Robert Kagan
Nguyên văn tiếng Anh: Not Fade Away, The New Republic, 2/2/2012Bản dịch và chú thích của Phạm Vũ Lửa Hạ
I.
Phải
chăng Mỹ đang suy tàn, như quá nhiều người tin hiện nay? Hay liệu có
phải người Mỹ có nguy cơ nhanh nhảu tự kết liễu vị thế siêu cường quốc
vì nỗi lo sợ huyễn hoặc về sức mạnh đang suy giảm của mình? Rất nhiều
điều tùy thuộc vào câu trả lời cho những câu hỏi này. Trật tự thế giới
hiện nay – với đặc trưng là số lượng nhiều chưa từng thấy các quốc gia
dân chủ; thậm chí với cuộc khủng hoảng hiện nay, thế giới ngày nay thịnh
vượng nhất trong lịch sử; và các đại cường quốc hòa bình với nhau trong
thời gian dài – phản ánh những nguyên tắc và sở thích của Mỹ, và được
xây dựng và duy trì bằng sức mạnh của Mỹ trong tất cả các khía cạnh
chính trị, kinh tế, và quân sự. Nếu sức mạnh Mỹ suy tàn, trật tự thế
giới này sẽ suy tàn theo nó. Trật tự này sẽ bị thay thế bằng một kiểu
trật tự khác nào đó, phản ánh những ước muốn và những phẩm chất của
những cường quốc thế giới khác. Hay có lẽ trật tự này chỉ đơn thuần sụp
đổ, như trật tự thế giới của Châu Âu đã sụp đổ trong nửa đầu của thế kỷ
20.
Nhiều
người tin rằng ngay cả khi sức mạnh Mỹ suy giảm, “những nền tảng cơ sở
của trật tự quốc tế tự do sẽ trường tồn”, như nhà chính trị học G. John
Ikenberry nhận định; niềm tin đó quả là một ảo tưởng thú vị. Sự suy tàn
của Mỹ, nếu có thực, sẽ đồng nghĩa với một thế giới khác cho tất cả mọi
người.
Nhưng
thực hư ra sao? Phần lớn những bình luận về sự suy tàn của Mỹ hiện nay
dựa trên phân tích sơ sài, trên những cảm tưởng cho rằng Mỹ đã lạc lối,
rằng Mỹ đã từ bỏ những đức tính giúp họ thành công trong quá khứ, rằng
Mỹ thiếu ý chí giải quyết những vấn đề họ đang đối mặt. Người Mỹ nhìn
những quốc gia khác có nền kinh tế hiện nay ổn định hơn kinh tế Mỹ, và
dường như có tính năng động mà nước Mỹ từng có, và họ ta thán rằng
“trước đây chúng ta cũng vậy”, như trong tựa đề cuốn sách mới nhất của
Thomas Friedman, “That Used To Be Us.”
Cảm
nghĩ suy tàn hiện này đương nhiên dễ hiểu, với tình hình kinh tế ảm đạm
từ năm 2008 và những khoản thâm hụt tài khóa lớn của Mỹ mà nếu kết hợp
với mức tăng trưởng liên tục của Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ
và các nền kinh tế khác thì dường như báo trước một sự dịch chuyển quan
trọng và không thể đảo ngược của sức mạnh kinh tế toàn cầu. Tâm lý bi
quan này một phần cũng là do niềm tin cho rằng Mỹ đã thất sủng, và do
vậy đánh mất tầm ảnh hưởng, ở nhiều nơi trên thế giới, do những phản ứng
khác nhau của Mỹ đối với những vụ khủng bố 11/9. Những nhà tù ở
Guantánamo, việc tra tấn những kẻ bị tình nghi khủng bố, và cuộc xâm
lược Iraq hồi năm 2003 bị nhiều nước lên án, tất thảy đều làm hoen ố
“nhãn hiệu” Mỹ và làm suy suyển “sức mạnh mềm” của nước Mỹ – tức là khả
năng thuyết phục những nước khác chú ý đến quan điểm của Mỹ. Nước Mỹ đã
tham gia những cuộc chiến gian truân ở Iraq và Afghanistan, mà nhiều
người nhận định đã chứng tỏ những hạn chế về sức mạnh quân sự, khiến Mỹ
oằn mình gồng gánh gánh nặng quá sức của mình, và làm suy yếu rường cột
quốc gia. Có người so sánh Mỹ với Đế chế Anh vào cuối thế kỷ 19, với
những cuộc chiến khó khăn ở Iraq và Afghanistan tương đương như Chiến
tranh Boer gian truân và làm nản lòng quốc gia của Anh.
Trong
bối cảnh nhiều người cảm nhận về ngày tàn của nước Mỹ, mỗi thất bại của
Mỹ trong việc gây ảnh hưởng trên thế giới thường khẳng định ấn tượng
này. Người Ả rập và người Israel không chịu giảng hòa với nhau, mặc cho
người Mỹ nhiều lần khẩn nài. Iran và Bắc Triều Tiên coi thường những yêu
sách của Mỹ đòi hai nước này ngừng các chương trình vũ khí hạt nhân của
họ. Trung Quốc không chịu để cho đồng nhân dân tệ lên giá. Tình hình
biến động ở thế giới Ả rập xoay chuyển vượt ra khỏi tầm kiểm soát của
Mỹ. Dường như mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy đã qua rồi cái
thời Mỹ có thể dẫn dắt thế giới và buộc các nước khác làm theo chỉ đạo
của mình.
Tuy
nhiên, bất kể cảm tưởng về ngày tàn của nước Mỹ có mạnh đến đâu, cảm
tưởng đó đáng được suy xét thấu đáo hơn. Đo lường những thay đổi về sức
mạnh tương đối của một quốc gia là điều khó, nhưng có một số chỉ số cơ
bản: quy mô và ảnh hưởng của nền kinh tế nước đó so với nền kinh tế của
những cường quốc khác; tầm cỡ của sức mạnh quân sự so với những kẻ thù
khả dĩ; mức độ ảnh hưởng chính trị mà nước đó tạo được trong hệ thống
quốc tế – tất cả những điều đó làm nên điều mà người Trung Quốc gọi là
“sức mạnh quốc gia toàn diện”. Rồi còn chuyện thời gian nữa. Nếu phán
xét chỉ dựa vào bằng chứng của một vài năm thì chưa ổn. Sự suy tàn của
một đại cường quốc là sản phẩm của những thay đổi căn bản về sự phân
phối quốc tế của nhiều hình thức sức mạnh khác nhau, mà những thay đổi
đó thường xảy ra trong những quãng thời gian dài. Những đại cường quốc
hiếm khi đột ngột suy tàn. Một cuộc chiến tranh có thể khiến họ sụp đổ,
nhưng ngay cả điều đó thường là một triệu chứng, và là cực điểm, của một
quá trình lâu dài hơn.
Ví
dụ, sự suy tàn của Đế chế Anh diễn ra trong mấy chục năm. Năm 1870,
người Anh chiếm hơn 30 phần trăm sản xuất công nghiệp toàn cầu. Năm
1900, tỉ phần đó là 20 phần trăm. Đến năm 1910 là dưới 15 phần trăm –
thấp hơn nhiều so với Mỹ đang vươn lên với tỉ phần tăng từ hơn 20 phần
trăm lên đến hơn 25 phần trăm trong cùng thời kỳ; và cũng ít hơn Đức,
vốn tụt hậu khá xa so với Anh trong suốt thế kỷ 19 nhưng đã bắt kịp và
qua mặt Anh trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20. Trong cùng thời kỳ
đó, hải quân Anh đi từ vị thế thống lĩnh vô song của các vùng biển đến
chỗ phải chia sẻ quyền kiểm soát các đại dương với những cường quốc hải
quân đang vươn lên. Năm 1883, Anh có nhiều tàu chiến hơn tất cả các
cường quốc khác cộng lại. Đến năm 1897, sự thống lĩnh của Anh đã suy
giảm. Giới chức Anh nhận định hải quân của mình “hoàn toàn thua xa” Mỹ ở
Tây bán cầu, Nhật ở Đông Á, và sức mạnh hải quân của Nga và Pháp cộng
lại ngay tại Châu Âu – và đó là trước khi có sự lớn mạnh đầy hăm dọa của
hải quân Đức. Đây là những trường hợp suy tàn rõ rệt, có thể đo lường
được và diễn ra từ từ của hai trong số những thước đo quan trọng nhất về
sức mạnh trong quá trình nửa thế kỷ.
MỘT
SỐ LẬP LUẬN hiện nay về sự suy tàn tương đối của nước Mỹ sẽ có tính
thuyết phục hơn nếu đã không xuất hiện ngay sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008. Cũng như một con én không làm nên mùa xuân, một đợt suy
thoái, hay thậm chí một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, không nhất
thiết đồng nghĩa với việc khởi đầu của sự kết liễu một đại cường quốc.
Mỹ đã chịu những cuộc khủng hoảng nặng nề và kéo dài trong những thập
niên 1890, 1930, và 1970. Mỗi lần như thế, nước Mỹ hồi phục trong thập
niên tiếp theo và thực sự lại đạt đến vị thế mạnh hơn so với các cường
quốc khác hơn trước thời khủng hoảng. Những thập niên 1910, 1940, và
1980 đều là những cao điểm của sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ trên toàn
cầu.
Cách
đây chưa đầy mười năm, phần lớn giới quan sát không phải bàn về sự suy
tàn của Mỹ mà là về thế độc tôn bền bỉ của Mỹ. Năm 2002, sử gia Paul
Kennedy, người đã viết vào cuối thập niên 1980 một cuốn sách được bàn
luận nhiều về “sự hưng thịnh và suy vong của những đại cường quốc” trong
đó có Mỹ, đã tuyên bố rằng trong lịch sử chưa bao giờ có “sự chênh lệch
sức mạnh” lớn như vậy giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới. Ikenberry
đồng ý rằng “không có đại cường quốc nào khác” đã có “những ưu thế đáng
nể như vậy về năng lực quân sự, kinh tế, công nghệ, văn hóa, hay chính
trị … Sự vượt trội của sức mạnh Mỹ” là “vô tiền khoáng hậu”. Năm 2004,
nhà bình luận Fareed Zakaria nhận định Mỹ đang tận hưởng “thế đơn cực
(uni-polarity) toàn diện” chưa từng thấy kể từ thời La Mã. Nhưng chỉ bốn
năm sau Zakaria lại viết về “thế giới hậu Mỹ” và “sự vươn lên của phần
còn lại [của thế giới]”, còn Kennedy thuyết giảng về sự suy tàn tất yếu
của nước Mỹ. Chẳng lẽ những yếu tố căn bản của sức mạnh tương đối của
nước Mỹ lại thay đổi quá lớn như vậy chỉ trong vài năm ngắn ngủi?
Câu
trả lời là không. Ta hãy bắt đầu bằng những chỉ số cơ bản. Về kinh tế,
và thậm chí bất chấp những năm suy thoái và tăng trưởng chậm hiện thời,
vị thế của Mỹ trên thế giới chưa thay đổi. Tỉ phần của Mỹ trong GDP thế
giới vẫn ổn định đáng kể, không chỉ trong thập niên vừa qua mà cả trong
bốn thập niên qua. Năm 1969, Mỹ sản xuất khoảng một phần tư sản lượng
kinh tế của thế giới. Ngay nay tỉ phần đó vẫn là khoảng một phần tư, và
Mỹ vẫn giữ vị trí nền kinh tế không chỉ lớn nhất mà còn giàu nhất thế
giới. Cũng hợp lý khi thiên hạ bị mê hoặc bởi sự vươn lên của Trung
Quốc, Ấn Độ, và những nước Châu Á khác với tỉ phần sản lượng kinh tế
toàn cầu đã và đang tăng đều đặn, nhưng đến nay điều đó xảy ra gần như
hoàn toàn chỉ thiệt hại cho Châu Âu và Nhật với tỉ phần giảm dần trong
nền kinh tế thế giới.
Giới
lạc quan về sự phát triển của Trung Quốc tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ
qua mặt Mỹ để chiếm vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một thời
điểm nào đó trong hai thập niên đến. Điều này có nghĩa là Mỹ sẽ đối mặt
với một thách thức ngày càng lớn về vị thế kinh tế của mình trong tương
lai. Nhưng chỉ riêng quy mô của một nền kinh tế tự than nó không phải là
một thước đo chính xác về sức mạnh tổng quát trong hệ thống quốc tế.
Nếu quả vậy, thì Trung Quốc vào đầu thế kỷ 19, với nền kinh tế lớn nhất
thế giới lúc đó, đã là cường quốc thống lĩnh thế giới, chứ không phải là
nạn nhân kiệt quệ phủ phục trước những nước Châu Âu nhỏ hơn. Cho dù
Trung Quốc có thực sự vươn lên đỉnh cao này một lần nữa – và giới lãnh
đạo Trung Quốc đối mặt với những chướng ngại vật lớn lao trong việc duy
trì mãi mãi mức tăng trưởng của đất nước – Trung Quốc sẽ vẫn còn tụt hậu
khá xa so với cả Mỹ và Châu Âu về GDP bình quân đầu người.
Năng
lực quân sự cũng quan trọng, như Trung Quốc vào thế kỷ 19 đã hiểu và
giới lãnh đạo Trung Quốc ngày nay biết. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong)
nhận định gần đây, “sức mạnh quân sự là nền tảng cho bá quyền”. Về mặt
này, Mỹ vẫn không ai sánh bằng. Mỹ chắc chắn là quốc gia hùng mạnh nhất
mà thế giới từng biết, và năng lực quân sự tương đối của Mỹ không suy
tàn – ít nhất là chưa. Người Mỹ hiện nay chi tiêu chưa đến 600 tỉ đô-la
mỗi năm cho quốc phòng, nhiều hơn những đại cường quốc khác cộng lại.
(Con số này chưa tính đến việc đưa quân sang Iraq, mà hoạt động này đang
kết thúc, hay các lực lượng tham chiến ở Afghanistan, mà có thể giảm từ
từ trong vài năm đến.) Ngoài ra, chi tiêu quốc phòng đó ở mức xấp xỉ 4
phần trăm GDP hàng năm – tỉ lệ cao hơn những đại cường quốc khác, nhưng
xét về lịch sử thì thấp hơn tỉ lệ 10 phần trăm GDP mà Mỹ chi tiêu cho
quốc phòng vào giữa thập niên 1950 và 7 phần trăm vào cuối thập niên
1980. Những khoản chi tiêu cao hơn chưa đánh giá đúng tính ưu việt thực
sự của Mỹ về năng lực quân sự. Các lực lượng trên bộ và trên không của
Mỹ được trang bị vũ khí tối tân nhất và dày dạn kinh nghiệm nhất về tham
chiến thực sự. Họ có thể đánh bại bất kỳ đối thủ nào trong một trận
đánh đối đầu. Sức mạnh hải quân Mỹ vẫn chiếm ưu thế vượt trội ở mọi khu
vực trên thế giới.
Theo
những thước đo quân sự và kinh tế này, Mỹ ngày nay ít ra cũng chẳng
giống gì với nước Anh khoảng năm 1900, khi sự suy tàn tương đối của đế
chế đó bắt đầu lộ rõ. Nước Mỹ ngày nay giống với nước Anh khoảng năm
1870 hơn, khi đế chế đó đang ở đỉnh cao sức mạnh. Có thể tưởng tượng ra
một thời điểm khi mà điều này không còn đúng nữa, nhưng thời khắc đó
hiện chưa đến.
NHƯNG
CÒN “sự vươn lên của phần còn lại [của thế giới]” – tầm ảnh hưởng kinh
tế ngày càng tăng của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, và Thổ
Nhĩ Kỳ – thì sao? Chẳng phải điều đó giảm bớt sức mạnh và ảnh hưởng của
Mỹ hay sao? Câu trả lời là: còn tùy. Việc các quốc gia khác trên thế
giới đang tận hưởng những thời kỳ tăng trưởng cao không có nghĩa là vị
thế cường quốc thống lĩnh của Mỹ đang suy tàn, hay thậm chí nghĩa là
“phần còn lại của thế giới” đang đuổi kịp về sức mạnh và ảnh hưởng tổng
quát. Tỉ phần của Brazil trong GDP toàn cầu chỉ hơn 2 phần trăm vào năm
1990 và hiện nay vẫn chỉ ở mức hơn 2 phần trăm. Tỉ phần của Thổ Nhĩ Kỳ
là dưới 1 phần trăm vào năm và hiện nay vẫn ở mức dưới 1 phần trăm.
Người ta, và đặc biệt là giới doanh nhân, hẳn nhiên phấn khích về những
thị trường mới trỗi dậy này, nhưng chỉ vì một quốc gia là một cơ hội đầu
tư hấp dẫn không có nghĩa là quốc gia đó là một đại cường quốc đang
vươn lên. Của cải có ý nghĩa quan trọng trong chính trị quốc tế, nhưng
không có mối tương quan đơn giản giữa tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng
quốc tế. Chưa rõ là liệu một nước Ấn Độ ngày nay giàu có hơn gây ảnh
hưởng trên trường quốc tế lớn hơn một nước Ấn Độ nghèo vào thập niên
1950 dưới thời Nehru, khi Ấn Độ là lãnh tụ của Phong trào Không Liên
kết, hoặc liệu Thổ Nhĩ Kỳ, bất chấp tính độc lập và kiểu phô trương của
Thủ tướng Recep Tayyip Erdoğan, có thực sự gây ảnh hưởng nhiều hơn cách
đây một thập niên hay không.
Về
tác động của những nền kinh tế đang lớn mạnh này đối với vị thế của Mỹ,
điều đó tùy thuộc vào việc ai đang lớn mạnh. Vấn đề của Đế chế Anh vào
đầu thế kỷ 20 không phải là sự suy tàn đáng kể của họ so với Mỹ, một
cường quốc nhìn chung hữu hảo có những lợi ích không mâu thuẫn về căn
bản với những lợi ích của Anh. Thậm chí ở Tây bán cầu, thương mại của
Anh tăng lên khi họ nhường vị thế thống lĩnh cho Mỹ. Vấn đề là sự suy
tàn của Anh so với Đức vốn muốn giành ưu thế trên lục địa Châu Âu, và
tìm cách cạnh tranh với Anh trên biển cả, và ở cả hai khía cạnh này đều
tỏ ra đe dọa an ninh cốt lõi của Anh. Trong trường hợp của Mỹ, sự vươn
lên mạnh mẽ và nhanh chóng của kinh tế Đức và Nhật trong thời Chiến
tranh Lạnh đã giảm thế độc tôn của Mỹ trên thế giới nhiều hơn “sự vươn
lên của phần còn lại [của thế giới]” gần đây. Tỉ phần của Mỹ trong GDP
thế giới từ mức gần 50 phần trăm sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã
giảm xuống còn khoảng 25 phần trăm vào đầu thập niên 1970, và giữ nguyên
ở mức ấy từ đó cho đến nay. Nhưng “sự vươn lên của phần còn lại” đã
không làm suy yếu Mỹ. Thậm chí điều đó còn củng cố nước Mỹ. Đức và Nhật
đã và đang là những đồng minh dân chủ thân thiết, những cột trụ chủ chốt
của trật tự thế giới kiểu Mỹ. Sự tăng trưởng của nền kinh tế hai nước
đó thực sự đã dịch chuyển một cách không thể đảo ngược cán cân theo
hướng bất lợi cho khối Xô viết và góp phần làm sụp đổ khối đó.
Khi
đo lường tác động của những kinh tế đang lớn mạnh của những nước khác
hiện nay, ta phải làm những phép tính toán kiểu tương tự. Liệu sự tăng
trưởng của kinh tế Brazil, hay của kinh tế Ấn Độ, có làm suy giảm sức
mạnh toàn cầu của Mỹ hay không? Cả hai quốc gia này đều thân thiện, và
Ấn Độ đang ngày càng là một đối tác chiến lược của Mỹ. Nếu đối thủ cạnh
tranh tương lai của Mỹ trên thế giới có khả năng là Trung Quốc, thì một
nước Ấn Độ giàu hơn và mạnh hơn sẽ là một thế mạnh, chứ không phải một
tác hại, cho Mỹ. Nhìn chung, việc Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Phi
đang tận hưởng thời kỳ tăng trưởng kinh tế – mà có thể hoặc không thể
kéo dài mãi – hoặc chẳng can hệ gì đến hoặc chỉ có lợi cho vị thế chiến
lược của Mỹ. Hiện tại, chỉ có sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc có
thể được xem là có tác động đến sức mạnh của Mỹ trong tương lai, và chỉ
trong chừng mực mà người Trung Quốc biến đủ sức mạnh kinh tế đang gia
tăng của họ thành sức mạnh quân sự.
II.
NẾU
MỸ không đang bị suy tàn về những thước đo cơ bản này của quyền lực,
chẳng phải ảnh hưởng của họ đã giảm sút, họ gặp khó khăn hơn trong việc
thuyết phục thế giới theo ý mình hay sao? Giả định gần như của mọi người
là Mỹ quả thực đã mất ảnh hưởng. Bất luận lý giải cách nào – sự suy tàn
của Mỹ, “sự vươn lên của phần còn lại”, thất bại rành rành của mô hình
tư bản Mỹ, bản chất lệch lạc của chính trị Mỹ, tính phức tạp ngày càng
tăng của hệ thống quốc tế – nhìn chung người ta chấp nhận rằng Mỹ không
còn khả năng định hình thế giới để thỏa mãn những lợi ích và lý tưởng
của mình như trước kia. Mỗi ngày dường như lại có thêm bằng chứng, với
diễn biến tình hình trên thế giới dường như đi ngược lại các lợi ích của
Mỹ và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Mỹ.
Và
hẳn nhiên Mỹ không thể đạt điều mình muốn trong phần lớn các trường
hợp. Nhưng xưa nay Mỹ có bao giờ làm được như thế đâu. Hầu hết những cảm
tưởng hiện nay về ảnh hưởng Mỹ đang giảm sút đều dựa vào một ảo tưởng
hoài niệm quá khứ: rằng đã có thời nước Mỹ có thể định hình cả thế giới
để thỏa mãn những ước muốn của mình, và có thể khiến những nước khác làm
những gì Mỹ muốn họ làm, và, như nhà chính trị học Stephen M. Walt nhận
xét, “cai quản những dàn xếp chính trị, kinh tế và an ninh cho gần như
toàn địa cầu.”
Nếu
muốn đánh giá vị thế tương đối của Mỹ ngày nay, ta cần công nhận rằng
hình ảnh quá khứ là một ảo tưởng. Chưa bao giờ có một thời như thế. Ta
thường có khuynh hướng nhớ lại những năm đầu của Chiến tranh Lạnh như
một thời điểm Mỹ hoàn toàn thống lĩnh thế giới. Không hề có chuyện đó.
Mỹ đã đạt những thành tựu phi thường trong kỷ nguyên đó: Kế hoạch
Marshall, liên minh NATO, Liên Hiệp Quốc, và hệ thống kinh tế Bretton
Woods tất thảy đã định hình thế giới mà ta biết hiện nay. Tuy nhiên với
mỗi thành tựu lớn lao trong thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh, luôn có
ít nhất một thất bại cũng ê chề không kém.
Trong
thời tổng thống Truman, Cách mạng Cộng sản thắng lợi ở Trung Quốc vào
năm 1949, mà giới chức Mỹ xem là thảm họa cho những lợi ích của Mỹ trong
khu vực và quả thực sự kiện đó đã tỏ ra tai hại cho Mỹ; nếu không phải
gì khác, đó chính là yếu tố quan trọng khiến Bắc Triều Tiên tấn công Nam
Triều Tiên vào năm 1950. Nhưng như Dean Acheson[1] kết
luận, “kết quả đáng ngại của cuộc nội chiến ở Trung Quốc” đã tỏ ra “nằm
ngoài tầm kiểm soát của … Mỹ”, đó là sản phẩm của “những thế lực mà
nước này cố gắng gây ảnh hưởng nhưng không thể”. Một năm sau đó xảy ra
cuộc tấn công bất ngờ và không ai chuẩn bị trước của Bắc Triều Tiên đánh
vào Nam Triều Tiên, và sự can thiệp của Mỹ mà sau khi 35.000 lính Mỹ
chết và gần 100.000 bị thương đã để lại tình hình gần như giống hệt
trước khi xảy ra cuộc chiến này. Diễn biến thời sự trong năm 1949 có lẽ
thuộc hàng xấu nhấu: Liên Xô có được bom nguyên tử và chấm dứt sự độc
quyền hạt nhân từng là nền tảng của chiến lược quân sự và hoạch định
ngân sách quốc phòng của Mỹ.
Một năm sau, báo cáo chiến lược nổi tiếng NSC-68[2] cảnh
báo về khoảng cách ngày càng tăng sức mạnh quân sự và những cam kết
chiến lược toàn cầu của Mỹ. Theo tuyên bố của báo cáo đó, nếu những xu
hướng hiện tại tiếp diễn, kết quả sẽ là “sự sút giảm trầm trọng về sức
mạnh của thế giới tự do so với Liên Xô và những nước chư hầu của Liên
Xô”. “Tính toàn vẹn và khả năng sống còn của hệ thống của chúng ta,” báo
cáo đó nhận định, “gặp nguy hiểm hơn bao giờ hết trong lịch sử của
chúng ta”. Trong bài phát biểu chính tại Hội nghị Toàn quốc Đảng Cộng
hòa vào năm 1952, Douglas MacArthur[3] ta
thán về “thay đổi đáng báo động về cán cân sức mạnh thế giới”, “gánh
nặng ngày càng tăng của những cam kết tài khóa của chúng ta”, sức mạnh
đang tăng lên của Liên Xô, “và sự suy tàn tương đối của chính chúng ta”.
Năm 1957, Ủy ban Gaither báo cáo[4] rằng
nền kinh tế Nga đang tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn kinh tế Mỹ và đến
năm 1959 Nga sẽ có thể đánh trúng Mỹ với một trăm tên lửa đạn đạo liên
lục địa, khiến Sam Rayburn, chủ tịch Hạ viện, đặt câu hỏi: “Một nền kinh
tế vững vàng và ngân sách cân bằng thì ích gì nếu chúng ta để đồng bào
mất mạng và đồng rúp Nga thành đồng tiền của đất nước?”
Mỹ
cũng không luôn luôn thuyết phục được các nước khác, kể cả những đồng
minh gần gũi nhất của mình, làm điều mình muốn, hoặc kiềm chế không làm
điều mình không muốn. Năm 1949, Acheson cố gắng và thất bại trong việc
ngăn cản các đồng minh Châu Âu, trong đó có Anh, công nhận Trung Quốc
cộng sản. Năm 1954, chính quyền Eisenhower không đạt được ý định của
mình tại Hội nghị Geneva về Việt Nam và không chịu ký các thỏa ước cuối
cùng. Hai năm sau, Mỹ cố gắng ngăn cản Anh, Pháp và Israel xâm lăng Ai
Cập do nước này đóng Kênh đào Suez, nhưng vô ích, để rồi ba nước đó tiến
hành một cuộc xâm lược mà không thèm báo trước với Washington. Khi Mỹ
đối đầu với Trung Quốc về các quần đảo Kim Môn và Mã Tổ[5], chính quyền Eisenhower đã cố gắng nhưng không đạt được sự ủng hộ của các đồng minh Châu Âu, khiến John Foster Dulles[6] lo
ngại rằng NATO “đang bắt đầu tan rã”. Đến cuối thập niên 1950, Mao tin
rằng Mỹ là một siêu cường quốc đang suy tàn, “e ngại không dám tham gia
và những công cuộc ở Thế giới Thứ ba và ngày càng không có khả năng duy
trì bá quyền của họ đối với các nước tư bản”.
THẾ CÒN “sức mạnh mềm” thì sao? Chẳng phải đúng như nhà chính trị học Joseph S. Nye Jr.[7]đã
nhận định rằng Mỹ trước đây đã có thể “đạt điều mình muốn trên thế
giới” nhờ “những giá trị được biểu hiện” bằng văn hóa Mỹ như phản ánh
qua truyền hình, điện ảnh và âm nhạc, và nhờ tính hấp dẫn của những
chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ hay sao? Những yếu tố này của sức
mạnh mềm đã khiến những dân tộc khác trên thế giới muốn theo gương Mỹ,
“ngưỡng mộ những giá trị của Mỹ, noi gương Mỹ, mong ước đạt được mức độ
thịnh vượng và cởi mở của Mỹ”.
Một
lần nữa, sự thật lịch sử phức tạp hơn thế. Trong ba thập niên đầu tiên
sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, nhiều nơi trên thế giới không ngưỡng
mộ Mỹ mà cũng không muốn noi gương Mỹ, và không đặc biệt hài lòng với
cách hành xử của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Phải, đúng là truyền thông
Mỹ truyền bá văn hóa Mỹ, nhưng họ truyền bá những hình ảnh không phải
lúc nào cũng tâng bốc Mỹ. Trong những năm 1950, thế giới có thể xem
những hình ảnh được truyền hình về chuyện Joseph McCarthy[8] và
cuộc truy lùng người cộng sản trong Bộ Ngoại giao và Hollywood. Phim Mỹ
mô tả kiểu tuân thủ tư bản cứng nhắc đến ngột ngạt của văn hóa doanh
nghiệp Mỹ mới. Những tiểu thuyết ăn khách nhất như The Ugly American (Người Mỹ xấu xí)
khắc họa tính cách hung hăng và thô lỗ của người Mỹ. Trong thập niên
1950 và 1960 có những cuộc đấu tranh về nạn phân biệt chủng tộc, những
hình ảnh được truyền đi khắp thế giới cho thấy người da trắng nhổ nước
bọt vào học sinh da đen và cảnh sát thả chó tấn công những người da đen
biểu tình. (Cái này cũng là “trước đây chúng ta cũng vậy”.) Nạn phân
biệt chủng tộc của nước Mỹ đã thực sự “hủy hoại” hình ảnh Mỹ trên toàn
cầu, như Dulles lo ngại, đặc biệt ở những nước gọi là Thế giới Thứ ba.
Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 có những cuộc bạo động Watts[9], các vụ ám sát Martin Luther King Jr. và Robert Kennedy, vụ bắn người ở Đại học Kent State[10],
rồi vụ xì căng đan Watergate làm rúng chuyển chính quyền. Đó không phải
là những kiểu hình ảnh có thể khiến thế giới yêu mến Mỹ, bất luận có
bao nhiêu bộ phim Jerry Lewis và Woody Allen được chiếu tại những rạp
chiếu bóng ở Paris.
Phần
lớn thế giới cũng không thấy chính sách đối ngoại của Mỹ đặc biệt hấp
dẫn trong những năm đó. Eisenhower mong ước “khiến một số người ở những
quốc gia bị áp bức này yên mến chúng ta, chứ không phải thù ghét chúng
ta”, nhưng những vụ lật đổ Mohammed Mossadegh ở Iran và Jacobo Arbenz ở
Guatemala với bàn tay đạo diễn của CIA không giúp ích gì. Năm 1957,
người biểu tình tấn công đoàn xe hộ tống phó tổng thống Mỹ ở Venezuela,
hô lớn “Nixon, cút về nước!” “Đồ chó, xéo đi!” “Chúng tôi sẽ không quên
Guatemala!” Năm 1960, Khrushchev hạ nhục Eisenhower bằng cách hủy bỏ một
hội nghị thượng đỉnh khi một máy bay do thám của Mỹ bị bắn hạ trên bầu
trời Nga. Cuối năm đó, trên đường đi thăm “thiện chí” Tokyo, Eisenhower
buộc phải cho máy bay quay về giữa chừng khi chính quyền Nhật cảnh báo
là họ không thể đảm bảo cho an ninh của ông trước những sinh viên biểu
tình chống “chủ nghĩa đế quốc” Mỹ.
Những
đảng viên Đảng Dân chủ kế tục Eisenhower cũng chẳng khá hơn. John F.
Kennedy và vợ ông được yêu mến một thời gian, nhưng hào quang của Mỹ
phai tàn sau khi ông bị ám sát. Việc Lyndon Johnson xâm lăng Cộng hòa
Dominic vào năm 1965 bị nhiều người lên án không chỉ ở Mỹ La tinh mà còn
bởi các đồng minh Châu Âu. De Gaulle cảnh báo giới chức Mỹ rằng Mỹ,
giống như “tất cả những nước đã có sức mạnh vượt trội”, đã đi đến chỗ
“tin rằng vũ lực sẽ giải quyết mọi thứ” và sẽ sớm hiểu ra rằng “không
đúng” như vậy. Rồi sau đó tất nhiên phải kể đến Việt Nam – sự tàn phá,
những cảnh bom napan, vụ thảm sát Mỹ Lai, cuộc xâm nhập bí mật vào
Campuchia, đợt đánh bom Hà Nội, và cảm nhận chung về một siêu cường quốc
thực dân phương Tây trấn áp buộc một quốc gia nhỏ nhưng ngang ngạnh ở
Thế giới Thứ ba quy phục. Khi Hubert Humphrey, phó tổng thống của
Johnson thăm Tây Berlin vào năm 1967, trung tâm văn hóa Mỹ bị tấn công,
hàng ngàn sinh viên biểu tình phản đối những chính sách của Mỹ, và có
nhiều tin đồn về những âm mưu ám sát. Năm 1968, khi hàng triệu thanh
niên Châu Âu xuống đường, họ không bày tỏ lòng ngưỡng mộ văn hóa Mỹ.
Đại
đa số các quốc gia trên thế giới cũng đã không cố gắng noi gương hệ
thống Mỹ. Trong những thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, nhiều người
thích thú những nền kinh tế do nhà nước kiểm soát của Liên Xô và Trung
Quốc, những nền kinh tế đó dường như hứa hẹn tăng trưởng mà không có
những vấn đề rối beng của dân chủ. Nền kinh tế của các nước khối Xô Viết
đã có tỉ lệ tăng trưởng cao bằng tỉ lệ ở phương Tây trong phần lớn thời
kỳ này, chủ yếu là nhờ việc phát triển mạnh công nghiệp nặng do nhà
nước chỉ đạo. Theo Allen Dulles, giám đốc CIA, nhiều lãnh tụ ở Thế giới
Thứ ba tin rằng hệ thống Xô Viết “có thể mang lại nhiều kết quả nhanh
chóng hơn hệ thống Mỹ”. Những nhà độc tài như Nasser của Ai Cập và
Sukarno của Indonesia thấy mô hình nhà nước đóng vai trò chủ đạo đặc
biệt hấp dẫn, mà cả Nehru của Ấn Độ cũng thấy vậy. Giới lãnh đạo Phong
trào Không Liên kết mới nổi lên – gồm Nehru, Nasser, Tito, Sukarno,
Nkrumah – chẳng hề tỏ vẻ khâm phục những đường lối của Mỹ.
Tuy
nhiên, sau khi Stalin chết, cả Liên Xô và Trung Quốc đua tranh khốc
liệt với nhau để thu phục Thế giới Thứ ba, tiến hành “những chuyến công
du thiện chí” và thực hiện những chương trình viện trợ của chính họ.
Eisenhower nghĩ rằng “đường lối mới của Cộng sản tỏ vẻ hữu hảo thân
thiện có lẽ nguy hiểm hơn sự tuyên truyền của họ dưới thời Stalin”. Các
chính quyền Eisenhower, Kennedy, và Johnson thường xuyên lo lắng về
chiều hướng thiên tả của những nước này, và vung tiền viện trợ phát
triển cho họ với hy vọng giành được cảm tình của họ. Các vị tổng thống
này hiểu ra rằng viện trợ tuy được các nước hồ hởi đón nhận nhưng chẳng
bảo đảm rằng họ sẽ trung thành hay cảm kích. Một kết quả của tình trạng
thù địch của Thế giới Thứ ba là Mỹ dần dần đánh mất ảnh hưởng ở Liên
Hiệp Quốc sau năm 1960. Từng là nơi cuộc chiến của Mỹ ở Triều Tiên được
hợp thức hóa, từ thập niên 1960 đến lúc kết thúc Chiến tranh Lạnh, Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc trở thành một diễn đàn để các nước bày tỏ tinh
thần bài Mỹ.
Vào
cuối thập niên 1960, Henry Kissinger tuyệt vọng về tương lai. “Tình
trạng sức mạnh ngày càng chia nhỏ, sự phân tán ngày càng rộng của hoạt
động chính trị, và những mẫu hình phức tạp hơn của xung đột và liên kết
quốc tế”, ông viết cho Nixon, đã giảm đáng kể năng lực của cả hai siêu
cường quốc trong việc gây ảnh hưởng đến “những hành động của các chính
phủ khác”. Và trong thập niên 1970 tình hình chỉ dường như càng khó khăn
hơn. Mỹ bại trận rút lui khỏi Việt Nam, và thế giới theo dõi sự từ chức
đầu tiên trong lịch sử của một tổng thống Mỹ sa lầy trong xì căng đan.
Và rồi, có lẽ cũng quan trọng như tất cả những biến cố khác, giá dầu thế
giới tăng cao ngất ngưỡng.
VẤN
ĐỀ GIÁ DẦU TĂNG CAO cho thấy một khó khăn mới: Mỹ không có khả năng gây
ảnh hưởng thực sự ở Trung Đông. Hiện nay người ta xem việc Mỹ không
giúp được người Israel và người Palestine đi đến một cách dàn xếp thông
qua đàm phán, hoặc không quản được làn sóng nổi dậy Mùa xuân Ả rập đầy
biến động, như một dấu hiệu thể hiện sự yếu kém và suy tàn. Nhưng vào
năm 1973, Mỹ thậm chí không thể ngăn chặn các cường quốc ở Trung Đông
tham gia vào chiến tranh toàn lực. Khi Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công
Israel, Washington cũng bị bất ngờ. Mỹ rốt cuộc phải vào tình trạng báo
động hạt nhân để ngăn cản sự can thiệp của Liên Xô vào cuộc xung đột
này. Cuộc chiến tranh đó đã dẫn đến cấm vận dầu hỏa, sự thành lập OPEC
như một thế lực quan trọng trong các vấn đề quốc tế, và sự đột ngột khám
phá ra rằng, theo lời của sử gia Daniel Yergin, “bản thân Mỹ giờ đây
rốt cuộc cũng dễ bị tổn thương”. “Siêu cường quốc hàng đầu của thế giới”
đã bị “một vài nước nhỏ đẩy vào thế phòng thủ và hạ nhục”. Nhiều người
Mỹ “lo sợ rằng sắp đến hồi kết thúc của một kỷ nguyên”.
Trong
thập niên 1970, giá dầu tăng mạnh, cộng với những chính sách kinh tế
của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã đẩy nền kinh tế Mỹ vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Tổng sản phẩm quốc dân giảm 6 phần trăm từ năm
1973 đến 1975. Tỉ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi từ 4,5 phần trăm lên đến 9
phần trăm. Người Mỹ lâm cảnh khốn khổ phải xếp hàng mua xăng, và chịu
đựng hiện tượng kinh tế mới gọi là đình lạm (stagflation), tức là kinh
tế vừa đình trệ vừa có lạm phát cao. Nền kinh tế Mỹ trải qua ba cuộc suy
thoái trong thời kỳ từ 1973 đến 1982. “Cuộc khủng hoảng năng lượng” đối
với người Mỹ thời đó cũng như “cuộc khủng hoảng tài khóa” hiện nay.
Trong bài phát biểu với nước Mỹ được truyền hình đầu tiên của mình, tổng
thống Jimmy Carter gọi đó là “thách thức lớn nhất mà đất nước chúng ta
đối mặt trong cuộc đời chúng ta”. Điều đặc biệt đáng tủi nhục là cuộc
khủng hoảng này bị gây ra một phần bởi hai đồng minh thân thiết của Mỹ
là hoàng gia Ả rập Saudi và Quốc vương Iran. Như Carter kể lại trong hồi
ký của ông, người Mỹ “vô cùng phẫn nộ vì quốc gia vĩ đại nhất trên thế
giới đã bị một vài nhà nước sa mạc lật lọng”.
Thời
điểm xấu nhất của Mỹ là năm 1979, khi Quốc vương Iran bị lật đổ, cách
mạng Hồi giáo cực đoan do Ayatollah Khomeini lãnh đạo lên cầm quyền, và
năm mươi hai người Mỹ bị bắt làm con tin và bị giam giữ trong hơn một
năm. Theo quan sát của Yergin, cuộc khủng hoảng con tin “đã truyền đạt
một thông điệp mạnh mẽ: rằng sự dịch chuyển sức mạnh trong thị trường
dầu thế giới vào thập niên 1970 chỉ là một phần trong một màn kịch lớn
hơn đang diễn ra trong sân khấu chính trị thế giới. Thông điệp đó dường
như muốn nói rằng Mỹ và phương Tây quả thực đang suy tàn, đang ở thế
phòng thủ, và có vẻ như không thể làm được gì để bảo vệ những lợi ích
của họ, dù là lợi ích kinh tế hay chính trị”.
NẾU
AI MUỐN đưa ra luận cứ chứng minh Mỹ suy tàn, thì thập niên 1970 có lẽ
là thời điểm để làm điều đó; và nhiều người đã làm vậy. Theo Kissinger,
Mỹ rõ ràng “đã qua đỉnh cao lịch sử của mình giống như quá nhiều nền văn
minh trước kia … Mỗi nền văn minh từng tồn tại rốt cuộc rồi cũng sụp
đổ. Lịch sử là một câu chuyện về những nỗ lực đã thất bại”. Chính thập
niên 1970 là thời kỳ nền kinh tế Mỹ đánh mất vị thế hàng đầu áp đảo của
mình, khi thặng dư thương mại của Mỹ bắt đầu biến thành thâm hụt thương
mại, khi chi tiêu cho các khoản trợ cấp chính phủ và các chương trình
phúc lợi xã hội đã tăng vọt, khi dự trữ vàng và tiền tệ của Mỹ cạn kiệt.
Những
khó khăn kinh tế đưa đến tình trạng mất an ninh về chính trị và chiến
lược. Thứ nhất là xuất hiện niềm tin cho rằng trào lưu lịch sử đang
thuận cho Liên Xô. Bản thân giới lãnh đạo Liên Xô tin rằng “sự tương
quan của các thế lực” thuận lợi cho chủ nghĩa cộng sản; việc Mỹ bại trận
và rút quân khỏi Việt Nam khiến giới chức Liên Xô, lần đầu tiên, tin
rằng họ có thể thực sự “thắng lợi” trong cuộc đấu tranh Chiến tranh Lạnh
dai dẳng. Một thập niên sau, vào năm 1987, Paul Kennedy mô tả cả hai
siêu cường quốc này đang chịu tác hại của “tầm ảnh hưởng đế quốc dàn
trải quá rộng” (imperial overstretch), nhưng cho rằng hoàn toàn có khả
năng Mỹ sẽ sụp đổ trước, tiếp nối một truyền thống lịch sử lâu đời của
những đế chế kiệt quệ và khánh tận. Mỹ là tự làm mình lụn bại do chi
tiêu quá nhiều vào quốc phòng và đảm nhận quá nhiều trách nhiệm toàn cầu
ở những nơi xa xăm. Nhưng chỉ trong vòng hai năm Bức tường Berlin sập
đổ, và hai năm sau đó đến lượt Liên Xô sụp đổ. Sự suy tàn hóa ra lại
diễn ra ở nơi khác.
RỒI
PHẢI KỂ ĐẾN nền kinh tế kỳ diệu của Nhật. “Sự vươn lên của phần còn
lại” bắt đầu vào cuối thập niên 1970 và tiếp tục trong một thâp niên
rưỡi tiếp theo, khi Nhật, cùng với “những con hổ Châu Á” khác (Nam Triều
Tiên, Singapore, và Đài Loan) dường như bắt đầu làm lu mờ Mỹ về mặt
kinh tế. Năm 1989, nhà báo James Fallows nhận định rằng nền kinh tế do
nhà nước chỉ đạo của Nhật rõ ràng ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản thị
thường tự do của Mỹ, và chắc chắn sẽ qua mặt kinh tế Mỹ. Nhật có triển
vọng thành siêu cường quốc tiếp theo. Trong khi Mỹ tự làm mình khánh tận
do tham gia Chiến tranh Lạnh, người Nhật bận rộn với việc gom hết mọi
món lợi. Như nhà phân tích Chalmers Johnson nhận định vào năm 1995,
“Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và Nhật đã thắng”. Thậm chí ngay khi
Johnson viết những lời này, kinh tế Nhật đang sa vào vòng xoáy trượt dài
vào một thời kỳ đình trệ mà đến nay Nhật vẫn chưa hồi phục được.
Liên
Xô nay đã biến mất, còn Trung Quốc chưa thể hiện được sức mạnh lâu bền
của sự bùng nổ kinh tế, Mỹ bỗng nhiên dường như là “siêu cường quốc độc
nhất” của thế giới”. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, thật đáng lưu ý là Mỹ
cũng không thành công khi xử lý nhiều vấn đề toàn cầu nghiêm trọng.
Người Mỹ thắng Chiến tranh Vùng Vịnh, mở rộng NATO về hướng đông, cuối
cùng đã mang lại hòa bình cho vùng Balkan, sau khi quá nhiều máu đã đổ,
và, trong phần lớn thập niên 1990, khiến nhiều nước trên thế giới chấp
nhận “đồng thuận Washington” về kinh tế học – nhưng một số thành công
này bắt đầu hết tác dụng, và đi kèm với những thất bại cũng không kém
phần quan trọng. Đồng thuận Washington bắt đầu sụp đổ với cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997, trong đó những toa thuốc của Mỹ bị nhiều người
xem là sai lầm và gây tác hại. Mỹ thất bại trong việc ngừng hay thậm
chí trì hoãn đáng kể những chương trình vũ khí hạt nhân của bắc Triều
Tiên và Iran, dù nhiền lần tuyên bố ý định làm như vậy. Chế độ trừng
phạt áp đặt lên Iraq của Saddam Hussein tỏ ra vô ích, và đến cuối thập
niên đó đã sụp đổ. Mỹ, và thế giới, chẳng làm gì để ngăn chặn nạn diệt
chủng ở Rwanda, một phần là do một năm trước đó Mỹ đã bị đẩy ra khỏi
Somalia sau một đợt can thiệp quân sự thất bại. Một trong những công
cuộc quan trọng nhất của Mỹ trong thập niên 1990 là nỗ lực hỗ trợ tiến
trình chuyển tiếp sang dân chủ và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do ở
nước Nga hậu Xô viết. Nhưng mặc dù cấp hàng tỉ đô-la và đóng góp vô vàn
lời tư vấn và ý kiến chuyên môn, Mỹ thấy diễn biến tình hình ở Nga một
lần nữa vuột ra khỏi tầm kiểm soát của mình.
Ngay
cả trong giai đoạn được xem là thời hoàng kim của vị thế thống lĩnh thế
giới, giới lãnh đạo Mỹ cũng chẳng thành công trong việc giải quyết vấn
đề Israel-Palestine hơn là bao so với hiện nay. Thậm chí với một nền
kinh tế bùng nổ và một tổng thống được nhiều người yêu mến nỗ lực hết
mình để đạt được một giải pháp, chính quyền Clinton cũng trắng tay. Như
cựu chuyên gia đàm phán hòa bình Trung Đông Aaron David Miller nhớ lại,
Bill Clinton “quan tâm đến và đầu tư nhiều thời gian và sức lực cho hòa
bình Ả rập-Israel trong thời gian dài hơn bất cứ vị tiền nhiệm nào”, và
được cả Israel lẫn Palestine khâm phục và đánh giá cao – thế nhưng ông
đã tổ chức “ba hội nghị thượng đỉnh trong vòng sáu tháng và lần nào cũng
thất bại”. Nhiệm kỳ của Clinton kết thúc với sự sụp đổ của những cuộc
thương thảo hòa bình và sự bắt đầu của cuộc khởi nghĩa Palestine lần thứ
hai [chống Israel].
Thậm
chí trong thập niên 1990 Mỹ cũng chưa chắc chiếm được cảm tình của thế
giới. Năm 1999, Samuel P. Huntington gán cho Mỹ danh hiệu “siêu cường
quốc đơn độc”, bị thù ghét ở nhiều nơi trên địa cầu vì hành vi “có tính
xâm phạm, can thiệp, lợi dụng, đơn phương, bá quyền, đạo đức giả”. Ngoại
trưởng Pháp lên án “siêu cường quốc cực đoan”(hyperpower) và công khai
mong ước một thế giới “đa cực” trong đó Mỹ không còn thống lĩnh nữa. Một
nhà ngoại giao Anh nói với Huntington: “Chỉ ở Mỹ người ta mới thấy thế
giới mong muốn vai trò lãnh đạo của Mỹ. Ở tất cả những nơi khác người ta
thấy Mỹ ngạo mạn và hành động đơn phương.”
ĐIỀU
ĐÓ HẲN NHIÊN là vô lý. Trái với nhận định của nhà ngoại giao Anh, nhiều
nước khác quả thực đã mong Mỹ đóng vai trò lãnh đạo, mong được Mỹ bảo
vệ và ủng hộ, trong thập niên 1990 và trong suốt thời Chiến tranh Lạnh.
Vấn đề không phải là Mỹ luôn luôn thiếu ảnh hưởng toàn cầu. Kể từ sau
Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ quả thực là cường quốc thống lĩnh trên
thế giới. Mỹ gây ảnh hưởng lớn lao, lớn hơn bất cứ cường quốc nào kể từ
thời La Mã, và Mỹ đã đạt nhiều thành tựu. Nhưng Mỹ không phải là toàn
năng – còn lâu mới được vậy. Nếu muốn đánh giá chính xác liệu Mỹ hiện có
đang suy tàn hay không, ta cần có một chuẩn mực hợp lý để dựa vào đó mà
đo lường. So sánh ảnh hưởng của Mỹ ngày nay với vị thế thống lĩnh vượt
trội trong một quá khứ hoang đường chỉ có thể khiến ta lầm lạc mà thôi.
Ngày
nay Mỹ thiếu khả năng đạt được ý muốn của mình về nhiều vấn đề, nhưng
điều này cũng không ngăn cản Mỹ đạt nhiều thành công, cũng như chịu
nhiều thất bại, như trong quá khứ. Tuy còn gây tranh cãi, Mỹ đã thành
công ở Iraq hơn ở Việt Nam trước đây. Mỹ xưa nay không thể kiềm chế
những tham vọng hạt nhân của Iran, hiện nay cũng như trong thập niên
1990, nhưng bằng nỗ lực của hai đời tổng thống, Mỹ đã thiết lập một mạng
lưới chống phổ biến hạt nhân toàn cầu hữu hiệu hơn. Những nỗ lực của Mỹ
nhằm loại trừ và tiêu diệt Al Qaeda đã thành công đáng kể, đặc biệt nếu
so với những thất bại trong việc tiêu diệt những mạng lưới khủng bố và
ngăn chặn những vụ tấn công khủng bố trong thập niên 1990 – những thất
bại với đỉnh điểm là các vụ khủng bố 11/9. Khả năng sử dụng máy bay
không người lái là một bước tiến về các loại vũ khí – tên lửa tầm thấp
điều khiển từ xa và các vụ oanh tạc – đã được dùng để tấn công bọn khủng
bố và các cơ sở của chúng trong những thập niên trước. Trong khi các
liên minh của Mỹ ở Châu Âu vẫn còn vững vàng, chắc chắn không phải lỗi
của Mỹ khi bản thân Châu Âu dường như yếu hơn trước đây. Các liên minh
của Mỹ ở Châu Á có thể nói lớn mạnh hơn trong vài năm qua, và Mỹ củng cố
được quan hệ với Ấn Độ vốn trước đây có căng thẳng.
Vậy
là có thành có bại, nhưng xưa nay vẫn có thành có bại như vậy. Mỹ có
lúc có ảnh hưởng nhiều hơn hiện nay, có lúc có ít ảnh hưởng hơn. Việc
gây ảnh hưởng luôn là một cuộc đấu tranh; điều đó có thể giải thích tại
sao trong từng thập niên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới Thứ
hai, người Mỹ lại lo lắng về ảnh hưởng giảm sút của họ và bồn chồn theo
dõi khi những cường quốc khác dường như đang vươn lên làm ảnh hưởng tới
vị thế của Mỹ. Việc định hình môi trường quốc tế ở bất kỳ thời kỳ nào
cũng vô cùng gian truân. Hiếm có cường quốc nào thậm chí cố gắng làm
điều đó, và ngay cả quốc gia hùng mạnh nhất ít khi đạt được tất cả hay
thậm chí phần lớn những mục tiêu của họ. Chính sách đối ngoại giống như
đánh bóng chày: nếu ta đánh 10 lần mà trật 7 lần, thì cũng đủ để tên
tuổi ta được đưa vào Nhà Lưu Danh.
III.
Những
thách thức hiện nay rất lớn, và sự vươn lên của Trung Quốc là thách
thức hiển nhiên nhất. Nhưng chúng cũng không lớn hơn những thách thức mà
Mỹ gặp phải trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ khi hồi tưởng lại mới thấy
Chiến tranh Lạnh có vẻ dễ dàng. Người Mỹ vào cuối Chiến Tranh Thế giới
Thứ hai đối mặt với một cuộc khủng hoảng chiến lược quan trọng. Liên Xô,
nếu chỉ xét về quy mô và địa thế của họ, dường như đe dọa những trung
tâm chiến lược ở Châu Âu, Trung Đông, và Đông Á. Ở tất cả những vùng
này, Liên Xô đối đầu với những quốc gia điêu tàn và kiệt quệ vì chiến
tranh. Để giải quyết thách thức này, Mỹ đã phải vận dụng sức mạnh của
chính mình, tuy lớn nhưng cũng hạn chế, vào mỗi vùng đó. Mỹ đã phải
thành lập các liên minh với những quyền lực địa phương, một số trong đó
là kẻ thù cũ, và hỗ trợ về kinh tế, chính trị, và quân sự để giúp họ
đứng vững trên đôi chân của mình và chống lại sức ép của Liên Xô. Trong
Chiến tranh Lạnh, Liên Xô gây ảnh hưởng và tạo áp lực đối với những lợi
ích của Mỹ chỉ bằng cách ngồi yên, trong khi Mỹ phải tất tả ngược xuôi.
Nên nhớ rằng chiến lược “ngăn chặn” (containment) này tuy hiện nay được
đề cao nhờ thành công rõ rệt của nó nhưng vào thời đó bị một số nhà quan
sát có ảnh hưởng chê là hoàn toàn không có tác dụng. Walter Lippmann
chỉ trích chiến lược đó là “sai lầm”, dựa trên “hy vọng”, nhường “thế
chủ động chiến lược” cho Liên Xô trong khi Mỹ dốc hết nguồn lực của mình
để cố gắng thiết lập “những nhà nước chư hầu, những chính phủ bù nhìn”
yếu kém, không hữu hiệu, và không đáng tin cậy.
Hiện
nay, trong trường hợp Trung Quốc, tình thế đã đảo ngược. Mặc dù Trung
Quốc hiện đang và sẽ giàu hơn nhiều, và sẽ gây ảnh hưởng kinh tế trên
thế giới lớn hơn ảnh hưởng mà Liên Xô từng có. Chiến tranh Thế giới Thứ
hai đã đẩy Trung Quốc vào một vị thế tương đối yếu mà từ đó Trung Quốc
đã và đang cố gắng hết sức để hồi phục. Nhiều nước láng giềng của Trung
Quốc là những quốc gia mạnh có quan hệ gần gũi với Mỹ. Trung Quốc sẽ khó
trở thành một nước bá quyền trong khu vực chừng nào Đài Loan vẫn còn
độc lập và có quan hệ chiến lược với Mỹ, và chừng nào những cường quốc
trong khu vực như Nhật, Hàn Quốc và Úc tiếp tục có quân Mỹ đồn trú và
còn căn cứ quân sự của Mỹ. Trung Quốc sẽ cần ít nhất vài đồng minh mới
mong có cơ hội đẩy Mỹ ra khỏi thành trì của Mỹ ở tây Thái Bình Dương,
nhưng ngay bây giờ chính Mỹ mới là nước có những đồng minh đó. Chính Mỹ
hiện có quân triển khai ở những căn cứ tiền đồn. Chính Mỹ hiện chiếm thế
thống lĩnh hải quân ở những vùng biển và đường thủy mà hoạt động thương
mại của Trung Quốc phải đi qua. Nhìn tổng thể, với tư cách là một đại
cường quốc đang vươn lên, nhiệm vụ của Trung Quốc (đẩy Mỹ ra khỏi vị thế
hiện tại), khó khăn hơn nhiều so với nhiệm vụ của Mỹ (chỉ cần duy trì
vị thế mình đang có).
Liệu
Mỹ có thể làm vậy hay không? Với tâm trạng bi quan hiện nay, một số
người Mỹ nghi ngờ khả năng đó. Thực vậy, họ ngờ vực liệu Mỹ có đủ khả
năng tiếp tục đóng vai trò thống lĩnh ở bất cứ nơi nào trên thế giới như
đã từng trong quá khứ. Có người lập luận rằng tuy có thể đã không đúng
hồi năm 1987, lời cảnh báo của Paul Kennedy về “tầm ảnh hưởng đế quốc
dàn trải quá rộng” (imperial overstretch) mô tả chính xác hiện trạng bất
ổn của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài khóa, hệ thống chính trị bế tắc, những
vấn nạn khác nhau của xã hội Mỹ (trong đó có tình trạng mức lương dậm
chân tại chỗ, bất bình đẳng thu nhập), những nhược điểm của hệ thống
giáo dục, cơ sở hạ tầng xuống cấp – tất cả những vấn đề này hiện nay
được xem là những nguyên nhân tại sao Mỹ cần cắt giảm hoạt động quốc tế,
rút lui bớt từ một số cam kết ở nước ngoài, tập trung vào việc “xây
dựng đất nước ở quốc nội”, chứ đừng cố gắng tiếp tục định hình thế giới
như đã từng trong quá khứ.
MỘT
LẦN NỮA, những giả định phổ biến này gần được cân nhắc ít nhiều. Trước
hết, Mỹ đã “dàn trải quá rộng” đến đâu? Câu trả lời là, xét về mặt lịch
sử, không hề quá rộng như thoạt tưởng. Thử xét đến vấn đề dễ hiểu là số
quân mà Mỹ triển khai ở nước ngoài. Theo dõi cuộc tranh luận hiện nay,
ta có thể tưởng rằng số quân Mỹ tham gia các hoạt động ở nước ngoài
nhiều hơn bao giờ hết. Nhưng còn lâu mới đúng như vậy. Năm 1953, Mỹ có
gần một triệu quân triển khai ở nước ngoài – 325.000 tham chiến ở Triều
Tiên và 600.000 đồn trú ở Châu Âu, Châu Á, và những vùng khác. Năm 1968,
Mỹ có hơn một triệu quân ở nước ngoài – 537.000 ở Việt Nam và thêm một
nửa triệu quân đóng ở những nơi khác. Trái lại, vào mùa hè 2011, vào lúc
cao trào của số quân triển khai trong hai cuộc chiến của Mỹ, có khoảng
200.000 quân tham chiến ở Iraq và Afghanistan tính chung, và khoảng
160.000 quân đóng ở Châu Âu và Đông Á. Tính chung, và bao gồm những lực
lượng khác đóng trên khắp thế giới, có khoảng 500.000 triển khai ở nước
ngoài. Con số này thậm chí còn thấp hơn những đợt triển khai thời bình
trong Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, năm 1957, có hơn 750.000 quân đóng ở nước
ngoài. Thời gian mười năm từ khi đế chế Xô viết sụp đổ cho đến lúc xảy
ra những vụ khủng bố 11/9 là giai đoạn duy nhất mà con số những lực
lượng triển khai ở nước ngoài thấp hơn hiện nay. Phép so sánh này càng
tương phản hơn nếu ta xét đến mức gia tăng dân số của Mỹ. Khi Mỹ có một
triệu quân triển khai ở nước ngoài vào năm 1953, tổng dân số của Mỹ chỉ
là 160 triệu. Hiện nay, khi có nửa triệu quân triển khai ở nước ngoài,
dân số Mỹ là 313 triệu. Đất nước có số dân đông gấp đôi, với số quân
triển chỉ bằng một nửa so với 50 năm trước.
Vậy
còn phí tổn tài chính thì sao? Nhiều người hình như tin rằng chi phí
của những đợt triển khai này, và của các lực lượng vũ trang nói chung,
là một yếu tố chính góp phần làm tăng vọt những khoản thâm hụt ngân sách
đe dọa đến khả năng trả nợ của nền kinh tế quốc dân. Nhưng điều này
cũng không đúng. Theo nhận định của nguyên giám đốc cơ quan ngân sách Mỹ
Alice Rivlin, những dự báo đáng sợ về thâm hụt trong tương lai không
phải là do “chi tiêu quốc phòng gia tăng”, huống gì là do chi tiêu cho
viện trợ nước ngoài. Những khoản thâm hụt bất kham dự báo cho những năm
sắp đến chủ yếu là kết quả của chi tiêu phân bổ bắt buộc theo luật định
(entitlement spending) ngày càng nhiều. Ngay cả những khoản cắt giảm
mạnh tay nhất về ngân sách quốc phòng cũng chỉ tiết kiệm được từ 50 tỉ
đến 100 tỉ đô-la mỗi năm, một tỉ lệ nhỏ – từ 4 đến 8 phần trăm – trong
con số 1,5 ngàn tỉ đô-la thâm hụt hàng năm mà Mỹ đang đương đầu.
Năm
2002, khi Paul Kennedy sửng sốt về việc Mỹ vẫn còn khả năng duy trì vị
thế “siêu cường quốc độc nhất của thế giới với giá rẻ”, Mỹ chi tiêu
khoảng 3,4 phần trăm GDP cho quốc phòng. Hiện nay, mức chi tiêu đó thấp
hơn 4 phần trăm một chút, và trong những năm sắp đến, con số đó có thể
lại giảm xuống – vẫn còn “rẻ” theo các chuẩn mực trong lịch sử. Chi phí
cho việc duy trì sức mạnh thống lĩnh thế giới không đến nỗi đắt quá.
Ngoài
ra, nếu ta thật sự nghiêm túc về chuyện hạch toán này, chi phí của việc
duy trì vị thế đó không thể đo lường được nếu không xét đến chi phí của
việc đánh mất vị thế đó. Tất nhiên, trong những chi phí của việc giảm
vai trò của Mỹ trên thế giới, có những chi phí không thể định lượng
được. Nếu người Mỹ được sống trong một thế giới với chủ yếu là các nước
dân chủ, thay vì các chế độ chuyên quyền, thì điều đó có giá trị ra sao
đối với người Mỹ? Nhưng một số trong những chi phí khả dĩ này có thể đo
lường được, nếu như có người muốn thử. Nếu sự suy tàn của sức mạnh quân
sự Mỹ dẫn đến sự tan rã trật tự kinh tế quốc tế mà sức mạnh Mỹ từ trước
đến nay đã giúp duy trì; nếu những con đường mậu dịch và đường thủy
không còn an toàn như trước, vì Hải quân Mỹ không còn khả năng bảo vệ
chúng; nếu những cuộc chiến tranh khu vực bùng nổ giữa các đại cường
quốc vì họ không còn bị siêu cường Mỹ chế ngự; nếu những đồng minh của
Mỹ bị tấn công vì Mỹ tỏ ra không còn khả năng ứng cứu bảo vệ cho họ; nếu
bản chất nhìn chung tự do và cởi mở của hệ thống quốc tế trở nên bớt tự
do và cởi mở – nếu tất cả những điều này xảy ra, thì sẽ có những chi
phí có thể đo lường được. Và cũng chẳng phải viển vông nếu hình dung
rằng những chi phí này sẽ lớn hơn nhiều so với những khoản tiết kiệm thu
được nhờ cắt giảm 100 tỉ đô-la mỗi năm trong ngân sách quốc phòng và
ngân sách viện trợ nước ngoài. Ta có thể tiết kiệm bằng cách mua xe cũ
không có bảo hành và không có một số đặc tính an toàn, nhưng chuyện gì
xảy ra nếu ta bị tai nạn? Sức mạnh quân sự Mỹ giảm rủi ro xảy ra các tai
nạn bằng cách ngăn cản xung đột, và giảm chi phí của các tai nạn thực
sự xảy ra bằng cách giảm xác suất thua trận. Những khoản tiết kiệm này
cũng cần được đưa vào phép tính. Chỉ riêng về khía cạnh tài chính, việc
duy trì hoạt động quốc tế của Mỹ ở mức độ hiện tại có thể rẻ hơn nhiêu
so với việc giảm bớt hoạt động đó.
CÓ
LẼ MỐI QUAN NGẠI lớn nhất đằng sau tâm lý lo sợ suy tàn hiện diện trên
khắp đất nước hiện nay không hẳn là liệu Mỹ có đủ khả năng đảm nhận vai
trò của mình trên thế giới hay không. Mà là liệu người Mỹ có giải quyết
được vấn đề nào trong những khó khăn kinh tế và xã hội cấp bách nhất của
họ. Như nhiều chính khách và bình luận viên đã hỏi, liệu người Mỹ có
thể làm điều cần phải làm để cạnh tranh hiệu quả trên thế giới trong thế
kỷ 21 hay không?
Câu
trả lời trung thực là: ai mà biết được? Tuy nhiên, nếu lấy lịch sử Mỹ
làm chỉ dẫn, chí ít cũng có lý do để hy vọng. Người Mỹ trước kia từng có
cảm giác bất an này, và nhiều thế hệ trước đây cũng đã có cảm tưởng
đánh mất sức sống mãnh liệt và mất hiệu lực: như hồi năm 1788, Patrick
Henry[11] than
vãn về chuyện đất nước sa sút từ vinh quang trong quá khứ, “khi tinh
thần Mỹ đang ở thời thanh xuân”. Trong hai thế kỷ qua đã có nhiều lần hệ
thống chính trị trở nên vô dụng, bế tắc đến tuyệt vọng, và dường như
không thể tìm ra các giải pháp những vấn nạn trầm trọng của quốc gia –
từ nạn nô lệ và rồi thời kỳ Tái thiết sau Nội chiến, đến những xáo trộn
về công nghiệp hóa vào cuối thế kỷ 19 và cuộc khủng hoảng phúc lợi xã
hội trong cuộc Đại Khủng hoảng, đến những hỗn loạn và tâm lý hoang tưởng
trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh. Bất cứ ai trung thực nhớ lại
thập niên 1970, với vụ Watergate, cuộc chiến Việt Nam, kinh tế vừa đình
trệ vừa lạm phát cao, và khủng hoảng năng lượng, không thể thực sự tin
rằng những khó khăn hiện nay của chúng ta là không có gì sánh bằng.
Thành
công trong quá khứ không bảo đảm thành công trong tương lai. Nhưng
dường như bằng chứng lịch sử cho thấy rõ một điều: hệ thống Mỹ tuy có
những đặc tính thường khiến nó vô dụng nhưng cũng đã chứng tỏ có khả
năng thích ứng và hồi phục từ những khó khăn tốt hơn nhiều nước khác,
trong đó có những đối thủ địa chính trị. Điều này hẳn nhiên có liên quan
đến quyền tự do tương đối của xã hội Mỹ tưởng thưởng cho những người
đổi mới sáng tạo, thường bên ngoài cơ cấu quyền lực hiện có, vì có công
tạo ra những cách làm mới; và liên quan đến hệ thống chính trị tương đối
cởi mở của Mỹ cho phép các phong trào có động lực tiến triển và tác
động đến hành vi của giới chóp bu quyền lực chính trị. Hệ thống Mỹ chậm
chạp và vụng về một phần bởi vì những vị Quốc phụ (Founding Fathers)
thiết kế hệ thống theo cách đó, với một cơ cấu liên bang, tam quyền phân
lập, và một Hiến Pháp và Tuyên Ngôn Dân Quyền thành văn – nhưng hệ
thống đó cũng có năng lực đặc biệt để thực hiện những thay đổi ngay khi
nồi nước sôi có vẻ như sắp sửa bật tung nắp. Thỉnh thoảng có “những cuộc
bầu cử tới hạn”[12] tạo
điều kiện diễn ra những chuyển biến [hệ trọng], mang lại những giải
pháp chính trị mới cho những vấn đề cũ và dường như không thể giải quyết
được. Dĩ nhiên không có gì bảo đảm cả: hệ thống chính trị đã không giải
quyết được vấn đề nô lệ mà không có chiến tranh. Nhưng về nhiều vấn đề
lớn trong suốt tiến trình lịch sử của mình, người Mỹ đã tìm ra cách đạt
được và thực hiện một giải pháp đồng thuận quốc gia.
Khi
Paul Kennedy trầm trồ thán phục thành công liên tục của siêu cường Mỹ
hồi năm 2002, ông nhận xét rằng một trong những nguyên nhân chủ yếu là
người Mỹ có khả năng vượt qua hoàn cảnh mà hồi năm 1987 ông cứ tưởng là
một cuộc khủng hoảng kinh tế dài hạn không giải quyết được. Giới doanh
nhân và giới chính khách Mỹ “đã phản ứng mạnh mẽ trước cuộc tranh luận
về “suy tàn” bằng cách ra tay hành động: cắt giảm chi phí, tinh giản các
công ty cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn, đầu tư vào những công nghệ mới
hơn, thúc đẩy cách mạng thông tin liên lạc, giảm thâm hụt chính phủ, tất
thảy những việc đó đã giúp tạo nên những bước tiến đáng kể hàng năm về
năng suất”. Có thể hình dung rằng người Mỹ cũng có thể đương đầu được
với thách thức kinh tế mới đây nhất. Cũng hợp lý nếu nghĩ rằng giống như
trong quá khứ, những quốc gia khác sẽ gặp phải những khó khăn của chính
họ. Trong số những quốc gia hiện đang tận hưởng các phép lạ kinh tế,
không có nước nào không có vấn đề. Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nga đều
có những lịch sử đầy gian truân cho thấy con đường trước mắt sẽ không
phải là đường thăng hoa đơn giản và suôn sẻ. Có một câu hỏi thực sự:
liệu mô hình chuyên quyền của Trung Quốc, vốn có thể rất hữu hiệu trong
việc đưa ra một số quyết định chiến lược về nền kinh tế trong ngắn hạn,
về dài hạn có thể đủ linh hoạt để thích ứng với một môi trường kinh tế,
chính trị, và chiến lược quốc tế đang biến đổi hay không?
Tóm
lại: không phải chỉ nhờ có may mắn mà trong quá khứ Mỹ đã vượt qua
những cuộc khủng hoảng và trỗi dậy mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn những
nước khác trong khi nhiều đối thủ của Mỹ đã suy sụp. Và có thể chỉ bằng
khấn nguyện thôi thì chưa đủ để tin rằng Mỹ lại có thể làm được như vậy.
NHƯNG CÓ một
nguy cơ. Đó là trong lúc này, trong khi đất nước tiếp tục chật vật,
người Mỹ có thể tự nhủ rằng suy tàn quả thực là điều tất yếu, hoặc tin
rằng Mỹ có thể tạm rút lui khỏi những trách nhiệm toàn cầu trong khi xử
lý những vấn đề nội địa. Đối với nhiều người Mỹ, chấp nhận suy tàn có
thể là một lối thoát đáng hoan nghênh để trốn khỏi những gánh nặng đạo
đức và vật chất đã đè lên vai họ kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Nhiều người trong tiềm thức có thể mong ước trở lại với tình hình hồi
năm 1900, khi Mỹ giàu có, hùng mạnh, nhưng không phải chịu trách nhiệm
cho trật tự thế giới.
Giả
định đằng sau một hướng đi như vậy là trật tự thế giới hiện tại dù sao
sẽ vẫn tồn tại mà không cần sức mạnh Mỹ, hay ít ra là cần ít sức mạnh Mỹ
hơn; hoặc những nước khác có thể điền khuyết vào những việc chưa có ai
đảm nhận; hoặc đơn giản là những lợi ích của trật tự thế giới luôn hiện
diện và chẳng cần hành động đặc biệt của bất cứ ai. Đáng tiếc là trật tự
thế giới hiện tại – với những quyền tự do phổ biến rộng rãi, tình hình
nhìn chung thịnh vượng, và không có xung đột giữa các đại cường quốc –
vừa mỏng manh vừa độc nhất vô nhị. Gìn giữ trật tự đó xưa nay là một
cuộc đấu tranh trong mỗi thập niên, và sẽ vẫn là một cuộc đấu tranh
trong những thập niên sắp đến. Việc gìn giữ trật tự thế giới hiện tại
đòi hỏi vai trò lãnh đạo thường xuyên của Mỹ và cam kết thường xuyên của
Mỹ.
Suy
cho cùng, quyết định nằm trong tay người Mỹ, Sự suy tàn, như Charles
Krauthammer nhận xét, là một lựa chọn. Suy tàn không phải là một định
mệnh không thể tránh khỏi – ít nhất là chưa phải vậy. Các đế chế và đại
cường quốc hưng thịnh rồi suy vong, và câu hỏi duy nhất là khi nào.
Nhưng câu hỏi “khi nào” quả thực rất quan trọng. Liệu Mỹ sẽ bắt đầu suy
tàn trong hai thập niên sắp đến hay không sẽ có ý nghĩa rất hệ trọng
trong hai thế kỷ đến, với cả người Mỹ lẫn bản chất của thế giới họ đang
sống.
Robert Kagan là nghiên cứu viên cao cấp về chính sách đối ngoại ở Brookings Institution, và bình luận viên cho báo The Washington Post. Một phiên bản của tiểu luận này sẽ in trong cuốn sách mới của ông, The World America Made (Thế giới mà nước Mỹ tạo ra),
sẽ được nhà Knopf xuất bản vào tháng này. Việc ấn hành tiểu luận này
được sự hỗ trợ của Quỹ Phân tích Chính sách Hertog/Simon. Bài báo này
đăng trong số ngày 2 tháng 2 năm 2012 của tạp chí The New Republic.
Bản tiếng Anh: Not Fade Away, The New Republic, 2/2/2012. Toàn văn lấy từ trang của GS Trần Hữu Dũng.
Bản tiếng Việt: Phạm Vũ Lửa Hạ, Blog lên đông xuống đoài.
[1] Dean Acheson (1893–1971): Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, trong chính quyền tổng thống Harry Truman (1949-1953). (N.D.)
[2] National
Security Council Report 68 (NSC-68): Báo cáo của Hội đồng An ninh Quốc
gia số 68, soạn ngày 14/4/1950 dưới thời tổng thống Harry Truman, giúp
định hình chính sách đối ngoại của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh. (N.D.)
[3] Douglas MacArthur (1880 –1964): tướng Mỹ, từng giữ chức Tổng Tham mưu Lục Quân Mỹ trong thập niên 1930. (N.D.)
[4] Báo cáo “Ngăn chặn & Tồn tại trong Thời đại Hạt nhân” (Deterrence & Survival in the Nuclear Age),
do Ủy ban Tư vấn Khoa học của Tổng thống đệ trình lên Tổng thống
Eisenhower vào ngày 7/11/1957, cảnh báo về khiếm khuyết của quốc phòng
Mỹ và khuyến nghị tăng cường đáng kể năng lực tấn công và phòng thủ
chiến lược của Mỹ. Văn bản này được gọi là Báo cáo Gaither, theo tên của
chủ tịch Ủy ban Horace Rowan Gaither.
[5] Kim Môn (Quemoy, Kinmen, 金門) và Mã Tổ (Matsu, 馬祖) nằm trong cụm quần đảo ở Eo biển Đài Loan, bị Đài Loan và Trung Quốc tranh chấp. (N.D.)
[6] John Foster Dulles (1888 –1959): Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, trong chính quyền tổng thống Dwight D. Eisenhower (1953-1959). (N.D.)
[7] Joseph S. Nye Jr. (1937-): Nhà
chính trị học, Giáo sư Đại học Harvard, người tiên phong về lý thuyết
sức mạnh mềm (soft power); ông từng giữ nhiều chức vụ trong và Hội đồng
Tình báo Quốc gia, và các bộ Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ, trong đó có
chức Thứ trưởng Quốc phòng dưới thời tổng thống Clinton. (N.D.)
[8] Joseph
McCarthy (1908-1957): Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa, đại diện cho tiểu
bang Wisconsin từ năm 1947 đến 1957. Ông được biết nhiều do từ năm 1950
dẫn đầu hoạt động truy lùng, bắt bớ và thẩm vấn những người bị tình nghi
là có cảm tình với Cộng sản và/hoặc làm gián điệp cho Cộng sản. Vì
những hành động này, ông bị Thượng viện Mỹ bỏ phiếu kỷ luật với hình
thức khiển trách vào ngày 2/12/1954. (N.D.)
[9] Diễn
ra ở khu Watts của thành phố Los Angeles, từ ngày 11/8 đến 15/8/1965,
là cuộc bạo động nghiêm trọng nhất trong lịch sử thành phố cho đến khi
xảy ra cuộc bạo động năm 1992. (N.D.)
[10] Diễn ra ngày 4/5/1970 tại Đại học Kent State, thành phố Kent, tiểu bang Ohio, với 4 người chết và 9 người bị thương. (N.D.)
[11] Patrick
Henry (1736-1799): chính khách lãnh đạo phong trào độc lập ở Virginia
trong những năm 1770, là một trong những vị Quốc phụ (Founding Fathers)
của Mỹ, và sau này là thống đốc đầu tiên và thứ sáu của tiểu bang
Virginia. (N.D.)
[12] “Những
cuộc bầu cử tới hạn” (critical elections) là thuật ngữ chỉ tiến trình
chuyển biến chính trị ở Mỹ thông qua nhiều cuộc bầu cử (thường trong
thời gian dài) trong đó những nhóm cử tri chuyển lá phiếu ủng hộ từ đảng
này sang đảng khác, và những chuyển biến đó không đảo ngược được. Thuật
ngữ này được nhà chính trị học người Mỹ Vladimir Orlando Key Jr.
(1908-1963) đặt vào năm 1955 để mô tả những kỳ bầu cử tổng thống Mỹ từ
1928 đến 1932, trong đó nhiều nhóm xã hội (đặc biệt là sắc dân thiểu số ở
thành thị và người da đen) chuyển từ ủng hộ Đảng Cộng hòa sang ủng hộ
Đảng Dân chủ. (N.D.)
Chiến lược xiết lưới thưa quanh Trung Quốc của Hoa Kỳ
A. Tại Châu Á.
1. Tổng
thống Obama dự hội nghị Apec tại Hawaii từ 10-13/11/2011. Thu hoạch
quan trọng của Obama là thúc đẩy dự án thành lập khu vực tự do trao đổi
thương mại lớn nhất thế giới, đưa tổng số nước tham gia Hiệp định Đối
tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) lên thành 12 quốc gia. Ông cũng lôi kéo
được Nhật Bản, Canada và Mexico bước vào vòng đàm phán để gia nhập TPP.
Đây sẽ là khu vực thương mại lớn nhất của thế kỷ 21 này.
Khi
các cuộc đàm phán hoàn tất, TPP sẽ đưa hầu hết các mức thuế nhập khẩu
thương mại ở nhóm nước này về mức “0” trong khoảng 10 năm.
TPP cũng sẽ bao gồm cả khu vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước cùng nhiều lĩnh vực khác.
TTP sẽ là 1 đối trọng quan trọng với những bành trướng kinh tế lớn lao của TQ tại Asean.
Các
nước Châu Á đã có lựa chọn, hoặc đứng vào 1 thị trường với những qui
tắc văn minh công bằng, hoặc làm 1 thị trường chứa hàng kém phẩm chất
của Trung Quốc và bao giờ cũng bị xuất siêu trong trao đổi mậu dịch với
Trung Quốc...
2. Ngày
16/11/2011 tại tại thủ đô Canberra (Australia), Tổng thống Obama đã
tuyên bố 1 thỏa thuận mới Mỹ-Úc, trong đó Úc cho phép Hoa Kỳ đồn trú
2500 binh lính tại căn cứ quân sự tại Darwin (Australia). Hoa Kỳ cũng
được sử dụng căn cứ máy bay Tindal của Australia cho các máy bay chiến
đấu có cả B52. Theo ABC Australia, căn cứ quân sự này nằm ngoài tầm của
tên lửa đạn đạo mới chế tạo của Trung Quốc. Căn cứ này cho phép Mỹ kiểm
soát sự di chuyển của các tàu chiến và máy bay tại vùng Biển Đông.
3. Ngày
1/12/2011, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã có chuyến thăm Myanmar. Kết
quả của chuyến đi thăm này là việc Myanmar thả tất cả các tù nhân chính
chính trị (đầu tháng 1/2012) và cam kết của Hoa Kỳ cử đại sứ sang thủ đô
Myanmar.
Trên đây là những sự kiện quan trọng nhất trong những ngày vừa qua ở Châu Á.
Trung
Quốc cũng có 1 động thái là chuyến đi thăm Việt Nam và Thái Lan của Tập
Cận Bình. Trung quốc không đưa ra 1 tuyên bố nào có tính chiến lược.
Vẫn là dùng mưu kế cũ, sách lược cũ, dùng chữ "DỤ" để lôi kéo Thái Lan,
và kìm chế Việt Nam trong vòng ảnh hưởng của mình. Vì Thái Lan là nước
không cộng sản lại có xu hướng thân Hoa Kỳ, nên Trung Quốc ra giá đắt
hơn: cho vay hơn 1 tỷ đô la. Việt Nam là nước cùng lý tưởng XHCN nên giá
rẻ hơn nhiều: 300 triệu đô la.
Đây
chắc chắn không phải là chiêu "dùng bất biến ứng vạn biến" hay "lấy
tĩnh chế động". Trung Quốc đang bối rối, chưa tìm ra sách lược nào để
chống trả những bao vây mới nhất của Hoa Kỳ, nên tạm dùng tiền vào trong
sách lược ngoại giao liên hoành “Nam Dụ” của họ.
B. Tại Trung Đông.
Iran là mối quan tâm chính của Hoa Kỳ hiện nay.
Iran
cố tình theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân qua việc làm giầu
uranium dưới lòng đất. Iran đã thành công thu hồi máy bay không người
lái của hiện đại của Mỹ bằng kỹ thuật tiên tiến. Đầu năm 2012, Iran tập
trận 10 ngày tại eo biển quan trọng Hormuz, nơi có tuyến đường vận tải
quan trọng chiếm đến 20% lượ̣ng dầu mỏ lưu thông trên thế giớí. Iran cho
bắn thử các loại tên lửa có tầm xa 200 km, tầm gần 35 km và tên lửa tầm
trung đất đối đất Nour, vốn dựa theo thiết kế́ của Trung Quốc. Việc này
đã cho thấy ý đồ của Iran là họ đã có đủ khả năng quân sự, vũ khi... để
đóng cửa eo biển quan trọng này.
Những
động thái này của Iran đã khiêu khích nghiêm trọng Hoa Kỳ và đồng minh
của họ. Các biện pháp chế tài đang được tham vấn bao gồm cả việc hạn chế
nhập khẩu dầu hỏa từ Iran. Khối EU sẽ có quyết định cấm vận về nhập
khẩu dầu hỏa tại Iran cuối tháng 1/2012 này.
Lâu
nay Mỹ vẫn duy trì lệnh cấm vận đơn phương đối với Iran: cấm tất cả mọi
hình thức mua bán với Iran. Cuối năm 2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama
đã ký ban hành luật cấm các công ty nước ngoài có giao dịch với ngân
hàng trung ương Iran liên hệ với hệ thống tài chính Mỹ.
Sự
kiện Hoa Kỳ tích cực bao vây Iran và Iran là một nước cung cấp dầu thô
chính (20% lượng xuất khẩu của Iran) cho Trung Quốc, đã đặt Trung Quốc
vào 1 tình thế bị bao vây kinh tế gián tiếp. Nước cờ này, Trung Quốc gỡ
ra sao, khi chỉ vài tháng trước đây họ đã mất 1 bàn đạp quan trọng ở
Trung Đông: Libia xụp đổ.
Ngoài
những khiêu khích của Iran đối với Hoa Kỳ thì Israel là 1 nước có lợi
ích tồn tại hay không tồn tại trước việc Iran có vũ khí nguyên tử. Nếu
Israel bất ngờ tấn công các địa điểm tại Iran mà họ nghi vấn dùng chế
tạo vũ khí nguyên tử, thì có thể họ sẽ không tham vấn quyết định này với
Hoa Kỳ.
Như vậy, tại Trung Đông có thể xẩy ra chiến tranh với Iran bất kỳ lúc nào, mà hậu quả là nguy hại trực tiếp cho kinh tế Hoa Kỳ.
C. Chiến lược "bao vây mềm" của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc tại Biển Đông.
Nếu
so sánh Biển Đông với Trung Đông thì ta thấy ngay mối quan tâm của Hoa
Kỳ tại Trung Đông là khẩn cấp hơn mối quan tâm tại Biển Đông.
Trong khi cả giới chính trị Hoa Kỳ, EU hướng về Iran, thì CNAS, Trung tâm an ninh mới Hoa Kỳ, hướng dư luận không nên quên tương lai của thế kỷ 21, không quên Biển Đông.
Chiến lược mà CNAS đề nghị gọi là Hợp tác ưu việt có những điểm chính sau:
1. Tăng cương ưu thế vũ khí quân sự: gia tăng hạm đội hải quân từ 285 tàu chiến lên 346 chiếc trong những năm tới.
2.
Thứ hai, Mỹ cần củng cố một mạng lưới đối tác an ninh mới, trong đó có
việc xây dựng đồng minh và đối tác tại Đông Nam Á. Khuyến khích các đối
tác và đồng minh trong khu vực tăng cường chính các khả năng quân sự của
mình, cũng như thiết lập những đối tác an ninh mới để giảm bớt gánh
nặng cho Mỹ.
3.
Thứ ba là Hoa Kỳ cần bảo đảm đặt Biển Đông vào hàng ưu tiên về ngoại
giao và an ninh. Khuyến khích các nước trong khu vực tự bênh vực chính
nghĩa về chủ quyền của họ trên Biển Đông đối với Trung Quốc, đồng thời
tránh khiêu khích Trung Quốc.
4. Thứ tư, Hoa Kỳ cần thúc đẩy hòa nhập kinh tế trong khu vực cũng như giữa châu Á và Mỹ.
5.
Thứ năm, Hoa Kỳ cần có chính sách đúng với Trung Quốc, mà theo báo cáo
là vừa hợp tác ngoại giao, kinh tế, nhưng Mỹ phải có quân đội mạnh và
nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng.
Đó là một chính sách tránh xung đột vũ trang, nhưng không né tránh đối đầu ngoại giao.
Tựu
trung lại, 5 điểm trên, mục đích của Hoa Kỳ trong giai đoạn này là hợp
tác với Trung Quốc, nhưng hợp tác trên thế mạnh. Bao vây Trung Quốc,
nhưng bao vây bằng lưới thưa, đủ để Trung Quốc khó chiụ, nhưng chưa đủ
để Trung Quốc gây chiến tranh.
Đây
là chiến lược khôn ngoan khi Hoa Kỳ vẫn chưa thuyết phục được Iran từ
bỏ chương trình hạt nhân, khi Trung Đông vẫn còn nhiều yếu tố bất ngờ
với Hoa Kỳ, khi kinh tế Hoa Kỳ vẫn chưa phục hồi hẳn.
Chiến
lược này đủ để ủng hộ các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc
tại Biển Đông như Philippine, Việt Nam vẫn cảm thấy hậu thuẫn của Hoa Kỳ
sau lưng. Chiến lược này đủ để Trung Quốc phải cân nhắc mỗi khi ra 1
quyết định về bành trướng tại Biển Đông. Họ phải tính đến yếu tố Hoa
Kỳ.
Đây là 1 chiến lược của 1 giai đoạn, không phải là chiến lược dài hạn.
Khi
lợi ích của Hoa Kỳ ở Biển Đông không chỉ là an ninh hàng hải mà được đo
bằng số lượng các thùng dầu hỏa do các công ty Hoa Kỳ khai thác ở Biển
Đông ở vào 1 số lượng thuyết phục, khi đó Hoa Kỳ sẽ có chiến lược cứng
rắn hơn.
Chuyến
đi thăm Phillipines và Việt Nam của 4 Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ - John
McCain, Joseph Lieberman, Sheldon Whitehouse, Kelly Ayotte – nhằm ủng hộ
Philippine trong các yêu cầu chủ quyền đối với Trung Quốc.
Tại
Việt Nam, các Thượng nghị sĩ này chắc cũng bàn về Biển Đông và Nhân
quyền. Việc có mặt của Thượng nghị sĩ J.Mc Cain trong đoàn nói lên tính
quan trọng của chuyến thăm này. Đây là 1 bằng chứng về chiến lược quay
trỏ lại Châu Á là 1 ưu tiên trong chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ.
- US assures two more warships for Philippines (Gulf Today). – Các phân tích gia – Obama Visit Would Boost US Regional Influence: Analysts (VOA English).
- Huyền thoại về ngày tàn của nước Mỹ (Phần 1) – Phần 2 – Phần cuối (phamvuluaha). Dịch từ bài của Robert Kaplan: Not Fade Away – Against the myth of American decline (The New Republic). THÁCH THỨC CỦA TRUNG QUỐC TẠI CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG NĂM 2012 basam-THÔNG
TẤN XÃ VIỆT NAM THÁCH THỨC CỦA TRUNG QUỐC TẠI CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG
NĂM 2012 Tài liệu tham khảo đặc biệt Thứ tư, ngày 18/1/2012 TTXVN (Luân
Đôn 7/1) Năm 2012 được Viện Hoàng gia An ninh Quốc phòng Anh đánh giá
là năm quá độ, và khu Vực châu Á-Thái Bình Dương
-- Học giả Việt Nam phản bác “đường lưỡi bò” (ĐĐK).--Tàu VN liên tiếp bị tố 'xâm phạm lãnh hải' - (BBC)Truyền thông Thái Lan đưa tin hải quân nước này bắt ba tàu ngư dân Việt Nam vì cáo buộc ‘xâm phạm lãnh hải’.ASEAN trong bàn cờ chính trị khu vực: Holding sway in the Year of the Dragon (Straits Times 18-1-12) -- Bài của Ernest Bower
- Thượng nghị sĩ Mỹ thăm Việt Nam – (BBC). – Adm. concerned about South China Sea (AP). – Đô đốc Mỹ lo ngại về tình hình Biển Đông (VnMedia).
-TNS Mỹ: Sẽ không có đụng độ với Trung Quốc tại châu Á - VOA -Hai thượng nghị sĩ có thế lực của Mỹ tuyên bố Hoa Kỳ sẽ tiếp tục trang bị vũ khí cho các đồng minh tại khu vực Thái Bình Dương trong lúc khu vực này có tranh chấp hàng hải với Trung Quốc, nhưng đối đầu với Trung Quốc là chuyện khó xảy ra.
Hai thượng nghị sĩ John McCain và Joseph Lieberman đưa ra tuyên bố hôm nay vào lúc bắt đầu chuyến đi 3 ngày tại Manila, là nơi hai ông sẽ thảo luận về an ninh hàng hải với các giới chức của Philippines.
Thượng nghị sĩ McCain tuyên bố Hoa Kỳ “không cần có bất kỳ đối đầu nào với Trung Quốc” nhưng điều cần nhất là Hoa Kỳ muốn tái xác nhận quan hệ của mình với các đồng minh trong khu vực, “nhất là vùng Biển Tây Philippines” mà quốc tế gọi là Biển Nam Trung Hoa, và Việt Nam gọi là Biển Đông.
Còn Thượng nghị sĩ Lieberman nói rằng thủy lộ này “cực kỳ quan trọng” không chỉ riêng cho khu vực và còn cho kinh tế của cả thế giới.
Trung Quốc ngày càng quyết tâm khẳng định chủ quyền tại nhiều hòn đảo có tranh chấp ở Biển Ðông.
Các giới chức của Philippines và Việt Nam đều tố cáo Trung Quốc gây rối cho công tác thăm dò dầu khí của họ tại khu vực có nhiều dầu này.
– Việt Nam hạ thủy chiến hạm đầu tiên sản xuất trong nước – (VOA). – Hải quân nhận tàu chiến đầu tiên do VN sản xuất – (BBC). -Khai thác Biển Đông 'không phải xin phép'- -
(BBC) Chủ tịch PetroVietnam nói Việt Nam sẽ tiếp tục khai thác dầu khí
trong khu vực 200 hải lý "không phải xin phép Trung Quốc".- Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của VN đối với quần đảo HS & TS (Việt sử ký). - Trường Sa yêu thương – đảo Sinh Tồn Đông (Thiềm Thừ). - TRÚC THANH TÂM những vần thơ hướng ra biển đảo (Lê Thiếu Nhơn).
- Khai thác Biển Đông ‘không phải xin phép’ – (BBC). - Liệu có thể giải quyết tranh chấp Biển Đông? Những chọn lựa của ASEAN trước một Trung Quốc quyết đoán (NCBĐ). - Một chút tâm tình với ASEAN (TVN). –Những sự kiện ảnh hưởng đến hồ sơ Biển Đông – (RFA).
- Các TNS Mỹ ủng hộ Philippines trong vụ tranh chấp Biển Ðông – (VOA). – US senators vow increased military presence (BWOE). – TNS Mỹ: Sẽ không có đụng độ với Trung Quốc tại châu Á – (VOA). – Các TNS Mỹ không thấy có sự đụng độ với TQ, nhưng nói sẽ giúp các đồng minh châu Á: US senators see no major clash with China but says America will help arm Asian allies (Washington Post). - “Trở lại châu Á” 2012: Những thách thức chờ đón Mỹ (TQ). – Đo lường Cam kết của Hoa Kỳ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương – (x-café). – Nguyễn Hưng Quốc: Giữa Mỹ và Trung Quốc – (VOA’s blog).
- Tập Cận Bình sắp sang Mỹ, kêu gọi hợp tác – (Reuters/ NV). – Tân Hoa xã: Xi meets Jeb Bush, calls for closer cooperation between China, US. - Tập Cận Bình: Mỹ cần khách quan (VNN).
- Đại sứ Nguyễn Văn Thơ: Việt Nam muốn tăng cường thêm các mối quan hệ với Trung Quốc – (VOA). Bài trên Tân Hoa xã: Vietnamese ambassador mulls further strengthening bilateral ties amid soaring co-op. – Ngoại giao cân bằng Việt – Trung chỉ là ảo tưởng – (RFA).- Iran bắt nghi can ám sát (TN). - Mỹ chuẩn bị chiến tranh với Iran từ nhiều năm nay (PLTP). - Nga chuẩn bị tham chiến ở Iran (NLĐ). - Iran tăng cường bảo vệ các chuyên gia hạt nhân (TTXVN). – Iran bác bỏ cáo buộc vi phạm lệnh cấm vận vũ khí – (RFI). – Iran chỉ trích Ả Rập Xê-út tuyên bố gia tăng xuất khẩu dầu – (VOA). – Mỹ yêu cầu Nam Triều Tiên cắt giảm lượng dầu nhập từ Iran – (VOA). – TQ băn khoăn về nguồn dầu Iran – (BBC).
-ĐO LƯỜNG CAM KẾT CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI KHU VỰC CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét