâu ngài bực quá phát cáu lên phát biểu:  kỷ luật hết lấy ai mà làm việc! 
Đúng thế đấy, dù dân số nước VN là 90 triệu người nhưng hạt giống đỏ thì chỉ có 3 triệu, cái bánh thì ít mà chia hết cho dân thì làm sao mà đủ! Thành ra ở cái nước VN cụm từ liêm sỹ, trách nhiệm gần như mai một, các quan lại tiếp tục làm láo hốt cho đầy sau đó an toàn hạ cánh, còn ai bị bể bạc phanh phui thì cũng thế, quê một tý trước bàn dân thiên hạ sau đó về nhà hưởng phước!(xem bài 8 chú sâu con).
Và các quan lại tiếp tục con đường đảng quang vinh, từ cấp phường ăn bạo quá thì đổi lên quận, từ cấp quận mà có tì vết thì lên thành, còn từ thành chung bạo vô thì lên đến trung ương ngồi phét lác.
Cứ thế 3 triệu con sâu lăn lộn, nẩy nở, gầy giống, nhân rộng tàn phá hết đất nước Việt Nam, chúng ăn ngon mặc đẹp trước ánh mắt của những người dân cơ cực một cách thản nhiên...
Thảng hoặc có ai hồ nghi, theo dõi, phát giác thì bọn chúng lại la lên: Đảng ta là ưu việt, con đường đảng ta đi là muôn năm, muôn năm...
Tuy nhiên nhiều con sâu bự quá do ăn tạp không còn bò nổi thì thều thào thốt lên: muốn nằm, muốn nằm, muốn nằm...

Vài nhận định sai lầm của Karl Marx về quan điểm của Adam Smith

Karl Graf Ballestrem
Đỗ Kim Thêm dịch
Li người dch:
Karl Marx là mt nhà nghiên cu về lch s tư tưởng kinh tế. Dù uyên bác và làm vic nghiêm túc nhưng ông không tránh khi sai lm. C th là khi viết Tư Bản Lun, Marx không đ cp đến thành tích đóng góp của phong trào Khai Sáng Tô Cách Lan trong tiến trình thay đổi suy luận kinh tế ca châu Âu. Marx lit kê Adam Smith và David Ricardo vào chung mt hc phái, mà cả hai sng vào hai thời điểm và có ni dung kho hướng khác nhau. Marx còn hiu lm Smith là hc trò ca Ferguson. Nhưng quan trng nht là Marx có hai phê phán sai lạc về quan điểm ca Smith.
Thứ nhất, Marx đã quy kết Smith là "đại biểu khoa học của gia cấp tư sản“. Là một giáo sư Đạo đức học, Smith không hề đảm nhận vai trò này trong thực tế. Lý thuyết của Smith qua tác phm "S Thnh Vượng Cu Đất Nước" đào sâu hiện tượng xã hội trong bối cảnh "lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự". Smith luôn biện hộ cho một chính sách kinh tế có thể tác động đến tăng lương công nhân và hạ giá bán sản phẩm. Smith không hề bảo vệ quyền lợi của người giàu và quyền thế, mà ông còn công khai phê phán thái độ đàn áp công chúng giới lãnh đạo thủ cựu và lừa bịp của giới tư sản. Do đó, quy kết của Marx không dựa theo quan điểm xã hội của Smith.
Thứ hai, Marx xem lý thuyết giá trị và phân phối của Smith sai lầm, vì Smith không hiu chức năng của tiền tệ trong phân công lao động và trao đổi hàng hoá và Smith cũng không nắm bắt được quyền lực lao đng trong tiến trình sản xuất. Do không khám phá nguồn gốc tư bản thống trị xã hội, nên Smith không lý giải được tại sao của cải xã hội gia tăng mà có phân phối bất công.
Thực ra, Smith lập luận chiếm hữu trong xã hội dân sự có chức năng lao động của con người, nhưng cũng là thành quả của sử dụng bạo lực và lưà đảo. Phân phối hoặc chiếm hữu giá trị không phải luôn luôn là nguồn gốc của giá trị và luật giá trị không tạo nên xã hội tư sản. Smith không giới hạn phân phối của cải xã hội chỉ có trong ba giai cấp điền chủ, s hữu chủ tư bản và lao động. Khi giải thích doanh lợi chỉ là do giá bán cao hơn giá trị hoặc là do lừa đảo quyết định, ý tưởng này là sai lầm, vì Smith cho là còn có nhiều yếu tố khác tác động. Smith giải thích doanh lợi là phần trích xuất từ giá trị sản xuất. Khi mọi người không vi phạm luật công bình thì họ có hoàn toàn tự do để theo đuổi quyền lợi riêng và có quyền mang tư bản vào đầu tư kinh tế để cạnh tranh với người khác theo cách của mình. Doanh lợi và điạ tô không những chỉ có chức năng tiền lương mà còn có chức năng giá cả. Do đó, Smith biện minh "hệ thống tự do tự nhiên" dựa trên lập luận hữu dụng nhằm phục vụ quyền lợi tốt đẹp nhất cho đại đa số quần chúng.
Dù có nhận định sai lầm về Smith nhưng Tư Bản Luận của Marx vẫn còn có những giá trị giới hạn nhất định.
Đỗ Kim Thêm
clip_image002Nguyên tác Anh ngữ của bản dịch là "Karl Marx and Adam Smith: Critical Remarks About The Critique Of Political Economy" đăng trong: Contemporary Marxism, James J. O´Rourke et al.(eds.), 1984, D. Reidel Publishing Company, 21-38.
Karl Graf Ballestrem (1937-2007), là Giáo sư Triết học và Chính trị học tại các Đại học Chicago, Notre-Dame (Hoa Kỳ), München và Eichstätt-Ingolstadt (Đức).
Người dịch đặt tựa đề cho bản dịch và đưa chung các trích dẫn kinh điển và chú giải cuả tác giả vào cuối bản dịch.
* * *
Nếu luận về phương pháp để so sánh giữa hai tác phẩm "Sự Thịnh Vượng Cuả Đất Nước" của Adam Smith và "Tư Bản Luận" của Karl Marx thì chúng ta sẽ thấy có sự dị biệt quan trọng và rõ rệt: Trong khi Smith cố gắng tổng quát hoá những kinh nghiệm (mà ông tìm ra qua tư liệu lịch sử, thống kê và đàm luận với thương giới ở thành phố Glasgow) và kiểm chứng lại những phương cách này để lý giải với một tầm vóc rộng hơn về những hiện tượng được chứng nghiệm (theo quy luật khoa học của Newton), thì Marx qua tiểu tựa đã cho thấy Tư Bản Luận là bàn về „Phê Phán Về Kinh tế Chính Trị Học“. Tư Bản Luận khởi đầu với suy đoán lý thuyết của những nhà kinh tế tư sản để chứng minh những phạm trù và quy luật vừa lộ vừa ẩn và đều không có khả năng giải thích được thực trạng của hệ thống kinh tế tư bản. Đối với Smith, việc tham khảo tài liệu kinh tế cổ điển và hiện đại giúp cho ông soi sáng thêm quan điểm, nhưng ông không cần đến các thuyết trọng thương và trọng nông để lý giải cho luận thuyết của mình. Đúng hơn về sau (đặc biệt là trong quyển IV của „Sự Thịnh Vượng Cuả Đất Nước"), ông thảo luận về các lý thuyết, nhưng chỉ để nhằm soi sáng ưu thế trong hệ thống lý thuyết. Ngược lại, Marx nghiên cứu cẩn trọng về các sách vở kinh tế trên 200 năm qua để khám phá về „Phân Tích Về Xã Hội Tư Sản“ và giới thiệu như một tiền đề trong lý thuyết phê phán (ngay từ đầu quyển I Tư Bản Luận) mà ông coi là những phạm trù và nguyên tắc cơ bản của "Kinh Tế Chính Trị Học Cổ Điển".
clip_image003Khi chúng ta lưu tâm đến tầm quan trọng của khoa học kinh tế chính trị cổ điển để tìm hiểu Marx về phê phán xã hội tư sản, một vấn đề có liên quan đặc biệt là liệu Marx có quan tâm đến James Steuart hay Adam Smith hoặc David Ricardo không hoặc là Marx có chú ý lý giải trung thực về các lý thuyết của họ không hoặc Marx có sử dụng chọn lọc các công trình này để đúc kết xem các lý thuyết này có cục bộ và tự mâu thuẫn hay không. Dù thế, vấn đề này không đáng được quan tâm. Trong số những học giả Mác xít, lý thuyết của các nhà kinh tế tư sản thường được trình bày theo quan điểm phê phán thiên về Marx và trích lời của Marx.[1] Đối với các sử gia về tư tưởng kinh tế không theo Mác xít, thì Marx thực ra là kinh tế gia, nhưng không phải là nhà phê phán về lý thuyết kinh tế.[2]
Những nhà nghiên cứu khoa học về Marx là những người hiểu phương pháp lý thuyết phê phán của Marx nhưng không có khuynh hướng hoặc thẩm quyền để lập luận chống lại lý giải kinh điển của Marx về kinh tế tư sản. [3]
Dĩ nhiên, tiểu luận này không cố ý thách thức đến toàn bộ công trình phê phán về kinh tế chính trị học của Marx. Điều tôi muốn minh chứng là so sánh những gì Marx nói về những lý thuyết kinh tế tư sản với nghiên cứu lý thuyết được trình bày nghiêm túc trong toàn cảnh lịch sử và hệ thống. [4] Bởi vì Marx coi Smith và Ricardo là những nhà lập thuyết cho trường phái kinh tế cổ điển loại thượng hạng, thí dụ này là một dẫn chứng quan trọng. Nhưng khi tôi muốn minh chứng quan điểm của Marx đối với Smith là phiến diện và không thuộc về lịch sử, tôi không suy đoán rằng quan điểm của Marx cũng đúng cho Ricardo và những người khác. Cho dù trường hợp này có đúng đi nữa, tôi cũng không suy luận là kết luận của Marx về hệ thống kinh tế tư bản là sai.
Dù tôi tự đặt giới hạn cho đề tài, tuy nhiên, mối quan hệ về loại phê phán mà tôi đề xuất rất minh bạch. Để có thể minh chứng Marx hiểu sai về Smith hay Ricardo là có một trọng lượng phê phán khác biệt, tôi có so với dẫn chứng khác, thí dụ như Smith hiểu sai về thuyết trọng nông. Điều này có thể nhận xét qua thí dụ sau đây. Chúng ta hãy suy đoán về các sách vở kinh điển của tư sản là không bao giờ nói đến lao động và trao đổi các mặt hàng tương đương như phương thức tiêu biểu của chiếm hữu và phân phối trong "những xã hội dân sự". Ngay từ khởi đầu của Tư Bản Luận điểm chính khi phân tích giá trị và trao đổi là chứng minh lao động và trao đổi hàng hoá tương đương như biểu hiện tất yếu về những nguyên tắc đặc trưng của chiếm hữu và phân phối của xã hội tư bản (như là một hình thức chống lại xã hội phong kiến). Và chỉ có khi thay đổi cách nhìn từ trên bình diện này (phạm vi trao đổi) đến chiều sâu thuộc cấu trúc (phạm vi sản xuất tư bản) thì người ta mới hiểu được bản chất của thặng dư và doanh lợi.
Tuy nhiên, Marx không chứng minh được cho suy đoán của mình là xã hội tư sản thể hiện tất yếu theo chiều hướng này cho các thành viên. Bằng chứng duy nhất của Marx là „kinh điển của kinh tế chính trị học“ đã có nói như thế. Đó chính là lý do tại sao Marx lý giải về thặng dư và doanh lợi có hình thức phê phán của kinh tế chính trị học. Ngày nay, nếu "kinh điển" có nghĩa là một cái gì đó hoàn toàn khác, thì lý giải của Marx về thặng dư và doanh lợi vẫn có thể còn đúng, nhưng hình thức đặc biệt trong lập luận của Marx không còn thuyết phục.
Tiểu luận này chia làm hai phần. Phần thứ nhất thảo luận về điểm Marx đã hiểu đại cương về lý thuyết xã hội của Smith như thế nào. Phần thứ hai bàn đến vấn đề Marx có thừa nhận lý thuyết giá trị và phân phối của Smith là có đúng không.
Lý thuyết xã hội của Adam Smith
clip_image004Trước hết, đối với các sử gia đương đại, Adam Smith là một trong các nhân vật chủ yếu của „Phong Trào Khai Sáng Tô Cách Lan“.[5] Cùng với bạn là David Hume, ông thuộc về nhóm học giả kiệt xuất mà qua những công trình này chúng ta có thể nhận ra sự thay đổi tư tưởng của con nguời và xã hội từ khoa học quy phạm cổ truyền đến khoa học xã hội hiện đại. Khởi đầu của thời kỳ chuyển hoá này ta có thể tìm thấy qua tác phẩm Treaties of Human Nature (1739/1740) của Hume, đặc biệt là trong quyển III Of Morals. Tác phẩm này giải thích và phê phán về kết ước xã hội theo thuyết tự nhiên. Việc giải thích này trở nên hiển nhiên hơn trong tác phẩm Theory of Moral Sentiments (1759) của Smith mà Smith xem các vấn đề đạo đức
học như là một đối tượng thuộc về khoa tâm lý xã hội.
Essay on the History of Civil Society (1767) của Adam Ferguson và Origin of the Distinction of Ranks (177 của John Millars là những tác phẩm tiêu biểu tiên khởi cho những nghiên cứu về khoa học xã hội thực nghiệm và được xem như là công trình tiên phong của xã hội học hiện đại. Inquiry into the Nature and Cause of the Wealth of Nations của Adam Smith là tác phẩm về kinh tế chính trị đầu tiên theo khoa học xã hội thực nghiệm.
Dù có loại trừ David Hume một phần nào thì một đặc điểm chung của các tác giả này là họ nỗ lực giải thích hiện tượng xã hội trong bối cảnh lịch sử, nói một cách chính xác hơn, trong khuôn khổ của "lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự". Các sử gia về lý thuyết nêu rõ điểm tương đồng trong khảo hướng về „lịch sử tự nhiên“ của trào lưu khai sáng Tô Cách Lan và „khái niệm biện chứng lịch sử“ của Marx. Thứ nhất, điểm tương đồng có thể tìm thấy quy luật này trong khái niệm về con người như một tác nhân tích cực nhằm thoả mản nhu cầu ngày càng tăng qua lao động. Thứ hai, các tác giả Tô Cách Lan suy đoán là các xã hội có khuynh hướng phát triển qua những giai đoạn lịch sử nhất định, thể hiện qua các đặc tính sản xuất và chiếm hữu khác nhau (thí dụ như giới săn bắn, nuôi cưù, nông gia và thương nhân). Thứ ba, họ cố lý giải các thể chế xã hội và chính trị bằng cách quy chiếu với những phương thức sản xuất và sở hữu. Sử gia William Roberton, người bạn của Adam Smith, diễn đạt nguyên tắc này qua hình thức như sau: "Trong bất cứ một cuộc khảo sát nào về hoạt động của con người khi hợp quần vào xã hội, thì mục tiêu đầu tiên cấn phải chú ý là phương thức sinh tồn. Khi phương thức này thay đổi thì các quy luật và chính sách phải thay đổi theo." [6]
Đối với các tác giả Tô Cách Lan, lịch sử không luôn được xem là thăng tiến vì sự tiến bộ trong lĩnh vực này phải trả bằng một giá là tai ách hay xung đột trong lĩnh vực khác. Chính vì thế mà đi theo sau chiếm hữu đất đai tư nhân, phát triển phân công lao động và du nhập thương mại và kỹ nghệ chế biến là gia tăng năng suất nhưng cùng song hành với nó là nỗi khốn khó ngày càng nhiều của nhân dân lao động, xung đột xã hội và suy đồi đạo đức công cộng. Trong khi Ferguson không tìm ra giải pháp cho tính biện chứng của tiến bộ và suy thoái này, nên ông hoàn toàn bi quan trong nhận định những xã hội hiện đại. Smith và Millar tin rằng họ khám phá khuynh hướng lịch sử nhằm làm gỉảm mối quan hệ của thống trị và tăng tự do cá nhân. „Hệ thống tự do theo tự nhiên“ của Smith là một phương thức xã hội tương lai mà các lực lượng của thị trường có khuynh hướng làm tăng lương và hạ giá bán, nhờ thế mà thực hiện được quyền lợi của đại đa số dân chúng.
Marx có khả năng giải thích Smith trong bối cảnh tư tưởng của Tô Cách Lan vào thế kỷ XVIII. Marx không những đọc Wealth of Nations của Smith và Essay của Hume mà còn Essay on the History of Civil Society của Ferguson và Origin of the Distinction of Ranks của Millar. [7] Marx nhận xét Smith là học trò của Ferguson, dù đây là một điều sai, nhưng cũng chúng tỏ Marx biết được những mối quan hệ cá nhân của nhóm này. [8] Tuy nhiên khi đọc Marx không ai có cảm tưởng rằng Smith là người thuộc phong trào khai sáng Tô Cách Lan. Smith được luôn đề cập chung với Ricardo, dù về phương diện lịch sử, người ta không thể kỳ vọng có điểm tương đồng giữa một vị giáo sư Đạo đức học ở Glasgow với nhà đầu tư chứng khoán tại Luân Đôn, người mà nửa thế kỷ sau có sáng tác, nhưng trong một môi trường lý thuyết và xã hội khác biệt.
Nếu Marx là một sử gia về tư tưởng kinh tế, ta không thể chờ đợi Marx nghiên cứu về luận cương trong lý thuyết xã hội của Smith và bối cảnh lịch sử của trào lưu khai sáng Tô Cách Lan. Tuy nhiên, Marx coi những lý thuyết kinh tế tư sản là những ý thức hệ, một hệ thống tư tưởng có thể trình bày triển vọng và quan tâm của giai cấp tư sản trong một bối cảnh lịch sử và xã hội đặc biệt. Để minh chứng trong trường hợp của Smith, Marx không những chỉ giải thích quan điểm về doanh lợi và tiền lương trong một cách đặc biệt (mà tôi sẽ trình bày trong phần sau) mà còn có những ghi nhận thuộc về lĩnh vực nhân chủng học cá nhân chủ nghiã, đặc điểm không thuộc về lịch sử trong lý thuyết của Smith và trong chức năng của Smith là người phát ngôn cho giới tư sản vào cuối thế kỷ XVIII. Tôi xin cố chứng minh là Marx giải thích sai lầm khá vụng về về lý thuyết xã hội của Smith.
Ngay từ đầu tác phẩm Grundrisse Marx khẳng định là Smith và Ricardo quan niệm về xã hội không thuộc về lịch sử và là cá nhân. Theo Marx, cả hai suy đoán lầm lẫn về cá nhân hiện đại là con người tự nhiên, kết quả của một phát triển lịch sử lâu dài. Khi Smith và Ricardo viết về "những người đi săn và đánh cá cô lập và cá nhân", cả hai theo một thí dụ của những nhà tiên tri thế kỷ XVIII mà trong trí tưởng tượng về mỗi cá nhân này trong thế kỷ XVIII – một phần là do sản phẩm dựa vào sự giải thể của những hình thái phong kiến của xã hội, một phần khác là do những lực lượng sản xuất mới được triển khai từ thế kỷ XVI -. Sản phẩm này thể hiện một lý tưởng mà sinh hoạt của nó theo họ phản ảnh được quá khứ. Đó không phải là một thành quả mà là một khởi điểm lịch sử. Theo khái niệm bản chất của con người, khi cá nhân thích ứng, đó là do tự nhiên, mà không do trổi dậy theo dòng lịch sử. Sai lầm này khá phổ biến cho từng giai đoạn cho đến ngày nay. [9]
Không giống như các sử gia về tư tưởng hiện đại, Marx không giải thích Smith như là một đại biểu hàng đầu của khảo hướng "lịch sử tự nhiên". Trong khung cảnh phê phán của Marx, Smith xuất hiện như là một nhà kinh tế tư sản. Marx cũng suy đoán về đặc trưng của tư tưởng kinh tế tư sản để hình dung phương thức sản xuất cuả những xã hội dân sự hiện đại và „xem thiên nhiên là quy định bất biến cho mỗi tình trạng xã hội“.[10] Marx có viết trong The Poverty of Philosophy như sau: "Theo những nhà kinh tế đại diện cho những mối quan hệ tư sản trong sản xuất thì phân công lao động, tín dụng, tiền tệ là những phạm trù cố định, bất biến và vĩnh cữu... . Họ giải thích cho chúng ta biết là người ta sản xuất được trong những tình trạng sẳn có như thế nào. Điều mà họ không giải thích được là những điều kiện này tự nó được tạo lập ra sao, thí dụ như chuyển động lịch sử nào đã đem những điều kiện này thành hình".[11] Trong "kinh điển về kinh tế chính trị học" thì James Steuart là người duy nhất không bị cáo buộc: "Steuart tránh được quan điểm hẹp hòi này vì ông là nhà qúy tộc và trong tinh thần phản luận của thế kỷ XVIII ông đã tôn trọng những cơ sở lịch sử".[12] Khi Smith và Ricardo thảng hoặc có chú ý đến lịch sử, họ chỉ muốn chứng tỏ tính ưu thế của thời hiện tại tư sản so với quá khứ phong kiến. Theo Marx, điểm này là "nhiệm vụ của họ" vì họ là "đại biểu khoa học cho giai cấp tư sản".[13]
Marx không nỗ lực chứng minh về đặc điểm ý thức hệ của lý thuyết Smith từ trong văn bản. Đúng hơn, Smith bị phê phán tổng quát là có tư tưởng kinh tế tư sản và không liên hệ đến lịch sử và chỉ biện luận. Tuy thế cần phân biệt lời cáo giác. Không giống như các nhà biện hộ hậu trào, Smith và Ricardo được coi là những "nhà kinh tế kinh điển" bởi vì họ có vị thế mạnh khi diễn tả công khai mối quan hệ sản xuất trong hình thái thuần tuý của nó".[14] Sáng tác trong thời kỳ mà đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản chưa thể hiện, họ nêu lên vấn đề khá rõ rệt của hệ thống tư bản, ngay cả khi mà những suy đoán lý thuyết của họ không tạo ra nhiều khó khăn[15]. Họ không phủ nhận sự cực kỳ túng quẩn của giới sản xuất ra của cải trong xã hội tư sản và chấp nhận là một phó sản của một hệ thống thăng tiến như định mệnh an bài. "Theo nhãn quan của họ, sự khốn khổ chỉ là đau thương có từ thuở lọt lòng, do thuộc bản chất hay do nền kinh tế kỹ nghệ“.[16]
Điều đáng suy gẫm về phê phán của Marx là Marx đáng lý phải biết rằng Smith không chia sẽ về những ảo tưởng của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản là do bản chất định sẳn bất biến, mà Smith là một trong số những người đầu tiên lý giải (trong quyển III Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước) việc cá nhân hiện đại trổi dậy là để thoát ra khỏi mối quan hệ phong kiến và họ là một lực lượng sản xuất mới được phát triển từ cuối thời Trung Cổ. Marx cũng phải biết đó không phải là "những người đi săn và đánh cá riêng rẽ và biệt lập" mà là những người mà Smith và Ricardo khởi đầu giới thiệu. [17] „Sự Thịnh Vượng Của Đất Nuớc“ khởi đầu với sự phân tích về phân công lao động hiện đại và nhận xét đối chiếu "về đất nước hoang sơ có nhiều người đi săn và đánh cá" ít nhất không cho thấy Smith nghĩ đến các cá nhân biệt lập. Khi ông dẫn chứng về hai người đi săn trao đổi hai chiến lợi phẩm trong "một tình trạng sơ khai và thô thiển của xã hội và đi trước tích lũy của cải và chiếm hữu đất đai"[18], ông không hề đề xuất là hình thức lao động, chiếm hữu và trao đổi có trong thời hiện đại là cũng đã có trong những xã hội sơ khai. Trái lại, thí dụ này nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa trao đổi trong xã hội tư sản (là nơi mà luôn có sự khác biệt giữa công nhân và chù nhân) và trong xã hội sơ khai (là nơi mà người ta chỉ sản xuất cho riêng mình và ít khi mới có trao đổi sản phẩm).
Khẳng định của Marx là Smith và Ricardo có những thái độ chấp nhận định mệnh và biện hộ về sự khốn cùng của giới lao động là không có cơ sở trong các công trình của Smith. Dù khảo hướng về lịch sử tự nhiên ít có tính quy phạm hơn là các học thuyết luật tư nhiên truyền thống, Smith bị phê phán thuộc về xã hội mà "người ta lo quần áo cho cả thế gian trong khi chỉ mang trên mình tấm giẻ rách"[19], và không đem lại nghi ngờ khi những chính sách nhằm giới hạn cơ hội của công nhân được thu nhập lương cao hơn, theo ý nghĩ của ông, là "một vi phạm trầm trọng về tự do tự nhiên và công bình".[20] Những lời tuyên bố như sau cho thấy rõ thiện cảm của ông: "Tất cả chỉ dành riêng chúng ta và không có dành cho người nào khác, dường như đây là một câu châm ngôn đồi bại của các bậc thầy của nhân loại trong mỗi thời đại của thế gian".[21]
Thực ra, khó xác định được là Smith là "đại biểu khoa học của gia cấp tư sản" theo ý nghĩa nào. Thí dụ như dù Marx xem Steuart là một nhà qúy tộc, vấn đề ý thức hệ hiển nhiên là không liên hệ gì đến hoàn cảnh xã hội của cá nhân (nếu không thì ta có thể gọi Marx và Engels là những nhà ý thức hệ tư sản loại thượng thặng). Đúng ra, đây là vấn đề họ cùng quan điểm và bảo vệ quyền lợi của một giai cấp đặc biệt. Tôi đã chứng minh là chủ nghĩa cá nhân và thiếu ý thức về lịch sử, điều mà Marx suy nghĩ về những đặc trưng của tư tưởng kinh tế tư sản, không thể tìm thấy nơi con người Smith. Càng hiển nhiên hơn khi ta không tìm thấy bất cư nơi nào để chứng minh là Smith bảo vệ cho quyền lợi tư sản. Trong tác phẩm „Sự Thịnh Vượng Của Đất Nước" không có một tập đoàn nào - kể cả giới lãnh đạo thủ cựu “không sản xuất” - bị phê phán cùng mức độ và cùng đặc điểm giống như thương giới và nhà sản xuất, chỉ vì với lý do là họ là thiểu số nhưng có phương tiện tài chính dồi dào, có lối sống thành thị và cận kề các trung tâm quyền lực. Theo Smith, họ có khả năng can thiệp vào những động lực của thị trường và gây ảnh hưởng đến chính trị để phục vụ cho quyền lợi riêng tư. Họ âm mưu giảm giá lương và tăng giá bán, họ hổ trợ luật pháp (như luật gia sản và huấn nghệ) để ngăn ngừa cạnh tranh; họ lập ra thuế quan để giữ ưu thế trước các nhà cạnh tranh quốc tế; họ gây ảnh hưởng chính sách đối ngoại theo chiều hướng phiêu lưu thuộc điạ và gây chiến, đồng thời họ chấp nhận những thiệt hại nặng nề cho đất nước nhằm thủ lợi cho riêng mình.
Phê phán của Smith về thuyết trọng thương phải được nhìn trong bối cảnh chung này và không được hiểu như là lối phê phán về chính sách kinh tế đối ngoại dựa trên những suy đoán lý thuyết sai lầm. Chính ra đó là chiều hướng có chủ yếu chống lại một loại chính sách hoàn toàn phù hợp với quan điểm về quyền lợi đặc biệt của thương giới và nhà sản xuất, thường thì thành công, nhưng gây thiệt hại cho công nhân và người tiêu thụ, và cho đa số. Smith đoan chắc là không có một xã hội dân sự nào tồn tại và thịnh vượng mà không có nhóm này, sáng kiến của họ đem lại việc sử dụng tư bản sinh lợi có thể tạo nên một vai trò hữu ích. Nhưng Smith cũng cảnh báo rằng quyền lợi riêng của nhóm này có thể đối nghịch với quyền lợi của các phe nhóm khác trong xã hội. Nó chỉ có thể giữ một vai trò tích cực bền bỉ và phù hợp nếu khi nhóm này tuân theo quy luật thị trường tự do, mà thị trường này có khuynh hướng thách thức.
Dự thảo về luật lệ thương mại trong khuôn khổ này cần phải được tham khảo với sự thận trọng và không bao giờ được chuẩn nhận cho đến khi được duyệt xét kỹ càng, một việc không phải chỉ vì có ý định tham ô mà với tất cả ngờ vực. Luật pháp này đến từ khuôn khổ của những con người mà những quyền lợi của họ không bao giờ hoàn toàn giống như quyền lợi của công chúng. Nói chung, họ quan tâm đánh lừa và đàn áp công chúng, và cũng khi họ đã làm hai việc này có cơ hội thuận tiện.[22]
Nhận xét này cũng đủ chứng tỏ rằng khi Marx xem Smith là “đại biểu khoa học của gia cấp tư sản“, Marx đã diễn giải sai lạc về luận cương của Smith trong lý thuyết xã hội. Thay vì đặt ra ngoài vòng lịch sử, lý thuyết của Smith cố giải thích hiện tượng xã hội trong bối cảnh "một lịch sử tự nhiên của xã hội dân sự". Thay vì đơn thuần chấp nhận cảnh khốn cùng của công nhân, Smith biện hộ cho một chính sách kinh tế có thể tác động tương đối đến tăng lương và hạ giá bán. Thay vì bảo vệ cho quyền lợi của người giàu và quyền thế, Smith công khai phê phán không những giới lãnh đạo thủ cựu mà còn cả giới tư sản mới. Sự giải thích sai lệch này, vì đó chính là tiền đề phê phán của Marx về ý thức hệ, nên ảnh hưỏng đến nội dung phê phán của Marx về kinh tế chính trị. Đó là vấn đề cần xét tới.
Lý Thuyết Giá Trị Và Phân Phối Của Adam Smith
Giới nghiên cứu Tư Bản Luận qua chiều hướng của Grundrisse thấy rằng phương pháp của Marx mất vài đặc điểm bí hiểm. Những nhận xét của Marx về phương pháp luận qua những công trình được ấn hành lúc sinh thời cũng không soi sáng nhiều hơn. Đề cương về khái niệm của thuyết duy vật lịch sử, như đã đưọc phác hoạ trong trong tựa đề nổi tiếng trong năm 1859 [23], dường như không có tác dụng trực tiếp trong việc phê phán kinh tế chính trị học. Nhận xét của Marx về thuyết biện chứng của Hegel và „ý định làm đảo ngược thuyết này lần nữa“ được đề cập trong hậu từ dành cho ấn bản Đức ngữ lần thứ hai của Quyển I Tư Bản Luận [24]. Nhưng với nỗ lực giải thích thuyết duy vật biện chứng bằng cách quy chiếu vào vật lý và sinh vật học [25], thì Marx lại làm mù mờ hơn về những điểm phương pháp luận trong khoa học xã hội phê phán.
Chúng ta có thể giải thích Tựa Đề của năm 1859 - đựợc xem như một trong những công trình xuất sắc của Marx - là một phác thảo chung về phương pháp khảo sát của Marx (hướng dẫn cho các nghiên cứu của ông). Một điều chắc đó không phải là một khuôn mẫu cho phương pháp trình bày của ông. Tư Bản Luận không xuất phát từ một phân tích về phương thức sản xuất đi trước chủ nghiã tư bản và của những động lực sản xuất nhằm đưa tới những hình thái sở hữu chủ tư bản để vạch ra thể chế và ý thức hệ của xã hội tư sản. Marx không chọn một phương thức trình bày theo cách liên tục như di truyền. Hiện nay các học giả nghiên cứu Marx đồng ý rằng chương đầu của Tư Bản Luận không đề cập tới thí dụ lịch sử của "những xã hội sản xuất hàng hóa đơn giản". Càng rõ nét hơn khi công trình này không nỗ lực giải thích "thượng tầng kiến trúc" thông qua phân tích „nền tảng thực tế" của xã hội tư sản. Ngược lại, khi "phê phán về kinh tế chính trị học" việc khởi đầu là phân tích về những hình thức tiêu biểu của ý thức tư sản để chứng tỏ những hạn chế và mâu thuẫn tất yếu.
clip_image006
Khoa học giữ một hình thức phê phán trong mức độ mà khoa học không những có thể giải thích được hiện tượng không trung thực trong ý nghiã thông thường, - một biểu hiện giả tạo của thực tại - những hình thức của ý thức sai lạc, nhưng nhờ vào cấu trúc của thực tại, mà khoa học còn giải thích được hiện tượng thể hiện tất yếu hình thức sai lạc đối với những người không có tinh thần phê phán.
Trong tư duy của giới tư sản, phê phán kinh tế chính trị học khởi đầu bằng cách phân tích các hiện tượng thể hiện như là một hình thức tư tưởng xãy ra thông thường [26]. Hình thức tư tưởng này được hình thành và hệ thống hóa trong những phạm trù và luật pháp của kinh tế chính trị. "Thoạt tiên, sự thịnh vuợng của xã hội tư sản do tích lũy vô số hàng hoá, hàng hoá đơn sơ như điều kiện sống cơ bản" [27]. Chính thế mà phê phán bắt nguồn từ sự phân tích phạm trù hàng hoá (theo ý nghĩa của giá trị, lao động và tiền lương) và „quy luật giá trị” (hàng hoá được trao đổi tùy theo giá trị - giá trị được xác định bằng thời gian lao động trung bình cần thiết bỏ ra). Phê phán nhằm tiến hành chứng minh là đặc điểm của nền kinh tế tư bản, thí dụ như sản xuất tư bản, không thể lý giải dựa trên mức
độ về „luân chuyển đơn giản của hàng hoá“ theo quy luật giá trị.
Đồng hành với người có tiền và người chiếm hữu quyền lao động, chúng ta rời bỏ một lĩnh vực khá ồn ào trong một khoảng thời gian, nơi mà mọi chuyện xãy ra trên bình diện và được mọi người chú ý, và chúng ta cùng theo họ tới một điạ điểm sản xuất kín đáo… Ở đây, chúng ta hiểu không những tư bản là gì mà còn hiểu nó được tạo ra như thế nào. Cuối cùng, chúng ta khám phá bí mật của sự sản xuất dư thừa. [28]
Lý thuyết thặng dư giá trị giải thích bản chất của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghiã. Từ trên cơ sở này, phê phán có thể trở lại bình diện để lý giải về doanh lợi, tiền lương và hưu bổng - trước tiên trong tổng quát, sau đó trong điều kiện cụ thể của thời gian và cạnh tranh. Khởi đầu quyển III của Tư Bản Luận, chúng ta tìm thấy khẳng định sau đây:" Khi chúng tôi khởi thảo vấn đề trong sách này, thì việc tạo lập tư bản tiến hành tuần tự mà hình thức thể hiện trên bình diện xã hội, trong sự tương tác của các tư bản khác nhau khi cạnh tranh và trong tinh thần ý thức chung của các tác nhân sản xuất”.[29]
„Biểu hiện“ là một phạm trù của ý thức: một cái gì đó chỉ thể hiện trong ý thức của chủ thể. Khi Marx phê phán và lý giải những biểu hiện trên bình diện xã hội tư sản, đôi khi ông đề cập tới "các hình thức trung bình của tư tưởng", "ý thức chung của các tác nhân sản xuất", hoặc là "những ý kiến thô bỉ của thương nhân tự do" [30]. Tuy nhiên, đối tượng đặc biệt của Marx về phê phán không phải là ý thức của giới tư sản trung bình, nhưng là của "những đại biểu khoa học của gia cấp tư sản", đặc biệt là của "giới kinh điển của kinh tế chính trị học". Trong phần bàn về tiền lương (Tư Bản Luận, Quyển I Chương 17) Marx chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa những lý thuyết kinh tế khoa học và ý thức của giới tư sản trung lưu.
Trên bình diện xã hội tư sản tiền lương công nhân là giá của lao động... Kinh tế chính trị cổ điển vay mượn phạm trù giá lao động trong ngôn ngữ của đời sống hàng ngày mà không phê bình sâu xa hơn, và chỉ đơn thuần đặt vấn đề là giá cả được quyết định như thế nào... Kinh tế chính trị cổ điển gần chạm đến mối quan hệ đích thực của vấn đề, tuy nhiên hầu như tránh trình bày vấn đề một cách có ý thức. Điều này làm vấn đề không dính vào da của giới tư sản. [31]
Đối tượng đặc biệt mà Marx phê phán là những phạm trù và luật lệ của chủ nghĩa tư bản. Khi ta cho rằng vấn đề đã được trình bày trong kinh tế chính trị cổ điển thì dường như ta chỉ gặp trong quyển IV của Tư Bản Luận, mà chủ đề chính gọi là Lý Thuyết Về Thặng Dư Giá Trị mà những lý thuyết của các nhà kinh tế tư sản có đề cập đến khó khăn này trong chi tiết. Những thảo luận ngắn về các đề tài này có thể tìm ra trong phần lý thuyết của Tư Bản Luận (luôn ở trong phần chú thích) có thể được loại bỏ dễ dàng mà không gây ảnh hưởng đến các lập luận. Tuy thế, khi tham khảo lý thuyết về thặng dư giá trị như là một loại tư tưởng lịch sử không liên quan đến lý thuyết, đó là một sai lầm nghiêm trọng. Điều này được trình bày trong phần đầu của quyển sách. [32] Trong phần thảo luận đào sâu về những lý thuyết kinh tế tư sản (lý thuyết XHCN và cộng sản không đưọc đề cập tới) [33] thì ở đây chính là nơi mà Marx diễn đạt trọn vẹn lý thuyết thặng dư. Đầu tiên, Marx định đưa vấn đề „duyệt xét lịch sử“ vào trong phần lý thuyết phù hợp. Chỉ khi vấn đề được triển khai trong khuôn khổ này, Marx quyết định chuyển vấn đề thành một chuyên đề riêng biệt là "một sự tái lập trong hình thái lịch sử" của vấn đề mà nó được thảo luận và giải quyết trong các chương trước". [34]
Tiểu tựa của Tư Bản Luận không đề cập đến bất cứ phần đặc biệt nào của công trình. Toàn bộ công trình từ đầu đến cuối có nghĩa là "Phê phán về Kinh Tế Chính Trị Học". Giữa quyển đầu và quyển chót của bộ sách chỉ có một sự khác biệt, phần đầu đúc kết trong trừu tượng - như phê phán của những phạm trù chủ yếu và luật lệ của xã hội tư sản khi nó thể hiện trong ý thức tư sản - phần cuối nỗ lực đúc kết trong cụ thể - như là một lối phê phán về các lý thuyết tư sản đặc biệt. Về cơ bản thì đối tượng phê bình trong từng trường hợp một là giống nhau: Marx giả định những lý thuyết này, dù có sự khác biệt và thay đổi trong viễn cảnh giữa thế kỷ XVII và XIX, được lập lại những đặc điểm chung của ý thức tư sản trong những mức độ sâu xa và phức tạp khác nhau. [35]
Trong tác phẩm Grundrise Marx nhấn mạnh nhiều lần là xã hội tư sản - không giống như xã hội chiếm hữu nô lệ của thời Thượng Cổ và xã hội phong kiến thời Trung Cổ - thể hiện như là hình thức hợp tác giữa những người sở hữu chủ hàng hoá có tự do và bình đẳng. Không một ai bị bắt buộc phải làm việc cho người khác, không một ai phải cho mà không nhận. Nhờ phân công lao động, mỗi người có thể tự chuyên môn hoá trong sản xuất một loại hàng đặc biệt - thông qua trao đổi tương đương – doanh lợi từ lao động của người khác[36]. Khi một người chiếm hữu bất kỳ loại gì, dù sản phẩm là công trình của mình hoặc là của người khác, đều có tự do chia phần sản phẩm và nhận phần tương đương.
Ngay trong vận hành, tiến trình của trao đổi thể hiện trên bình diện của xã hội tư sản, mỗi người đều cho khi nhận và có nhận khi cho. Làm việc này hay việc khác, người ta phải có một cái gì... Vì thế mà tất cả các nhà kinh tế hiện đại tuyên bố lao động của riêng mình như là loại quyền tư hữu ... và quyền sở hữu chủ của thành quả lao động được xem như là một suy đoán cơ bản của xã hội tư sản. [37]
Nhưng đâu là bất công giữa giàu nghèo? Đâu là khốn cùng của gia cấp lao động trong xã hội tư sản? Những gì làm nhà kinh điển quan tâm phê phán kinh tế chính trị học - không giống như các nhà biện hộ hậu trào – khi họ không hề phủ nhận thực tế của nghèo đói và bất công, nhưng họ cũng không nỗ lực để lý giải vấn đề qua lười biếng và những yếu tố tâm lý và đạo đức tương tự. Họ chấp nhận nghèo đói và bất công là những hậu quả tất yếu của xã hội tư sản. Họ muốn lập luận chiếm hữu qua lao động và trao đổi những tương đương là những nguyên tắc hình thành xã hội. Lập luận này mang đến cho họ mâu thuẫn, Marx nói: "từ tất cả những nhà kinh tế học cổ điển cho đến Ricardo[38] đều lập luận là những nguyên tắc mà họ xem là tạo hình cho xã hội tư sản chỉ được thực hiện trong cổ thời trước khi quyền tư hữu thành hình. Khi họ cố lý giải sản xuất và phân phối trong xã hội tư sản, họ bị giao động khi chấp nhận sự thật thuộc về „quy luật giá trị” và quan hệ với các thế lực và gian xảo như là nguồn gốc của doanh thu và nguồn lợi.
Theo Marx, những sai lầm và mâu thuẫn của hầu hết các nhà kinh tế tư sản là có thể hiểu được. Họ không có một phương cách trực tiếp để khám phá nguồn gốc bất công và thống trị trong xã hội mà những mối quan hệ xã hội một phần do kết quả của các hợp đồng giữa những cá nhân có tự do và bình đẳng, phần khác là do những mối quan hệ khách quan giữa những sản phẩm có giá trị đặc biệt. [39] Chỉ khi nào hiểu được chức năng của tiền tệ dựa trên phân công lao động và trao đổi hàng hoá; chỉ khi nào hiểu được sự thay đổi tất yếu của tiền thành tư bản; chỉ khi nào nhận xét được sự sử dụng đặc biệt của quyền lực lao động trong việc làm ra hàng hoá trong tiến trình sản xuất thì mới có thể lý giải được các của cải xã hội gia tăng mà phân phối lại bất công trong một hệ thống dựa trên trao đổi tương đương.
Trao đổi các tương đương này chỉ trên bình diện sản xuất dựa vào chiếm hữu lao động của người khác mà không có trao đổi hoặc trao đổi giả tạo. Hệ thống trao đổi này dựa trên tư bản làm cơ sở. Khi cơ sở này coi tư bản là một thành phần của hệ thống và tự thể hiện trên bình diện như một hệ thống độc lập, đó là biểu hiện đơn thuần nhưng là biểu hiện tất yếu. Tuy nhiên, hiện nay ta không ngạc nhiên khi thấy hệ thống giá trị trao đổi ... chúng tỏ như là những nền tảng tiềm tàng của chiếm hữu lao động người khác mà không có trao đổi, một sự tách biệt toàn diện giữa lao động và tư hữu. [40]
Để hiểu những gì Marx nói về lý thuyết giá trị và phân phối của Smith, ta cần nên quan tâm đến những điểm chủ yếu trong phê phán về kinh tế chính trị học. Dưới nhãn quan của Marx, Simth là một biểu tượng đặc biệt về những nhận thức và lầm lạc của kinh tế chính trị học cổ điển. Smith tạo được uy tín là người đầu tiên diễn đạt trong sáng về những điểm cơ bản của hệ thống kinh tế dựa trên phân công lao động và sản xuất hàng hoá. Smith không những chỉ phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi; mà còn nhận ra là không có bất kỳ một hình thức lao động đặc biệt nào khác mà chỉ có lao động tổng quát, một loại hình trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá. [41] Chỉ dựa trên cơ sở của nhận thức này ("một bước tiến nhảy vọt")[42] giúp ta đạt đến quy luật tổng quát về giá trị. Và Marx cũng nỗ lực chứng minh là Smith luôn chấp nhận quy luật này được áp dụng trong những xã hội sản xuất hàng hoá. [43] Mặt khác, Smith lại phân tích mơ hồ về giá trị [44] và cũng không thể tin được là giữa nhà tư bản và người lao động có trao đổi tương đương xãy ra. Vì thế, Marx phủ nhận quy luật chung về giá trị ngự trị trong những xã hội tư bản ("quy luật tổng quát bị hủy ngay" [45]) và đề xuất lĩnh vực áp dụng của luật này chỉ trong xã hội nguyên thủy hay trước thời của Smith. [46]
Theo Marx, mâu thuẫn cơ bản của Smith trong lý thuyết giá trị và phân phối gồm có việc Smith giả định về luật giá trị là một nguyên tắc hình thành xã hội tư sản. Trong khi xã hội sản xuất hàng hoá không quy định mối quan hệ hợp tác, mà thực ra mối quan hệ này là nguồn gốc chủ yếu cho sự thịnh vượng xã hội.
Một công trình to lớn của Smith là ông… cảm thấy có một sư rạn nứt ở điểm này (trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động) và luật giá trị thực sự bị hủy diệt trong kết qủa ... và cùng với tích lũy tư bản luật giá trị bị đảo lộn tạo bao nhiêu khó khăn. Đó chính là thế mạnh lý thuyết khi ông thấy được và nhấn mạnh điểm mâu thuẫn này. Nhưng đồng thời đó cũng là yếu điểm lý thuyết khi ông nghi ngờ quy luật tổng quát, ngay cả cho sự trao đổi đơn giản hàng hoá. Ông không hiểu mâu thuẫn xãy ra qua quyền lực lao động khi tự nó lại trở thành hàng hoá và giá trị sử dụng của loại hàng hoá đặt biệt này, - giá trị này không liên hệ đến giá trị trao đổi của nó - mà tự nó là một nguồn năng lực tạo nên giá trị trao đổi [47].
Trong những nhận xét sau đây tôi không có ý định chứng minh là lý thuyết về giá trị và phân phối của Smith là không sai lầm hay không mơ hồ. Ngược lại, tôi nghĩ Marx có lý khi chỉ rõ những điểm mơ hồ trong khái niệm về giá trị của Smith khi cáo buộc Smith là pha trộn hai vấn đề giá trị và phân phối. Tuy nhiên, tôi nghĩ Marx sai lầm khi giải thích những khó khăn của Smith như là kết quả của những mâu thuẫn cơ bản, thí dụ như một mặt thì lập luận là mối quan hệ trong xã hội tư sản tuân theo, mặt khác, lại không tuân theo quy luật giá trị. Nói một cách khác, Smith lập luận chiếm hữu trong xã hội tư sản là một chức năng của lao động của con người và trao đổi các tương đương, nhưng cũng là thành quả của bạo lực và lưà đảo. Smith không bao giờ nghĩ là luật gía trị tạo nên xã hội tư sản, hay nói theo thuật ngữ của Smith, "xã hội dân sự". Smith cũng không hề đề xuất phân phối của cải trong ba giai cấp xã hội (điền chủ, sở hữu chủ tư bản và lao động) có liên hệ đến sự trao đổi các tương đương. Lý thuyết về phân phối trong xã hội dân sự của Smith có liên hệ đến những phân tích kinh tế về quyền lực và hầu như không liên hệ gì đến hư cấu về các sở hữu chủ hàng hoá có tự do và bình đẳng. Chính thế mà Smith không đủ thẩm quyền giải thích đối với người dựa vào quan điểm là xã hội tư sản thể hiện trên bình diện như "trong một vườn điạ đàng của quyền bẩm sinh con người". [48] Đối với suy nghĩ của Smith, không cần vuợt qua những hiện tượng để hiểu điều hiển nhiên: của cải xã hội bị phân chia bất công theo nguyên tắc ít có liên hệ đến những thoả thuận tự nguyện hoặc là số lượng lao động đóng góp của từng cá nhân. Để chứng minh điều này, tôi muốn tóm tắt vài khía cạnh trong lý thuyết của Smith về giá trị và phân phối.
Các xã hội có khuynh hướng du nhập phân công lao động và trao đổi hàng hoá đều có lý do căn bản tại sao. Vấn đề cần phải nhận ra qua thực tế là bằng cách này người ta có thể tìm ra ưu thế trong các công trình của người khác và đạt được việc thoả mãn nhu cầu tối đa với ít nỗ lực hơn. Đó là lý do tại sao Smith định nghĩa giá trị trao đổi hàng hoá do số lượng lao động của người khác mà nó cho phép sở hữu chủ mua hay đặt hàng[49]. Dĩ nhiên, ta có thể định nghiã là giá trị trao đổi của hàng hoá khi quy chiếu với số lượng của bất cứ loại hàng khác (thí dụ như vàng). Nhưng vì giá trị hàng hoá thay đổi - kể cả giá trị của lao động tiền lương (đưọc tính bằng một giá) điểm quy chiếu ổn định duy nhất dường như là nỗ lực được tiết kiệm hoặc sự hữu dụng đạt được khi có thể ta đặt mua nhiều hơn thời gian lao động của người khác. [50]
Tại sao một mặt hàng đặc biệt có một giá trị trao đổi đặc biệt? Tại sao cho phép người sở hữu chủ mua hoặc đặt hàng một số lượng nào đó về thời gian lao động của người khác (hoặc trực tiếp khi thuê dịch vụ hay lao động tiền lương; hoặc gián tiếp, khi đòi hỏi thời giờ cho sản xuất một loại hàng mơ ước)? Một câu trả lời khả dĩ - mà cũng là câu trả lời của Marx - như sau: bởi vì mặt hàng này tự nó biểu hiện (đòi hỏi để được sản xuất) cùng một số lượng thời gian lao động khi được đặt hàng. Nhưng đó không phải là điểm mà Smith nói. Trong suy nghĩ của Smith, lao động thể hiện trong hàng hoá chỉ bằng với lao động đặt mua mặt hàng này khi người sản xuất chính là người làm chủ phương tiện sản xuất, có nghĩa là, sản xuất có trước chiếm hữu đất đai và tích lũy tư bản, nếu nói theo phương diện lịch sử. Chỉ khi nào chúng ta suy đoán "tình trạng nguyên thủy của các sự vật tiếp tục, chúng ta có thể hình dung một xã hội mà „toàn bộ sản xuất lao động thuộc về giới lao động” và “các hàng hoá sản xuất do các số lượng lao động tương đương trao đổi một cách tự nhiên".[51] Nhưng việc này xãy ra trong các xã hội dân sự, đất đai trở thành của sở hữu tư nhân và phương tiện sản xuất nằm trong tay của chủ tư bản, điền chủ và nhà tư bản đòi hỏi chia phần trong sản xuất và giá hàng phải tăng. Nói một cách khác, hàng hoá bán ra không phải chỉ có một mục tiêu duy nhất là đem lại thu nhập cho người lao động mà còn trả cho doanh lợi và điạ tô. Sở hữu chủ hàng hoá phải mua hàng hoặc đặt nhiều lao động hơn các mặt hàng thể hiện.
Như Marx trình bày, quan điểm này bao hàm sự lầm lẫn giữa giá trị và phân phối, hoặc là hàng hoá khi bán, cần nhiều lao động hơn nó thể hiện, hoặc là người lao động nhận toàn bộ sản xuất hoặc phải chia phần với điền chủ (điạ tô) hoặc chia phần với chủ tư bản (doanh lợi). "Thực ra, phân phối hoặc chiếm hữu giá trị không phải là nguồn của giá trị... Nếu không có sự chiếm hữu như vậy và công nhân nhận lương cho toàn bộ công trình sản xuất của mình, giá trị của hàng sản xuất không thay đổi, dù giá trị này không được chia cho điền chủ hay nhà tư bản".[52] Hơn nữa, Marx nghĩ rằng giải thích doanh lợi chính là do giá bán cao hơn giá trị hoặc là do lừa đảo, ý tưởng này là ngây thơ. Ý tưởng này nhằm giải thích những doanh lợi đặc biệt, nhưng nếu tất cả mọi sở hữu chủ hàng hoá thưòng lừa đảo lẫn nhau, thì không ai có thể tạo doanh lợi theo kiểu này. Theo Marx, Smith sai lầm khi cố giải thích doanh lợi bằng cách phân thích sư trao đổi hay giao lưu hàng hoá, nhưng ông có lý - và hy vọng lý thuyết thặng dư của ông - khi ông mô tả doanh lợi như là phần trích xuất từ giá trị sản xuất của công nhân.[53]
Dù Smith có lầm, lý do của sai lầm này có thể hiểu được. Smith muốn lập luận là doanh lợi với hai lý do - một mặt, những sở hữu chủ tư bản có thể đòi hỏi chia phần sản xuất, mặt khác họ muốn gây ảnh hưởng thị trường. Nói một các khác, doanh lợi có hai chức năng vửa tiền lương vừa giá cả. Không có lý do gì để tin là Smith sai lầm trong quan điểm này.
„Trong tinh trạng nguyên thủy của sự vật trước khi có chiếm hữu đất đai hay tích lũy tư bản, toàn thể sản xuất lao động thuộc về công nhân. Công nhân không chia phần cho điền chủ và người chủ. [54] Trong những xã hội dân sự, thành quả lao động phải được phân chia bởi vì công nhân không còn làm chủ phương tiện sản xuất. Điền chủ và nhà tư bản chỉ đầu tư vào sản xuất khi nào ho kỳ vọng rằng có được chia phần trong sản xuất. Họ có thể được hưởng bao nhiêu trong toàn bộ sản xuất này không tùy thuộc vào họ có đóng góp vào trong phần lao động có hiệu qủa kinh tế hay không, ngay cả khi ít hơn trong tổng số của lao động. Doanh lợi „không tương ứng đối với số lượng, cực nhọc, hoặc mưu trí của loại lao động được suy đoán là bỏ ra để giám sát và điều khiển“.[55] Điều này càng hiển nhiên hơn trong trường hợp của địa tô. “Khi đất đai ở bất cứ nước nào trở thành thuộc quyền tư hữu, thì điền chủ, cũng giống như bất cứ người nào khác, họ chỉ muốn thu hoạch nơi mà họ không hề gieo, đòi hỏi địa tô đối với những sản xuất tự nhiên.[56]
Doanh lợi và tiền lương có khuynh hướng đi theo tỷ lệ nghịch: doanh lợi cao luôn nhờ vì có lương thấp, và ngược lại. "Lương cao cho lao động và doanh lợi cho chủ tư bản là... hai chuyện hiếm khi... đi liền nhau".[57] Số lượng chính xác của mỗi yếu tố này tùy thuộc vào điều kiện hợp đồng mà mỗi bên có quyền lợi đối nghịch nhau (một bên thắng thì có một bên thua) và quyền lực mổi bên không bình đẳng. Khi số lượng người chủ càng ít, họ càng tự tin và có nhiều ảnh hưởng trong chính trị, thì họ tất phải thắng thế hơn đối với công nhân. Họ thấy điều này khi luật cấm công nhân kết hợp, trong khi tự chính họ lại luôn luôn cấu kết trá hình nhưng bền bỉ và đồng nhất không tăng lương cho công nhân trên mức lương thực sự của họ. [58]
Tăng lương trên mức tối thiểu đòi hỏi phải tái sản xuất của giới lao động, việc này tùy thuộc các lực lượng của thị trường. Khi chủ tư bản chạy tìm doanh lợi dùng càng nhiều tư bản đầu tư, nhưng cạnh tranh lẫn nhau gây khuynh hướng tăng lương, giảm giá bán và giảm doanh lợi.[59] Dù chủ đầu tư kỳ vọng doanh thu tương ứng với mức đầu tư của mình, nhưng một hê thống cạnh tranh năng động có khuynh hướng xoá tan những kỳ vọng này. Tuy thế, nền kinh tế thịnh vượng và mở rộng là quyền lợi của đa số (công nhân và người tiêu thụ) nhưng không phải là quyền lợi của thương giới và các nhà chế biến.[60] Đó là lý do tại sao các phe nhóm này bằng mọi phương tiện cố tránh cạnh tranh và làm đảo ngược sự vận hành tự nhiên của thị trường: "Những người trong cùng một loai doanh nghiêp ít khi gặp nhau, kể cả cho việc ca ngợi nhau và đánh lạc hướng nhau, nhưng khi có luận đàm họ thường kết thúc bằng âm mưu chống lại công chúng, hoặc trù liệu chuyện tăng giá.“ [61]
Dĩ nhiên, những chính sách hạn chế của chủ tư bản không tùy thuộc vào trường hợp nhân qủa. Như đã đề cập ở trên, những quyền lợi của họ được tìm thấy trong luật pháp và chính sách, thí dụ như luật huấn nghệ [62], luật gia sản [63], các biện pháp hổ trợ cho thị dân khi thương thảo với thôn dân [64], mánh khoé trong ngoại thương, phiêu lưu thuộc địa và gây chiến tranh [65] - điều mà Smith coi là cực kỳ tác hại cho nền kinh tế quốc gia, bởi vì họ có khuynh hướng loại bỏ cạnh tranh và tăng giá cũng như tăng doanh lợi trên mức thích hợp. [66]
Tại sao Smith nghĩ rằng doanh lợi không chỉ có chức năng tiền lương mà còn có chức năng giá cả, điều này đã được minh chứng quá nhiều. Tương phản với hệ thống trọng thương, hệ thống tự do tự nhiên của Smith không còn cổ vũ quyền lợi của thương giới và nhà sản xuất: mọi người khi họ không vi phạm về luật công bình thì họ có hoàn toàn tự do để theo đuổi quyền lợi riêng theo cách của mình, và mang quyền lợi của mình vào kinh tế công nghiêp và tư bản để cạnh tranh với người khác [67]. Smith không hề đề xuất rằng hệ thống này cho phép bất cứ người nào chiếm hữu h àng hoá bằng phương tiện lao động của riêng mình hoặc là do trao đổi tương ứng. Các chủ sở hữu đất đai và tư bản sẽ chia phần trong sản xuất, không bởi vì bất cư lao động nào của họ nhưng vì họ có quyền đòi hỏi việc này. Doanh lợi cũng còn có chức năng tiền lương - nhưng không còn chức năng giá cả -. Giá cả có khuynh hướng thấp và lương tương đối cao. Chính thế mà "hệ thông tự do tự nhiên" được biện minh dựa trên lập luận hữu dụng: nó nhằm phục vụ quyền lợi tốt đẹp nhất cho đại đa số quần chúng. [68]
Khởi đầu tiểu luận này tôi đặt vấn đề là Marx có giải thích trung thực các kinh điển của khoa kinh tế chính trị học không. Đến đây thì ta đã rõ là quan điểm của Marx về Smith không phải là kết quả của một sự phân tích cẩn trọng về tư tưởng của Smith trong bối cảnh lịch sử và hệ thống. Marx đã xem Smith là „đại biểu khoa học của giai cấp tư sản”, mà lý thuyết này thực ra không liên hệ gỉ đến lịch sử mà chỉ biện hộ, mặc dù - như đã minh chứng - đặc điểm lịch sử và phê phán của công trình Smith rất hiển nhiên. Dù những gì Marx nói, Smith không bị đánh lừa bởi bất cứ những biểu hiện công lý trong xã hội dân sự. Lý thuyết của Smith, dù mơ hồ và sai lầm trong một vài khía cạnh, nhưng không hàm chứa những mâu thuẫn căn bản như Marx đề ra.
Trong tầm mức rộng lớn hơn, nhận xét của Marx về Smith là một kết cấu đòi hỏi do phưong pháp và những tiền đề của phê phán về khoa kinh tế chính trị học. "Trong biên niên sử kinh tế chính trị học, thời vàng son thanh bình ngự tri từ thuở xa xưa. Trong bất cứ thời nào thì quyền lợi luật đinh và „lao động“ cũng là phương tiện duy nhất đem lại thịnh vượng..."[69] Khẳng định này thiếu tính thực tại trong kinh tế chính trị học của Smith, nhưng thể hiện được là tiền đề thích hợp cho lý thuyết của chủ nghĩa tư bản và được suy đoán là cùng lúc lại phê phán ý thức tư sản.
[1] Jürgen Kuczynski, Geschichte der Lage der Arbeiter unter dem Kapitalismus, vol. 26, East Berlin, 1965. A.V. Anikin, Junost´nauki, Mosva, 1971.
[2] Robert L. Heilbronner, The Wordly Philosophers, third ed., New York 1969, pp. 140ff. Mark Blaug, Economic Theory in Restropect, Homewood, 1962, German ed. München, 1972, vol. 2, pp. 145ff.
[3] Ronald Meek, Marx´s Economic Method, in Economics and Ideology, London, 1967, pp. 93-112.
[4] Karl Graf Ballstrem, Die schottische Äufklärung, München, Oldenbourg.
[5] Andrew Skinner, “Economic and History: The Scottsh Entlightement“, in Scottisch Journal of Political Economy, 12, 1965; H. R. Trevor-Roper, “The Scottish Enlightment”, in Studies on Voltaire and the 18th Century, vol. 58, Geneva, 1967, pp. 1635 ff.
[6] William Roberston, Collected Works, ed. Dugald Steward, 1809, vol. 5, p.111.
[7] Ronald Meek, „The Scottish Contribution to Marxist Sociology“, in Economics and Ideology, London, 1967, pp. 34-50, esp, .48.
[8] Marx, Karl, Friedrich Engels, 1961, Werke, Dietz Verlag, Berlin, 23,p. 218.
[9] FN8, P. 5, 84.
[10] FN 8, 23,p, p. 95.
[11] FN 8, 4, p. 126.
[12] Marx Karl, Grundrisse der Kritik der Politischen Ökonomie, Dietz Verlag, Berlin, p. 6.
[13] FN 8, 4.p. 142.
[14] FN 12, p. 917.
[15] FN 8, 23, p.19.
[16] FN 8, 4, p.142.
[17] FN 12, p. 5.
[18] Smith Adam, 1976, Wealth of Nations, Clarendons Press, Oxford, I, 6, p. 65.
[19] Smith Adam, 1978 Lectures in Jurisprudence, Clarendon Press, Oxford, p. 40.
[20] FN 18, I, p. 157.
[21] A.W. Coast (ed.), The Classical Economists and Economic Policy, London, 1971. Smith Adam, FN 18, III, p. 418.
[22] FN 18, I, Cp. 11. p. 267.
[23] FN 8, 13, pp.7ff.
[24] FN 8, 23, p. 27.
[25] FN 8, 23, pp. 12, 26.
[26] FN 8, 23, p. 564.
[27] FN 8, 13, p.15.
[28] FN 8, 23, p.189.
[29] FN 8, 25, p.33.
[30] FN 8, 23, p.190.
[31] FN 8, 23, p.257, 259.
[32] FN 8, 34, p.235.
[33] FN 8, 26. p.230.
[34] FN 8, 31, p.132.
[35] FN 8, 32, p.532.
[36] FN 12, p.903.
[37] FN 12, p.903.
[38] FN 12 p.904.
[39] FN 8, 85, p. 89.
[40] FN 12, p. 409; FN 8, 23, pp. 161-191.
[41] FN 2, 26. 2. p. 56.
[42] FN 12 p. 54.
[43] FN 12, p. 56, 42.
[44] FN 12, p. 504.
[45] FN 8, 26, 1, p. 43.
[46] FN 12, 14, p. 44
[47] FN 12 26. 1 p. 59.
[48] FN 12 23 p. 59.
[49] FN 18 I, p. 5, 47.
[50] FN 18 I p. 51.
[51] FN 18 I, 8, p. 52.
[52] FN 12. 26. 1, p. 65.
[53] FN 12, 26. 1, p.50.
[54] FN 18 I 3,p. 82.
[55] FN 18 I 3, p. 82.
[56] FN 18 I 6, p. 67.
[57] FN 18 I 9, p. 109.
[58] FN 18 I 8 p. 84.
[59] FN 18 I 9 p.105.
[60] FN 18 I 11,p. 266.
[61] FN 18 I, 10, p. 145.
[62] FN 18 I 10, p. 135.
[63] FN 18 I 10, p.151.
[64] FN 18 I 10, p. 141, 376.
[65] FN 18 IV 7 p. 556.
[66] FN 18 I, 10, p. 132.
[67] FN 18 IV, 9, p. 867.
[68] FN 18 IV, 7, p. 630.
[69] FN 12 2, p. 230.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét