Những thông điệp có khả năng làm sáng tỏ nghi án ngàn năm
Người Trung Hoa luôn tự hào và mạnh miệng tuyên bố rằng chính họ là
người sáng tạo ra Hà Đồ, Kinh Dịch… Bất chấp không ít ý kiến, công trình
nghiên cứu của nhiều học giả đặt nghi vấn về nguồn gốc thật của nó.
Một trong những nhà nghiên cứu luôn bày tỏ sự nghi ngờ đó chính là tác giả Viên Như. Ông đã từng có hàng loạt khám phá, phân tích và chứng minh lý thú xoay quanh các “nghi án ngàn năm” về chuyện các triều đình Trung Hoa song song với việc xâm lược Việt Nam bằng quân sự còn chú ý thực hiện hàng loạt kế hoạch tiêu diệt văn hóa Việt với nhiều thủ đoạn không thể tưởng.
Một trong những nhà nghiên cứu luôn bày tỏ sự nghi ngờ đó chính là tác giả Viên Như. Ông đã từng có hàng loạt khám phá, phân tích và chứng minh lý thú xoay quanh các “nghi án ngàn năm” về chuyện các triều đình Trung Hoa song song với việc xâm lược Việt Nam bằng quân sự còn chú ý thực hiện hàng loạt kế hoạch tiêu diệt văn hóa Việt với nhiều thủ đoạn không thể tưởng.
Một trong các thủ đoạn thâm độc đó là xuyên tạc và bóp méo nhiều tác
phẩm quan trọng của các danh nhân người Việt có tư tưởng và công trạng
lớn lao trong việc dựng nước và giữ nước trước họa xâm lăng từ phương
Bắc, được nhân tôn kính. Đồng thời bịa ra nhiều câu chuyện hư hư thật
thật xung quanh cuộc đời của các danh nhân người Việt để bôi đen nhân
cách của họ.
Tác giả Viên Như vừa cho công bố một loạt bài nghiên cứu chứng minh Hà
Đồ, Kinh Dịch hoàn toàn là thành quả trí tuệ của người Việt cổ, tổ tiên
của người Việt Nam ngày nay. “Nói có sách, mách có chứng”, theo tác giả
Viên Như toàn bộ các chứng cứ đều được ghi rõ trên mặt trống đồng cổ của
người Việt.
Đây có lẽ là một nghi án văn hóa lớn nhất và dài nhất của nhân loại. Tác
giả Viên Như tin tưởng rằng với những phát hiện mới và hệ thống chứng
cứ của ông về những gì đã ghi lại trên mặt các trống đồng cổ của người
Việt, cho phép ông khẳng định: Hà Đồ và Kinh Dịch 100% là của người Việt
Nam.
Tuy nhiên, tác giả Viên Như cũng thừa nhận rằng: "Với kiến thức giới
hạn, tôi xin lí giải một phần của trống đồng. Tôi tin rằng chắc chắn còn
nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống đồng im lặng ấy, mong những ai có
học thức và chuyên môn hãy cùng chung sức đáp lời tiên tổ, đánh thức
những âm thanh của bức thông điệp mà tổ tiên nước Việt đã gửi lại trong
vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan cho ông cha ta, dân tộc ta từ
mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng học của người phương Bắc".
Xin tri ân tổ tiên nước Việt đã dày công tạo nên trống đồng, với một
ngôn ngữ kỳ diệu, đồng thời là một văn bản viết tay với những bằng chứng
không thể biện bác, như là một sự tiên trị, chuẩn bị cơ sở cho hàng
ngàn năm sau để cháu con làm sáng tỏ.
Xin chúc mừng tác giả..
Hữu Nguyên
Đã tìm thấy Hà đồ - Kinh dịch trên trống đồng Đông Sơn.
Viên Như
Trước hết xin bàn qua chuyện RỒNG. Theo truyền thuyết con Rồng cháu Tiên
thì Lạc Long Quân nói với Âu Cơ “ Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên…
không ở với nhau được” Vậy giống Rồng là giống gì? Từ đâu mà có giống
này? Tất nhiên là không phải con Rồng trong thần thoại rồi. Căn cứ vào
câu chuyện thì ta biết rằng Lạc Long Quân là người Đồng bằng còn Âu cơ
là người miền Núi. Chữ Rồng được hình thành theo cách sau : Lạc Long
Quân là dân lúa nước, những mảnh đất nhỏ trồng lúa gọi là RUỘNG, miền
trung gọi là rọn, còn tất cả những mảnh đất trồng lúa gộp lại thì gọi là
ĐỒNG. Hằng năm những cơn mưa đến, nước từ trên trời trút xuống, trên
nguồn đổ về dâng lên bao phủ cả bốn bề. Thậm chí người ta chẳng thấy mưa
đâu, vì mưa nơi khác, nhưng bổng dưng họ chứng kiến những con nước cứ
từ từ dâng lên, bò lên những cánh đồng, vượt qua những bờ đê, leo lên cả
mái nhà, nó di chuyến khắp nơi, mà đã di chuyển được, bò đi được thì
nhất định thuộc loài gì đó, con gì đó, nhưng không biết con gì, chỉ thấy
nó trườn qua Ruộng qua Đồng nên người xưa mỗi lần thấy nước lên thì
thông tin cho nhau là có con Ruộng Đồng tới, lâu ngày thành con Rồng
theo quy luật giản lượt tự nhiên của ngôn ngữ khi đã nói nhiều, nói
nhanh – lướt thành RUỘNG + ĐỒNG = RỒNG. Chính vì vậy trong tâm thức
người Việt, con rồng hết sức to lớn, luôn luôn gắn liền với nước, nên
khi nước trên trời trút xuống thì họ nghĩ là có con rồng ở trên ấy, ngày
ấy không có gì mạnh mẽ hơn sức mạnh của nước hay của rồng . Ngày nay
khi nước lên ta vẫn gọi là nước ròng. Từ một con nước không có hình hài
cụ thể nhưng do nhu cầu hiện thực, đã là con vật thì phải có hình tướng,
nên về sau con rồng đã được mang một thân hình cụ thể với những chi
tiết khác nhau, tùy theo mức tưởng tượng của mỗi dân tộc qua các thời
đại, chỉ cái bản chất duy nhất của nó là không thay đổi mà thôi. Đó là
sức mạnh.
Cũng như chữ RỒNG, trước khi tạo ra trống đồng, chắc chưa có từ TRỐNG,
từ này chỉ xuất hiện sau khi trống đồng đã được sử dụng theo dòng chảy
sau đây:
Như ta biết người Lạc Việt xưa là cộng đồng cư dân lúa nước, các vuông
đất trồng lúa được gọi là ĐỒNG, từ này được thành lập bởi đọc lướt từ
ĐẤT + TRỒNG = ĐỒNG 同. Vì vậy khi làm ra khí cụ mà ta gọi là trống đồng
người ta đặt tên là CÁI ĐỒNG, khi đánh CÁI ĐỒNG nó phát ra một âm thanh
mạnh mẽ như con Rồng gọi là “ RỐNG” từ xa khi nghe thấy người ta bảo
nhau rằng : ĐỒNG RỐNG, lướt thành ĐRỐNG rồi thành TRỐNG từ đó người ta
gọi khí cụ ấy là TRỐNG ĐỒNG. Tất nhiên người Việt xưa đã có triết lý
nòng nọc – âm dương rồi nên đã có CÁI ĐỒNG = dương, thì phải có cái âm
nên họ làm tiếp cái khác để biểu trưng cho tượng này, cái đó gọi là CỒNG
共, Từ CỒNG, do đọc lướt từ CÁI + ĐỒNG = CỒNG. Về sau gọi một tập thể
người gồm nam nữ là CỒNG ĐỒNG rồi thành CỘNG ĐỒNG 共 同 theo nguyên tắc
âm dương như biểu í của con chữ.
Trống đồng là thành quả cao nhất của của cư dân Lạc Việt lúc bấy giờ,
những gì được thể hiện trên trống đồng đã thể hiện điều đó, rỏ ràng tư
tưởng, kỉ thuật và nghệ thuật đúc đồng lúc bấy giờ đã đạt đến trình độ
uyên áo và tinh xảo. Tất nhiên để có được một thành quả như vậy đòi hỏi
phải qua một quá trình lâu dài, không những chỉ là vấn đề kỉ thuật mà
còn đòi hỏi người Việt phải làm việc tích cực cả cộng đồng để thống nhất
tư tưởng, từ đó mới chọn ra được những ngôn ngữ nào thông qua hình ảnh,
hoa văn để viết thành một cuốn sử bằng tranh trên trống đồng. Chắc chắn
rằng tất cả những gì được đưa vào trống đồng đều có tiếng nói riêng của
nó, chính vì vậy từ trước tới giờ đã có rất nhiều người nghiên cứu nhằm
giải thích cái thông điệp mà tổ tiên người Việt gởi gắm trong đó. Giải
thích thì nhiều nhưng dường như chưa có một lí giải nào có tính hệ thống
đầy đủ hay nói khác hơn người ta chưa xâu chuổi được các thông tin
thông qua hình ảnh trên trống đồng thành một câu chuyện hợp lí, thuyết
phục, từ đó cung cấp cho hậu thế một cái nhìn tương đối về cuộc sống của
ông cha ta lúc bấy giờ. Đây là một vấn đề lớn và chắc chắn các nhà
nghiên cứu tâm huyết với cội nguồn dân tộc đã bỏ ra rất nhiều thời gian
và công sức nhưng kết quả vẫn chưa làm thỏa mãn được nhu cầu của dân
tộc. Điều ấy là chuyện bình thường, vì những gì ghi lại trên trống đồng
cách chúng ta cả mấy ngàn năm, chừng ấy thời gian thì mọi thông tin đã
sai lạc, biến thái, nhưng chúng ta chỉ có thế, chỉ biết lần theo dấu vết
của các thông tin từ các truyền thuyết và lịch sử mà tìm về cội nguồn,
mà lịch sử thì biến động không ngừng nên đôi khi những gì ghi lại nó lại
là bảng chỉ đường sai lạc dẩn ta về những kết quả không như mong đợi.
Với hiểu biết nhỏ bé của mình tôi cũng xin đưa ra đây vài giải thích về
trống đồng. Tất nhiên là phải chọn loại xưa nhất theo xếp loại của các
nhà nghiên cứu trống đồng, cụ thể ở đây là trống đồng Đông Sơn.
http://www.vietnamvanhien.net
Mặt trống đồng Đông Sơn : Ngoài các hoa văn hình học, mặt trống có bốn vòng chính như sau :
1- Vòng tròn hình ngôi sao hay mặt trời 14 tia, có cái 12, 10, 8,
chuyện này ai cũng biết rồi, sống mà thiếu mặt trời thì làm sao sống
được, cư dân lúa nước Lạc Việt cũng thế thôi. Vì có sự khác nhau đáng kể
như vậy nên nhiều nhà nghiên cứu đề nghị để chỉ thành phần bộ lạc tham
gia đúc trống. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu sâu thêm. Riêng đối với các
tam giác bên trong có biểu tượng mà theo tôi là cóc hướng về mặt trời,
vì nhiều trống khác cụ thể bằng con cóc lên bề mặt. Tựu trung thì người
Việt xưa thờ mặt trời. Vũ trụ quan và nhân sinh quan đều dựa trên khái
niệm nòng nọc, âm dương hay cóc.
2- Vòng có người, tả cảnh sinh hoạt của cộng đồng khi xong mùa. Ta
thấy cảnh giả gạo, nhảy múa, thổi khèn, đâm trống, đánh cồng, có lẽ để
cúng tế , vì có người đứng trước âu cầu mùa đang dang tay nói gì đó.
(hình người ngưỡng mặt lên trên có con gà). Việc cúng tế nơi nào cũng
giống nhau, nên hai âu cầu mùa đều giống nhau, còn hình người ngồi trong
nhà như đang ăn uống, tuy nhiên số lượng người trong nhà và chim trên
mái nhà khác nhau, điều này có thể nói lên là có nhiều gia đình đang vui
chơi buổi xong mùa và có nhà thì một người hát, hò hay kể chuyện (một
con chim), nhà khác thì mọi người cùng hát, hò (hai con chim). Con chim
trên mái nhà theo tôi là biểu tượng cho âm nhạc vì vậy trên âu cầu mùa –
chổ đánh cồng- của trống Hoành Hạ, cũng có hai con chim.
Cầu nguyện Tổ tiên Tấu cồng Nhảy múa Hát đồng dao
3- Vòng có hình các con gà và hươu. Đây là thú văn chỉ cho thấy rằng người Việt đã bắt đầu có ngôn ngữ hình tượng.
Theo tôi câu “ Nôm na là cha mách qué” là để chỉ về hình ảnh này. Câu
này có thể giải thích như sau : 喃Nôm = chữ Việt,那Na = ấy (Hán) Nôm là Nớ
= ấy, Cha = người làm ra = tác giả, Mách = Con hươu, ngày nay vẫn gọi
hươu nai là con mang. Qué = con gà. Viết thành câu = Nôm nớ là cha mách
qué. = Nôm ấy là người làm ra hươu gà. Ta có thể viết ngược lại “Chữ
hươu gà ấy là chữ Nôm.
A- Chữ Qué - Ngày trước khi muốn làm việc gì quan trọng, người ta
thường làm gà để cúng tổ tiên sau đó đem cặp giò đến ông thầy xem tổ
tiên nhắn gửi thế nào, gọi là bói giò gà. Sở dĩ có tục bói gà là vì ngày
xưa người Việt thấy con gà khi bới đất tìm thức ăn, để lại trên đất
những vạch ngang dọc nên người ta đặt tên nó là quái 卦 nhưng để tránh
trùng với các quái người ta gọi trại ra thành qué về sau thành quẻ.
Người xưa nghĩ rằng con gà có khả năng biết về dịch lý nên đã vẽ ra
những quẻ, nhằm nói lên những điều gì đó, vì vậy sau khi chết, cặp giò
của nó là là nơi chứa các thông tin của các quẻ, qua các đường gân máu
hiện ra nơi giò tượng trưng cho các quẻ hay những lời nói của tổ tiên.
Thầy đoán căn cứ vào đó mà nói. Vì vậy ở vòng tròn nói về sinh hoạt của
con người ta thấy có người đang ngưỡng mặt lên trời nói gì đó với qué
(tổ tiên). Về sau người phương Bắc chiếm lấy đọc là kê 鷄. Biểu ý của chữ
này cho thấy kê là loài chim – Điểu 鳥 biết đặt vấn đề - Hề 奚 = sao mà,
sao thế.
B - Chữ Mách – Ngày xưa có lẽ trong các loài hoang dã có sừng, hươu là
động vật người ta thường thấy nhất, vì nó hiền, không làm hại đến con
người và dĩ nhiên là đối tượng bị con người săn bắn nhiều nhất lúc bấy
giờ. Trong quá trình săn bắn người ta quan sát thấy con hươu hay cọ sừng
vào gốc cây làm thành những vạch ngang, từ đó họ tin rằng con hươu cũng
có khả năng vẽ ra những quẻ như con gà. Vì vậy sau khi ăn thịt họ tin
rằng xương hươu có chứa thông tin các quẻ nên lấy một cái que nóng chọc
vào xương cho nức ra -卜 Nôm = Bói, Hán = Bốc- , những đường nức đó xem
như là lời nói của các quái, thầy bói tùy theo đường nức đó mà đoán,
(biểu í của chữ quái 卦 đã cho thấy điều này). Trong hướng suy nghĩ này,
về sau, khi đã phát triển chữ viết khá hoàn hảo, người Việt viết các lời
đoán lên xương hươu. Cũng chính hình ảnh con hươu cọ sừng vào gốc cây
này mà người Việt vẽ thành một chữ tượng hình 角 đọc là GỐC, như trong
“gốc cây” có nghĩa là phần dưới của cây. Như vậy chữ 角 tuy là tượng
sừng, nhưng nó là đại diện cho xương hươu, chính vì vậy người Việt đã
phát triển tiếp í tưởng này vẽ thành một chữ khác đó là chữ 觚CỌ, như
trong “cọ xác 觚殼”(cọ lên cái cỏ ngoài) Hán đọc là CÔ, nghĩa hiện nay
trong chữ Hán là cái thẻ tre để viết chữ, nhưng chiết tự ra ta thấy là
dùng móng nhọn để cọ chữ lên xương hươu, cái mà ngày nay ta gọi là giáp
cốt. Điều này đã được minh chứng qua giáp cốt văn mà các nhà khảo cổ,
năm 1964, đã tìm thấy thành Ân Khư đời Thương (khoảng 1700 – 1064 TCN).
Về sau người phương Bắc chiếm lấy rồi đọc là GIÁC với nghĩa là SỪNG, tuy
nhiên âm GIỐC và GÓC đến nay vẫn còn, nhưng để chỉ góc cạnh. Tất nhiên
họ thừa biết nghĩa của chữ ấy là gốc cây, nhưng họ chỉ lấy phần tượng
hình con chữ là sừng, bỏ đi phần nguyên nhân ra đời của chữ tượng hình
đó – từ nguyên- nhằm xóa bỏ nguồn gốc con chữ của người Việt, nhưng vẫn
còn đó chữ cọ = 觚 . Vậy là người phương Bắc dấu đầu mà lại lòi đuôi.
Như thế ta thấy rằng chữ gốc 角, qué 鷄 là chữ Nôm như câu “Nôm na là cha
mách qué” đã cho biết. Điều nay chứng minh rằng chữ vuông là chữ Nôm và
nó có từ khi bình minh của con chữ tượng hình chứ không phải từ thế kỉ
thứ 10 như ta biết; như vậy chắc chắn rằng chữ vuông mà người phương Bắc
đã và đang dùng căn bản là chữ Nôm.
4 – Vòng có những con chim. Đây là điểu văn. Con chim lớn là con chim
thuộc họ hạc như cò, vạc, diệc. Trên trống đồng có thể là con chim diệc,
về cơ bản người Việt xưa cũng thấy khi cò, diệc ăn trên đồng, để lại
những dấu chân trên những thảm bùn, do di chuyển qua lại nên các dấu
chân chồng lên nhau, tạo ra nhiều quẻ khác nhau, người ta nghĩ rằng cũng
như gà, hươu, diệc cũng biết quẻ, không những dưới đất mà loài cò
diệc, khi làm tổ trên cây thường tha những cái đoạn cây nhỏ, ta gọi là
que, xếp ngang dọc để làm tổ nên người xưa cũng nghĩ loài này, nói
chung, đều biết quẻ nên lấy tên con diệc để làm biểu tượng cho loại ngôn
ngữ siêu hình của họ, vì con diệc ngoài bản thân nó, nó còn có đủ yếu
tố của cả hai con hươu, gà– trên trời, trung gian, dưới đất. Có thể từ
đó mà có BA GẠCH ☰. Về sau người phương Bắc lấy làm của họ đọc
trại đi từ DIỆC thành DỊCH trong KINH DỊCH. Từ hình ảnh của con chim
diệc người ta vẽ ra có chữ tượng hình 易 Diệc hay Dịch = thay đổi. Vì
vậy cứ hình ảnh trên trống đồng, ta thấy những con chim diệc dang cánh
bay, tất cả đều không thay đổi, nhưng bên dưới mỗi con thì có những con
chim nhỏ cứ thay đổi dần theo hướng di chuyển của con chim lớn. Tất
nhiên đó là nguồn gốc ban đầu chứ không phải là tất cả như Kinh dịch
hiện nay, vì Kinh dịch hiện nay là thành quả của biết bao bộ óc minh
triết qua mấy ngàn năm, nhưng nếu không có nguồn thì làm gì có sông.
Tất cả những hình ảnh trên trống đồng đều ngược vòng kim đồng hồ, có
nghĩa là quay về. Ở đây là quay về hướng thần mặt trời, nghĩa bóng là
quay về với cội nguồn. Trong nghĩa đó, chữ nghĩa cũng để nói những
chuyện trong quá khứ nên chữ vuông ngày xưa viết từ phải sang trái, trên
xuống dưới là vậy.
Thân trống đồng : Chủ yếu hình thuyền, qua hình ảnh cho thấy người Việt
cổ đã có kỉ thuật đóng thuyền khá cao. Hầu hết các thuyền trên trống
đồng đều diễn tả sự chiến đấu gồm có các loại như sau :
1 – Loại nhỏ . Có lẽ để đi câu hay tập kích.
2- Loại vừa. Chắc để tiếp vận lương thực.
3 - Loại lớn.
A - Đang chiến đấu. Bắt tù binh.
B – Rút lui có tù binh
Đặc biệt trên thạp Đào Thịnh có hình thủy chiến trực diện, quân Lạc Việt
trên thuyền lớn đang hò reo chiến thắng. Chim ca reo mừng. Phe địch rút
lui.
Các hình thú quanh thân các loại trống đồng, cá sấu, chồn, nai v.v. theo
tôi chỉ để khắc họa các con vật quen thuộc với cư dân lúa nước thời ấy
mà thôi.
Trống đồng Đông Sơn là báu vật quốc gia đúng như từ mà xưa kia ông cha
ta đã nói – Bửu bối- Tư tưởng của những người làm ra nó rỏ ràng đã vươn
tới tầm cao huyền diệu. Toàn bộ trống đồng được xây dựng với một bố cục
hết sức chặc chẽ. Không những tổ tiên ta hết sức tài tình trong cách
chọn lựa ngôn ngữ hình ảnh để chuyển tải í tưởng của mình, chim biểu
tượng cho âm nhạc, gà biểu tượng cho ngôn ngữ tâm linh – hươu cho ngôn
ngữ viết, diệc cho ngôn ngữ triết học siêu hình, mà còn tính toán xếp
đặt làm sao có thể gợi í cho người đời sau có thể nhận biết được, ví dụ :
Bằng cách lập lại nhiều lần, như chim trên nhà sàn, âu cầu mùa, đặc
biệt là trong tình huống có tính xung đột như hình những con chim trên
thuyền của người lạc Việt. Hai chiến thuyền sát nhau, vậy mà người xưa
chỉ khắc họa cả bầy chim trên thuyền chiến thắng, với hình ảnh này dù
trong im lặng nhưng ta có thể nghe thấy tiếng reo hò. Thêm vào đó nhận
thức của họ về ngôn ngữ phương hướng trong không gian phải nói là vô
cùng kinh ngạc - Cách mà người xưa sắp đặt hình ảnh ngược chiều kim đồng
hồ để chỉ sự hướng tâm cho thấy là họ đã có sức cảm thụ ngôn ngữ hình
ảnh 2 D một cách chính xác. Nhưng quan trọng trên hết đó là cùng một
hình ảnh, nhưng qua cách sắp đặc trí tuệ, nó vừa kể cho ta câu chuyện
cuộc sống hơn 4000 năm trước, lại vừa kể cho ta một câu chuyện khác về
lý âm dương tối quan trọng của nước Việt và chắc là của cả loài người.
Cũng với hình ảnh ấy trước hết với cái nhìn tổng thể thì ta thấy người
xưa đã xây dựng một trật tự của vũ trụ hết sức khái quát, với một vòng
tròn đồng tâm lớn tượng trưng cho vô cực, vì vô cực nên nó bao trùm hết
tất cả vạn hửu. Trong vòng tròn lớn này có vòng trong nhỏ ở trung tâm,
cái này người ta có thể thấy được, cảm nhận được như mặt trời, đó là
thái cực, từ thái cực này mà sinh ra âm dương, nhị nghi - các hình tượng
cóc phân hai trong tam giác hướng về thái cực - Rồi từ trong vòng quay
mênh mông của vũ trụ, trùng trùng điệp điệp – các hoa văn hình học khác
nhau, từng vòng đồng dạng nối tiếp nhau vận hành quanh thái cực và nhị
nghi từ đó sinh ra tứ tượng – Bốn ngôi nhà, biểu tượng cho Thiếu dương –
thái dương – thiếu âm - thái âm - cái úp xuống, cái ngược lên, theo
hình chày cối, trên ngôi nhà, chim cũng có chẳn lẽ, chỉ rỏ hai tượng âm
dương, từ đây mà sinh ra bát quái- (hình con qué) - Hai nhóm đâm trống,
mỗi nhóm bốn người. Như vậy là đủ cả vô cực– thái cực- nhị nghi- tứ
tượng – bát quái. Tiếp tới nhiên giới cũng thế, từng đàn hươu qué theo
nhau quấn quít, âm dương, dương âm, cứ thế mà quay mãi, nhưng có đổi
thay bao nhiêu chăng nữa cũng không ngoài vòng vô cực, cái lớn lao huyền
ảo đó được người xưa khắc họa bởi một vòng tròn bao trùm mọi thứ, với
những hoa văn hình học khác nhau, nhưng đồng dạng nối nhau bao trùm thế
giới.
Đó là cách nhìn trống đồng theo trật tự từ trong ra ngoài, giờ đây chúng
ta xét trống đồng theo mặt phẳng với cái nhìn toàn bộ mặt trống đồng là
thái cực, trong đó chia hai, nữa âm, nữa dương đối lập nhau, chúng ta
mới thấy hết cái trí tuệ của tổ tiên nước Việt. Kẻ một vạch thẳng chia
hai vòng tròn tại điểm đầu của đoàn người nhảy múa, ta thấy rỏ một nửa
là dương, bảy người – số lẻ, nửa kia là âm, sáu người – số chẳn. Đây
chính là hướng Nam, Bắc, Càn, Khôn. Căn cứ vào hướng bắc số 6, hướng nam
số 7 ta tính theo hướng ngược chiều kim đồng hồ theo sự chỉ dẩn của
trống đồng, ta có 8 ở phương đông, 9 ở phương tây , rồi Bắc 1, nam 2,
đông 3, tây 4 từ đây ta biết đây là con số của Hà đồ. Mà như ngày nay ta
biết trật tự đếm theo Hà đồ là ngược chiều kim đồng hồ. Trong dãy số
này ta thấy không có số 5, từ đó ta biết biến số của nó là 5, vì nó ở
giữa của số đếm từ 1-9 (cửu cung), Hai số âm dương -nhị nghi – tuy bắt
đầu phân hóa nhưng vẫn còn đang quyến luyến trong tứ tượng 2 +4 = 6 (sáu
con gà), nhưng rồi cũng phải tiếp tục con đường phân hóa làm ra tám
quẻ, (tám con gà nữa). Đến đây xem như vương quốc vũ trụ của ông vua
thái cực, cùng với quần thần 6+8 = 14 đã đầy đủ, như đã thể hiện tại
trung tâm trống đồng (14 tia sáng). Như đã nói trước số 5 thuộc trung
ương, dĩ nhiên đã là trung ương (cung) thì 4 phương chổ nào nó cũng can
dự được : 6-1=5, 7-2=5, 8-3=5, 9-4= 5 từ đó ta có 20 con hươu chạy vòng
ngoài. Tuy nhiên chạy lui, chạy tới tính ngược, tính xuôi thì cũng nằm
trong 9 cung, một âm, một dương làm thành 18 thao túng cả càn khôn, vũ
trụ, ấy là 18 con chim diệc. Mấy ngàn năm qua người ta gọi là Tiên thiên
bát quái. Khi người Việt di cư lên đến sông Hoàng hà chắc có lẽ thấy
nước chảy từ trên ấy xuống phía nam nên mới đổi khảm vào phương bắc, tạo
nên một cuộc cách mạng tri thức rúng động mấy ngàn năm qua, gọi là hậu
thiên bát quái. Đó là chuyện con người, còn vũ trụ vẫn thế, cũng với số
20 âm dương quấn quít ấy (tổng của chẳn và lẽ trong cửu cung), làm nên
cái Lạc thư.
Đến đây có lẽ phiên tòa “Cóc kiện trê” đã kết thúc, phần thắng thuộc về
Cóc, một phiên tòa kéo dài chưa từng có trong lịch sử loài người, ít
nhất cũng trên 5000 ngàn năm, với biết bao luật sư và luận sư, cùng quá
nhiều nhân chứng, vật chứng giả vô cùng tinh vi, bên nguyên tưởng chừng
như vô vọng, nhưng cuối cùng luật sư Nhái đã hoàn toàn có lý, một kết
thúc có hậu cho công lí loài người. Có điều phiên tòa đã kết thúc, bản
án đã có, nhưng để giải quyết được hậu quả mà vụ án này gây ra là không
dễ. Biết được nỗi lo của Cóc. Luật sư nhái liền nói- “Thôi anh ạ, đây là
phiên tòa danh dự, mà mình đã thắng kiện là được rồi. Từ nay anh hãy
lấy bản án này làm đạo bùa chữa bệnh cho những người bị bệnh khom lưng,
cúi đầu truyền kiếp, như thế là có ích lắm rồi, chứ anh nên nhớ Trê là
loài có ngạnh, dây vào nó mệt lắm”. Cóc nghe nói. Ngước mắt nhìn trời,
im lặng.
Với kiến thức giới hạn, tôi xin lí giải một phần của trống đồng. Tôi tin
rằng chắc chắn còn nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống đồng im lặng
ấy, mong những ai có học thức và chuyên môn hãy cùng chung sức đáp lời
tiên tổ, đánh thức những âm thanh của bức thông điệp mà tổ tiên nước
Việt đã gửi lại trong vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan cho ông
cha ta, dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng học của
người phương Bắc.
Các hình ảnh minh họa lấy từ trang http://chimviet.free.fr
Nhẫn tâm và vô cảm - bệnh mãn tính?
Công việc cần làm ngay lúc này là điều tra đánh giá mức độ ô nhiễm, tiến
hành xử lý kịp thời các thùng phuy chứa thuốc trừ sâu bị bục do thời
gian, thuốc ngấm vào đất rồi vào nước sẽ gây nguy hiểm cho người dân
cuối nguồn nước. Việc xử lý ô nhiễm đất đã là thứ xa xỉ, nếu xuống đến
tầng nước ngầm thì chi phí xử lý ô nhiễm nước rất cao và thời gian xử lý
kéo dài hàng chục năm.
Trong dịp tổng kết 15 năm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch
tổ chức cách đây ít lâu, một học giả, một nhà quản lý có tên tuổi đã
khẳng định đại ý thất bại lớn nhất của chúng ta là thất bại trên lĩnh
vực văn hóa.
Thói vô cảm: S.O.S
Có thể hiểu văn hóa ở đây bao gồm cả văn hóa ứng xử mà thói vô cảm trong
ứng xử hàng ngày với đồng loại ở một bộ phận không nhỏ cộng đồng đã đến
mức báo động. Rất nhiều những hành động nhẫn tâm, vô lương đã xảy ra
gây chấn động tâm lý xã hội. Mà vụ Công ty Nicotex Thanh Thái ở Thanh
Hóa giấu dân, chôn hàng tấn thuốc trừ sâu độc hại xuống đất bao năm nay
là ví dụ điển hình.
Thuốc trừ sâu nằm trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng rộng
rãi ở nước ta trên các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, công nghiệp và gia
đình, hiểu một cách nôm na là một loại chất được sử dụng để chống côn
trùng, sâu bệnh.
Tác dụng chủ yếu của thuốc trừ sâu làm gia tăng sản lượng trong nông
nghiệp nhưng lại có mặt trái là làm tổn hại đến môi trường sinh thái
(đất, nước, không khí), đặc biệt là sức khỏe của con người.
Thuốc bảo vệ thực vật thường được phân thành 04 nhóm chính:
Nhóm clo hữu cơ: Như Lindane, Endrin, Dieldrin, Andrin, DDT
Nhóm lân hữu cơ: Diazinon, Dimethoate, Methyl parathion.
Nhóm Carbamate: Furadan, Carbaryl. Nhóm cúc: Sumicidine, Cypermethrin
... Ngoài ra, còn một số nhóm nhỏ khác như nhóm các chất vô cơ, nhóm các
chất điều hoà tăng trưởng côn trùng (IGR=Insect Growth Regulator) vv...
Trong 04 nhóm chính kể trên, thì nhóm clo hữu cơ có độ tồn lưu cao nhất
trong môi trường và có khả năng tích luỹ trong mô mỡ của động vật. Các
thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm lân và carbamate có độc tính cấp cao
nhưng độ tồn lưu kém hơn nhóm clo khá nhiều. Nhóm cúc dễ bị phân huỷ và
ít độc với động vật máu nóng hơn 03 nhóm đầu.
Thuốc bảo vệ thực vật là chất thải nguy hại nên phải được cơ quan chuyên
nghiệp có chức năng xử lý tiêu huỷ theo đúng phương pháp, không thể
chôn lấp tuỳ tiện.
Các thùng phuy đựng hóa chất được chôn xuống đất hoặc vứt khắp nơi trên đất của công ty Nicotex |
Từ lâu, nhờ có "tai mắt", người dân đã phản ánh các
hiện tượng bất thường, các chỉ dấu về ô nhiễm môi trường do Công ty
Nicotex Thanh Thái gây ra nhưng đều bị làm ngơ do cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Đến ngày 25/8 vừa qua, người dân trên địa bàn xã Cẩm
Vân (Cẩm Thủy) "bắt tận tay, day tận trán", ngăn chặn xe chở thuốc trừ
sâu của Công ty Nicotex Thanh Thái chở 15 phuy chứa chất lỏng được xác
định là hóa chất thuốc trừ sâu không có nhãn mác.
Người dân tiếp tục phát hiện nhiều bao bì và hàng chục thùng phi chôn
lấp đã hoen gỉ ngấm hóa chất xuống lòng đất vv...Báo chí lên tiếng với
dẫn chứng, người thực, việc thực không thể chối cãi, lúc đó mới thấy vai
trò của một số cơ quan chức năng của Nhà nước ở địa phương vào cuộc!
Những việc cần làm
Công việc cần làm ngay lúc này là điều tra đánh giá mức độ ô nhiễm,
tiến hành xử lý kịp thời các thùng phuy chứa thuốc trừ sâu bị bục do
thời gian, thuốc ngấm vào đất rồi vào nước sẽ gây nguy hiểm cho người
dân cuối nguồn nước. Việc xử lý ô nhiễm đất đã là thứ xa xỉ, nếu xuống
đến tầng nước ngầm thì chi phí xử lý ô nhiễm nước rất cao và thời gian
xử lý kéo dài hàng chục năm.
Những nơi dân tự đào lên phát hiện ra chỗ chôn lấp thuốc trừ sâu thì
phải đánh dấu bằng cọc, sơ đồ, rồi lấp lại ngay vì mùa mưa này chỉ cần
đào lên gặp trận mưa to thì lan tỏa rất nguy hiểm, thậm chí ngộ độc cấp
tính luôn. Ngay cả khi trời nắng mà đào lên để đó, thì mùi thuốc trừ sâu
cũng lan tỏa rất xa gây ô nhiễm trong không khí.
Song song với việc xử lý ô nhiễm, nên cho phép Công ty Nicotex Thanh
Thái bán ngay những sản phẩm còn giá trị sử dụng vì thuốc trừ sâu nếu để
lại sẽ thành thuốc tồn lưu, thêm chi phí xử lý rất lớn. Cần đưa vụ việc
ra tòa, có thể phải phong tỏa tài sản để đảm bảo chi phí xử lý ô nhiễm
sau này.
Hành động của Công ty Nicotex Thanh thái đã bộc lộ thói tham lam, ích
kỷ, vô trách nhiệm, tàn nhẫn và vô cảm, cho nên cũng dễ hiểu, khi sự
phẫn nộ của người dân ở vùng quê nghèo Thanh Hóa lên đến tột cùng. Đương
nhiên là phải truy cứu đến cùng trách nhiệm của những người quản lý
Công ty Nicotex Thanh Thái và có biện pháp trừng phạt và xử lý triệt để
các hậu họa của việc ô nhiễm môi trường.
Nhưng nếu chỉ có thế thôi vẫn chưa đủ, bởi thói vô cảm đã trở thành căn
bệnh trầm kha ở xã hội ta, mà nó lại có căn nguyên từ "lỗi hệ thống"
đang gậm nhấm những giá trị đạo đức nhân văn truyền thống của dân tộc.
Nền giáo dục, văn hóa của chúng ta cần phải nhanh chóng được đưa lên bàn
mổ để làm đại phẫu thuật, mới mong sửa được tận gốc "lỗi hệ thống" ấy!
Tô Văn Trường(Tuần VN)
Vụ chôn thuốc sâu: 1 xã có 957 người bị ung thư, thần kinh, hỏng mắt...
Thể theo nguyện vọng của
nhân dân, ngày 9.9, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã Yên Lâm, huyện Yên Định
(Thanh Hoá) đã tổ chức họp mở rộng ở các thôn để lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của bà con, sau đó tập hợp ý kiến gửi lên cơ quan chức năng
kêu cứu về việc Cty Nicotex chôn thuốc sâu xuống đất có thể đã gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của họ.
Qua tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của 10 Ban công tác mặt trận thôn cho thấy: Từ năm 1997 trở lại đây, nhân dân đã phải chịu sống trong môi trường bị ô nhiễm, nhiều bệnh nan y đã xuất hiện, ảnh hưởng đến chăn nuôi phát triển kinh tế của nhân dân khu vực lân cận. Cử tri đã nhiều lần đề xuất ý kiến, kiến nghị tại các hội nghị tiếp xúc cử tri đến các đại biểu HĐND và đại biểu QH nhưng chưa được giải quyết, khắc phục.
Tại buổi họp trên, các kiến nghị của nhân dân đều cho rằng: Đến nay sự việc đã được phơi bày rõ ràng, Cty Nicotex chôn hóa chất độc hại xuống lòng đất ở khu vực đầu nguồn nước sinh hoạt của cả một vùng rộng lớn là việc làm có chủ tâm, có kế hoạch cụ thể. Những vị lãnh đạo Cty Nicotex là những người hiểu rõ nhất các quy trình xử lý nghiêm ngặt của loại hóa chất độc hại này; tuy nhiên, họ đã phớt lờ quy định, cố tình chôn chất độc xuống lòng đất gây ô nhiễm môi trường, đó chính là tác nhân của những những căn bệnh hiểm nghèo cướp đi mạng sống của biết bao con người dân.
Người dân đề nghị các cơ quan chức năng khẩn trương làm rõ vụ việc, xử lý trách nhiệm của những người thực hiện việc chôn hóa chất độc hại xuống lòng đất, những người bao che tiếp tay, che giấu sự thật... Sớm có kết luận để thông báo cho mọi người được biết; đem lại lòng tin cho nhân dân. Đề nghị đình chỉ vĩnh viễn hoạt động của Cty Nicotex đóng trên địa bàn xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy.
(Lao động)
Hùng Anh - Con tôi phấn đấu thế nào để được chọn "đi khai giảng"?
Ngày 5-9 - ngày khai giảng, ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, nhưng tôi
phải đôn đáo đưa con đi gửi vì con không được chọn đến trường... dự lễ
khai giảng.
Cứ đến mỗi mùa thu về, đúng ngày 5-9 đi qua các trường nhìn cờ hoa rực
rỡ, nghe tiếng trống trường... bỗng dưng lòng tôi cũng thấy nao nao rộn
ràng, nhớ lại những ngày đi học. Nhiều bạn bè, đồng nghiệp của tôi cũng
chia sẻ cảm xúc như vậy khi đi qua một ngôi trường, khi được đưa con đến
dự lễ khai giảng.
Đọc báo, xem ti vi thấy có trường ở Hà Nội chật hẹp, thiếu sân chơi, tất
cả học sinh phải xếp hàng dưới lòng đường để dự lễ khai giảng. Hay ở
Lào Cao Yên Bái, vì lốc xoáy, sạt lở mà không tổ chức khai giảng đúng
5-9, nhưng thầy cô và học sinh cùng nhau dọn dẹp chuẩn bị để tổ chức lùi
lại vào ngày sau đó... Còn trường con tôi học ở trung tâm TP.HCM, mới
xây lại khang trang, sân trường rộng thênh thang nhưng rất nhiều cháu đã
không được dự khai giảng.
Phụ huynh cũng không được thông báo hay giải thích tại sao cô bé cùng
lớp cạnh nhà được còn con em họ không được đi dự lễ khai giảng. Đi dự lễ
bế giảng thì “con phải nằm trong số 15 bạn điểm tổng kết cao nhất lớp”.
Năm nào con tôi cũng đủ tiêu chuẩn được dự bế giảng, nhưng khai giảng
thì không? Tiêu chí gì được chọn đi dự lễ khai giảng cho con tôi phấn
đấu?
Khi được hỏi lý do, cô giáo chủ nhiệm trả lời “sân trường rộng nhưng
nắng nóng lắm anh ạ, cây cao thì ít, thuê dù che hết cả sân thì trường
không đủ kinh phí... ”! Nhưng nhìn con về buồn thông báo con giơ tay mà
cô không chọn đi khai giảng mà thấy buồn và thương con...
Không lẽ trường mới xây, còn thiếu cây xanh che bóng mát nên đã quy định
mỗi lớp chỉ được chọn 10 học sinh đi dự khai giảng hay bế giảng (trừ
khối đầu vào và đầu ra)?
Cũng không biết đây là chủ trương của Ban giám hiệu trường con trai tôi
hay là của Sở mà một số trường khác cũng cùng cách tổ chức ngày hội đến
trường của học sinh như vậy?!
Đã 3 năm con tôi không biết khai giảng là gì. Không biết có phải do các
thầy cô giáo chưa bao giờ phải xa môi trường nhà trường, đã quá quen
hoặc nhàm chán với ngày khai giảng, bế giảng nên cảm thấy những ngày lễ
hội của học sinh là ngày bình thường, tổ chức gọn nhẹ an toàn sao cho
xong? Không biết các cháu học sinh chỉ được dự vài lễ khai giảng cho
xong trong cả 12 năm đi học thì sau này, ký ức và cảm xúc khi đi qua mỗi
mùa khai trường sẽ như thế nào?
Tuy chất lượng chuyên môn nhà trường khá cao, các thầy cô tình cảm tận
tình với học sinh, tâm huyết thực sự với nghề nhưng không lẽ con đến
trường chỉ để học và học, để thi và lên lớp rồi nghỉ hè?
Những năm tháng cùng các hoạt động nhà trường bên thầy cô bạn bè là một
phần ký ức tuổi thơ. Nhà trường là nơi cho con kiến thức và những niềm
vui để xây dựng hình thành tâm hồn tình cảm, cho trẻ phát triển toàn
diện.
Thiết nghĩ, nhà trường gặp khó khăn, thiếu sáng tạo vận động trong công
tác tổ chức các hoạt động cho học sinh thì nên cởi mở, công khai chia sẻ
thông tin với phụ huynh để cùng chung tay lo cho các cháu. Ban phụ
huynh lớp hay trường cũng phải do chính những phụ huynh nhiệt tình tâm
huyết xung phong làm chứ không phải Ban phụ huynh do cô giáo chỉ định,
rồi cả năm chỉ biết thu tiền quỹ cho các cháu liên hoan.
Mỗi ngày lễ, hoạt động của nhà trường khi cùng có tâm, cùng suy nghĩ lo
cho mỗi con trẻ thì sẽ có những lễ hội vui ý nghĩa, đồng thời sẽ gắn kết
thầy cô, phụ huynh và học sinh.
HÙNG ANH (hunganh752@...)
(Tuổi trẻ)
Phạm Nhật Bình - Đã đến lúc bỏ đảng chưa?
Trong những năm đói liên tục ngay sau 1975, người dân khắp nơi, đặc biệt
trong Nam, ráng cười với nhau qua câu: sẽ có ngày “sao dzàng bảng đỏ”
khắp nơi (tức sẽ có ngày "sang giàu bỏ đảng" khắp nơi). Tuy có phần hả
hê khoái chí nhưng bà con mình hồi đó phải ngó trước nhìn sau, nói nho
nhỏ, và cười thì thầm. Phải mất đến 47 năm sau, mới có một người dám nói
lớn, nói công khai cho toàn dân nghe, nói bằng giấy trắng mực đen, nói
từ giường bệnh của mình. Ông Lê Hiếu Đằng kêu gọi các đảng viên CSVN hãy
mạnh dạn bỏ đảng.
Thật ra không phải bây giờ mới có đảng viên bỏ đảng hay bàn đến chuyện
hãy cùng nhau vì nước bỏ đảng. Trường hợp có thể coi là điển hình đầu
tiên sau 1975 là bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (1930- 2006). Bà từng làm Bộ
trưởng Y tế của chính phủ CMLTMNVN. Sau 1975, bà nhận ra: “Trong chiến
tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay,
khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một
kẻ thù tiềm ẩn.” Không khí bao trùm những năm tháng thời đó vô cùng
ngột ngạt nhưng bà vẫn nhất quyết đệ đơn chính thức ra khỏi đảng. Khi
các thuyết phục và nỗ lực lấy gia đình bà ra hăm dọa không thành, ông Lê
Đức Thọ chấp thuận cho bà ra khỏi đảng nhưng cấm tiết lộ với bất cứ ai
trong vòng 10 năm.
Trường hợp điển hình thứ nhì của những người chọn lương tâm thay vì chọn
đảng CSVN, một khi đã nhìn ra sự thật, là ông Nguyễn Hộ và các bạn hữu
của ông trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ ở Sài Gòn, như ông
Hồ Trung Hiếu, Bác sĩ Đỗ Thị Văn, ông Đỗ Trung Hiếu, v.v... Họ chọn cách
bỏ đảng bằng việc tham gia vào những hành động mà họ biết chắc sẽ bị
khai trừ. Hành động mà họ chọn là nói lên sự thật về tình trạng đất
nước, về khát vọng dân chủ và tự do của dân tộc.
Cách bỏ đảng ấy tiếp tục nơi ông Trần Xuân Bách, tướng Trần Độ, cựu đại
tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính,... của các thập niên trước, kéo
dài đến những con người rất can đảm như cựu trung tá Trần Anh Kim, nhà
văn Phạm Đình Trọng, cựu chủ nhiệm trường đảng Vi Đức Hồi, kỹ sư Nguyễn
Chí Đức... của ngày hôm nay.
Nhưng có lẽ ông Lê Hiếu Đằng và các bạn đồng chí hướng của ông là những
người vẽ ra con đường trách nhiệm rõ nhất và cụ thể nhất cho những đảng
viên Cộng sản còn lại:
- Ông Đằng đặt câu hỏi: “Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không
tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như
Đảng Dân chủ Xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi
bị Đảng CS bức tử phải tự giải tán.” Vì theo ông, "“Muốn có dân chủ
thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị
chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp,
hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham
nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp
mới.”
- Tiếp liền theo đó, ông Hồ Ngọc Nhuận trong một bài viết mang tên Phá
xiềng đã mạnh dạn kêu gọi: "Các bạn đảng viên cộng sản thật sự yêu nước,
từng cả đời dấn thân đấu tranh vì lý tưởng độc lập Tổ Quốc, tự do dân
chủ và nhân đạo, nhưng ngày càng nhận thấy đã bị đảng mình phản bội, mà
số này là rất đông, hãy mạnh dạn dứt khoát đứng vào hàng ngũ Đảng Dân
chủ Xã hội mới.”
- Họ có cùng nhật xét về lý do bỏ đảng như ông Nguyễn Chí Đức: “Lý do bỏ đảng thì có nhiều như mưu sinh, sức khỏe, hoàn cảnh gia đình v.v… và một lý do nữa là vấn đề về tư tưởng đã không còn tin vào chủ thuyết Cộng sản, chán ngán với hàng ngũ lãnh đạo cầm quyền….. Một nghịch lý, tuy Đảng rất đông thành viên nhưng nó đã mất lý tưởng, đại đa số đảng viên đã xa rời cương lĩnh của Đảng do chính họ viết ra.”
- Họ cùng chia sẻ ước mơ của ông Nguyễn Trung trong bài viết Hoang tưởng và hiện thực: “Thông qua thay đổi hòa bình, đưa đất nước thoát khỏi trạng thái nhiễu nhương tê liệt hiện nay, mở ra cho đất nước một thời kỳ phát tiển mới.” Vì “Trên đời này chẳng có chủ nghĩa nào hay cuộc cách mạng nào, cũng chẳng có công nghiệp hóa - hiện đại hóa nào có thể lôi dắt đất nước ta ra khỏi quá khứ gian truân dằng dặc từ hai thế kỷ vừa qua và của bảy thập kỷ qua để đi tới Hạnh phúc – Văn minh mà chỉ có con đường của tự do dân chủ để phát triển.”
Nhưng có một điều cho tới giờ cả 4 vị trên và nhiều người can đảm đi đầu khác chưa đề cập đến, đó là câu hỏi: Còn cái sổ hưu thì sao?
Càng ngày lãnh đạo đảng không những càng không che đậy ý đồ dùng sổ hưu làm xích trói mà còn thường xuyên cho những cán bộ như Đại tá - Phó Giáo sư - Tiến sĩ - Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đăng Thanh đi dứ sổ hưu vào mặt đảng viên với lời cảnh cáo báng bổ: “Bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây.”
Nhưng thử nhìn lại sợi dây xích này. Trước hết, đại đa số đảng viên Cộng sản hiện nay không có và không cần đến sổ hưu. Ngay cả các đảng viên lớn tuổi cũng không hẳn ai cũng có sổ hưu. Hơn thế nữa, nếu không từng là các quan chức cỡ lớn thì cái gọi là sổ hưu chưa hề đủ để đảng viên sinh sống. Hầu hết các đảng viên có sổ hưu vẫn phải sống nhờ con cháu.
Trong khi đó, như đang thấy ở hầu hết các nước dân chủ, khi lòng nhân bản trong xã hội được phục hồi, khi nhân phẩm của từng con người được đề cao và được luật pháp nghiêm minh bảo vệ, và nhất là đối với trường hợp Việt Nam, khi truyền thống đùm bọc lẫn nhau "nhiễu điều phủ lấy giá gương" của dân tộc được sống lại, thì chắc chắn trong xã hội mới đó, không một một thành phần nào bị bỏ rơi, dù già, dù trẻ, dù kinh, dù thượng,... Mọi con dân Việt không phải sống bám vào một đảng phái, một nhóm lợi ích nào. Họ, đặc biệt những công dân lớn tuổi, đương nhiên được hưởng các chính sách an sinh xã hội của chính phủ và được luật pháp hóa hẳn hoi như đang thấy tại các nước dân chủ, văn minh.
Nhưng để tiến tới được xã hội mới đó, bước đầu tiên là phải dứt bỏ sợi giây xích "sổ hưu" hiện nay. Vì để được số tiền nhỏ nhoi đó, nhiều đảng viên lớn tuổi đã và đang bị đảng buộc phải làm những chuyện trái với lương tâm: từ những buổi đấu tố tại các tổ dân phố đối với các ứng viên tranh cử độc lập hay các nhà hoạt động dân chủ cho tương lai đất nước; đến việc kéo nhau đi đóng kịch, ngồi cho kín các hàng ghế tại các buổi "xử công khai" trong các vụ án chính trị; đến các buổi "khuyên bảo" tại nhà những người yêu nước hãy đừng lên tiếng phản đối nước "Trung Quốc anh em" nữa; đến các lệnh phải đi chửi mướn trong vai "dân tự phát" trước các nhà thờ, đền chùa, thánh thất,...
Ngày nào gỡ được sợi xích sổ hưu và bỏ đảng lại phía sau, ngày đó, giá trị của danh dự , lương tâm và ý thức trách nhiệm sẽ sống lại trong từng con người:
- Trách nhiệm đối với sự tồn vong của dân tộc. Mức độ báo động đang gia tăng từng ngày. Giới lãnh đạo đảng nay không chỉ đã chấp nhận mất biển đảo tổ quốc (đàng sau những phản ứng chiếu lệ và các màn kịch mua vũ khí, tổ chức hội thảo,...) mà còn đang mở cửa choTrung Quốc vào dựng thêm các khu biệt lập tại những vùng đất hiểm yếu trên khắp nước Việt Nam; cùng lúc với việc tập cho người Việt quen dần với sự tiến sâu của quyền lực Trung Quốc vào lãnh vực kinh tế và văn hóa Việt Nam. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?
- Trách nhiệm đối với những đồng đội đã nằm xuống. Không những tên tuổi của họ đã bị tẩy rửa khỏi sử sách, mồ mả của họ bị đập phá, mà những hy sinh xương máu của họ cho chủ quyền và độc lập tổ quốc đang bị phản bội. Hàng triệu những cái chết ở tuổi thanh xuân và tật nguyền suốt đời ấy đang trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?
- Trách nhiệm đối với cháu con. Tại thời điểm này khó còn có ai tin rằng nạn tham nhũng sẽ thôi gia tăng - chứ chưa nói gì đến giảm xuống hay chấm dứt; Khó còn có ai tin rằng hệ thống giáo dục, y tế sẽ không tiếp tục tệ hại thêm; Khó còn có ai tin rằng công an sẽ không ngày càng một đông hơn, hung tợn hơn, và trấn lột dân bạo dạn hơn;... Và nạn nhân của tất cả tai ách đó là chính các con, các cháu của từng người đảng viên trong những thập niên trước mặt, khi mà những người đảng viên đó đã đi xa khỏi thế gian này. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?
Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là những trách nhiệm đối với chính mình. Đã đến lúc những người đảng viên không rời bỏ đảng sẽ cùng chia tội bán nước với đảng. Lịch sử của dân tộc chắc chắn sẽ ghi rõ tội bán nước của đảng CSVN hôm nay. Nhưng gia phả của từng dòng họ và trí nhớ của từng gia đình cũng sẽ ghi nhận những vết nhơ: có cha, mẹ, ông, bà là đảng viên CSVN tới tận ngày chết.
So với những năm tháng đã qua, có lẽ hiện nay là thời điểm thuận lợi nhất để bỏ đảng, về đồng hành với dân tộc. Sau nhiều năm tháng tranh cãi và đắn đo, chưa bao giờ dân tộc chúng ta sẵn sàng đón nhận nhau, gạt qua quá khứ vì những hiểm họa hiện tại và tương lai đất nước như hiện nay. Một lý do chính là vì phần lớn dân tộc đã cùng nhận ra chúng ta, kể cả các đảng viên Cộng sản, kể cả các chiến sĩ ở 2 bên trận tuyến trước 1975, và các thế hệ từ đó đến nay đều là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản và của cỗ máy chuyên chính Lênin-Stalin-Mao trên đất nước.
Những cảnh rời bỏ đảng sẽ bị cô lập và hành hạ cho đến chết cũng không còn nữa. Ngược lại, những tiếng nói can đảm kêu gọi cùng nhau công khai vì nước bỏ đảng đang nhận được sự thán phục, quí trọng, và đùm bọc của nhiều tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.
Đã quá đủ cảnh làm ngơ chấp nhận sự hiện hữu của một cơ chế lạc hậu, tàn ác, nhất định dìm cả dân tộc trong lạc hậu đói nghèo chỉ vì lợi riêng của một số gia đình ở thượng tầng. Và đối với nhiều đảng viên lớn tuổi, cũng không còn nhiều thời gian để trả lời món nợ lương tâm. Xin hãy để lại cho con cháu những hình ảnh đáng kính về lòng can đảm, yêu nước, yêu dân tộc của cha, mẹ, ông, bà.
"Vì nước bỏ đảng" phải chăng là tiếng gọi thiêng liêng nhất hiện nay của tình yêu tổ quốc?
(Dân luận)
Mạng Lưới Blogger Việt Nam - Gặp Phái đoàn EU trước thềm đối thoại nhân quyền
Đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho bà Veronique Arnault, đại diện Phái đoàn EU sang dự phiên Đối thoại Nhân quyền 2013 với Việt Nam. |
Chiều ngày 10/9, 5 thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam đã có cuộc gặp với đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam để đưa bản Tuyên bố 258
và trao đổi về tình hình nhân quyền trong nước. Đáng chú ý là cuộc gặp
này diễn ra ngay trước phiên đối thoại nhân quyền 2013 giữa EU và Việt
Nam.
Bà Véronique Arnault, Giám đốc phụ trách nhân quyền của Cơ quan Hành động Đối ngoại châu Âu (EEAS, tương đương với một Bộ Ngoại giao chung của EU), vừa đến Hà Nội để bắt đầu đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam. Đối thoại nhân quyền năm nay diễn ra vào ngày 11/9, và bà đã dành riêng cho các blogger thuộc Mạng lưới Blogger Việt Nam một cuộc gặp chính thức.
Tham dự cuộc gặp, ngoài bà Véronique Arnault, còn có một số quan chức cấp cao của EU: bà Delphine Malard, Cố vấn thứ nhất, phụ trách Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Juan Jose Almagro Herrador, cố vấn Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Konstantin Von Mentzingen, quan chức về Việt Nam và Đông Nam Á; và bà Rose Ieremia, Đại sứ Hy Lạp tại Việt Nam. (Hy Lạp cùng với Ireland và Litva giữ chức chủ tịch Hội đồng Liên minh châu Âu nhiệm kỳ 2013-2014).
Phó Đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter, người từng tiếp các blogger Việt Nam trong cuộc gặp “nghẹt thở” ngày 7/8 khi 5 blogger phải khó khăn lắm mới qua được hàng rào an ninh để vào Đại sứ quán, cũng tham dự.
Phía Mạng lưới Blogger Việt Nam có 4 blogger với đầy đủ đại diện từ ba miền đất nước: Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Chí Tuyến (Hà Nội), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm, ở Nha Trang), Châu Văn Thi (blogger Yêu Nước Việt, ở Sài Gòn).
Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ có bài tường thuật chi tiết về cuộc gặp này với Phái đoàn EU.
Bà Véronique Arnault, Giám đốc phụ trách nhân quyền của Cơ quan Hành động Đối ngoại châu Âu (EEAS, tương đương với một Bộ Ngoại giao chung của EU), vừa đến Hà Nội để bắt đầu đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam. Đối thoại nhân quyền năm nay diễn ra vào ngày 11/9, và bà đã dành riêng cho các blogger thuộc Mạng lưới Blogger Việt Nam một cuộc gặp chính thức.
Tham dự cuộc gặp, ngoài bà Véronique Arnault, còn có một số quan chức cấp cao của EU: bà Delphine Malard, Cố vấn thứ nhất, phụ trách Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Juan Jose Almagro Herrador, cố vấn Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Konstantin Von Mentzingen, quan chức về Việt Nam và Đông Nam Á; và bà Rose Ieremia, Đại sứ Hy Lạp tại Việt Nam. (Hy Lạp cùng với Ireland và Litva giữ chức chủ tịch Hội đồng Liên minh châu Âu nhiệm kỳ 2013-2014).
Phó Đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter, người từng tiếp các blogger Việt Nam trong cuộc gặp “nghẹt thở” ngày 7/8 khi 5 blogger phải khó khăn lắm mới qua được hàng rào an ninh để vào Đại sứ quán, cũng tham dự.
Phía Mạng lưới Blogger Việt Nam có 4 blogger với đầy đủ đại diện từ ba miền đất nước: Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Chí Tuyến (Hà Nội), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm, ở Nha Trang), Châu Văn Thi (blogger Yêu Nước Việt, ở Sài Gòn).
Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ có bài tường thuật chi tiết về cuộc gặp này với Phái đoàn EU.
Đại diện Mạng lưới blogger Việt Nam và phái đoàn EU trao đổi về tình hình nhân quyền Việt Nam |
Đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam
EU tổ chức đối thoại định kỳ về nhân quyền với hơn 30 nước ngoài EU. Mỗi cuộc đối thoại đều được tiến hành căn cứ vào Nguyên tắc chung của EU về đối thoại nhân quyền.
Các vấn đề đưa ra trong mỗi cuộc đối thoại được quyết định theo từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc diện ưu tiên thì sẽ luôn ở trong chương trình nghị sự của mỗi cuộc đối thoại. Đó là việc ký, phê chuẩn và thực hiện các công ước nhân quyền quốc tế, hợp tác với các thủ tục và cơ chế nhân quyền quốc tế, chống tra tấn, xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm quyền trẻ em, quyền phụ nữ, tự do biểu đạt và vai trò của xã hội dân sự.
Tham gia đối thoại là các quan chức nhà nước về nhân quyền, bao gồm cả đại diện từ các cơ quan chức năng như quốc hội, bộ tư pháp, bộ nội vụ, công an, thi hành án, v.v. Đối thoại giữa EU và các tổ chức xã hội dân sự ở nước sở tại thường diễn ra song song, bên lề những cuộc đối thoại cấp nhà nước.
Ngay sau cuộc gặp với Mạng lưới Blogger Việt Nam, Phái đoàn EU đã tiếp tục gặp gỡ (không chính thức) một số quan chức, để chuẩn bị cho đối thoại nhân quyền chính thức vào ngày 11/9.
Mạng lưới Blogger Việt Nam
tuyenbo258.blogspot.com
tuyenbo258@gmail.com
Lời kêu gọi ký tên phản đối bè lũ phản động
Mục đích: Chứng minh cho cộng đồng quốc tế thấy, nhóm “Tuyên bố
258” chỉ là một thiểu số ít ỏi phản bội lợi ích dân tộc, mạo danh cộng
đồng/dân tộc, lừa bịp dư luận làm những việc tổn hại nghiêm trọng đến
lòng tự tôn dân tộc, trái với pháp luật quốc tế, chia rẽ tinh thần đoàn
kết của dòng máu Lạc Hồng, khiến cho cộng đồng và các tổ chức quốc tế
hiểu sai, ấn tượng xấu về con người Việt Nam. Chúng tôi kêu gọi các bạn
trẻ, các blogger/facebooker tham gia ký tên vào “Phản bác Tuyên bố 258”
để chúng thấy được sức mạnh cộng đồng, phơi bày sự lạc loài, lật tẩy các
thủ đoạn đen tối của những kẻ luôn mạo danh “nhân dân”, “người yêu
nước”, “Mạng lưới Blogger Việt Nam”…, chứng minh cho các quan thầy/nhà
tài trợ cho chúng hãy từ bỏ ảo tưởng/tham vọng hão huyền.
Thời gian ký tên: từ 14h ngày 10/9/2013 đến 24h ngày 30/9/2013. Chúng tôi sẽ tập hợp danh sách gửi tới thư điện tử của các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội Việt nam, các ĐSQ nước ngoài tại Việt Nam và các tổ chức quốc tế cũng như phổ biến rộng rãi trên các trang mạng, facebook/blog.
Minh Diện - Kêu oán hay báo oán
Bị
cáo ngoài năm mươi tuổi, người thấp đậm, khuôn mặt bì bì, xám như chì,
cặp mắt ti hí như mắt rắn ánh lên tia sáng khô lạnh và nham hiểm. Ông ta
vênh mặt lên xoáy cặp mắt ấy vào Hội đồng xét xử, đối đáp lại từng câu
hỏi, dằn giọng bác lại từng kết luận của cơ quan điều tra, khẳng định
mình vô tội. Cả khi Hội đồng xét xử đưa nhân chứng, vật chứng ra ông ta
cũng không chấp nhận, cho rằng vật chứng ngụy tạo, hoặc đã bị đánh tráo
và nhân chứng bị mớm cung. Hội trường lớn nơi mở phiên tòa được bảo vệ
rất nghiêm ngặt, không khí căng thẳng như sợi dây đàn.
Ngoài những người có liên quan và đại diện chính quyền, đoàn thể không
ai được bén mảng tới. Phóng viên các báo, đài phải có thẻ đặc biệt. Phía
sau hội đồng xét sử, chỉ cách một bức ngăn, bí thư tỉnh ủy, giám đốc
công an, viện trưởng viện kiểm sát tỉnh, đại diện viện kiểm sát tối cao
và tòa án tối cao trực tiếp theo dõi, chỉ đạo phiên tòa sơ thẩm đồng
thời chung thẩm đặc biệt nghiêm trọng ấy.
Mười Vũ, nguyên đại tá giám đốc công an tỉnh, một người từng được ca
ngợi như một anh hùng, giờ đứng trước vành móng ngựa. Theo cáo trạng của
Viện kiểm sát, từ năm 1978 đến 1979, lợi dụng chức vụ quyền hạn, Mười
Vũ và đồng bọn đã tổ chức người trốn đi nước ngoài. Khu vực Hồ Cốc, Bình
Châu, Lộc An là những địa điểm Mười Vũ đã “bán” cho một số người Hoa sử
dụng làm bến bãi vượt biên. Bọn này thành lập đường dây móc nối người
muốn trốn ra nước ngoài,thu vàng nộp cho Mười Vũ, rồi thuê tàu vượt
biển. Những chuyến tàu nửa bí mật nửa công khai do Mười Vũ bảo kê bằng
cái gọi là “Chiến dịch X” xuất phát từ Bình Châu, Hồ Cốc, Lộc An liên
tục đưa người trốn ra nước ngoài.
Trong thời gian gần hai năm thực hiện “chiến dịch” Mười Vũ và đồng bọn
đã thu được hơn nửa tấn vàng. Số vàng đó thật giả thế nào, đi đâu không
rõ , chỉ biết Mười Vũ và đồng bọn thả sức ăn chơi sa đọa, và có tên cất
giấu riêng hơn 1.000 cây vàng.
Hàng ngàn người đã nộp vàng vượt biên theo con đường bán chính thức ấy,
nhưng không phải ai cũng tới được bến bờ tự do như mơ ước. Có người bị
chặn bắt ngay trên đường đến Hồ Cốc, Bình Châu, Lộc An, có chuyến tàu
rời bến không xa thì bị bắt. Thậm chí có chuyến tàu mấp mé hải phận quốc
tế vẫn bị bắn chìm, hàng trăm thuyền nhân bị vùi xác dưới biển sâu.
Những thủ đoạn đê tiện,tàn nhẫn và độc ác đó đều do bọn Mười Vũ lợi dụng
quyền lực sẵn có ,thực hiện bằng nghiệp vụ chuyên môn rất bí mật lạnh
lùng.
Những người sống sót đã lên tiếng trên báo chí nước ngoài và viết thư
gửi về nước tố cáo tội ác cùa Mười Vũ và đồng bọn. Có thư viết : “ Oan
hồn những người dù chìm dưới đáy biển sâu cũng sẽ vượt lên đòi nợ máu!”
Chính từ những lá thư ấy, chốn “thâm cung bí sử” mới hé mở , và Mười Vũ
mới bị lôi từ trên chiếc ghế giám đốc công an ra vành móng ngựa.
- Tôi làm theo mệnh lệnh cấp trên!
Mười Vũ nhắc đi nhắc lại như vậy. Nhưng chả ai thèm để ý đến lời ông ta.
Khi tòa cho nói lời sau cùng, khuôn mặt Mười Vũ biến sắc, không câng
câng vênh váo như ngày đầu mà cúi gằm, nhợt nhạt như sáp ong. Cặp mắt
ông ta đờ đẫn không còn chút tinh anh nào . Ông ta chới với như người
sắp chết đuối quờ quạng tìm chiếc cọc, thét líu lưỡi :
- Tôi bị oan! Anh Hai cứu em!
Không ai đáp lại lời kêu cứu của Mười Vũ.
Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.
Tôi gặp ông Tư, ông Năm và vài người ở hành lang hội trường. Họ kể, Mười
Vũ quê ở Long An là con của ông Chín. Gia đình ông Chín có mấy mẫu
ruộng , lại có nghề buôn chuyến. Ông thường chở chiếu cói ở Long Định
ngược sông Vàm Cỏ lên Gò Dầu, Trảng Bàng bán rồi mua nông sản về. Mười
Vũ hồi nhỏ theo cha trên những chuyến ghe xuôi ngược sông nước ấy.
Sau cách mạng tháng tám 1945, Mười Vũ tham gia công an xã. Nhờ nhanh
nhẹn hoạt bát và tính gan lì, nên tiến bộ nhanh. Năm 1949, Mười Vũ đã
được đề bạt chức phó đồn công an huyện Long Định.
Ngày đó Long Định thuộc tỉnh Chợ Lớn, địa bàn phức tạp , Việt Minh hoạt
động đan xen với chính quyền Nam Kỳ tự trị và các tổ chức đảng phái ,
tôn giáo. Mười Vũ quen sông nước, thường chặn bắt ghe buôn bán của dân
trên sông Vảm Cỏ ăn hối lộ.
Việc làm mờ ám của Mười Vũ đã bị đồng chí huyện đội trưởng phát .Mười Vũ
liền bàn bạc với trưởng công an, người cùng hội cùng thuyền, từng ăn
nhậu bằng tiền nhận hối lộ của Vũ, dựng lên vụ án “Đại Việt quốc dân
đảng” và trực tiếp phá án. Huyện đội trưởng bị bắt, bị giết oan.
Năm 1954, Mười Vũ tập kết ra Bắc, tham gia đội cải cách ruộng đất , rồi
lảm đội phó đội trị an một tỉnh miền núi. Một đêm vào rừng săn thú, Mười
Vũ đã bắn chết đội trưởng. Vụ án bị chìm vì Mười Vũ khai bắn nhầm và vợ
của đội trưởng làm đơn bãi nại. Chỉ đến khi Mười Vũ đi B, mới lộ chuyện
quan hệ giữa Mười Vũ và vợ người đội trưởng. Thì ra Mười Vũ đã cố tình
“giết phu đoạt phụ”, chứ không phải bắn nhầm như đôi gian phu dâm phụ
dàn dựng.
Sau hơn mười năm ở chiến trường, sau giải phóng Mười Vũ được phong quân
hàm đại tá ,làm giám đốc công an tỉnh, bản chất gian tham độc ác vẫn
nguyên vẹn.
Ông Năm nói:
- Mười Vũ đội trên đạp dưới, gian trá độc ác vô cùng, không từ bất cứ
thủ đoạn nào để triệt hạ ngay cả những người y gọi là đồng chí. Tôi và
chị Ba là nạn nhân của Mười Vũ. Bằng nghiệp vụ chuyên môn và quyền hành
trong tay, Mười Vũ dựng chuyện chúng tôi làm gián điệp, được CIA cài lại
chống phá cách mạng. Chúng tôi bị bắt giam mấy năm trời, tra tấn dã man
tưởng không sống nổi. May nhờ anh Tư đây giải oan cho...
Tôi hỏi ông Tư:
- Hồi ấy anh Năm là thường vụ tỉnh ủy, mà cũng bị oan uổng như vậy hả chú?
- Ờ!
- Chả lẽ quá khứ của Mười Vũ không ai biết, và không ai dám nói sự thật để ông ta làm mưa làm gió như vậy?
Ông Tư cười buồn:
- Biết chớ ! Nói chớ! Nhưng bí thư tỉnh ủy bảo: “ Mười Vũ nó là thằng
tốt, các ông thành kiến với nó!” Cấp trên nữa cũng có người bênh, nên
không ai dám đụng tới!
Hết giờ giải lao, Chủ tọa phiên tòa đọc bản án ,và tuyên phạt tử hình Mười Vũ.
- Tôi oan! Tôi o.a.n!
Mười Vũ gào lên. Tiếng kêu khản đặc, khô khốc dội vào bầu không khí thâm u trong phòng xử án lúc xế chiều.
Tôi cảm thấy rùng mình. Hình như đó không phải là tiếng kêu oan, mà
chính là tiếng báo oán! Linh hồn người huyện đội trưởng huyện Long Định,
linh hồn người đội trưởng đội trị an và linh hồn những người dân vô tội
bị Mười Vũ lừa cướp vàng rồi giết giữa biển khơi đang tụ tập về. Tôi
bỗng nhớ một câu trong lá thư của thuyền nhân : “Oan hồn những người
chết dù ở đáy biển sâu cũng hiện về báo oán đòi nợ máu!”
Phiên tòa ấy đã chìm vào dĩ vãng 30 năm rồi.
Mới đây chị H, và nhóm bạn đọc ở Vũng Tàu viết thư cho tôi, trong thư đó
có đọan: “ Trên một số trang mạng vừa qua đăng đơn tố cáo cùa ông N...,
cho rằng mình bị tù oan vỉ chống tham nhũng, được nhiều độc giả tỏ thái
độ đồng cảm. Thực ra ông N, từng là một sỹ quan công an dưới quyền giám
đốc Mười Vũ, và trong thời gian làm nhiệm vụ “chống vượt biên” , ông ta
đã gài bẫy nhiều người dân vô tội, chiếm vàng bạc , đẩy họ vào tù tội.
Hiện ông ta nhà cao cửa rộng, hai con du học nước ngoài. Tài sản đó đều
là mồ hôi nước mắt cùa những người dân vô tội. Ông ta bị bắt đi tù chẳng
qua là ác giả ác báo , nhưng vẫn chưa trả hết nợ đâu, bây giờ ông ta
mắc bệnh tâm thần”.
Mười Vũ bị thi hành án ngay sau phiên tòa sơ thẩm đồng chung thẩm 30 năm
trước. Ông N, thoát trong vụ án ấy nhưng sau này cũng bị trùng phạt.
Tội ác dù khéo ém nhẹm đến đâu, bao che cỡ nào rồi cũng lòi ra. Không
cần tìm kiếm đâu xa, mấy vụ vừa sảy ra đã chứng minh điều đó: Những
người nhân bản xét nghiệm máu ở bệnh viện Hoài Đức đâu có ngờ bị moi ra
từ những tờ giấy mỏng manh trong tập hồ sơ bệnh án tuyệt mật? Ba công an
Lạng Sơn gài bẫy hai cô gái điếm đến nhà nghỉ làm tình, rồi trấn lột
hai chỉ vàng và một triệu bạc của họ, chắc nghĩ hai thân phận bọt béo ấy
sẽ câm nín chẳng dám tố cáo mình! Và tám ông quan chức lãnh đạo bốn
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở thành phố Hồ Chí Minh chả
ngờ ăn chia kín thế, được bao bọc kỹ thế mà vẫn vỡ chuyện...
Trong sách “Minh Tâm bảo giám” có mấy câu thơ của người đời xưa:
Hành tàng hư thực tự gia tri
Họa phúc nhân do cánh vấn thùy?
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lại tảo dữ lai trì!
+ Tạm dịch:
Hư thực mình biết thì người biết
Phúc họa mình gây giấu được ai?
Thiện ác bao giờ cũng có báo
Chẳng sớm thỉ chầy sẽ đến thôi!
Đức Phật dạy: “ Chỉ cần không tạo cái duyên ác thì sẽ được quả lành. Cho
nên đoạn ác tu thiện mới chính là lối đi ngay, tránh nghiệp chướng
vậy!”
Theo yêu cầu của bạn đọc ở Vũng Tàu tôi kể lại phiên tòa xét xử ông đại
tá giám đốc công an (không lấy tên thật) và trích đoạn lá thư của chị H,
giúp bạn đọc suy ngẫm, ngoài ra không có mục đích gì khác
Minh Diện
Nguyễn Hưng Quốc - Người thắng và kẻ bại
Thế là cuộc bầu cử tại Úc đã kết thúc vào tối Thứ bảy 7 tháng 9 với kết
quả là Liên đảng (bao gồm đảng Tự Do và đảng Quốc Gia) đã chiến thắng
một cách vang dội. Thật ra, kết quả ấy không có gì đáng ngạc nhiên. Hầu
như mọi người đã biết điều đó từ cả… mấy năm trước, một phần, nhờ các
cuộc điều tra dư luận (poll) được tổ chức khá thường xuyên, và, theo
kinh nghiệm từ lịch sử, khá chính xác, ở đó, Liên Đảng hầu như luôn luôn
dẫn đầu. Phần khác, những mâu thuẫn trong nội bộ đảng Lao Động từ khi
lên nắm chính quyền lần đầu vào năm 2007 và, đặc biệt, từ lần thứ hai
vào năm 2010, làm dân chúng Úc chán ngán và mất hết niềm tin vào Lao
Động, từ đó, giới lãnh đạo đảng Lao Động nói gì, đưa ra chính sách gì,
dù hay ho đến mấy, người ta cũng không nghe nữa.
Chính vì kết quả hầu như đã được biết trước từ lâu như vậy nên cuộc
tranh cử kỳ này khá nhàm chán. Phe thua, biết trước mình thua, nên tranh
cử một cách khá tiêu cực, chỉ nhắm giảm thiểu mức thua. Phe thắng, biết
mình thắng, nên tranh cử một cách rất dè dặt, chỉ cốt tránh sai lầm
khiến dân chúng bất mãn. Bởi vậy, cả hai bên hầu như đều tránh né việc
công bố các chính sách lớn có thể gây tranh cãi. Họ chỉ tập trung vào
những lời hứa hẹn nho nhỏ. Liên Đảng chỉ công bố việc hạch toán các chi
tiêu của mình vào những ngày cuối cùng của cuộc tranh cử. Không ai có
thì giờ để phân tích hay tranh luận.
Bản thân tôi, thành thực mà nói, không hề thấy chút hứng thú nào trong
việc theo dõi cuộc tranh cử. Ngay cả các cuộc tranh luận giữa các nhà
lãnh đạo hai bên, tôi cũng chỉ theo dõi một cách khá ơ hờ. Một phần, tôi
không thích cả hai; phần khác, những gì họ nói cũng chả có gì lạ.
Điều duy nhất tôi cảm thấy thích thú là những giờ phút cuối cùng của
cuộc bàu cử khi kết quả đã được phân định rõ rệt. Mà hình như lần bầu cử
nào cũng thế, tôi cũng đều theo dõi những giờ phút cuối cùng ấy một
cách không những say mê và còn đầy ngưỡng mộ. Theo tôi, văn hoá dân chủ ở
các quốc gia Tây phương thể hiện rõ nhất là ở những thời điểm ấy. Có
thể gọi đó là văn hoá chiến thắng và văn hoá chiến bại.
Ngay cả khi cuộc kiểm phiếu chưa kết thúc hẳn, nhưng biết trước là mình
không thể thắng được, việc đầu tiên mà thủ lãnh của bên thua cuộc làm là
điện thoại cho thủ lãnh bên thắng cuộc để, thứ nhất, nhìn nhận mình
thua; và thứ hai, chúc mừng người chiến thắng. Theo thông lệ, người
chiến thắng chỉ xuất hiện trước ống kính và công bố chiến thắng của mình
sau khi đã nhận được cú điện thoại của người thua cuộc. Khi người thua
cuộc, vì lý do nào đó, chưa nhìn nhận mình thua cuộc, người ta vẫn kiên
nhẫn chờ.
Trong bài diễn văn chính thức sau cuộc bầu cử, người thua cuộc bao giờ
cũng chúc mừng người chiến thắng, thừa nhận người chiến thắng đã chiến
thắng một cách xứng đáng, và kêu gọi các đảng viên trong đảng mình chấp
nhận cái kết quả đáng buồn và ngoài ý muốn đó. Sau đó, mới là việc cám
ơn những người dân đã bỏ phiếu cho mình. Và cũng cám ơn các nhân viên
cũng như gia đình đã ủng hộ mình.
Bài phát biểu của người chiến thắng cũng vậy. Bao giờ cũng dành một phần
để ca ngợi người thua cuộc. Trong thời gian tranh cử cũng như trước đó,
người ta không đồng ý với nhau về nhiều vấn đề, lúc nào cũng tranh luận
và tìm mọi cách để đả kích nhau, nhưng khi cuộc bầu cử kết thúc, chuyện
ai thắng ai thua đã rõ ràng, người ta lại quay sang ca tụng nhau. Một
trong những nội dung quan trọng trong bài diễn văn chấp nhận thắng cử
là, sau khi cám ơn những người bỏ phiếu cho mình, thủ lãnh bên chiến
thắng bao giờ cũng hứa hẹn một điều: chính phủ do họ lãnh đạo sẽ phục vụ
cho toàn dân, cho mọi người, chứ không phải cho những người đã bỏ phiếu
cho họ.
Mà không phải trong chính trị. Trong các giải thể thao cá nhân cũng vậy.
Sau trận chung kết, người thua, khi lên nhận giải nhì, cũng đều dành
những lời khen ngợi nồng nhiệt cho người đã đánh bại mình. Đến lượt
người thắng, khi lên nhận giải nhất, cũng hết lời khen ngợi đối thủ,
người bị mình đánh bại. Nghe hai người ca tụng nhau, người ta khó tưởng
tượng là trước đó, họ đã tranh đấu với nhau một cách gay gắt và quyết
liệt đến độ nào.
Việc nhìn nhận thất bại và khen ngợi đối thủ của mình như vậy, thật ra,
không phản ánh tư cách của những người chơi thể thao hay làm chính trị.
Những điều họ phát biểu có thể chỉ là những khuôn sáo. Tuy nhiên, tôi
thích cái khuôn sáo ấy và cho đó là một “thủ tục” rất cần thiết trong
sinh hoạt dân chủ. Chúng thể hiện thái độ tuân thủ các luật lệ trong trò
chơi, hoặc trò chơi thể thao hoặc trò chơi dân chủ.
Trong các trò chơi thể thao, khi tranh giải, người ta chơi hết sức,
nhưng khi có kết quả, người thua vẫn nhận mình thua. Không ai phân bua
tại thế này hay tại thế kia và tìm cách phủ nhận tài năng của người
chiến thắng. Người chiến thắng cũng vậy, khi trận đấu chấm dứt thì mọi
tranh chấp cũng chấm dứt, người ta lại xem đối thủ là bạn hoặc ít nhất,
đồng nghiệp. Và người ta đối xử với nhau nếu không tương ái thì cũng đầy
tương kính.
Trong chính trị cũng vậy. Chính trị là trò chơi của quyền lực. Quyền lực
vừa là mục tiêu người ta nhắm tới và cố đạt cho được đồng thời cũng là
phương tiện để người ta hành xử. Khi tranh giành quyền lực, người ta
không từ bất cứ thủ đoạn nào trong chừng mực luật pháp cho phép. Nhưng
khi đã có kết quả kẻ thắng người bại thì ai nấy đều chấp nhận. Không ai
lấy cớ dân chúng ngu dốt không phân biệt đúng sai, tốt xấu, hay dở để
đòi xoá ván bài, làm lại từ đầu. Luật lệ của trò chơi chính trị trong
các chế độ dân chủ là tôn trọng quyết định của dân chúng. Cho dù đa số
dân chúng có nhầm lẫn chăng nữa thì lá phiếu của họ vẫn phải được tôn
trọng. Thậm chí không ai dám chê bai những người bỏ phiếu cho đối thủ
của mình là nhầm lẫn. Nói chung, dưới chế độ dân chủ, người dân bao giờ
cũng có lý: Lý của những người muốn bảo vệ quyền lợi, trước hết, của
chính họ. Và bởi vì dân chúng có lý khi chọn lựa, người chiến thắng
trong các cuộc bầu cử cũng có cái lý cho việc chiến thắng: ngay cả khi
các chính sách của họ đưa ra không hoàn hảo hoặc bất khả thi, ít nhất họ
cũng hơn những người thất bại ở một điểm: họ biết cách thuyết phục quần
chúng.
Có thể nói văn hoá dân chủ chủ yếu dựa trên hai nền tảng chính: Một, tôn
trọng quyết định của đa số; và hai, mọi quyết định của đa số đều có lý.
Ngay cả giới bình luận chính trị cũng chấp nhận những điều đó. Đọc các
bài bình luận sau bầu cử, hầu như bao giờ cũng thấy người ta tập trung
phân tích lý do tại sao người thua bị thua và lý do tại sao người thắng
thắng nhưng không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ, đổ lỗi cho quần
chúng, những người đã bỏ phiếu cho người chiến thắng ngay cả khi người
ấy, theo ý kiến riêng của nhà bình luận, hoàn toàn không xứng đáng. Phê
phán dân chúng, trong trường hợp tương tự, là vi phạm nguyên tắc dân
chủ. Là chà đạp lên văn hoá dân chủ. Thực chất là phản-dân chủ.
Ở Việt Nam, một trong những lý do chính nhà cầm quyền thường đưa ra để
từ chối việc chế độ đa đảng và việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do là
trình độ dân chúng còn thấp. Tự bản thân nó, luận điệu ấy đã phản dân
chủ: Dân chúng, ngay cả khi ít học, vẫn biết bảo vệ quyền lợi của họ khi
chọn người để đại diện cho mình và điều hành đất nước. Hơn nữa, luận
điệu ấy còn là một cách tự phủ định chính mình: đã cầm quyền trên cả nửa
thế kỷ với bao nhiêu cuộc “cách mạng” ồn ào mà vẫn không nâng được
trình độ dân trí lên cái mức có thể bỏ phiếu một cách đúng đắn nhằm bảo
vệ quyền lợi của chính mình là sao? Chả lẽ trong chừng ấy năm, họ chỉ
làm được một việc duy nhất là ngu dân ư?
Thật ra, luận điệu ấy chỉ phản ánh sự thiếu tự tin của những người cầm
quyền. Mà thiếu tự tin cũng phải. Có thể nói, cùng với viễn kiến, khả
năng thuyết phục quần chúng là những tiêu chí quan trọng nhất để đánh
giá một người lãnh đạo. Thiếu viễn kiến, người ta, may lắm, có thể là
một nhà quản trị giỏi nhưng không phải, không thể là một người lãnh đạo
giỏi. Thiếu khả năng thuyết phục quần chúng, ngay cả khi có viễn kiến
thật hay, người ta, may lắm, chỉ là một nhà tham mưu, đứng sau màn để
hoạch định kế hoạch chứ không thể đóng vai một lãnh tụ. Vừa thiếu viễn
kiến vừa thiếu khả năng thuyết phục quần chúng, người ta chỉ có thể trở
thành những tên độc tài.
Nguyễn Hưng Quốc
09.09.2013
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết
trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh
quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Sao chưa công khai tên người “né” thuế?
TT - Cơ quan thuế vừa làm một việc chưa hề có tiền lệ là đăng báo vận
động người có thu nhập cao, nhiều nơi thực hiện quyết toán thuế.
Trong số này phần lớn là các đại gia và người có thu nhập cao như giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ... Một trong những lý do dẫn đến việc vận động này, theo Cục Thuế TP.HCM, là do họ chưa am hiểu luật thuế.
Tuy nhiên từ năm 2004, cơ quan thuế đã rầm rộ thông tin về truy thu thuế thu nhập cá nhân, đến nay gần 10 năm nên những người bị truy thu thuế không thể nói là không biết, không hiểu mà chỉ có thể là cố tình “né” thuế.
Vậy mà có vẻ cơ quan thuế ưu ái họ. Lẽ ra với họ, ngoài chuyện truy thu cơ quan thuế phải phạt chậm nộp, đồng thời công bố trên các báo.
Đằng này, truy thu 10,8 tỉ đồng tiền thuế thu nhập cá nhân từ 11 đại gia nhưng cơ quan thuế lại không phạt đồng nào, cũng không ai biết danh tính người vi phạm.
Xuất hiện trên báo, họ “núp” dưới cái tên ông T, bà L, bà X... Việc cơ quan thuế không dám công khai danh tính người vi phạm có lý do là sợ bị đụng chạm, sợ bị phản ứng.
Do vậy thường khi phát hiện vi phạm, cơ quan thuế chọn cách xử lý êm đẹp là mời họ đến yêu cầu nộp số thuế còn thiếu chứ không ra quyết định kiểm tra. Như vậy người nộp thuế vẫn coi như chưa vi phạm, cơ quan thuế cũng lấy lý do này để không công khai tên tuổi người bị truy thu thuế.
Cách làm này có mặt lợi là nhẹ nhàng, người bị truy thu cảm thấy thoải mái nhưng kinh nghiệm sau nhiều năm cho thấy cách làm này không hiệu quả.
Ông Nguyễn Thái Sơn, nguyên trưởng phòng thuế thu nhập cá nhân Cục Thuế TP.HCM, nói muốn đánh động dư luận, cơ quan thuế phải kiểm tra xử phạt, đồng thời công bố danh tính vài trường hợp, sau đó cơ quan thuế không cần kêu gọi thì người nộp thuế cũng sẽ tự động tìm đến.
Đằng này, cơ quan thuế cứ giơ cao đánh khẽ dẫn đến “lờn” thuốc và tạo bất công không chỉ với người làm công ăn lương bị truy thu từng đồng thuế, mà còn bất công với chính các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp khai thiếu thuế, ngoài truy thu còn bị phạt chậm nộp, còn các “đại gia” thì không.
Theo ông Sơn, việc truy thu thuế nằm trong tầm tay của cơ quan thuế vì tất cả tờ khai thuế của người hưởng lương cao đều nằm trong dữ liệu của Cục Thuế. Vấn đề là bóc tách dữ liệu này ra để xử lý.
Nhưng thời gian qua ông có cảm giác là cơ quan thuế không thấy tầm quan trọng của vấn đề này, hoặc sợ làm lớn chuyện.
Theo luật sư Trần Xoa, nên công khai tên tuổi những người “né” thuế, đồng thời xử phạt theo đúng quy định vì ở đây cơ quan thuế đang thực thi công vụ nhằm tạo sự công bằng giữa những người nộp thuế.
Nếu không, dư luận nhìn vào có thể nói rằng cơ quan thuế chưa làm tròn trách nhiệm vì với người làm công ăn lương hiện nay đều bị thu “sát ván”, trong khi với người có thu nhập cao cơ quan thuế lại chưa khai thác đầy đủ.
Cũng theo các chuyên gia, nhân việc lãnh đạo bốn công ty dịch vụ công ích nhận lương “khủng”, Cục Thuế nên mở rộng việc thanh tra, rà soát lương, thưởng tại những công ty dịch vụ công ích khác. Nếu thời gian qua họ chưa nộp đủ thì phải truy thu và công khai kết quả nhằm đánh động dư luận.
Việc này không mới và không khó nhưng thời gian qua làm quá ì ạch. Chưa kể cách công bố nửa vời, tức chỉ nêu số tiền truy thu được mà giấu tên tuổi người vi phạm thì khả năng sự việc trôi vào quên lãng rất cao.
Trở lại việc đăng báo vận động người nộp thuế có thu nhập nhiều nơi đến cơ quan thuế để quyết toán thuế thu nhập cá nhân, theo các chuyên gia, cơ quan thuế cũng nên giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó nếu không có chuyển biến thì cơ quan thuế phải có biện pháp hành chính để chấn chỉnh, không thể hoàn toàn trông đợi vào sự tự giác của người nộp thuế.
Ánh Hồng
(Tuổi trẻ)
Trong số này phần lớn là các đại gia và người có thu nhập cao như giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ... Một trong những lý do dẫn đến việc vận động này, theo Cục Thuế TP.HCM, là do họ chưa am hiểu luật thuế.
Tuy nhiên từ năm 2004, cơ quan thuế đã rầm rộ thông tin về truy thu thuế thu nhập cá nhân, đến nay gần 10 năm nên những người bị truy thu thuế không thể nói là không biết, không hiểu mà chỉ có thể là cố tình “né” thuế.
Vậy mà có vẻ cơ quan thuế ưu ái họ. Lẽ ra với họ, ngoài chuyện truy thu cơ quan thuế phải phạt chậm nộp, đồng thời công bố trên các báo.
Đằng này, truy thu 10,8 tỉ đồng tiền thuế thu nhập cá nhân từ 11 đại gia nhưng cơ quan thuế lại không phạt đồng nào, cũng không ai biết danh tính người vi phạm.
Xuất hiện trên báo, họ “núp” dưới cái tên ông T, bà L, bà X... Việc cơ quan thuế không dám công khai danh tính người vi phạm có lý do là sợ bị đụng chạm, sợ bị phản ứng.
Do vậy thường khi phát hiện vi phạm, cơ quan thuế chọn cách xử lý êm đẹp là mời họ đến yêu cầu nộp số thuế còn thiếu chứ không ra quyết định kiểm tra. Như vậy người nộp thuế vẫn coi như chưa vi phạm, cơ quan thuế cũng lấy lý do này để không công khai tên tuổi người bị truy thu thuế.
Cách làm này có mặt lợi là nhẹ nhàng, người bị truy thu cảm thấy thoải mái nhưng kinh nghiệm sau nhiều năm cho thấy cách làm này không hiệu quả.
Ông Nguyễn Thái Sơn, nguyên trưởng phòng thuế thu nhập cá nhân Cục Thuế TP.HCM, nói muốn đánh động dư luận, cơ quan thuế phải kiểm tra xử phạt, đồng thời công bố danh tính vài trường hợp, sau đó cơ quan thuế không cần kêu gọi thì người nộp thuế cũng sẽ tự động tìm đến.
Đằng này, cơ quan thuế cứ giơ cao đánh khẽ dẫn đến “lờn” thuốc và tạo bất công không chỉ với người làm công ăn lương bị truy thu từng đồng thuế, mà còn bất công với chính các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp khai thiếu thuế, ngoài truy thu còn bị phạt chậm nộp, còn các “đại gia” thì không.
Theo ông Sơn, việc truy thu thuế nằm trong tầm tay của cơ quan thuế vì tất cả tờ khai thuế của người hưởng lương cao đều nằm trong dữ liệu của Cục Thuế. Vấn đề là bóc tách dữ liệu này ra để xử lý.
Nhưng thời gian qua ông có cảm giác là cơ quan thuế không thấy tầm quan trọng của vấn đề này, hoặc sợ làm lớn chuyện.
Theo luật sư Trần Xoa, nên công khai tên tuổi những người “né” thuế, đồng thời xử phạt theo đúng quy định vì ở đây cơ quan thuế đang thực thi công vụ nhằm tạo sự công bằng giữa những người nộp thuế.
Nếu không, dư luận nhìn vào có thể nói rằng cơ quan thuế chưa làm tròn trách nhiệm vì với người làm công ăn lương hiện nay đều bị thu “sát ván”, trong khi với người có thu nhập cao cơ quan thuế lại chưa khai thác đầy đủ.
Cũng theo các chuyên gia, nhân việc lãnh đạo bốn công ty dịch vụ công ích nhận lương “khủng”, Cục Thuế nên mở rộng việc thanh tra, rà soát lương, thưởng tại những công ty dịch vụ công ích khác. Nếu thời gian qua họ chưa nộp đủ thì phải truy thu và công khai kết quả nhằm đánh động dư luận.
Việc này không mới và không khó nhưng thời gian qua làm quá ì ạch. Chưa kể cách công bố nửa vời, tức chỉ nêu số tiền truy thu được mà giấu tên tuổi người vi phạm thì khả năng sự việc trôi vào quên lãng rất cao.
Trở lại việc đăng báo vận động người nộp thuế có thu nhập nhiều nơi đến cơ quan thuế để quyết toán thuế thu nhập cá nhân, theo các chuyên gia, cơ quan thuế cũng nên giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó nếu không có chuyển biến thì cơ quan thuế phải có biện pháp hành chính để chấn chỉnh, không thể hoàn toàn trông đợi vào sự tự giác của người nộp thuế.
Ánh Hồng
(Tuổi trẻ)
Nguyễn Hữu Thái Hòa: “Chúng ta đang bị đóng khung trong chiếc áo gia công nô dịch”
Chiều ngày 7/9/2013, tại Sự kiện Nghề nghiệp và Giáo dục chuyên nghiệp
lớn nhất Việt Nam - Career Builder Day - Career & Education Expo
2013, diễn giả Nguyễn Hữu Thái Hòa có buổi nói chuyện tâm huyết về chủ
đề: “Tư duy chiến lược cho lãnh đạo trẻ Việt Nam”.
Nguyễn Hữu Thái Hòa là một chuyên gia gốc Việt đã và đang làm việc 21
năm từ Đông sang Tây trong các lĩnh vực: Marketing, Sales, Quản lý Dự
án, Vận hành Công nghiệp,… ông hiện giữ vị trí Giám đốc Chiến lược của
Tập đoàn FPT và là người nhiệt tình truyền lửa cho thế hệ lãnh đạo trẻ
Việt Nam qua dự án “10 ngàn nhà quản trị đẳng cấp”.
Đo chất lượng nhà lãnh đạo bằng gì?
Mở đầu buổi giao lưu, giám đốc Nguyễn Hữu Thái Hòa đặt ra câu hỏi về việc làm sao đánh giá được
chất lượng của một lãnh đạo doanh nghiệp. Trong thời gian gần đây, giới
doanh nhân và quản trị Việt Nam đặt ra chuẩn mực 3T gồm Tâm- Tầm- Tài để
đánh giá một lãnh đạo tốt. Tuy nhiên theo ông Hòa đây là những điều khó
đo lường và rất mơ hồ. Ông đặt câu hỏi: “Liệu có bao nhiêu người HR
Manager ở đây định nghĩa được Tâm- Tầm- Tài và đo lường điều đó được?
Làm sao đo được Tâm?”
Ông Hòa phản biện về ví dụ bầu Kiên trước đây vốn được mọi người tung hô
là nhà lãnh đạo, ông bầu bóng đá có Tâm…thế nhưng sau đó bị bắt. Liệu
những giá trị này có cần phải đánh đổi những chi phí lớn như vậy?
Giám đốc chiến lược FPT cho rằng nên bắt đầu từ việc đơn giản là xây
dựng chuẩn mực chi tiết về nhiệm vụ để đánh giá một vị trí lãnh đạo như
bản JD (Job Description) của CEO. Và thực tế, tập đoàn FPT cũng đã xây
dựng hơn 300 bản JD (Job Description) mô tả công việc mới dành cho các
lãnh đạo.
Chúng ta đang ở đâu?
“Chúng ta đang ở đâu? Chúng ta muốn đi đâu?” là điều trăn trở vị giám
đốc chiến lược của tập đoàn FPT đặt những bạn trẻ tham gia diễn đàn mà
còn dành cho các vị doanh nhân Việt Nam. Ông Hòa cho biết kinh tế thế
giới chia làm 3 nhóm gồm: Sản xuất gia công, Cung cấp dịch vụ, Sáng tạo
sản phẩm. Theo ông Hòa, sản xuất gia công rất dễ kiếm tiền nhưng hiện
nay việc cần phải làm là vạch ra lộ trình phát triển để nâng cấp Công
nghệ về dài hạn, thay vì 'đi kiếm tiền' dễ dàng như trước.
Ngưỡng cung cấp dịch vụ gồm các nước đang phát triển như Mỹ, Pháp,…Để có được tiền, tạo ra một sản phẩm cần mất ít nhất 2 năm.
Ông Hòa phân tích có những dịch vụ đôi khi chỉ cần tìm ra điểm gặp nhau
giữa cung cầu, cung cấp được sản phẩm là có thể kiếm được tiền.
Gần 20 năm nay Mỹ đã chuyển giao việc sản xuất cho các nước như Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam để theo hướng dịch vụ. Ngưỡng phát triển cao nhất
là sáng tạo sản phẩm và những nước này mất từ 4-5 năm để tạo ra một sản
phẩm tuy nhiên sau đó thu được rất nhiều tiền từ bản quyền sáng chế.
Giám đốc FPT nhấn mạnh đến lúc nào chưa có sản phẩm sáng tạo “Made in
Vietnam” thì chúng ta mãi mãi làm gia công nô dịch cho nước khác.
Hãy tự cởi trói mình
Là người dành nhiều tâm huyết cho người trẻ, giám đốc Nguyễn Hữu Thái
Hòa chỉ ra rằng người Việt thiếu tự tin vào giá trị bản thân. Ông nhấn
mạnh: “Không phải người da trắng nào cũng là chúa Giesu”. Ông Hòa dẫn
chứng thống kê diễn đàn kinh tế thế giới gần đây: 40% thanh niên EU
không có việc làm, 60% thanh niên Pháp tốt nghiệp không có việc, giới
trẻ EU thiếu kỹ năng.
Ông phân tích điều này là nguyên nhân thiếu sót của giáo dục EU 20 năm
nay trong đó có 4 điểm chính gồm: Thiếu kỹ năng khởi nghiệp, thiếu kỹ
năng công nghệ thông tin, thiếu kiến thức toàn cầu hóa và thiếu tư duy
giải pháp. Tuy nhiên người trẻ Việt Nam không hề thiếu kỹ năng khởi
nghiệp hay tư duy giải pháp. Ngoài ra người lao động Việt Nam có kỹ năng
nhanh nhạy trong làm việc. Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa giao
thoa đặc biệt giữa phương Đông và phương Tây đồng thời nằm trên trục
giao các luồng kinh tế quan trọng của thế giới.
Để Việt Nam thoát ra khỏi chiếc áo gia công, ông Hòa đề xuất nhiều giải
pháp vĩ mô gồm tập trung cho 4 ngành mũi nhọn có tác dụng thúc đẩy nhanh
chuyển dịch gồm: Công nghệ thông tin, nông nghiệp, du lịch và chuỗi
phân phối.
Bên cạnh đó giám đốc chiến lược FPT cho biết cần nhanh chóng giảm chi
phí về thủ tục, loại bỏ những chính sách cũ kỹ lỗi thời, đẩy nhanh quá
trình chuyển giao thế hệ... Ông Hòa lấy ví dụ so sánh, để làm thủ tục
nhập thông quan tại Hong Kong mất 3 giờ, tại Singapore là 30 phút thì
tại Việt Nam lên tới 3 ngày, điều này khiến chi phí của Việt Nam cao gấp
30 lần so với chuỗi cung ứng thế giới.
Đối với người trẻ, ông Hòa chia sẻ hãy tự cởi trói về tư duy cho bản
thân trước khi trông chờ vào sự thay đổi từ các tác nhân bên ngoài.
Kim Thủy
(TTVN)
Bài đã bị gỡ: Lại một kiểu mất dạy!
Có lẽ, chưa bao giờ ở đất nước chúng ta, những khẩu hiệu cách mạng, sự
tôn kính dành cho lãnh tụ lại được thể hiện một cách lộn xộn như bây
giờ! Những thứ đáng ra phải được vinh danh thì lại bị mang ra, "vin" vào
để trục lợi, thậm chí trở thành trò đùa cho những kẻ mất dạy.
Khẩu hiệu xuyên tạc trong quán cà phê Cộng.
Gây chú ý nhất về vấn đề này trong những ngày qua vẫn là sự việc ở chuỗi
quán cà phê Cộng. Chuỗi quán này đã ngang nhiên xuyên tạc khẩu hiệu
“Tiến lên. Toàn thắng ắt về ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành “Ngồi im.
Toàn thắng ắt về ta”. Hình ảnh của Lê Nin, Các Mác cũng bị vẽ vời đủ
kiểu, rồi cuốn “LeNin toàn tập” thì bị chế thành menu với những dòng chữ
nguệch ngoạc bôi bẩn. Sự kiện này đã gây làn sóng phẫn nộ trong dư
luận. Chưa bao giờ, ở nước ta, những khẩu hiệu lịch sử, những giá trị
tinh thần lại bị mang ra đùa cợt như thế.
Ai cũng biết “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!” là câu cuối trong Bài thơ
chúc Tết năm 1968 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí
Minh phát đi trên sóng phát thanh quốc gia - đây trở thành hiệu lệnh
phát động cuộc tấn công Mậu Thân lịch sử. Vậy mà, chủ của chuỗi “Cộng”
cà phê sửa thành “Ngồi im…”. Đây rõ ràng là kiểu cách điệu mang hàm ý
giễu cợt.
Việc chủ chuỗi quán cà phê Cộng xuyên tạc khẩu hiệu cách mạng có ý đồ gì
không thì còn phải chờ kết luận từ cơ quan an ninh văn hóa nhưng việc
mang những giá trị tinh thần của dân tộc, hình ảnh các bậc vĩ nhân ra
“vẽ vời” và đặt không đúng chỗ đã là một việc làm không chấp nhận được.
Thật không thể tưởng tượng được việc chủ quán Cộng cho "chế" ảnh Karl
Marx đội một chiếc xô bằng sắt trong khi Lenin, Stalin tay cầm ly, đầu
đội phễu như trong một bữa tiệc còn Mao Trạch Đông cùng với Fidel Castro
nâng cao lon Coca Cola.
Lãnh tụ - là những người có công với một dân tộc và đã khuất, họ phải
được đặt ở một vị trí xứng đáng để tôn vinh, chứ không phải để vin vào
mà kiếm tiền như thế! Mang hình ảnh các lãnh tụ cách mạng của thế giới
ra để vẽ vời làm trò đùa là một việc làm không được phép và đi ngược lại
với truyền thống văn hóa Việt Nam.
Phóng viên PetroTimes đã không khỏi giật mình với những khẩu hiệu được
vẽ trên một chiếc xe ôtô: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm. Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu muôn năm. Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
“Liên hoàn khẩu hiệu” được gắn trên một chiếc xe tải không lấy gì là tử
tế, sạch sẽ, phóng băng băng trên đường. Hình ảnh này lại khiến cho
chúng ta nghĩ đến những chiếc xe ba gác vẫn thường gắn biển hiệu thương
binh, gắn đủ các loại khẩu hiệu “yêu chế độ” nhưng kỳ thực là để thể
hiện với thiên hạ “ta là thương binh” - làm cho các cơ quan chức năng,
cảnh sát giao thông cũng “ngại” hơn khi xử phạt.
Ai cũng biết, xe ba gác ngoài đường, 10 xe gắn biển thương binh thì 8
ông là thương binh giả. Đã không ít lần người dân phải chứng kiến đám
đội lốt thương binh này đi đòi nợ thuê, đi hành hung, gây áp lực. Những
thương binh thật rất ít ai tham gia vào việc làm kiểu lưu manh như thế.
Khẩu hiệu bừa bãi, nhom nhem, chữ còn chữ mất - tài xế xe tải mang những
khẩu hiệu cách mạng, khẩu hiệu tôn vinh lãnh tụ dán lên xe như một trò
đùa cợt. Các cơ quan chức năng cần phải nhanh chóng nghiêm trị hành vi
lếu láo này.
Treo các khẩu hiệu yêu nước, khẩu hiệu cách mạng không có gì là sai -
điều này hoàn toàn được ủng hộ, nhưng những khẩu hiệu đó phải được đặt
đúng nơi, đúng chỗ và trang trọng. Còn những kẻ lợi dụng khẩu hiệu để
kiếm tiền, hàm ý cợt nhả, mang ra làm trò đùa thì cần trừng trị.
(Petrotimes)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét