Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

HOT - THỜI SỰ TRONG NGÀY

Tham nhũng phân hủy Đảng ở mọi cấp”

Phan Ba dịch
từ  :Spiegel Online
Steven Dong lãnh đạo Viện Quan hệ Công chúng tại trường Đại học Thanh hoa danh tiếng ở Bắc Kinh. Người từng đọc tin trên đài truyền hình nhà nước CCTV đã huấn luyện nhiều thành viên cao cấp của Đảng Cộng sản trong cách giao tiếp với giới truyền thông.
Những người Cộng sản Trung Quốc đang tiến hành chuyển giao quyền lực, thế nhưng nhiều xì căng đan tham nhũng đang làm hỏng thanh danh của họ. Chuyên gia người Trung Quốc về quan hệ công chúng Steven Dong phê phán việc quản lý truyền thông của Đảng và khuyên họ nên công khai nhiều hơn nữa. Ông ấy cho rằng Tập, người đàn ông nhiều quyền lực mới, là một tấm gương tốt.
SPIEGEL ONLINE: Ông Dong, Đảng Cộng sản hiện đang tiến hành chuyển giao quyền lực, việc chỉ được tiến hành mười năm một lần. Thế nhưng xì căng đan đã phủ bóng tối lên đại hội: xì căng đan tham nhũng quanh người đã từng là một ngôi sao của Đảng, Bạc Hy Lai, các phát hiện về tài sản bạc tỉ của thủ tướng Ôn Gia Bảo. Người Trung Quốc còn có thể tin vào những người lãnh đạo của họ nữa hay không?
Dong: Các vụ việc đấy đã làm chấn động Đảng. Nhưng chính phủ cũng cố gắng giải quyết vấn đề. Ít ra thì họ cũng đã nhanh chóng xử lý xì căng đan Bạc Hy Lai vả đã bắt đầu thực hiện những bước tiến về mặt luật pháp. Họ cố dùng mọi cách để làm tăng niềm tin của người dân.
SPIEGEL ONLINE: Chứ không phải là ĐCS đã đưa ông Bạc ra như là một người chịu tội cho mọi thứ sao, để đánh lạc hướng ở các xì căng đan khác? Và một chiến lược như vậy sau những phát hiện về ông Ôn có phải là đã thất bại rồi hay không?
Dong: Chính phủ đã phủ nhận bài báo đó về ông Ôn. Và trong thời gian vừa qua họ cũng đã cải tiến thấy rõ chính sách chống tham những của họ. Tham nhũng làm tan rã Đảng ở mọi cấp. Chống lại nó là một việc nằm trong lợi ích riêng của chính phủ.
SPIEGEL ONLINE: Quả thật là thế: có những chính khách nào đó đã đi theo lợi ích riêng của họ. Ví dụ như chủ tịch tương lai Tập Cận Bình. Hãng thông tấn Blommberg đã phát hiện, rằng gia đình Tập đã giàu thêm nhiều trăm triệu dollar, kể từ khi ông ấy có một chức vụ cao cấp trong Đảng.
Dong: Tập là một chính trị gia đáng kính trọng. Qua nhiều năm dài, ông ấy đã tạo cho mình một thanh danh tốt. Người ta không nên vấy bẩn thanh danh đấy với những bài viết như vậy. Cái mà bây giờ Trung Quốc cần đến nhiều nhất là một nhà lãnh đạo trung thực và điềm tĩnh.
SPIEGEL ONLINE: Tự những người lãnh đạo Trung Quốc đã có lỗi khi họ mất tiếng tốt đấy chứ. Cho tới nay, Đảng đã không thể bác bỏ được những phát hiện về ông Ôn và ông Tập. Thay vì vậy, họ cứ đơn giản là kiểm duyệt toàn bộ các trang mạng của tờ “New York Times” và của Bloomberg. Im lặng và ngăn chận – điều đấy làm sao mà tạo sự tin tưởng được?
Dong: Đúng. Lẽ ra thì tốt hơn, khi chính phủ đứng ra tranh luận – và sắp xếp các sự kiện hiện hành tốt hơn. Việc bảo vệ thanh danh của Đảng Cộng sản vẫn còn không tốt. Nhiều thành viên cao cấp của Đảng được huấn luyện trong cung cách giao tiếp với giới truyền thông. Nhưng họ thông tin cho các nhà báo quá hiếm hoi và quá ít ỏi – và thay vì vậy lại chấp nhận tin đồn với phỏng đoán.
SPIEGEL ONLINE: Lý do nào cho sự dè dặt trong thông tin này?
Dong: Ở Trung Quốc, công tác báo chí là một con dao hai lưỡi. Về một mặt, người dân lên án các chính khách rằng họ tránh né giới truyền thông. Mặt khác, họ không tin các chính khách, khi những người này xuất hiện quá thường xuyên trên truyền thông. Như Thủ tướng Ôn vì vậy mà đã bị chế diễu trong giới truyền thông mạng xã hội. Ông ấy đã được đề cử là “diễn viên hay nhất” cho giải Oscar – chỉ vì ông ấy đến thăm các địa phương bất ổn đấy ngay sau động đất và tai nạn tàu hỏa.
SPIEGEL ONLINE: Một nếp văn hóa của giới công khai như thế có ý nghĩa gì cho Đảng Cộng sản?
Dong: Đảng vẫn còn chưa có một chiến lược truyền thông thống nhất và dài hạn. Đến chính phủ trung ương cũng chỉ lắng nghe các cố vấn báo chí của họ ngay trước lúc có những sự kiện lớn như hội nghị Đảng hàng năm. Nhưng hầu như không có chính khách nào hỏi rằng: “Các thông điệp chính của chúng ta cho mười hai tháng sắp tới là gì? Và chúng ta có thể truyền đạt chúng tốt nhất ra sao?”
SPIEGEL ONLINE: Bạc Hy Lai dường như là trường hợp ngoại lệ ở đấy. Ngay từ những năm 90, ông ấy đã biết cách tạo một sự quảng bá quanh con người của ông ấy – và nhanh chóng trở nên nổi tiếng.
Dong: Quá nổi tiếng.
SPIEGEL ONLINE: Ông có ý muốn nói gì?
Dong: Ông ấy cư xử như một chính trị gia người Mỹ. Điều đấy khiến cho nhiều người dân không hài lòng. Đồng thời, sự hiện diện trên truyền thông của ông ấy có tác động đe dọa. Dường như ông ấy muốn nói với các cấp cao trong Đảng ở Bắc Kinh: “Nhìn đây này, tôi được yêu thích hơn các anh. Tức là hãy thăng chức cho tôi đi.”
SPIEGEL ONLINE: Nhưng Bạc được thăng chức đấy chứ. Ông ấy trở thành bí thư Đảng của Trùng Khánh, một thành phố với ít nhất là 30 triệu dân. Và ông ấy bước lên Bộ Chính trị, cỗ máy quyền lực trung ương của Bắc Kinh.
Dong: Lúc ban đầu, Đảng nhân nhượng cung cách của Bạc, vì ông ấy chọn một chiến lược khôn khéo. Ông ấy trình diễn mình như là một người Mao-ít, đồng thời lại phát triển kinh tế. Ông ấy có một gương mặt đỏ, nhưng trong thâm tâm ông ấy là một nhà cải cách: điều đấy làm tăng tốc bước đường sự nghiệp của ông ấy trong ĐCS.
SPIEGEL ONLINE: Ông ấy thất bại vì điều gì?
Dong: Ông ấy cường điệu quá mức sự tôn sùng quanh người của ông ấy. Ông ấy trông giống như muốn trở thành người lãnh đạo tinh thần kế tiếp của Trung Quốc. Người kế tiếp, anh biết rồi đấy. Một sự so sánh như vậy trong Trung Quốc được xem là ngạo mạn.
SPIEGEL ONLINE: Chủ tịch kế đến của Trung Quốc thể hiện mình hoàn toàn khác hẳn. Ông ấy trông có vẻ khiêm tốn và hòa giải. Kín đáo có phải là chiến lược tốt nhất để lên được đến tít trên cao ở trong Đảng hay không?
Dong: Thực tế là như vậy. Tập đã tìm thấy sự cân bằng đúng đắn trong cách đối xử với giới truyền thông. Ông ấy chỉ nói trong những dịp được lựa chọn, nhưng rồi bao giờ cũng chọn những lời quan trọng. Người dân không xem ông ấy như là một diễn viên lẫn người khoác lác.
SPIEGEL ONLINE: Thế còn ở ngoài Trung Quốc? Tập có chiến lược nào ở đấy?
Dong: Ngay khi là phó chủ tịch, ông ấy đã đối xử cởi mở hơn là người còn là chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Hồ chỉ biết số liệu và dữ kiện. Tập thì ngược lại mới đây đã kể những giai thoại cá nhân trên một chuyến đi thăm châu Mỹ La tinh. Và khi ông ấy sang Hoa kỳ, ông ấy cứ nhất định đến thăm gia đình của nông trại mà ông ấy đã làm quen năm 1985. Tập hiểu cách dùng những cử chỉ mang tính biểu tượng. Ông ấy có khả năng truyền thông nhiều hơn là các cán bộ cũ. Điều đấy sẽ giúp cải thiện hình ảnh của Trung Quốc ở nước ngoài.
Cuộc phỏng vấn do Sophia Lee thực hiện
Phan Ba dịch từ Spiegel Online
URL: http://www.spiegel.de/politik/ausland/china-pr-experte-steven-dong-kritisiert-medienstrategie-der-kp-a-866300.html

-Trung Quốc hoạt động thực sự ra sao

Phan Ba blog
Cuộc Cách mạng châu Á
Cuộc Cách mạng châu Á – Andreas Lorenz
   Andreas Lorenz
   Phan Ba dịch
Một dân tộc đang tiến đến tương lai: những hàng ngũ dường như vô tận của sinh viên, công nhân đường sắt, y tá và đại diện cho các nghề nghiệp khác kéo qua trên “đường Hòa bình Vĩnh cữu” ở Bắc Kinh. Họ mang những hàng chữ như “Cả đất nước tạo nên thịnh vượng.”
Trước đó vài phút, với một sự chính xác đáng sợ, Quân đội Giải phóng Nhân dân đã mời cả thế giới xem một màn biểu diễn đầy vũ khí và đã phô bày, ngoài những thứ khác,  các tên lửa xuyên lục địa mới của họ. Đó là ngày 1 tháng 10 năm 2009, kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, một buổi sáng đẹp trời có nắng. Cùng với đồng nghiệp và giới ngoại giao, tôi ngồi trên khán đài dành cho khách trước Thiên An Môn và đã trở thành nhân chứng của một cuộc trình diễn: Trung Quốc đang trên đường trở thành một cường quốc – và: không thể đùa với Trung Quốc được.
Các chính trị gia, những người gửi thông điệp đấy ra thế giới, đứng ở phía trên chúng tôi ở cái cổng đi vào Cấm Thành ngày xưa. Từ ở đó, nhà lập quốc Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân sau cuộc nội chiến kéo dài: “Trung Quốc đã phục sinh!”
Đứng đối diện với chúng tôi từ ban sớm là tròn 80.000 trẻ em trong những bộ quần áo màu xanh lá cây và xanh nước biển, cầm những chùm hoa giấy trên tay và tạo chữ nhanh như chớp – ví dụ như chữ “Quốc Khánh”. Nhiều thành viên của cuộc diễu hành là sinh viên, bị bắt buộc tham dự sự kiện này, và tôi không thể xua đuổi được ấn tượng rằng chẳng ai trong số họ cảm thấy thích thú cả.
Trước khi sự kiện này bắt đầu, sếp nhà nước và Đảng Hồ Cẩm Đào mặc bộ quần áo kiểu Mao trong một chiếc limousine hiệu “Cờ Đỏ” đã chào những người lính. Hồ cũng là tổng tư lệnh của quân đội, cái chỉ đứng riêng dưới quyền của Đảng. Ông ấy chào mừng quân đội với lời chào truyền thống: “Các đồng chí, các đồng chí nhận lấy gánh nặng và cực nhọc lên mình.” Những người lính, đứng thành hàng dài cho tới những cửa hàng đắt tiền của Oriental Plaza cách đó một kilômét, hét trả: “Lãnh tụ tối cao, chính lãnh tụ nhận lấy gánh nặng và cực nhọc.”
Ngay sau đó, tôi có cảm giác giống như đã trở về với những thời Xô viết đen tối. Trong đoàn diễu hành xuất hiện những tấm chân dung khổng lồ của những người quan trọng nhất của Trung Quốc mới, theo quan điểm của giới lãnh đạo ngày nay: đi trước là Mao Trạch Đông, rồi kế tiếp theo sau đó là nhà cải cách kinh tế Đặng Tiểu Bình, nguyên sếp nhà nước và Đảng Giang Trạch Dân và cuối cùng là Hồ Cẩm Đào. Ở ngoài kia có nhiều người Trung Quốc bối rối. Đó là Trung Quốc mới ư? Sự tôn sùng cá nhân này phù hợp với nước Triều Tiên chuyên chế, nhưng không phù hợp với một đất nước đang khởi đầu tiến lên.
Lần duyệt binh này có “tầm quan trọng chính trị to lớn, vì nó làm tăng niềm tin vào sức lãnh đạo của Đảng và vào Chủ nghĩa Xã hội mang đặc sắc Trung Quốc”, quân đội tuyên bố. Thêm vào đó, nó tượng trưng cho “lần thức tỉnh vĩ đại của dân tộc Trung Quốc như là kết quả của một cuộc đấu tranh bền bỉ”.

Đầu tàu Trung Quốc

Không còn nghi ngờ gì nữa, Trung Quốc đã bừng tỉnh. Thế giới nhìn đến một châu Á mới, hùng mạnh – và có ý muốn nói đến trước hết là Trung Quốc. Không có Trung Quốc và sức mạnh kinh tế của nó thì không thể giải thích được lần vươn lên của cả châu lục này.
Làm sao được như thế? Hiện giờ, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản như là quyền lực kinh tế lớn thứ nhì của thế giới và qua nước Đức như là quán quân xuất khẩu trên thế giới. Với 3,04 ngàn tỉ dollar Mỹ vào cuối tháng 3 năm 2011, nó có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Chậm nhất là 30 năm nữa, Trung Quốc có thể thay thế Hoa Kỳ trở thành quyền lực kinh tế mạnh nhất và tạo tròn 40% tổng sản lượng thế giới.
Nếu Trung Quốc cứ tăng trưởng mỗi năm 8% trong vòng 20 năm tới đây, mỗi một người Trung Quốc trong năm 2013 trung bình sẽ thu nhập được 20.000 dollar theo giá trị của ngày nay, Jonathan Anderson tính toán, chuyên gia tài chính của ngân hàng UBS Thụy Sỹ.[1] Điều này nghe có vẻ quá hân hoan, khi người ta nghĩ rằng hiện người Mỹ có tròn 40.000 dollar trong một năm, dân cư Bắc Kinh mới có khoảng 3700 dollar.
Với sức mạnh kinh tế của mình, hiện giờ Trung Quốc không chỉ kéo theo các láng giềng, mà cả nhiều nước ở châu Phi, Mỹ La tinh và châu Âu. Chính là người Trung Quốc đã kéo người Nhật ra khỏi khủng hoảng. Ngay năm 2003, họ đã tạo ra hai phần ba tăng trưởng xuất khầu của Nhật Bản, năm 2009 Trung Quốc chuyển cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế khoảng tiền trợ giúp là 50 tỉ dollar. Ở Trung Quốc hiện giờ có nhiều cánh quạt gió quay hơn là ở Hoa Kỳ. Tròn 420 triệu người lướt Internet, hơn 600 triệu người sở hữu một điện thoại di động. Đó là những con số gây ấn tượng, nhưng: cho tới nay, tất cả các hàng hóa và dịch vụ được tạo ra chỉ bằng một phần ba ở Mỹ, và trong khi đấy thì dân cư ở Trung Quốc nhiều gấp bốn lần khi so với Hoa Kỳ.
Quân đội Trung Quốc tuy đang chuẩn bị bắn một tàu thăm dò lên Mặt trăng, nhưng trước sau gì thì đất nước này vẫn còn nghèo. Và tuy vậy, cựu trợ lý ngoại giao và ngày nay là nữ khoa học gia Susan Shirk vẫn viết rằng, “chúng ta cảm nhận được hơi thở nóng bỏng của con rồng kinh tế này ở sau gáy của chúng ta”.[2]

Ở rìa của vực thẳm

Một cái nhìn vào lịch sử mới đây sẽ giúp để hiểu được sự phát triển đáng ngạc nhiên của Trung Quốc: trước đây một trăm năm, các nhà cách mạng dưới quyền của bác sĩ Tôn Dật Tiên đã lật đổ hoàng đế, nhưng họ không giữ được lâu. Các tư lệnh quân đội địa phương chiếm quyền lực. Người lãnh đạo quân đội, Viên Thế Khải, tự phong mình lên làm hoàng đế trong một thời gian ngắn. Trong những năm 30, một cuộc nội chiến đã diễn ra ác liệt mà trong đó người Cộng sản dưới quyền Mao và người Quốc gia dưới quyền Tưởng Giới Thạch đã tranh nhau quyền thống trị. Nó chỉ bị gián đoạn bởi cuộc chiến chống người Nhật, những người năm 1931 chiếm đóng nhiều phần rộng lớn của đất nước này. Trong vụ Thảm sát Nam Kinh năm 1937, theo thông tin của Trung Quốc đã có 300.000 người dân chết.
Người Nhật vừa bị đuổi đi năm 1945 thì cuộc nội chiến lại bùng nổ trở lại. Bốn năm sau đó, ĐCS thành lập nước Cộng hòa Nhân dân. Địch thủ của Mao, Tưởng Giới Thạch rút lui cùng với quân đội của ông ấy và những người theo ông ấy sang đảo Đài Loan, mang theo kho báu quốc gia từ Cấm Thành.
Tiếp theo sau đó là những năm của sự cô lập: ĐCS chìm vào trong những cuộc thử nghiệm Xã hội Chủ nghĩa – lúc ban đầu với sự giúp đỡ của Liên bang Xô viết – và vào trong những chiến dịch tàn phá như Đại Nhảy Vọt (1958 đến 1959) và Cách mạng Văn hóa (1966 đến 1976), khi Hồng Vệ Binh dưới câu khẩu hiệu “Oanh tạc các trụ sở” đã hoành hành trên đường phố, đi tìm những người được cho là gián điệp Xô viết và phản cách mạng. Vẫn còn gây tranh cãi đến ngày hôm nay là việc đã có bao nhiêu triệu người mất mạng sống của mình trong những năm đấy – chết đói, bị đẩy đến chỗ phải tự sát, bị tra tấn, bị giết chết. Chỉ riêng trong nạn đói cuối những năm năm mươi đầu những năm sáu mươi đã có cho tới 45 triệu người chết. Đất nước đứng ở rìa của vực thẳm.[3] Khi Mao qua đời năm 1976 và cái được gọi là Bè lũ bốn tên cực tả dưới sự lãnh đạo của người vợ góa của Mao, Giang Thanh, bị lật đổ qua một cuộc đảo chính nội bộ, thời gian của những cuộc thử nghiệm chết người tạm thời chấm dứt. Tuy Trung Quốc trong thời gian đấy đã trở thành cường quốc nguyên tử, nhưng là một đất nước nghèo nàn vô cùng.
Đặng Tiểu Bình, người đồng chí cùng chiến đấu của Mao, sau nhiều năm liền bị lưu đày nội bộ đã được phục hồi, bắt đầu cải tổ đất nước. Thời đấy, những người nông dân nhiều can đảm trong tỉnh An Huy đã bắt đầu rời bỏ công xã, phân chia đất đai ra cho  nhau và sản xuất tự lập. ĐCS ngày càng cho phép kinh tế tư nhân nhiều hơn. Thời kỳ của những tiểu doanh nhân với cái được gọi là “mũ đỏ” bắt đầu: về mặt chính thức, nhà hàng, cơ xưởng và ô tô của họ thuộc nhà nước, trên thực tế thì chúng là sở hữu tư nhân.
Một ngọn gió mới thổi qua Trung Quốc vào đầu những năm tám mươi, trong phòng khách, quan chức, khoa học gia và nghệ sĩ suy nghĩ về những cải cách chính trị. Diễn tiến trong nước láng giềng Liên bang Xô viết, nơi vừa được Mikhail Gorbachev đảo lộn qua perestroika và glasnost, thu hút nhiều người Trung Quốc. Trong tháng 4 năm 1989, nguyên sếp Đảng Hồ Diệu Bang qua đời, một quan chức được yêu thích vì tính thật thà và ngay thẳng của ông ấy. Đặng đã đẩy ông ấy ra rìa hai năm trước đó, vì ông ấy trong chính trị đã trở thành quá tự do. Bây giờ thì hàng chục ngàn sinh viên ở Bắc Kinh xuống đường. Họ giải thích rằng Đảng không tôn kính đúng mức người chết. Và họ nhân cơ hội này để chống lại sự chuyên quyền của các quan chức trong Đảng.
Các cuộc biểu tình của mùa Xuân năm 1989, cái lúc đầu cũng chống lại việc giá cả tăng nhanh, trở thành một phong trào dân chủ lan rộng khắp nước. Sinh viên dựng trên Quảng trường Thiên An Môn một bức tượng, “Nữ thần Tự do”. Cuối tháng 5, giới lãnh đạo già của ĐCS quanh Đặng cảm thấy đã đủ. Họ nhìn trong đó một cuộc “phản cách mạng” đe dọa quyền lực của họ. Chống lại mọi điều lệ, họ phế truất người lãnh đạo Đảng Triệu Tử Dương, người có thiện cảm với các sinh viên. Vào buổi tối của ngày 3 tháng 6 năm 1989, Đảng ra lệnh cho quân đội nghiền nát cuộc nổi dậy bằng xe tăng. Con số người chết trên các đường phố Bắc Kinh vẫn còn chưa biết rõ. Theo các ước đoán có thể có cho tới 3000 người chết. Công nhân và sinh viên, như những “người làm loạn”, bị tù giam nặng, bị làm nhục công khai và bị kết án trong những phiên tòa nhanh. ĐCS giữ được quyền lực của họ, nhưng đã đánh mất sự thiện cảm của nhiều người dân. Trong tình thế đó, Đặng – sau một thời tê liệt trong nội bộ Đảng – nắm lấy thế chủ động. Ông ấy đến thành phố Thâm Quyến ở miền Nam Trung Quốc và tuyên bố rằng người này có thể giàu sang nhanh hơn người khác. Sau đó, ông ấy tiếp tục để cho tự do hóa nền kinh tế. ĐCS tuy không khoan dung cho tự do chính trị nhưng cho phép có nhiều tự do cá nhân hơn nữa.
Những phần không gian tự do này làm thay đổi một cách cơ bản cuộc sống hàng ngày của người dân. Bây giờ họ được phép đi học tại bất cứ trường đại học nào mà họ muốn, tự lựa chọn nghề nghiệp của mình, đi ra nước ngoài, mua hộ ở và ô tô, nếu như họ có tiền cho việc đó. “Làm giàu là vinh quang”, Đặng tuyên bố. Nhưng từ đấy cũng có một thỏa thuận không được viết ra giữa người dân và Đảng. Thỏa thuận đấy đại khái là: chúng tôi cho phép các anh, giới tinh hoa của xã hội, một hạnh phúc nhỏ, bù lại các anh không được phép đặt nghi vấn về sự độc quyền của Đảng.

Trích đăng từ quyển “Cuộc Cách mạng châu Á”, của Andreas Lorenz, do Phan Ba dịch, mời các bạn đón đọc


[1] Xem thảo luận “The Color of China” by Minxin Pei and Jonathan Anderson, 03/09/2009, http://www.nationalinterest.org/article.aspx?id=20953
[2] Susan L. Shirk: “China-Fragile Superpower”, Oxford University Press, 2007
[3] Xem ngoài những tác phẩm khác: Frank Dikötter: “Mao’s Great Famine, The History of China’s Most Devastating Catastrophe, 1958 – 1962″, Walker&Company, New York, 2010, và Jaspar Becker: “Hungry Ghost: Mao’s Secret Famine”, Henry Holt and Company, New York, 1996

“Vòi bạch tuộc” lũng đoạn thị trường – Kỳ 4: Vốn ảo từ sở hữu chéo

Lo ngại bội chi ngân sách

Thanh niên

Nhiều tập đoàn nợ quá hạn hàng nghìn tỉ đồng

Một còm bên Thanh Niên : Nếu làm phép tính chia lấy 1.292.400 tỉ đồng (nợ khó đòi) của TĐ, TCT nhà nước đem chia cho dân số Việt Nam 88 triệu dân, thì mỗi người dân phải gánh nợ là 14.686.364 đồng. Con số nợ khủng khiếp như vậy, nhưng nhân dân càng đau buồn hơn khi hàng năm các TĐ, TCT báo kinh doanh thua lỗ và tham nhũng. Các TĐ, TCT nhà nước đã làm kiệt quệ nền kinh tế đất nước, dẫn đến hệ quả tất yếu là nền kinh tế hiện nay rất yếu kém nguy hiểm đến sự tồn vong của đất nước.

Khốn đốn vì chống tham nhũng

Bị khủng bố

ĐỌC 2 BÀI THƠ RA TÙ, NGHĨ VỀ HÒA GIẢI SAU CHIẾN TRANH

Nguyentrongtao blog
KHÁNH TRÂM
Khánh Trâm và nhà thơ Hoàng Hưng
  <<<===Khánh Trâm và nhà thơ Hoàng Hưng
“Làng quê Appomattox nơi ra đời cái biên bản đầu hàng nhân bản nhất mà tôi được đọc, ở đó không có kẻ thù. Người thua và người thắng đều là đồng bào, là con một nhà. Con của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và họ cùng bắt tay xây dựng lại đất nước bị tàn phá sau chiến tranh…”
Lại sắp hết năm. Sài Gòn lại sắp đón mai vàng. Đã 37 năm đánh dấu ngày thống nhất đất nước, kể từ trưa 30/4/1975, tôi lại ngồi nghĩ về 2 bài thơ. Đó là bài «Người về» của nhà thơ Hoàng Hưng (1992) và bài «Ta về» của nhà thơ Tô Thùy Yên (1985). Hai ông đều là những thi nhân hàng đầu hiện còn sống và sáng tác trên văn đàn văn chương Việt. Một người sinh ra và lớn lên ở đất Bắc, một thời dậy học và làm báo trong hệ thống thuộc tổ chức xã hội nghề nghiệp của nhà nước CH XHCNVN còn người kia thuộc về phía Nam vĩ tuyến 17 làm thơ, viết văn, đi lính dưới chính quyền VNCH rồi trở thành cựu tù nhân bị giam cầm « học tập cải tạo » sau ngày Nam Bắc một nhà.
Mỗi khi đọc hai bài thơ, kể từ ngày đầu tiếp xúc với nó hay cho đến tận bây giờ tôi cũng không còn nhớ mình đã đọc bao nhiêu lần nữa nhưng mỗi khi nhớ đến nó tôi cứ bị hai nỗi ám ảnh. Đó là nỗi ám ảnh về cuộc chiến và nỗi ám ảnh về thân phận con người. Hai nỗi ám ảnh này nó cứ theo suốt cuộc sống hàng ngày của tôi, mờ mờ, ảo ảo, khi ẩn khi hiện. Cuộc chiến 1955-1975 ấy ngày nay nhiều người còn đang tranh cãi và có nhiều bất đồng ở cái «lý do» và tính «chính nghĩa» của nó nhưng có một điều ai ai cũng nhìn thấy và phải công nhận là cuộc chiến ấy đau thương và mất mát quá lớn (bởi thế mới có lời nghẹn ngào «xin đừng thêm những tháng tư»). Và tiếp nối cái «tháng tư» nghiệt ngã ấy là những đợt «học tập cải tạo» cho những con người ở phía bên kia. Tác giả của «Ta về» là một trong số đó. Ông đã bị giam giữ bao tháng bao ngày? Những lời thơ đã nói lên tất cả: «Ta về một bóng trên đường lớn/ thơ chẳng ai đề vạt áo phai/ sao bỗng nghe đau mềm phế phủ/ mười năm đá cũng ngậm ngùi thay». Bài thơ này có 12 lần nhắc đến «mười năm» và nó cũng chỉ rõ nơi chốn mà tác giả lưu trú trong «mười năm» ấy: «Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp/ chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu/ mười năm mặt sạm soi khe nước/ ta hóa thân thành vượn cổ xưa». Vậy mà sự ngăn cách và chia ly của «mười năm» đằng đẵng ấy cũng không thể làm phai mờ tình thương yêu của những con người vẫn hướng về nhau: «Ta về như tiếng kêu đồng vọng/ rau mác lên bờ đã trổ bông/ cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng/ chờ anh như biển đã chờ sông». Họ đã nói với nhau và cho nhau những gì? «Ta gọi thời gian sau cánh cửa/ nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu/ ta về như máu ân tình chảy/ tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau». Và: «Ta về dẫu phải đi chân đất/ khắp thế gian này để gặp em/ đau khổ riêng gì nơi gió cát/ thềm nhà bụi chuối khóc thâu đêm». Nhà thơ cũng cho độc giả biết khi đã được trả tự do để về với cuộc đời, với «cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa» và «ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa» với «mọi thứ không còn ngăn nắp cũ/ nhà thương – khó quá sống thờ ơ/ giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ/ khách cũ không còn khách mới thưa» thì thi nhân đã hết thời trai trẻ, trên đầu đã hai thứ tóc: «Ta về cúi mái đầu sương điểm/ nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ cảm ơn hoa đã vì ta nở/ thế giới vui từ nỗi lẻ loi». Vâng, người nghệ sỹ với độ tuổi đã « nghe nặng từ tâm lượng đất trời » ấy thì ông cũng đã thấu hiểu cái vô thường của đời người. Mặc dù bị giam cầm, bị đói khổ, bị hành hạ… nhưng hiểu được cái «vô thường» kia nên «Ta về» không thấy oán hận hay căm thù. Tôi cứ luôn nghĩ để hòa hợp và giải oan cho cuộc chiến này có lẽ những người khởi sự là những thi nhân, những văn nghệ sỹ (và họ đã bắt đầu). Tô Thùy Yên đã nói ra điều này từ rất sớm: «Ta về như lá rơi về cội/ bếp lửa nhân quần ấm tối nay/chút rượu hồng đây xin rưới xuống/ giải oan cho cuộc biển dâu này». Bước chân ra khỏi chốn ngục tù, nhìn lại chặng đường đã qua, hướng về chặng đường phía trước, nhà thơ đã bỏ lại hết hận thù: «Ta về khai giải bùa thiêng yểm/ thức dậy đi nào gỗ đá ơi/ hãy kể lại mười năm chuyện cũ/ một lần kể lại để rồi thôi» và tự nhủ mình: «Bé ơi, này những vui buồn cũ/ hãy sống đương đầu với lãng quên/ con dế vẫn là con dế ấy/ hát rong bờ cỏ giọng thân quen».
Cuộc chiến mà Tô Thùy Yên và bao triệu người đã đi qua, thời ấy trên đất Bắc và cho đến tận hôm nay các bài sử dạy trong nhà trường vẫn gọi đây là «cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước» và khi ngày 30/4/1975 khép lại cái trang sử ấy chúng ta đã thắng Mỹ (là «đế quốc to») nhưng tiếc thay người Việt đã không học được thái độ ứng xử cao thượng, tôn trọng phẩm giá con người, không phân biệt kẻ thua người thắng của cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ của thế kỷ 19. Đó là vùng đất của những con người biết nhìn xa trông rộng, sống đầy trách nhiệm đứng đầu là hai vị tướng, tướng Lee của miền Nam và tướng Grant của miền Bắc. Làng quê Appomattox nơi ra đời cái biên bản đầu hàng nhân bản nhất mà tôi được đọc, ở đó không có kẻ thù. Người thua và người thắng đều là đồng bào, là con một nhà. Con của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và họ cùng bắt tay xây dựng lại đất nước bị tàn phá sau chiến tranh. Thế là cuộc nội chiến của nước Mỹ đã kết thúc trong sự khoan dung và câu nói của tướng Grant với binh lính dưới quyền: «Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta» và cái điều khoản quan trọng  đề cập đến binh lính miền Nam: «Không bị coi là phản quốc và không phải ở tù » cứ văng vẳng trong tôi bao tháng bao ngày.
Trở lại bài «Ta về», thi sĩ Tô Thùy Yên đã nhìn đất trời dưới cái nhìn vô thường: Hoa nở rồi lại tàn, trăng tròn rồi lại khuyết, con người sinh ra rồi lại chết đi. Cái triết lý này được ông khẳng định: «Ta về như hạt sương trên cỏ/ kết tụ sầu nhân thế chuyển đời/ bé bỏng thì cũng sinh dị, diệt/ tội tình chi lắm nữa người ơi». Lời «tội tình chi» này của thi nhân đất phương Nam sau chiến tranh có ai ngờ nó cũng vận ngay vào một thi nhân đất Bắc. Đó là nhà thơ Hoàng Hưng. Những dòng đầu tiên của « Người về » đã nói lên tất cả: «Người về từ cõi ấy/ vợ khóc một đêm con lạ một ngày/ Người về từ cõi ấy/ bước vào cửa người quen tái mặt / người về từ cõi ấy/ giữa phố đông nhồn nhột sau gáy…». Đọc hết bài thơ, ta thấy tác giả đã trải lòng ra với người đọc cái chốn «cõi ấy» và ông cũng tự tâm sự với chính mình về một cái nơi tưởng đã lùi vào quá khứ, nhưng không, nó vẫn theo, cứ kè kè với tác giả như hình với bóng, tưởng đã «tháo ra được» nhưng vẫn có cái sợi dây vô hình nó cứ «buộc vào như chơi» không thoát ra được. Vậy thì ai buộc vào? Chắn chắn không phải tác giả, vì chẳng có ai lại thích cái «cõi ấy» cả (chứ chưa kể còn cố quên đi). Một «cái cõi» mà những ai đã từ chốn ấy bước ra thì «một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui/ hai năm còn mộng toát mồ hôi/ ba năm còn nhớ một con thạch thùng/ mười năm còn quen ngồi một mình trong tối».
Năm 1982 đã gần 10 năm sau chiến tranh, nhà thơ Hoàng Hưng bước vào «cõi ấy» với một cái lý do rất vô lý và đầy oan ức. Ngày ấy, ông cầm tập thơ «Về Kinh Bắc», một tập thơ viết tay của nhà thơ đàn anh người đồng hương Bắc Ninh rất nổi tiếng là Hoàng Cầm. Vì cầm tập thơ này, Hoàng Hưng bị bắt và đi tù 39 tháng. Tôi là một độc giả đọc thơ ông, cứ mỗi khi nghĩ đến người tù thi sỹ này tôi luôn bị ám ảnh bởi cái lý do họ bắt ông (lưu truyền văn hóa phẩm phản động) và cái cách thức họ bắt ông là lập chuyên án và gài bẫy (chiến công của người này lại là địa ngục trần gian của người kia. Thật trớ trêu!). Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi, ông là một nhà thơ, ông không cầm thơ thì cầm cái gì ? Ông không trao đổi thơ với bạn với bè thì ông trao đổi cái gì ? Ông đọc thơ của Hoàng Cầm và ngược lại, Hoàng cầm đọc thơ ông cũng là lẽ thường tình chưa kể đó lại là những áng thơ đẹp: «Cúi lậy mẹ con trở về Kinh Bắc/ chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ chuồn chuồn khiêng nắng sang sông…».
Ngày ấy Hoàng Hưng vừa cầm tập thơ trong tay rồi bị bắt ngay (ông chưa hề đưa cho ai) vậy mà ông mang tội «lưu truyền văn hóa phẩm phản động». Ông bị buộc tội và bị kết án không qua xét xử. Những việc làm bất chấp luật pháp này nó chà đạp con người và đã tước đi quyền sinh sống của một công dân. Đó là cái nỗi ám ảnh lớn nhất của một người đọc như tôi. Trên đất Bắc,trường hợp nhà thơ Hoàng Hưng không phải là văn nghệ sỹ duy nhất bị tước quyền công dân một cách phi pháp. Trước đây đã có vụ «nhân văn giai phẩm» để biết bao văn nghệ sỹ đã phải chịu tù đầy… thế rồi hơn 30 năm sau những người kết tội các ông đã âm thầm thừa nhận «sai trái». Năm 2007, tác giả «Về Kinh Bắc» đã được «Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật » và có rất nhiều bài ở tập thơ này được tuyển chọn.
Những câu chuyện người thực việc thực này đã phơi bầy cho ta thấy cái cách mà chính quyền định đoạt cuộc sống của một công dân rất tùy tiện. Ở tù ra, nhà thơ Hoàng Hưng vẫn bị «chăm sóc». Chính ông nói ra điều này (nguyên nhân ra đời bài «Người về»): «Tôi viết bài này năm 1992, tức là 10 năm sau khi ra tù. Lúc đó tôi cũng đã quen vị thế nhà báo của mình đã được phục hồi. Nhưng trong một buổi tiệc của Hội Mỹ Thuật TP HCM, có một người lạ mặt đến gần tôi, nhìn tôi trừng trừng và hỏi: «Anh từ nơi ấy trở về chứ gì?» rồi bỏ đi. Tôi đứng sững như trời trồng và lặng lẽ ra về. Sự việc ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy. Nó làm tôi nhận thức được một thân phận khác của mình trong xã hội». Thế là đọc những dòng ông viết tôi mới hiểu cái ý nghĩa của những câu thơ. Những câu thơ chứa bao nỗi niềm bất an, nỗi khổ của thân phận con người không được thừa nhận, thân phận của một tù nhân dự khuyết: «Một hôm có kẻ nhìn trân trối/ một đêm có tiếng bâng quơ hỏi/ giật mình một cái vỗ vai». Bài thơ «Người về» là nỗi niềm tâm sự của một tri thức văn nghệ sỹ lên án cái xã hội thiếu vắng luật pháp và công lý này.
Kể từ ngày ra đời hai bài thơ sau chiến tranh của 2 tác giả Nam-Bắc này tính đến nay đã 20 năm (bài «Người về») và 26 năm (bài «Ta về») nhưng những thông điệp mà nó truyền đi vẫn rất mạnh mẽ. Riêng tôi lúc nào thưởng thức chúng cũng vẫn cứ say mê một cách đầy ám ảnh. Riêng «Người về» với «giữa phố đông nhồn nhột sau gáy» vẫn còn nguyên tính thời sự của nó. Bởi những người con yêu nước Việt hôm nay vẫn cứ «nhồn nhột sau gáy» khi họ dám lên tiếng bảo vệ chủ quyền dân tộc. Không biết trong xã hội chúng ta đang sống, có bao nhiêu người đang chịu cái cảnh «nhồn nhột sau gáy» này? Tôi chỉ biết có những người bị «nhồn nhột sau gáy» đã đang ngồi tù, ngoài ra còn biết bao nhiêu người « nhồn nhột sau gáy » nữa sẽ chuẩn bị «bước chân vào chốn ngục tù» vì cái cách chính quyền đang trấn áp (thậm chí bỏ tù) những người đi tiên phong. Nhìn xã hội Việt nam với bức tranh hiện tại, tôi lại nghĩ đến những lời tâm sự của nhà thơ Hoàng Hưng viết trước khi chiến tranh kết thúc (1973): «Các anh bảo chúng tôi/đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp/chúng tôi đi/ vì không sợ chết/ chúng tôi chết/vì sợ sống hèn/ nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy»? Vâng, cái ngày mai ấy chính là cái ngày hôm nay khi những người cầm quyền để nền kinh tế suy thoái, nền chính trị bá đạo, văn hóa-giáo dục xuống cấp đời sống dân chúng lầm than nhưng họ chỉ nhận «sai lầm sâu sắc», nhận «trách nhiệm chính trị lớn» nhưng nhất quyết họ không từ chức.
***
TA VỀ của TÔ THÙY YÊN
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
.
NGƯỜI VỀ của HOÀNG HƯNG
Người về
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình
một cái vỗ vai

1 nhận xét: