Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Bài đáng chú ý: 'Mù mờ khái niệm sở hữu toàn dân'

'Mù mờ khái niệm sở hữu toàn dân'

Nông dân đốt ruộng sau thu hoạch
Luật sư Thuận nói nhiều nông dân 'không còn gì để sống'

Một đảng viên lâu năm và cựu quan chức Quốc hội Việt Nam nói các lãnh đạo Việt Nam cần "tỉnh ra" để hiểu rằng chỉ có thay đổi "thể chế" mới có thể giải quyết được các vấn đề hiện nay trong đó có các bức xúc liên quan tới đất đai.

Tại Việt Nam, từ 25 đến 26/9, hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách sẽ bàn thảo về Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Dự kiến Quốc hội Việt Nam sẽ thông qua Dự án Luật này tại kỳ họp thứ sáu của Quốc hội, khai mạc từ hôm 21/10.

Nói chuyện với BBC hôm 24/9, luật sư Trần Quốc Thuận nói các đề nghị sửa đổi Luật Đất đai hiện nay không giải quyết tận gốc vấn đề và bình luận:

"Đất đai của Việt Nam mà cứ là sở hữu toàn dân, cứ do nhà nước quản lý thì nó dẫn đến những vấn đề, hậu quả không lường được.

"Cho nên giải quyết như thế là không cơ bản.

"Cái cơ bản chính là quyền sở hữu đất đai. Dĩ nhiên không phải toàn diện nhưng phải có nhiều hình thức sở hữu khác nhau."

Ông Thuận nói chuyện cả Hiến Pháp và Luật Đất đai sửa đổi vẫn cho phép thu hồi và giải tỏa đất đai để phát triển kinh tế xã hội là "rất dễ sợ" và là "mối lợi vô cùng lớn" khiến nhiều người giàu lên.

Cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nói việc sửa đổi mà ông cho rằng không tận gốc này sẽ khó chấm dứt những khiếu kiện về đất đai vốn chiếm tới 70% tổng số các vụ khiếu kiện và dẫn tới những vụ nổ súng như của gia đình Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết.

"Không biết những người cầm quyền có tỉnh ra không, hay là cứ đi vào con đường như thế thì rất là nguy hiểm."

Con cháu giàu sụ

Ông Thuận, đảng viên với 45 tuổi Đảng, nói đang có tình trạng quan chức lợi dụng quyền quyết định về đất đai để làm giàu cho "gia đình".

"Từ lâu chúng tôi nói rằng đất đai là sở hữu toàn dân là cái khái niệm mù mờ. Tiếp theo nữa do nhà nước quản lý cũng chưa được rõ lắm...

"Cho nên cách giải thích và cách giao quyền đó không khéo đất đai chỉ giao vào một số người, chừng vài trăm người trên đất nước này thì nó xé mỏng ra.
"Và đến bây giờ cũng không thấy xử lý ông đứng đầu nào cả. Thế nhưng những ông đứng đầu đó thì con cháu họ giàu sụ lên. Cho nên cái lợi ích ấy không dễ gì họ buông ra."
"Và đến bây giờ cũng không thấy xử lý ông đứng đầu nào cả."

"Thế nhưng những ông đứng đầu đó thì con cháu họ giàu sụ lên. Cho nên cái lợi ích ấy không dễ gì họ buông ra.

"...Bản chất của đất, theo nhận thức của chúng tôi, đó là ý đồ của nhà cầm quyền nhằm chiếm đoạt cái lợi về cho mình, cho gia tộc của mình, cho con cháu của mình, cho gia đình của mình.

"...Những tiếng nói không dính đến quyền lợi đó chỉ lẻ tẻ, không đáng kể."

Ông Thuận nói ông hy vọng trong các ủy viên Bộ Chính trị 'cũng có người tỉnh ra, cũng có người có tấm lòng vì dân vì nước."

Vị đảng viên lâu năm cũng nói ông và nhiều người khác đã kiến nghị lên lãnh đạo cao cấp của Quốc hội đề nghị để 5-10%, tức 25-50 đại biểu độc lập để "chống tham nhũng, chống cường quyền" nhưng kiến nghị đã gây những "e ngại" từ giới lãnh đạo.

"Những cái từ bỏ đó là chia sẻ bớt và phải tỉnh người ra và đặt lợi ích dân tộc lên trên."

Thay đổi thể chế

Vị luật sư, vốn cũng từng giữ chức Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trong 14 năm, nói người Việt Nam đã có 60, 70 năm "đổ xương máu" cũng là để hướng đến "khát vọng tự do dân chủ".

Áp phích ở Việt Nam
Luật sư Thuận nói cần 'thay đổi thế chế' để cải thiện xã hội

Ông đặt câu hỏi liệu Đảng có thấy những khát vọng đó của người dân hay không "hay cứ bo bo địa vị quyền lợi của mình".

Ông bình luận: "Con đường lớn nhất là phải thay đổi thể chế chính trị.

"Chính bản chất của thể chế chính trị dẫn đến những hậu quả mà suy diễn ra trong đó có sở hữu toàn dân về đất đai, chuyên chính vô sản, áp chế dân chủ và tùy tiện trong vấn đề điều hành đất nước, dẫn đến quốc nạn là tệ nạn tham nhũng không cứu chữa được.

"Tất cả những cái đó nguyên nhân sâu xa vẫn là thể chế chính trị, vẫn là ở đây không có tự do báo chí, không có những tiếng nói độc lập để can ngăn những việc làm sai trái.

"Đất nước này cần có sự thay đổi mềm, thay đổi trong hòa bình và thay đổi một chế độ toàn trị sang chế độ dân chủ."

Luật sư Thuận nói nếu không có những thay đổi căn bản sẽ vẫn có những người "liều" như Đặng Ngọc Viết khi "không còn gì để sống".
(BBC)

Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực?


24.09.2013
Hiện trạng kinh tế Việt Nam đã được đưa ra mổ xẻ tại một cuộc hội thảo có tên gọi "Nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 - 2015 và những điều chỉnh chiến lược" hôm 23/9.

Nhiều học giả, kinh tế gia và giới chức Việt Nam đã phát biểu tại hội thảo này, trong đó có Phó Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.

Ông Phúc được báo chí trong nước trích lời nói rằng Việt Nam có khả năng không đạt được nhiều mục tiêu của kế hoạch 5 năm.

So với một số nước đi trước thì Việt Nam trên một số lĩnh vực đang ngày càng tụt hậu ngày càng xa hơn, chứ không phải chỉ là tụt hậu. Cái người ta muốn nhấn mạnh là ở chỗ ấy. Ví dụ như tụt hậu xa hơn khoảng cách về thu nhập GDP trên đầu người chẳng hạn...
Còn theo Trưởng Ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, việc nhiều chỉ tiêu không đạt kế hoạch ‘dẫn đến nguy cơ Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực’.

Tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho VOA Việt Ngữ biết rằng giới chuyên gia kinh tế đề cập tới việc Việt Nam tụt hậu ngày càng xa.

“So với một số nước đi trước thì Việt Nam trên một số lĩnh vực đang ngày càng tụt hậu ngày càng xa hơn, chứ không phải chỉ là tụt hậu. Cái người ta muốn nhấn mạnh là ở chỗ ấy. Ví dụ như tụt hậu xa hơn khoảng cách về thu nhập GDP trên đầu người chẳng hạn hoặc là chỉ số về năng lực cạnh tranh thì Việt Nam bị tụt hạng. Cái này là một thực tế mà Việt Nam hiện nay đang phải nhìn nhận rất nghiêm túc để có những giải pháp khắc phục. Không nhìn thấy sự thực ấy thì sẽ không có chính sách tốt để vượt qua nó”.

Trong số các ý kiến nêu lên tại hội thảo, phát biểu của cựu Phó thủ tướng Vũ Khoan đã thu hút nhiều chú ý.

Trong khi các chuyên gia cho rằng kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng chính từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thì ông Khoan lại không đồng tình với ý kiến đó.

Bên ngoài nó chỉ tác động thôi, còn chủ yếu những gì Việt Nam đang gặp vấn đề là do chính Việt Nam nguyên nhân chủ quan là chính. Cần phải nhận thức như thế thì sửa nó mới dễ được...Việt Nam tụt xuống mà lại bảo là do bên ngoài cả thì nó rất là buồn cười...
Cựu Phó thủ tướng được trích lời nói rằng ông không tin khủng hoảng kinh tế là nguyên nhân chủ yếu vì ‘nhiều quốc gia cũng bị ảnh hưởng nhưng đâu đến nỗi như Việt Nam’.

Ông Khoan cho rằng ‘sai lầm chủ quan dẫn tới bất ổn vĩ mô mới là nguyên nhân chính’.

Tiến sỹ Trần Đình Thiên tán đồng quan điểm này.

“Bên ngoài nó chỉ tác động thôi, còn chủ yếu những gì Việt Nam đang gặp vấn đề là do chính Việt Nam nguyên nhân chủ quan là chính. Cần phải nhận thức như thế thì sửa nó mới dễ được. Ví dụ như là những việc chuẩn bị cho những điều kiện, có một chiến lược công nghiệp phù hợp, cơ sở hạ tầng tốt để mà hội nhập. Đó là do mình cả. Không thể nói rằng cả một thế giới người ta phát triển hơn, Việt Nam tụt xuống mà lại bảo là do bên ngoài cả thì nó rất là buồn cười”.

Trước ý kiến đề nghị như giảm mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6,5% tới 7% xuống 5,4% hay mục tiêu lạm phát năm 2015 từ 5-7% lên 7%, cựu Phó thủ tướng Vũ Khoan cho rằng ‘điều chỉnh thì dễ nhưng chẳng để làm gì khi các yếu kém vẫn chưa được giải quyết’.

Tiến sỹ Nguyễn Đình Thiên thì cho rằng ‘nên đặt vấn đề tích cực theo kiểu khác’.

“Tức là đây là cơ hội để cải cách thể chế, chuẩn bị cho các bước sau nó mạnh lên, chứ không phải bây giờ cứ chăm lo vào mấy cái chỉ tiêu tăng trưởng. Quan trọng hơn là cải thiện chất lượng, đổi mới, lo tái cơ cấu để chuẩn bị nền tảng cho các bước tăng trưởng tốt hơn”.  

Bản tin trên báo điện tử của chính phủ Việt Nam về cuộc hội thảo kinh tế viết rằng ‘chính phủ và các cấp, các ngành đã thực hiện nhiều biện pháp, cả cấp bách tình thế, cả dài hạn, để ổn định tình hình kinh tế - xã hội’.
Tuy nhiên, bản tin này không trích dẫn các ý kiến phản biện của cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan.

Nguồn: VnExpress, chinhphu.vn, VOA’s interview
VOA Tiếng Việt

Tuyên bố quyền thực thi xã hội dân sự


Người dân biểu tình hô khẩu hiệu chống Trung Quốc trong một cuộc diễu hành ở Hà Nội vào ngày 26 tháng 6 năm 2011. Ảnh minh họa. (AFP photo)

Một tuyên bố mạnh mẽ từ nhân sĩ trí thức cho biết sẽ thành lập diễn đàn mang tên Diễn đàn xã hội dân sự để lên tiếng phát biểu quan điểm cũng như phản biện công khai trên hệ thống internet toàn cầu cho thấy một bước ngoặc mới của nhân sĩ trí thức trong cách ứng phó với sự ngăn cấm của chính quyền trong việc phát triển của xã hội dân sự từ trước tới nay.

Tính cho tới nay, sau khi chính quyền công khai kêu gọi người dân đóng góp ý kiến về dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992, có ít nhất bốn nhóm và tổ chức tập trung nhiều thành phần xã hội như Nhóm nhân sĩ trí thức 72, Tuyên bố của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Cùng viết Hiến pháp của hai giáo sư Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn và Tuyên Bố Công dân Tự do kết hợp bởi nhiều thành phần dân chúng.

Trong tất cả các đóng góp kiến nghị ấy, nổi bật nhất là nhóm trí thức 72 với những chi tiết đề nghị thay đổi về hiến pháp rất dân chủ và khoa học được giao tận tay cho Ủy ban soạn thảo. Tuy nhiên đổi lại là những phê phán gay gắt của báo chí truyền thông nhà nước và sau đó là sự im lặng của toàn hệ thống trước tâm huyết này.

Đấu tranh một cách ôn hòa ...

Ngày 23 tháng 9 một tuyên bố khác xuất hiện hầu như trên tất cả các trang mạng nổi tiếng và có nhiều người truy cập nhất hiện nay. Hơn một trăm nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước trong đó rất nhiều người đã từng ký tên trước đây trong kiến nghị 72 một lần nữa ký tên vào bản tuyên bố này cho biết sẽ thành lập công khai một diễn đàn nhằm trao đổi, nhận định, phản biện tất cả những gì có liên quan đến các vấn đề bức thiết của quốc gia dân tộc mà trước mắt là dự thảo sửa đổi Hiến pháp 92. Diễn đàn này mang tên Diễn đàn Xã hội Dân sự.
Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội có tên trong bản tuyên bố cho biết lý do ông ký tên:

Tôi ký tên ủng hộ tuyên bố đó vì nó có một ý nghĩa quan trọng. Trước nhất những người ký tên vào tuyên bố này không thừa nhận nhiều vấn đề cơ bản trong dự thảo hiến pháp sắp được thông qua. Dĩ nhiên thông qua thì cũng là chế độ toàn trị chứ không có gì mới bởi vì hiến pháp về đất đai không thay đổi thì có duyệt lại cũng chỉ là hình thức chứ không có nội dung gì nên hy vọng chỉ là hão huyền.

Nếu họ suy nghĩ một cách biện chứng tất yếu nó phải như thế thì họ bắt buộc chấp nhận nó để dần dần dân chủ hóa đất nước thì đó là điều tốt nhất.
- Nhà báo Lê Phú Khải
Căn cứ vào điều 69 của Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký về những quyền dân sự và chính trị của công dân, bản tuyên bố này khẳng định xã hội dân sự là một hoạt động đương nhiên được nhìn nhận bởi tất cả các nước văn minh trên thế giới mà trong đó Việt Nam đã ký tên có nghĩa là cùng nhìn nhận giá trị phổ quát của hoạt động này.

Bản tuyên bố cũng nhấn mạnh tới việc yêu cầu Quốc hội phải ngưng việc thông qua hiến pháp sừa đổi vì trong đó thể chế chính trị toàn trị vẫn được duy trì và vì vậy cần phải kéo dài thời gian để trí thức đóng góp thêm ý kiến của mình về vấn đề này. Nhìn nhận khả năng tạm ngưng này luật sư Trần Quốc Thuận cho biết:

Nói kiến nghị này có khả năng dừng Quốc hội lại việc thông qua bản dự thảo sửa đổi  hiến pháp thì tôi cho rằng cái khả năng dừng lại là hoàn toàn không có bởi vì cái quan trọng nhất là số người ký tên không cao, hơn nữa tại Việt Nam chưa hình thành một xã hội dân sự thật sự, chưa hình thành những diễn đàn công khai với báo chí để đồng tình với nhân dân cho nên cái áp lực đối với những người có thẩm quyền chưa mạnh. Đúng là cần phải áp lực mạnh hơn để những người cầm quyền phải tự tỉnh táo nhìn thấy ra. Dấu hiệu tự nhìn thấy này tuy có lóe ra một chút nhưng vẫn còn mù mờ lắm, vì vậy khả năng dừng lại gần như không có.

000_Hkg8584638-250.jpg
Người dân mất đất lên Hà Nội khiếu kiện đất đai hôm 29/8/2012. Ảnh minh họa. AFP photo

Trong bản tuyên bố cũng chỉ ra những sai trái lớn lao của hệ thống cầm quyền về hoạt động kinh tế vĩ mô trong đó những sai lầm dẫn đến đổ vỡ và nguy cơ phá sản của cả nền kinh tế. Cạnh đó là đường lối chính trị toàn trị, độc đảng đã đưa đất nước tới chỗ mất dân chủ mặc dù nhà nước vẫn luôn lên tiếng cổ vũ cho nền dân chủ ấy. Bản tuyên bố cũng phân tích sự ngập ngừng trong vấn đề ngoại giao khiến nguy cơ mất dần biển đảo của đất nước trước mắt và vì vậy mọi công dân phải lên tiếng một cách công khai qua diễn đàn trước vấn đề có tính cách cách sống còn của dân tộc này.

Qua tuyên bố rằng hoạt động của diễn đàn là nhằm thay đổi thể chế toàn trị sang chế độ dân chủ một cách ôn hòa, bất bạo động, tuyên bố này cho thấy sự thách thức trực tiếp tới hệ thống lấy sự toàn trị của đảng cầm quyền là duy nhất và bất khả xâm phạm.

Nhà báo Lê Phú Khải, nguyên phóng viên của Đài tiếng nói Việt Nam cho biết ý kiến của ông:

Nếu họ suy nghĩ một cách biện chứng tất yếu nó phải như thế thì họ bắt buộc chấp nhận nó để dần dần dân chủ hóa đất nước thì đó là điều tốt nhất. Nếu họ không chấp nhận điều đó thì đương nhiên thông tin trên mạng nó vẫn tiếp tục tồn tại, bởi lẽ thời đại này là thời đại thông tin không ai có thể cấm đoán được thông tin. Internet bây giờ là sản phẩm chung của nhân loại tiến bộ rồi. Nếu lãnh đạo thông minh nắm được quy luật thì họ phải làm theo quy luật.

Tuyên bố này xuất hiện rất nhiều nhà báo kỳ cựu và điều này có ý nghĩa ra sao được nhà báo Lê Phú Khải nhận xét:

Theo tôi thì rất đáng mừng tại vì thực tế tồn tại của đất nước càng ngày nó càng làm cho nhà văn nhà báo hiểu ra và thấy được con đường dân tộc đi phải là con đường tiến bộ, dân chủ chứ không còn cách nào khác. Chẳng lẽ ta lại thua các nước Đông nam á chung quanh chúng ta hay sao?

... nhằm thay đổi chế độ toàn trị

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, một Việt kiều về nước nhiều năm trước làm việc trong các đề án đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ cho sinh viên Việt Nam qua kinh phí viện trợ của Bỉ và các nước EU cũng có tên trong tuyên bố cho biết ý kiến:

Tôi là một Việt kiều đã hồi hương chúng tôi ký vì mong mỏi sự thay đổi mạnh mẽ hơn nữa cái cơ chế kinh tế cũng như chính trị chung tại Việt Nam. Đất nước đang bị kểm hãm rất nhiều, thiếu dân chủ trong vấn đề chọn lựa nhân sự, thiếu dân chủ trong lúc thực thi quyền lực cho nên mới kéo tới tình trạng thê thảm hiện nay là tình trạng tham nhũng mà hội nghị trung ương đều nói rõ là đã bất lực.

Những lời mà chúng tôi kiến nghị từ xưa tới giờ thì nó gần như không ảnh hưởng gì cả, đặc biệt những kiến ghị mới đây về thay đổi hiến pháp. Các yêu cầu của nhân sĩ trí thức yêu nước gần như bị để ngoài tai. Những đề nghị lần thứ ba trong thay đổi hiến pháp nó có những điểm đi ngược lại theo hướng còn xầu hơn bản hiến pháp cũ cho nên tôi lo lắng cho cái mệnh hệ của đất nước, lo lắng cho cái thế của Việt Nam trong vấn đề bảo vệ biển Đông, biển đảo của Việt Nam thì rất mong manh trước lập trường của chính quyền làm cho tôi rất lo.

Diễn đàn này là lời khẳng định. Nội dung của nó không phải là một kiến nghị mà là một khẳng định lập trường của một lớp sĩ phu của thời nay bởi vì nay là lúc kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng, chính trị bế tắc cho nên chúng tôi thấy có trách nhiệm trước lịch sử trước dân tộc.

Không như những lần trước sau khi trao kiến nghị và trở về chờ đợi phản hồi từ nhà nước, lần này vì là một diễn đàn nên sự chờ đợi ấy sẽ không diễn ra như thói quen xin cho từ trước tới nay. Luật sư Trần Quốc Thuận khẳng định:
Mục đích của nó là tập hợp nhiều tiếng nói ở nhiều góc độ khác nhau trong và ngoài nước và đặc biệt là trí thức có kiến thức sâu góp phần tìm ra giải pháp để chuyển đổi một chế độ toàn trị sang dân chủ một cách hòa bình.
- Luật sư Trần Quốc Thuận
Tôi ký vì thấy mục đích của diễn đàn nó hay. Mục đích của nó là tập hợp nhiều tiếng nói ở nhiều góc độ khác nhau trong và ngoài nước và đặc biệt là trí thức có kiến thức sâu góp phần tìm ra giải pháp để chuyển đổi một chế độ toàn trị sang dân chủ một cách hòa bình.

Nếu anh không dừng thì tôi tiếp tục phát biểu trên diễn đàn này chứ không phải khi hiến pháp ra đời thì cúi đầu chấp hành.

Trong bản tuyên bố có đoạn viết:“ Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền”

Tuy ngôn ngữ vẫn ôn hòa nhưng nội dung cho thấy sự chấp nhận dấn thân nếu nhà nước vẫn giữ quan điểm rằng bất cứ ai có tư tưởng chống lại sự độc tôn của Đảng đều là phản động. Sự quyết liệt ngầm trong bản tuyên bố thành lập diễn đàn cho thấy đã đến lúc trí thức chọn lựa cách đấu tranh khác khi những đóng góp của họ bị nhà nước làm ngơ trong lúc đất nước đang rất cần sự thay đổi như hiện nay.

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-09-23

Nguyễn Hưng Quốc - Internet và cách mạng


24.09.2013
Hầu hết những biến động chính trị lớn - trong đó có những biến động lớn đến độ được xem là cách mạng - trên thế giới trong mấy năm vừa qua đều ít nhiều liên quan đến internet. Vai trò của internet quan trọng đến độ nhiều người gọi cái gọi là Mùa Xuân Ả Rập (Arab Spring) từ cuối năm 2010 đến đầu năm 2011 là cuộc “cách mạng internet” hoặc “cách mạng facebook” hoặc “cách mạng truyền thông xã hội” (social media revolution).

Hiện tượng độc tài ở các nước Ả Rập vốn đã có từ lâu và cũng đã được mọi người biết đến từ lâu. Sự bất mãn và phản kháng của người dân dưới các chế độ độc tài ấy cũng đã có từ lâu và cũng đã được nhiều người biết đến từ lâu. Thế nhưng, bất chấp những sự bất mãn và phản kháng ấy, các chế độ độc tài vẫn tiếp tục thống trị, hơn nữa, thống trị một cách mạnh mẽ, ngỡ như bất khả xâm phạm cả hàng mấy chục năm.

Vài tuần, thậm chí, vài ngày trước khi các chế độ độc tài quân phiệt sụp đổ ở Tunisia, Ai Cập và Yemen, hầu như không ai tin là sự sụp đổ ấy có thể xảy ra. Khi nhà độc tài Zine El Abidin Ben Ali bị truất phế ở Tunisia, Stephen M Walt, một giáo sư về quan hệ quốc tế nổi tiếng tại đại học Harvard, cho đó chỉ là một ngoại lệ và nó chỉ diễn ra ở Tunisia mà thôi. Khi mầm mống phản kháng từ Tunisia tràn sang Ai Cập, Ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Clinton vẫn cho tình hình ở Ai Cập khác với Tunisia: Nó vẫn ổn định.

Những gì dồn dập xảy ra ngay sau đó chứng minh cả hai đều sai.

Giới truyền thông chính mạch ở các nước Tây phương lại càng sai. Thoạt đầu, khi cả hàng ngàn người dân xuống đường biểu tình ở Tunisia, và sau đó, Ai Cập và Yemen cũng như một số quốc gia Ả Rập khác, giới truyền thông ở các nước ấy rất dửng dưng, hầu như không hề loan tin; giới truyền thông quốc tế (kể cả BBC) cũng chỉ đưa tin một cách ơ hờ. Hầu như không ai nghĩ đó là khởi đầu của cách mạng.

Cái công việc đáng lẽ thuộc về giới truyền thông chính mạch ấy lại thuộc về các mạng lưới xã hội. Tin tức và hình ảnh về cái chết bi thảm dưới tay cảnh sát của anh thanh niên bán dạo 26 tuổi Mohamed Bouazizi được loan truyền chủ yếu trên facebook, sau đó, mới trên các đài truyền hình. Thời gian ấy, ở Tunisia khoảng một phần ba dân số đã sử dụng internet và khoảng một phần tư có facebook.

Ở Ai Cập cũng vậy. Trước đó, cảnh sát tha hồ tác oai tác quái, hết đánh đập người này đến bắt tù người kia, nhiều người bị giết chết một cách oan ức và thảm khốc trong các nhà tù, mọi người dân vẫn im thin thít, hoặc nếu khóc lóc hay gào thét thì cũng không có ai nghe tiếng. Năm 2010 thì khác. Hình ảnh anh thanh niên Khaled Said bị cảnh sát lôi từ tiệm internet cà phê và sau đó giết chết tức khắc được đưa lên internet. Một trang facebook mang tên “Tất cả chúng ta đều là Khaled Said” (We are all Khaled Said) được lập, và trong vòng vài tuần, thu hút đến trên 130.000 thành viên, sau đó, con số này nhảy lên đến 473.000 người, tức gần nửa triệu. Những câu khẩu hiệu kiểu “Hôm nay họ giết Khaled. Nếu tôi không vì anh mà hành động, ngày mai họ sẽ giết tôi” được lan truyền với một tốc độ nhanh đến chóng mặt.

Những hình ảnh, tin tức và khẩu hiệu kiểu như vậy lan càng nhanh, lực lượng biểu tình càng dễ dàng lan rộng: Thoạt đầu vài trăm người, sau, vài ngàn người, vài chục ngàn người, rồi đến vài trăm ngàn người, và cuối cùng, cả triệu người. Lúc ấy, quân đội và cảnh sát của chính phủ độc tài, dù mù quáng hay tàn bạo đến mấy, cũng đành bó tay. Hậu quả: chế độ độc tài của Hosni Mubarak sụp đổ.

Xin lưu ý là khi cách mạng bùng nổ ở Tunisia vào tháng 12 năm 2010, ở cả hơn 20 nước Ả Rập khác, giới truyền thông chính mạch đều im lặng. Các chế độ độc tài đều giống nhau: kiểm soát chặt chẽ giới truyền thông. Trong quá khứ, việc kiểm soát ấy thường dễ dàng và rất hiệu quả. Nhưng trong thời đại internet thì khác. Bằng các mạng lưới truyền thông xã hội, tin tức nhanh chóng vượt qua hàng rào kiểm duyệt của chính phủ để lan đi khắp nơi. Asmaa Mahfouz, một thanh niên 26 tuổi người Ai Cập phát biểu: “Khi người Ai Cập thấy những gì xảy ra ở Tunisia, họ nhận ra có một nước Ả Rập đã phản kháng và giành lại quyền cho họ […] Đi theo các biến cố này, chúng tôi bắt đầu nói với mọi người là chúng ta phải hành động, chúng ta phải phản kháng và đòi lại các quyền của chúng ta.”

Theo cái đà ấy, những gì xảy ra ở Tunisia nhanh chóng lan sang Ai Cập rồi Libya và Yemen, Bahrain, Syria, và với mức độ nhỏ hơn, ở Algeria, Iraq, Jordan, Kuwait, Morocco, Sudan, Mauritania, Oman, Saudi Arabia, Djibouti, Western Sahara, v.v.. Chỉ ở mấy nước đầu, hành động phản kháng của dân chúng thành công, dẫn đến việc sụp đổ của các chế độ độc tài. Ở các nước sau, sau vài bất ổn, với những mức độ khác nhau, tình hình vẫn trở lại như cũ. Giới nghiên cứu nhận ra một điểm chung: Các quốc gia độc tài theo lối quân phiệt dễ bị đánh sập hơn các chế độ độc tài theo lối quân chủ. Lý do, các nước độc tài quân chủ (như Saudi Arabia, chẳng hạn) có chỗ dựa vững chắc trong lịch sử, truyền thống, và đặc biệt tôn giáo, nhờ thế chúng dễ được dân chúng chấp nhận hơn.

Gần đây, những gì xảy ra ở Tunisia, đặc biệt, ở Ai Cập và Syria, làm người ta thấy ngần ngại khi dùng chữ “Mùa Xuân Ả Rập” hoặc “Cách mạng Ả Rập”. Lý do là: người dân có vẻ như thành công trong việc đánh đổ độc tài nhưng dường như họ chưa thành công, thậm chí, chưa có hy vọng thành công trong việc dân chủ hóa. Thật ra, đánh giá một sự kiện lịch sử lớn lao như vậy không phải dễ. Vào thập niên 1970, khi được hỏi là Cách mạng Pháp năm 1789 có thành công hay không, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai có nói một câu nổi tiếng: Còn quá sớm để biết được điều đó.

Hai trăm năm: Vẫn còn quá sớm!

Tuy nhiên, có một điều không cần quá lâu để biết: vai trò của internet trong các biến động chính trị tại các nước Ả Rập trong năm 2011. Có thể tóm tắt các vai trò ấy vào mấy điểm chính:

Thứ nhất, nó truyền bá tin tức và hình ảnh một cách nhanh chóng: Hoặc nó thay thế truyền thông chính mạch hoặc nó bổ sung cho truyền thông chính mạch. Nó dễ dàng vượt qua các hàng rào kiểm duyệt của nhà cầm quyền. Đặc biệt, nó không bị giới hạn trong không gian. Các hệ thống truyền thông cũ, từ truyền thanh đến truyền hình, đều có tính địa phương. Internet, qua các mạng xã hội, từ twitter đến facebook, blog, email… không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia: Nó liên thông giữa địa phương và thế giới. Bằng sự liên thông ấy, những ngọn lửa được nhóm lên ở Tunisia đã nhanh chóng bốc cháy ở Ai Cập và nhiều nước khác sau đó.

Thứ hai, nó tập hợp lực lượng một cách dễ dàng. Tất cả các cuộc xuống đường biểu tình ở các nước Ả Rập vào đầu năm 2011 đều có một đặc điểm giống nhau: không có lãnh tụ và không có đảng phái nào đứng sau cả. Tất cả đều tự phát. Người ta rủ rê và hẹn hò nhau xuống đường bằng internet (chủ yếu là qua điện thoại cầm tay). Nếu không có internet, một hành động tự phát như vậy không thể thu hút đến cả hàng triệu người.

Thứ ba, với hai tác dụng kể trên, internet còn ngăn chận được bàn tay tàn bạo của các tên độc tài. Không có tên độc tài nào sợ máu. Chúng không hề sợ việc ra lệnh cho quân đội và cảnh sát xả súng vào đám đông. Trong quá khứ, chúng từng làm thế. Chúng giết cả hàng ngàn, thậm chí, hàng chục ngàn, hàng triệu (như trường hợp của Hitler và Pol Pot), và hơn nữa, hàng chục triệu người (như trường hợp của Stalin và Mao Trạch Đông). Điều duy nhất khiến các tên độc tài sợ là hình ảnh. Người chết, bất kể con số là bao nhiêu, cũng không đáng sợ. Đáng sợ là hình ảnh, dù của một người bị giết chết, được lan đi khắp nơi trên thế giới khiến cả thế giới phẫn nộ và lên án.

Thứ tư, qua các mạng lưới truyền thông xã hội, người ta nhen nhóm ý thức phản kháng cho nhau. Hầu như mọi người đều biết internet, dưới những hình thức như twitter, facebook, blog hay email, tự nó, không thể làm nên cách mạng. Internet chỉ là công cụ. Nguyên nhân thực sự của cách mạng bao giờ cũng nằm những chỗ khác: về kinh tế, sự cùng quẫn; về xã hội, sự bế tắc; và về chính trị, sự bất mãn. Nhưng những sự cùng quẫn, bế tắc và bất mãn ấy, tự chúng, cũng không đủ để dẫn đến cách mạng. Người ta vẫn có thể chịu đựng. Như họ đã từng chịu đựng cả hàng ngàn năm dưới chế độ độc tài phong kiến và hàng chục năm dưới các chế độ độc tài hiện đại.

Sự cùng quẫn, bế tắc và bất mãn chỉ có thể dẫn đến cách mạng khi nó gắn liền với ý thức về nguyên nhân và đặc biệt, về quyền (rights): Người ta nhận thức tất cả những sự cùng quẫn và bế tắc của mình đều xuất phát từ họa độc tài và người ta cũng ý thức là họ có quyền thoát khỏi những sự cùng quẫn, bế tắc và bất mãn ấy để góp phần xây dựng một chế độ công bình và tốt đẹp hơn.

Không có internet, cách mạng vẫn có thể xảy ra. Nhưng có internet, cách mạng có thể xảy ra nhanh chóng, và đặc biệt, bất ngờ hơn.

***
Chú thích:
Tất cả các con số và trích dẫn ở trên đều lấy từ cuốn Digital Revolutions: Activism in the Internet Age của Symon Hill do World Changing xuất bản tại Oxford năm 2013.
 * Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Phạm Lê Vương Các - Vài suy ngẫm về Diễn đàn Xã Hội Dân Sự


Vào ngày 23 tháng 9 vừa qua, 130 nhân sĩ trí thức uy tín trong và ngoài nước ra "TUYÊN BỐ Về thực thi quyền Dân sự và Chính trị", và qua đó khởi xướng một "Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa" dưới tên gọi "Diễn đàn Xã Hội Dân Sự".

Đó là một việc làm ý nghĩa, mang mục đích tốt, rất đáng hoan nghênh, thể hiện hướng đi hợp thời (dùng XHDS làm nên sự chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa) với công cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào tên tuổi của hơn 100 nhân sĩ trí thức hàng đầu của đất nước mà chỉ tạo ra một "Diễn đàn" để tập hợp các bài viết trao đổi về XHDS thì cá nhân tôi cho là "uổng phí", vì các lẽ sau:

Thứ nhất, về hình thức, xây dựng "Diễn đàn" trên mạng là một điều rất bình thường. Nó không có gì đặc sắc hay mới lạ, về bản chất của diễn đàn, nó cũng chỉ là một môi trường để mọi người có quyền bày tỏ chính kiến, quyền tự do biểu đạt, tranh luận, trao đổi làm sáng tỏ một vấn đề nào đó...

Về hình thức Diễn đàn như thế này thì trên mạng nhiều vô số kể, từ khi Internet ra đời là đã có những diễn đàn mang mục đích vận động cho một nền Dân chủ ở nước ta.

Thứ hai, về nội dung, Diễn đàn này bàn về các vấn đề liên quan đến XHDS "với mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển".

Về nội dung của XHDS thì không còn gì là mới lạ. Đã có nhiều học giả và chuyên gia đã nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề XHDS cách đây nhiều năm trước đó. Đối với tôi, tôi cũng đã tiếp cận vấn đề XHDS cách đây khoảng 5 năm. Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, tôi cũng chưa thấy một học giả hay một nghiên cứu nào nói khác về XHDS ngoài các thành tố như: trước tiên là ý thức trách nhiệm của một người công dân đối với cộng đồng, sau đó là niềm tin giữa người với người để hình thành nên vốn xã hội và qua đó để có thể tin tưởng nhau mà hợp tác chung sức cống hiến cho cộng đồng, và cuối cùng là nhà nước (yếu tố quan trọng nhất trong tình hình VN hiện nay) cần phải có môi trường đảm bảo cho XHDS phát triển sinh động bằng các công cụ như pháp luật tạo điều kiện cho quyền tự do lập hội, hay các chính sách ủng hộ các hội đoàn dân lập phát triển…

Các giá trị cố lõi và vấn đề căn bản của XHDS đều đã được làm sáng tỏ. Nên vấn đề mấu chốt bây giờ là thể chế toàn trị có chấp nhận hay không mà thôi.

Vì như chúng ta đã biết phong trào, hội đoàn XHDS sẽ không chịu sự kiểm soát của chính quyền, những người nằm trong phong trào, hội đoàn này hành động dựa trên sự tự giác và tự nguyện, không chịu sự ràng thuộc hay “sai bảo” từ chính quyền, mà chính quyền toàn trị thì chẳng bao giờ muốn thế và cũng chẳng để điều này xảy ra.

Cho nên "mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển" bây giờ không phải là bàn, hay trao đổi nữa mà hãy HÀNH ĐỘNG đi. Không cần gì phải lớn lao hay quy tụ cho đông, mà hãy làm những việc nhỏ bé và bình thường trong khả năng của mình.

Chẳng hạn, khi ra đường, thấy ai xả rác ngoài đường, mình sẽ lẳng lặng nhặt rác bỏ vào thùng giùm người ta… Nếu hành động này có nhiều người hưởng ứng và ủng hộ thì cứ tập hợp lại thành lập “Hội những người nhặt rác giùm người khác” và lan tỏa nó đi, như vậy vừa tốt cho cộng đồng, vừa giúp nâng cao ý thức môi trường, giúp cho người dân từ bỏ thói quen xấu, và qua đó xây dựng được một phong trào và hội đoàn đúng nghĩa với XHDS. Nếu nhà nước muốn quản lý, hay muốn đưa “Chi bộ” vào để “lãnh đạo” Hội này, thì mình sẽ dẹp luôn, không làm nữa, trả lại việc nhặt rác cho nhà nước, rồi thành lập hội mới để làm việc khác.

Thứ ba, có người nói rằng “Diễn đàn XHDS” là một phong trào XHDS. Tôi đồng ý với quan điểm này và cũng tin rằng những người khởi xướng Diễn đàn này cũng nhằm mục đích tạo ra một phong trào XHDS có tính chất rộng lớn, có tầm ảnh hưởng nhằm “chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa”. Tuy nhiên với cách thức hoạt động hiện nay khi phong trào chỉ là một “Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến” thì tôi e rằng sẽ không có sự tương đồng giữa “mục tiêu và phương pháp” trong thời điểm hiện tại.

Như đã phân tích ở lý do thứ nhất, hiện nay không thiếu diễn đàn để “trao đổi và tập hợp ý kiến”. Cho nên xem “Diễn đàn XHDS sẽ mang ý nghĩa của một phong trào dân sự đầu tiên có tính tập hợp và được định hướng phản biện trên diện rộng, đại diện cho một số khá đông trí thức và sinh viên ở Việt Nam” như nhà báo Phạm Chí Dũng đã đánh giá trên BBC, liệu có tham vọng quá không khi mà một Diễn đàn và cũng là một Phong trào mới ra đời, theo đuổi một phương pháp cũ, hoạt động trên mạng, không có gì nổi bật ngoài những nhân sĩ tri thức tên tuổi khởi xướng? Và liệu Diễn đàn này có thể “qua mặt” được các diễn đàn lâu đời trên các cơ quan Truyền thông quốc tế, hay các diễn đàn uy tín hiện nay để là nơi tập hợp các ý kiến phản biện?

Quan sát hoạt động chính trị hiện nay và xu thế vận động dân chủ, theo quan điểm của cá nhân tôi đã qua rồi cái thời kỳ dùng lý luận để tranh luận và phản biện để làm sáng tỏ vấn đề “Thế nào là Dân chủ”. Mà đây là thời điểm cho sự tranh đấu “Khi nào Dân chủ sẽ đến và chúng ta sẽ sử dụng Dân chủ như thế nào”.

Qua đó cho thấy, Diễn đàn XHDS ra đời vào thời điểm này mà chỉ thể hiện là một diễn đàn dùng để “trao đổi và tập hợp các ý kiến” thì đó là một phong trào “đi chậm hơn” rất nhiều so với các phong trào khác trong công cuộc vận động Dân chủ như NoU, Kiến nghị 72, Tuyên Bố 258…

Dù trong tương lai, cá nhân tôi chưa thể phán đoán Diễn đàn XHDS sẽ “biến thể” sang một hình thái nào, phải chăng là nơi tập hợp tiếng nói phản biện như Viện Nghiên cứu Phát triển IDS? Nhưng trước mắt, hướng đến dân chủ với cách thức và phương pháp này nó đã không tương xứng với cái tầm, sự uy tín và số lượng của các nhân sĩ trí thức.

Bằng sự kỳ vọng vào một thế hệ tâm huyết đi trước, tôi tin tưởng rằng các vị có thể làm được nhiều hơn thế…

Phạm Lê Vương Các

Mời xem lại: Xã hội dân sự và bản Hiến pháp
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/03/130305_chinhquyen_hienphap.shtml

Việt - Pháp hướng tới quan hệ đối tác chiến lược ?

Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong lần gặp nhau tại Hà Nội 8/2013 - REUTERS /Luong Thai Linh
Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong lần gặp nhau tại Hà Nội 8/2013 - REUTERS /Luong Thai Linh

Hôm nay, 24/09/2013, phái đoàn Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đến Paris bắt đầu chuyến viếng thăm chính thức nước Pháp, theo lời mời của thủ tướng Jean-Marc Ayrault. Tháp tùng ông Nguyễn Tấn Dũng có một số bộ trưởng, trong đó có bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.

Theo chương trình dự kiến, hôm nay, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dự lễ khai trương trụ sở mới của Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp ở số 61 đường Miromesnil, quận 8, Paris. Chiều nay, từ 16 giờ đến 17 giờ 30, thủ tướng Việt Nam sẽ phát biểu tại Viện quan hệ quốc tế của Pháp ( IFRI) trong một hội nghị với đề tài « Đối tác chiến lược Pháp-Việt : Xây dựng sự tin cậy chiến lược ».

Sáng mai 25/09/2013, từ 8 giờ đến 10 giờ 30, phái đoàn thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ gặp một số lãnh đạo tổ chức MEDEF của giới chủ Pháp, với sự hiện diện của bộ trưởng Ngoại thương Pháp Nicole Bricq. Nhân dịp này, thủ tướng Việt Nam sẽ tiếp xúc với lãnh đạo một số tập đoàn lớn của Pháp, đồng thời dự Diễn đàn doanh nghiệp Pháp - Việt.

Vào trưa mai, thủ tướng Jean-Marc Ayrault sẽ tiếp và hội đàm với ông Nguyễn Tấn Dũng, và sau đó mở tiệc khoản đãi phái đoàn thủ tướng Việt Nam. Hai vị thủ tướng cũng sẽ dự lễ ký kết các hiệp định và hợp đồng giữa hai nước. Trong buổi chiều ngày mai, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trên nguyên tắc sẽ hội kiến tổng thống Pháp François Hollande tại điện Elysée.

Theo các số liệu chính thức, Pháp hiện là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ 3 của Việt Nam (sau Đức và Anh). Trao đổi mậu dịch song phương Việt - Pháp năm 2012 đạt 3,2 tỷ đôla. Pháp cũng đứng thứ 2 trong các nước châu Âu (sau Hà Lan) và đứng thứ 15 trong tổng số 92 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, Pháp vẫn là nhà tài trợ châu Âu song phương hàng đầu cho Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là chuyến đi thăm nước của thủ tướng Việt Nam lần này liệu có sẽ nâng quan hệ giữa hai nước lên thành quan hệ đối tác chiến lược, giống như Hà Nội đã ký với các nước châu Âu khác như Anh quốc hay Đức không ?

Trả lời báo Nhân Dân hôm qua, đại sứ Việt Nam tại Paris Dương Chí Dũng chỉ nói rằng, nhân chuyến đi thăm Pháp lần này của ông Nguyễn Tấn Dũng, hai nước sẽ « xác lập một khuôn khổ chính thức mới cho quan hệ giữa hai nước », nhưng không nói cụ thể đó sẽ là mối quan hệ gì.

Dầu sao, nhân chuyến viếng thăm Việt Nam vào đầu tháng 8 vừa qua, Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius đã thảo luận với đồng nhiệm Việt Nam Phạm Bình Minh về lộ trình nâng quan hệ Việt - Pháp lên đối tác chiến lược trong thời gian tới.
Thanh Phương (RFI)

Việt-Ấn tăng cường quan hệ quốc phòng với Trung Quốc trong tầm nhắm

Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam (DR)
Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam (DR)

Lãnh đạo quân đội Việt Nam, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã đến New Delhi vào hôm nay, 24/09/2013, bắt đầu chuyến công du Ấn Độ. Theo hãng tin Ấn Độ ANI, chuyến thăm này nhằm mục tiêu tăng cường quan hệ quốc phòng giữa hai quốc gia.

Theo giới phân tích, sở dĩ quan hệ quốc phòng Việt-Ấn đặc biệt khởi sắc trong thời gian gần đây, đó là vì cả hai bên cùng chia sẻ mối quan ngại về Trung Quốc.

Hãng tin ANI cho biết là tướng Đỗ Bá Tỵ đã được phía Ấn Độ long trọng đón tiếp, trong một chuyến thăm nhằm nâng cao lòng tin tưởng lẫn nhau và xây dựng các nhịp cầu cho tương lai giữa hai nước. Hãng tin Ấn Độ đã nhắc lại là trong thời gian gần đây, quan hệ lâu đời giữa hai nước đã được củng cố thêm, và hai nước đã hợp tác chặt chẽ với nhau tại nhiều diễn đàn khu vực như ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Tổ chức Hợp tác Mekong-Hằng Hà…

Nội dung chuyến thăm lần này của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam không được tiết lộ, nhưng trong một bài viết ngày 04/09/2013 vừa qua, được hãng tin Ấn DNA đăng tải, Harsh V Pant, chuyên gia phân tích Ấn Độ làm việc tại King’s College ở Luân Đôn, đã nêu bật tiến trình tăng cường quan hệ, đặc biệt là trong lãnh vực quân sự và quốc phòng, giữa Việt Nam và Ấn Độ, bắt nguồn từ mối « đe dọa cận kề » đến từ Trung Quốc.

Ví dụ nổi bật nhất được nêu lên để chứng tỏ đà tăng tiến rõ rệt trong quan hệ quân sự quốc phòng Ấn-Việt là sự kiện New Delhi đã quyết định tháo khoán 100 triệu đô la tín dụng cho Hà Nội để mua thiết bị quân sự. Mọi thủ tục sẽ được hoàn tất vào cuối năm nay nhân chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây là một sự kiện rất có ý nghĩa vì thông thường, Ấn Độ chỉ cấp tín dụng mua vũ khí cho các nước láng giềng kế cận mình, và nằm trong vùng ảnh hưởng của mình. Việt Nam là nước « xa xôi » đầu tiên được chính quyền New Delhi ưu ái như vậy.

Quyết định tài trợ để mua vũ khí kể trên chỉ là bề nổi của một quá trình tăng cường hợp tác quân sự quốc phòng đã có từ trước, theo đó New Delhi đã cố gắng hỗ trợ Hà Nội nâng cao năng lực chiến đấu của hai binh chủng không quân và hải quân.

Công việc này đã phát triển thuận lợi nhờ vào thực tế là kho vũ khí và thiết bị quân sự của cả hai bên chủ yếu do Liên Xô trước đây và Nga ngày nay cung cấp.
Trọng Nghĩa (RFI)

Ông Vũ Khoan: Kinh tế đi xuống do yếu kém chủ quan?

Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan, như thường lệ, vẫn luôn thẳng thắn trong những nhận định về hiện trạng đất nước. Ông nói: “Phải chăng, do chủ quan mà chúng ta để vỡ ổn định vĩ mô?"
Những ý kiến thẳng thắn của các nhà chính trị và khoa học hàng đầu đất nước tại một hội thảo khoa học tổ chức vào ngày hôm qua đã cho thấy, đang thiếu vắng những hành động cụ thể để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng hiện nay.

Hãy cùng nhìn lại các khuyến nghị đã đưa ra để thấy kinh tế nước nhà sau nửa thập kỷ đang đứng ở đâu.
Khách quan hay chủ quan?
Nửa thập kỷ vừa qua chính là quãng thời gian Việt Nam trải qua khủng hoảng, do tác động của kinh tế thế giới. Vậy nên, đánh giá của các chuyên gia và những người có trách nhiệm với đất nước chính là để giúp ta có được một cái nhìn toàn cảnh về hiện tình trước mắt, để tìm đối sách phù hợp cho giai đoạn sắp tới.
Bởi vậy, tại cuộc hội thảo ngày hôm qua, Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan, như thường lệ, vẫn luôn thẳng thắn trong những nhận định về hiện trạng đất nước. Ông nói: “Phải chăng, do chủ quan mà chúng ta để vỡ ổn định vĩ mô. Suốt từ 2007 đến nay bất ổn vĩ mô bộc lộ ở mức gay gắt”. Như để làm dịu đi nhận xét thẳng thắn của mình, ông nói thêm: “Tôi nhận thức thế không biết trúng hay không?”.
Nhận xét của ông đưa ra sau khi nhiều ý kiến của các lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đưa ra trước đó đổ lỗi tình trạng hiện nay cho tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và khó khăn nội tại của kinh tế trong nước.
Đáng chú ý, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, một vị lãnh đạo cao cấp nhất của nhà nước, khi dự cuộc hội thảo khoa học nói trên cũng đã lý giải về nguyên nhân kinh tế hiện nay là do “hơn 2 năm qua, tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp, khủng hoảng chính trị, xung đột vũ trang, thiên tai ở nhiều khu vực; khủng hoảng nợ công ở Châu Âu dai dẳng và vẫn chưa kết thúc; kinh tế thế giới phục hồi chậm,… đã tác động tiêu cực – trực tiếp hoặc gián tiếp – đối với kinh tế nước ta - một nền kinh tế có độ mở lớn, nhất là trên các mặt thương mại, đầu tư”.
{keywords}
Ảnh minh họa
Trong nước, những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế được tích tụ từ nhiều năm cùng với những mặt trái của gói kích thích kinh tế đã cộng hưởng tạo ra hiệu ứng lạm phát tăng cao, bất ổn vĩ mô kéo dài hơn dự kiến, thị trường bất động sản suy giảm mạnh, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp giải thể, phá sản, dừng hoạt động, thị trường thu hẹp, hàng tồn kho lớn.

Lý giải của Phó thủ tướng được Trưởng ban Kinh tế trung ương Vương Đình Huệ đồng tình khi đổ lỗi cho những yếu tố bên ngoài, tình hình thế giới trong những năm qua tác động theo chiều hướng xấu hơn đến thị trường xuất khẩu các hàng hóa chủ lực của ta, đến lượng khách du lịch, đến xuất khẩu lao động và đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Không ít vấn đề lớn và yếu kém của nền kinh tế tồn tại từ nhiều năm, đến nay dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới càng bộc lộ rõ.

Tuy nhiên, dưới góc nhìn của mình, ông Vũ Khoan nghĩ khác: “Tôi không tin là nguyên nhân chủ yếu của khó khăn hiện nay là do kinh tế thế giới. Nhiều người bị ảnh hưởng chứ không phải mình ta”. Bởi lẽ, những lĩnh vực liên quan đến kinh tế thế giới như xuất khẩu, thu hút FDI, du lịch lại đang phát triển rất tốt.

Bên cạnh đó, những khó khăn nội tại của nền kinh tế đã tồn tại mấy chục năm chứ không phải gần đây mới bộc lộ.

Ông Khoan đặt câu hỏi, như để tổng kết những nhận xét trên: “Phải chăng, do chủ quan mà chúng ta để vỡ ổn định vĩ mô”.

Vẫn là tư duy duy ý chí

Ông Khoan nhận xét, Đại hội XI đã đưa ra hai nhóm chủ trương lớn rất quan trọng về thể chế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, ông nhận xét, có những chủ trương lại bị làm ngược lại trên thực tế.

Ông nêu các ví dụ chủ trương về thị trường tài chính vững chắc, vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả; chủ trương phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, tập trung hoàn thiện thể chế quyền sử dụng đất; hay chủ trương xây dựng một số tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh, rồi khái quát tóm lại, nhìn lại những chủ trương thì bức tranh rất lổn nhổn, phần lớn không đi vào cuộc sống được. Vì sao nên nông nỗi như vậy?

Nguyên Phó thủ tướng lý giải, có thể những chủ trương này được đưa ra do tư duy chủ quan duy ý chí, hay không được thực hiện, thậm chí là làm ngược lại.

Đồng tình quan điểm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sỹ Kiêm nói: “Chúng ta có nhiều hội nghị, rất nhiều đề xuất trúng nhưng không được thực hiện vào thực tế chả mấy. Hơn nữa, trong tình hình hiện nay mà cách giải quyết gần như cũ, thậm chí có cái trở lại hành chính bao cấp.

Ông nói tiếp: “Các báo cáo đều đưa ra nguyên nhân, nhưng không sửa được khi thực hiện. Đây là nguyên nhân làm kinh tế ngày càng khó khăn, doanh nghiệp ngày càng co lại”.

Tình trạng đất nước, như ông Kiêm nói, được Giáo sư Tiến sỹ Trần Thọ Đạt, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đồng tình. Ông cho rằng, có nhiều vụ việc “nghiêm trọng” đã xảy ra trong suốt những năm qua nhưng không có ai chịu trách nhiệm vụ thể, và chính sách nhiều nhưng hiệu quả ít.

Trong khi tăng trưởng các nước ASEAN 5 đều khởi sắc hơn kể từ giai đoạn cuối 2009, sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thì tốc tộ tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu xu thế giảm nhanh và liên tục từ 2007, và đến 2012 nằm ở mức thấp nhất kể từ năm 2000.

Những phân tích tại Hội thảo cho thấy, trong khi phần lớn các nước trong khu vực đã bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng thì ở Việt Nam, sự phục hồi còn chậm. Xét về mặt tuyệt đối, khoảng cách giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực đang ngày một cách xa. Nhiều mục tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 có khả năng không thực hiện được, ngay trong năm 2013, đã có tới 7/15 chỉ tiêu không đạt kế hoạch (như tốc độ tăng trưởng GDP, giá trị gia tăng công nghiệp, xây dựng, giải quyết việc làm, …). Dư địa chính sách cho mô hình tăng trưởng hiện tại không còn nhiều. Những cảnh báo về một nền kinh tế chứa ẩn nhiều rủi ro và một triển vọng tăng trưởng không mấy tươi sáng đang có nguy cơ trở thành hiện thực.

Con đường đi tới

Trước tình hình “nước sôi lửa bỏng”, Tiến sỹ Trần Thọ Đạt đề nghị các khuyến nghị bao bồm giảm các loại thuế phí và cắt giảm chi tiêu công; đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN; tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại; tăng cường đầu tư phát triển công nghệ, giáo dục, đào tạo; và cải thiện môi trường kinh doanh.

Ông Đạt cũng đề nghị cần điều chỉnh lại một số chỉ tiêu kế hoạch, cũng như chú trọng đến tổng cung để giải quyết ách tắc kinh tế hiện nay.

Tuy nhiên, đề xuất trên lại không được ông Vũ Khoan đồng tình. Ông nói: “Điều chỉnh kế hoạch chỉ tiêu dễ lắm, nhưng chả đem lại cái gì vì nó có thay đổi tình hình đâu”.

Liên quan đề lựa chọn chính sách trọng cung của Tiến sỹ Đạt, ông Khoan nói đầy băn khoăn: “Cầu yếu thế này, mà cung ra thì lại cho vào kho à”.

Trong khi đó, chuyên gia Lưu Bích Hồ tỏ vẻ hoài nghi: “Chúng ta đã bàn nhiều rồi, nhưng tôi rút ra là nói nhiều nhưng không làm được. Giờ tôi không tin làm được, nên hôm nay có nói cũng không làm được”.

Ông Cao Sỹ Kiêm tỏ vẻ thực tế hơn: “Có hội thảo như thế này của 3 cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc quốc hội đều có gợi ý trúng, các doanh nghiệp thấy rất mừng. Nhưng rồi họ lại thấy khả năng giải quyết rất hạn chế”.

Ông đặt câu hỏi hoài nghi, chúng ta có làm không, có làm được không? Phải có địa chỉ cụ thể ai làm, làm như thế nào, bao giờ xong chứ?

Câu trả lời có lẽ sẽ đến từ chính thực tế.
(VNN)

Ông Nguyễn Bá Thanh: Tham nhũng xử hết, xử từ lớn đến nhỏ


Sáng 24.9, ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính T.Ư cùng Đoàn đại biểu quốc hội TP.Đà Nẵng tiếp tục có cuộc tiếp xúc cử tri tại 11 xã của huyện Hòa Vang.

“Không bắt tận tay khó quy tội tham nhũng”

Tại cuộc tiếp xúc này, các cử tri đề cập tới nhiều vấn đề như xây dựng nông thôn mới mà đường xá được xây dựng quá kém chất lượng; bố trí tái định cư còn nhiều bất cập; một khu dân cư tại Hòa Phước còn bị ngập lụt khi mùa mưa về...

Hầu hết các cử tri đều rất quan tâm tới việc bỏ phiếu tín nhiệm trong thời qua, cũng như vấn đề tham nhũng.

Cử tri Trần Đình Nam (xã Hòa Tiến) đặt câu hỏi: “Thấy Quốc hội vừa qua tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm là rất tiến bộ. Nhưng cử tri chúng tôi vẫn còn băn khoăn là những cán bộ tín nhiệm thấp thì đã giải quyết ra sao rồi?”.

Một số cử tri khác lại lo lắng: “Vừa rồi thấy chúng ta đã hô hào rất mạnh trong việc xử lý tham nhũng, nhưng vẫn chưa thấy xử lý được vụ nào. Chúng tôi đề nghị Quốc hội nên mạnh tay hơn nữa đối với vấn nạn này”.

Trả lời cử tri, ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính T.Ư cho biết thời gian tới sẽ tiến hành xử lý tất cả các vụ tham nhũng từ nhỏ đến lớn chứ không chỉ có lớn mới đưa ra xử.


Nếu biết ai nhận hối lộ để chạy việc thì cứ tố cáo thẳng tới tôi, sẽ được xử lý

Ông Nguyễn Bá Thanh


Ông Thanh lấy ví dụ vụ làm xét nghiệm dỏm tại Bệnh viện Hoài Đức (Hà Nội) và cho rằng sự việc không chỉ gây thất thu đến tiền tỉ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân nên vụ án cũng được nhanh chóng khởi tố mấy chục người.

Theo ông Thanh, riêng một số vụ án được cho là tham nhũng hiện tại cũng rất khó xử lý cho thỏa đáng vì luật pháp vẫn chưa hoàn thiện.

“Mua con tàu 30 tỉ rồi cùng nhau đưa lên tới 40-50 tỉ để chia chác nhau nhưng chúng ta không bắt được tận tay thì khó mà xử lý họ với tội tham nhũng. Vì không bắt được tận tay như vậy nên mới phải xử lý theo tội danh “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Tuy nhiên, ông Thanh cũng cho biết thêm, tới đây, phòng chống tham nhũng sẽ được các cấp làm quyết liệt, đối với những vụ kiểu như trên sẽ được xem xét là vụ án và tội phạm tham nhũng để xử lý.

Cũng theo ông Thanh công cuộc đấu tranh với tham nhũng là còn rất khó khăn chứ không thể ngày một ngày hai.

“Nếu biết ai nhận hối lộ để chạy việc, cứ tố cáo thẳng tới tôi”

Tình trạng xuống cấp của nền y đức nước nhà, đặc biệt là những bất cập trong việc chi trả viện phí, việc khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế chưa được như mong đợi cũng được các cử tri đề cập.

Cử tri Huỳnh Thiệu (xã Hòa Phước) cho rằng: “Nhà nước phát động toàn dân tham gia bảo hiểm y tế, người dân cũng đồng tình tham gia nhưng tôi thấy sao mà những người có bảo hiểm vào viện là lắm phiền phức. Làm đủ thứ thủ tục phiền hà. Nằm bệnh viện uống thuốc 10 ngày chưa hết bệnh nhưng ra ngoài mua thuốc uống chỉ có 5 ngày đã khỏi. Không biết chất lượng thuốc bảo hiểm y tế ra sao!”.

Một cử tri khác lại cho biết gia đình có hai con đã tốt nghiệp trung cấp y nhưng xin việc không nơi nào nhận. Trong khi trường lớp thì mở tràn lan mà đào tạo xong rồi lại không có việc làm. “Nhiều người nói là phải chạy chọt. Vậy bây giờ cho tôi hỏi, để xin việc ở Hòa Vang là phải mất bao nhiêu (ý nói tiền chạy chọt - PV), ở Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng thì bao nhiêu?”, cử tri này nói.

Về tiêu cực trong ngành y ông Thanh cho rằng một phần do tiền viện phí, tiền bảo hiểm của người dân đóng góp thực sự chưa cao nên nguồn thu không đủ. Bởi vậy mà chất lượng y tế thấp, bệnh viện quá tải, thiếu máy móc điều trị. Tuy nhiên, một phần cũng có tiêu cực, người nào đưa cho vài đồng thì y, bác sĩ khi chích thuốc cũng chích nhẹ nhàng và ít đau hơn.

Để có chất lượng y tế tốt hơn theo ông Thanh: “Tôi nghĩ là phải mất vài thập niên nữa thì tình trạng y tế mới cải thiện lên được. Khi đó kinh tế tốt lên thì đời sống người dân, y tế cũng sẽ được cải thiện hơn”, ông Thanh nói.

Về tiêu cực "chạy việc" như cử tri đề cập, ông Thanh cũng tin là sự việc cử tri này nêu là có và chỉ dẫn: “Nếu biết ai nhận hối lộ để chạy việc thì cứ tố cáo thẳng tới tôi, sẽ được xử lý”.
Hoàng Bảo

Thiện Tùng - Thấy gì, hiểu sao đàng sau việc chống tham nhũng ở nước ta?


Theo báo chí thông tin, ngày 18/09/201 Thường vụ Quốc hội họp trù bị, phần bàn về phòng chống tham nhũng.

Sau khi nghe Thanh tra Chính phủ trình bày về kết quả phòng chống tham nhũng, nhiều vị tỏ ra không hài lòng về bản báo cáo của Thanh tra.

Ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật thắc mắc: “Kiểm tra 14 ngàn vụ nhưng chỉ chuyển sang hình sự có 11 vụ, không biết tội phạm chìm, nổi ra sao”…

Ông Nguyễn văn Hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cho rằng: “Tham nhũng phát hiện nhiều nhưng thu hồi tài sản ít, xử lý hành chính nhiều, áp dụng tình tiết nhẹ, xử lý dưới khung, án treo hoặc phạt cải tạo không giam giữ chiếm tỷ lệ cao, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, một số vụ án nghiêm trọng và phức tạp bị kéo dài, bị đình chỉ điều tra”…

Đặc biệt, không biết với dụng ý gì, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói thả lửng: “Không tham nhũng lấy đâu tiền chạy chức vụ này chức vụ kia”, “Lực lượng đấu tranh phòng chống tham nhũng có tiêu cực, bỏ sót, bao che không? Có tham nhũng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng hay không?

Qua ý kiến thắc mắc của quý ngài đảng viên thuộc thành phần “gạo cội” của Quốc hội, tôi cảm nhận việc phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta có gì đó không thực tâm, không nhằm triệt tiêu tham nhũng mà chỉ nhằm xả căng sự uất ức trong lòng dân về tệ tham nhũng.

Cũng tất nhiên thôi, những vụ tham nhũng được phát giác đưa ra xử lý ít nhất 90% can phạm là đảng viên, chức lớn tham lớn, chức nhỏ tham nhỏ, chia nhau đục khoét. Đã vậy thì chống tham nhũng đồng nghĩa với chống Đảng đang cầm quyền? Đảng đang cầm quyền “cầm dao” đi diệt tham nhũng tránh sao khỏi run tay? - “Tay cắt tay bao nở, ruột cắt ruột sao đành”, đó là câu truyền miệng của dân gian, có ứng vào đây không tôi cũng chưa chắc.

Đảng CSVN bao giờ cũng là bản sao của Đảng CS Trung Quốc, trong bài nói chuyện nội bộ có tựa đề “Tôi biết làm thế nào?” – đã đăng tải trên nhiều trang mạng Internet, Chủ tịch Đảng CSTQ Tập Cận Bình nói: “Mọi người đều biết, hiện nay tác phong của Đảng Cộng sản chúng ta có một số không tốt. Một số cán bộ hình thành Nhóm lợi ích, nó ảnh hưởng tới quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân… Là người lãnh đạo Đảng, đã được cán bộ đảng viên các cấp bầu lên, tôi không thể ăn cây này rào cây khác… Nói về “Đánh con hổ tham nhũng” thì các đồng chí yên tâm, đại bộ phận các đồng chí trong Đảng không sao cả, nhưng chúng ta vẫn phải tuyên truyền sâu rộng, chỉ cần quần chúng nhân dân đồng lòng vỗ tay hướng ứng, đánh giá tốt là được. Điều nầy có thể một số đồng chí cán bộ đảng viên cấp cơ sở không thông lắm”…

Lãnh đạo Việt Nam cũng đã xem tham nhũng là “nội xâm”, là “quốc nạn”, chúng làm phương hại đến uy tín của Đảng, gây thảm họa cho đất nước và dân tộc. Có lẽ vì vậy, từ khi nhậm chức, Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng luôn “cằn nhằn” với nội bộ Đảng qua bao kỳ hội nghị của nhiệm kỳ XI này, ông đưa ra nhiều giải pháp để trị bọn “sâu dân mọt nước” – gọi cho gọn “diệt sâu”. Tôi còn nhớ: Ở hội nghi lần 4, ông khai thông tư tưởng cho đảng viên “Chỉnh đốn Đảng để bảo vệchế độ”. Ở hội nghị lần 6, ông chỉ đạo dùng thuốc gia truyền “Phê, tự phê” trong Đảng theo kiểu mới từ trên xuống để tìm diệt sâu. Suốt hơn tháng trời, lùng sục hết trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến Ban Chấp hành chỉ phát hiện một con sâu chúa. Dùng thuốc gia truyền với độ đậm đặc khử nó mà vẫn trơ trơ kháng thuốc. Ở hôi nghị lần 7, việc dùng thuốc gia truyền được thay bằng việc “nhóm lửa” đốt sâu, ông Trọng gọi những người có máu mặt như ông Nguyễn Bá Thanh, Vương Đình Huệ … về triều tái lập Ban Nội chính, làm mũi xung kích cho Ban Phòng chống tham nhũng do ông dẫn đầu. Để tạo thế cho ông Thanh, ông Huệ, Bộ Chính trị đề cử 2 ông này vào Bộ Chính trị. Không ngờ cả hai ông đều bị sâu chích rớt thê thảm.

Theo cảm nghĩ của tôi, phái chống tham nhũng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, không thể/được thắng, bởi vì phái ông thuộc thiểu số, hơn nữa nếu phái ông thắng thì Đảng do ông cầm đầu tan nát? – đàng nào Đảng CSVN cũng thọ nạn. Để duy trì được chừng nào hay chừng ấy, Đảng CSVN chỉ còn cách học theo Đảng CS Trung quốc chống tham nhũng “Cuội”.

Có lẽ Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng nhận ra sự nan giải này, ngay trong hội nghị lần thứ 7, ông đã chỉ đạo “tăng cường công tác Dân vận” và cử ông Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, sang Mặt trận để hiệp đồng cùng Ban Tuyên giáo xả giận trong dân, gở gút sanh tử “Không dân Đảng tính làm sao!? ”.

Chống tham nhũng – Cuộc chiến đấu còn đang tiếp diễn – hạ hồi phân giải.

Những điều tôi viết ra đây là những suy tư, thuộc sản phẩn chủ quan – dĩ nhiên là nó đúng đối với tôi, còn với độc giả thì xin thỉnh giáo.

Ngày 23/09/2013

 Thiện Tùng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Minh Diện - Bốn quả "phản pháo"

Tôi mới đọc bài “Mấy chuyện vạ bút” của tác giả Ngọc Dương (Lào Cai) có nguồn từ mấy trang khác, nay entry trên trang blog BVB. Đọc xong, suy ngẫm: Cái nghề văn thơ - báo chí tuy có khoảng trời riêng, cùng vui, sôi động, đến được nhiều bạn đọc, nhưng hiềm một nỗi sao mà nó chịu nhiều cám cảnh trần ai cơ khổ, nhiều khi bị đời soi mói, bạc bẽo, thậm chí có khi nhìn mình như ‘sinh vật lạ”!? Xem ra, dù viết kiểu gì cũng dễ bị ‘vạ bút’. Tôi cũng bị ‘vạ bút’ đã nhiều lần. Có khi nói thẳng, nói thật còn bị cấp thẩm quyền kỷ luật, bắt ‘treo bút’...
Gần đây nhất, khi viết cho các trang mạng (tất nhiên, gọi là ‘lề trái’, viết có phần được phóng tay, mở lòng thoải mái, nói được hết suy cảm, tâm tư thực của mình), nhưng rồi tôi cũng bị bốn quả ‘phản pháo’.
Mấy ngày qua, tôi đã đọc 194 comment dành cho bài: “Nói lại với nhà báo Minh Diện” của Phan An Sa, và 40 commen cho bài “Cảm xúc từ sao lại tâm hồn vong bản” của Thanh Tùng, đăng trên trang blog của đại tá Bùi Văn Bồng. Tôi cũng nhận được nhiều tin nhắn qua điện thoại. Xin chân thành cảm ơn tất cả bạn đọc đã chia sẻ với tôi sau sự cố xảy ra. Những ý kiến đóng góp của bạn đọc tôi xin tiếp thu . Nhưng xếp theo thời gian, tôi coi đây là “quả phản pháo” thứ Tư.
Tuy nhiên có một vài comment nặc danh cho rằng tôi bịa chuyện, và nhắc lại chuyện 3 “quả pháo” trước về chuyện viết đến các vị: Hoàng Hữu Phước, Hoàng Quang Thuận và bà Nguyễn Phương Hằng kiện vì những lý do đơn giản là chê và góp ý cho họ, nêu lên một vài “góc khuất” của họ. Vì vậy tôi xin minh bạch hóa ba “vụ kiện”, 3 “quả phản pháo” để bạn độc hiểu sự thật.
+ Quả pháo thứ nhất: Ngày 17-11-2011, phát biểu trước Quốc hội, ông Hoàng Hữu Phước đề nghị: “Loại bỏ luật lập hội và luật biểu tình ra khỏi danh sách dự án luật trong suốt nhiêm kỳ XIII”. Ông Phước nói: “Việt Nam có cần cuộc biểu tình chống chính phủ không? Chống các chủ trương, chính sách, đạo luật của chính phủ Việt Nam hay không? Nếu không cần tại sao lại đưa dự án luật biểu tình, nói rồi, nói mãi như thể nó là khuôn vàng thước ngọc để đo chiều cao, chiều rộng, chiều dài, chiều sâu của cái gọi là tự do dân chủ”. Ông Hoàng Hữu Phước còn nói trình độ dân trí nước ta thấp chưa hiểu về luật…
Là một người dân, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nên gọi điện thoại cho Hoàng Hữu Phước, muốn góp vài lời với tư cách một cử tri với một đại biểu Quốc hội. Nhưng gọi mấy lần ông Phước không bắt máy. Trong lúc bức xúc tôi nhắn tin cho ông: “Mày là ai mà khinh thường dân tao như vậy? Nếu gặp tao sẽ cho ăn trứng thối!”. Vì tin nhắn đó, mà Hoàng Hữu Phước khép tôi vào tội khủng bố, làm công văn gửi lãnh đạo các cấp, và tôi bị gọi lên cơ an an ninh điều tra thẩm vấn.
Trước cán bộ điều tra, tôi xác nhận đã gửi tin nhắn đó cho Hoàng Hữu Phước, nhưng không phải là “khủng bố” như ông ta nghĩ, mà chỉ bày tỏ thái độ bất bình của một cử chi với một đại biểu Quốc hội. Tôi nói thẳng , không chỉ riêng tôi mà rất nhiều người bức xúc với Hoàng Hữu Phước, vì ông ta khinh thường dân, đi ngược lại Hiến pháp.
Cơ quan an ninh điều tra thành phố Hồ Chí Minh không khép tôi vào tội “khủng bố” như ông Hoàng Hữu Phước tố cáo, nhưng cho rằng tôi đã vi phạm hành chính trong việc nhắn tin xúc phạm đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước.
Không ngờ sau đó, như mọi người đã biết, Hoàng Hữu Phước xúc phạm đại biểu Dương Trung Quốc nặng nề hơn, nhưng không bị xử lý dù chỉ bằng hình thức phê bình. Về chuyện đó tôi đã viết bài “Ôi đại biểu của dân” và “ Lại là nghị Phước” trên blog buivanbong (nikname cũ, trang này sau đó không hiểu sao bị đánh sập, buộc chủ trang phải lập nikname mới).
+ Quả pháo thứ 2: Là chuyện có dính với Gs. Hoàng Quang Thuận (thành phố HỒ Chí Minh), nổi tiếng trong vụ đạo “thơ thiền”: Đầu năm 2012, tình cờ đọc trên trang lethieunhon có bài của luật sư nhà báo Minh Tâm, viết về việc Hoàng Quang Thuận đạo thơ, làm thơ tâm linh và đề cử nhận giải Nô bel. Vì bài viết đó Minh Tân bị Hoàng Quang Thuận gọi là kẻ “Lừa thầy phản bạn!”. Từng quen biết Hoàng Quang Thuận, tôi gọi điện thoại cho ông, định khuyên ông nên nhận sai sót của mình, nhưng tôi vừa cất lời thì Hoàng Quang Thuận cúp máy.
Nhà báo Minh Tâm nói với tôi, việc làm của Hoàng Quang Thuận là không thể chấp nhận, dù là bạn bè cũng phải thẳng thắn với nhau. Tôi thấy quan điểm của Minh Tâm đúng, nên đã viết mấy bài về Hoàng Quang Thuận như: “Ai có thể lừa được vua lừa?”, “ Chiếc sừng tê giác của Tăng Minh Phụng”,v.v...
Sau khi những bài báo đó đăng trên trang Blog lethieunhon, Hoàng Quang Thuận gọi điện thoại cho tôi, lúc đầu cũng bảo tôi là kẻ “Lừa thầy phản bạn” nhưng sau đó xin lỗi, và năn nỉ tôi bỏ qua chuyện cũ. Tôi đề nghị Hoàng Quang Thuận xin lỗi chủ trang blog lethieunhon và Hoàng Quang Thuận đã gọi điện xin lỗi nhà báo Lê Thiếu Nhơn. Trước thái độ cầu thị của Hoàng Quang Thuận, tôi và Lê Thiếu Nhơn không đăng tiếp những bài về ông .
Không ngờ ngay sau đó Hoàng Quang Thuận trở mặt, cho đăng ý kiến cùa ông Tăng Bỉnh Trọng,thanh minh chuyện chiếc sừng tê giác, và làm đơn kiện tôi và Lê Thiếu Nhơn tội vu khống.
Tôi được cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an mời làm việc. Bằng thái độ trung thực, nghiêm túc, và bằng tài liệu, nhân chứng, tôi đã chứng minh trước cơ quan điều tra những bài báo tôi viết không hề bịa đặt, vu khống như Hoàng Quang Thuận nói. Tôi đề nghị đối chất với Hoàng Quang Thuận làm rõ trắng đen, nhưng ông Thuận không dám đối chất.
+ Quả pháo thứ 3: Về vụ bà Nguyễn Phương Hằng vợ sau của đại gia Huỳnh Phi Dũng cũng cho rằng tôi bịa đặt vu khống vợ chồng bà trong bài báo “Ân oán còn lâu” ...
Trước cơ quan an ninh điều tra tôi cũng đã đưa ra những bằng chứng, nhân chứng để chứng minh một cách trung thực những điều tôi viết trong bài báo. Và ngay sau đó, để bảo vệ bạn đọc - CTV, Đại tá Bùi Văn Bồng, chủ trang blog, cũng trao đổi và xác nhận với cơ quan chức năng là tin ở bản thảo bài viết của tôi đúng sự thật, tác giả cũng cam kết như vậy, không hề bịa đặt, không vu khống, cũng không hề thù ghét ông bà Nguyễn Phương Hằng, Huỳnh Uy Dũng mà chỉ muốn góp phần làm cho con người sống với nhau có có tình hơn, đừng dùng các thủ doạn tham lam trục lợi cá nhân xã hội có chuẩn mực hơn.
Ông Hoàng Hữu Phước vu cho tôi tội khủng bố, ông Hoàng Quang Thuận, và bà Nguyễn Phương Hằng vu cho tôi tội bịa đặt , vu khống, có lẽ đều muốn đẩy tôi vào tù. Nhưng điều họ mong muốn đã không xảy ra vì sự thật tôi không phải là một kẻ khủng bố, cũng không phải là kẻ bịa đặt vu khống. Các cơ quan công an đã điều tra xác minh từng vụ việc và sự thật đã được kết luận.
Trước đó bạn bè rất lo cho tôi vì phải đối đầu với những người có chức quyền và rất nhiều tiền, nhưng tôi vẫn tin chân lý không thể bẻ cong, và sự thật là như vậy. Qua đây, lòng tin của tôi với đời thực được thêm củng cố: Không phải đòng tiền chạy cửa nào cũng lọt nhanh, trôi gọn! Trên đời, sự trung thực, khách quan, người tốt và và làm việc có trách nhiệm còn nhiều.
Tôi là một cựu chiến binh, một nhà báo đã lớn tuổi, tâm đắc với Đại tá Bùi Văn Bồng nên đã cố vượt lên sức ép của gia đình và sức khỏe, viết bằng cái tâm của mình, không cầu danh, cầu lợi và không có ý đồ chống phá, nhục mạ bất kỳ ai. Trong nghề báo không ai tránh được sai sót, người viết báo ‘lề trái’ như tôi còn gặp khó khăn hơn, nên tôi đã công khai số điện thoại, địa chỉ nhà riêng, địa chie E,Mail của mình sẵn tiếp thu phê bình của bạn đọc. Rất tiếc có người không biết vì mục đích gì, lại mạo danh, địa chỉ hoặc với hình thức nặc danh bia đặt vu khống, gán gép hình ảnh nhằm nói xấu tôi. Có lẽ do nã pháo vào tôi không thành công nên họ phải dùng hạ sách đó. Nhưng tôi tin rằng bạn đọc hiểu thủ đoạn và những thông tin giả đó, và chia sẻ với những người làm báo, nhất là viết trên các trang thông tin xã hội (lề trái) như tôi. Tôi chỉ là cây viết bình thường yêu nghề, ham suy ngẫm chuyện đời, chuyện xã hội, giao tiếp với cộng đồng, như bao nhà báo khác, nhưng qua những rắc rồi do đưa những thông tin trung thực, thẳng thắn, xây dựng ra công luận, bị người liên quan (chỉ thích thích khen, không thích chê) đã ‘phản pháo’, kiện cáo, tôi lại suy ngẫm bài thơ “Cây thông” của cụ Nguyễn Công Trứ:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.

Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Giữa trời, vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông
Nhưng, tôi lại nghĩ, cụ Nguyễn Du từng khuyên rằng: Đã mạng cái nghiệp vào thân / Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa. Để tự giải tỏa suy nghiệm và trắc ẩn trong lòng, để mở ra được giao lưu với cộng đồng, với xã hội, và cũng mong mỗi bài viết góp thêm chút đỉnh cho người đời gặt hái thông tin, cảm nghiệm chuyện đời được cái gì đó, cùng chia sẻ, cứ viết!
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)

Hội nhập ASEAN - Kỳ 1: Đại học Việt coi chừng chậm chân

Còn hơn 1 năm nữa cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) như một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề sẽ ra đời. 
Hội nhập ASEAN: Đại học Việt coi chừng chậm chân
Hướng dẫn viên du lịch là thị trường mở đầu tiên trong AEC. Tuy nhiên, lực lượng lao động ngành nghề này đang thiếu và yếu - Ảnh: Đào Ngọc Thạch

Tuy nhiên, cho đến nay ở các trường ĐH, CĐ nước ta chưa thấy có sự chuẩn bị gì đáng kể cho sự hội nhập này.

Chưa có thông tin !

Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề năm học 2013 - 2014 của ĐH Quốc gia TP.HCM là Hội nhập ASEAN. Trong buổi lễ khai khóa năm học của ĐH này diễn ra vào cuối tuần qua, ông Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM, nhấn mạnh: “Cộng đồng ASEAN sẽ cho phép người lao động di chuyển trong khu vực, điều này có nghĩa lao động Việt Nam sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh việc làm từ lao động các nước. Do vậy, trong lĩnh vực giáo dục ĐH, tập trung phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quan trọng”. Thế nhưng theo tìm hiểu của Thanh Niên, có rất ít các trường ĐH, giảng viên, sinh viên quan tâm đến vấn đề này. Phần lớn đều tỏ ra dửng dưng, thậm chí khẳng định chưa hề biết thông tin.


Khi hội nhập quốc tế, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là khả năng tiếng Anh, đồng thời là tình trạng thiếu và yếu của nguồn nhân lực có tay nghề cao

Ông Lê Thanh Hải
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM


Khi hỏi về thông tin AEC, đại diện nhiều trường đều tỏ ra bỡ ngỡ. Thạc sĩ Hứa Minh Tuấn, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Tài chính - Marketing, cho hay có biết thông tin về sự hội nhập sâu rộng trong khu vực các nước Đông Nam Á sau năm 2015 trong đó có lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, hội nhập cụ thể như thế nào thì cũng chưa hay và cũng chưa thấy Bộ GD-ĐT triển khai cho các trường. Tương tự, tiến sĩ Trần Đình Lý, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Nông lâm TP.HCM, chia sẻ: “Nâng cao chất lượng đào tạo gắn với hội nhập là nhiệm vụ chung, xuyên suốt quá trình phát triển của trường. Tuy nhiên, kế hoạch cụ thể tập trung nâng cao chất lượng đào tạo sau 2015 thì chưa có”. Bà Nguyễn Thị Hải Hằng, Phó giám đốc Học viện Hàng không Việt Nam, cũng cho biết học viện chưa có động thái cụ thể cho việc chuẩn bị này.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng phòng Quản trị chiến lược Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM, tâm tư: “Điều đáng buồn nhất là thông tin báo chí nói rầm rầm về kế hoạch hội nhập nhưng các trường ĐH Việt Nam vẫn bình chân như vại. Nói đến việc hội nhập khu vực vào năm 2015 thì ai cũng biết, nhưng cần làm gì để chuẩn bị cho sự hội nhập ấy thì không trả lời được hoặc chỉ trả lời chung chung”. Trước thực trạng trên, tiến sĩ Dũng khẳng định, khi các trường chưa có sự chuẩn bị thực sự về chất lượng đào tạo thì sinh viên Việt Nam chắc chắn sẽ thua ngay trên sân nhà.

Về phía sinh viên, khái niệm về sự hội nhập càng xa xỉ. Nguyễn Thị Nga, sinh viên ngành cơ khí dệt may Trường ĐH Bách khoa TP.HCM sẽ tốt nghiệp ra trường vào năm 2016, cho biết chưa được nghe nói đến thông tin này. Nga cũng cho hay khả năng tiếng Anh hiện chỉ ở mức trung bình, giao tiếp chưa tốt và không có ý định học thêm ngoại ngữ khác. Nguyễn Văn Bình, sinh viên ngành địa chất dầu khí cũng của trường này, cho biết mới bắt đầu đăng ký học tiếng Anh cấp độ 1 khi bước vào năm thứ 3.

Lao động ngành du lịch còn thiếu và yếu

Hướng dẫn viên du lịch là thị trường mở đầu tiên trong AEC. Tuy nhiên, lực lượng lao động ngành nghề này đang thiếu và yếu.

Theo ông Nguyễn Văn Mỹ, Tổng giám đốc Công ty lữ hành Lửa Việt, Chủ nhiệm CLB Hướng dẫn viên TP.HCM, hằng năm Việt Nam đón khoảng 6 triệu khách quốc tế và có nửa triệu khách Việt Nam đi nước ngoài nhưng mới chỉ có 7.000 hướng dẫn viên có thẻ hướng dẫn quốc tế. Đồng thời, khách nội địa có khoảng 30 triệu lượt, tuy nhiên mới chỉ có 6.000 thẻ hướng dẫn nội địa. Như vậy, tính đến thời điểm này, ngành lữ hành thiếu tới 13.000 thẻ hướng dẫn viên quốc tế và 50.000 thẻ hướng dẫn viên nội địa mới đáp ứng đủ nhu cầu. Tại TP.HCM, hằng năm chỉ khoảng 5.000 sinh viên tốt nghiệp ngành du lịch nhưng không phải toàn bộ số đó được cấp thẻ hướng dẫn và cũng không phải ai cũng ra làm trong ngành du lịch. Do đó, thiếu hướng dẫn viên trầm trọng.

Về chất lượng lao động ngành du lịch, ông Mỹ thẳng thắn nhìn nhận: "Hiện nay chương trình đào tạo trong các trường ĐH, CĐ, TCCN về ngành du lịch quá tạp nham. Mỗi trường một kiểu, không có một chương trình thống nhất". Theo ông Mỹ, chất lượng đào tạo du lịch của Việt Nam còn thua Lào và Campuchia. "Ngoại ngữ của lao động trong ngành du lịch của ta còn quá yếu", ông Mỹ nhận định.

Ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM, cho biết khó khăn hiện nay của ngành du lịch là nguồn nhân lực yếu ngoại ngữ. “Theo khảo sát của một số công ty du lịch, có tới 30 - 45% hướng dẫn viên du lịch, điều hành tour và 70 - 85% nhân viên lễ tân nhà hàng không đạt chuẩn ngoại ngữ”, ông Tuấn thông tin.

Chính các sinh viên cũng thừa nhận điểm yếu này. Bảo Vân, sinh viên năm thứ 3 ngành Việt Nam học (văn hóa - du lịch) Trường ĐH Sài Gòn, tâm sự: “Ngoại ngữ đúng là điểm yếu của tụi em. Những bạn học du lịch mà giỏi ngoại ngữ không nhiều”.

 Tiếng Anh chưa đạt chuẩn

Cũng trong buổi lễ khai khóa của ĐH Quốc gia TP.HCM, Bí thư Thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải tỏ ra lo ngại về chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt về tiếng Anh. Vì thế ông Hải căn dặn: “Khi hội nhập quốc tế, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là khả năng tiếng Anh, đồng thời là tình trạng thiếu và yếu của nguồn nhân lực có tay nghề cao. Thế hệ trẻ cần có sự chuẩn bị nghiêm túc về văn hóa, chuyên môn và kỹ năng hội nhập để có thể trở thành một công dân toàn cầu”.

Thực tế, theo đánh giá từ nhiều nguồn khác nhau, sinh viên Việt Nam thiếu nhiều kỹ năng, trong đó có tiếng Anh.

Tại Trường ĐH Tài chính - Marketing, từ năm 2009 trường đặt chuẩn đầu ra tiếng Anh ngành thấp nhất là 450 điểm TOEIC. Từ sinh viên nhập học khóa 2012 trở đi, khi tốt nghiệp phải có giấy chứng nhận hoàn thành 6 kỹ năng mềm. Tuy nhiên, thạc sĩ Tuấn thừa nhận chỉ khoảng 60 - 70% sinh viên một số chương trình chất lượng cao mới có khả năng trao đổi trực tiếp bằng tiếng Anh trong quá trình học tập chuyên ngành.

PGS-TS Đinh Đức Anh Vũ, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ thông tin TP.HCM, cho biết từ học kỳ 2 năm học 2012 - 2013 trường bắt đầu thí điểm chương trình tăng cường tiếng Anh với 100 sinh viên chương trình tiên tiến và tài năng tình nguyện tham gia. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Vũ, việc học tập bằng tiếng Anh cũng chỉ mới áp dụng được với những môn học cốt lõi của chương trình tiên tiến; phải đến năm 2014 trường mới thử nghiệm giảng dạy và học tập bằng tiếng Anh một số môn cơ sở ngành với chương trình đại trà.

Chuẩn đầu ra tiếng Anh với Trường ĐH Nông lâm TP.HCM từ năm 2008 là B1 theo khung châu Âu. Theo tiến sĩ Trần Đình Lý, trong số trên dưới 2.000 lượt sinh viên dự thi mỗi đợt, chỉ có trên 30% sinh viên đạt và có tới 20 - 30% sinh viên khi tốt nghiệp không thể đạt chuẩn. Cũng như nhiều trường khác, chỉ sinh viên chương trình tiên tiến và liên kết quốc tế ở trường này mới học tập bằng tiếng Anh. 

Vai trò đặc biệt của giáo dục ĐH trong hội nhập
Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa, Phó giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, cho biết: “AEC chỉ là một trong các trụ cột của Cộng đồng ASEAN được đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020, bao gồm một loạt các hiệp định, thỏa thuận quan trọng như: Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS)... Nêu ra như vậy để thấy vai trò của giáo dục, đặc biệt là giáo dục ĐH trong quá trình hội nhập này”. Tiến sĩ Nghĩa phân tích: Hội nhập giáo dục chính là nền tảng cho mỗi nước triển khai thực hiện các thỏa thuận và hiệp định đó. Sự hội nhập, tích hợp, thậm chí phân công trong giáo dục ĐH không chỉ diễn ra trong từng nước mà sẽ là trên quy mô cả ASEAN, thể hiện trong tất cả các khâu của quá trình đào tạo, từ tuyển sinh, tổ chức quản lý đào tạo cho đến đầu ra, việc làm.
Hà Ánh - Mỹ Quyên - Đăng Nguyên
(Thanh Niên)

Nhiều lãnh đạo hớn hở thông báo địa phương có thêm hộ nghèo

(Dân trí) – “Nhiều lãnh đạo hớn hở, vui mừng thông báo địa phương có thêm hộ nghèo. Các hộ mất tiêu chuẩn nghèo thì có khi phản ứng, buồn vì… thoát nghèo” - Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Nguyễn Mạnh Hùng nói.Chiều 24/9, UB Các vấn đề xã hội của QH tổ chức phiên giải trình về phân bố nguồn lực và cơ chế điều hành thực hiện chính sách giảm nghèo. 
Đồng ý với nhiều số liệu báo cáo của Bộ trưởng LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền về kết quả đạt được trong hơn 10 năm cả nước tập trung, nỗ lực giảm nghèo nhưng vấn đề nổi lên khiến nhiều đại biểu băn khoăn là về hiệu quả của hoạt động này.
180 triệu đồng rót cho mỗi hộ dân, sao vẫn không thoát nghèo?
Bộ trưởng LĐ-TB&XH khẳng định các chính sách áp dụng vừa qua hết sức thiết thực với người nghèo.

Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Đặng Huy Đông khái quát, nhà nước quyết tâm cao, nỗ lực lớn nhưng chưa có văn bản pháp lý ở mức cao nhất để điều chỉnh nhiệm vụ quản lý, sử dụng nguồn lực cho giảm nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia hướng tới việc này rất nhiều nhưng ít sự phối hợp, lồng ghép mà mới đơn giản là phép cộng dồn cơ học số vốn mỗi chương trình rót xuống cho người dân.

Quan điểm hỗ trợ thoát nghèo là phải đưa đến cho mỗi người dân một chiếc cần câu chứ không phải con cá nhưng việc thực hiện không đạt, các hoạt động vẫn chỉ dừng ở mức “cho cá”.

Trong khi đó, các nguồn lực huy động cho công tác như vốn vay ODA vì không đạt được hiệu quả triệt để nên nhiều trường hợp trở thành nỗ lực “giải ngân cho nhà tài trợ”. “Phần lớn tiền nhận được (70-80%) chảy vào hoạt động tư vấn, quản lý dự án. Đồng tiền đọng lại cho người dân rất ít” – ông Đông thẳng thắn.

Ông Đông lấy ví dụ dự án hỗ trợ trồng rừng, xóa đói giảm nghèo có sự tham gia của cộng đồng ở Bắc Kạn, sau 10 năm Bộ Kế hoạch - Đầu tư quay lại đánh giá kết quả thì được địa phương báo cáo chương trình đã kết thúc từ lâu, tỉnh đang phải tìm kiếm mô hình khác.

Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề Xã hội Nguyễn Mạnh Hùng không giấu nghi ngại về hiệu quả sử dụng, quản lý nguồn vốn xóa đói giảm nghèo khi báo cáo thể hiện tổng mức tiền của mỗi dự án, chương trình không đạt nhưng các mục tiêu vẫn được đánh giá là thực hiện thắng lợi.

Ông Hùng làm phép tính, tổng kinh phí huy động cho công tác này vẫn tăng mạnh qua từng năm, giai đoạn 2011-2013 đã đạt 90.000-91.000 tỷ đồng/năm. Kết quả mang lại, mỗi năm cả nước giảm được 500.000 hộ nghèo, tức bình quân mức đầu tư lên tới 180 triệu đồng/hộ. Băn khoăn với con số này, ông Hùng cho rằng, nếu đúng, phải có được nhiều hộ thoát nghèo, thoát nghèo bền vững hơn. Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội đặt câu hỏi, bao nhiêu phần trăm nguồn lực được đầu tư trực tiếp cho người dân, bao nhiêu rải ra các kênh gián tiếp?

Ông Hùng lập luận, tín dụng là một kênh ưu đãi quan trọng trong giảm nghèo nhưng tỷ lệ hộ nghèo được vay so với tổng số hộ nghèo vẫn còn một khoảng cách lớn. Theo chương trình cho vay ưu đãi, mỗi hộ nghèo được vay tối đa 30 triệu, nhưng bình quân chỉ được 12 – 15 triệu đồng, có hộ thậm chí chỉ được giải quyết vay 5 triệu đồng, không đủ mua con bò để sản xuất, giảm nghèo.

Một “biến thể” khác do cơ chế là bệnh ỷ lại. Nhiều địa phương có tư tưởng trông chờ, ngồi đợi các nguồn tiền hỗ trợ giảm nghèo. Vậy nên “nhiều lãnh đạo hớn hở, vui mừng thông báo địa phương có thêm hộ nghèo. Các hộ mất tiêu chuẩn nghèo thì phản ứng, buồn vì… thoát nghèo” vì cứ được công nhận nghèo là có nhiều ưu đãi, thuận lợi hơn.
180 triệu đồng rót cho mỗi hộ dân, sao vẫn không thoát nghèo?
Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Nguyễn Mạnh Hùng đặt nhiều nghi vấn về hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo.

Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho biết, Bộ KH-ĐT chỉ có báo cáo về đầu tư chi, không có báo cáo về kết quả. Theo ông Đông, Chủ nhiệm các chương trình mục tiêu quốc gia có trách nhiệm báo cáo về hiệu quả, trách nhiệm sử dụng kinh phí đúng mục đích, không để thất thoát, đánh giá về phân bổ kinh phí cụ thể. Có khoảng 70 chương trình mục tiêu quốc gia, ông Đông hứa sẽ yêu cầu tổng hợp.

Bộ trưởng LĐ-TB&XH giải thích, mỗi chương trình, nguồn vốn có mục tiêu riêng do các bộ ngành độc lập phụ trách. Bà Phạm Thị Hải Chuyền nêu ví dụ, chương trình tín dụng ưu đãi có 542.000 tỷ đồng trong tổng số nguồn lực dành cho giảm nghèo, chiếm 37%. Nguồn vốn từ ngân hàng chính sách chiếm trên 40%. Vì vậy cần tổng hợp xem xét mới đánh giá hết được.

Xác nhận hiện tượng “ỷ lại”, bà Chuyền cho biết, hộ được chứng nhận thuộc diện nghèo có phần hỗ trợ trực tiếp rất nhiều, như chăm sóc sử khỏe, học tập, có đất ở, cho vay vốn, gần đây còn có chính sách đào tạo nghề nhưng với chính sách với các hộ cận nghèo, vừa thoát nghèo thì chưa có. Nhận thấy đây là một vấn đề, Bộ LĐ-TB& đã có đề nghị giảm dần chính sách cho không, tăng chính sách cho vay, có thể lãi suất thấp để ngăn bệnh ỷ lại.

Theo đó, các chính sách hỗ trợ trực tiếp hiệu quả không cao sẽ cắt giảm. Về lâu dài, chính sách hướng tới là hỗ trợ đầu tư hạ tầng, giúp cho con cái trong gia đình nghèo đi học, đào tạo nghề… Nhưng đánh giá chung, bà Chuyền khẳng định, các chính sách áp dụng vừa qua vẫn hết sức thiết thực cho hộ nghèo.

Đại biểu Nguyễn Thị Khá - ủy viên thường trực UB Các vấn đề xã hội yêu cầu làm rõ cơ sở, tiêu chí để đề xuất cắt giảm, chỉ giữ lại 2 chính sách đối với vấn đề giảm nghèo.

Thứ trưởng KH-ĐT Đặng Huy Đông nêu quan điểm nhất trí hướng rà soát chặt chẽ các chương trình mục tiêu quốc gia, cái gì thật cần mới giữ lại. Việc loại bỏ, rút ngắn để chỉ còn lại 2 chương trình, ông Đông khẳng định là đúng hướng, Bộ KH-ĐT đồng tình nhưng cũng cân nhắc một số bộ ngành đặc thù như Bộ Y tế có thể vẫn muốn giữ lại các chương trình đang thực hiện nên việc này cũng chưa thể quyết ngay lập tức.
Báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH nêu rõ, trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã giảm nghèo khá nhanh, hàng triệu hộ gia đình đã thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo từ chỗ chiếm 58% dân số năm 1993, đến nay chỉ còn khoảng 7,8%. Tuy nhiên, bà Mai vẫn rất thận trọng khi đánh giá: Còn rất nhiều thách thức như kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao, gần 50% hộ nghèo tập trung ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu; số hộ nghèo ở đô thị cũng tăng nhanh trước những cú sốc kinh tế…
Tổng nguồn vốn huy động cho mục tiêu giảm nghèo từ năm 2005 – 2012 là gần 543.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước đã bố trí gần 206.000 tỷ đồng, chiếm 37,93%. Còn lại là từ 6 nguồn khác như vốn ODA, trái phiếu Chính phủ; vốn vay hợp tác quốc tế; vốn tín dụng ưu đãi; huy động hỗ trợ từ doanh nghiệp; Quỹ Vì người nghèo; vốn lồng ghép các chương trình, dự án giảm nghèo.
P.Thảo
(Dân trí)

Đại úy CSGT bị đánh, sỉ nhục trước khi bắn chết cấp trên

Khi đang ngồi nhậu trong trụ sở, thiếu tá Trần Ngọc Sơn bất ngờ bị đại úy Ngô Văn Vinh rút khẩu súng ngắn ngắm bắn nhiều phát vào người, gục ngã xuống đất. Chưa dừng lại, thượng úy Đoàn Thanh Phú chạy lại hiện trường cũng bị đại úy Vinh bắn gục tại chỗ. Vụ án mạng xảy ra chiều tối 22/9 tại trạm Tuần tra kiểm soát giao thông Suối Tre (Đồng Nai) khiến dư luận chấn động.
Vụ nổ súng kinh hoàng
 
Chiều 22/9, tại trụ sở trạm Tuần tra kiểm soát giao thông Suối Tre (thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) bất ngờ xảy ra một vụ nổ súng kinh hoàng khiến một CSGT tử vong tại chỗ, hai CSGT khác bị thương nặng. Nhận được tin báo về vụ việc, PV Người Đưa Tin nhanh chóng có mặt tại hiện trường để ghi nhận thông tin.
Nhiều nhân chứng có mặt tại hiện trường vụ nổ súng cho biết, vào chiều 22/9, thiếu tá Trần Ngọc Sơn (Phó trạm trưởng trạm Tuần tra kiểm soát giao thông Suối Tre) đang ngồi trong trụ sở thì đại úy Ngô Văn Vinh bước vào với vẻ mặt hầm hầm, rồi rút khẩu súng ngắn chĩa thẳng vào người thiếu tá Sơn bóp cò nhiều phát đạn. Chỉ vài giây sau, thiếu tá Sơn gục xuống đất, máu từ người chảy ra khắp nơi. Sau vài phút trấn tĩnh khi bóp cò hạ thiếu tá Sơn, đại uý Vinh phát hiện thượng úy Đoàn Thanh Phú lao tới can ngăn mình và hỗ trợ cấp cứu thiếu tá Sơn. 
Trong cơn say máu, đại úy Vinh tiếp tục chĩa súng vào người thượng úy Phú rồi bóp cò nhiều phát. Nhận một viên đạn vào người, thượng úy Phú loạng choạng rồi gục xuống đất. Ngay sau đó, nhiều đồng đội của của Vinh lao vào can thiệp. Thấy Vinh tiếp tục dùng súng bắn người nên các đồng đội của hung thủ liền lao vào tước khẩu súng ngắn trên tay. Sau một hồi giằng co, đại úy Vinh bị khống chế ngay tại trận. Trong quá trình giằng cò, đại úy Vinh bị thương. 
Ngay sau đó, một số chiến sĩ liền chạy đến kiểm tra người của thiếu tá Sơn và thượng úy Phú thì thấy cả hai đang trong tình trạng nguy kịch, còn đại úy Vinh cũng bị thương nặng. Trước vụ việc quá kinh hoàng, các chiến sĩ của Trạm liền nhanh chóng đưa cả ba vào bệnh viện đa khoa Long Khánh cấp cứu khẩn cấp.  
Một số nạn nhân trong vụ nổ súng đang được cấp cứu tại bệnh viên.

Đến tối cùng ngày, các nạn nhân nhập viện cấp cứu tại bệnh viện đa khoa Long Khánh. Tại đây, đội ngũ y bác sĩ của bệnh viện tích cực cấp cứu các nạn nhân. Riêng thiếu tá Sơn vì có nhiều vết đạn bắn thấu ngực và trúng vào đầu ở vùng thái dương phải nên đã tử vong trên đường đi cấp cứu. Về thượng úy Phú bị hai vết đạn bắn vào vùng mông và bẹn, các bác sĩ thực hiện ngay ca mổ cấp cứu khẩn cấp để lấy viên đạn ra khỏi người. Do tình trạng sức khỏe của thượng úy Phú nguy kịch nên các bác sĩ chuyển lên bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai cấp cứu. Đại úy Vinh được chẩn đoán bị đa chấn thương, phần đầu bị phù não do bể sọ. Sau ca mổ cấp cứu, đại úy Vinh vẫn trong tình trạng nguy kịch… 

Mâu thuẫn bột phát?
 
Sau khi vụ nổ súng kinh hoàng xảy ra, đến khoảng 21h cùng ngày, đại tá Huỳnh Tiến Mạnh (Phó giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai) đã có mặt tại bệnh viện đa khoa Long Khánh để nắm tình hình và chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ tiến hành bảo vệ hiện trường, điều tra làm rõ vụ nổ súng. Sáng 23/9, trao đổi với PV, đại tá Mạnh cho biết, trong sáng nay, các lực lượng nghiệp vụ của cơ quan CSĐT công an tỉnh Đồng Nai có mặt tại hiện trường tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để điều tra, làm rõ vụ án. 

Gia đình thượng úy Phú đang chăm sóc người nhà tại BV

Theo tìm hiểu của PV, trưa 22/9, người dân thấy nhóm CSGT trên có đi ăn uống và hát karaoke ở thị xã Long Khánh. Đến khoảng 17h, cả nhóm trở về Trạm thì xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Sau đó, đại úy Vinh nổ súng bắn lãnh đạo và đồng đội của mình. Cũng theo tìm hiểu của PV, vào thời điểm đại úy Vinh bị đồng đội khống chế, có xảy ra xô xát và dẫn đến tình trạng đa chấn thương, phù não do bể sọ, chứ không phải đại úy Vinh tự làm mình bị thương. 
Một nguồn tin từ Trạm tuần tra kiểm soát giao thông Suối Tre tiết lộ, trước khi vụ án mạng kinh hoàng xảy ra, đại úy Vinh đi nhậu cùng một đồng nghiệp tại quán karaoke ở thị xã Long Khánh. Qua nhân viên lễ tân của quán, Vinh biết thiếu tá Sơn đang ngồi nhậu ở phòng bên cạnh nên cầm ly bia qua mời. Tại đây, đại úy Vinh cụng ly với thiếu tá Sơn và một người tên T. (công tác tại một garage ô tô ở khu vực khu Công nghiệp Amata, TP.Biên Hòa). Trong quá trình cụng ly, giữa T. và đại úy Vinh xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Khi mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, T. cầm ly bia đập vào đầu đại úy Vinh. 
Sau khi xô xát với T., đại úy Vinh bỏ về Trạm Suối Tre nằm ngủ. Đến khoảng 17h10, khi đi nhậu về đến Trạm, thiếu tá Sơn tới phòng đại úy Vinh lôi ra ngoài, rồi chửi bới thậm tệ. Sau đó, thiếu tá Sơn nắm đầu đại úy Vinh đập đầu vào cạnh gường trước sự chứng kiến của nhiều cán bộ, chiến sĩ của trạm. Bức xúc trước hành vi của lãnh đạo Trạm, đại úy Vinh chạy vào phòng rút súng ngắn bắn vào ngực và đầu thiếu tá Sơn. Thấy lãnh đạo bị bắn, thượng úy Phú vào can ngăn cũng bị đại úy Vinh bắn nhiều nhát vào người. 
Sáng 23/9, nhiều người dân có mặt tại hiện trường bàng hoàng cho biết, đêm qua, một số người dân ngụ gần Trạm tuần tra kiểm soát giao thông Suối Tre nghe hàng loạt tiếng súng đinh tai phát ra từ trụ sở Trạm. Do đây là trạm CSGT, người dân không có việc, không được tự ý vào nên chỉ đứng ở bên ngoài nghe ngóng. Khoảng 15 phút sau, người dân thấy các chiến sĩ trong Trạm nhanh chóng lấy xe chở ba người bị thương nặng đi bệnh viện cấp cứu. Vào thời điểm này, người dân nghe thấy các chiến sĩ của Trạm nói chuyện với nhau về nguyên nhân là do lính và sếp mâu thuẫn, dẫn đến vụ nổ súng này?  
  NHÓM PV
(Người Đưa tin)

William J. Duiker - Làm gì? Đường Kách Mệnh của Hồ Chí Minh

Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh là một người viết nhiều tác phẩm. Đầu năm 1980, nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội đã bắt đầu xuất bản 10 tập trong bộ sách nhan đề “Hồ Chí Minh Toàn Tập”, tổng cộng hơn 4000 trang. Theo những nguồn tin thông thạo ở Việt Nam ước tính vẫn có thêm vài ngàn trang thuộc các bài viết và diễn văn của ông vẫn chưa được in ấn. Một số mới được phát hiện gần đây, trong khi một số khác thì bị giữ lại bởi lí do nhạy cảm chính trị hoặc không chắc chắn liệu Hồ Chí Minh có phải là tác giả thực sự hay không. 1

Tuy vậy, Hồ Chí Minh hiếm khi viết về những vấn đề mang tính hệ tư tưởng. Không giống như những ngôi sao sáng cách mạng khác như Lê Nin và Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh không được biết đến như là một nhà thông giải về học thuyết Mác. Không hề có cái thứ như là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, và đại đa số những bài viết và diễn văn của ông mang hình thức những báo cáo chính trị đến Đảng hay những cơ quan chính phủ hoặc là bài viết cổ vũ những người đi theo mình. Do đó, Hồ Chí Minh thường bị đánh giá thấp như chỉ là một nhà thực hành cách mạng hơn là một nhân vật gieo giống tầm quan trọng về lý thuyết trong lịch sử tư tưởng cách mạng.


Một trong số ít những bài viết của Hồ Chí Minh cố gắng diễn giải chủ nghĩa Mác hoặc áp dụng nó vào bối cảnh Việt Nam là cuốn sách nhỏ nhan đề Đường Kách Mệnh (Con đường đến cách mạng), được Hồ Chí Minh viết khoảng năm 1926 hoặc đầu năm 1927 trong khi đang phục vụ trong ban tham mưu của phái bộ được gửi tới chính quyền Quốc Dân Đảng tại Quảng Châu Michael Borodin thuộc Phòng Thông Tin Quốc Tế Cộng Sản (Comintern). Cùng thời gian đó, Hồ Chí Minh đồng thời bắt tay xây dựng tổ chức cách mạng Mác-xít đầu tiên xưng danh ở Việt Nam, Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.2

Là một chỉ dấu về sự hiểu biết của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa Mác-Lê và làm thế nào để áp dụng nó trong bối cảnh Việt Nam, Đường Kách Mệnh để lại nhiều điều chưa thoả. Đó là một tác phẩm ngắn gọn một cách trêu ngươi, được viết với phong cách đơn giản, phần giới thiệu của tác phẩm về các vấn đề học thuyết rất khát quát và thường sơ khai. Tuy thế, nó vẫn có phần nào giá trị trong việc cho thấy định hướng tư tưởng của Hồ ở giai đoạn này trong cuộc đời của ông. Quan trọng hơn, có lẽ, đó là tác phẩm đầu tiên mang tính chất hệ tư tưởng trong lịch sử phong trào Cộng Sản Việt Nam, phục vụ cho việc giới thiệu tư tưởng và thực hành chủ nghĩa Mác-Lê cho thế hệ đầu tiên của các nhà cách mạng Việt Nam. Trong ý nghĩa này, đây là một tài liệu có tầm quan trọng sinh tử cho sự hiểu biết của chúng ta về những điều kiện trí tuệ quanh sự ra đời của phong trào Cộng Sản ở Việt Nam.
Bối Cảnh

Hồ Chí Minh, khi ấy sống với bí danh cách mạng là Nguyễn Ái Quốc, đã đến Quảng Châu vào tháng 12 năm 1924, sau hơn một năm ở Matxcơva, nơi ông đã làm việc ở Trụ sở chính Quốc tế Cộng Sản, và dường như đã theo học một thời ngắn ở Đại học Lao Động Cộng Sản Phương Đông (thường được biết đến như là Trường Stalin). Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những thành viên sáng lập của Đảng Cộng Sản Pháp (FCP) trong khi đang sống ở Paris ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và được Dmitri Manuilsky một viên chức Quốc tế Cộng Sản mời tập huấn ở Matxcơva vào mùa hè năm 1923.3

Hồ Chí Minh chắc chắn đã được tiếp cận với một liều lượng phong phú về các ý tưởng chủ nghĩa Mác-Lê trong suốt năm ở Matxcơva. Nhưng rõ ràng từ bằng chứng hiện có, trước khi bước vào tuổi 40, Hồ Chí Minh đã nhận thức trước một số ý niệm về bản chất của thế giới quanh ông. Đầu tiên và trên hết, như nhiều trí thức Việt Nam cùng thế hệ, ông là một nhà yêu nước, như biệt danh mà ông đã chọn trong khi đang sống ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Nhà Yêu Nước.

Việc kiếm tìm phương tiện giành lại sự độc lập cho dân tộc Việt Nam đã khởi đầu dẫn ông đến chủ nghĩa Mác. Như chính ông đã thừa nhận, lần đầu tiên khi đọc “Luận Cương Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa” nổi tiếng của Lê Nin ông đã đã bị chủ nghĩa Mác-Lê thu hút, tác phẩm được giới thiệu cho các đại biểu ở Đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 2 vào mùa hè năm 1920. Mặc dù, có lẽ Hồ Chí Minh đã làm quen với tư tưởng chủ nghĩa Mác khi còn đang sống ở Anh trong suốt chiến tranh thế giới thứ nhất, chính những luận cương của Lê Nin, hứa hẹn sự hỗ trợ của Liên Xô cho sự giải phóng của các xã hội bị áp bức khỏi sự thống trị thực dân Châu Âu, đã cung cấp động lực biến cải ông trở thành một thành viên sáng lập của Đảng Cộng Sản Pháp cuối năm đó.

Động thái của Lê Nin đối với tình tự dân tộc chủ nghĩa, tất nhiên, là một biện pháp tinh vi, vì nhà lãnh đạo Bôn-sê-vic đã trở nên rất nhạy cảm trước sức mạnh của tình tự sắc tộc và dân tộc trong những vùng thuộc địa và nửa thuộc địa của Châu Á và Châu Phi và hy vọng đưa họ vào để sử dụng trong cuộc đấu tranh của chính phủ riêng ông chống lại chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Tuy nhiên, bất kể Lê Nin có những quan điểm riêng nào, nhiều cộng sự của ông, cũng như các thành viên của các Đảng Cộng Sản trẻ tuổi ở châu Âu, vẫn chưa chú ý đầy đủ đến đề xuất này. Trong những năm tháng đi theo Đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 2, Hồ Chí Minh thường chỉ trích Đảng Cộng Sản Pháp (FCP) và ngay cả Quốc tế Cộng Sản thiếu sự quan tâm đầy đủ đến sự giải phóng của các thuộc địa thoát khỏi sự bóc lột chủ nghĩa đế quốc.4

Hồ Chí Minh cũng tách lìa khỏi những hiểu biết đã thu nhận được ở Maxcơva trong sự khẳng định của ông về tầm quan trọng của vấn đề đất đai trong tiến trình cách mạng ở các xã hội châu Á. Là con trai của một viên chức Nho giáo người đã từng từ bỏ chức vụ của mình trong cuộc đấu tranh chống lại sự chiếm đóng của Pháp đối với Việt Nam, dành phần lớn tuổi thơ ở một làng quê nghèo ở miền Trung Việt Nam nên ông hiểu rõ một cách trực tiếp những vấn đề của người nông dân ở các xã hội thuộc địa châu Á. Năm 1908, trong khi đang học ở trường Quốc Học Huế, ông đã tham gia vào những cuộc buổi tình của người nông dân trong vùng, những cuộc biểu tình bị đàn áp đẫm máu bởi chế độ thực dân Pháp. Trong một số bài báo được viết ở Pháp vào đầu thập niên 1920, ông thường đề cập bóng gió đến tình trạng bị xuống cấp của quần chúng nông thôn trong những vùng thuộc địa, trong khi chấp nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và hàm ý rằng những người nông dân có thể là những đồng minh trung thành của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị đế quốc. Sau khi đến Matxcơva, ông trở thành một thành viên tích cực của Hội Nông Dân Quốc Tế (Krestintern) và nói lên những tình cảnh của người nông dân ở các xã hội thuộc địa tại một đại hội được tổ chức vào tháng 10 năm 1923. Trong một báo cáo về những vấn đề dân tộc và thuộc địa trình cho đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 5 năm 1924, Hồ chủ trương rằng nông dân ở các nước thuộc địa Pháp bây giờ đã chín muồi cho cách mạng và chỉ đòi hỏi sự tổ chức và lãnh đạo, là những thứ Quốc tế Cộng Sản có thể cung cấp.5

Dĩ nhiên, quan điểm cho rằng lực lượng nông dân trong các vùng thuộc địa có thể tham gia tích cực để lật đổ ách xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc là học thuyết Lê Nin chính thống, nhưng Hồ Chí Minh thất vọng khi nhận thấy rằng nhiều người ở Matxcơva chỉ nói miệng quan niệm của Lê Nin về sự liên minh giai cấp vô sản – nông dân. Hồ thường chỉ trích đồng sự của mình về sự thiếu sót của họ khi không nhận ra tầm quan trọng của vấn đề đất đai, nhưng không thành công lắm. Có lần ông than phiền với một người bạn rằng làm như ông, giống như thể là “một tiếng kêu ở đồng vắng”.6

Khi tới Quảng Châu vào tháng 12 năm 1924, Hồ Chí Minh bắt đầu tuyển mộ những người đi theo mình cho tổ chức mới mà ông đã dự tính trong số các thành viên cấp tiến hơn của cộng đồng Việt Nam sống lưu vong ở miền Nam Trung Quốc. Đó là khoảnh khắc may mắn, vì xã hội Việt Nam giữa thập kỷ 1920 đang ở trong giai đoạn chuyển mình và khởi dậy. Một thế hệ trí thức yêu nước lớn tuổi hơn, do Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh dẫn đầu, giờ đã có tuổi và không còn tiếp cận với những điều kiện hiện hành, trong khi đó đảng lưu vong của chính Phan Bội Châu ở miền Nam Trung Quốc đang trong tình trạng suy sụp. Nhưng những năm theo thế chiến thứ nhất, một thế hệ mới của những trí thức, lớn lên dưới con mắt gia trưởng của chế độ thực dân, đang bắt đầu xuất hiện trên khán đài chính trị.

Trong một nỗ lực nhận thức sự nổi lên của một thế giới mới, thế hệ mới này phải đối mặt với những tình thế lưỡng nan tàn khốc. Say mê các đường lối của phương Tây, nhưng họ lại căm phẫn trước sự tàn bạo, ngạo mạn của chế độ thực dân và được kích thích bởi giấc mơ độc lập cho dân tộc Việt Nam. Bị lôi cuốn vào lời hứa tự do cá nhân và sự tự biểu hiện cố hữu trong nền văn hóa phương Tây hiện đại, nhưng rốt cuộc lại bị thất vọng bởi sự thất bại của những nỗ lực hào hiệp viễn vông của các nhà yêu nước trong quá khứ và ý thức một cách bất an rằng chỉ bằng đoàn kết mới có thể tìm thấy sức mạnh.7

Vì vậy, giai đoạn giữa thập kỷ 1920, là một giai đoạn của sự nổi giận, kỳ vọng, và thử nghiệm. Cái đang thiếu là một tầm nhìn rõ ràng về tương lai. Khi vẫn còn khao khát tự do cá nhân, một số lại tìm kiếm câu trả lời ở những hoạt động nhóm, ở hình thức tập hợp. Một trong những nhóm như vậy là Tâm Tâm Xã (Hiệp hội những người đồng lòng), được thành lập vào năm 1924 bởi một số trí thức cấp tiến sống ở miền Nam Trung Quốc những người đã tỉnh ngộ ra sự bất lực của đảng cũ Phan Bội Châu. Những người lãnh đạo của tổ chức mới này thông minh, nhiều nhiệt huyết nhưng họ thiếu kinh nghiệm về cách mạng và một hệ tư tưởng. Như nhiều người theo chủ nghĩa vô chính phủ khác ở châu Âu vào thế kỷ 19, họ không có một kế hoạch cụ thể nào cho tương lai và phải dựa vào các hoạt động khủng bố để phổ biến cho phong trào và thực hiện mục tiêu giải phóng Việt Nam khỏi sự thống trị thực dân. Hành vi quả quyết nhất của hiệp hội này là việc mưu sát thất bại Toàn Quyền Pháp Martial Merlin ở Quảng Châu năm 1924. Người đặt bom ám sát trong cuộc tấn công, thành viên trẻ tuổi Tâm Tâm Xã Phạm Hồng Thái, bị chết trong toan tính đó nhưng sự kiện này đã thu hút sự chú ý rộng rãi khắp vùng.

Thậm chí trước khi rời quê hương để làm nhân viên cho một công ty tàu hơi nước của Pháp trước chiến tranh thế giới thứ nhất, có thể thấy rằng người thanh niên Hồ Chí Minh cảm thấy bồn chồn trước những nỗ lực không hiệu quả của các tiền bối trong việc giải phóng Việt Nam khỏi sự thống trị thực dân. Mặc dù thân phụ là bạn thân thiết của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh đã từ chối lời đề nghị tham gia vào phong trào lưu vong của Phan Bội Châu, thay vào đó chọn con đường đi sang châu Âu để tìm hiểu những bí mật thành công của phương Tây tại tận nguồn. Trong những bài báo mà ông đã viết khi còn sống ở Pháp, Hồ Chí Minh than phiền về về trình độ nhận thức chính trị thấp của các đồng hương của mình. Ít có trí thức Việt Nam, ông than phiền, nhận thức sắc sảo về những trào lưu quan trọng đang diễn ra rộng khắp trên thế giới, những nỗ lực giành lấy độc lập quốc gia của họ mang đặc điểm của chủ nghĩa anh hùng cá nhân và chủ nghĩa khủng bố cách mạng. Còn về quần chúng, họ “căn bản là có tinh thần chống đối nhưng hoàn toàn dốt nát. Họ muốn giải phóng cho chính họ nhưng không biết cách làm thế nào để thực hiện điều đó.”8

Còn khiến sự việc trở nên khó khăn hơn, kiến thức về chủ nghĩa Mác và cách mạng Bôn-sê-vic ở Nga hầu như không tồn tại ở Việt Nam. Ngoại trừ một số ít người đã từng làm việc hay học tập ở Pháp, những trí thức Việt Nam hầu như không biết gì về học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác, vì thông tin những học thuyết chính trị cấp tiến ở phương Tây bị cấm đoán nghiêm ngặt bởi chế độ thực dân, nhiều người xem những hệ tư tưởng như thế với con mắt e dè. Trong khi khát khao độc lập dân tộc đối với các cá nhân này lại rất mãnh liệt, nhận thức về quan niệm đấu tranh giai cấp hay sự khả năng thích ứng của nó đối với những điều kiện ở Đông Nam Á thì cực kì bị giới hạn.

Dường như những nhìn nhận của Hồ được xác nhận sau chuyến đi của ông đến Quảng Châu. Trong một bức thư gửi đến Trụ sở chính Quốc tế Cộng Sản ở Matxcơva đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông nhận xét rằng mục tiêu đầu tiên của những nhóm theo chủ nghĩa dân tộc địa phương mà ông đã tiếp xúc là để phục thù cho những người đã bị tàn sát bởi quân Pháp trong cuộc đấu tranh vì gia đình và quê hương của họ. “Họ không hiểu về chính trị,” ông thêm vào, “và thậm chí họ còn hiểu ít hơn về cách thức tổ chức quần chúng. Trong vấn đề lý thuyết, tôi đã giải thích cho họ hiểu về sự cần thiết của tổ chức, sự vô ích khi tiến hành những hoạt động mà không có cơ sở. Họ đồng ý”9.¬

Trong những điều kiện như thế, Hồ Chí Minh bắt tay vào nhiệm vụ thành lập một tổ chức cách mạng theo chủ nghĩa Mác để giải phóng nhân dân của ông thoát khỏi hai xiềng xích chủ nghĩa thực dân và trật tự xã hội truyền thống. Những thành viên đầy hứa hẹn của Tâm Tâm Xã chuyển hướng sang những ý tưởng của ông và là những thành viên cốt lõi của Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên Đồng Chí Hội của Hồ. Một số thành viên thông minh nhất, những người biểu lộ hứa hẹn am hiểu được những sự phức tạp của học thuyết và thực hành chủ nghĩa Mác – Lê, thì được kết nạp vào một nhóm cộng sản bí mật (cộng sản liên đoàn) để tạo nên hạt nhân cho Đảng Cộng Sản tương lai. Phần còn lại, Hồ cảm thấy, đỏi hỏi phải được huấn luyện chuyên sâu về hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê và các phương pháp tổ chức. Để cung cấp sự huấn luyện như thế cho những người tuyển mộ trẻ tuổi của mình, ông thành lập một khoá gọi là “Khoá huấn luyện chính trị đặc biệt cho cách mạng Việt Nam,” trong một toà nhà ba tầng thuê ở khu buôn bán trung tâm Quảng Châu.

Những bài giảng ở trường do chính Hồ Chi Minh phụ trách, những thành viên cấp cao của Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên Đồng Chí Hội, hoặc thỉnh thoảng có sự tham gia của các thành viên thuộc chi nhánh địa phương của Đảng Cộng Sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, Chu Ân Lai lúc đó đang phục vụ như là chính trị viên của Tưởng Giới Thạch ở Học viên quân sự Hoàng Phố do Quốc Dân Đảng Trung Quốc điều hành. Chương trình giảng dạy bao gồm những khoá học về chủ nghĩa tư bản thế giới và lịch sử tiến hoá loài người, chủ nghĩa Mác-Lê và cách mạng Bôn-sê-vic, tổ chức của Quốc tế Cộng Sản, các phương pháp và tổ chức cách mạng. Chương trình huấn luyện ở trường thường kéo dài khoảng 3 tháng. Sau khi hoàn tất chương trình, học viên tốt nghiệp sẽ tuyên thệ hiến mình bên cạnh nấm mồ người anh hùng liệt sĩ Tâm Tâm Xã Phạm Hồng Thái, và sau đó được hướng dẫn trở về Việt Nam để tổ chức các tiểu tổ và tìm kiếm những người ủng hộ mới cho phong trào. Một số thành viên hứa hẹn nhất sẽ được gửi đến trường Stalin ở Matxcơva để đào tạo chuyên sâu hơn về hệ tư tưởng.
Văn Bản

Theo các hồi ký của những Đảng viên Cộng Sản kì cựu đã từng theo học trường này, Đường Kách Mệnh là một tập kết hợp những bài giảng mà Hồ Chí Minh thuyết trình cho những học viên trong suốt chương trình huấn luyện. Nó được in bằng máy in Linotype bởi Cục Tuyên Truyền của Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức (một tổ chức của những người lưu vong từ vài nước Châu Á được thành lập bởi chính Hồ Chí Minh sau khi đến Quảng Châu) và có lẽ được phân phát sử dụng như là sách giáo khoa ở trường. Vài bản được bí mật đưa về Việt Nam bởi những thành viên của Đồng Chí Hội.10

Đường Kách Mệnh mở đầu bằng một danh sách những nguyên tắc đạo đức về tư cách cách mạng, trong tính chất kì lạ của nó, đáng cho chúng ta nhắc vắn tắt ở đây. Một vài trong những nguyên tắc (ví dụ như nhấn mạnh đến bổn phận, sự dấn thân, tự hy sinh, và sự cần thiết giữ bí mật) là những khung tiêu chuẩn tư cách cần có ở các tổ chức theo chủ nghĩa Mác-Lê, và có lẽ được lấy nguyên xi từ tác phẩm nổi tiếng của Serge Nechavev “Sách vấn đáp của người Cách Mạng”. Nhưng những nguyên tắc khác (như cần cẩn trọng, cần kiệm, khiêm tốn, trung thực và tính cách dung hoà) lại mang phong vị của những châm ngôn đạo đức nằm trong sách vở lòng ở trường tiểu học dạy Nho giáo, và mang điềm báo về vai trò cha chú người thường đưa ra lời khuyên phải trái mà “Bác Hồ” sẽ đóng đối với các cộng sự trẻ tuổi của mình trong suốt quảng đời còn lại của ông.11

Theo sau danh sách các nguyên tắc đạo đức là phần giới thiệu ngắn gọn mà trong đó tác giả mô tả mục đích của mình khi viết cuốn sách này. Mục đích, ông nói, có thể tóm tắt bởi hai từ: “Kách mệnh! Kách mệnh! Kách mệnh!” (Cách mạng! Cách mạng! Cách mạng!) Phần chính của văn bản được chia thành những tiết mục riêng biệt bàn về quan niệm cách mạng, so sánh các cuộc cách mạng hiện đại nổi tiếng (ví dụ như Mỹ, Pháp và Nga), mô tả về ba Quốc tế Cộng Sản, sự tổ chức và những mục tiêu của các nhóm mặt trận cách mạng khác nhau cho công nhân, nông dân, phụ nữ và vân vân. Trong toàn thể, cuốn sách nhỏ được coi là sách vỡ lòng dẫn nhập về lý thuyết và thực hành cách mạng.

Có một số điểm thú vị trong cách phân tích của Hồ Chí Minh về cách mạng trong Đường Kách Mệnh. Được viết dành cho những người nghe không có kinh nghiệm, không có gì đáng ngạc nhiên rằng ông bắt đầu bằng một định nghĩa vắn tắt và giản dị về cách mạng. Cách mạng, ông nói, là để phá cái cũ xây cái mới, phá cái xấu xây cái tốt. Lạ lùng, ông không cố gắng giải thích ý nghĩa nguyên từ tiếng Việt “cách mạng” (Kách mệnh, hoặc theo cách sử dụng bây giờ, cách mạng), dù nó là một từ mới vừa mới được du nhập từ Trung Văn 12.

Sau đó, tác giả đưa ra lời bàn luận ngắn gọn về các kiểu cách mạng. Ông chỉ ra có ba loại tư tưởng cách mạng: tư bản chủ nghĩa (đại diện ở đây là những trường hợp của nước Pháp, Nhật Bản và Mỹ), dân tộc chủ nghĩa (ở đây ông dẫn chứng những trường hợp của Ý thập niên 1850 và Trung Quốc năm 1911), và cách mạng giai cấp (đại diện là cách mạng Bôn-sê-vic ở Nga). Những cuộc cách mạng ở một nước đặc thù, ông tiếp tục, diễn ra theo hai giai đoạn. Quan niệm về cách mạng hai giai đoạn, dĩ nhiên, xuất phát là của Lê Nin. Nhà lãnh đạo Bôn-sê-vic, phản ánh kinh nghiệm của cách mạng Nga 1947, tạo nên một chiến lược cho các nước tiền công nghiệp ở châu Phi và Châu Á bao gồm giai đoạn đầu “dân chủ dân tộc” và cuối cùng dẫn đến giai đoạn “xã hội chủ nghĩa vô sản”. Trong giai đoạn đầu, giai cấp vô sản, được dẫn dắt bởi tổ chức tiên phong của nó là Đảng Cộng Sản địa phương, sẽ liên hiệp với các giai cấp tiến bộ khác trong cuộc đấu tranh chung chống lại chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phong kiến. Trong giai đoạn thứ hai, giai cấp vô sản, kết hợp những phần tử cách mạng ở những giai cấp khác, loại bỏ những lực lượng không phải cách mạng trong liên minh của mình và giành trọn quyền lực.

Quan niệm hai giai đoạn của riêng Hồ Chí Minh, được mô tả trong Đường Kách Mệnh, rõ ràng vay mượn từ Lê Nin, nhưng có một vài điểm khác biệt. Hồ chia cách mạng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu “dân tộc kách mệnh”, giai đoạn chấm dứt sự đô hộ nước ngoài và giai đoạn hai là thế giới Kách mệnh, giai đoạn mà nông dân và công nhân trên thế giới sẽ đoàn kết như một gia đình để huỷ diệt chủ nghĩa tư bản và mang sự thống nhất trên toàn cầu (thiên hạ đại đồng, một cách vận dụng thú vị quan niệm truyền thống của người Trung Quốc) hoặc hạnh phúc cho tất cả.13

Một đặc điểm thú vị của khung này là tầm quan trọng mà Hồ gán cho vấn đề độc lập dân tộc. Các Mác đã phân tích giai đoạn tư sản của cách mạng bằng tranh chấp giai cấp và sự mong muốn của giai cấp tư sản về quyền lực chính trị và kinh tế, vì vậy phủ định tầm quan trọng tiềm ẩn của vấn đề chủ nghĩa dân tộc. Lê Nin cũng nhận ra tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc, nhưng chỉ với ý niệm mang tính chiến lược trong việc tìm kiếm những đồng minh cho các giai cấp bị áp bức trong cuộc đấu tranh của họ chống lại sự thống trị chủ nghĩa phong kiến và đế quốc. Mặt khác, trong Đường Kách Mệnh, có thể thấy Hồ Chí Minh quy một giá trị chủ quan tích cực cho vấn đề độc lập dân tộc trong tiến trình cách mạng, nhìn nhận nó như là sản phẩm của sự hợp tác chính đáng của nhiều giai cấp để chấm dứt sự đô hộ nước ngoài. Sử dụng các ví dụ của cách mạnh Ý năm 1859, và cách mạng Trung Quốc 1911, ông tiên đoán những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tương tự trong những xã hội thuộc địa như Ấn Độ, Cao Ly, Philippines, và Việt Nam.

Rõ ràng là, Hồ Chí Minh đã diễn giải một cách tự do quan niệm của Lê Nin về cách mạng dân chủ dân tộc (cách mạng, theo Lê Nin, chỉ là một bước cần thiết để chuyển tiếp sang giai đoạn thứ hai hay giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa,) để thích hợp với những điều kiện ở Việt Nam, một nơi, cho nhiều người nghe của ông (và có lẽ cũng cho chính cả ông), vấn đề độc lập dân tộc là một vấn đề quan trọng vì chính nó. Hồ rất cẩn trọng tuyên bố rằng giai đoạn dân tộc của cách mạng sẽ được đi theo bởi giai đoạn thứ hai dựa vào sự đấu tranh giai cấp, nhưng ông không nói cụ thể khi nào hay trong những điều kiện nào một cuộc cách mạng như thế sẽ diễn ra. Thực sự, ông không phân biệt rõ giữa tiến trình cách mạng ở các nước nước công nghiệp và tiền công nghiệp, và vì vậy có thể thấy rằng thà sử dụng quan niệm chủ nghĩa Mác kinh điển về hai cuộc cách mạng khác biệt và tách rời là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội hơn là sử dụng phiên bản của Lê Nin vốn đã bị xén bớt đi, theo đó giai đoạn đầu sẽ “phát triển” khá nhanh chóng thành giai đoạn hai.

Hồ Chí Minh cũng mơ hồ về hình thức “Cách mạng dân tộc” sẽ diễn ra và về giai cấp nào sẽ lãnh đạo nó, mà chỉ ghi nhận rằng cách mạng dân tộc bao gồm một liên minh của các giai cấp và cho phép người dân trong các xã hội thuộc địa thực hiện tự do và bình đẳng. Tuy nhiên, tác giả cũng tuyên bố rõ ràng rằng sau cách mạng dân tộc sẽ là cách mạng xã hội chủ nghĩa trong đó giai cấp vô sản sẽ lãnh đạo. Mô hình nước Nga về cách mạng giai cấp, ông chỉ ra, có vị thế cao hơn những cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa diễn ra ở Pháp và Mỹ. Trong hai quốc gia này, cách mạng vẫn chưa triệt để, vì nó vẫn để giai cấp tư bản nắm quyền lực và những người công nhân, nông dân nghèo vẫn rên xiết dưới ách thống trị của những giai cấp bóc lột. Chỉ ở nước Nga những người Bôn-sê-vic mới thành công trong việc mang lại quyền lực vào tay những người đại diện nhân dân thông qua cách mạng giai cấp.14

Một đặc điểm thứ ba của Đường Kách Mệnh là cung cách tác giả xử lý câu hỏi về sự liên minh cách mạng. Một trong những yếu tố then chốt trong chiến lược cách mạng của chủ nghĩa Lê Nin ở các nước tiền công nghiệp là quan niệm liên minh bốn giai cấp.

Theo Lê Nin, trong những xã hội như thế, thông thường giai cấp vô sản bản xứ quá yếu và thiếu kinh nghiệm để tự mình tiến hành cuộc nổi dậy cách mạng đang gia tăng mạng mẽ chống lại bọn đế quốc và bọn phản động phong kiến. Để thành công, cần liên kết với các giai cấp cấp tiến khác, như là nông dân và các nhà tư sản yêu nước (Lê Nin gọi là tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân tộc). Thậm chí, Lê Nin còn tiên đoán rằng các đảng dân tộc tư sản sẽ lãnh đạo liên minh bốn-giai-cấp, chừng nào đảng Cộng sản địa phương tìm cách nắm giữ tự do trong hành động của riêng mình. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất xong giai đoạn thứ nhất “dân chủ dân tộc” của cách mạng, những người Cộng sản phải tuyên bố độc lập khỏi các đồng minh như thế, với sự giúp đỡ của các phần tử cách mạng đích thực, cố gắng hoàn tất giai đoạn cách mạng thứ hai hay còn gọi là “xã hội chủ nghĩa vô sản”. 15

Trong công thức của Lê Nin, trái tim của sự liên minh bốn giai đoạnlà sự liên kết mật thiết giữa công nhân và nông dân. Lê Nin thấy rằng nông dân nghèo là những đồng minh trung thành của giai cấp công nhân trong những xã hội chủ chốt về đất đai như là nước Nga thời đế chế và các xã hội thuộc địa ở châu Á. Nhưng ông lại theo tiền lệ khuôn mẫu khi khăng khăng sự lãnh đạo của giai cấp vô sản (được định nghĩa là “lực lượng lãnh đạo”) trong khối liên minh, với những người nông dân thì được xem là “lực lượng cơ bản” (hoặc đa số, hàm ý đến số lượng) trong phong trào.

Trong Đường Kách Mệnh, Hồ Chí Minh sử dụng một cách tự do quan niệm của Lê Nin về một mặt trận thống nhất gồm các giai cấp tiến bộ để tạo nên giai đoạn đầu của cách mạng, ông chỉ ra rằng những học sinh, những nhà buôn nhỏ và thậm chí là những điền chủ nhỏ có thể được sử dụng như những đồng minh trong cuộc đấu tranh chống là chế độ thực dân. Những giai cấp như thế đã bị bóc lột bởi những nhà tư bản, ông chỉ ra, nhưng không nhiều như các nông dân và công nhân. Họ không được tin cậy để thực hiện giai đoạn hai của cách mạng, và vì vậy chỉ được xem như là bầu bạn của giai cấp vô sản và tầng lớp nông dân.

Đó là chủ nghĩa Lê Nin chính thống. Và trong việc xử lý của ông về mối quan hệ giữa công nhân và nông dân, Hồ Chí Minh lại theo sự lãnh đạo của Lê Nin. Quan niệm về sự liên minh vô sản - nông dân là một chủ đề liên tục có mặt trong Đường Kách Mệnh, đề cập một cách rõ ràng đến sự cần thiết lãnh đạo của giai cấp vô sản trong khối liên minh, đặc biệt trong suốt giai đoạn thứ hai của “cách mạng giai cấp”. Nhưng điểm chính trong sự phân tích của Hồ cho rằng nông dân là yếu tố quyết định trong sự hợp tác cách mạng. Ông đưa ra chứng minh sự thiếu liên minh mật thiết giữa thành thị và nông thôn dẫn đến cách mạng thất bại trong suốt Công Xã Paris 1870 và trong suốt cách mạng Nga 1905. Chỉ khi hai giai cấp được thống nhất về chiến lượt và chiến thuật, như đã từng diễn ra ở cách mạng Nga năm 1917, cách mạng mới có thể thành công. Như trong trường hợp của cách mạng dân chủ dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn còn ở trong đường lối chỉ đạo chung của lối tiếp cận chủ nghĩa Lê Nin trong khi nhấn mạnh những yếu tố mà, theo quan điểm của ông, đặc biệt cần thiết cho sự thành công của cách mạng Việt Nam.16

Trong mục cuối cùng về phần tổ chức, Hồ Chí Minh hết sức cố gắng nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc vận động nông dân ở một xứ sở như là Việt Nam, nơi 90% tổng dân số sống dựa vào ruộng đất. Trong Đường Kách Mệnh, cũng như trong Bản án chế độ thực dân Pháp, tác phẩm ông đã viết trước khi từ Paris đến Matxcơva, Hồ Chí Minh mô tả hình ảnh tầng lớp nông dân nghèo nàn gian khổ, không có gì để sống ngoài sức lao động. Đây không phải là một cách nhìn chi tiết, và không có sự tham chiếu đến những khác biệt giữa phú nông, trung nông và bần cố nông theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Như hình ảnh người vô sản trong tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản của Mác, tầng lớp nông dân của Hồ Chí Minh không có gì để mất ngoài xiềng xích của họ. Tất cả những gì họ đòi hỏi là, như ông đã chỉ ra trong các bài báo được viết ở Pháp là sự lãnh đạo và tổ chức.17

Một điểm cuối cùng thú vị trong Đường Kách Mệnh là sự nhấn mạnh mà tác giả đặt vào hệ tư tưởng và sự tổ chức. Cách mạng, ông nhấn mạnh trong phần giới thiệu, không thể đạt được nếu thiếu một hệ tư tưởng và một kế hoạch. Cách mạng không phải chỉ là chuyện những hành vi riêng lẽ của chủ nghĩa anh hùng, và tự hy sinh, mà là hoạt động được kết hợp của hàng ngàn cá nhân dấn thân, được thống nhất trong một đảng cách mạng. Nếu tất cả những phần tử bị áp bức trong xã hội, bao gồm cả đàn bà và trẻ em cũng như tất cả các giai cấp tiến bộ, được thống nhất cùng một mục đích, họ có thể vượt qua những thế lực hung ác của sự cai trị.

Khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ tư tưởng và sự tổ chức trong việc thực hiện cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đang nhắm đúng mục tiêu vào những gì mà ông đã xem xét một số điểm yếu rõ rệt của các nỗ lực trước đó. Những cuộc bạo động nông dân ở miền Trung Việt Nam năm 1908, cuộc khởi nghĩa thất bại của đảng cách mạng Phan Bội Châu, và những hoạt động khủng bố của Tâm Tâm Xã giữa thập niên 1920, bị thất bại do thiếu tầm nhìn rõ ràng về tương lai và một kế hoạch.

Ngoảnh lại, sự nỗ lực của Hồ Chí Minh trong việc liên kết những lực lượng bị tan tác của xã hội Việt Nam thành một lực lượng thống nhất không thể đối kháng lại được rõ ràng xuất phát từ truyền thống lâu đời của phong trào kháng chiến nổi tiếng chống lại sự đô hộ nước ngoài, từ hình ảnh người anh hùng Trần Hưng Đạo trong thế kỷ 13 cho đến những phong trào chống thực dân của Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu trong thời của chính ông. Dù người ta có đồng ý hay không về những quan điểm hệ tư tưởng của ông, sức mạnh trong lập luận của ông về hoạt động thống nhất biểu hiện hiển nhiên.

Nhưng điều quan trọng phải nhớ rằng Hồ Chí Minh đối mặt rất nhiều trở ngại nghiệm trọng trong việc thuyết phục đồng bào chấp nhận luận lý của những kết luận của mình. Thông điệp của Hồ về sự tự hy sinh và sự lệ thuộc vào những yêu cầu của tập thể không chỉ đối đầu với thuyết định mệnh và “chính sách chờ thời” vốn tiêu biểu cho thái độ của nhiều người Việt Nam từ sự chinh phục của người Pháp (một thái độ mà Phan Bội Châu đã từng phê phán một cách cay đắng trong tác phẩm Việt Nam Vong Quốc Sử) [1905], mà còn đương đầu với sự nhấn mạnh biểu hiện cá nhân và tự nhận thức tiêu biểu cho thế hệ giới trẻ thành thị những người bước lên diễn đàn những năm 1920 sau thế chiến thứ nhất. Liệu giới trẻ Việt Nam có chú ý đến lời kêu gọi của ông hay không?

Để tóm tắt từ quan điểm nội dung hệ tư tưởng, Đường Kách Mệnh chẳng cung cấp gì cho những người nghiên cứu nghiêm túc về tình hình Việt Nam hiện đại hay lịch sử hoạt động Cộng Sản. Sự diễn giải của tác giả về học thuyết và thực hành chủ nghĩa Mác-Lê còm sơ khai và trong một vài trường hợp hết sức gây hoang mang. Sự diễn giải đơn giản và những mơ hồ về hệ tư tưởng trong cách xử lý của Hồ về quan niệm hai giai đoạn và sự liên minh cách mạng khiến một số người đặt vấn đề về sự am hiểu của Hồ đối với chủ nghĩa Mác-Lê, hay cách khác, về sự cam kết của ông đối với những lời giáo huấn của nó.

Hồ Chí Minh đã dự kiến chỉ trích như vậy. Trong phần giới thiệu của cuốn sách nhỏ này, ông nhấn mạnh rằng ông đã chủ tâm chọn hình thức viết đơn giản và dễ hiểu. Điều này xuất phát từ thực tế là người nghe ông tương đối không được đào tạo về chủ nghĩa Mác và lịch sử châu Âu, nên sẽ là dễ hiểu nếu ông diễn đạt lời giải thích của mình về cách mạng hiện đại bằng những từ ngữ đơn giản để các độc giả của mình có thể nắm bắt được. Sự nhấn mạnh về độc lập dân tộc và vai trò tích cực của quần chúng nông dân rõ ràng giúp tạo ra quan điểm theo chủ nghĩa Mác chính thống, với sự nhấn mạnh của nó về chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thành thị, càng dễ hiểu và thu hút hơn.

Tuy nhiên, đằng sau những mơ hồ học thuyết và sự đơn giản về cách tiếp cận đặc trưng của văn bản, Đường Kách Mệnh vẫn cung cấp cho độc giả một ý niệm rõ ràng vừa phải về tầm nhìn chỉ đạo hướng đi tương lai cho cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Nếu cắt xén những yếu tố này, những yếu tố có lẽ được thiết kế để làm cho thông điệp của ông trở nên dễ hiểu với người nghe của mình, trọng tâm lập luận của ông về thực chất có lẽ được xem là của chủ nghĩa Lê Nin. Nhưng trong khi hầu hết những người Cộng Sản châu Âu, và đôi khi chính bản thân Lê Nin, ở một mức độ nào đó cũng có khuynh hướng xem các vấn đề về chủ nghĩa dân tộc, sự liên minh công - nông dân với một cách hời hợt, thì Hồ Chí Minh lại xem những ý tưởng này rất nghiêm túc và cố gắng áp dụng chúng vào Việt Nam bằng với một cách thức sáng tạo, phản ảnh tình trạng thực tế của các nước châu Á đương thời và trải nghiệm lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Từ học thuyết đến thực hành

Một kết luận như thế nổi lên không chỉ đến từ các trang sách trong cuốn Đường Kách Mệnh, mà còn đến những hành động của ông trong vai trò là người sáng lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Với niềm tin vững chắc cho rằng quần chúng bị áp bức ở các xã hội Châu Á cần sự lãnh đạo của một nhóm nòng cốt gồm những nhà cách mạng dấn thân để cung cấp cho họ sự tổ chức và phương hướng hoạt động. Ở Quảng Châu Hồ Chí Minh đã tập trung nỗ lực tuyển mộ những lãnh đạo đảng tương lai từ các thanh niên có học thức cấp tiến những người đã đạt được sự trưởng thành ở Đông Dương trong suốt những năm 1920. Đi theo với chủ trương rằng sự quan tâm cho số mệnh dân tộc Việt Nam là mối quan tâm chủ yếu của những phần tử như vậy, chương trình của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đặt trọng tâm ưu tiên về vấn đề dân tộc, mặc dù các mối quan tâm về xã hội kinh tế và quan niệm về một xã hội không tưởng tương lai lại được luận một cách tổng quát trong tài liệu tuyên truyền của Đồng Chí Hội. Sự xác nhận hiệu quả nhất đối với tính hiệu lực trong cách tiếp cận của Hồ là sự thành công nhanh chóng của Liên hiệp trong việc đóng vai trò tích cực ở phong trào chống thực dân bên trong Việt Nam, một vai trò nhanh chóng gây sự chú ý lo lắng của các nhà cầm quyền Pháp.

Hồ Chí Minh có bị ảnh hưởng phương cách đáng kể nào bởi những sự kiện xảy ra ở miền Nam Trung Quốc, hay bởi những ý tưởng được nêu ra đến ông từ những người quen biết của mình ở Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay không? Rốt cục, chắc hẳn ông phải có nhiều cơ hội thảo luận những vấn đề hệ tư tương và thực tiễn với những nhân vật lãnh đạo đảng như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Bái, tất cả những người đã đôi lần tham gia giảng dạy ở học viện của Hồ Chí Minh. Và khi đích thân thăm Viện Đào Tạo Nông Dân của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Quảng Châu, mặc dù có lẽ ông không gặp Mao Trạch Đông ở đó. Đáng tiếc, hơi khó để trả lời câu hỏi này, vì ông đã không thường bình luận khi viết về các sự kiện diễn ra ở Trung Quốc trong thời gian này, và mối quan hệ của ông với những đồng chí Trung Quốc và Sô-Viết của mình ở Quảng Châu vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Có một điều dường như không cần phải bàn cãi là những quan niệm của Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của độc lập dân tộc và vai trò của nông thôn trong cách mạng có trước khi ông đến Trung Quốc. Mặt khác, dường như có cùng khả năng là ông đã gặt hái kinh nghiệm thực tiễn đáng kể từ việc quan sát tiến trình các sự kiện xảy ra ở Trung Quốc, và có lẽ đã áp dụng kinh nghiệm này vào những hoạt động của ông với Đồng Chí Hội khi còn ở Quảng Châu.

Một lãnh vực mà những quan điểm của Hồ có thể bị tác động bởi những điều kiện ở Trung Quốc là về bản chất và vai trò của liên minh bốn-giai-cấp. Sau cái chết của Tôn Dật Tiên vào tháng 3 năm 1925, “khối bên trong” giữa Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng trở nên căng thẳng nghiêm trọng vì những căng thẳng nổi lên giữa những người Cộng Sản và những thành viên thuộc nhóm hữu phái của Quốc Dân Đảng, lên đến cực điểm là việc thanh toán của Tưởng Giới Thạch đối với những người Cộng Sản ở Quảng Châu vào tháng 3 năm 1926. Trong khi vụ việc đang được dàn xếp, các sự nghi ngờ lẫn nhau giữa những phần tử của cánh tả và cảnh hữu trong liên minh vẫn tiếp tục và chắc hẳn điều này cảnh báo Hồ Chí Minh cần tiếp cận mối quan hệ với những đảng theo chủ nghĩa dân tộc tư sản một cách hoài nghi. Việt Nam, đương nhiên, khi đó không có cái tương tự với Quốc Dân Đảng, và có lẽ Hồ cũng thừa nhận ngay từ ban đầu rằng tổ chức của ông sẽ đóng vai trò lãnh đạo trong bất cứ liên minh bốn giai đoạntương lai nào ở Đông Dương, nhưng những bình luận của ông trong Đường Kách Mệnh lại chỉ rằng ông có một nhận thức đầy đủ về tính dễ vỡ của liên kết này.

Cũng có nhiều kinh nghiệm thực tiễn được gặt hái từ việc quan sát tiến trình sơ kì của Chiến dịch Bắc Phạt (Northern Expedition), được khởi xướng chống lại các chế độ sứ quân ở miền Trung Trung Quốc vào mùa thu năm 1926. Sau đó, Hồ có viết về kinh nghiệm này trong một bài báo ngắn nhan đề “Công Tác Quân Sự Của Đảng Trong Nông Dân” (The party’s Military Work among the Peasants) bài báo ông đã viết ở Đức năm 1928. Trong bài báo ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự lãnh đạo Đảng để đưa ra sự hướng dẫn cho chủ nghĩa cấp tiến nông dân mới nảy sinh, nhưng cùng lúc cũng chỉ ra các phong trào cách mạng ở các nước tiền công nghiệp không thể thành công nếu thiếu vai trò tích cực của tầng lớp nông dân. Sự thất bại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong việc hỗ trợ chủ nghĩa cấp tiến nông dân ở tỉnh Hồ Nam trong suốt Chiến dịch Bắc Phạt, ông ghi nhận, đó là “sai lầm lớn nhất của giới lãnh đạo Cộng Sản thời đó.” Trong cuộc tranh luận về tầm quan trọng tương đối của giới nông dân và giới tư sản thành thị đối với cách mạng ở Trung Quốc, ông kiên quyết đứng về phía của Mao Trạch Đông.18
Di Sản

Vào đầu tháng 5 năm 1927, ngay sau khi “Cuộc tàn sát ở Thượng Hải” của Tưởng Giới Thạch đối với những người đồng minh Cộng Sản Trung Quốc trước đây của ông, Hồ Chí Minh chạy khỏi Quảng Châu và đi Matxcơva. Trong sự vắng mặt này, tình hình đối với các cộng sự của ông có sự thay đổi quan trọng. Trong khi Đồng Chí Hội tiếp tục phát triển về quy mô và ảnh hưởng, những căng thẳng nội bộ về chiến lược dẫn đến sự chia rẽ về hệ tư tưởng, nổ ra công khai trong suốt đại hội thứ nhất của tổ chức, được tổ chức ở Hồng Kông vào tháng 5 năm 1929. Từ đó trở đi, Đồng Chí Hội bị phân thành hai đảng tranh chấp, mỗi đảng đều tuyên bố làm đại diện cho các quan điểm của Quốc tế Cộng Sản ở Matxcơva.

Nguồn gốc của sự tách ly này có thể nhận thấy ở bên trong Việt Nam và kể cả ngoài nước. Một số thành viên thuộc khu uỷ Bắc Kỳ, bực bội vì sự thất bại của giới lãnh đạo trong việc đẩy mạnh sự tuyển mộ trong số các dân nghèo thành thị và nông thôn, xách động sự vô sản hoá tổ chức và thành lập Đảng Cộng sản chính thức. Sau đó, rõ ràng quan điểm này được khích lệ bởi một sự chuyển dịch chiến lược ở Matxcơva. Ở đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 6 vào tháng 7/1928, sự tin cậy vào lối tiếp cận của chủ nghĩa Lê Nin rõ ràng bị lung lay bởi sự chối bỏ tàn nhẫn của Tưởng Giới Thạch về mặt trận thống nhất ở Trung Quốc, Quốc tế Cộng Sản liền từ bỏ quan niệm liên minh bốn giai đoạnvà chuyển hướng gay gắt sang phía tả. Chủ nghĩa dân tộc bấy giờ một lần nữa không được ủng hộ, sự đấu tranh giai cấp và quan niệm chậc hẹp về sự liên minh cách mạng vẫn thăng tiến.

Hồ Chí Minh đã không tham gia đại hội Quốc tế Cộng Sản này, dành nửa năm đầu ở Tây Âu, và trên đường khi ông đến Xiêm thì đại hội diễn ra. Sau vài tháng tham gia vào những hoạt động tổ chức bên trong của cộng đồng tha hương Việt Nam ở Xiêm, đầu năm 1930 ông đến Hồng Kông để triệu tập gọi là “Hội nghị thống nhất” nhằm hằn gắn sự tách ly bên trong phong trào cách mạng và đi đến thoả thuận thành lập một Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức. Đảng mới bao gồm các thành viên của hai phe Đồng Chí Hội cũ cũng như các nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác chân thành khác ở Việt Nam. Quyết định này phản ánh ý chí của Matxcơva, vốn đã răn đe những nhà cách mạng Việt Nam về những hành vi của họ và chỉ thị họ thành lập một Đảng Cộng Sản chính thức trong dự liệu về làn sóng cách mạng đang lên khắp Châu Á. Nhưng những tài liệu đề cương được vạch ra dưới sự hướng dẫn của Hồ ở cuộc họp đã phản ánh những ý tưởng đang bị bác bỏ trong hiện tại mà ông đã đề cập trước đó trong Đường Kách Mệnh, gồm cả yêu cầu tạo một liên minh rộng rãi với các thành phần cấp tiến cả nước và thành lập một Việt Nam độc lập. Tuy nhiên, mặt khác, những tài liệu cũng cảnh báo những đảng viên không được đưa ra bất cứ nhượng bộ nào về nguyên tắc đối với phần tử theo chủ nghĩa dân tộc tư sản, và chỉ đạo rằng những khẩu hiệu liên quan đến vấn đề độc lập dân tộc nên được thêm vào những lời kêu gọi khác phản ánh vấn đề đấu tranh giai cấp và cách mạng thế giới.19

Một vài tuần sau khi trì hoãn Hội nghị thống nhất, Trần Phú, một người vừa tốt nghiệp trường Stalin, đến từ Matxcơva cùng những chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản soạn thảo một chương trình cho đảng mới phù hợp với những đường lối được truyền bá ở đại hội Quốc tế Cộng Sản lần thứ 6 năm 1928. Trong một cuộc họp ở Hồng Kông vào tháng mười, uỷ ban trung ương lâm thời của đảng chỉ trích những đường lối chỉ đạo được phác thảo ở cuộc họp vào tháng 2 là sai lầm và chấp thuận một chương trình mới phản ánh cách tiếp cận thu hẹp hơn với quan niệm mặt trận thống nhất và đặt lại tên đảng là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong khi cái cớ nêu ra bên ngoài cho quyết định vào tháng mười là quan điểm của Matxcơva cho rằng các nước nhỏ chỉ có thể tiến hành đấu tranh thành công chống lại chủ nghĩa đế quốc bằng cách kết hợp thành những nhóm lớn hơn, khả năng rằng mong muốn tháo gỡ vấn đề độc lập dân tộc – hiện tại vẫn bị phản đối ở Matxcơva – chỉ là một nhân tố phụ. 20

Những quyết định đạt được ở hội nghị tháng Mười đặt đinh cung cách cho chiến lược của Đảng trong suốt vài năm sau đó. Trong khi bản thân Trần Phú lại bị bắt bởi người Pháp và chết trong tù, lãnh đạo đảng bị chi phối bởi những học viên kì cựu trở về từ trường Stalin, những quan điểm học thuyết của họ rập khuôn theo đường lối chính thức như đã được tuyên dương ở Matxcơva. Trong suốt những năm đầu 1930, những bài trong các tờ báo Đảng thường chỉ trích Hồ Chí Minh bởi sự mê đắm của ông vào hệ tư tưởng dân tộc và sự xác tín của ông rằng phải có một cuộc cách mạng dân tộc trước cách mạng thế giới.21

Hầu hết suốt giai đoạn này, Hồ Chí Minh không liên lạc với giới lãnh đạo Đảng. Sau hội nghị, ông vẫn ở lại Hồng Kông như là một đại diện của Viễn Đông Cục (Far Eastern Bureau) của Quốc tế Cộng Sản. Vào tháng 6 năm 1931, ông bị cảnh sát Anh bắt giữ và ở tù 2 năm. Sau khi được phóng thích vào năm 1933, ông sống vài năm tiếp theo ở Matxcơva, nơi có báo cáo cho rằng ông bị Stalin nghi ngờ vì những quan điểm không chính thống của mình. Nhưng vào cuối thập kỷ 1930, Quốc tế Cộng Sản đã từ bỏ cách tiếp cận bè phái và trở lại chiến lược theo chủ nghĩa Lê Nin về một sự liên minh đa giai cấp giữa các đảng Cộng Sản và phi Cộng Sản chống lại mối đe doạ chung là chủ nghĩa phát xít thế giới [Hitler và Đảng Quốc Xã lên nắm chính quyền ở Đức năm 1933 sau khi thắng cử]. Được biện minh qua tiến trình các sự kiện, Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc năm 1938 và hai năm sau đó nối lại liên lạc với các thành viên lãnh đạo của ICP (Đông Dương Cộng Sản Đảng). Ở Hội nghị toàn đảng lần thứ 8 vào tháng năm 1941, Uỷ ban trung ương Đông Dương Cộng Sản Đảng, hoạt động dưới sự lãnh đạo của ông, tuyên bố thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (thường được biết đến với tên gọi Mặt trận Việt Minh), một mặt trận thống nhất cơ sở mở rộng dựa trên hai mục tiêu đi đôi với nhau là độc lập dân tộc và cải cách kinh tế xã hội. Đó là sự thành lập theo chiến lược của chủ nghĩa Lê Nin mà các nhà cộng sản đấu tranh, và chiến thắng, cuộc Chiếc Tranh Việt Nam.
Đường Kách Mệnh Hôm Nay

Trong suốt thập niên 1930 và cuộc kháng chiến sau đó chống lại Pháp, cuốn sách nhỏ mỏng của Hồ Chí Minh không còn được sử dụng như là một tập hợp các đường lối chỉ đạo cho những nhà cách mạng tập sự ở Việt Nam. Sau Hội Nghị Genava và sự thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà (DRV) ở Hà Nội năm 1954, Đường Kách Mệnh không còn nằm trong bộ sưu tập những tác phẩm tuyển chọn của Hồ Chí Minh, dường như do yêu cầu của chính ông. Những đoạn trích ngắn thỉnh thoảng xuất hiện trong các tác phẩm của những sử gia Việt Nam, nhưng văn bản gốc, được lưu trữ trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng ở Hà Nội, dường như không có sẵn để lật đọc thậm chí đối với những học giả Việt Nam. Ngay trước khi ông qua đời vào năm 1969, những người biên tập bộ toàn tập của ông đã xin phép ông Hồ xuất bản phiên bản đầy đủ, và ông đã chấp thuận. Những đoạn trích dài hơn xuất hiện trong những bộ sưu tập các tài liệu của đảng vào cuối thập niên 1970, và phiên bản đầy đủ được xuất bản trong tập II bộ sách Hồ Chí Minh Toàn Tập năm 1981.

Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, vẫn chưa thấy bóng dáng bản gốc của Đường Kách Mệnh. Trái ngược với mong muốn của những người biên tập nhà xuất bản Sự Thực, phiên bản gốc được biên tập để bỏ đi những sai sót về sự kiện, và các trích dẫn sai sót. Những sai sót như thế, tôi đã được biết theo một nguồn thông tin thông thạo ở Hà Nội, là không thể tránh khỏi, vì Hồ Chí Minh không tiếp cận được đến nguồn tư liệu ở Quảng Châu. Người ta cam đoan với tôi rằng không có sự thay đổi thực chất so với bản gốc. Cho đến khi bản gốc có thể được so sánh với phiên bản được xuất bản, không có cách nào để thực chứng lời phát biểu này.22

Vậy làm thế nào mà chúng ta có thể tổng kết ý nghĩa của Đường Kách Mệnh trong sự ảnh hưởng của nó đến lịch sử hiện đại Việt Nam? Rõ ràng, dù có phóng trí tưởng đến đâu đi nữa cũng không thể xếp nó vào các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa cộng sản thế giới hay lịch sử của tư tưởng cách mạng. Đường Kách Mệnh được viết như là một cuốn sách vỡ lòng để giới thiệu những yếu tố cần thiết của học thuyết Mác-Lê cho những thanh niên yêu nước chưa thật tinh tế, do đó chứa đựng tất cả những khuyết điểm cũng như những ưu điểm của một cuốn sách thuộc thể loại này. Nhưng trong một ý thức lớn hơn, nó đóng vai trò định hình cho sự phơi mở cách mạng Việt Nam và phải được xem như là một trong những tài liệu quan trọng vào thời đại của nó. Cuốn sách không chỉ là một cột mốc hướng dẫn hữu ích trong việc lý giải những ý tưởng của Hồ Chí Minh khi ông bắt đầu tiến vào sự nghiệp cách mạng lâu dài của mình, mà còn giới thiệu lên một tiếng nói mang tính học thuyết quan trọng trong thuyết ngôn chính trị Việt Nam đương thời, một phiên bản Việt Nam của tác phẩm nổi tiếng Lê Nin “Làm gì?” (What is to be done), như một người cầm bút Sô-Viết đã từng nhận xét. 23

Có lẽ quan trọng nhất, như chính bản thân Hồ Chí Minh có thể đã nói thêm, cuốn sách đã phục vụ cho mục đích của nó. Dù sự thành công của Đường Kách Mệnh đến từ thông điệp hay từ người mang thông điệp, có một điều không thể hồ nghi rằng đó là một sự kiện bước ngoặc trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Ngày nay nó đã trở nên thời thượng để đánh giá giai đoạn thập niên 1920 ở Đông Dương không chỉ như một tiền sảnh của cuộc đấu tranh chua cay sắp tới, mà trong những điều kiện riêng của nó, còn là một giai đoạn thăm dò trí tuệ văn hoá khi những nhà trí thức Việt Nam trong một sự đa dạng rộng lớn về những khuynh hướng chính trị và triết học, còn phải đang mò mẫm tìm câu trả lời cho các câu hỏi nêu lên bởi những trải nghiệm thuộc địa. Với nhiều người, thông điệp chứa đựng trong Đường Kách Mệnh đã chấm dứt cuộc tìm kiếm đó. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, những học trò của ông đã tiến đến chiến thắng sau cùng vào mùa xuân năm 1975.
 
 William J. Duiker – Đại học Tiểu bang Pennsylvania
Ánh Hiền chuyển ngữ
Nguyễn Tiến Văn hiệu đính
 
---------------------------------
[*] Tiểu luận này được nghiên cứu một phần nhờ vào sự tài trợ của Chương trình trao đổi học giả Đông Dương của Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội và Viện nghệ thuật và nhân văn học của trường Đại học Tiểu bang Pensylvania. Không cần phải nói, tôi chịu toàn bộ trách nhiệm về nội dung của tiểu luận này.

1 Phỏng vấn Ngô Phương Ba, Viện Sử học, Hà Nội, 12/12/1990

2 Chính tả gốc của tựa đề văn bản này là Đường Kách Mệnh. Văn bản hiện hành được xuất bản ở Việt Nam sử dụng thuật ngữ là “cách mệnh”. Với mục đích tôn trọng tính chính xác, tôi quyết định giữ tựa đề gốc, mặc dù nó không phù hợp với cách sử dụng đương thời. Tường thuật chi tiết về Đồng Chí Hội do một nhà viết sử Việt Nam đương đại, xem Phạm Xanh, Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội (Hà Nội: nxb Thông Tin Lý Luận, 1985) [Chú thích người dịch: Năm 1925, quốc tế cộng sản và chính quyền Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên mở ra sự liên hiệp Quốc Cộng. Vì thế, phái bộ Michael Borodin được quốc tế cộng sản gửi đến làm việc với Quốc Dân Đảng. Chu Ân Lai trong sự liên hiệp này cũng được làm chính trị viên cho trường Đại học quân sự Hoàng Phố ở Quảng Đông. Sự liên hiệp này chỉ kéo dài hai năm, và chấm dứt với cuộc tiến quân bắc phạt của Tưởng Giới Thạch năm 1927, tàn sát Công xã Quảng Châu và tổ chức Cộng sản ở Thượng Hải. Sự kiện này được nhà văn Pháp Andre’ Malraunx hư cấu bằng tác phẩm nổi tiếng thế giới La Condition Hummaine (Thân Phận Con Người) (1930). Khi đó, Michael Borodin là cán bộ Quốc tế Cộng sản hoạt động ở Hoa Kỳ được gửi từ Chicago qua Trung quốc. Hồ Chí Minh làm thư ký cho phái bộ này với bí danh là Lý Thuỵ, nhờ thông thạo tiếng Trung.]

3 Yevgenyi Kobelev, Hồ Chí Minh (Matxcơva, nxb Tiến Bộ, 1983), trang 57

4 Ví dụ, xem “Some Considerations of the Colonial Question” (Một vài cứu xét về vấn đề thuộc địa) một bài báo được in lần đầu ở tờ L'Humanité (Nhân Loại) (25/5/1922), xuất hiện ở cuốn “Ho Chi Minh on Revolution” (Hồ Chí Minh về cách mạng) do Bernard B. Fall biên tập (New York: nhà xuất bản Signet, 1968), trang 25-26. Phiên bản tiếng Việt của văn bản gốc bằng tiếng Pháp thì xem trong Hồ Chí Minh Toàn Tập, Tập 1 (1920 – 1925) (Hà Nội: nxb Sự Thật, 1980), trang 24-28. Sau đây, viết tắt là TT.

5 Xem bài diễn văn của ông ở Đại hội Quốc tế Cộng sản trong TT, tập I, trang 215-31. Phiên bản tiếng Anh thì nằm trong cuốn “Hồ Chí Minh: Seleted Writings” (Hồ Chí Minh Tuyển tập) (Hà Nội: nxb Ngoại Văn, 1971), trang 24-36. Xuất thân nông dân của Hồ ở mức độ nào đó gợi nhớ đến nhà cách mạng Mac-xít châu Á nổi tiếng khác, Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, cha của Hồ là một nho sĩ, trong khi đó cha của Mao là một nông dân không biết chữ.

6 Xem bài diễn văn ở đại hội Quốc Tế Nông Dân vào tháng 10 1923, trong TT, tập I, trang 153-58. [Chú thích người dịch: “Một tiếng kêu trong đồng vắng” là câu viện dẫn lời Phúc Âm Ki-tô giáo nói về việc truyền đạo của tiên tri Gioan Tẩy Giả, là người đã làm phép rửa tội Giêsu.]

7Hue-Tam Ho Tai, Radicalism and the Origins of the Vietnamese Revolution (Huệ-Tâm Hồ Tài, Chủ nghĩa cấp tiến và những cội nguồn của Cách Mạng Việt Nam) (Cambridge: Ấn quán Đại học Harvard, 1992). Điều tra nghiên cứu lý thú về những tình trạng lưỡng nan mà trí thức phải đối mặt trong niên đại chuyển tiếp này, xem của Takashi Shiraishi, An Age in Motion: Popular Radicalism in Java (Một Thời Đại chuyển động: Chủ nghĩa cấp tiến bình dân ở Java), 1912 -1926 (Ithaca, Ấn quán Đại học Cornell, 1990)

8Some Considerations,” (Một vài cứu xét…), trang 26

9 Gửi chủ tịch đoàn quốc tế cộng sản”, Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 1, trang 314

10 Nguyễn Lương Bằng, “My Meetings with Comrade Hồ Chí Minh” (Những lần tôi gặp Đồng Chí Hồ Chí Minh), trong cuốn “Nash Presiden Ho Shi Minh” (Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta) (Hà Nội, 1967), trang 81-82

11 Một cuộc thảo luận lí thú về Serge Nechayev, xem Adam B. Ulam, “In the Name of the People: Propheis and Conspirators in Prerevolutionary Russia” (Nhân danh nhân dân: Những tiên tri và những kẻ âm mưu ở nước Nga trước cách mạng (New York: nxb Viking, 1977). David Marr cũng ghi nhận đặc tính Nho giáo trong nguyên tắc đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh. Xem Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong thử thách 1920-1945) (Berkeley: Ấn quán Đại học California, 1981), trang 375

12 Từ Trung Văn “ge-ming” (theo lối phiên âm Wade–Giles là “ko-ming”) thường được dịch ra tiếng Anh là “thay đổi mệnh trời”. Chi tiết, xem Huệ-Tâm Hồ Tài, Chủ nghĩa cấp tiến, trang 170.

13 TT, trang 186. Tôi đã dùng phiên bản có sẵn ở đây ở trang 177-254.

14 Như trên, trang 206-7, có lẽ Hồ Chí Minh làm độc giả hoang mang ở chỗ nãy, vì ông không giải thích Cách Mạng Nga cũng là cuộc cách mạng hai giai đoạn. Nhưng chắc là ông đã thảo luận vấn đề này ở lớp với những học viên.

15 Kiến giải của Lê Nin về quan niệm này thì xem thêm trong “Bản sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” (ở đại hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 2).

16 TT, trang 197, 203.

17 Như trên, trang 242 - 244. French Colonialism on Trial (Chủ nghĩa thực dân Pháp trong thử thách) dường như được khuôn mẫu theo cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Emile Zola về vụ án Dreyfuss, Tôi kết tội J'Accuse, là một phê phán kịch liệt về những thất bại của nước Pháp ở các thuộc địa. [Chú thích người dịch: Tôi kết tội là một văn bản chính trị của tiểu thuyết gia Emile Zola xuất hiện năm 1898, nhưng đây không phải là cuốn tiểu thuyết mà chỉ là bài báo lên tiếng về lương tâm của giới trí thức trước sự bài Do thái của quân đội và chính phủ Pháp]

18The Party’s Military Work among the Peasants: Revolutionary” (Công Tác Quân Sự của Đảng trong Nông Dân: Những Phương pháp du kích cách mạng), trong cuốn “Armed insurrection” (Khởi nghĩa vũ trang), biên tập A. Neuberg (Luân Đôn: nxb New Left Books [Tủ sách tân tả phái], 1970).

19 Những tài liệu về đại hội tháng 2 năm 1930 có trong Hồ Chí Minh Toàn Tập, trang 295-306. Có bằng chứng rằng Hồ đã quyết định một số vấn đề trong những luận cương này trước khi ông đến Hồng Kông. Dĩ nhiên, có thể ông không được biết về những quyết định đã đạt được ở đại hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 6, nhưng một vài học giả ở Hà Nội tin chắc rằng ông đã nhận biết được sự dịch chuyển hệ tư tưởng ở Matxcơva thậm chí trước khi ông lên đường di Xiêm.

20 Những nhà sử học ở Hà Nội hiện nay có những ý kiến khác nhau về việc liệu Hồ Chí Minh có tham gia Đại hội tháng mười hay không. Bất kể như thế nào, chắc chắn một điều rằng những quyết định đạt được dẫn tới việc loại bỏ những quan điểm của Hồ khi ông phát biểu ở Hội nghị thống nhất vào tháng Hai và trong Đường Kách Mệnh ba năm trước đó.

21 Để quy chiếu và một sự thảo luận ngắn, xem cuốn sách của tôi “The Communist Road to Power in Vietnam” (Con đường đưa Cộng Sản đến quyền lực ở Việt Nam) (Boulder, nhà xuất bản Westview Press, 1981), trang 48.

22 Phỏng vấn với Ngô Phương Ba, 10/12/1990.

23 Kobelve, Ho Chi Minh, trang 89. Một đoạn trích ngắn từ tác phẩm của Lê Nin “Làm gì” (What is to be Done” nằm ở tựa đề của Đường Kách Mệnh.

Chuyển ngữ tại Sài-gòn
2013/09/15

Hiệu đính tại Sài-gòn
2013/09/22

Nguồn: William J.Duiker, What is to be Done? Hồ Chí Minh’s Đường Kách Mệnh.” Essays into Vietnamese Parts. K. W. Taylor and John K. Whitmore, eds. New York: Cornell University Southeast Asia Program, 1995.
 

Giải mã những ồn ào của làng văn: Huyền Chip đi 25 nước với 700 USD (?!)

Những tác phẩm được đánh giá sách hay, sách có giá trị khó đến với công chúng còn sách bình thường nhưng được PR rầm rộ thì lại trở thành sự kiện. Một lượng cực lớn cư dân mạng cho rằng Huyền Chip giỏi bịa chuyện, “chém gió” quá đà. Báo chí cũng nghi ngờ về tính chân thực của câu chuyện
Ra mắt cuốn thứ nhất trong bộ Xách ba lô lên và đi - Châu Á là nhà, Huyền Chip đã bị cư dân mạng “ném đá” tơi bời. Các buổi họp báo tại Hà Nội và TP HCM mới đây để ra mắt tập 2 Đừng chết ở châu Phi cũng diễn ra trong không khí cực kỳ căng thẳng.


Người bênh, kẻ đấu đá

Cư dân mạng tiếp tục nghi vấn về “sự thật” trong chuyến đi tới 25 nước chỉ với 700 USD khởi điểm. Họ yêu cầu tác giả cho xem hộ chiếu. Người bảo vệ, kẻ đấu đá thẳng thừng.
Hình ảnh Huyền Chip với một em bé châu Phi được đăng tải trên Facebook của cô
Xuất hiện với Huyền tại cuộc họp báo ở Hà Nội có GS Nguyễn Lân Dũng và một số người có tên tuổi, những người kỳ vọng cổ vũ cho sự thay đổi lớn lao từ giới trẻ. GS Nguyễn Lân Dũng cầm tấm hộ chiếu của Huyền trên tay như một sự bảo chứng về lòng tin vì Huyền không muốn bạ ai cũng cho xem hộ chiếu. GS Nguyễn Lân Dũng cũng bày tỏ tình cảm yêu mến và cảm phục đối với cô gái trẻ sinh năm 1990 này.
Bìa cuốn sách tập 2 cũng gây phản ứng dữ dội trên nhiều diễn đàn

Tuy nhiên, công chúng vẫn ồn ào bởi vì e ngại có vấn đề gì đằng sau chuyện được coi là ảo tưởng này?

Câu chuyện rùm beng cả trên các diễn đàn về văn chương, diễn đàn của dân “phượt” (du lịch bụi). Một lượng cực lớn cư dân mạng cho rằng Huyền Chip giỏi bịa chuyện, “chém gió” quá đà. Nhiều diễn đàn mang Huyền ra so sánh độ hot với... Bà Tưng.

Các “phượt thủ” lừng danh lên tiếng bảo vệ Huyền Chip. Nhiều người phân tích rất kỹ về hành trình của Huyền và cho biết giới trẻ ở Việt Nam có thể phản ứng vì không hiểu rằng từ khá lâu đã xuất hiện một “nghề” mới dành cho những người ưa phiêu lưu, mạo hiểm, thích di chuyển ít tốn phí mà lại hòa nhập và tìm hiểu được văn hóa chiều sâu bản địa: Đó là “nghề” lữ hành chuyên nghiệp; khái niệm tourist (du lịch sang trọng, nghỉ dưỡng) khác với travel (lữ hành, được rất nhiều đơn vị làm du lịch hỗ trợ) như thế nào. Họ cho biết những người khác còn có thể “travel” với số tiền ít ỏi hơn cả 700 USD mà Huyền Chip đã có; chuyện đó chẳng có gì lạ nếu ở châu Âu. Và, nếu thực sự đọc sách, người đọc sẽ hiểu vì sao mà cô gái trẻ này có thể di chuyển qua từng ấy nước chỉ với số tiền ít ỏi.


Hệ quả của công nghệ PR

Ngay từ khi ra mắt cuốn sách tập 1, Huyền đã có lời tự sự rất rõ ràng là không muốn trở thành người nổi tiếng chỉ vì việc ra mắt sách. Bản thân cô có thể đã không hề chủ động tìm cách PR cho mình hay cho cuốn sách nhưng không thể phủ nhận được công nghệ PR chuyên nghiệp của nhà sản xuất và đơn vị phát hành đã tạo được dấu ấn sâu sắc trong công chúng. Thế nhưng, khía cạnh “nông cạn” của công nghệ PR này là thông tin không thực sự rõ ràng và quá đà khiến nhiều người hiểu lầm Huyền là cô gái trẻ đã đi chu du khắp nơi chỉ với 700 USD. Mặc dù lượng sách bán ra chắc chắn là rất “khủng” nhưng phản ứng dữ dội từ công chúng là bài học lớn đối với tất cả những người có liên quan. 
Công bằng mà nói, cuốn du ký của Huyền cho độc giả những trải nghiệm khá thú vị và bản thân cuốn sách không có lỗi nhưng sau khi công nghệ truyền thông cho cuốn sách này hoạt động và cuốn sách đã trở thành ấn phẩm bán chạy, tác giả nhận lại sự nghi ngờ quá lớn từ công chúng và khá nhiều lời lăng mạ đã thản nhiên buông ra trên trang Facebook Xachbalolenvadi - trang Facebook chính thức truyền thông cho cuốn sách. Những ngày này, gọi điện thoại cho Huyền, nghe giọng cô gái trẻ vô cùng mệt mỏi. 
Những dòng status trên Facebook chỉ thể hiện sự bối rối. Có lẽ, Huyền cũng chẳng biết làm sao trước tình cảnh dở khóc dở cười hiện tại. Các bậc phụ huynh bắt đầu lên tiếng trên một số tờ báo, cho biết mặc dù cảm phục khát khao cháy bỏng được chạm vào mơ ước đi vòng quanh thế giới của Huyền nhưng ai cũng bày tỏ nỗi lo lắng con cái họ có thể bị kích động và chỉ muốn bỏ nhà “đi bụi” ngay lập tức bởi cuốn sách thực sự cổ vũ chuyến đi mà không cần biết phía trước là gì... 

Đổ thêm dầu vào lửa
Trong buổi họp báo tại TP HCM, Huyền Chip tỏ thái độ thiếu thiện chí. Cô trả lời kiểu thách thức: “Tôi không thích trả lời”, “Đây là visa của tôi nhưng tôi không thích cho anh xem”, “Tôi không có trách nhiệm trả lời câu hỏi của anh”... trước những câu hỏi từ phía độc giả, phóng viên. Đây là thái độ vốn dĩ không nên có trong một buổi ra mắt sách, trong khi bản thân cô là nhân vật trung tâm trước hàng trăm khán giả quen và lạ.
Rõ ràng, độc giả có quyền nghi ngờ chuyến đi bắt đầu từ 700 USD qua 25 nước của cô và cũng có quyền đặt những câu hỏi nghi vấn - bất luận đó là muốn chia sẻ hay cố tình làm khó tác giả. Hơn ai hết, Huyền Chip là người hiểu rõ nhất mọi thông tin, lịch trình, chuyến đi của mình. Nhưng cô gái trẻ này đã biến những buổi ra mắt sách thay vì là cơ hội giao lưu, chia sẻ chân tình lại trở thành những cuộc tranh luận đối đầu gay gắt không có điểm chung và không có điểm dừng.
Có thể Huyền Chip cảm thấy tổn thương trước những nghi vấn ngoài dự kiến nhưng là một tác giả, dẫu có tổn thương, cô buộc phải có trách nhiệm trả lời từ tốn tất cả những câu hỏi liên quan. Cách Huyền đáp lại số đông một cách bất chấp, che giấu, mọi thứ không minh bạch càng “đổ thêm dầu vào lửa”, gia tăng sự nghi ngờ.
T.Quyên
Minh Tuệ
(Người Lao động)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét