Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Thứ Ba, 17-09-2013 - Mười điều ngộ nhận về chủ nghĩa Mác (2, tiếp theo): Chủ nghĩa xã hội không cần tự do dân chủ?

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
Tỉnh Lâm Đồng ủng hộ Trường Sa hơn 5 tỷ đồng (TTXVN).
1<- Đá Lớn trong việc phá thế “chiếm đóng xen kẽ” của TQ (ĐV).
VN có nhượng bộ TQ về biên giới không? (BBC). - Bản đồ mốc giới Việt Nam – Trung Quốc theo toạ độ từ nghị định thư phân giới cắm mốc (Dân luận).
MỘT TẤM BIA TƯỞNG NIỆM, TRÊN ĐỈNH SÌ LỜ LẦU (Mai Thanh Hải).
Lịch sử: khâu yếu ớt trong các đòi hỏi chủ quyền biển đảo của Bắc Kinh (The Diplomat/Boxitvn).
Đàm phán COC chưa thấy triển vọng (BBC).  - COC mịt mù khói sóng Biển Đông, Philippines cầu ngoại viện (ĐV).  - Trung Quốc đề nghị thảo luận từng bước về Quy tắc ứng xử Biển Đông (VOA). - Biển Đông : Trung Quốc hứa ‘từng bước’ đối thoại với ASEAN về COC (RFI).

Trung Quốc đề nghị lập đường dây cấp cứu hàng hải với ASEAN (VOA).
Việt-Nhật tăng cường hợp tác quốc phòng giữa tranh chấp Biển Đông (VOA).
‘Mỹ nên hỗ trợ phát triển cơ chế xử lý khủng hoảng ở Biển Đông’ (VOA). - Mỹ hy vọng Nhật-Trung dùng nỗ lực ngoại giao trong tranh chấp lãnh thổ (VOA).
- Đức Thành: Những mong ước chính đáng! (Boxitvn).
Nói sự thật hay công khai bày tỏ quan điểm là vị phạm luật ? (RFA).
Roger Mitton- Việt Nam quản lý tư tưởng (The Phnom Penh Post/ Dân luận). Thêm một bài báo để minh họa cho một bài viết hôm qua nói về tình trạng tụt hậu về tự do ngôn luận, nhân quyền, ngay trong khu vực, của VN so với hầu hết các nước, kể cả Campuchia (Người Việt phải đuổi kịp dân Campuchia). Ở trường hợp này là báo Campuchia “dám” viết về VN như vậy.
- Ths, LS Vũ VĂN TÍNH,  (NCS Ðại học Paris 2 – CH Pháp): Tự do ngôn luận và các giới hạn về tự do ngôn luận (ND). Chắc phải nhờ bà con ở Pháp tìm coi có vị nghiên cứu sinh này thật hay không.
MỤC TIÊU VÀ THỦ THUẬT CỦA DƯ LUẬN VIÊN – MỤC TIÊU CỦA NHÀ NƯỚC SỬ DỤNG DƯ LUẬN VIÊN LÀ GÌ? (FB TNCG).
Đinh Nguyên Kha bị truy tố tội danh khủng bố theo điều 230a Bộ Luật Hình Sự (Dân luận). - Nguyễn Thị Hường – Vị hôn phu của tôi đón sinh nhật lần thứ 30 của anh trong nhà tù Việt Nam (Dân luận). Về Nguyễn Tiến Trung).
- Vũ Mạnh Hùng: THƯ CHIA SẼ VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ XH CÙNG CÁC BẠN ĐANG QUAN TÂM (Nguyễn Tường Thụy).
Ba ngàn giáo dân đến Mỹ Yên cầu nguyện cho các tín hữu (RFI). - Mỹ Yên, đâu là sự thật? (RFA). - Bạo động Mỹ Yên: Dân gây rối hay chính quyền đàn áp tôn giáo? (VOA).  – Lm Nguyễn Quang Tuấn: Một cuộc so găng không cân sức (Boxxitvn).
Từ miền núi xa xôi, Giáo Xứ Đồng Lam hướng về Mỹ Yên trong cơn bách hại (NVCL).  - Hướng về Mỹ Yên, ánh nến rực sáng Thánh đường Giáo xứ Lưu Mỹ (NVCL). “Đặc biệt, ở đây, người dân còn chú ý đến vụ cưỡng hiếp mất nhân tính của một cán bộ của đảng đối với nạn nhân là giáo dân Lưu Mỹ. Vụ việc bị bao che và chìm xuồng, chỉ bởi kẻ hiếp dâm là cán bộ, còn nạn nhân là một giáo dân. Nạn nhân vẫn còn đó, thủ phạm vẫn nhơn nhơn, là bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của nhà cầm quyền toa rập, bao che cho nhau, dung túng nhau những điều xấu xa và mất đạo đức“. - Hãy lắng nghe (DLB).
Từ Tiên Lãng đến Thái Bình (RFA). – Thái Bình: Một số hình ảnh đám tang của ông Đặng Ngọc Viết do anh em dân chủ gởi về (SHSM). - Đông Khanh: Sẽ có “một ngày mai” (Ba Sàm). - KHI ‘CÁI TÔI’ QUÁ LỚN (Bùi Văn Bồng). - ĐẤT – MÁU & NƯỚC MẮT (Nguyễn Duy Xuân). - Đầy Tớ quản lý bậy, bị Chủ đè đầu bắn (DLB). - Nổ súng chống độc tài áp đặt bất công là… mâu thuẫn gia đình!?
Xích Tử – Con nợ của nhân dân (Dân luận). “Lịch sử cướp đất nông dân của Đảng CSVN, như đã nói, là chính sách nhất quán của cách mạng vô sản theo kiểu châu Á, với quan điểm maoist. Đó là sự giải thích tùy tiện, áp dụng một cách sai lầm quan điểm của K. Marx từ Lenin khi tiến hành bạo loạn lật đổ giành chính quyền trong điều kiện chiến tranh ở nước Nga cho đến việc nặn ra các thành phần giai cấp ...”
Cháy lớn chưa từng thấy ở Hải Dương (BBC).  - Hàng trăm tiểu thương kéo lên UBND tỉnh kêu khóc (VNN).  - Vụ cháy lớn ở TTTM Hải Dương: Đồng loạt dân tố BQL chợ và lực lượng cứu cháy (GĐ).  - Tiểu thương TTTM Hải Dương “tố” cảnh sát PCCC thiếu trách nhiệm (LĐ).  - Vụ cháy TTTM Hải Dương: Tài sản tiểu thương bị coi thường! (NLĐ).  - Thảm họa thấy trước. - Nguy cơ cháy chợ vẫn cao.  - Vụ cháy ở Hải Dương: 2 hộ duy nhất cứu được hàng (TTXVN). – Video: Trao đổi ban quản lý chợ Đồng Xuân về kinh nghiệm khắc phục cháy chợ (VTV). - TỈNH HẢI DƯƠNG CẤP CỨU “NGUỒN THU” (Cu Vinh).
2Tối qua có độc giả gửi thắc mắc là cùng sáng 15/9, khi vụ cháy khủng khiếp nhất trong lịch sử tỉnh Hải Dương nói trên vẫn đang chưa được dập tắt (cho đến chiều qua, tức sau gần  2 ngày vẫn còn cháy), thì ngay tại địa phương này, đã diễn ra một buổi lễ hoành tráng, có cả sự tham dự của PCT Quốc hội Kim Ngân, Bộ trưởng Đinh La Thăng và Bí thư “tỉnh bạn” Hải Phòng nơi có cầu đi qua; vậy liệu các vị này có động lòng để mà suy tính hoãn hay giảm bớt nghi thức lễ lạt, đuổi đám quan tỉnh về sớm mà lo giúp dân? Nhìn hình ảnh tưng bừng trong mấy bài báo thì e là không có gì thay đổi! =>
Một chi tiết, có lẽ là tình cờ, không rõ nên vui hay buồn cho các vị quan chức này, là Lễ khánh thành đường 37 là con đường nối hai huyện Gia Lộc, Ninh Giang của Hải Dương với huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, được tổ chức ở huyện Ninh Giang, cách xa TP Hải Dương, chứ không phải tại Gia Lộc, sát nách TP Hải Dương. Từ sự “tình cờ” đó, có lẽ các quan chức trung ương cũng khó mà nghe được tiếng than khóc tận Trung tâm thương mại Hải Dương, nên mới bình chân như vại, vui cười thoải mái như vậy? Kể cả động thái cố mà tạt qua hiện trường, làm việc với lãnh đạo TP, thăm hỏi bà con, liệu có không? Cũng cần nhắc lại là bà Ngân vừa được cất nhắc vào BCT, lại vừa nhận được số phiếu tín nhiệm cao nhất tại Quốc hội.  
Thôi thì cũng thử tìm sự cảm thông với các quan chức này một chút, là biết đâu họ có ngưng giữa chừng buổi lễ, rồi về TP Hải Dương để “chỉ đạo”, chia sẻ khó khăn, v.v.. nhưng không cho báo chí biết? Thêm nữa, đó là ngày nghỉ cuối tuần, các quan bỏ thì giờ đi xa dự lễ cũng là tốt rồi! Và một khả năng khác, là phải chăng các vị đã bị bưng bít, hay không kịp cập nhật thông tin, đám tay chân lại quá kém, nên không biết vụ việc nghiêm trọng đang diễn ra? Nếu vậy thì sẽ thêm một kinh nghiệm cho các “chính trị gia” này.  Một “kinh nghiệm” nữa là với một con đường cấp 3 đồng bằng, chỉ là dự án nâng cấp, lại chưa hoàn thành, còn nhiều hạng mục dang dở, thì có đáng phải tổ chức một lễ khánh thành, với cấp cao trung ương dự đến như vậy không, hay đằng sau nó còn là chuyện gì nữa?
Một “tình cờ” nho nhỏ khác, là bà Kim Ngân từng là Bí thư tỉnh ủy Hải Dương, từng lãnh đạo các ngành Lao động, Thương mại, giờ lại đang là phó CT cơ quan dân cử cao nhất. Dù thế nào, xin bà nghe trên VTV hôm nay phản ánh về hiện tượng đã có hàng chục cú điện thoại của bà con tiểu thương gọi đến cảnh sát phòng cháy, mà không ai nghe máy, trong suốt hơn 2 giờ đồng hồ, 3 giờ sau có xe đến nhưng là xe … rỗng, không có nước … Ấy thế mà đám quan chức cơ quan chức năng tỉnh này vẫn to mồm khuếch khoác, “di dời” cả giờ được báo cháy là 3h25′, chứ không phải là 1h sáng. Không biết quyết định mau mắn của chính quyền hỗ trợ hàng triệu đồng cho mỗi hộ tiểu thương có góp phần “chạy tội” cho họ hay không? 
Công an A18 chửi mắng thuyền nhân: “mày qua đây làm gì?” (DLB).
Từ ngõ Phất Lộc tới Weimar [21] (Người Buôn Gió). “Năm 2009 tàu chiến của Trung Quốc lại bắn chết ngư dân Việt Nam, nhiều thanh niên chúng tôi sục sôi căm phẫn. Nhưng nhà nước Việt Nam chỉ lên tiếng vài câu rồi thôi, nhà nước bảo quan hệ giữa hai Đảng cộng sản lãnh đạo hai nước là thứ rất quy báu mà lãnh tụ sáng lập hai Đảng đã để lại, không vì chuyện khác mà làm ảnh hưởng đến quan hệ ruột thịt đó.”
- Phạm Chí Dũng: Việt Nam – TPP: Từ đường hầm đến ánh sáng (RFA).
- Tư Ếch: Thưa ngài Tony Blair, ngài là cố vấn cho Việt Nam không nổi đâu (BS). - Ông Tony Blair kiếm tiền thế nào? (BBC).
- Phỏng vấn ông Vũ Mão: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Quốc hội phải thực sự chuyên nghiệp (ĐBND).
Mười điều ngộ nhận về chủ nghĩa Mác (2, tiếp theo): Chủ nghĩa xã hội không cần tự do dân chủ? (Anh Vũ).
Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (13) (pro&contra).
Ý nghĩa của việc ông Nhân sang Mặt trận? (BBC). ”Nhưng với vai trò Ủy viên Bộ Chính trị, Giáo sư Thayer nói, ông Nhân sẽ vừa đá bóng, vừa thổi còi vì ông nằm trong cơ quan quyền lực và ra quyết định cao nhất của Đảng nhưng lại cũng đứng đầu cơ quan có vai trò thách thức Đảng Cộng sản”.
Liệu Nguyễn Bá Thanh có dám “bẻ nạng chống trời?” (DLB). Trước thềm Hội nghị TƯ, được cho là sẽ rất “quyết liệt”, lại có thông tin là tổ chức hai ban Nội chính và Kinh tế sẽ không đổi, có nghĩa ông Thanh và ông Huệ sẽ ngồi yên vị. Nhưng có người thắc mắc là nếu vậy thì sẽ trái với Nghị quyết TW? Hay là người ta hy vọng qua hội nghị TƯ tới sẽ có những quyết định lớn về nhân sự?
- Đào Tuấn: Tấm áo bạc màu của bà Thủ tướng (LĐ). “Nếu muốn quảng bá Việt Nam, người Việt sẽ phải mặc gì, cầm ví gì, đi xe gì cho thuần Việt? Áo dài, giỏ mây và xe đạp Thống Nhất chăng!”.
IgNobel Vịt (Đào Tuấn). “Giải tâm lý học được trao cho ngành giáo dục với công trình “Cộng điểm cho bà mẹ Việt Nam anh hùng trong các kỳ thi mẫu giáo”. …”
Hai cột trụ (Nguyễn Vạn Phú). “… Thế nhưng, hiện đang có xu hướng phân biệt đối xử trong giáo dục và y tế, làm méo mó chính sách phát triển bình đẳng và lấn chiếm nguồn lực của người nghèo.”
Tình hình khiếu nại, tố cáo tại Hà Nội vẫn phức tạp (VOV).  – Video: Cải cách hành chính (VTV).
Dân trực tiếp bầu chủ tịch huyện: ‘Chuyện này rất nhạy cảm’ (NĐT).
Tám chú sâu con (DLB) “được” kỷ luật để khỏi đi … tù?
Lấy tiền xây nhà tình nghĩa để… trả nợ (NLĐ).
3<- Thẩm phán nhận lệnh Phó chánh án ngăn cản phóng viên tác nghiệp (NLĐ).
Công an viên đánh người bị tù 9 tháng (BBC) (còn người chống công an thì ko bao h có mức án này đâu, đừng có mơ).
Phượng Yêu (19) (DLB).
Tản mạn sau bốn tháng đến Nhật (DLB).
Aung San Suu Kyi gặp Đạt Lai Lạt Ma : Bắc Kinh nổi giận ? (RFI). 
- Chuyện lạ: Lính biên phòng Hàn Quốc bắn người vượt biên sang Bắc Triều Tiên (Kichbu). - Con gái một viên chức cao cấp công an Bình Nhưỡng đào thoát sang Hàn Quốc (RFI). - Nam Bắc Triều Tiên mở lại khu công nghiệp Kaesong.  - Khu công nghiệp Kaesong mở cửa trở lại (BBC).  - Khu công nghiệp Kaesong mở lại (VOA).  - Thứ trưởng Ngoại giao Triều Tiên đến Bắc Kinh (VOV).  - Hàn-Triều chốt danh sách đoàn tụ các gia đình ly tán (TTXVN).
Campuchia: phe đối lập biểu tình, 1 người bị bắn chết (RFA). - Tổ chức AXQT yêu cầu Phnom Penh điều tra vụ người biểu tình tử thương. - Đối lập Cam Bốt biểu tình tại Phnom Penh, 1 người chết (RFI). - Cam Bốt đang lún sâu vào khủng hoảng chính trị.  - BIỂU TÌNH HƯƠNG HOA (Nguyễn Thu Trâm). - Các đảng phái Campuchia hội đàm (BBC).  - Campuchia: Chính phủ, phe đối lập đồng ý về các biện pháp nhằm xoa dịu căng thẳng (VOA).  - Biểu tình ở Campuchia, một người thiệt mạng.  - Thủ tướng Hun Sen bắt tay thủ lĩnh đối lập Campuchia (NLĐ).
Hội đồng Giám mục Cuba kêu gọi cải cách chính trị (RFI).
Người có tên dài thắng kiện chính phủ Mỹ (BBC).
Cái chết của Stalin (Ngô Đức Thọ).
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 15) (Boxitvn).

- Về việc quyết định phương án đền bù, hỗ trợ, tái định cư: GS Đặng Hùng Võ: “Người dân đồng thuận mới triển khai dự án” (DV).
- Vụ cho phá đất lúa để khai thác khoáng sản: Không cấp phép mới và chấm dứt toàn bộ hoạt động khai khoáng tại Đà Nẵng (LĐ).
KINH TẾ
Nợ xấu đã được xử lý thế nào? (VnEco).  - Hạn chế sử dụng vốn ngân sách để xử lý nợ xấu (TT).
CPI 2013 có thể không còn quy luật “2 cao 1 thấp” (VnEco).  - Những nhân tố tác động CPI cuối năm 2013 (ĐBND).
4Thu hút vốn FDI đã vượt mục tiêu cả năm (TBKTSG).
Cho vay ngoại tệ tiếp tục giảm (TBKTSG).  - Gánh nặng lãi vay đã giảm bớt (VnEco).  - Ngân hàng dốc sức cho vay (NLĐ). - Khối ngoại nhảy vào ngân hàng yếu kém còn lại (VnEco). =>
Ngân hàng đã mua 30 tấn vàng tất toán trạng thái (TBKTSG).  - Đấu thầu vàng ngày một thưa dần (VnEco).  - Tiếp tục đấu thầu 20.000 lượng vàng miếng vào 17/9 (ĐT).
Chỉ nên tăng giá khi CPI bớt căng thẳng (ĐT).  - “Thượng đế” luôn bị thiệt (TT).
Tổng thống Obama nêu bật tiến bộ tài chính (VOA).
Trung Quốc sẽ đầu tư vào thăm dò dầu và khí đốt $ 13 tỷ (Kichbu).

VĂN HÓA-THỂ THAO
Điều Lưu Quang Vũ chưa nghĩ tới (NLĐ).
Di tích Xứ ủy Trung Kỳ xuống cấp nghiêm trọng (VH).
Thời kỳ “Đế Quốc Việt Nam” nhìn qua tem thư (Nguyễn Ngọc Chính).
- Video: Thông điệp từ cổ vật: Chó đá (VTV).
5<- Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn: Cuốn hút bởi những giá trị truyền thống (VEN).
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp (Nguyễn Đình Đăng).
BÙI GIÁNG : thơ phơi giữa nắng (Diễn đàn).
ĐẰNG SAU THƠ LÀ MỘT NỖI NIỀM TRẮC ẨN (Nguyễn Trọng Tạo). – Mai Văn Phấn: Tĩnh lặng (I) (Da màu).
Báo SỨC KHỎE ĐỜI SỐNG khám tổng quát Nhóm MỞ MIỆNG (Lê Thiếu Nhơn).
- Phạm Lưu Vũ: TỬU ĐỊA (Nguyễn Trọng Tạo).
CHUYỆN TRAI GÁI TRONG NHÀ 204 (P3) (Keng).
Trung Thu thời “xã hội chủ nghĩa” (RFA).
YÊU THỜI ĐỒ ĐỂU (KỲ 86) (Nhật Tuấn).
- Nhà xuất bản Kim Đồng (Nhị Linh).
Phê bình âm nhạc: Xin đừng tùy hứng! (PNTP).
Sự gắn kết cộng đồng trong NT đờn ca tài tử Nam Bộ: Đờn ca, hòa đờn, hòa ca… (VH).  - Bắc Giang bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hát văn (TTXVN).
Những phim truyền hình tử tế (NLĐ).
Loạn múa Lân… dân phiền toái (VH).
- Nguyễn Quang Thân: Nửa bước đến nhố nhăng (TT).  - Kết nối “trai đẹp…”: Nhảm (NLĐ).
Khoác áo quý tộc cho văn hóa đại chúng (ĐBND).
Cứu di sản văn hóa ở Syria (ĐBND).
Viếng pho tượng ‘Veiled Christ’ ở Napoli (Da màu).
Ban tổ chức Miss World 2013 thiệt hại tài chính lớn (TTXVN).   - Thí sinh gốc Ấn Nina Davuluri đăng quang hoa hậu Mỹ (VOA).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
6Sách lịch sử VN Hán – Nôm cuộc cách mạng giáo khoa lịch sử? (ĐBND). =>
Trở lại câu chuyện tự học (Vương Trí Nhàn).
VĂN HÓA ỨNG XỬ TỪ CHUYỆN ĐỒNG PHỤC HỌC SINH (Nguyễn Duy Xuân).
“Khát” sinh viên, trường cao đẳng cầu Bộ Giáo dục (TTXVN).  - Trường ngoài công lập “thoi thóp” chờ sĩ tử “đầu quân” (SM).  - Trượt đại học vì bị nhầm lẫn điểm ưu tiên (BVPL).
Đào tạo nhân lực y dược: Dễ dãi! (NLĐ).
Phụ huynh điêu đứng vì “chuẩn” của trường (PNTP).
- Chủ trương không chấm điểm học sinh lớp 1: Giảm áp lực nhiều phía (ND).
Lớp học “đặc biệt” vào năm học mới (PNTP).
“Thưa cô, em không muốn phải đi thi hộ nữa!” (ND).
Bản kiểm điểm gây sốt của bé lớp 4 (Tri thức/Zing).
Ngã ngửa khi cướp là… thầy giáo trường chuyên tỉnh Vĩnh Phúc (NĐT).
Đại học Bắc Kinh vướng bê bối “tuyển nữ sinh trinh tiết” (VNN).
Graphene: Thế giới phẳng của carbon (Diễn đàn).

Mít Đặc và Biết Tuốt (1) (Nguyễn Tiến Dũng).
Nhường phần cơm cuối tuần (Đọt chuối non).
- Diễn biến mới vụ chiếm giữ con dấu tại Đại học Hùng Vương (TPHCM): Bộ Công an yêu cầu ông Lê Văn Lý giao nộp con dấu (LĐ).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
-  Bờ biển Việt Nam bị xói lở trầm trọng (RFI).  - Việt Nam cần giải pháp cấp bách cho biến đổi khí hậu (TBKTSG).  - Nhiều mối lo từ nước ngầm (NLĐ).
7<- Vụ tàu Singapore tông tàu cá Việt Nam: đã cứu được 8 người (VOV).  - Đau thương xóm trọ các ngư phủ mất tích (TT).  - Tang thương xóm trọ (NLĐ).  - Siết quản lý giao thông thủy.  - Điều trực thăng, thợ lặn tìm kiếm 7 thuyền viên mất tích (TN).  - Các nạn nhân mất tích có thể bị mắc kẹt dưới tàu cá bị chìm (DT). - TƯỜNG THUẬT VỤ TAI NẠN TRÊN BIỂN (Tân Châu).
Loạn … “thần dược”! (NLĐ).
‘Xõa’… với khói shisha (TP).
Nhìn nhà mình mà phải phì cười (TT).
Ai “bảo kê” cho bà Tâm phá đỉnh Tam Đảo? (KT).
Johnny Tuấn vượt qua tật nguyền bằng tiếng hát (Người Việt).
Lái xe và lái tài xế (Người Việt). - Bạn có là Backseat Driver không? Bạn có là DWA (Driving While Asian) không? (FB Ngọc Thu).
Coi chừng nhầm lẫn giữa chè vằng và cây lá ngón (Hữu Nguyên).
Cho uống nhầm vaccine, 76 trẻ em ở Ấn Độ phải nhập viện (VOV).
Indonesia giải tỏa nhà ổ chuột ở thủ đô (BBC).
Bắt đầu trục vớt tàu Costa Concordia (BBC).  - Giải cứu Titanic của Ý (NLĐ).
Bão kép giảm cường độ sau khi hoành hành Mexico, giết 21 người (VOA).  - Nhật di tản hàng trăm nghìn dân tránh siêu bão (VNE).  - Gần 6.000 người Indonesia sơ tán do núi lửa phun (TTXVN).

QUỐC TẾ 
LHQ xác nhận Syria dùng vũ khí hóa học (BBC). Chính phủ hay quân kháng chiến?  - Không ai có thể xác định bên nào đã sử dụng vũ khí hóa học ở Syria (Kichbu). - Ngoại trưởng Mỹ cảnh báo hậu quả nếu Syria vi phạm thỏa thuận (VOA). - Tổng thống Pháp : Damas lùi bước vì áp lực quân sự Mỹ-Pháp (RFI).  - LHQ công bố báo cáo điều tra về sử dụng vũ khí hóa học tại Syria.  -  Syria: Gần một nửa quân nổi dậy là Hồi giáo cực đoan, Thánh chiến.  - Mỹ, Pháp, Anh muốn Syria tuân thủ thời hạn (VOA).  - Ngoại trưởng Kerry: Đe dọa sử dụng võ lực đối với Syria là ‘Thật’.  - Pháp nói cần duy trì đe dọa Syria (BBC).
8Tổng thống Assad “mất mọi tính hợp pháp để điều hành Syria” (NLĐ).  - Thông tin đầu tiên về báo cáo vũ khí hóa học ở Syria (TTXVN).  - Thổ Nhĩ Kỳ điều máy bay chiến đấu sát biên giới Syria.  - Thế giới bàng hoàng cảnh hành quyết của quân nổi dậy Syria (ĐV).  - Nữ phóng viên Nga vượt lưới lửa bắn tỉa của phiến quân Syria (VOV). =>
Israel và Palestine bí mật đàm phán tại Jerusalem (TTXVN).
Biểu tình tiếp diễn sang ngày thứ hai ở Thổ Nhĩ Kỳ (VOA).
Úc ‘cứng rắn hơn với thuyền nhân’ (BBC).
Tàu ngầm nguyên tử Nga bị cháy : Không có rò rỉ phóng xạ (RFI). 
Philippines không kích vào lực lượng nổi dậy ở miền nam (RFI).  - Quân đội Philippines không kích quân ly khai (TT).
Biểu tình biến thành bạo lực tại miền Nam Thái Lan (TTXVN).
Xả súng chết người tại Cơ sở Hải Quân Mỹ ở thủ đô Washington (VOA).  - Nổ súng ở căn cứ hải quân Mỹ (BBC).   - Xả súng tại trụ sở hải quân Mỹ làm 4 người chết (VNN). - Ít nhất 4 người chết trong vụ nổ súng vào trụ sở Hải quân Mỹ ở Washington (RFI).   - Mỹ: Nhà thờ ở Alabama tưởng niệm 50 năm vụ nổ bom (VOA). - Nhiều người chết trong vụ nổ súng ở Hải Quân Công xưởng tại Washington (VOA).

* RFA: Audio:  + Sáng 16-9-2013; + Tối 16-9-2013Video: + Bản tin video tối 16-09-2013Bản tin video sáng 17-09-2013; +  Diễn đàn của chúng ta #2.
* RFI:  
* VTV:  + Chào buổi sáng – 16/09/2013;  + Cà phê sáng – 16/09/2013;  + Cuộc sống thường ngày – 16/09/2013;  + Tài chính tiêu dùng – 16/09/2013;  + Tài chính kinh doanh sáng – 16/09/2013;  + Tài chính kinh doanh trưa – 16/09/2013;  + 360 độ Thể thao – 16/09/2013;  + Thời sự 12h – 16/09/2013;  + Thời sự 19h – 16/09/2013.

2035. QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Chu Chi Nam
«Lòng tin tưởng thái quá vào một chủ thuyết là kẻ thù lớn nhất của chân lý và sự thật, đồng thời còn nguy hiểm hơn cả sự lừa đảo».  (Friedrich Nietzsche)
Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan có nói: «Trong lịch sử nhân loại có nhiều trang sử đau thương và đẫm máu. Nhưng trang sử đau thương và đẫm máu nhất, chính là trang sử cộng sản». Một sử gia cũng viết : «Trong lịch sử nhân loại có nhiều cuộc lừa đảo, đàn áp, giết chóc và thủ tiêu. Nhưng cuộc lừa đảo, giết chóc lớn nhất vẫn là cuộc lừa đảo, giết chóc của cộng sản».
Nói đến cộng sản là nói chung chung, vì nói đến cộng sản thì chúng ta không thể không nói đến Quốc Tế Cộng sản. Tuy nhiên trong tổ chức này có ít nhất 4 Quốc tế Cộng sản, như Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ Tứ. Hai tổ chức Đệ Nhị và Đệ Tứ không những không đàn áp, giết người, mà còn là nạn nhân tàn khốc của Đệ Tam.
Sơ lược về lịch sử Quốc tế Cộng sản:
Đây là một tổ chức quốc tế, qui tụ nhiều tổ chức, đảng chính trị của nhiều nước trên thế giới và họ cho rằng họ có thể thay đổi xã hội từ «  tư bản «  sang « xã hội chủ nghĩa « hay « cộng sản chủ nghĩa «, chữ mà ngay từ lúc đầu Marx dùng lẫn lộn trong Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng sản.
Có nhiều Quốc tế cộng sản:
I)  Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản
Tiền thân của Đệ nhất : Ba người được coi là người khởi xướng Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản là : 1) François Babeuf (1761 – 1797), người Pháp, theo Cách mạng Pháp lúc ban đầu, nhưng sau đó định làm một cuộc đảo chính chính phủ cách mạng thời bấy giờ (1795), nhưng không thành, ông bị bắt và bị xử tử. Ông thành lập Hiệp hội những Người Công bằng (Association des Egaux). Tư tưởng của ông đã được những người cộng sản, đặc biệt là Marx và Engels, theo sau này.
2) Karl Heinrich Marx (1818 – 1883): người Đức, gốc Do thái, tác giả Tuyên Ngôn thư Cộng sản, một trong những người chính thành lập ra Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản (1864 – 1876); 3) Friedrich Engels (1820 -1895), bạn của Marx, người đã cùng Marx đấu tranh, thành lập ra Đệ Nhất.
Lúc đ ầu Marx và Engels gia nhập Nhóm những người chính nghĩa, sau đó đổi thành Nhóm những người Cộng sản (1847 -1852). Tại Đại hội I I của nhóm Marx được đề cử soạn thảo cương lĩnh, đến tháng 2/1848 Marx hoàn tất và Tôn nguyên thư Đảng Cộng Sản ra đời. Marx và Engels vẫn tiếp tục hoạt động trong Nhóm những người Cộng sản cho đến ngày 28/09/1864 Hiệp hội quốc tế những người thợ thuyền, hay Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản,  được thành lập ở Luân đôn (Anh quốc). Nhưng những hội viên phần lớn là những người theo tư tưởng của chủ nghĩa vô trị của Proudhon ( 1809 -1865), của Auguste Blanqui ( 1805 – 1881), và những người theo trường phái triết lý thực nghiệm ( Positivisme) của Anh, mà sau này họ trở thành Đảng viên của Đảng lao động Anh.
Auguste Blanqui ( 1805 – 1881),  là nhà đấu tranh cách mạng Pháp, chống lại chế độ quân chủ, bạn của Charles Fourrier (1772 – 1837), của Saint Simon (1760 – 1825), nhà xã hội, kinh tế, kỹ nghệ gia Pháp, mà tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn ở xã hội Pháp vào thế kỷ thứ 19. Cả hai ông, đều bị Marx chỉ trích nặng nề trong quyển Tuyên ngôn thư, bị coi là những nhà xã hội không tưởng.
Trong Đại hội họp ở Lausanne (Thụy sĩ) vào năm 1867, Đệ Nhất Quốc tế có những người cũng theo chủ nghĩa vô trị, nhưng khuynh hướng Nga, của nhà triết học Nga, Michail Bakounine (1814 – 1876), tham dự; điều nàylàm Marx và Engels bất mãn. Nhưng đến đại hội họp ở La Haye (Hòa lan), năm 1872, sự kình chống giữa những người theo tư tưởng của Marx, chủ trương « Độc tài vô sản «  và những người theo chủ nghĩa vô trị khuynh hướng Proudhon và Bakounine, đi đến chỗ quyết liệt. Marx tự lấy quyền trục xuất những người của Bakounine ra khỏi đại hội, làm ông này sau đó thành lập Quốc tế những người theo chủ nghĩa vô trị. Tổ chức này họp đại hội cuối cùng vào năm 1881.
II)  Sự khác biệt về Tiền Quốc tế Cộng sản và Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản.
Như chúng ta thấy, ngay trong Đại hội tiền Quốc tế Cộng sản và trong Đệ Nhất Quốc tế Cộng sản đã có 2 khuynh hướng chống nhau như mặt trời mặt trăng, như nước với lửa : khuynh hướng chủ trương vô trị, chủ trương vô chính phủ ; khuynh hướng chủ trương độc tài, với chính phủ, nhất là đảng độc tài mạnh. Một thí dụ điển hình là Marx và Proudhon, hai người này gần như cùng thời, trao đổi tư tưởng với nhau rất nhiều. Marx đã từng khen những bài viết của Proudhon về kinh tế : « Ông đã đánh vào thành trì kinh tế của tư bản ». Hai người có bút chiến với nhau. Proudhon viết quyển Philosophie de la misère ( Triết lý của sự nghèo khổ), Marx trả lời lại bằng cách viết trực tiếp bằng tiếng Pháp, quyển Misère de la Philosophie (Sự nghèo nàn của triết học).
Tuy nhiên Proudhon phản đối kịch liệt Marx qua quan niệm « Độc tài vô sản «, vào ngay thời đó, ông đã tiên đoán: « Nếu tư tưởng của Marx được thực hiện, thì nó sẽ trở thành con sán lãi của xã hội. » Ngày nay qua 100 năm thực hiện lý tưởng của Marx, với những nước cộng sản đã biến mất, như Liên sô và Đông Âu, và với những nước cộng sản còn lại, chúng ta thấy quả lời tiên đoán của Proudhon là đúng. Nhà nước cộng sản không biến mất như lời Marx tiên đoán, mà càng ngày càng lớn mạnh, cộng thêm với đảng Cộng sản, đặt trên tất cả mọi tổ chức, tiêu sài phung phí từ tiền thuế của dân. Quả thật là 2 con sán lãi khổng lồ.
III)  Sự ra đời Đệ Nhị Quốc tế Cộng Sản 
Marx lấy quyền độc đoán giải tán Đệ Nhất quốc tế Cộng sản. Nhưng từ ngày tổ chức này bị giải tán năm 1876 cho tới khi Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản được thành lập, năm 1889, ở Paris, có rất nhiều biến cố chính trị, xã hội, ý thức hệ ở Âu châu. Ở đây, tôi không thể đi quá vào chi tiết từng nước một, tôi chỉ lấy tiêu biểu là nước Đức, mà đảng Dân chủ xã hội, vừa mới kỷ niệm ngày 23/05/2013, tại Leipzig, 150 năm ngày thành lập đảng, tức là vào năm 1863.
Vào ngày nói trên, năm 1863, Ferdinand Lassalle (1825 – 1864), nhà đấu tranh cho thợ thuyền Đức, đã lập ra Tổng Hội những người Thợ thuyền Đức ( Association générale des travailleurs ); tổ chức này là tiền thân của đảng Dân chủ xã hội Đức. Có thể nói ông là bạn thân của Marx và Prouhon. Nhưng ông đã đứng giữa 2 quan điểm và lập trường quá khích của 2 người này. Theo Lassalle và những người theo đảng Dân chủ xã hội Đức sau này thì mục tiêu của đảng nhắm tới « Thay đổi xã hội bằng chính sách giải phóng con người, nhằm tạo ra sự tham gia của quảng đại quần chúng vào đời sống chính trị. Mục tiêu này trước hết bao gồm giáo dục, cưỡng bách giáo dục đối với mọi người, khuyến khích các nghiệp đoàn mở các lớp học cho thợ thuyền, nhằm giúp đỡ mọi cá nhân thăng tiến. Giải phóng con người bằng cách thực hiện các quyền đã ghi thành luật pháp, nhất là bằng cách mỗi người tự nâng cao sự hiểu biết và quyền năng của mình…. Trong thời kỳ đảng Dân chủ xã hội mới được thành lập, với Cương lĩnh Eisenach năm 1869, có ghi rõ : bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp xã hội của những người tham gia bầu cử…… Thêm vào đó là luật cấm lao động trẻ em và sự độc lập của tòa án…..
«  Nhưng phong trào cộng sản thế giới đã quyết định cho mình một con đường đấu tranh khác, hiển nhiên với những hậu quả vô cùng khủng khiếp của nó. Phong trào này thiết lập lên một giai cấp thống trị mới, và đã thay thế sự thống trị cũ bằng sự thống trị mới….. Còn quyền tự do, công bằng, ấm no…. , người dân chỉ được nghe và ngóng chờ, chứ không thấy được thực hiện.
«  (Trích Bài Diễn văn của Tổng Thống Đức Joahim Gauck, đọc tại Leipzig ngày 23/05/2013, nhân kỷ niệm ngày thành lập 150 năm đảng Dân chủ Xã hội Đức). 
Thực vậy, đảng Dân chủ xã hội Đức được thành lập vào thời kỳ mà nước Đức, đúng ra là nước Phổ ( Prusse),  phát triển rất mạnh, dưới sự cai trị của vua Guillaume I, và thủ tướng Otto Bismark (1815 – 1898). Ông này nắm quyền 29 năm từ năm 1862, một năm trước khi Lassalle thành lập đảng Dân chủ Xã hội, cho tới năm 1890. Nước Đức trở thành đệ nhất cường quốc Âu châu thời bấy giờ và đã đánh thắng Pháp năm 1870. Sau khi Lassalle chết, hai người điều khiển đảng Dân chủ Xã hội Đức là Karl Kautski (1854 – 1938) và Eduard Bernstein (1850 – 1932).
Bernstein được coi như lý thuyết gia của đảng và tư tưởng của ông hoàn toàn chống lại tư tưởng của Marx. Ông quan sát sự phát triển mạnh mẽ của Đức thời bấy giờ, từ giữa thế kỷ 19 tới cuối thế kỷ này, ông nhận thấy xã hội Đức không phân chia làm 2 giai cấp, mà ít nhất là 3 giai cấp. Đồng ý là có giai cấp chủ và thợ, nhưng ở giữa có giai cấp trung lưu, xuất thân từ con cháu của giai cấp thợ, tiến thân được là nhờ chịu khó và học hỏi. Giai cấp này đã đóng vai trò chính và tích cực cho sự phát triển. Từ đó ông phản bác lý thuyết của Marx là không có tính chất khoa học, vì không đúng với sự tiến triển của xã hội.
Thêm vào đó, Bernstein cho rằng không cần phải làm cách mạng, nhất là cách mạng bạo động, như Marx chủ trương. Người ta có thể thay đổi xã hội, thay đổi đời sống công nhân qua một chế độ đại nghị, tôn trọng luật lệ, tôn trọng bầu cử tự do và tôn trọng những quyền căn bản của con người, trong đó có quyền thành lập hội đoàn. Ông còn cho Marx là hồ đồ qua việc chỉ trích những người lãnh đạo đảng Dân chủ xã hội Đức là tay sai của tư bản (valets des capitalistes), trong quyển sách mà Marx viết chung cùng Engels chỉ trích Chương trình Gotha et d’Erfurt (1875, 1891) vào 2 kỳ đại hội của đảng này, cũng như hồ đồ qua việc cho rằng Nhà nước tức chính quyền cũng chỉ là công cụ, tay sai của tư bản. Vì ông quan sát nhà nước Đức từ giữa thế kỷ 19 cho tới cuối thế kỷ, qua chính quyền của Otto Bismark, thì ông thấy không phải lúc nào chính quyền cũng đứng về phía tư bản, mà chính quyền là trọng tài giữa tư bản và thợ thuyền, nhiều khi đứng về phía thợ thuyền nông dân nhiều hơn, như việc chính quyền đã ban hành luật xã hội đầu tiên của Âu châu (1883, 1889), theo đó người dân, nhất là thợ thuyền có quyền được bảo đảm về bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp và tuổi già.
Trong tinh thần đó, vào tháng 7/1889, các đảng Dân chủ xã hội, Xã hội của Âu châu, họp Đại hội thành lập ra Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản, theo đó : 1) Vẫn giữ tư tưởng đấu tranh giai cấp của Marx ; 2) Nhưng chống lại tư tưởng độc tài vô sản ; 3) Chủ trương đi đến một nền cộng hòa đại nghị, người dân được tự do bầu cử người đại diện của mình, cho một quốc hội dân cử để đi đến một chính quyền dân cử thật sự.
Chúng ta nên nhớ là lúc này Marx đã chết, 1883, chỉ còn Engels. Cuối đời Marx và ngay cả Engels, hai người đều nhận thấy rằng có nhiều điều sai lầm trong lý thuyết của mình, vì có nhiều đồ đệ bỏ, chẳng hạn như Paul Lafargue, con rể Marx, người trước đó đã giúp Marx và Engels rất nhiều, như tóm tắt và dịch quyển Chống lại Durhing ( Anti – Durhing) của Engels ra tiếng Pháp, đã bỏ Marx, theo chủ nghĩa vô trị, khiến Marx phải nói câu: « Tôi hy vọng rằng Lafargue là người cuối cùng theo chủ nghĩa vô trị. » Ngay cả con gái của Marx, vợ của Lafargue, Laura Fargue, người đã dịch quyển Tuyên Ngôn thư ra tiếng Pháp, cũng bỏ Marx, trở về đạo của tổ tiên, tức Do Thái giáo.
Theo Claude Mazauric, người viết lời Mở đầu ( Lire le Manifeste) quyển Tuyên Ngôn thư, thì: « Người ta nhận thấy rằng, sau này, những đồ đệ của tác giả quyển Tuyên Ngôn, và ngay chính cả Engels, vào cuối đời, năm 1895, khi nhìn thấy tình trạng trưởng thành của Phong trào thợ thuyền và xã hội, họ đã đi đến giả thuyết cho rằng một nhà nước cộng hòa dân chủ và một cuộc bầu cử qua phổ thông đầu phiếu đã trở thành con đường duy nhất để những người thợ thuyền, nam hay nữ, có thể thoát khỏi sự thống trị của xã hội tư bản. «  ( Marx và Engels – Manifeste du Parti communiste – Traduction de Laura Lafargue, précédé de Lire le Manifeste par Claude Mazauric – trang 9 – Edition www.Librio.net – 1998). 
Trở về Đệ Nhị quốc tế Cộng sản, chúng ta thấy ngay từ lúc đầu đã có sự chia rẻ giữa «  khuynh hướng Trung« của Kautski và «  khuynh hướng cực đoan » của Lénine, vẫn giữ quan niệm « Độc tài vô sản «, «  cách mạng bạo động «. 
Vào tháng 2/ 1919, trước khi có việc tách ra của Lénine để lập Đệ Tam Quốc tế, Đệ Nhị có họp Đại hội ở Berne, rồi ở Genève ( tháng7/1920), tiếp theo đó là Đại hội ở Hamboug ( 1923) bởi những người xã hội khuynh hướng trung tả, mà về sau người ta thường gọi những người này là Đệ Nhị Một Nửa ( 2-1/2).
Đệ Nhị thực sự không hoạt động từ năm 1939, nhường chỗ cho Quốc tế Xã hội, thay vì là Quốc tế Cộng sản, và họp Đại hội từ ngày 30/06 tới ngày 03/07/1951, ở Franfort,  Đức. 
Quốc tế Xã hội được thành lập từ đó và hoạt động mạnh mẽ cho tới ngày hôm nay bao gồm 180 thành viên trên toàn thế giới, trong đó có nước Đức và đảng Dân chủ Xã hội, vừa mới kỷ niệm 150 năm thành lập, giữ một vai trò rất quan trọng. 
Chúng ta biết, từ ngày đầu thành lập năm 1889, cho tới sau Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Quốc tế cộng sản có rất nhiều chia rẻ nội bộ, vì ý thức hệ, vì thái độ cần phải lấy trước khi thế chiến xẩy ra. Thế rồi thời gian trôi qua, Thế chiến xẩy ra, rồi kết thúc, lợi dụng tình thế trước khi thế chiến chấm dứt, Lénine, lúc đó đang sống lưu vong ở Thụy sĩ, tuyên bố: «  Hòa bình bằng bất cứ giá nào, ngay dù phải nhượng đất để có hòa bình và có quyền. »
Vì lẽ đó mà chính quyền quân chủ Đức Guillaume I I và Bộ Tham mưu đã tìm cách đưa Lénine về để cướp chính quyền. Hành động này của Bộ Tham mưu Đức rất là tính tóan và khôn ngoan, bắn một mũi tên  nhằm 3 con chim : 1) Lúc đó Bộ Tham mưu Đức đang phải đương đầu với 2 mặt trận lớn, Đông bắc với Nga của Nga Hoàng Nicolas I I, Tây nam với Pháp, giờ muốn dồn lực vào mặt trận chính tây nam ; 2) Ở trong phần lớn các nước Âu châu, khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, không theo khuynh hướng của Lénine, rất mạnh, nhất là ờ Đức, chính quyền sợ có vụ dân nổi lên làm cách mạng, nên đã đánh lạc hướng bằng cách giúp Lénine về nước, làm giảm uy thế của cánh trung của Kautski trong Đệ Nhị Quốc tế ; 3) Đấy là chưa nói, khi Lénine về nước cướp được chính quyền, thì cử Trotski đi họp hội nghi Brest – Litovsk vào tháng 3/1918 với Đức và cắt đất cho Đức. 
Tuy nhiên khi lòng dân thay đổi, chán chế độ quân chủ, tình thế không cho phép, thì dù « Bắn mũi tên khôn ngoan «  thế nào chăng nữa cũng không cứu vãn được tình thế. Đức thua trận, chính quyền quân chủ Đức Guillaume I I bị sụp đổ. Chẳng khác nào như sự sụp đổ của Liên sô và các nước cộng sản Đông Âu gần đây. Khi lòng dân đã đổi chiều, khi mà tình trạng xã hội đã không còn cách cứu chữa, đến nỗi trước khi chết, Brejnev phải than lên : « Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là giả, công chức đến sở làm việc là để chỉ có mặt, sau đó thì đi coi hát hay đi làm việc riêng ! «.
Nhiều người đỗ lỗi cho Gorbatchev. Nhưng không phải vậy. Gorbatchev chỉ muốn sửa đổi, cải cách chế độ. Nhưng « chế độ cộng sản gần như không thể cải cách, mà phải thay đổi «, như Boris Eltsine nói, thêm vào đó lòng dân đã quá chán ngán và tình trạng đã trở nên quá trầm trọng.
Trở về với Quốc tế Cộng sản, sau khi được Bô Tham Mưu Đức, đưa từ Thụy sĩ về trong một toa xe lửa bọc sắt, trong đó có cả mấy người tình báo Đức, nói tiếng Nga rất giỏi, được sự giúp đỡ tiền bạc của Đức, với số tiền này, Lénine đã đưa cho Trotsky tổ chức những khóa học cho đội cảm tử cách mạng ( Commendots révolutionnaires ), đợi thời cơ đảo chính cướp chính quyền. Và chuyện đến đã đến : Tháng mười năm 1917, Trotsky đã làm cuộc đảo chính chính quyền Kérensky thuộc đảng Xã hội Thợ thuyền Nga, nằm trong Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản.
Sau khi cướp được chính quyền vào đầu năm 1918, Lenine đã tổ chức cuộc bầu cử quốc hội lập pháp. Tuy nhiên kết quả bầu cử cho thấy phe của Lénine đã bị lâm vào thiểu số. Lénine lấy quyền lúc đó là đang nắm cơ quan hành pháp, giải tán quốc hội này. Hành động này của Lénine và những người của Đệ Tam mà Lénine lập ra sau này, chẳng coi bầu cử và ý dân là gì cả. Chính vì vậy mà bà Rosa Luxembourg, bạn của Lénine, cùng đấu tranh trong Đệ Nhị, đã viết thư cho ông vào cuối đời bà, 1919, như sau : « Đảng và nhà nước độc tài mà anh dựng lên, anh bảo rằng để phục vụ thợ thuyền và nhân dân; nhưng trên thực tế nó chẳng phục vụ một ai cả, vì nó đã đi ngược lại những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội : Đó là tôn trọng tự do và dân chủ «. 
Đây là điểm khác biệt chính và lớn nhất giữa Đệ Nhị và Đệ tam Quốc tế Cộng sản. 
IV) Đệ Tam Quốc tế Cộng sản 
Sau khi cướp được chính quyền, sau gần 2 năm nội chiến, tháng 3/1919, Lénine (1870 – 1924) lập ra Đệ Tam Quốc tế Cộng sản.
Như trên đã nói, Lénine vẫn tin ở tư tưởng bạo động lịch sử, cách mạng tất yếu; nhưng những biến cố xẩy ra ở Hung gia lợi năm 1918 và ở Đức năm 1919, làm Lénine thất vọng, quay sang hy vọng ở phía đông, ở Á châu, vì vậy Lénine đã ký Hiệp ước thân thiện với Tôn dật Tiên năm 1923, giúp họ Tôn mở trường Hoàng Phố ở Quảng Đông, mở trường Tôn dật Tiên, lúc đầu ở Moscou, sau đó là trường Đông Phương. Trong Đại hội lần thứ 4, năm 1923, đại hội cuối cùng của Đệ Tam với sự có mặt của Lénine, ông tuyên bố: « Chủ nghĩa cộng sản sẽ đi qua cửa ngõ Tân đề li (Ấn độ), Bắc kinh ( Tàu), rồi sau mới tới Bá linh (Đức) và Paris ( Pháp)… ».
Về trường Đông phương, những người cộng sản sau này thổi phồng lên là đại học, trên thực tế thì trình độ rất thấp; vì để được vào học, chỉ cần chứng chỉ làm việc thợ thuyền trong 2 năm ở một hãng xưởng. Chương trình học có lý thuyết đơn giản về cộng sản, còn phần lớn là dạy phá hoại, hoạt động bí mật, chẳng hạn để được nhận vào, học viên phải tự mình làm ra 2 phiếu lý lịch giả và phải học thuộc lòng.
Sau khi họp Đại hội lần thứ 4 của Đệ Tam, thì Lénine chết. Người chủ tịch đầu tiên của Đệ Tam là Zinoviev (1919 – 1926), sau đó được thay thế bởi Boukharine (1926 –  1929), rồi Molotov (1929 – 1934), Manouilski, cuối cùng là Otto Kuusisen.
Đệ Tam bị Staline giải tán vào ngày 15/5/1943). 
Vì vẫn tin ở bạo động lịch sử, những người chóp bu của Đệ Tam, thực ra là của đảng Cộng sản Liên sô, tiêu biểu là Trotsky (1879 – 1940), nắm Nhà nước và quân đội, và Staline (1879 – 1953), nắm Đảng, đã xẩy ra cuộc đấu đá, tranh quyền giữa 2 người rất là khốc liệt. Hai người đã công khai dùng hết tất cả phương tiện của mình, một bên là nhà nước, một bên là đảng tố cáo nhau là phản cách mạng, là phản dân tộc, phản con đường đã vạch ra bởi Lénine. Tuy nhiên, vì theo như Lénine khi lập ra đảng cộng sản Liên sô, thì đặt đảng này trên tất cả mọi tổ chức, nay Staline nắm đảng, nên phần thắng đã về Staline.
Mặc dầu Totsky được những người như Zinoviev, Kamanev ủng hộ lúc đầu, nhưng sau cũng thua.
Zinoviev, Chủ tịch đầu tiên của Đệ Tam, sau đó bị Staline cướp hết quyền hành, sống ẩn dật ở Liên sô, cho mãi tới năm 1978 thì trốn sang Tây Đức và sống ở Munich. Về cuối đời ông đã viết rất nhiều sách, tố cáo chế độ độc tài toàn trị Staline, dưới dạng tiểu thuyết, thơ văn, bình luận, như quyển Không còn Ảo tưởng ( Sans Illusion) xuất bản năm 1979, quyển Cộng sản như một Thực tế ( Communisme comme réalité) xuất bản năm 1981. Kamanev, người rất quan trọng trong thời Lénine, sau đó bị Staline kết án tử hình, trong một phiên tòa nổi tiếng được gọi là Phiên tòa Moscou vào năm 1935. Nó chẳng khác gì những phiên tòa của Đức Quốc xã Hitler, vì lúc này Hitler đã lên nắm quyền ở Đức. 
V) Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản
Trotsky bị bị tước hết quyền hành năm 1925, bị loại khỏi đảng năm 1927, bị đi đày, rồi bị trục xuất khỏi Liên sô năm 1929. Sau đó ông lập ra Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản năm 1938, rồi bị Staline cho người theo dõi và ám sát chết ở Mễ tây cơ năm 1940. Ông có viết nhiều sách, nhưng theo tôi nghĩ, 2 quyền quan trọng sau này trước khi chết và có liên quan đến Đệ Tứ, đó là : Cách mạng thường trực ( La Révolution permanante) và quyển Cách mạng bị phản bội ( La Révolution trahie).
Trở về với Đệ Tam Quốc tế Cộng sản và tình hình Liên bang sô viết sau khi Lénine chết và sau khi Trotsky bị trục xuất, thì Staline nắm tất cả mọi quyền hành, từ Đệ Tam cho tới tình hình chính trị của Liên sô.
Staline đã làm những cuộc thanh trừng vô cùng đẫm máu và khốc liệt. Suốt từ khi nắm trọn quyền cho tới khi chết, thanh trừng trong Đảng, 90% người của Trung Ương và Bộ Chính trị và 90% sỹ quan cao cấp trong quân đội. Những cuộc thanh trừng và đàn áp giết dân này, có sử gia cho rằng có 20 triệu người chết vì ông ta và chế độ Cộng sản Đệ Tam, có người nói con số lên đến 35 triệu. 
VI)   Cuộc đấu đá giữa Staline và Trotsky 
Hai người tố cáo lẫn nhau là phản bội. Nhưng câu hỏi đến với chúng ta, đó là: Ai phản bội ai ? Phản bội Marx, Engels, phản bội Lénine ?
Như trên chúng ta vừa nhận định, về cuối đời Marx (1883) và nhất là Engels (1895) đã hoài nghi về quan niệm  « Độc tài vô sản « và «  cách mạng bạo động ».Trong khi đó con gái, con rể và các đồ đệ của Marx lại chấp nhận tư tưởng cho rằng con đường giải phóng thợ thuyền khỏi sự bóc lột của tư bản là một thể chế cộng hòa, đại nghị, trong đó quyền tự do bầu cử, tự do hiệp hội phải được tôn trọng. Đó là con đường duy nhất và hay nhất. 
Ở điểm này chúng ta thấy không phải chỉ Staline, Trotsky mà ngay cả Lénine đã phản bội Marx.
Thêm vào đó Marx cho rằng cách mạng cộng sản chỉ có thể xẩy ra và thực hiện ở những nước kỹ nghệ. Trong khi đó Lénine, Staline và Trotski làm cách mạng cộng sản ở nước Nga, vào lúc đó phần lớn là nông nghiệp, lạc hậu, phần nhỏ mới kỹ nghệ. 
Marx không bao giờ chủ trương độc đảng. Ngay trong Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng sản, Marx để nguyên một chương cuối với đề tựa: « Lập trường của những người cộng sản đối với những đảng đối lập khác «  ( Position des communistes envers les différents partis d’opposition.) ( Le Manifeste du Parti communiste – trang 59 – Nhà xuất bản Union générale d’Eđitions – Paris 1962), Trong khi đó thì Lénine trong đó có cả Staline và Trotsky chủ trương độc đảng. 
Phản bội đối với Lénine ? 
Nhiều người cho rằng Staline trung thành với Lénine hơn Trotsky. Họ đã lầm. Bề ngoài, trên lý thuyết, thì Staline tỏ vẻ trung thành với Lénine, vì ông đã viết quyển sách «  Những nguyên tắc của chủ nghĩa Lénine « ( Les principes du léninisme ); nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Như chúng ta đã biết ngày hôm nay qua sử liệu, thì Lénine bị bệnh giang mai ( syphilis) vào giai đọan cuối, nhiễm vào tủy và óc, nên bị liệt nửa người. Người lo chăm sóc cho Lénine không ai khác hơn là Staline. Vào cuối đời, Lénine đã ý thức được tính cách không tưởng của chủ nghĩa Marx qua kinh tế tập trung, nên ông đã làm chính sách Kinh tế mới ( NEP), và sự lầm lẫn của mình qua việc chủ trương độc đảng, đặt đảng lên trên mọi tổ chức của quốc gia, và nhất là việc trao cho Staline nắm đảng. Ông muốn loại Staline khỏi chức vụ này, đã viết thư cho Trung Ương đảng, nhưng Staline đã cài người quanh Lénine, bức thư trao cho một người y tá, nhưng bị Staline giữ lại. Từ đó, ông đã hại Lénine bằng cách cho liều độc dược cao, vì lúc này chưa có thuốc trụ sinh để chữa bệnh giang mai, chỉ có thể làm giảm đau qua việc uống độc dược. Staline cho Lénine uống liều độc dược cao, đi đến chỗ chết, chính vợ Lénine đã tố cáo Staline.
VII)  Sự ra đời của Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản, sự tương đồng và khác biệt giữa Đệ Tam và Đệ Tứ 
Sau khi bị tước mọi quyền hành năm 1925, bị trục xuất khỏi Đảng năm 1927, khỏi Liên sô năm 1929,  sống lẩn trốn và hoạt động bí mật ở châu Âu, chống Staline, lập ra Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản năm 1938, rồi trốn sang Mễ tây cơ, Trotsky vẫn bị Staline cho người theo dõi, và ám sát chết năm 1940 ở nước này.
Đệ Tứ Cộng sản qui tụ tất cả những người cộng sản, bất mãn với Staline và Đệ Tam, hoạt công khai hay bí mật trong những đảng, những phong trào thợ thuyền cực tả ở những nước Tây Âu, tất nhiên không thể nào ở những nước cộng sản theo Staline, chẳng hạn như ở Việt Nam, những người theo Đệ Tứ như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm v.v… đều bị trù dập, thủ tiêu bởi đảng Cộng sản ( theo Đệ Tam). 
Có người nói không có gì khác biệt giữa Staline và Trotsky, giữa Đệ Tam do Lénine lập ra, Staline kế tiếp, và Đệ Tứ do Trotsky lập ra ? 
Lời nói trên cũng không sai, vì cả 2 tổ chức đều lấy lý thuyết của Marx làm nền tảng, vẫn giữ quan niệm bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp và quan niệm độc tài vô sản. Tuy nhiên cũng có điểm khác biệt, nhất là từ khi Staline đưa ra quan niệm «  Cộng sản trong một nước « ( Communisme dans un seul Etat ), cho rằng phải xây dựng củng cố chế độ cộng sản trong nước Liên sô trước tiên, rồi sau đó mới nghĩ đến việc bành trướng ra thế giới. Trotsky đã chỉ trích mạnh mẽ quan niệm này, cho rằng làm như vậy chỉ làm thui chột nhuệ khí cách mạng cộng sản ở trên thế giới và hơn thế nữa chỉ gói ghém tinh thần đế quốc, làm cho tinh thần cách mạng cộng sản thế giới bị phản bội. Trotsky nói đến Cách mạng bị phản bội ( Révolution trahie) là như vậy.
Người khác cho rằng : Nếu Đệ Tam quốc tế không do Staline lãnh đạo, mà do Trotsky lãnh đạo, thì lịch sử nhân loại không có những trang sử đau thương và đẫm máu, với cả trăm triệu người chết, vào thế kỷ 20. Dầu sao đây cũng chỉ là một giả thuyết và lại dùng chữ nếu. Người Pháp có câu châm ngôn: «  Với chữ nếu, người ta có thể bỏ cả thành phố Paris vào trong một cái chai ». Nói rằng Đệ Tứ ít bạo động hơn Đệ Tam, ít giết người, và hơn thế nữa những người Đệ Tứ còn bị giết bởi người Đệ Tam. Nhưng hoàn cảnh lịch sử có khác. Đệ Tứ không có nắm quyền, nếu có quyền thì cũng tàn sát như Đệ Tam, vì vào thời đầu Cách mạng Liên sô 1917, lúc đó Trotsky là người thứ nhì sau Lénine, đã có những cuộc tàn sát đẫm máu ở Nga. Chính Trotsky cho rằng  phải phát động nội chiến để tiêu diệt, nhận chìm ( noyer) những khó khăn nội bộ. Ông còn chủ trương Cách mạng liên tục. Ông viết quyển Cách mạng thường trực ( La Révolution permanante) là thế. Những tổ chức của Đệ Tứ, ở những nước tây Âu, nhiều khi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, không được hoạt động là vì tính bạo động của nó. 
Hơn bao giờ hết, khi nói đến Quốc tế Cộng sản, chúng ta đừng vơ đũa cả nắm, mà cần phân biệt giữa Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ Tứ. Hai Quốc tế Cộng sản đã có dịp nắm quyền là Đệ Nhị, như đảng lao Động bên Anh, đảng Xã hội bên pháp, đảng Dân chủ Xã hội bên Đức mà họ vừa mới kỷ niệm 150 năm ngày thành lập, và nhiều đảng xã hội bên bắc Âu và Đệ Tam với những nước như Liên Sô, Đông Âu, trước đây và ngày hôm nay còn lại với Trung cộng và Việt cộng. Chỉ có những chính quyền của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản mới độc tài, giết người, bắt đầu từ Lénine qua Staline, Mao, Hồ và Pol Pot. 
Nhưng câu hỏi đến với chúng ta là tại sao như vậy. 
Như trên tôi đã  trích câu nói của một nhà tư tưởng: « Lòng tin tưởng thái quá vào một chủ thuyết là kẻ thù lớn nhất của chân lý, sự thật và còn nguy hiểm hơn cả sự lừa đảo. » 
Và không đâu xa, một người Việt Nam, ông Lê xuân Tá, đã từng là Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật của đảng Cộng sản Việt Nam, cũng đã viết: « Sự ngu dốt và thấp hèn, tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành quỷ nhập tràng. Và con quỷ này, hơn bao giờ hết, nó ý thức rất rõ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó, chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh. Nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, vô nhân đạo và không thương tiếc. Cách mạng Hồng vệ Binh bên Tàu là thế. Vụ Nhân văn Giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Tuy nhiên, vì nó là ngu dốt và thấp hèn,  nên những thứ này, lâu ngày đã trở nên sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng, trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. » 
Câu này không những đúng cho những người Đệ Tam quốc tế Cộng sản, mà đúng cho cả Marx, Engels, Lénine, Staline, Mao, Hồ và Pol Pot. 
Chúng ta đừng nghĩ những người có học cao mà không ngu dốt, càng có học cao, mà càng mù quáng, tin thái quá vào một chủ thuyết, thì không còn thấy đâu là sự thật, chân lý và khoa học (1). 
Bắt đầu bằng Marx, vì ông quá tin tưởng vào những điều ông viết; nhưng ngày hôm nay người ta thấy nó phản sự thật, phản khoa học.
Tiếp theo là đồ đệ của ông, ngoài việc mù quáng tin vào lý thuyết của Marx, lại được trao quyền lực và đã có sẵn vi trùng ghen tỵ là tư tưởng đấu tranh giai cấp và bạo động lịch sử, đã biến lý thuyết ông trở thành giáo điều, những ai chống lại đều phải loại bỏ, trở thành một sự lừa đảo, và hơn thế nữa trở thành quỉ, như ông Lê xuân Tá nói. 
Lénine thì được bộ Tham mưu Đức đưa từ Thụy sĩ về nước rồi cướp được quyền lực. Những người lãnh đạo đảng cộng sản Đông Âu thì được Đệ Tam Quốc Tế lúc đầu, sau đó là Liên sô trao quyền. Mao, Hồ, Kim nhật Thành, Pol Pot thì được Cộng sản Liên sô đưa về cướp chính quyền, trao quyền lực, và cấy vào vi trùng ghen tỵ là lý thuyết đấu tranh giai cấp. 
Vì lẽ đó mà nhân loại có những trang sử đẫm máu nhất vào thế kỷ 20, với 100 triệu người là nạn nhân của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản, được chia ra như sau :
- Liên sô, 20 triệu người chết.
- Tàu, 65 triệu người chết.
- Việt Nam, 1 triệu người chết.
- Bắc Hàn,   2 triệu.
- Căm bốt,   2 triệu.
- Đông Âu,  1 triệu.
-  Châu Mỹ La tinh, 150 000 người chết.
-  Phi châu, 1,7 triệu người chết.
-  A phú hãn, 1,5 triệu người.
-  Những phong trào cộng sản và những đảng cộng sản khác không nắm chính quyền, nhưng theo Đệ Tam, hàng chục ngàn người chết.
( Theo Stéphane Courtois, Nicolac Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek, Jean Louis Margolin – Le Livre Noir du Communisme – Crimes, terreur, répression – trang 8 – Nhà xuất bản Laffont – Pháp – 1997).
Bởi vậy Quốc hội Âu châu đã biểu quyết đạo luật 1481 kết án cộng sản, tức Đệ Tam, là diệt chủng, và  ông Gorbatchev, cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản của Liên sô trước đây, đã nói: « Tôi đã bỏ hơn nửa đời người phục vụ cho lý tưởng cộng sản ( tức Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản – Lời của người viết bài này); nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo ».
Dân tộc Nga và Đông Âu đã can đảm đứng lên lật qua trang sử đau thương của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản.
Dân tộc Tàu, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu ba hãy can đảm vùng lên viết lại trang sử mới cho chính mình.
Paris ngày 11/09/2013
Chu chi Nam

2036. AL-QAEDA TRONG BỐI CẢNH ĐỊA CHIẾN LƯỢC MỚI

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ Nhật, Ngày 8/9/2013
TTXVN (Algiers 10/9)
Liên minh cưỡng lại suy tàn
Al-Qaeda chỉ là một hiện tượng truyền thông bị các nước phương Tây và Arab khai thác một cách quá mức và tuyên truyền quá độ để thực hiện mục đích chính trị của mình. Đó là nhận xét của ông Mohamed Sarif, chuyên gia người Maroc về các nhóm Hồi giáo, khi nói về tổ chức khủng bố lớn nhất thế giới này trong bối cảnh hiện nay. Lý giải vấn đề này trên tạp chí “Focus ”, ông khẳng định từ sau vụ đánh bom tòa tháp đôi ở New York, al- Qaeda suy sụp nhanh chóng, từ đó phải tính tới liên minh với trào lưu thánh chiến và các nước phương Tây, như những gì diễn ra ở Lybia, Tunisia và Ai Cập đã và đang cho thấy. 
Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 dẫn đến nhiều thay đổi trong hơn mười năm qua. Thế giới chứng kiến một loạt thay đổi lớn tại các chế độ phương Tây tự do, từ đó tác động đến các đối tác của họ trong thế giới Arab. Trong đó phải kể đến bốn thay đổi cơ bản. Thứ nhất, khái niệm nhà nước, vốn rất hạn chế ở các nước phương Tây trước khi xảy ra vụ 11/9, xuất hiện trở lại trong việc bảo vệ quyền và tự do cá nhân. Thứ hai, các nước phương Tây quay lại với nguyên lý giữ gìn an ninh và ổn định bất chấp quyền và quyền tự do cá nhân. Thứ ba, phương Tây nhắm mắt làm ngơ trước nhiều hành vi quá đà về nhân quyền. Thứ tư và cuối cùng là khái niệm chủ quyền an ninh của các nhà nước không còn nữa vì các cơ quan an ninh buộc phải hợp tác với các cơ quan an ninh phương Tây, cụ thể là Mỹ, để tiến hành cuộc chiến quốc tế chống khủng bố, từ đó minh chứng cho việc khái niệm chủ quyền quốc gia không còn tồn tại.
Cụ thể hơn, bước chuyển biến thứ ba thể hiện ở việc phương Tây cố tình nhầm lẫn giữa khủng bố và kháng cự, như trường hợp các vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến của người Palestine và Chesnia. Thay đổi cuối cùng cho thấy các nước phương Tây có rất nhiều cố gắng để không nhầm lẫn giữa hai trào lưu tôn giáo: một bên là trào lưu chính thống với hai phái cực đoan và truyền thống và một bên là trào lưu Hồi giáo chính trị ôn hòa và thông thái. Hai trường phái này được phương Tây ủng hộ và khi kết hợp với nhau, muốn vươn tới một đạo Hồi tự do như một khái niệm mới. Tuy nhiên, phương Tây cũng qua đó khai thác mặt mạnh và mặt yếu của hai trào lưu này theo hướng có lợi cho mình, đặc biệt là tác động của phái cực đoan, với hiện thân là al-Qaeda và các nhóm khủng bố hay Hồi giáo thánh chiến khác, đối với các khu vực khác nhau với tư cách là một tổ chức.
Điều đó có thể nhận thấy được qua nhiều dấu hiệu, chẳng hạn như kết quả các chiến dịch của al-Qaeda từ khi ra đời đến nay. Có thể kể ra vụ khủng bố nhằm vào Đại sứ quán Mỹ tại Dar Es Salam (Tanzania) và nhiều vụ khác ở Saudi Arabia trước khi nổ ra vụ đỉnh điểm ngày 11/9/2001 và tiếp đó là các vụ đánh bom ở Madrid và Paris. Tất cả các vụ khủng bố đó vẫn là hạn chế so với những lời kêu gọi của Bin Laden phải tấn công phương Tây.
Nhưng al-Qaeda bắt đầu suy sụp kể từ khi Bin Laden bị tiêu diệt, tiếp đó là cái chết của Abderrahmane E1 Misrati, rồi Younes E1 Mauritani bị bắt. Tình thế của al-Qaeda lúc đó được giải thích là do tình báo Mỹ và Pakistan hoàn toàn làm chủ cuộc chơi với biêu hiện rõ ràng nhất là lịch trình được hai nước này quyết định để tiêu diệt Bin Laden. Đến lúc này, Al-Qaeda vẫn sẽ tồn tại với tư cách là ý tưởng để đối phó với phương Tây và các chế độ đế quốc, nhưng không còn là al-Qaeda với tư cách là tổ chức khủng bố. Người ta thấy xuất hiện một sự đồng cảm giữa trào lưu thánh chiến và phương Tây và những gì diễn ra ở Lybia của Gaddafi là một dấu hiệu cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc.
Trong một khoảng thời gian nhất định, al-Qaeda đã định gắn mình với các cuộc biểu tình trong “Mùa Xuân Arab” nhằm lợi dụng tình trạng bất ổn chính trị diễn ra sau khi một số chế độ sụp đổ, như ở Tunisia và Ai Cập, hay các cuộc đối đầu đẫm máu giữa người biểu tình và lực lượng an ninh như ở Lybia, Syria và Yemen. Mưu đồ muộn màng thâm nhập phong trào cách mạng này nảy sinh từ việc ý đồ phản kháng hòa bình ở các nước Arab dường như khiến al-Qaeda và các chế độ trong khu vực bị bất ngờ. Cả al- Qaeda lẫn chính phủ các nước này đều không nghĩ rằng bộ máy hùng hậu của các nhà nước nắm giữ quyền lực từ nhiều thập kỷ nay lại sụp đổ sau khi người biểu tình đưa ra yêu sách một cách hòa bình, xuống đường và chiếm các chốn công cộng.
Mặt khác, sự thức tỉnh muộn màng của al-Qaeda trước các sự kiện nổ ra trong thế giới Arab đã diễn ra trong lúc có thay đổi đáng kể trong cấp lãnh đạo của tổ chức này sau khi Bin Laden chết. Ayman al-Zawahiri, người thay thế Bin Laden, phải tìm kiếm các giải pháp có thể được để thoát khỏi thế bế tắc khiến al-Qaeda trở thành một tác nhân bị gạt ra rìa trong các cuộc biểu tình của “Mùa xuân Arab”. Y cũng cần phải xây dựng lại một tổ chức đã bị phân rã thành nhiều mảng. Trước khi chết, Bin Laden dường như cũng từng tuyên bố rằng mình không biết ai là chỉ huy trên thực địa của tổ chức này nữa vì họ lần lượt bị tiêu diệt chỉ một thời gian ngắn sau khi được chỉ định.
Có lần al-Zawahiri nói đến tình hình ở một số nước Arab và khẳng định tổ chức của y quyết tâm tiếp tục cuộc thánh chiến, nghĩa là các vụ đánh bom khủng bố. Tuy nhiên, thông điệp của thủ lĩnh al-Qaeda bị các phương tiện truyền thông phần nào bỏ qua. Điều này ít khi xảy ra trong quá khứ khi Bin Laden đưa ra thông điệp của tổ chức khủng bố này. Có thể đó là do báo chí, truyền thông quan tâm hơn đến những gì xảy ra ở các nước Arab, song cũng có thể xuất phát từ một việc mà bây giờ những người ủng hộ al-Qaeda dường như cũng phải thừa nhận. Đó là lối nói và những lời kêu gọi của al-Qaeda cũng như các thủ lĩnh của tổ chức khủng bố này đã trở nên lạc lõng và gần như không phản ánh nguyện vọng của đa số người Arab đứng lên chống lại chế độ ở nước họ nữa.
Giới chuyên gia cho rằng lời lẽ của al-Zawahiri dường như mang tính hòa giải đối với các phong trào Hồi giáo chính trị, kể cả phái cực đoan thánh chiến, với ý định thiết lập lại cầu nối đã bị cắt đứt giữa các phái với nhau. Al-Zawahiri chắc chắn biết một trong những lý do hàng đầu khiến al- Qaeda bị gạt ra khỏi các phong trào Hồi giáo chính trị, kể cả các trào lưu tin vào hoạt động vũ trang lẫn các trào lưu ủng hộ chính trị đa nguyên và hoạt động hòa bình. Trong cuốn sách nổi tiếng của mình có tựa đề “Mùa gặt cay đắng”, Al-Zawahiri phê phán với lời lẽ cay nghiệt tình anh em Hồi giáo của Ai Cập trong những năm 1980 và 1990. Y cũng mở một chiến dịch tiến công các thủ lĩnh Hồi giáo thánh chiến Ai Cập thuộc Nhóm Hồi giáo vì đã công bố một số báo cáo lên án việc sử dụng vũ lực chống các chế độ trong thế giới Hồi giáo cũng như những hành động thái quá của al- Qaeda trong các chiến dịch đánh bom khủng bố; Bức thông điệp mới của al-Zawahiri cho thấy một nỗ lực tuyệt vọng muốn lợi dụng các sự kiện chính trị đang diễn ra trong thế giới Arab, sau khi các ý định nhằm cùng những mục tiêu trước đó đã thất bại.
Al-Zawahiri cũng định nhảy vào cuộc khủng hoảng Lybia khi cảnh báo phương Tây “chiếm đóng” nước Hồi giáo này. Hội đồng dân tộc chuvển tiếp Lybia (NTC), đại diện cho lực lượng nổi dậy và được quốc tế công nhận, lúc đó đã gián tiếp đáp lại bằng cách tiếp tục tìm kiếm sự giúp đỡ cần thiết của các tổ chức quốc tế như NATO để bảo vệ dân chúng trước các cuộc tấn công của chế độ Gaddafi, Thủ lĩnh al-Qaeda cũng bày tỏ sự ủng hộ đổi với người biểu tình ở Syria chống chế độ Bashar al-Assad, từ đó đẩy nhửng người phản kháng Al-Zawahiri tới chỗ nhanh chóng xa rời tuyên bố của y bằng cách khẳng định sự ủng hộ đối với các cuộc biểu tình trong hòa bình, từ chối biến các cuộc biểu tình đó thành xung đột vũ trang. Điều đó có thể trở thành sự thật nếu al-Qaeda gia nhập phong trào này. Tại Ai Cập, al-Zawahiri muốn gia nhập phong trào nổi dậy khi kêu gọi thiết lập một hệ thống lãnh đạo dựa trên luật Hồi giáo, nhưng ý định đó không nhận được sự đồng thuận giữa các nhóm khác nhau trên thực địa trong cuộc cách mạng này.
Cũng có lần al-Zawahiri định nhắc lại với phái thánh chiến rằng Nhà tiên tri Mohamed Ali mất đi, song đạo Hồi không chết và al-Qaeda sẽ không mất đi khi Bin Laden chết. Y nói đến tầm quan trọng của “cuộc chiến thuyết phục” nhằm giành giật con tim và khối óc của các tín đồ Hồi giáo, và nhấn mạnh rằng một chiến dịch thuyết phục, về tầm quan trọng, tương ứng với một trận chiến. Y kêu gọi phong trào thánh chiến nỗ lực theo hướng đó vì phái này hiểu rõ bản chất của kẻ thù và biết làm thế nào để đáp lại những gì là “nói dối và sai trái” chống lại mình. Theo al-Zawahiri, phải thánh chiến phải khai thác các quyền tự do mới trong truyền thông để tuyên truyền tư tưởng thuận lợi cho cuộc thánh chiến vì cơ hội xuất hiện nhiều hơn sau khi các chế độ độc tài sụp đổ ở Tunisia và Ai Cập.
Thủ lĩnh al-Qaeda còn nhắc đến một số cá nhân mà y coi là “những người lính vô danh” và là những người tiến hành các chiến dịch tuyên truyền vì thánh chiến mà y gọi là “kỵ sĩ của cuộc thánh chiến”. Y yêu cầu những người làm việc tại các diễn đàn truyền thông ủng hộ sự nghiệp của al-Qaeda, cùng nhau cố gắng theo hướng đó. Đây rõ ràng là cách nói nhằm vào các phần tử ôn hòa và những người thường xuyên trao đổi trên Internet và tự cho mình là người ủng hộ thánh chiến và truyền tải nhiều thông điệp do các nhánh của al-Qaeda công bố.
Al-Zawahiri còn kêu gọi những người ủng hộ al-Qaeđa chống lại và chiến thắng Mỹ. Điều đó khẳng định y đi theo đường lối của Bin Laden trong cuộc chiến chống lại Mỹ và phương Tây nói chung. Chính lối nói đó góp phần làm tan rã al-Qaeda, một cái tên gắn với nhiều vụ giết người nhằm vào dân thường, dù đó là trên máy bay dân dụng, trong các tòa nhà thương mại, trên tàu hỏa, trong cửa hàng ăn, trong quán bar hay chỉ là những du khách bình thường đến thăm các nước Hồi giáo. Al-Zawahiri biết chắc chắn rằng những hành động theo hướng đó không những khiến al-Qaeda phải trả cái giá là không nhận được sự ủng hộ và thiện cảm của dư luận châu Âu, mà còn góp phần đáng kể vào việc làm mất đi sự ủng hộ của dân chúng các nước Arab. Nhiều báo cáo được công bố đã cho thấy rằng, tổ chức khủng bố này thậm chí không thể trông cậy vào giới thánh chiến được vì nhiều nhóm coi những hành động không có kết quả của al-Qaeda là vô nghĩa.
Khai thác thất bại kép của Mỹ
Được khích lệ bởi ngọn lửa của làn sóng nổi dậy làm rung chuyển thế giới Arab, thế hệ khủng bố thứ tư đang hình thành, hiện hữu và nguy hiểm hơn. Các sự kiện diễn ra ở Tunisia, Lybia, Yemen và bây giờ ở Syria, Ai Cập, là những yếu tố khích lệ đối với các mạng lưới của Al-Qaeda. Các sự kiện đó cũng lay chuyển chiến lược chống khủng bố của Mỹ với hoạt động tập trung vào vùng Trung Đông, Sahel và Yemen. Xuất phát từ những yếu tố trên, tạp chí “Afrique cho rằng al-Qaeda có thể được hưởng lợi từ thất bại kép của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố.
Khi đáp trả vụ khủng bố 11/9, Mỹ không những không khôi phục được sức mạnh đã mất của mình mà còn góp phần làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính vài năm sau đó. Từ đó, Chính quyền Bush rơi vào chiếc bẫy mà Bin Laden vô tình giương ra, mắc không ít sai lầm nghiêm trọng về kinh tế cũng như an ninh, góp phần làm cho nước Mỹ suy yếu.
Từ những năm 2000, người ta nói nhiều đến sự suy tàn của Đế chế Mỹ. Vụ khủng bố 11/9 chắc chắn không làm bộc lộ sự suy tàn của Mỹ, nhưng đóng vai trò quan trọng trong đó do cách thức mà George W. Bush muốn đáp trả. Không có gì buộc ông phải can dự vào cuộc chiến tranh Iraq trong khi đất nước này dĩ nhiên không chứa chấp cũng không giúp đỡ Bin Laden. Mỹ cũng không nhất thiết phải thực hiện chính sách an ninh ở trong nước và xóa bỏ một phần bảo trợ xã hội. Khi đáp trả các vụ khủng bố đó, Chính quyền Bush có ý định khôi phục sức mạnh của Mỹ chủ yếu bằng sức mạnh. Nhưng thất bại là quá rõ ràng.
Trước hết là về phương diện an ninh. Có thể nói rằng rốt cuộc, Mỹ đã thành công trong việc ổn định Iraq, mặc dù rất không hoàn chỉnh. Nhưng Mỹ không có khả năng đưa ra giải pháp cho Trung Đông, tái tạo lại không gian bên ngoài bằng sức mạnh. Tiếp đó là thất bại về kinh tế. Cái giá phái trả cho các cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan đã đào sâu thêm chiếc hố thâm hụt ngân sách và làm nảy sinh chu trình nợ chưa từng thấy trong các hộ gia đình Mỹ. Chính các yếu tố đó đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế thời kỳ 2007-2008 và cho đến nay phương Tây vẫn chưa thoát được ra hẳn. Đô đốc Mike Mullen, một trong những quan chức quân sự cấp cao nhất của Mỹ, đã có lý khi cho rằng “mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Mỹ là món nợ”. Mỹ không thể tiếp tục có được bộ máy quân sự như hiện nay, mặc dù đã yếu hơn cách đây 10 năm, nếu nền kinh tế nước này vẫn dựa vào các cơ sở thiếu lành mạnh. Như vậy, đó là một thất bại kép.
Liệu Mỹ có lâm vào thế yếu không? Trả lời câu hỏi này, nhà sử học và kinh tế học Laurent Samit, chuyên gia về các vấn đề chiến lược và Nga, đánh giá rằng chính trong những năm 1990-1992, khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ lúc đó là nước duy nhất kết hợp được sức mạnh quân sự và kinh tế, ảnh hưởng chính trị và văn hóa. Từ đó Mỹ được gọi là siêu cường, nhưng vì không có ai hơn. Bởi lẽ ai cũng biết rằng Mỹ gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng về kinh tế và một ngày nào đó sẽ bị Trung Quốc vượt qua và sức mạnh quân sự của họ không còn đi liền với khả năng đưa ra giải pháp chính trị cho các cuộc xung đột nữa. Trong thời kỳ 1992-2000, sức mạnh siêu đẳng đó đã tan biến. Bill Clinton nhiều lần định làm đúng những gì W.G. Bush đã từng làm: đe dọa Iraq, nói đến trường hợp Afghanistan… Nhưng ông đã dừng lại đúng lúc, chắc chắn vì êkíp giúp việc cho ông có trình độ. Các nhà dân chủ hiểu ra rằng Mỹ một mình không thể đưa ra giải pháp cả quân sự lẫn chính trị được nữa. Và đặc biệt là phải trả giá về kinh tế cho điều đó.
Về phần mình, Barack Obama được bầu trước hết là để giải quyết cuộc khủng hoảng ngân hàng. Nhưng ông cũng là ứng cử viên của phái “quốc tế hóa” gắn việc bảo vệ các nguyên tắc của Mỹ với vấn đề công nhận giá trị của các xã hội khác. Ngoài ra, chính sách của ông đúng ra có thể được coi là một thất bại nửa vời, thậm chí là thất bại hoàn toàn nếu nói về khủng hoảng kinh tế.
Trong lúc đó, Trung Quốc đang ghi điểm. Điều đó không có nghĩa là trong tăng trưởng của Trung Quốc không có điểm yếu, nhưng lúc này, Trung Quốc cho thấy họ có khả năng phát hiện, đánh giá và sửa chữa sai lầm trước khi xảy ra thảm họa. Bắc Kinh hoàn toàn hiểu được sự cần thiết phải tập trung vào phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh tiêu thụ ở trong nước. Muốn thế kỷ 21 là thế kỷ của mình và thế chân Mỹ, Trung Quốc phải có một kế hoạch bá quyền thế giới, nhưng điều này dường như không diễn ra. Rõ ràng là Trung Quốc muốn được công nhận như những gì mình đang có, cường quốc hàng đầu thế giới và chấm dứt “thế kỷ tủi nhục” (1890-1949). Nhưng dường như một khi đã vượt qua được mặc cảm đó, Trung Quốc lại trở lại với những gì là sức ì lịch sử của nước này: đó là một nước không tin vào nước khác, không muốn can dự vào công việc của nước khác, cũng không muốn nước khác can thiệp vào công việc của mình. Điều đó đặt ra một vấn đề rất lớn: một trong những cường quốc chính trên thế giới lại không muốn gánh vác trách nhiệm ở cấp độ thế giới.
Vậy Tổng thống Barack Obama có giải pháp nào không? Chuyên gia Laurent Samit, tác giả của nhiều cuốn sách trong đó có cuốn “Thế kỷ 21 mới” (Nhà xuất bản Seuil, năm 2008) và “Phi toàn cầu hóa” (cùng nhà xuất bản, năm 2011), cho biết khi ông Obama được bầu đã nổ ra tranh luận giữa các cố vấn của ông: nên cứu các ngân hàng hay tái tạo khả năng chi trả cho các hộ gia đình Mỹ? Ông Obama đã chọn giải pháp đầu tiên. Kết quả là cầu trong nước hiện nay vẫn ở mức cực kỳ thấp, sản xuất giảm sút và Mỹ phải đối mặt với vấn đề đầu tư rất lớn. Ngân hàng và các công ty lớn của Mỹ chủ yếu đầu tư ra nước ngoài. Một phần lớn hạ tầng công lúc này lại rất cần được đàu tư. Nhưng món nợ lại trở thành một vấn đề lớn, tác động tiêu cực vào chính sách an ninh của Mỹ.
Nhìn chung, tuy Mỹ thắng trong cuộc chiến chống khủng bố, Al- Qaeda đã yếu đi…, song giới chuyên gia cho rằng vấn đề an ninh tổng thể của các châu lục vẫn không được giải quyết. Các biện pháp kiểm soát tại các sân bay từ sau vụ 11/9 vẫn chưa được dỡ bỏ… Ông Laurent Samit, đồng thời là Giám đốc nghiên cứu thuộc Trường khoa học xã hội cao cấp Paris, than phiền rằng khi coi al-Qaeda là quỷ Satăng, người ta đã không nhận ra một số vấn đề khác. Rõ ràng hiện tượng khủng bố là hệ quả của các vấn đề không được giải quyết, như vấn đề Israel và Nhà nước Palestine tương lai. Đó cũng là hậu quả của quá trình toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những điểm nghèo khổ trong lúc lối sống của phương Tây trở nên ngày càng lấn lướt. Chính từ sự khác biệt giữa một bên là cách sống của đa số người và bên kia là nguyện vọng của họ mới nảy sinh tâm lý bực tức có thể phát triển xấu đi thành khủng bố. Đó chính là thứ cần phải loại bỏ. Song cả Chính quyền Bush lẫn nhân dân Mỹ đều không sằn sàng làm điều đó.
Người ta thấy rõ rằng tại Afghanistan, chính quyền rơi vào tay Taliban vốn chỉ có ưu điểm duy nhất là không công khai nói mình chống lại Mỹ. Vấn đề Israel-Palestine không được giải quyết. Mỹ do quá bận bịu với Iraq, Afehanistan và, ở một mức độ thấp hơn, là Yemen, nên không dự báo được làn gió phán kháng xuất hiện ở Tunisia rồi quét sang một số nước khác. Ý thức được điều đó, tuy muộn màng, Mỹ tìm mọi cách để lấy lại quãng thời gian đã mất bằng cách tạo cho mình lối thoát hiểm trong các phong trào phản kháng trong thế giới Arab, vấn đề nảy sinh ở đây và liên quan đến các cuộc “cách mạng Arab” là lập trường của Mỹ rất mập mờ. Washington ủng hộ phong trào khi có lợi cho mình, như ở Lybia. Trong cuộc xung đột Lybia, Mỹ đứng ở tuyến sau, nhưng lại là sức mạnh có tính động lực của NATO. Cho dù không làm phần lớn các công việc ở Lybia, song Mỹ góp phần đáng kể vào đó, bằng cách cung cấp đạn dược cho Pháp và Anh và hy vọng được lợi từ đó về ảnh hưởng. Nhưng ở các nước khác, như Ai Cập, họ theo đuổi đường lối bảo thủ. Ông Laurent Samit cho rằng đó là đánh lộn sòng và Mỹ sẽ phải trả giá cho điều đó.
Thủ lĩnh al-Qaeda, Ayman al-Zawahiri, có thể dễ dàng tiếp tục làm suy yếu nước Mỹ. Dù Chính quyền Obama giúp Ai Cập nhiều để loại trừ Mubarak và lực lượng Mỹ tham gia loại bỏ trực tiếp Gaddafi ở Lybia, song Mỹ vẫn rất không được lòng dân chúng trong thế giới Arab. Dù lính Mỹ chính thức được cho là đã rút khỏi Iraq, song vẫn còn một số lớn ở lại với danh nghĩa này hay danh nghĩa khác. Lực lượng đó đóng vai trò khiêm tốn hơn trong việc bảo vệ nước này và kín tiếng hơn, nhưng sự có mặt của họ vẫn khiến không ít người dân trong khu vực tức giận. Dĩ nhiên, Mỹ vẫn ở lại Afghanistan trong những năm tới. Mỹ cũng không dự định chấm dứt mối quan hệ hữu hảo giữa mình với một số nước trong khu vực trong một tương lai gần. Vả lại, Washington bị kẹt giữa ý muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với một số nhà độc tài thân thiện, như vua Jordan Abdullah, và sự cần thiết phải làm việc với phái dân chủ mới mẻ. Mỹ và Israel dĩ nhiên vẫn sẽ là những người bạn tốt của nhau. Tiết mục thăng bằng trên dây này không làm ai vừa lòng và khiến al-Qaeda phải tính toán kỹ lưỡng hơn trong mối quan hệ của mình.
Trong bối cảnh đó, Mỹ cũng như châu Âu phải đối phó với mối đe dọa lớn hơn. Các cơ quan tình báo Mỹ phải điều chỉnh lại toàn bộ lịch trình của mình. Hợp tác giữa Mỹ và Cơ quan tình báo các nước đồng minh và bạn bè được tăng cường, nhưng Mỹ không phụ thuộc hoàn toàn vào vấn đề này trong cuộc chiến chống al-Qaeda. Tổ chức khủng bố toàn cầu này lợi dụng tình hình hỗn loạn ở các nước Trung Đông và Bắc Phi để khôi phục chỗ đứng và hoạt động của mình. Ý thức được tình thế chính trị và xã hội mới, các nhóm khủng bố thuộc và tách ra từ al-Qaeda chắc chắn sẽ tìm cách thích nghi với tình hình mới và đó là điều khiến Mỹ lo ngại, đặc biệt là khi tình thế mới đó vẫn chưa rõ ràng đối với các chiến lược gia Mỹ. Liệu có xảy ra cuộc đối đầu mới giữa Mỹ và al-Qaeda không? Nếu có thì sẽ là hình thức nào và ở mức ‘độ nào?
Theo ông Michael Doche, giáo sư khoa học chính trị tại trường Đại học Thiên chúa giáo Notre-Dame (Mỹ), các sự kiện chưa từng thấy ở Trung Đông đánh dấu bước khởi đầu của một kỷ nguyên mới đối với cường quốc Mỹ trong khu vực và hạn chế ảnh hưởng của các cơ quan tình báo. Mỹ phải xác định những hạn chế trong ảnh hưởng của mình. Một cựu nhân viên CIA cho rằng hậu quả đầu tiên là một số mối quan hệ mà Mỹ xây dựng được trong thời gian qua để chống al-Qaeda và khủng bố đã không còn nữa. Tại Yemen, Cơ quan tình báo không quá quan tâm đến al-Qaeda mà đến sự sống còn của mình. Do đó, dù chế độ tại vị là như thế nào, một khi trật tự được thiết lập trở lại, al-Qaeda sẽ mạnh hơn, hang ổ của chúng sẽ lớn hơn, an toàn hơn.
Thách thức và cơ hội
Ayman al-Zawahiri thừa hưởng từ Bin Laden một tổ chức bị tấn công từ mọi phía. Y và các chỉ huy khác của tổ chức khủng bố lớn nhất thế giới này lo sợ phải chịu chung số phận như Bin Laden. Tệ hơn thế, cách hành xử quá mức của al-Zawahiri khiến al-Qaeda có thể bị một số giới Hồi giáo chính trị lên án và gạt ra rìa trong khuôn khổ “Mùa xuân Arab”. Theo tạp chí “Maghreb“, tình thế chính trị mới trên thế giới và bối cảnh mới trong thế giới Arab đặt al-Qaeda nói chung và al-Zawahiri trước những thách thức và cơ hội mới.
Thách thức lớn nhất đối với Zawahiri là vấn đề nội bộ. Tuy al- Zawahiri được công nhận là người được Bin Laden ưu ái từ lâu và nhánh al-Qaeda tại bán đảo Arab cam kết trung thành với y, song thống nhất được một cộng đồng thánh chiến rạn nứt sâu rộng là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đối với thủ lĩnh al-Qaeda. Dẫu sao, al-Qaeda cũng phải vật lộn để chứng minh mình vẫn tồn tại. Nhiệm vụ đó là cực kỳ khó khăn đối với al- Zawahiri vì y không có được uy tín như Bin Laden để gây ảnh hưởng, ngoài số thành viên trung thành ít ỏi với mình. Hơn nữa dư luận có ý kiến khác nhau về con người y.
Điều đặc biệt khó là làm sao đạt được sự thống nhất và huy động được sự hợp tác khi mưa tên lửa từ máy bay không người lái của Mỹ khiến việc tập hợp nhau hay liên lạc giữa các chỉ huy khủng bố với nhau trở nên cực kỳ khó khăn. Dẫu sao, al-Zawahiri có thể yên tâm phần nào khi nghĩ rằng ít nhất tư tưởng và mục tiêu của al-Qaeda hiện nay được đưa vào thảo luận trong các nhóm Hồi giáo cực đoan, cho dù không được chấp nhận một cách rộng rãi. Al-Zawahiri tìm cách lấp đầy khoảng trống do Bin Laden để lại bằng cách tổ chức các vụ khủng bố ngoạn mục hơn để tăng thêm tính hợp pháp của mình. Tài liệu do Mỹ thu thập được ở Pakistan cho thấy tất cả các chỉ huy của al-Qaeda đều thống nhất tăng cường cuộc thánh chiến. Một số muốn ưu tiên đánh vào các mục tiêu Mỹ, một số khác quan tâm đến các nước nơi al-Qaeda sẵn có cơ sở.
Al-Qaeda cũng đang phải đối mặt với cơn chấn động chính trị đang làm rung chuyển Trung Đông. Các sự kiện ở Tunisia, Ai Cập, Yemen, Lybia và một số nước Arab khác khiến thông điệp của al-Qaeda, theo đó chỉ có bạo lực chống Mỹ mới có thể mang lại sự thay đổi cho khu vực này, bị nghi ngờ. Các cuộc cách mạng Arab là cơ hội quá tốt để Chính phủ Mỹ khai thác về phương diện chính trị. Sự trùng khớp giữa các cuộc nổi dậy trong thế giới Arab với cái chết của thủ lĩnh al-Qaeda Bin Laden dường như tuyệt vời đến mức có thể khiến người khác phải đặt câu hỏi và nghi ngờ.
Sau khi bị đe dọa bởi các cuộc cách mạng của giới trẻ trong thế giới Arab nhằm thiết lập dân chủ và quyền tự do cá nhân và tập thể, phái Hồi giáo cực đoan phải chịu một áp lực khác sau khi Bin Laden chết. Sự thiếu vắng phản ứng mạnh mẽ và ồ ạt sau vụ thủ lĩnh al-Qaeda bị tiêu diệt cho thấy cuộc chiến của Hồi giáo cực đoan chống nước Mỹ và phương Tây đã lỗi thời, thậm chí bị bác bỏ bởi dân chúng các nước Arab và Hồi giáo như thế nào. Người dân ở các nước đó không còn ủng hộ tư tưởng từng loại trừ họ và làm họ mất uy tín. Hiện nay, chính những người dân đó sử dụng các hình thức đấu tranh khác không mang tính tư tưởng có thể cho phép họ có được tương lai không bị ràng buộc.
Số thành viên nòng cốt của tổ chức khủng bố al-Qaeda cũng cần chứng minh được tính hữu hiệu của mình đối với các tín đồ Hồi giáo ở châu Âu và Mỹ, và bảo đảm các nhánh như al-Qaeda tại bán đảo Arab không lấn át tổ chức mẹ. Năm 2001, Bin Laden thành công trong việc quy tụ quanh sự nghiệp của mình một bộ phận lớn trong thế giới Arab và Hồi giáo vì lúc đó y là một “biêu tượng”, là người bảo vệ tôn giáo bị tấn công, bị chà đạp, bị làm nhục. Bị thúc ẻp bởi phương Tây lợi dụng phái Hồi giáo cực đoan suy yếu, bị loại trừ và cô lập, Hồi giáo cực đoan trên thực tế phải đối mặt với nhiều thế bế tắc. Chẳng hạn, làm sao có thể có được phản ứng thích hợp đối với vụ Bin Laden bị tiêu diệt mà không đoạn tuyệt với giới trẻ và toàn bộ dân chúng Arab và Hồi giáo vốn cáo buộc Hồi giáo cực đoan là người gây ra một phần nỗi tuyệt vọng của họ về kinh tế?
Trái lại, thành công của Hồi giáo chính trị trong thế giới Arab rốt cuộc cũng tạo cho al-Qaeda môi trường thuận lợi hơn cho việc tuyển mộ người. Tại Ai Cập, Hồi giáo chính trị lập thành tích kỷ lục trong bầu cử tổng thống và Quốc hội. Ở Tunisia, Hồi giáo chính trị từ chỗ phải sống chui lủi và trốn tránh nay đàng hoàng ngồi ở ghế lãnh đạo đất nước. Maroc cũng nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ Hồi giáo. Nhưng không ai chờ đợi Hồi giáo chính trị xóa bỏ hiệp ước hòa bình với Israel hay áp đặt một tiến trình Hồi giáo hóa cưỡng bức đối với xã hội. Một chính sách thực dụng, nếu được cộng đồng quốc tế chấp thuận, cũng có thể sẽ khiến các thành viên cực đoan và duy tâm nhất trong các nhóm này tức giận. Lãnh đạo Hồi giáo chính trị ôn hòa rốt cuộc sẽ bị cáo buộc là bán mình, điều mà al- Zawahiri đã từng nói và sẽ tiếp tục nói.
Một vấn đề hóc búa khác đối với al-Qaeda là kiểm soát Pakistan như thế nào vì đây là một việc cực kỳ khó đối với tổ chức khủng bố này. Dân chúng xa lánh khủng bố khi chúng định giành chính quyền ở một số vùng của Iraq. Tại Pakistan, al-Qaeda xoay xở được dễ dàng hơn bằng cách hướng dẫn các phần tử thánh chiến Pakistan chiến đấu và hướng họ một cách có hệ thống vào cương lĩnh cực đoan và quốc tế hơn là trực tiếp chỉ huy họ. Còn Chính phủ Pakistan chao đảo từ cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác. Tuy nhiên, vị thế của al-Qaeda ở Pakistan là tế nhị. Chính phủ nước này hay thay đổi lập trường, lúc hợp tác, lúc bỏ qua, lúc chống lại phái thánh chiến, nhưng thường là áp dụng cả ba thái độ này cùng một lúc. Cũng như vậy, tình hình quá hỗn loạn ở Pakistan có nguy cơ buộc al-Qaeda phải chăm lo đến việc bảo vệ vị thế của mình ở nước này mà bỏ qua các mục tiêu khác.
Bắc Phi nói chung, Algeria nói riêng, là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của khủng bố quốc tế. Ưu tiên đánh vào Algeria có nghĩa là tấn công vào mặt trận tiền tiêu chống al-Qaeda ở Bắc Phi. Luận thuyết của al-Qaeda là nếu vô hiệu hóa được Algeria sẽ kiểm soát được toàn bộ vùng Bắc Phi đối diện với châu Âu? Ngược lại, mất Algeria có nghĩa là mất toàn bộ các vị trí đã giành được ở Bắc Phi và Sahel. Theo giới chuyên gia, do khủng bố không đứng chân được lâu dài ở Algeria nên các nước láng giềng như Tunisia, Ai Cập, Maroc, vốn có ít kinh nghiệm hơn trong đấu tranh chống khủng bố, trở thành mục tiêu tạm thời của khủng bố. Al-Qaeda có lý do chính đáng để nhằm vào mắt xích mạnh nhất trong cuộc chiến chống khủng bố ở vùng Sahel và Bắc Phi.
Từ hai thập kỷ nay, al-Qaeda tại Bắc Phi (AQIM) định thiết lập căn cứ chính tại Algeria, nhưng hoặc bị tiêu diệt hoặc phải rút lui. Thủ lĩnh nhóm này, Mokhtar Belmokhtar, vẫn chưa từ bỏ hy vọng thực hiện giấc mơ của mình ở vùng Địa Trung Hải là đứng chân ở miền Bắc Algeria. Sự lựa chọn đó dường như được ưu tiên hơn các hành động khủng bố không tạo ra được tác động địa chiến lược. AQIM hiện diện ở Sahel, nhưng vùng sa mạc rộng 42 triệu cây số vuông đó chỉ được sử dụng làm trạm trung chuyển và nơi rút lui trong trường hợp cần thiết. Tình hình bất ổn ở Bắc Phi tạo thuận lợi cho kế hoạch của al-Qaeda.
Điều quan trọng hơn là một số không ít tín đồ Hồi giáo cực đoan từ châu Âu và Mỹ đến tăng viện cho các chiến hữu ở Yemen và Somalia thậm chí cả ở Pakistan. Biến các chiến binh người nước ngoài thành phần tử khủng bố quốc tế là chuyên môn của al-Qaeda và sự gần gũi giữa các phần tử này với Mỹ khiến chúng trở nên nguy hiểm hơn.
Sự phân rã của al-Qaeda và sự xuất hiện một số nhóm mới có liên hệ với al-Qaeda hay hoạt động độc lập tạo ra một tình thế mới được giới chuyên gia chống khủng bố gọi là “dân chủ hóa khủng bố”. Không cần mệnh lệnh từ trên xuống, không cần chỉ thị, không cần chuẩn bị, không cần thù lao. Kiểu khủng bố mới đó còn khó chống hơn khủng bố của al-Qaeda. Tổ chức này tuy đã phân quyền, hoạt động bí mật và xuyên quốc gia, song vẫn chỉ tạo thành một kẻ thù quốc tế duy nhất mà thế giới phải đối mặt.
Dẫu sao, có thể sẽ là sai lầm nếu không tính tới al-Qaeda và thủ lĩnh của nó là al-Zawahiri. Quá khứ hoạt động lâu dài của trùm khủng bố này đáng được quan tâm. Quả thực là việc gây áp lực liên tục có thể đẩy al- Qaeda đến chỗ dễ bị sụp đổ hơn và không có được bất kỳ cơ hội nào trong tương lai. Nhưng kiểu chiến dịch đó sẽ không giúp giành được chiến thắng trong thời gian trước mắt.
***
TTXVN (Algiers 9/9)
Mỹ tạm thời đóng cửa trong ít ngày Cơ quan đại diện ngoại giao của mình ở khoảng hai mươi nước và kêu gọi công dân nước này ngay lập tức rời khỏi Yemen. Quyết định trên được đưa ra sau khi tình báo Mỹ dường như thu được một số cuộc trao đổi thông tin giữa thủ lĩnh Al-Qaeda, Ayman al-Zawahiri, và kẻ phụ trách nhánh của tổ chức này tại Yemen.
Chân dung một tổ chức không còn như trước nữa, nhưng sẽ là sai lầm nếu bị đánh giá thấp, được phác thảo trong bài trả lời phỏng vấn tạp chí “Đại Tây Dương ” dưới đây của các chuyên gia Francois Bernard Huyghe, Tiến sĩ Nhà nước về khoa học chính trị, giảng dạy tại trường Đại học Limoges, Celsa Paris 4, Viện nghiên cứu quốc tế và chiến lược (IRIS) và Viện nghiên cứu cao cấp quốc tế; nhà sử học Francois Géré, chuyên gia địa chiến lược, Chủ tịch sáng lập Viện phân tích chiến lược Pháp (IFAS), phái viên bên cạnh Viện nghiên cứu cao cấp quốc phòng (IHEDN), giám đốc nghiên cứu thuộc trường Đại học Paris 3; và Alain Rodier, Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu tình báo Pháp (CR2R), phụ trách các vấn đề khủng bố Hồi giáo và tội phạm có tổ chức, tác giả các cuốn sách “Iran: sắp chiến tranh chăng?” và “Al-Qaeda: Hệ thống chân rết khủng bố thế giới” (Nhà xuất bản Elipses, năm 2006).
Hỏi: Mỹ, Canada và châu Âu được đặt trong tình trạng báo động sau khi Hồi giáo cực đoan tung ra lời đe dọa nhằm vào lợi ích của phương Tây. Đại sứ quán Pháp tại Yemen và khoảng hai mươi cơ quan đại diện ngoại giao Mỹ bị đóng cửa tạm thời. Tuy nhiên, al-Qaeda được cho là đã suy yếu trong những năm qua. Hơn 10 năm sau vụ khủng bố 11/9, tiềm lực gây rối thực sự của tổ chức khủng bố này là như thế nào? Al-Qaeda đe dọa phương Tây được đến mức độ nào?
Alain Rodier: Nhìn chung, có ba thực thể chính. Thứ nhất là al- Qaeda “trung tâm” đặt căn cứ tại vùng Afpak nằm vắt ngang biên giới Afghanistan-Pakistan. Thực thể này là cấp lãnh đạo về tư tưởng của tổ chức khủng bố, nằm dưới sự chỉ huy của Ayman al-Zawahiri, vốn là người của nhóm Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập và là cấp phó của Bin Laden từ đầu những năm 1990. Giúp việc cho y là một nhóm người trung thành, trong đó có một số trở về từ Iran sau một thời gian bị quản thúc tại đây kể từ khi chạy sang vào tháng 12/2001 trong cuộc xâm lược của Mỹ vào Afghanistan. Thực thể này liên lạc với các nơi khác trên thế giới qua Internet và phái viên.
Ngoài ra còn một số nhóm quy phục Bin Laden rồi al-Zawahiri. Đó là Al-Qaeda tại bán đảo Arập (AQAP) hoạt động rất mạnh ở Yemen, song cũng có lúc ở nước khác thông qua một số phần tử thánh chiến quốc tế; rồi al-Qaeda tại Bắc Phi (AQIM) trong đó có một phần lực lượng tản mác tại Bắc Phi, đặc biệt là ở miền Nam Lybia và Tunisia (ban chỉ huy AQIM vẫn nằm ở miền Đông Algeria); al-Qaeda Iraq (hay còn gọi là Nhà nước Hồi giáo Iraq và phương Đông) về sau gia nhập các nhóm thánh chiến Syria; và cuối cùng là lực lượng Shebab ở Somalia, cần nói thêm rằng những “con sói đơn độc” hay các nhóm nhỏ giống như vậy và hoạt động ở phương Tây, có thể trực thuộc “Al-Qaeda trung tâm”, là thực thể đảm nhiệm công tác tuyên truyền và đào tạo, chủ yếu thông qua Internet cho dù một số phần tử thành công trong việc sống một thời gian ngắn ở Pakistan hay Yemen, thậm chí cả Somalia.
Hỏi: Phương thức hoạt động của al-Qaeda đã thay đổi. Vì sao? Khi gương mặt biểu tượng là Bin Laden bị tiêu diệt, ai là thủ lĩnh chính của tổ chức này? Liệu al-Qaeda có còn hệ thống tổ chức không?
Alain Rodier: Các nhóm có liên hệ với al-Qaeda và các nhóm độc lập đều rất tự chủ. “Al-Qaeda trung tâm” chỉ vạch ra đường lối chung. Hoạt động khủng bố được tiến hành chủ yếu ở cấp địa phương mặc dù cuộc thánh chiến thế giới vẫn là một mục tiêu cần được thực hiện, nhưng phải sau một thời gian nữa. Lúc đó, vấn đề ở đây là thế hệ.
Al-Zawahiri có ảnh hưởng lớn hơn Bin Laden. Các thủ lĩnh chính luôn di chuyển và một số trong đó hiện không để lại dấu vết, nhưng có thể vẫn hoạt động, như Saif al-Adel, cựu đại tá lực lượng đặc biệt Ai Cập trong một thời gian dài lánh sang Iran. Ahmed Godane với biệt danh Abou Zubeyyr, thủ lĩnh lực lượng Shebab ở Somalia, trở thành nhân vật quan trọng hơn sau khi cho người ám sát hai kẻ sáng lập phong trào vì “đi lệch hướng” vào mùa Hè năm 2013. Y có ý định quốc tế hóa cuộc thánh chiến và có thể thực hiện mục tiêu này vì trong tay có một số phần tử quốc tế, trong đó có cả người Mỹ. Cuối cùng là Nasir Abdel Karim al Wuhayshi, thủ lĩnh hiện nay của AQAP và cựu thư ký của Bin Laden. Mùa Hè năm 2013, dường như al-Wuhayshi được al-Zawahiri chỉ định làm “nhân vật số hai” thay Abou Yahia al Liby bị tiêu diệt vào tháng 6/2012 trong một Vụ không kích của Mỹ ở Pakistan.
Francois-Bernard Huyghe: Al-Qaeda không còn là một tổ chức trung tâm với thủ lĩnh sống lẩn lút trong núi nữa. Không còn các vụ đánh bom khủng bố ngoạn mục cần phải chuẩn bị trong nhiều tháng nữa, Al- Qaeda dường như cũng không còn khả năng cho nổ những quả bom lớn như ở Madrid hay Paris nữa.
Trường hợp AQIM là đáng lưu ý. Thoạt đầu, nhóm khủng bố này hoạt động bí mật và tiến hành đánh bom khủng bố. Nhưng nhóm này ra công khai sau khi phái Hồi giáo cực đoan kiểm soát được một số thành phố và định giành chính quyền. Chúng cũng chấm dứt các vụ đánh bom là chính kể từ lúc trở thành lực lượng du kích với các đội quân và xe bọc thép hẳn hoi. AQIM hoạt động giống lực lượng nổi dậy hơn là một nhóm khủng bố truyền thống.
Francois Géré: Được thành lập vào cuối những năm 1980 bởi một nhân vật rất được kính trọng là giáo sĩ người Jordan-Palestine Abdul Azzam tại Peshawar (Pakistan), “trung tâm” của thủ lĩnh al-Qaeda vẫn nắm trong tay công tác tư tưởng, nhưng phân quyền về hoạt động. Bin Laden đã chết, al-Zawahiri trở thành thủ lĩnh tinh thần và chỉ thị của y được chấp hành nghiêm. Y “phong tước” cho các nhóm khủng bố luôn luôn đổi mới và muốn nhận được cái “mác” uy tín đó. Hành động này cũng có nghĩa là al-Zawahiri cũng có khả năng thâm nhập các mạng lưới tài trợ quốc tế.
Hỏi: Các đối thủ tiềm tàng của al-Qaeđa là ai? Các tổ chức được ủy quyền như AQIM, liệu có hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của tổ chức này không?
Francois-Bernard Huyghe: Không, các nhóm này không nằm dưới sự kiểm soát của bất kỳ một trung tâm nào. Ví dụ AQIM là đặc biệt đáng lưu ý vì đó vốn là Nhóm cực đoan truyền giáo và thánh chiến (GSCPC), một tổ chức trăm phần trăm Algeria hoạt động rất rộng trong vùng, rồi quyết định quy phục al-Qaeda một cách hoàn toàn tự nhiên.
Francois Géré: Al-Qaeda giống như một con quái vật trăm đầu, cứ mọc ra sau mỗi lần bị chặt. Trong thời kỳ 2001-2003, tổ chức này chịu nhiều thiệt hại rất nghiêm trọng, từ đó suy giảm năng lực hành động ở cấp độ thế giới và tại các nước phương Tây. Ở một số nước châu Âu có các cộng đồng tín đồ Hồi giáo đông đảo, chính quyền nỗ lực “phi cực đoan hóa” dẫn đến việc các nhân vật truyền giáo có uy tín bị tiêu diệt và những người kế nhiệm ngay sau đó bị phát hiện và loại trừ. Điều đó là rất quan trọng.
Nhưng không phải ở tất cả các nước Hồi giáo đều như vậy. Ở nước nào vẫn chưa có biện pháp loại trừ truyền giáo bạo lực bằng luật pháp, al- Qaeda còn nhận được sự ủng hộ của không ít người. Chừng nào các Nhà nước Hồi giáo còn chưa kiểm soát được các trường đạo truyền bá tư tưởng hẹp hòi nguy hiểm, al-Qaeda còn tuyển mộ được nhiều người.
Hỏi: Liệu al-Qaeda có lợi dụng “Mùa Xuân Arab” để tái tạo một phần lực lượng mình không? Tình hình ở Syria là như thế nào?
Alain Rodier: Cũng giống như tất cả các tác nhân khác, al-Qaeda bị bất ngờ trước các cuộc cách mạng Arab. Phải mất một thời gian tổ chức khủng bố này mới bừng tỉnh. Al-Qaeda hiện chống lại Anh em Hồi giáo bị coi là “kẻ phản bội sự nghiệp” vì chấp nhận chơi trò chơi dân chủ. Niềm hy vọng được đặt vào phái chính thống-thánh chiến như nhóm Ansar al-Charia hoạt động ở Ai Cập, Lybia và Tunisia. Al-Qaeda-đợi dân chúng bất bình vùng lên trong tình hình khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng ở Bắc Phi để tận dụng cơ hội chống lại chính phủ các nước đi theo phương Tây.
Francoỉs Gér: Chắc chắn là các cuộc cách mạng Arập trong hai năm trở lại đây đã mở ra một không gian hành động mới cho Hồi giáo cực đoan. “Nghề” làm thủ lĩnh chính trị-quân sự của một nhánh al-Qaeda có những rủi ro của nó. Thông thường, thời gian tồn tại ở vị trí này là rất ngắn, chỉ khoảng từ 6 tháng đến một năm. Hơn nữa, kình địch trong nội bộ là rất quyết liệt. Điều đó giải thích tại sao các nhóm khủng bố là tương đối yếu cho dù luôn có “thủ lĩnh” thay thế.
Lúc đầu, phong trào nổi dậy nổ ra ở Tunisia, Lybia, Ai Cập, Yemen, nhưng không phải chống Mỹ, cũng không chống Israel. Lúc đầu bị bất ngờ và không thể ngăn chặn nổi, Anh em Hồi giáo đã nhảy lên con tàu đang chạy, rồi nắm quyền kiểm soát nhờ có tổ chức tốt. Nhưng bản thân Anh em Hồi giáo cũng không kiểm soát được các phần tử cực đoan nhất và các phần tử muốn áp dụng tư tưởng của al-Qaeda sớm nhất trong hàng ngũ của mình.
Nhận thấy al-Qaeda ở vùng Mésopotamie bị đè bẹp dưới tác động phối hợp của Mỹ, người Kurd và đặc biệt là phái Shiite chiếm đa số, các phần tử thánh chiến còn lại chuyển về các chiến trường khác, cụ thể là châu Phi. Nhưng do nội chiến ở Somalia nên các phần tử này tìm cách trở lại Irắc với các vụ đánh bom khủng bố gia tăng nhằm làm mất ổn định chính phủ liên bang của al- Maliki, đẩy căng thẳng sắc tộc lên cao và kích động đối đầu giữa phái Shiite và phái Sunni. Hơn nữa, việc Mỹ và NATO rút quân khỏi Afghanistan được coi là một thắng lợi mới của Hồi giáo cực đoan.
Hỏi: Mục tiêu của Al-Qaeda từ nay về sau là gì? Từ khi can thiệp vào Lybia rồi Mali, Pháp liệu có trở thành mục tiêu không? Các nước tự bảo vệ mình như thế nào?
Alain Rodier: Ngoài Mỹ, Israel và Pháp, các kẻ thù chính khác của al-Qaeda là phái Shiite như Iran, Iraq, Hezbollah, phái Allawite ở Syria. Tất cả đều bị coi là những kẻ đảo ngũ.
Francois-Bernard Huyghe: Việc lựa chọn mục tiêu cho thấy al- Qaeda tỏ ra linh hoạt trong hình thức mới. Tổ chức này có xu hướng ít tấn công hơn vào các mục tiêu khó như các đại sứ quán mà nhằm vào các mục tiêu dễ đánh hơn. Chúng cho là không hữu ích nếu tiến hành một vụ khủng bố mất nhiều thời gian và phức tạp đòi hỏi phải chuẩn bị kỹ càng và chứa đựng nhiều rủi ro trong khi các vụ đánh bom đơn giản cần ít thời gian chuẩn bị và người được đào tạo hơn, nhưng gây tác động tuyên truyền và tâm lý không thua kém. Đó là một vấn đề thực sự đối với các cơ quan tình báo vì mục tiêu càng loãng bao nhiêu càng khó được bảo vệ bấy nhiêu.
Liên quan đến Pháp, nước này do chính sách đối với châu Phi, có mặt ở Afghanistan hay đạo luật về đeo mạng và áo choàng Hồi giáo, nên vẫn luôn đứng ở vị trí đầu trong danh sách các mục tiêu tiềm tàng của al- Qaeda. Cuộc can thiệp quân sự vào Mali dĩ nhiên cũng khiến Pháp nằm trong số các mục tiêu phương Tây ưu tiên của khủng bố. Hơn nữa là vì đã có truyền thống đánh bom ở Pháp vào những năm 1990.
Frangois Géré: Trong tình hình đảo lộn như vậy, mục tiêu có rất nhiều ở Trung và Cận Đông. Nhưng khả năng của khủng bố suy giảm khiến chúng phải hạn chế, chỉ đánh vào các vùng lãnh thổ Hồi giáo có các mạng lưới đồng lõa mạnh. Khả năng đánh ở bên ngoài bị suy giảm.
Hỏi: Ngoài al-Qaeda còn có mối đe dọa tiềm tàng nào khác nguy hiểm đối với phương Tây không? Nếu có là mối đe dọa nào?
Alain Rodier: Tội phạm có tổ chức là mối đe dọa tiềm tàng ở ngay trong nền kinh tế phương Tây. Sự khác biệt là ở chỗ trong trường hợp này, sẽ là cực kỳ khó xác định chính xác đối thủ là ai: có gì khác giữa một doanh nhân năng động đùa giỡn với ranh giới của luật pháp và một doanh nhân sặc mùi maphia không?
Francois-Bernard Huyghe: Tổ chức thánh chiến nói chung, dù có hay không có liên hệ với al-Qaeda, đều có khả năng gây rối. Nói như vậy, song khả năng đánh bom khủng bố lớn ở châu Âu là ít. Từ sau vụ ở London năm 2005 không có thêm vụ nào khác, ngoài một số trường hợp đơn lẻ như vụ do Mohammed Merah tiến hành.
Francois Géré: Pháp là một kẻ thù công khai, cần phải tính tới mối đe dọa đó, song không có nghĩa là al-Qaeda có năng lực hành động, về ngắn hạn, mối đe dọa tiềm tàng là hạn chế và liên quan đến những kẻ thù có phương tiện gây rối làm chết người. Trước mắt cũng không có mối đe dọa nào lớn đối với lợi ích sống còn của Pháp, Mỹ cũng như Liên minh châu Âu. Căng thẳng là có, nhưng cũng chỉ đến vậy thôi./.


MỤC TIÊU VÀ THỦ THUẬT CỦA DƯ LUẬN VIÊN.
MỤC TIÊU CỦA NHÀ NƯỚC SỬ DỤNG DƯ LUẬN VIÊN LÀ GÌ?
1/ Huy động dư luận viên vào đông để chém gió, ném gạch tạo ấn tượng cho mọi người nghĩ rằng: đa số không thích trang này.
2/ Ngăn chân mọi người vào trang nhà và làm cho mọi người chán và không thích vào trang hoặc unlike trang.
3/ Bảo vệ tối đa các hành động và sự kiện sai trái khi bị vạch trần.
4/ Sử dụng chiến thuật biển người để lấn áp các bạn ủng hộ và đồng tình.
5/ Gây hoang mang cho mọi người về những thông tin trên trang nhà.
6/ Chia rẻ nhau làm mất tình đoàn kết.
7/ Muốn mọi người không quan tâm và tiếp tục giữ im lặng trước những hành động sai trái của CA và các cán bộ lãnh đạo.

Các bạn thân mến,
Một trong những trách nhiệm của trang TNCG là thông tin đến các bạn biết về những tình trạng bất công và đàn áp người dân và các tôn giáo. Một khi có những thông tin sự thật được đưa lên trang nhà, thì liền sau đó có một đội quân Dư luận viên vào ồ ạt chưởi bới với những luận điệu hầu như giống như nhau và nói như một cái máy.

Nếu các bạn để ý những luận điệu sau bạn sẽ thấy đều giống như nhau, chỉ khác nhau là DLV này nói điều này, thì DLV nói điều khác:
- Trang phản động (Thường lập đi, lập lại bởi nhiều DLV)
- Trang TNCG tại sao không nói đến đời sống đạo công giáo mà chỉ nói đến chính trị, xã hội.
- Ad là thành phần bán nước, bọn phản quốc.
- Phá hoại tình đoàn kết giữa nhà nước và nhân dân.
- Đảng đã hy sinh xương máu để có cuộc sống hòa bình mà trang TNCG phá hoại.
- Tay sai đế quốc mỹ và ngoại bang.
- Tin tức này không thật, ai chứng minh.
- Xuyên tạc nhà nước, chỉ biết moi móc, nói xấu nhà nước. (nói thật khác nói xấu)
- Chúng bay chỉ vì tiền.
- Chủ trương của Page muốn xây dựng lại chế độ cũ.
- Trang này là của thế lực thù địch và chế độ cũ.
- Âm mưu lật đổ chính quyền,.
- AD Không muốn sống hòa bình và muốn gây chiến tranh
- Đảng đã hy sinh xương máu để giành độc lập…
- (Vì tế nhị không nêu lên những luận điệu chưởi bới và sử dụng từ ngữ vô văn hóa)…
Với những luận điệu trên, ít hoặc nhiều có một số bạn đã bị ảnh hưởng vả thường nói theo hoặc đồng tình.

NHỮNG THỦ THUẬT CỦA DƯ LUẬN VIÊN:
- Sử dụng nick tự xưng là công giáo hoặc tư xưng là người của tôn giáo khác tấn công công giáo tìm cách chia rẽ giữa công giáo và các tôn giáo khác nhất là phật giáo.
- Thường xúc phạm tôn giáo để các bạn cảm thấy chán và nản lòng hoặc sẽ quay ngược lại trách móc các ad của trang TNCG. Tạo điều kiện để DLV xúc phạm tôn giáo.
- Khi bị delete hoặc BAN thì họ thường tạo những nick khác để tiếp tục vào chưởi bới và bình luận.
- Dư luận viên thường lập đi, lập lại những luận điệu trên để gieo vào đầu một số bạn, về mặt tâm lý từ từ sẽ cảm thấy hợp lý…đây là những thủ thuật trong nhiều năm qua họ đã áp dụng trên các phương tiện truyền thông của nhà nước.
- Sử dụng phương cách chưởi bới, xúc phạm tôn giáo để làm nản lòng mọi người.

Vì không để cho những người bán rẻ lương tâm, vô cảm và đồng tình trước những hành động tội ác và sai trái của những người lạm dụng quyền hành, chúng ta không thể tiếp tục yên lặng. Chúng ta không thể chấp nhận tội ác vẫn tiếp diễn mà người dân là những nạn nhân. Chúng ta không để rơi vào bẫy mà họ đã giăng ra.

1/ Xin các bạn tiếp tục ủng hộ trang nhà bằng cách LIKE PAGE, POST hoặc Comment những điều sai trái, nhưng cố gắng giữ bình tĩnh đừng nóng, cần thuyết phục những bạn chưa hiểu vấn đề.

2/ Trong thời qua số lượng Comment (chưa tính các bạn ủng hộ), số LIKE nhiều hơn nhóm dư luận viên nhiều, điều đó đã chứng tỏ về nội dung đã được sự đồng tình và ủng hộ hay nói một cách khác là các bạn đều không chấp nhận sự bất công và đàn áp đối với dân bao gồm cả tôn giáo.

3/ Nếu các bạn thấy DLV nhiều và sử dụng những từ ngữ vô văn hóa thì cũng đừng nên để ý, cần đọc những gì mình cần đọc, nói những điều gì mình cần nói. Trang nhà sẽ tiếp tục Block những Nick mà sử dụng những từ ngữ vô văn hóa hoặc xúc phạm đến tôn giáo.

4/ Cần các bạn quãng bá và vận động thêm bạn bè vào trang nhà và ủng hộ thường xuyên.

Các bạn thân mến,
Chúng ta không thể tiếp tục giữ yên lặng để tội ác cứ hoành hành tiếp diễn.
Chúng ta có thể hy sinh cả cuộc đời cho công bằng và công lý
Nhưng những dư luận viên họ không thể hy sinh cả cuộc đời để chưởi bới và bảo vệ cái sai.
Một lần nữa trang nhà Thanh Niên Công Giáo xin chân thành cảm ơn các bạn đã cùng đồng hành với trang nhà trong thời gian qua và rất mong các bạn tiếp tục ủng hộ trang nhà để làm tròn nhiệm vụ và vai trò của người thanh niên công giáo đối với xã hội và đất nước.

FB/TNCG

Nổ súng chống độc tài áp đặt bất công là... mâu thuẫn gia đình!?

“Nhiều khả năng, nguyên nhân dẫn đến hành động nổ súng của Đặng Ngọc Viết là do xuất phát từ những mâu thuẫn trong gia đình...” - một lãnh đạo công an tỉnh Thái Bình nhận định như vậy - (VTC News 12/09/2013)
Tiếc thương, không muốn khuấy động thêm nữa đến linh hồn một nhân cách “rất người” bởi lòng bất khuất (anh Đặng Ngọc Viết) trong bài viết trước đó (Chấp nhận chết - cho đồng loại sống!?) trên Danlambao mà hàng trăm comments của bạn đọc từ bốn phương đồng loạt gửi về không một lời nào chê trách mà duy nhất chỉ là ngưỡng mộ tiếc thương hướng về vong linh anh, thì ngược lại một lập luận “trái chiều” thiếu trung thực của một quan chức lãnh đạo CA tỉnh Thái Bình: “Nhiều khả năng, nguyên nhân dẫn đến hành động nổ súng của Đặng Ngọc Viết là do xuất phát từ những mâu thuẫn trong gia đình...” (!?) Dù trước đó, trong cuộc họp báo ngay sau vụ nổ súng trong phần đọc báo cáo nội vụ, ông Đỗ Đình An - Chủ tịch UBND TP. Thái Bình đã đứng lên cho biết: “Vụ việc không xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân, mà nguyên nhân chính của vụ việc nổ súng gây chết người là có liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng” - (www.baodatviet.vn/.../toan-canh-vu-no-sung-trong-ubnd-tpthai-binh-23)
Những nhiễu loạn thông tin loại này từ một vài phát ngôn viên “còn đảng còn mình” trực thuộc cơ quan nhà nước khiến chúng ta nhớ lại vụ án cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng của Gia đình ông Đoàn Văn Vươn khi mà tuyệt đối, tất cả các quan chức đảng và nhà nước từ UBND/xã Vinh Quang, Huyện Tiên Lãng đến TP/hải Phòng đều một mực khẳng định trước báo chí công luận việc cưỡng chế là “đúng Pháp luật” thậm chí “ngài” chánh văn phòng Huyện còn nói như té nước vào mặt PV báo chí truyền hình TW “Không thể dừng lại, những vụ việc như loại này chúng tôi cưỡng chế nhiều rồi, hoàn toàn đúng luật” (?) Nhưng kết quả như thế nào của v/v Tiên Lãng thì không cần phải nhắc lại, ai cũng biết.
Vì vậy cái lập luận “Nhiều khả năng, nguyên nhân dẫn đến hành động nổ súng của Đặng Ngọc Viết là do xuất phát từ những mâu thuẫn trong gia đình...” chỉ là hành vi, nếu không nằm trong mưu đồ định hướng “chính trị” thì cũng hèn mọn như “gắp lửa bỏ tay người” hay “đánh bùn sang ao” nói lấy được, tránh cái xấu cho chế độ “đảng ta” mà không cần động não nội suy.
Gần giống như v/v Đoàn Văn Vươn, về phía UBND Tp. Thái Bình cho biết trong vụ việc giải phóng mặt bằng tại khu ruộng của gia đình anh Viết, chính quyền đã chấp nhận phương án bồi thường theo yêu cầu của anh Viết và đến nay không hề có mâu thuẫn quá căng thẳng giữa hai bên. Anh Viết cũng chưa có đơn từ khiếu nại, kiến nghị gì về vấn đề này.
Nhưng theo anh trai của anh Viết là Đặng Ngọc Vinh cho rằng: “Em tôi bức xúc vì chuyện đất đai, mức thu hồi bồi hoàn quá rẻ mà giá mua đất ở khác thì giá quá cao.” 
Còn ông Nguyễn Hải Trường, Chánh văn phòng UBND thành phố Thái Bình lập luận rằng ông Viết đã lấy phần lớn tiền đền bù nhưng sau đó ông Viết không muốn nhận tiền mà muốn lấy đất đền bù. Việc này hai bên đang giải quyết, chưa có quyết định cuối cùng. Đồng thời ông cũng cho rằng: “Nếu cho rằng ông Viết quá bức xúc vì giá đền bù không thỏa đáng thì không đúng. Khung giá đã có quy định, không có chuyện thấp hay cao”. 
Trong khi đó, anh trai anh Viết là Đặng Ngọc Vinh lại khẳng định: “Nguyên nhân dẫn đến hành động mang súng vào trụ sở UBND TP bắn người của em tôi (Đặng Ngọc Viết - PV) là xuất phát từ sự bức xúc kéo dài “quá lâu” về vấn đề giải tỏa, đền bù đất của gia đình.” Cũng có nghĩa sự tuyệt vọng bởi chờ đợi “quá lâu” hay do nguyên nhân nào khác từ bộ phận chuyên trách “bồi hoàn”. Gây nên sự phẫn nộ uất ức tạo ra tiếng súng từ Anh Viết.
Theo anh trai và những người thân trong gia đình của anh Viết thì bản thân anh là người hiền lành, không nghiện ma túy, rượu chè, thậm chí không hút thuốc lá, rất quan tâm đến bạn bè, gia đình.
Trên một kênh thông tin khác, chân phương trung thực hơn từ PV một tờ báo “nhà nước, đảng”:
Chiều 12.9, chúng tôi (PV báo Thanh Niên) đã tìm về chùa Đông Sơn (còn gọi là chùa Đông, thôn Dục Dương, xã Trà Giang, Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình), nơi Đặng Ngọc Viết tự sát, để tìm hiểu cụ thể thêm các thông tin.
Bà Lê Thị Tám, một phật tử ở thôn Dục Dương, thường đến phụ việc công quả ở tại chùa Đông, là người đầu tiên phát hiện vụ việc Đặng Ngọc Viết tự sát.
Bà Tám kể lại: “Khoảng 15 giờ chiều (11.9), có một người đàn ông đi xe máy đến cổng chùa và xưng tên là Viết, người gốc ở làng. Sau đó người này vào sân chùa ngồi chơi uống nước với bà Tám và một số phật tử khác, nói chuyện trong làng, giọng rất bình thản.”
Bà Tám cũng cho biết trong câu chuyện của mình, anh Viết có kể về việc nhà anh ở Tp. Thái Bình có đất đền bù nhưng giá tiền đền bù quá thấp. Đến khoảng 18 giờ, khi được mời cơm chiều, anh Viết có xin một bát cơm chay lót dạ.
Bà Tám và các phật tử khác để ý thì thấy thỉnh thoảng anh Viết lại quỳ gối dưới chân bức tượng Phật Bà Quan Âm cầu nguyện.
Theo các nhân chứng tại chùa, anh Viết tự sát vào tầm hơn 19 giờ tối cùng ngày (11.9) dùng súng tự bắn vào tim (không phải bắn vào đầu như tin đã đưa) sau đó ném súng xuống dưới ao, rồi tử vong.
Bà Tám ở chùa Đông Sơn chỉ nơi anh Đặng Ngọc Viết tự sát 
Như nói trên, theo ông Nguyễn Hải Trường, Chánh văn phòng UBND thành phố Thái Bình cho rằng: “Ông Viết quá bức xúc vì giá đền bù không thỏa đáng thì không đúng. Khung giá đã có quy định, không có chuyện thấp hay cao”.
Tuy nhiên ông Trường nên hiểu rằng trên thực tế, việc áp dụng pháp luật đất đai nhiều nơi không chỉ sai ở địa phương mà còn ở cả Trung ương (Tiên Lãng). Nhiều cơ quan hành chính ở địa phương có quan niệm rất sai lầm về cơ chế Nhà nước thu hồi đất. Thu hồi đất đai là vấn đề rất nhạy cảm bởi nó động chạm đến quyền lợi người dân, kế sinh nhai của họ và tình cảm của họ trên mảnh đất từ cha ông họ để lại sinh sống. Đằng sau quyết định thu hồi đất - giao đất thường chứa chất những mối quan hệ kinh tế tài chính phức tạp, vốn dĩ hay đi liền gắn với tư lợi của cá nhân người có chức năng, của cơ quan quyền lợi nhóm có thẩm quyền... Mà thực tế nó đã diễn ra rất nhiều lần, trước mắt nhân dân, công luận, rất xót xa, đau lòng. Cũng nên nhắc lại để chúng ta nghiệm suy từ di lụy vì sao anh Viết nổ súng...

Từ mồ hôi nước mắt và “máu” của cả gia đình, (cả xã Quang Vinh đều chứng nhận) ông Đoàn Văn Vươn phải mất nhiều năm mới biến đất bãi bồi hoang dã ven biển thành ao đầm nuôi tôm cá tiện nghi xinh đẹp, khiến các “quan” xã, huyện động lòng tham, muốn ngồi mát ăn bát vàng, toa rập cùng nhau “nhất trí” cưỡng chế thu hồi bằng vũ lực (dù trái Pháp Luật)...

Họ đã dùng cả xe ủi phá tan căn nhà trên đất ao đầm để gia đình ông Vươn không còn nơi cư ngụ canh tác phải bỏ ao đầm. Nhưng cuối cùng từ tiếng súng và tiếng mìn phản kháng vang lên đó, chân lý cả nước vọng lại và lẽ phải đã một phần hiện diện dù hiện nay ông Vươn và người thân vẫn còn trong lao tù với bản án phi nhân mà kẻ thủ ác cầm đầu LL vũ trang cưỡng chế lại được “ngài” Thủ Tướng “X” phong hàm lên “Tướng Cướp” (Đỗ Hửu Ca – GĐ/CA/Hải Phòng).
Và hình như dư âm, vang vọng, thôi thúc từ sự bất khuất đó - Hôm nay đến lượt anh Đặng Ngọc Viết thay cho lời phản kháng nghiêm khắc: “Gia đình tôi không thể sống được thì “quí vị” cũng không có lý do gì hiện diện trên cõi đời này” bằng cách bắt buộc những cánh tay nối dài của cường quyền, áp đặt bất công, phải trả giá trong một “nút thắt” đẫm máu mà không ai có thể mở ra hay ngăn chặn được.
Bởi vì: Như bị dồn đến chân tường. Dưới một chế độ độc tài toàn trị đầy tham nhũng thối nát, pháp luật trong tay những kẻ bạo quyền thì “người dân” nhân danh công lý tự xử người và tự xử ta như anh Đoàn Ngọc Viết để dứt khoát không thể đứng trước vành móng ngựa nhận án từ pháp chế độc tài XHCN rồi dựa cột hứng đạn của phường vô lại đội lốt đầy tớ nhân dân, đó là khúc ca “Bi tráng” cất lên mà tất cả chúng ta có thể ngẩng đầu hiểu được.
 

Thưa ngài Tony Blair, ngài là cố vấn cho Việt Nam không nổi đâu

Tư Ếch
Kính gửi ngài Tony Blair- cựu thủ tướng nước Anh xa xôi- kính mến!
Tôi vội vã viết ngay bức thư này cho ngài, sau khi nghe tin rằng ngài sẽ làm cố vấn kinh tế/chính trị cho đất nước chúng tôi theo thông cáo báo chí trong nước đưa tin rầm rập.
Tôi là con một nông dân Việt Nam, từ nhỏ đã biết làm ruộng, trồng rau nuôi gà, vớt bèo, nhổ bông súng….sau này lớn lên tôi làm công nhân bán thời gian tại một nhà máy xuất khẩu thủy sản tại địa phương. Trong lúc nghỉ hè, tôi làm toàn thời gian cho nhà máy, dù rất nhỏ người và xấu xí nhưng năng xuất lột tôm của tôi không hề kém cạnh một công nhân lành nghề nào. Sau khi tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, tôi thi vào đại học và ra trường đi làm với tư cách một cử nhân, cái bằng cấp mà xã hội Việt Nam vẫn tự ngầm hiểu với nhau rằng tôi thuộc tầng lớp trí thức.
Tôi phải xin lỗi ngài vì cái lý lịch trích ngang dài dòng này bởi vì một lý do tôi sẽ trình bày tiếp sau đây, xin ngài hãy kiên nhẫn.
Đất nước chúng tôi hiện này có cái tên khá dài, rất hay “Cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam”, đó còn là câu chữ đầu tiên trong mọi văn bản hành chính trong nước kể cả trong ngoại giao. Dưới dòng tiêu đề đó bắt buộc phải có thêm 6 chữ nữa, cũng rất hay đó là  “Độc lập- Tự Do- Hạnh Phúc”. Tôi nghĩ phàm làm người, nếu một xã hội, một đất nước nào đó có điều kiện về mọi mặt mà tiệm cận được những tiêu chí trên thì có lẽ con người của xứ sở đó đang sống trong một xã hội không khác gì thiên đường.
Và chính xác là chúng tôi, những người dân của đất nước này đang được dẫn dắt đến thiên đường.
Như phần đầu tiên giới thiệu, tôi đã trải qua ba vị trí: nông dân, công nhân, trí thức. Chính quyền VN từ rất lâu khi mà đảng CS lên nắm quyền, ngay trong hiến pháp của đất nước chúng tôi đã có một quy định trong điều 4.
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Nói như thế thì có phải chính những người như tôi là đội tiên phong lãnh đạo đất nước chúng tôi, phải thế không ngài? Thế nhưng nói vậy mà không phải vậy đâu.
Ngài là một thủ tướng tài năng, điều đó chẳng ai phủ nhận, một thủ tướng Anh sau khi đảng Lao động thắng lớn trong cuộc tổng tuyển cử 1997 và cho đến nay ngài là thủ tướng lâu năm nhất của đảng Lao động và là người duy nhất dẫn dắt đảng này chiến thắng ba cuộc tổng tuyển cử kề nhau. Có lẽ ngài quá tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm trong vai trò của nhà lãnh đạo một đảng cầm quyền cũng như vai trò thủ tướng của một nền kinh tế lớn trong cộng đồng gồm 27 quốc gia châu Âu; đó có phải là lý do khiến ngài tự tin để đảm nhận vai trò cố vấn kinh tế/chính trị cho đất nước chứng tôi phải không?
Nếu suy nghĩ như thế thì….có lẽ ngài đã nhầm.
Để thành công, ngoài tài năng ra chúng ta còn cần có sự trải nghiệm. Tuy nhiên, ngài chỉ thành công ở Anh, dù là một thể chế chính trị quân chủ lập hiến thì việc ngài ngồi vào vị trí thủ tướng cũng là do người dân bầu chọn. Nó hoàn toàn khác với đất nước chúng tôi, những người như tôi đây, đã bao giờ được quyền bầu chọn thực sự người đại diện cho mình. Nói thế để tôi cảnh báo với ngài một điều, mọi thứ ngài nên cân nhắc cho chín chắn.
Trên tư cách một công dân đã sống gần ba mươi năm tại Việt Nam, tôi xin có vài gợi ý để ngài suy nghĩ
- Theo ngài thế nào là một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN? Ở đất nước chúng tôi, tất cả đều được định hướng kể cả tình cảm và giáo dục. Ngài không tin ư? Người cộng sản được xem là có gan sắt, tim đồng, ngay trong giai đoạn chiến tranh, những tình cảm con người như “cha con, vợ chồng, anh em, tình yêu đôi lứa” đều phải kiềm nén lại, nếu biểu hiện ướt át sẽ là kẻ ủy mị. Còn trong giáo dục, chúng tôi theo Liên Xô đó ngài ạ, vì vậy những tàn dư của Mỹ- Ngụy là đốt hết, phá hết. Thậm chí ngay cả trong lịch sử, cái lĩnh vực không thể bẻ cong, bịa đặt được, chúng tôi có lúc thì sôi sục tinh thần chống bành trướng Trung Quốc xâm lược, còn bây giờ thì im lặng và lại được báo chí, giáo dục tuyên truyền theo chiều hướng “láng giềng hữu nghị” là 4 tốt và 16 chữ vàng đó ngài ạ. Khó hiểu lắm. Những bia mộ ghi tên anh hùng liệt sĩ ở Hoàng Sa và Trường Sa bị đục bỏ thảm hại. Thử hỏi, lịch sử mà cứ lúc này lúc khác theo định hướng thì học sinh làm sao mà yêu mộn sử được, học sinh ở đất nước chúng tôi chán ghét môn sử, khi không phải thi tốt nghiệp môn sử họ đã ăn mừng, xét nát tài liệu ôn thi để xả rác đầy sân trường.
- Nền kinh tế Tư bản mà ngài là người lãnh đạo ấy theo học thuyết Marx của chúng tôi- kim chỉ nam cho mọi hành động của người cộng sản- gọi là nền kinh tế vô nhân đạo, bóc lột, bất công tàn bạo. Ngài định đem nó sang đây để áp dụng chế độ tàn bạo bất công đó ư? Chúng tôi đang hướng tới thiên đường, là hanh phúc ấm no, nhà nước của dân do dân, vì dân, là làm theo năng lực; tức là nếu tôi ốm yếu, mỗi ngày tôi chỉ quét một cái sân chùa nho nhỏ; nhưng tôi lại được hưởng theo nhu cầu đấy. Vì vậy, việc một người cộng sản làm việc nhẹ nhàng mà có tiền mua xe hơi nhà lầu cũng không khó lý giải. Xã hội chúng tôi không cần phải làm việc quần quật như bên xứ ngài đâu.
- Ngài là một thủ tướng giỏi, nhưng ngài nên nhớ chúng tôi cũng có một thủ tướng là ông Nguyễn Tấn Dũng được báo giới khen là giỏi nhất Châu Á, một thủ tướng tài năng được cả báo Hàn, báo Đức ca ngợi, ngài đã chắc hơn ông ấy? Ông thủ tướng chúng tôi cũng đã từng làm y tá, theo người cộng sản làm CM từ khi còn niên thiếu, từng sống trong rừng thiêng nước độc có rất nhiều rắn rít, muỗi vắt, liệu sức đề kháng của ngài đã hơn ông ta? Ông Dũng sống tại VN, biết hết những thách thức và cơ hội của chúng tôi, liệu ngài đã giỏi bằng ông ta trong việc lèo lái con thuyền nhà nước VN ở tại VN?
- Ở đất nước các ngài, kinh tế tư nhân, tài sản và phần lớn các công ty liên doanh đều do các tập đoàn tư nhân sở hữu và quản lý. Còn chúng tôi, đất đai và phần lớn tài sản là của chung, là sở hữu toàn dân, trong đó nhà nước đại diện quản lý. Vậy thì mấy cái mớ kiến thức và kinh nghiệm của ngài quả thật tréo ngoe tréo càng với chính sách của chúng tôi rồi. Ví dụ như trường hợp gia đình tôi đây, đất đai của ông bà tổ tiên nhà tôi sống mấy trăm năm nay, từ thời nhà Nguyễn cai trị, trải qua thời kỳ Pháp thuộc, rồi chính quyền người Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, chúng tôi chẳng có mất tí đất nào, đó là tài sản của chúng tôi với giấy bằng khoán ghi rõ chúng tôi là chủ sở hữu. Còn bây giờ, tờ giấy đó chỉ công nhân cho chúng tôi về quyền sử dụng thôi.
…….
Tôi có nhiều vấn đề để thưa cùng ngài, tuy nhiên với đầu óc hạn hẹp, tôi chỉ nhớ được bấy nhiêu đó, mong ngài xem xét cho kỹ lưỡng. Đất nước chúng tôi đang tươi đẹp thế này, lỡ mà ngài nhảy vào làm cố vấn mà nó lao dốc thì lúc đó ngài có hối tiếc cũng không kịp đâu. Coi chừng ngài sẽ phải lãnh trách nhiệm trước quốc hội của Việt Nam, trước nhân dân Việt Nam, bao nhiêu thanh danh cao quý trước đây của ngài xem chừng cũng khó mà giữ được.
Xin chào ngài và mong ngài suy nghĩ cho thật chín chắn

Mười điều ngộ nhận về chủ nghĩa Mác (2, tiếp theo): Chủ nghĩa xã hội không cần tự do dân chủ?

Bài này viết tiếp bài viết trước đó về điều ngộ nhận thứ hai về CN Mác, lấy từ Chương 2 của cuốn sách Vì sao Mác đúng? của GS Terry Eagleton. Xem bài trước ở đây: http://bloganhvu.blogspot.com/2013/09/muoi-ieu-ngo-nhan-ve-chu-nghia-mac-2.html.

Trong bài trước, tôi đã tóm tắt lập luận chính của Eagleton để phản bác điều ngộ nhận phổ biến là "Mác chỉ đúng trên lý thuyết". Lập luận đó như sau: Eagleton đã chứng minh rằng thực tiễn cách mạng XHCN diễn ra không theo lý thuyết của Mác, vì vậy Mác không thể chịu trách nhiệm về thực tiễn không mấy sáng sủa của CNCS ngày nay. Ví dụ, CMXHCN trên thực tế đã diễn ra ở các nước nông nghiệp lạc hậu, trong khi Mác cho rằng CM XHCN phải được tiến hành ở các nước có một trình độ phát triển TBCN nhất định. Trong bài này, tôi sẽ tiếp tục tóm tắt các lập luận khác của Eagleton nhằm chứng minh Mác không sai trên thực tế, sau đó đưa ra những nhận xét hoặc thắc mắc của tôi.

Một điểm khác được Eagleton đưa ra để chứng minh cho sự khác biệt giữa lý thuyết của Mác với việc áp dụng vào thực tiễn trong CM XHCN: Mác không hề cho rằng cách mạng XHCN có thể tiến hành và thành công trên một nước, trong khi những người CS Nga lại tin rằng cần phải tiến hành CM thành công tại một nước trước đã. Xin đọc phần trích dẫn dưới đây:

Nor did Marxists ever imagine that it was possible to achieve socialism in one country alone. The movement was international or it was nothing. This was a hardheaded materialist claim, not a piously idealist one. If a socialist nation failed to win international support in a world where production was specialized and divided among different nations, it would be unable to draw upon the global resources needed to abolish scarcity. The productive wealth of a single country was unlikely to be enough. The outlandish notion of socialism in one country was invented by Stalin in the 1920s, partly as a cynical rationalisation of the fact that other nations had been unable to come to the aid of the Soviet Union. It has no warrant in Marx himself. Socialist revolutions must of course start somewhere. But they cannot be completed within national boundaries. To judge socialism by its results in one desperately isolated country would be like drawing conclusions about the human race from a study of psychopaths in Kalamazoo.

Mác cũng không hề cho rằng CNXH có thể thành công trên một quốc gia riêng lẻ. Cuộc vận động ấy [tức cuộc CM XHCN - chú thích của người dich] cần phải diễn ra trên toàn thế giới, nếu không thì chẳng có gì cả. Lời khẳng định này hoàn toàn mang tính duy vật chứ chẳng phải là một khẳng định mang tính lý tưởng theo kiểu tôn giáo. Nếu một quốc gia XHCN không có được sự ủng hộ của toàn thế giới trong một xã hội mà việc sản xuất đã được chuyên biệt hóa cho từng quốc gia, thì rõ ràng nó sẽ không huy động được nguồn lực của toàn thế giới mà nó cần để xóa bỏ sự khan hiếm. Sự thịnh vượng của chỉ một quốc gia sẽ không thể đủ. Cái ý tưởng quái gở về CNXH trên một quốc gia là do Stalin sáng chế ra vào những năm 1920, một phần là vì phải giải quyết cái thực tế rằng các quốc gia khác không thể hỗ trợ cho Liên Xô được. Mác không hề bảo đảm cho điều này. Tất nhiên những cuộc cách mạng XHCN sẽ phải xuất phát từ một vài quốc gia nào đó, nhưng nó không thể thành công nếu chỉ gói gọn trong phạm vi từng quốc gia. Vì vậy, đưa ra lời phán đoán về CNXH bằng cách dựa trên những kết quả mà nó đã đạt được trong một quốc gia bị hoàn toàn cô lập thì chẳng khác nào đưa ra những kết luận về toàn bộ nhân loại dựa trên một nghiên cứu về các bệnh nhân tâm thần của riêng vùng Kalamazoo. 

(Ghi chú: Kalamazoo là một thành phố nhỏ với vài trăm ngàn dân ở phía tây nam của bang Michigan, Mỹ. Xem thông tin ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/Kalamazoo,_Michigan)

Đọc đến đây, có lẽ chúng ta phải giật mình vì cách đây mấy trăm năm Mác đã hình dung ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia như chúng ta đang thấy trong nền kinh tếtoàn cầu hóa hiện nay. Và điều này có lẽ cũng cho chúng ta một lời cảnh báo về việc liệu có nên giữ khư khư lấy những gì mà chúng ta cho là đặc trưng riêng biệt của nền văn hóa hay thể chế hoặc hệ thống giáo dục hay pháp luật hay gì gì khác mang đặc điểm XHCN của chúng ta hay không.

Phải chăng, chính những quốc gia mà chúng ta đang gọi là tư bản, họ đang ở gần chủ nghĩa xã hội (một CNXH lý tưởng theo lý thuyết của Mác) hơn chúng ta, và cũng sẽ có cơ hội "toàn thắng" hơn chúng ta? Vì họ có cơ sở vật chất tốt, có cộng đồng tốt (toàn cầu), trong khi "khối" XHCN ngày càng teo lại, và những thành tựu về kinh tế, KHKT của ta thì thua xa họ. Vậy nếu chúng ta kiên định con đường đã chọn (như lâu nay) thì liệu chúng ta sẽ đi về đâu?

Lập luận cuối cùng, mà theo tôi là lập luận quan trọng nhất trong chương này, có liên quan đến vấn đề tự do, dân chủ trong xã hội. Như Eagleton đã nêu trong phần tóm tắt của chương 2, một ngộ nhận quan trọng đối với chủ nghĩa Mác đó là người ta thường cho rằng sự thiếu tự do, dân chủ và sự bạo ngược của chính quyền là do lý thuyết của Mác. Nhưng thật ra hoàn toàn không phải như thế. Xin đọc đoạn trích dưới đây:

Ideally, socialism requires a skilled, educated, politically sophisticated populace, thriving civic institutions, a well-evolved technology, enlightened liberal traditions and the habit of democracy. None of this is likely to be on hand if you cannot even afford to mend the dismally few highways you have, or have no insurance policy against sickness or starvation beyond a pig in the back shed. Nations with a history of colonial rule are especially likely to be bereft of the benefits I have just listed, since colonial powers have not been remarkable for their zeal to implant civil liberties or democratic institutions among their underlings.

Một cách lý tưởng, CNXH đòi hỏi phải có những con người có kỹ năng, được học hành tử tế, và có ý thức chính trị sâu sắc, cùng với các thiết chế của một xã hội công dân (hoặc 'xã hội dân sự'), một nền công nghệ phát triển, các truyền thống nhân văn mang tính khai sáng, và các thói quen của một nền dân chủ. Những điều này sẽ không thể có được khi chúng ta thậm chí còn chưa có đủ tiền để sửa chữa các xa lộ bị hư hỏng nặng nề, hoặc khi chúng ta không có các chính sách bảo hiểm để phòng ngừa trường hợp bị bệnh tật hoặc nạn đói và chỉ biết dựa vào việc từng người nông dân nuôi thêm một con lợn ở sau nhà làm của đề dành mà thôi. Các quốc gia có lịch sử thống trị của thực dân đa số sẽ thiếu thốn những điều kiện cần thiết của chủ nghĩa xã hội mà tôi đã nêu ở trên, bởi các nhà cầm quyền thực dân rõ ràng chẳng lấy gì làm hăng hái trong việc thiết lập các quyền tự do dân sự hoặc các thiết chế dân chủ trong những quốc gia thuộc địa của mình.

Và một đoạn rất quan trọng khác liên quan đến tình trạng độc tài theo kiểu Stalin:

It is not that the building of socialism cannot be begun in deprived conditions. It is rather that without material resources it will tend to twist into the monstrous caricature of socialism known as Stalinism. The Bolshevik revolution soon found itself besieged by imperial Western armies, as well as threatened by counterrevolution, urban famine and a bloody civil war. It was marooned in an ocean of largely hostile peasants reluctant to hand over their hard-earned surplus at gunpoint to the starving towns. With a narrow capitalist base, disastrously low levels of material production, scant traces of civil institutions, a decimated, exhausted working class, peasant revolts and a swollen bureaucracy to rival the Tsar’s, the revolution was in deep trouble almost from the outset. In the end, the Bolsheviks were to march their starving, despondent, war-weary people into modernity at the point of a gun.

Vấn đề không phải là không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện thiếu thốn. Vấn đề là ở chỗ nếu thiếu điều kiện vật chất thì CNXH sẽ bị uốn cong thành một thứ quái thai của CNXH có tên gọi là chủ nghĩa Stalin. Cuộc cách mạng Bolshevik lúc ấy chưa thành công được bao lâu thì đã bị bao vây bởi quân đội của các nước phương tây, đồng thời bị đe dọa bởi lực lượng phản cách mạng, cộng thêm nạn đói ở đô thị và một cuộc nội chiến đẫm máu. CNXH bị bỏ rơi trên hoang đảo với những người nông dân thù địch không sẵn lòng giao lại cho các đô thị đang chết đói những phần thặng dư mà họ đã bỏ bao công sức ra để kiếm được. Với số vốn liếng tư bản ít ỏi, trình độ sản xuất của cải vật chất cực thấp, hầu như không có dấu vết gì của các thiết chế dân sự, một giai cấp công nhân ít ỏi và kiệt quệ, các cuộc nổi loạn của nông dân và một bộ máy quan liêu cồng kềnh cho tương xứng với hệ thống hành chính của Nga Sa hoàng, cuộc cách mạng thực sự ở trong tình trạng nguy cấp ngay từ những ngày đầu. Cuối cùng, những người Bolshevik phải sử dụng đến họng súng để lùa những người dân đói khát, tuyệt vọng, chán ngán
 chiến tranh của mình tiến lên một xã hội hiện đại. 

Quả là những lời rất hay, rất hùng biện để biện hộ cho tình trạng độc tài (theo quan điểm của phương Tây) của các nước XHCN như Liên Xô, TQ, vv. Nhưng dù tác giả rõ ràng tỏ ra thông cảm với tình trạng đã xảy ra ở các nước XHCN, thì ông vẫn không có ý nói tình trạng trên là bình thường hoặc đáng để chấp nhận nhằm xây dựng CNXH. Luận điểm chính của ông là: Mác có một quan điểm khác về CNXH, nhân bản hơn nhiều, và CNXH chỉ có thể được xây dựng thành công tại các quốc gia có sẵn các thiết chế của một nền dân chủ và một xã hội dân sự mạnh.

Những lập luận trên của GS Terry Eagleton chẳng phải là đáng suy nghĩ lắm chăng? Và phải chăng chúng ta cần thay đổi nội dung giảng dạy trong các sách giáo khoa của ta về sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu theo cách lý giải của Eagleton chăng, đó là: Những cuộc cách mạng đó chỉ là những quái thai của CNXH, và vì vậy không thể nào phát triển bền vững được vì nó đã không tuân theo chủ nghĩa Mác ngay từ điểm xuất phát?

Tôi sẽ viết tiếp về điều ngộ nhận thứ ba (Chương 3 của cuốn sách) khi có chút thời gian.

Mít Đặc và Biết Tuốt (1)

 
(Mít Đặc và Biết Tuốt là hai bạn thân, nhưng Mít Đặc làm toán hay bị sai, còn Biết Tuốt thì hay làm đúng hơn. Hãy thử xem xem Mít Đặc sai ở những chỗ nào)
1. Vận tốc trung bình
Mít Đặc chạy vào khoe với Biết Tuốt:
- Hôm nay tớ đạp xe quanh bờ hồ hai vòng. Vòng đầu tớ hăng hái nên đạp với vận tốc 20km/h. Vòng sau tớ mệt rồi nên chỉ đạp với vận tốc 10km/h. Tính ra là tớ đạt vận tốc trung bình 15km/h cho hai vòng quanh hồ !
- Bạn tính nhầm rồi! – Biết Tuốt nói – Vận tốc trung bình của bạn không phải 15km/h đâu.
- Nhầm là thế nào – Mít Đặc phản đối – 20 cộng với 10 chia cho 2 bằng 15 chứ còn gì nữa.
- Đúng thế, nhưng mà vẫn nhầm.
Theo bạn thì Mít Đặc có nhầm thật không ? Nếu nhầm thì vận tốc trung bình của Mít Đặc là bao nhiêu?
2. Tăng trưởng bao nhiêu
Mít Đặc và Biết Tuốt lạc vào một xứ lạ, do một Lãnh Tụ Sáng Suốt (LTSS) cai quản. LTSS đang kể thành thích của mình với nhân dân:
- Hỡi đồng bào, hai năm quá chúng ta đã trải qua một năm thời tiết khó khăn rồi đến một năm thời tiết thuận lợi. Năm khó khăn,  thu nhập của bà con bị giảm 40% so với năm trước đó. Còn trong năm thuận lợi, thu nhập của bà con tăng được những 50% so với năm trước đó. Như vậy là sau hai năm, trải qua cả thời kỳ khó khăn và thuận lợi, nhờ có sự lãnh đạo tài tình của tôi, thu nhập của bà con đã tăng lên được 50% – 40% = 10%
Mọi người vỗ tay ầm ỹ hoanh nghênh tài lãnh đạo kinh tế của LTSS. Cả Mít Đặc cũng vỗ tay theo. Tuy nhiên có mấy người vẫn thắc mắc: “Thu nhập tăng lên, mà sao ta vẫn đói hơn hai năm trước nhỉ”.  Riêng có Biết Tuốt buột miệng nói: “Tăng đâu mà tăng, có giảm 10% thì có”. Vì câu đó mà Biết Tuốt suýt bị LTSS tống vào tù, may mà kịp chạy thoát thân.
Vậy thì thực ra là thu nhập của người dân xứ đó tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm trong hai năm, vì sao ?
3. Bộ trưởng tham nhũng
Biết Tuốt cầm một tờ báo đọc rồi chỉ cho Mít Đặc xem:
- Cái nước X này tham nhũng ghê chưa này. Nội các có 20 bộ trưởng, trong đó có bộ trưởng trong sạch, nhưng cứ hai bộ trưởng bất kỳ thì có ít nhất một bộ trưởng tham nhũng trong đó.
- Nhiều thế cơ à, đến một nửa số bộ trưởng là tham nhũng cơ à! – Mít Đặc thốt lên. – 10 bộ trưởng tham nhũng thì đúng là nhiều thật!
- Nhiều hơn thế nữa cơ – Biết Tuốt nó.
Theo bạn thì nước đó có bao nhiêu bộ trưởng tham nhũng, và bao nhiêu bộ trưởng trong sạch ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét