William L. Anderson
Những phẩm chất đáng quí của nền kinh tế tự do
Phạm Nguyên Trường dịch
Tôi
tin là cuộc họp của Hội Mont Pelerin năm nay, 1982, tổ chức ở Tây
Berlin là phù hợp vì đây là nơi mà thực tế và sự khôi hài của nền kinh
tế tự do và chủ nghĩa tập thể đứng cạnh nhau như bóng tối và ánh sáng, y
hệt như bức tường đán áp ô nhục bao quanh thành phố tự do này giữa lòng
đại dương của chủ nghĩa toàn trị. Nếu chúng ta cần chỉ ra tính ưu việt
của chủ nghĩa tư bản so với với chủ nghĩa xã hội thì đây chính là vị trí
khởi đầu thuận lợi hơn bất kì chỗ nào khác.
Nếu
tôi là luật sư biện hộ cho tự do kinh tế thì tôi sẽ cố gắng sử dụng
Berlin như một thí dụ. Nói cho cùng, ai chả thấy là người Tây Berlin
phát đạt về mặt kinh tế, đặc biệt là so với người Đông Berlin, những
người bị ngăn chặn, không được tiếp xúc với phần phía Tây thành phố bằng
hàng rào bằng bê tông, hàng rào kẽm gai, mìn và súng máy trong suốt hơn
hai mươi năm qua. Ở phần Tây Berlin tự do, người dân có thể tự do đi
khắp thành phố; trong khi ở vùng Đông Berlin cộng sản, cảnh sát có thể
tự do quấy rối và đe dọa các công dân của mình. Thu nhập của người Tây
Berlin cao hơn là thu nhập của người đồng bào của họ ở miền Đông, lương
của người đông Berlin, cao nhất trong khối cộng sản, nhưng vẫn thấp hơn
mức nghèo đói ở miền Tây. Không nghi ngờ gì rằng người Tây Berlin tự do
hơn, giàu có hơn và hạnh phúc hơn đồng bào của họ ở miền Đông.
Trí thức ở phương Tây thường xuyên bôi nhọ chủ nghĩa tư bản
Nhưng
trí óc con người ta lại thường lúng túng và lầm lẫn trước vấn đề tự do
kinh tế. Trong suốt hai thế kỉ qua phương Tây đã là nơi thể hiện tính ưu
việt của tự do kinh tế, nhưng như nhà thần học Michael
Novak đã chỉ ra: “Trong lịch sử trí tuệ phương Tây, thóa mạ chủ nghĩa tư
bản là một trong số ít đề tài được nhiều người thảo luận nhất”[1]. George Gilder, trong tác phẩm khá uyên bác: Wealth and Poverty (Giàu và nghèo), đã
buồn bã nhận xét rằng nhiều người có tư tưởng ủng hộ tự do kinh doanh
không phải là vì họ đồng ý với những đặc điểm của nó (họ cho rằng đấy là
sự suy đồi về mặt đạo đức), mà đơn giản là vì lí do công lợi: nó tạo ra
nhiều của cải hơn là chủ nghĩa tập thể có thể làm[2].
Nhưng,
nếu chủ nghĩa tư bản tiếp tục là cái phần đầy sức sống của trật tự thế
giới thì ngoài khả năng sản xuất vô cùng to lớn, nó còn phải được coi là
có đức hạnh nữa. Những ai muốn coi tự do kinh tế là mục tiêu của sự
tiến bộ của nhân loại, mục tiêu của công lý, của việc diệt trừ nạn đói
trên thế giới, của bản thân nền tự do, thì họ phải coi chủ nghĩa tư bản
không chỉ là nơi thể hiện lòng tham của con người mà chủ yếu là nơi thể
hiện những hành vi mang tính đạo đức. Chủ nghĩa tư bản là cách sống
không chỉ có thể giúp thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt vật chất mà còn
thúc đẩy sự thịnh vượng về mặt tinh thần nữa.
Tuy
nhiên, hiện nay người ta – ngay cả nhiều người Tây Berlin – trong khi
tìm kiếm những giá trị mà họ cho là xứng đáng lại đang từ bỏ con đường
dẫn tới tự do kinh tế và thay vào đó, ủng hộ những biểu hiện của chủ
nghĩa tập thể. Nhưng đấy là con đường, như Walter Lippmann từng viết:
“Sẽ dẫn tới vực thẳm của chế độ chuyên chế, đói nghèo và chiến tranh
triền miên”[3].
Mục đích của tiểu luận này là khảo sát sự ruồng bỏ chủ nghĩa tư bản ở
phương Tây và chứng minh rằng nền kinh tế tự do - phương án thay thế cho
chủ nghĩa tập thể - là lựa chọn đầy đức hạnh và xứng đáng cho từng cá
nhân cũng như cho các dân tộc.
Nghịch lý của tự do
Nền
kinh tế tự do là một đối tượng đầy mâu thuẫn. Người ta chống lại nó
trong những cuộc thăm dò dư luận và ủng hộ nó khi cầm một nắm tiền trong
tay. Các chính phủ theo đường lối tập thể để nó đứng đầu danh sách
những kẻ thù không đội trời chung nhưng lại quay sang nhờ nó cứu chữa
những căn bệnh trong nền kinh của mình[4].
Giới tăng lữ bảo rằng tinh thần của chủ nghĩa tư bản là vô luân, nhưng
chính nền tảng của thị trường tự do lại phụ thuộc vào cái mà Novak gọi
là “việc áp dụng một số tiêu chí đạo đức”[5].
Thị trường tự do dường như đã trở thành một một con điếm xã hội: những
người có mức thu nhập khác nhau, trình độ học vấn và văn hóa khác nhau
cùng công khai lên án nó vì những tội lỗi mà họ qui kết cho nó đồng thời
lại tìm kiếm nó khi có nhu cầu về mặt kinh tế.
Có
thể đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng thì nền tảng
pháp lí và tri thức của chủ nghĩa tư bản: cá nhân là người tự do, có khả
năng (và trách nhiệm) thực hiện những lựa chọn mang tính đạo đức và có
một số quyền mà chính phủ không thể tước đoạt: quyền phản đối những giáo
lí đã ăn sâu bén rễ vào tư duy mang tính tín tôn giáo truyền thống, tức
là những giáo lí đã từng thống lĩnh tâm trí của con người kể từ ngày
xuất hiện nền văn minh. Cốt lõi của tư duy truyền thống này - dù nó có
được hay không được Plato, Khổng Tử, Rousseau, Castro hay Mao đưa ra thì
cũng thế - là khẳng định rằng bản sắc của một người không phải bắt đầu
từ chính anh ta mà bắt đầu từ cộng đồng, phường hội, bộ lạc, giai cấp xã
hội, được xác định từ trước của anh ta, hay nói theo ngôn ngữ hiện đại
là từ nhà nước của anh ta[6].
Trong
khi đúng là Thiên chúa giáo (và đặc biệt là đạo Tin lành) đã làm suy
yếu tư duy truyền thống – và đã tạo cảm hứng cho sự vùng lên của chủ
nghĩa tư bản – thì trong thời Trung Cổ, hệ tư tưởng mang tính tôn giáo
của cộng đồng nhấn mạnh “tính chất quí phái”, trật tự xã hội và những
quyền và đặc quyền đặc lợi dành cho người thuộc các đẳng cấp khác nhau
đã được chính thức hóa cùng với Thiên chúa giáo. Cuộc cải cách của đạo
Tin lành cũng như những học thuyết mà nó tạo ra cũng không thay đổi được
ngay lập tức quan niệm về “quí” và “tiện” đã tồn tại trong xã hội từ
bao đời nay[7].
Quí
là giới tăng lữ, giáo sư đại học, hoàng thân quốc thích, chính khách và
sĩ quan cao cấp; còn tiện là nông nô, thương nhân (những người bị khinh
khi nhất) và những thị dân không thuộc tầng lớp quí tộc. Người ta có
thể tưởng tượng được rằng trật tự “đạo đức” như thế rất được những tầng
lớp trên ưa chuộng, vì ngoài việc là những người thừa kế tự nhiên địa vị
lãnh đạo đối với quần chúng, họ còn có quyền tự do áp đặt những giá trị
“cao quí” của họ cho các thần dân và điều đó có nghĩa là áp đặt những
đạo luật hạn chế chi tiêu và hàng ngàn điều luật chi phối hoạt động kinh
doanh khác[8].
Nhà
sử học Arthur M. Schlesinger Jr. chắc chắn là đã đồng cảm với trật tự
tiền tư bản khi ông viết về nước Anh thời theo thuyết trọng thương[i] như
sau: “Nắm quyền lực là để áp đặt trách nhiệm, bằng ý thức về nghĩa vụ
đối với nhau mà tất cả các giai cấp đều được đưa vào một cộng đồng hài
hòa”[9].
Tuy nhiên, như đã thấy, hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân thường
xuyên đe dọa nền tảng của chế độ phong kiến, rõ ràng là quần chúng không
chấp nhận quan điểm đầy hào hứng của Schlesinger về tình trạng khốn khó
của họ. Họ cảm thấy bất mãn, số phận của họ thật là đáng thương. Các
tầng lớp dưới lúc đó cũng nghèo xơ xác chẳng khác gì những người nhà quê
nghèo khổ nhất trong các nước thuộc Thế Giới Thứ Ba cùng quẫn hiện
nay.
Rất
nhiều điều luật nhằm kiềm chế giá cả, ngăn chặn nguồn cung và quá trình
sản xuất – mà trước hết là cản trở cạnh tranh – đã trở thành rào cản
hữu hiệu trong việc ngăn chặn sự phát triển về mặt kinh tế. Chỉ có giới
quí tộc mới có thể là những người giàu có; nói cho cùng thì tầng lớp
thượng lưu tin rằng tài sản là cố định, chỉ có thể đem ra chia chứ không
thể gia tăng được. Người ở tầng lớp hạ lưu không thể nào tưởng tượng
được là anh ta có thể có của cải. Cho nên trong thế giới cũ, “thế giới
trần tục”, như Lippman viết, muốn giàu có thì “phải cướp bóc”[10]. Hàng xóm cướp của hàng xóm, thành phố này cướp của thành phố kia, còn các dân tộc thì thường xuyên cướp bóc lẫn nhau.
Chẳng
có gì lạ là các giai cấp thượng lưu quí tộc trong giai đoạn
hậu-trọng-thương ở châu Âu không những không đánh giá được mà còn không
hiểu được cuộc cách mạng xã hội và cách mạng kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Nói cho cùng thì khi đọc tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations)
người ta hiểu rằng Adam Smith phát triển quan niệm của Quyền tự do Tự
nhiên là để làm lợi cho người nghèo chứ không phải làm lợi cho người
giầu. Giới quí tộc, như Lippmann viết, không hiểu được sự kiện là
“Nguyên tắc vàng là nguyên tắc có cơ sở vững chắc về mặt kinh tế”[11].
Họ không tưởng tượng được lợi ích mà thương nhân tạo ra khi họ được tự
do phục vụ những người khác, họ cũng không chấp nhận việc thương nhân
không chỉ làm giàu mà còn có cả địa vị xã hội nữa. Trên thực tế, Cách
mạng Công nghiệp là cuộc cách mạng của người bình dân, còn những người
có thời từng có tiếng nói quyết định ở chốn công cộng thì nay, trong chủ
nghĩa tư bản dân chủ, lại bị tụt lại phía sau.
Và
mặc cho sự gia tăng khủng khiếp về mặt tài sản và sức mạnh mà chủ nghĩa
tư bản đã đem lại cho thế giới phương Tây, mặc cho những bước tiến vĩ
đại trong việc xóa bỏ cảnh nghèo đói từng là hiện tượng phổ biến trong
các nước đã công nghiệp hóa, thị trường tự do vẫn bị nhiều người bên
ngoài lĩnh vực kinh doanh nguyền rủa – họ là giai cấp mới, đấy là nói
theo lời của Kristol, là những người đang tìm cách quyết định “chương
trình nghị sự xã hội”. Đấy là những người có thái độ thù địch đối với
việc kinh doanh, nhưng theo tôi, lí do của lòng thù hận lại ít liên quan
tới những bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội hiện đang tồn tại
trong xã hội chúng ta. Nói cho cùng, những xã hội truyền thống mà nhiều
người phê phán chủ nghĩa tư bản có cảm tình lại thường là những xã hội
nghèo xác xơ, còn bất bình đẳng là chuyện bình thường. Như Kristol đã
nói, họ ghét thị trường tự do là vì chế độ tư bản tự do, cá nhân chủ
nghĩa, không cho họ nhiều quyền lực chính trị và xã hội[12].
Trong xã hội mà thị trường tư do có thể tồn tại được, quyền lực nằm
ngay tại thị trường, và “được phân tán trong rất nhiều người dân chứ
không chỉ tập trung trong tay tầng lớp tinh hoa nắm quyền”[13].
Novak, trong khi bình luận về lòng căm thù chủ nghĩa tư bản mà dường như giới tăng lữ đang nuôi trong lòng, đã viết:
Trong
những xã hội truyền thống, người đứng đầu nhà thờ (dù ở Rome hay ở
Geneva thì cũng thế) có quyền áp đặt những giá trị của họ lên toàn thể
xã hội dân sự. Trong một xã hội đã phân hóa, người đứng đầu nhà thờ khó
mà có thể đóng được vai trò như thế. Vì vậy mà ta mới thường thấy sự
thèm khát bí mật, thấy lòng hoài cổ còn rơi rớt lại về một xã hội được
kế hoạch hóa, tức là cái xã hội lại cho phép những người đứng đầu nhà
thờ liên kết với những người lãnh đạo dân sự nhằm buộc toàn bộ xã hội
phải chấp nhận những giá trị của họ. Quan điểm của ông vua La Mã thế kỉ
thứ IV[ii] lại tái xuất với tên gọi là chủ nghĩa xã hội và nhà nước tập quyền trong nền kinh tế hỗn hợp[14].
Chế độ dân chủ trên thương trường
Những
người phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những người có
những thành kiến mang tính gia trưởng của giai cấp mới mà Kristol nói
tới, đơn giản là không thích chế độ dân chủ vốn là một thành phần cố hữu
trong hệ thống thị trường. Giới quí tộc không bao giờ tin các định chế
dân chủ, đặc biệt là trong thời kì tiền tư bản; hậu duệ của họ - mặc dù
có thể phải chấp nhận niềm tin vào quyền bình đẳng trong chế độ dân chủ -
giống như cha ông họ, cũng không mấy tin tưởng vào quyền tự do lựa
chọn. Vì vậy, khi họ nói về quyền bình đẳng thì họ không nói về sự bình
đẳng trước pháp luật mà nói về sự bình đẳng do pháp luật tạo ra. Tôn giáo của họ đòi hỏi rằng bình đẳng là do giới tinh hoa cầm quyền ban phát.
Quan
điểm như thế về pháp luật – ngăn chặn một số người và thả lỏng một số
người khác – không phải xuất phát từ tinh thần bình đẳng được chủ nghĩa
tự do thế kỉ XIX tuyên xưng mà là xuất phát từ não trạng chuyên chế của
tinh thần bộ lạc cổ xưa. Vì vậy mà kết quả của hệ thống pháp luật bình
đẳng do dùi cui tạo ra – trong đó có thuế lũy tiến, tái phân phối thu
nhập, trợ cấp nhà ở, tem phiếu lương thực thực phẩm và những chương
trình phúc lợi xã hội khác hay kết quả khủng khiếp của chủ nghĩa tập thể
mà ta chứng kiến trong suốt 50 năm qua ở Liên Xô và ở châu Á – phản ánh
không phải là lòng từ bi xã hội hiện đại mà là cú nhảy giật lùi trở về
thời đại của những ông vua tự cho mình là đang cai trị bằng luật lệ của
Chúa trời[15].
Cần phải nhấn mạnh rằng não trạng như thế đã bác bỏ quan điểm của chủ
nghĩa tự do về quyền bình đẳng trước pháp luật rồi. Vì ở đâu mà bất bình
đẳng trước pháp luật trở thành hiện tượng phổ biến thì ở đó bóng ma của
chế độ chuyên chế, của bạo ngược, nghèo đói, và mất tự do cá nhân sẽ
trở thành phổ biến.
Henry
Hazlitt, Gilder, Kristol và những người khác đã khẳng định một cách đầy
trí tuệ rằng những chương trình chống nghèo đói của chính phủ dựa trên
sự bất bình đẳng hợp pháp thực ra là rào cản trước những lợi ích kinh tế
tiềm tàng mà người nghèo có thể nhận. Nhưng họ vẫn chưa chỉ ra được mối
liên hệ giữa sự tập trung vào tay nhà nước và tinh thần gia trưởng của
thời cổ đại. Đây chính là điều mà các nước có thể học được từ quá khứ vì
sự kiện lịch sử rõ ràng là bất bình đẳng trước pháp luật, tình trạng cô
lập ép buộc về kinh tế (gọi là tự cấp tự túc) và điều tiết thị trường
đã dẫn đến không phải là những mục tiêu đáng mong ước mà ngược lại. Chỉ
có phân công lao động một cách tự do, thị trường tự do và bình đẳng
trước pháp luật mới có thể dẫn người ta tới tự do và phát triển kinh tế
mà thôi. Con người truyền thống đã phải đấu tranh rất lâu trước việc lựa
chọn giữa tự do và bánh mì, nhưng trải nghiệm tự do đã cho thấy điều
ngược lại. Tự do làm cho người ta có nhiều bánh mì hơn và có nhiều thứ
khác nữa.
Cuối
cùng, cả tự do lẫn thịnh vượng, tức là những tính chất cố hữu của chế
độ dân chủ tư sản đã làm cho những người vẫn bám vào những lí tưởng xưa
cũ của xã hội không tin vào thị trường tự do. Vì tự do trong chế độ này
tạo điều kiện cho những người đã từng phải làm việc dưới quyền của những
bạo chúa được tự cai quản lấy mình, còn thịnh vượng do thị trường tự do
mang lại thì tạo điều kiện cho những người đã từng là những người khố
rách áo ôm tự nuôi sống được mình và không còn phụ thuộc vào thói đỏng
đảnh mang tính gia trưởng của tầng lớp quí tộc nữa. Lippmann nhận xét về
những người đang đi tìm trật tự cũ như sau:
.
. công cụ thúc đẩy tiến bộ duy nhất mà họ tin tưởng là những biện pháp
cưỡng bức của chính phủ. Họ không thể tưởng tượng nổi một cái gì khác
hơn, họ cũng không thể nhớ được rằng rất nhiều điều mà họ coi là tiến bộ
lại là kết quả của sự giải phóng khỏi quyền lực chính trị, của sự giới
hạn quyền lực, của việc giải phóng năng lực cá nhân khỏi uy quyền và sự
cưỡng bức mang tính tập thể[16].
Và
Frederic Bastiat đã tiên đoán một cách đầy thuyết phục kết quả sẽ đến
với những người tìm kiếm cưỡng bức dưới chiêu bài tự do:
Đồng
vốn - dưới tác động của học thuyết đó – sẽ ẩn nấp, chốn tránh và bị phá
hủy. Còn người công nhân, những người làm việc cho những kẻ thề nguyền
là yêu thương họ một các chân thành và sâu sắc nhưng vô minh đó, sẽ như
thế nào? Họ có được ăn uống tốt hơn khi sản xuất nông nghiệp ngưng trệ
hay không? Họ có được mặc tốt hơn khi không còn ai nghĩ đến việc xây nhà
máy nữa hay không? Họ có nhiều công ăn việc làm hơn khi đồng vốn không
còn hay không?[17]
Cho và nhận
Người
cho bao giờ cũng được tôn trọng hơn là người nhận,và quan điểm truyền
thống bao trùm thời đại là chủ nghĩa tư bản đơn giản là nền kinh tế
nhận, nghĩa là người nghèo thì làm còn người giàu thì nhận. Do đó quan
điểm của ông John C. Bennett, chủ tịch danh dự của Trường thần học, là
nền kinh tế tự do, nếu không được chính phủ cải tạo, là “không thể chấp
nhận được về mặt đạo đức”[18]
Tự
do kinh tế, như đã được chứng minh suốt hai thế kỉ qua, đã đưa đến sự
phát triển chưa từng có về mặt tài chính, đã mang tới cho các dân tộc
thực hành nó số tài sản vượt xa ngay cả những vương triều giàu có nhất
thời cổ đại. Nhưng những người chỉ trích vẫn coi tinh thần của tự do
kinh tế là “lòng tham kiếm lời vô giới hạn của các doanh nhân”[19].
Schlesinger, một người ủng hộ nổi tiếng cho nền kinh tế kế hoạch hóa,
coi triết lí tự do kinh doanh là tín điều vô chính phủ: “mọi người phải
tự lo và khôn sống mống chết”[20]. Còn Ronald J. Sider, tác giả cuốn Về những người Thiên chúa giáo giầu có trong thời đại đói nghèo (of Rich Christians in an Age of Hunger), thì cho rằng sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đơn giản chỉ là sản phẩm của lòng tham mà thôi:
Người
ta không thể đọc câu chuyện ngụ ngôn về một người ngu ngốc giàu có
[trong Kinh Tân Ước] mà không nghĩ tới xã hội của chúng ta. Chúng ta hăm
hở làm ra thật nhiều món đồ tinh xảo, xây những ngôi nhà cao hơn và to
hơn, chế ra những phương tiện vận tải nhanh hơn không phải vì những đồ
vật đó làm cho cuộc sống của chúng ta phong phú hơn mà vì chúng ta bị ám
ảnh là phải sở hữu ngày một nhiều hơn. Lòng tham – phấn đấu để càng
ngày càng có nhiều đồ vật hơn – đã trở thành thói xấu chủ yếu của nền
văn minh phương Tây[21]
Những
lời kết án như thế - nhiều lời kết án đến nỗi người ta buộc phải đặt ra
những câu hỏi hiển nhiên như sau: Sự cải thiện to lớn về mặt vật chất,
những loại thuốc cứu người, nền giáo dục đại chúng, không còn nạn
đói, việc xóa bỏ những cơ cấu đã từng nô dịch những người nghèo khổ và
quan niệm về quyền tự do cá nhân, đều xuất phát từ lòng tham, từ sự thèm
muốn, từ ước muốn làm hại những người đồng bào của mình hay sao? Phải
chăng lợi ích kinh tế do hậu duệ của những người đã từng là nô lệ thu
được trong hai trăm năm qua chỉ là vết chàm về mặt đạo đức?
Xin
để cho độc giả tiểu luận này tự trả lời những câu hỏi đó. Nhưng quan
điểm của tôi là: Chủ nghĩa tư bản đã mang lại những cải thiện kinh tế to
lớn cho những dân tộc thực hành nó, đấy là điều không thể tranh cãi.
Nhưng, nếu nhiều người – đặc biệt là những người có quyền đưa ra chương
trình nghị sự cho xã hội - coi thị trường là môn bài của lòng tham, là
sự đồi bại và phá sản về mặt đạo đức, thì các dân tộc sẽ tiếp tục lao
vào chủ nghĩa tập thể và sự can thiệp của nhà nước và thị trường tự do
sẽ thoái hóa thành lừa đảo, hối lộ và tham nhũng, đấy là chợ đen[22].
Trong
khi thiết lập những tiêu chí đánh giá chủ nghĩa tư bản, tôi tin rằng
thị trường tự do phải vượt qua được hai cuộc kiểm nghiệm. Thứ nhất, nó
phải phù hợp với Nguyên tắc Vàng được vinh danh từ thời cổ đại; thứ hai,
xã hội tạo ra hệ thống tư bản chủ nghĩa phải là xã hội đức hạnh đáp ứng
được một số nguyên tắc đạo đức nhất định.
Sống với Nguyên tắc Vàng
Trong nền kinh tế cướp bóc, khó mà thực hiện được Nguyên tắc Vàng: “Cái mình không muốn, chớ làm cho người[iii]”. Nếu
chỉ có thể giành được tài sản bằng cách moi của người khác thì rõ ràng
là người ta không thể trở thành giàu có mà vẫn có thể sống theo Nguyên
tắc Vàng được. Người ta hoặc là phải ăn cắp (mặc dù không ai muốn bị gọi
là kẻ cắp) hoặc là phải sống trong cảnh nghèo nàn (đấy là lí do vì sao
nghèo lại được tư tưởng tôn giáo truyền thống coi trọng đến như thế). Tư
duy truyền thống tuyên bố rằng xã hội được chi phối bởi Nguyên tắc Vàng
phải là xã hội nghèo nàn; và dễ hiểu vì sao một đầu óc bị chi phối bởi
những tư tưởng như thế sẽ coi xã hội tư bản là xã hội cướp bóc.
Nhưng
như Lippmann, Mises, Gilder và những người khác đã biện luận, sự thịnh
vượng của thị trường tự do không phải là kết quả của trộm cắp mà là kết
quả của sự hợp tác và lòng tin giữa các cá nhân với nhau. Luận điểm của
Lippmann về xã hội tốt đẹp là xã hội đức hạnh, xã hội hợp tác, một xã hội chỉ có thể trở thành hiện thực khi thực hành những nguyên tắc của thị trường tự do. Ông viết như sau:
Tất
cả chuyện này [sự thịnh vượng của phương Tây] không phải là do sự khai
sáng tự phát hay cơn bốc đồng của lòng tốt. Bản tính của con người không
thể thay đổi một cách đột ngột được. . . . . Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử loài người con người tìm được biện pháp làm giàu, trong đó vận
may của của tha nhân lại làm gia tăng vận may của chính họ. Khi David
Hume có thể nói (1742) … “Tôi xin đánh bạo mà nói rằng, không chỉ như
một người bình thường mà như một thần dân của nước Anh, tôi cầu nguyện
cho nền thương mại thịnh vượng của nước Đức, nước Tây Ban Nha, nước
Italy và thậm chí của chính nước Pháp nữa” thì đấy là thời khắc vĩ đại
trong lịch sử chinh phục, cướp bóc và áp bức kéo dài. Trước khi Nguyên
tắc Vàng trở thành hợp lí về mặt kinh tế, nhiều người đã không nghĩ như
thế[23].
Muốn làm giàu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, như Gilder nhận xét, trước tiên người ta phải cho chứ
không phải là nhận. “Quà tặng của chủ nghĩa tư bản tiến tiến trong nền
kinh tế tiền tệ được gọi là đầu tư . . . . Món quà đó sẽ chỉ thành công
trong chừng mực nó mang tính vị tha và xuất phát từ việc nhận thức được
nhu cầu của tha nhân”[24]. Mises viết:
Phục
vụ người tiêu dùng là cách làm giàu duy nhất. Nếu không đầu tư vào
những dây chuyển có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của xã hội thì nhà tư
sản sẽ đánh mất vốn liếng ngay lập tức[25].
Trong
hệ thống tự do như thế, người ta chỉ nhận được thù lao khi người bên
cạnh cũng nhận được thù lao. “A” được chỉ lợi — đấy là nói khi tự do
lựa chọn thắng thế - bằng cách cung cấp cho “B” sản phẩm hoặc dịch vụ mà
“B” cảm thấy là đáp ứng được nhu cầu hay sở thích của mình[26].
Nếu tương tác này không còn thì mạng lưới hợp tác phức tạp làm nhiệm vụ
củng cố hệ thống tư bản cũng sụp đổ ngay lập tức. Nếu không tin vào nhà
sản xuất thì người bán sẽ không bán, nếu không tin vào sản phẩm hoặc
dịch vụ hiện có thì người tiêu dùng sẽ không mua. Không thể đầu tư nếu
những người có thể tiết kiệm và đầu tư không còn tin, cũng như chẳng còn
quan tâm tới tương lai nữa.
Như Leonard Read đã chứng minh trong bài báo: Tôi, một chiếc bút chì,
công bố hồi năm 1958 - rằng ngay cả những sản phẩm sơ đẳng được sản
xuất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng là kết quả của sự hợp tác của
hàng ngàn người, thậm chí kể cả những người do tín ngưỡng hoặc chỉ nhìn
thấy thôi mà có thể ghét nhau rồi. Đấy là sức mạnh của thị trường tự do.
Không phải ngẫu nhiên mà, như Hans Sennholz đã chỉ rõ, thế kỉ XIX, một
thế kỉ từng bị những người phê phán coi là một trăm năm bóc lột lại là
thế kỉ hòa bình nhất trong lịch sử loài người[27].
Nền tảng của đạo đức
Vào năm 1776, khi Adam Smith trình bày luận điểm của ông trong tác phẩm Tài sản của các quốc gia (The Wealth of Nations),
ông đã nhận ra rằng trật tự thị trường tự do không xuất phát từ những
người hám lợi, tham lam và ác ý mà xuất phát từ xã hội, trong đó những
giá trị đạo đức được coi là quan trọng, xuất phát từ xã hội, nơi óc sáng
tạo, sự đồng cảm, tính tiết kiệm và trì hoãn thỏa mãn trong hiện tại để
được tưởng thưởng trong tương lai, được mọi người coi là đức
hạnh. Trật tự như thế đã được hình thành ở New England theo Thanh giáo,
đấy là nơi mà đức hạnh - có vai trò sống còn đối với sự hình thành thị
trường tự do – đã trở thành nền tảng cho khu vực tạo ra tinh thần Tự
lực cánh sinh của Mĩ[iv].
Thanh
giáo ban phước lành cho việc theo đuổi những lợi ích như thế (làm việc,
tiết kiệm và kinh doanh) và chỉ rõ rằng ý Chúa - thông qua việc làm
hàng ngày của mỗi người – có thể có lợi cho xã hội nói chung.. . . . Đấy
là do người Thanh giáo … sẵn sàng trì hoãn sự thỏa mãn mà tư bản mới
được tích lũy còn đầu tư thì tạo ra những sản phẩm mới[28].
Ngược
lại, người ta có thể nói rằng những xã hội chỉ muốn trục lợi và có ít
những phẩm chất đạo đức được mô ta bên trên cũng là những xã hội có ít,
thậm chí không có tương lai kinh tế nào. Vì như Novak đã tuyên bố một
cách đầy thuyết phục rằng chủ nghĩa tư bản không phải là kết quả chung
cuộc cuộc của chủ nghĩa duy vật. Mà chủ nghĩa duy vật là khát khao vô
độ, muốn được thỏa mãn ngay lập tức – trái ngược với thị trường tự do.
Ông viết như sau:
Phát
triển kinh tế một cách bền vững không chỉ là sự dư thừa về mặt vật
chất; nó xuất phát từ và tiếp tục đòi hỏi người ta phải có một số phẩm
hạnh. Nếu những phẩm hạnh như thế không còn thì phát triển bền vững cũng
sẽ tiêu ma. Nền văn hóa hưởng lạc, chỉ nghĩ đến mình, có vẻ như sẽ
không đầu tư cho tương lai của chính nó hoặc không chịu thực hiện những
hi sinh cần thiết cho sự thịnh vượng của chính nó[29].
Phát triển kinh tế là kết quả của tự do
Mặc
dù tốc độ phát triển kinh tế ngoạn mục đã xảy ra cách đây hơn 200 năm,
nhưng nếu đặt hai thế kỉ đó trong dòng chảy hàng nhàn năm của lịch sử
nhân loại thì đấy cũng chỉ như là một chớp mắt mà thôi. Mức sống của
những con người mà số phận là phải sống trong đói nghèo và áp bức đã gia
tăng nhanh chóng, có thể là quá nhanh đối với phần đông những người đã
tham gia hay bị lôi kéo vào trật tự tư bản chủ nghĩa. Tự do kinh tế mang
đến cho người ta nhiều lợi ích, nhưng ít người hiểu được vì sao sự
thịnh vượng lại gia tăng một cách bất ngờ đến như thế. Những người sẵn
sàng đi theo những triết lí truyền thống, đã bám chặt vào đầu óc của họ,
dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ rao bán chủ nghĩa tập thể
và ép buộc, coi đấy là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp hơn.
Nhưng
bóng ma của tự do đã thoát ra rồi và con người, ngay cả khi không hiểu
rõ làm sao mà tự do lại tạo cho họ cơ hội kinh tế, cũng đã được nếm hoa
thơm trái ngọt của nó. Vì từng cá nhân đã được tự do, gông xiềng - từng
một thời trói buộc người nô lệ, và thậm chí trói buộc cả những ông vua
chuyên chế của họ nữa – trong thời tiền tư bản ít nhất là đã tạm thời
được tháo bỏ. Vì thế mà người ta có thể ước mơ về một đời sống tốt đẹp
hơn ở ngay chính nơi mà tổ tiên của họ từng phải chấp nhận tình cảnh
nghèo khổ.
Kinh
nghiệm của nền kinh tế tự do làm cho người ta vừa lạc quan lại vừa bi
quan. Lạc quan là vì, như đã thấy trong suốt 200 năm qua, tự do mang đến
cho tất cả mọi người một cuộc sống tốt đẹp hơn, và không còn thế lực có
thể làm người ta phải sợ hãi. Nhưng người ta cũng bi quan vì có quá
nhiều người không hiểu được những đức tính tốt đẹp của nền kinh tế tự do
và vì vậy mà họ quay sang chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa quốc gia với
hi vọng rằng áp chế sẽ giúp họ thực hiện được những giấc mơ của mình.
Nền
kinh tế tự do tạo điều kiện cho người ta trở thành những người đức
hạnh, tạo điều kiện cho người ta thể hiện tinh thần trách nhiệm và lòng
trung thực và được tưởng thưởng vì có những đức tính tốt đó, làm cho
những người đồng bào của mình có một đời sống tốt đẹp, giúp cho thế giới
thoát khỏi dịch bệnh, đói nghèo và những tai họa khác đang săn đuổi
những kẻ yếu đuối nhất trong chúng ta. Nó thúc đẩy hợp tác chứ không
phải là xung đột, nó khuyến khích hòa bình chứ không phải là chiến
tranh.
Khi
Lippmann hô hào những đồng sự của mình quay lưng lại với cuộc vận động
trở về với chủ nghĩa quốc gia trong những năm 1930 thì ông đã bị nhiều
bạn bè, thuộc phái “tự do” chế giễu và tuyên bố là “tên phản động”.
Nhưng hóa ra nhiều quan điểm thấu triệt của ông lại là đúng đắn và nhiều
dự đoán của ông về cuộc chiến tranh sắp tới là chính xác. Hiện nay cũng
vẫn còn đúng.
Thông
điệp của Lippmann và cũng là thông điệp mà 200 năm tự do từng tuyên bố
là: Xã hội tốt, một xã hội trong đó người dân có thể đấu tranh cho công
lí, đức hạnh và một đời sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người chỉ có thể
trở thành hiện thực khi người ta hành động nhằm “bảo vệ và đấu tranh
nhằm hoàn thiện sự tự do của thị trường”[30].
Đấy
không phải là một giấc mơ không tưởng vì những người tin vào không
tưởng thì cũng là những người tin rằng có thể ép buộc con người để họ
trở thành hoàn thiện hơn. Tôi không thể chấp nhận ý tưởng cho rằng vì
một lí do nào đó con người sống trong cái thế giới mà chúng ta đang thấy
sẽ không còn muốn phạm tội nữa. Nhưng thị trường tự do sẽ giúp đỡ con
người - với tất cả những bất toàn của họ - xây dựng được một thế giới
thịnh vượng hơn, dễ chịu hơn, công bằng hơn và đức hạnh hơn.
Nguồn: http://www.thefreemanonline.org/columns/the-virtues-of-the-free-economy/
William Anderson là phó giáo sư kinh tế học tại Frostburg State University.
[1] Michael Novak, “The Economic System: The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” The Review of Politics, Vol. 43 (July, 1981), p. 355.
[2] George Gilder, Wealth and Poverty (New York, 1981), p. 4.
[3] Walter Lippmann, The Good Society (Boston, 1937), p. 204.
[4] Chính
sách Kinh tế mới của Lenin năm 1923, việc Stalin áp dụng mức lương khác
nhau và những cách làm khác của “chủ nghĩa tư bản vào năm 1931 và việc
khuyến khích các công ty tư nhân nhỏ bé ở nước Trung Hoa cộng sản hiện
nay là những thí dụ dễ thấy của việc các chính phủ độc tài, theo đường
lối tập thể, tìm kiếm sự trợ giúp của thị trường tự do.
[5] Novak, p. 365.
[6] J. Kautz thể hiện lí tưởng truyền thống trong tác phẩm Die geschichtliche Entwickelung tier Nationökonomik xuất
bản năm 1860, khi ông mô tả những quan điểm phiếm thần của Hindu giáo.
“Trước hết”, Kautz viết, “nền tảng của toàn bộ lí thuyết kinh tế và xã
hội của Ấn Độ là sự tự chế và hi sinh, thừa nhận vô điều kiện và đề cao
chế độ chuyên chế tuyệt đối, sự phủ nhận giá trị của chính con người…”
[7] Tác phẩm của phái Calvin Westminster Confession of Faith, được
viết từ năm 1643 đến năm1648, bàn về Lời răn thứ 5 (Kính trọng cha mẹ)
đã tìm cách mở rộng khái niệm cha mẹ để đưa vào đó cả “những người đứng
đầu” xã hội nữa.
[8] Thí
dụ trong chế độ quân chủ Pháp từ năm 1666 đến năm 1730 ngành công
nghiệp dệt Pháp phải đương đầu với một núi luật lệ chứa trong 4 tập sách
dày 2.200 trang và 3 cuốn phụ lục nữa.
[9] Arthur M. Schlesinger, Jr., “Neo-Conservatism and the Class Struggle,” The Wall Street Journal, June 2, 1981, p. 30.
[10] Lippmann, p. 194.
[11] Tác phẩm đã dẫn.
[12] Irving Kristol, Two Cheers for Capitalism (New York, 1978), p. 28.
[13] Robert Heilbroner, quoted from Time, April 21, 1980, “Is Capitalism Working?” Heilbroner là người ủng hộ xã hội kế hoạch hóa.
[14] Novak, Toward a Theology of the Corporation (Washington, D.C., 1981), pp. 11-12.
[15] Xem: “Inside North Korea, Marxism’s First ‘Monarchy,’” Reader’s Digest, Feb., 1982.
[16] Lippmann, p. 5.
[17] Trích theo William H. Peterson, “Creating a ‘Negative-Sum’ Society,” Business Week, November 16, 1981, p. 32.
[18] John C. Bennett, “Reaganethics,” Christianity and Crisis, December 14, 1981, p. 339.
[19] “The New Deal in Review, 1936-1940,” The New Republic, 102 (May 20, 1940), p. 707.
[20] Schlesinger, p. 30.
[21] Ronald J. Sider, Rich Christians in an Age of Hunger (Downers Grove, Illinois, 1977), p. 123.
[22] Muốn
tìm hiểu kĩ về nền kinh tế bị nhà nước bóp nghẹt sinh ra thị trường chợ
đen như thế nào, xin đọc Antonio Martino, “Measuring Italy’s
Underground Economy,” Policy Review (Spring, 1981), và mô tả của Ken Adelman về thị trường chợ đen ở nước Tanzania xã hội chủ nghĩa trong “The Great Black Hope,”Harper’s, July, 1981.
[23] Lippmann, pp. 193-194.
[24] Gilder, pp. 24, 27.
[25] Ludwig von Mises, The Anti-Capitalistic Mentality (South Holland, Illinois, 1972), p. 2.
[26] Trong
xã hội kế hoạch hóa, tức là xã hội mà chính phủ thực hiện việc chọn lựa
về mặt kinh tế cho các công dân của họ thì người dân phải “chọn” bất cứ
thứ gì chính phủ cho họ. Nhưng trong những điều kiện như thế sản phẩm
và dịch vụ thường không đáp ứng được ước muốn và kết quả là người tiêu
dùng bị chèn ép, bất mãn.
[27] . Hans Sennholz, “Welfare States at War,” The Freeman (January, 1981).
[28] James T. Laney, “The Other Adam Smith,” Economic Review, October, 1981, p. 28.
[29] Novak, “The Evangelical Basis of a Social Market Economy,” pp. 365-366.
[30] . Lippmann, p. 207.
[i] Mercantilist,
Mercantilism – Thuyết theo đó nhà nước phải hạn chế nhập khẩu, khuyến
khích xuất khẩu để giữ trong kho càng nhiều kim loại quí thì càng tốt.
[ii] Dịch thoát ý từ Constantinianism
[iii] Dịch thoát ý câu “Do not that to another, which thou wuoldest not have tothy selfe”. Tại phương Đông trước đó cả hai ngàn năm Khổng tử đã nói: Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân, nghĩa là cái mình không muốn, chớ làm cho người.
[iv] Dịch thoát ý thuật ngữ Yankee Ingennuity
-
Thị trường và đạo đức (Kì 9)
Mao Vu Thức
Nghịch lí của đức hạnh
Bản dịch tiếng Anh của Jude Blanchette, Phạm Nguyên Trường dịch từ Anh ngữ
Trong tiểu luận này, Mao Vu Thức (茅于轼),
một nhà kinh tế học và đồng thời cũng là một doanh nhân người Trung
Quốc, trình bày kiến giải của mình về vai trò của thị trường trong việc
tạo lập sự hài hòa và hợp tác. Ông làm nổi bật lợi ích của việc tìm cách
hạ giá thành và kiếm lời do những người tham gia vào quá trình trao đổi
thực hiện bằng cách so sánh hành vi “tự tư tự lợi” với những huyền
thoại mà những người phê phán chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Ông đưa ra các
thí dụ từ di sản văn học Trung Quốc cũng như từ kinh nghiệm của mình
(cũng là kinh nghiệm của hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc thí
nghiệm bài trừ chủ nghĩa tư bản kinh hoàng ở nước này).
Mao
Vu Thức là người sáng lập, đồng thời là giám đốc Viện nghiên cứu
Unirule có trụ sở tại Bắc Kinh. Ông là tác giả của mấy cuốn sách và
nhiều bài báo dành cho giới học giả cũng như dân chúng. Ông từng giảng
dạy kinh tế học tại nhiều trường đại học và là người sáng lâp một số quĩ
cứu tế và tổ chức tự lực phi chính phủ đầu tiên ở Trung Quốc và là một
người tranh đấu cho tự do dũng cảm nổi tiếng. Trong những năm 1950 ông
từng bị trừng phạt bằng lao động khổ sai, lưu đầy, “cải tạo” và suýt
chết đói chỉ vì nói: “Nếu không mua ở đâu được thìa dĩa thì giá thìa dĩa
sẽ tăng” và “Nếu Mao chủ tịch muốn gặp một nhà khoa học thì ai phải đến
thăm ai?”. Và năm 2011, ngay trước khi cuốn sách này được đưa đi in, ở
tuổi 82, ông đã viết một luận văn được đăng trên mạng của tờ Caixin với
nhan đề: “Đưa Mao Trạch Đông trở về với hình thức nhân văn”. Bài tiểu
luận này đã mang đến cho ông những lời đe dọa chết người và làm cho ông
càng nổi tiếng hơn vì đấy chính là tiếng nói của lòng trung thực và công
lí. Mao Vu Thức là một trong những nhân vật theo tư tưởng tự do kiệt
xuất trong thế giới đương đại và là một người làm việc không mệt mỏi
nhằm đưa những tư tưởng tự do và trải nghiệm tự do đến với nhân dân
Trung Quốc cũng như nhân dân thế giới.
Xung đột quyền lợi trong Vùng đất của những người quân tử
Khoảng giữa thế kỉ XVIII và XIX một nhà văn Trung Quốc tên là Li Ruzhen đã viết một cuốn tiểu thuyết với nhan đề Hoa trong gương (Flowers in the Mirror).
Cuốn sách kể về một người tên là Tang Ao vì bị thất bại trong công việc
làm ăn cho nên đã theo người anh rể xuất ngoại. Trong cuộc du hành này,
anh ta đã đi qua nhiều nước có phong cảnh rất kì thú. Nước đầu tiên họ
đến thăm có tên là Vùng đất của những người quân tử (The Land of
Gentlemen).
Tất
cả những người ở Vùng đất của những người quân tử đều cố tình chịu đau
khổ để chắc chắn là họ sẽ được những người khác giúp đỡ. Chương 11 kể về
một người cảnh sát (Li Ruzhen cố tình sử dụng nhân vật mà người Trung
Quốc xưa từng quan niệm, lúc đó cảnh sát có nhiều đặc quyền đặc lợi và
hay bắt nạt dân chúng) đi mua hàng:
Sau
khi đã xem xét một số hàng hóa, anh cảnh sát này bảo người bán hàng:
“Bạn ơi, hàng của bạn tốt quá mà giá lại rẻ quá. Làm sao tôi có thể an
tâm khi bạn tỏ ra hào phóng đến như thế? Nếu bạn không nâng giá lên thì
chúng tôi đành không mua nữa vậy”.
Người
bán hàng đáp: “Có ông đến là chúng tôi mừng rồi. Người ta thường nói
người bán thì đẩy giá lên trời còn người mua thì hạ xuống sát đất. Giá
của tôi đã cao ngất trời rồi mà ông còn muốn tôi tăng nữa. Tôi khó mà
đồng ý được. Xin ông đến cửa hàng khác mà mua vậy”.
Sau
khi nghe người bán nói như thế, anh cảnh sát bảo: “Ông đã ra giá thấp
cho những món hàng chất lượng cao thế này. Thế có phải là ông bị thiệt
không? Chúng ta không được lừa dối và phải bình tĩnh. Không phải là mỗi
chúng ta đều biết tính toán cả hay sao”. Sau một hồi tranh cãi mà người
bán vẫn khăng khăng không chịu nâng giá, còn anh cảnh sát thì phát bực
và chỉ mua một nửa số hàng đã chọn mà thôi. Nhưng người bán hàng cản
đường không cho anh ta đi ra. Đúng lúc đó thì có một ông lão đi ngang
qua. Sau khi cân nhắc tình hình, ông già này giải quyết bằng cách buộc
anh cảnh sát phải mua 80% số hàng mà anh ta đã chọn.
Tiếp
theo là câu chuyện mua bán giữa khách hàng cho rằng giá quá thấp mà
chất lượng lại cao, trong khi người bán khẳng định rằng hàng không còn
tươi cho nên chỉ được coi là chất lượng bình thường. Cuối cùng người mua
chọn những món hàng có chất lượng xấu nhất. Đám đông đứng gần đó kết án
người này là “chơi không đẹp”, anh ta đành phải lấy một nửa hàng có
chất lượng cao và một nửa chất lượng thấp. Trong vụ giao dịch thứ ba thì
hai bên cãi nhau về trọng lượng và chất lượng bạc được đem ra thanh
toán. Bên trả nợ khẳng định rằng bạc của anh ta vừa kém về chất lượng
vừa không đủ cân lạng, trong khi bên được trả nợ lại nói rằng bạc có
chất lượng rất cao và đủ trọng lượng. Khi bên trả nợ đi rồi thì bên được
trả nợ thấy rằng anh ta có trách nhiệm tặng số bạc mà anh ta cho là dư
cho một người ăn xin đến từ vùng đất xa xôi.
Cuốn truyện này đặt ra hai vấn đề cần phải nghiên cứu.
Thứ
nhất, khi hai bên đều từ chối phần lợi nhuận mà họ được chia hay đều
khẳng định rằng lợi nhuận của họ là quá cao thì sẽ có tranh cãi. Đa số
những cuộc tranh cãi mà chúng ta gặp trong đời sống là do chúng ta theo
đuổi quyền lợi của chính mình. Kết quả là chúng ta thường mắc sai lầm
khi cho rằng nếu chúng ta chấp nhận quyền lợi của phía bên kia thì sẽ
không còn tranh cãi. Nhưng như đã thấy, trong Vùng đất của những người
quân tử thì coi quyền lợi của phía bên kia làm cơ sở cho quyết định cũng
dẫn tới xung đột và như vậy là chúng ta phải tìm cho ra cơ sở mang tính
logic cho xã hội hài hòa và hợp tác.
Tiến
thêm một bước nữa trong công việc nghiên cứu, chúng ta phải công nhận
rằng trong công việc kinh doanh của thế giới hiện thực cả hai bên đều
tìm kiếm lợi ích của riêng mình và thông qua thương lượng về các điều
khoản (trong đó có giá cả và chất lượng), hai bên có thể đạt được thỏa
thuận. Ngược lại, trong Vùng đất của những người quân tử thỏa thuận như
thế là bất khả thi. Trong cuốn truyện, tác giả phải đưa vào một ông già
và một người hành khất, thậm chí phải viện dẫn đến những biện pháp ép
buộc mới có thể giải quyết được xung đột[1].
Ở đây chúng ta gặp một chân lí quan trọng và sâu sắc: những cuộc đàm
phán, trong đó hai bên đều tìm kiếm lợi ích cá nhân của mình có thể đạt
đến điểm cân bằng, trong khi nếu cả hai bên đều tìm kiếm lợi ích cho
phía bên kia thì họ không bao giờ đạt được đồng thuận. Hơn thế nữa, điều
đó sẽ tạo ra một xã hội suốt ngày tranh cãi với chính mình. Sự kiện này
trái ngược hẳn với kì vọng của đa số người. Vì Vùng đất của những người
quân tử không thể thiết lập được sự cân bằng trong quan hệ của những cư
dân của nó cho nên cuối cùng nó đã biến thành Vùng đất của những kẻ
trục lợi và thô lỗ. Vì Vùng đất của những người quân tử hướng tới quyền
lợi của người khác cho nên nó sinh ra những kẻ đồi bại. Trong khi những
người quân tử không thể tiến hành trao đổi được thì những kẻ trục lợi và
thô lỗ lại có thể giành được lợi thế bằng cách lạm dụng sự kiện là
những người quân tử kiếm lời bằng cách hi sinh quyền lợi của mình. Nếu
cứ tiếp tục như thế mãi thì người quân tử sẽ chết hết và sẽ chỉ còn lại
bọn trục lợi và thô lỗ mà thôi.
Từ
đó ta có thể thấy rằng con người chỉ có thể hợp tác khi họ tìm kiếm lợi
ích của chính mình. Đấy là nền tảng an toàn, chỉ có dựa vào nền tảng
như thế nhân loại mới có thể đấu tranh cho một thế giới lí tưởng. Nếu
nhân loại chỉ tìm kiếm lợi ích cho người khác thì không lí tưởng nào có
thể trở thành hiện thực được.
Dĩ
nhiên là trong khi coi thực tế là xuất phát điểm của mình, muốn giảm
xung đột, chúng ta phải quan tâm tới những người xung quanh và phải tìm
cách ngăn chặn những ước muốn ích kỉ của mình. Nhưng nếu chú ý đến quyền
lợi của người khác trở thành mục tiêu của mọi hành vi của chúng ta thì
nó sẽ tạo ra xung đột giống như Li Ruzhen mô tả trong tác phầm Vùng đất
của những người quân tử. Có thể có người nói rằng những tình tiết tức
cười trong đời sống ở Vùng đất của những người quân tử không thể nào xảy
ra trong thế giới hiện thực được, nhưng, như cuốn sách này dần dần làm
rõ, những sự kiện trong thế giới thực và những sự kiện ở Vùng đất của
những người quân từ đều có những nguyên do giống nhau. Nói cách khác, cả
thế giới hiện thực lẫn Vùng đất của những người quân tử đều không có
nguyên lí rõ ràng về cách thức tìm kiếm lợi ích riêng.
Động
cơ của cư dân Vùng đất của những người quân tử là gì? Trước hết chúng
ta phải hỏi: “Tại sao người ta lại muốn trao đổi?”. Dù là hàng đổi hàng
sơ khai hay việc trao đổi hàng-tiền trong xã hội hiện đại thì động cơ
đằng sau nó vẫn là cải thiện hoàn cảnh của người ta, làm cho đời sống
của người ta thuận lợi hơn và tiện nghi hơn. Không có động cơ như thế,
người ta trao đổi những thứ tự mình phải khó nhọc mới làm ra được để làm
gì? Tất cả những thú vui vật chất mà chúng ta nhận được, từ cái kim sợi
chỉ cho đến tủ lạnh và TV màu đều do trao đổi mà ra. Nếu người ta không
trao đổi thì mỗi người chỉ có thể trồng được thóc và bông trên những
mảnh ruộng ở nhà quê, chỉ có thể sử dụng gạch bằng đất để xây nhà và
chiến đấu với đất đai để giành lấy tất cả những thứ cần thiết để tồn tại
mà thôi. Với cách làm việc như thế, con người chỉ có thể kéo lê đời
sống như tổ tiên ta đã sống hàng chục ngàn năm trước. Chắc chắn là chúng
ta không được thưởng thức bất kì lợi ích nào của nền văn minh hiện đại
ngày nay.
Vùng
đất của những người quân tử đã có nhà nước và thị trường, điều đó chứng
tỏ rằng người dân ở đấy đã rời bỏ nền kinh tế tự cấp tực túc và đã chọn
con đường trao đổi nhằm cải thiện hoàn cảnh kinh tế của mình. Thế thì
tại sao họ lại không nghĩ đến quyền lợi của mình khi tham gia trao đổi
kinh tế? Dĩ nhiên là, nếu ngay từ đầu trao đổi là để làm giảm lợi thế
của mình và tăng lợi thế của người khác thì hành vi “quân tử” là có thể
xảy ra. Nhưng mọi người tham gia trao đổi hay có kinh nghiệm về trao đổi
đều biết rằng hai bên tham gia trao đổi đều tham gia vì lợi ích của
mình, còn người nào hành động ngược lại với quyền lợi của mình trong quá
trình trao đổi là người có động cơ sai lầm.
Có thể thiết lập được xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi mà không cần thương thảo về giá cả hay không?
Trong giai đoạn khi mà cuộc đời và sự nghiệp của Lôi Phong[2] còn
được đề cao ở Trung Quốc người ta thường thấy trên màn ảnh truyền hình
một người tốt bụng và tận tụy như Lôi Phong đang chữa nồi niêu xoong
chảo cho đám đông. Người xem có thể thấy một hàng người trước mặt anh
ta, mỗi người đều cầm những món đồ cũ cần phải sửa chữa. Những hình ảnh
này là nhằm động viên mọi người làm theo người môn đệ đầy lòng từ tâm
của Lôi Phong và làm cho quần chúng chú ý đến anh ta. Nếu hàng không dài
thì bộ máy tuyên truyền không đủ sức thuyết phục. Chúng ta cũng cần ghi
nhận rằng những người xếp hàng với nồi niêu xoong chảo cần phải chữa ở
đó không phải là để học Lôi Phong mà ngược lại, để tìm kiếm lợi ích của
mình trong khi người khác bị thiệt.
Trong
khi chính sách tuyên truyền như thế có thể dạy được một số người làm
việc tốt cho những người khác thì đồng thời nó thậm chí còn dạy cho
nhiều người cách tìm kiếm lợi ích từ những người khác. Trong quá khứ
người ta từng nghĩ rằng tuyên truyền kêu gọi dân chúng làm việc nhằm
phục vụ người khác mà không đòi hỏi thù lao có thể cải thiện được đạo
đức xã hội. Nhưng đây chắc chắn là một sự lầm lẫn lớn vì những người học
cách giành giật lợi ích cá nhân sẽ nhiều hơn nhiều lần số người học
cách làm việc nhằm phục vụ những người khác. Từ quan điểm lợi ích kinh
tế, việc mọi người đều có trách nhiệm phục vụ người khác là việc làm vô
nghĩa. Những người mang đồ đạc đến chữa miễn phí có thể mang cả những
thứ không đáng chữa, thậm chí có thể mang cả những thứ nhặt được từ
thùng rác nữa. Nhưng vì giá chữa những thứ đó là bằng không, thì giờ
vàng ngọc dành để chữa chúng sẽ gia tăng cũng như sẽ gia tăng vật tư quí
hiếm dùng cho việc sửa chữa những món đồ đó. Đấy là do gánh nặng của
việc sửa chữa những đồ đặc đó được đặt lên vai người khác, chi phí cho
việc sửa chữa miễn phí của chủ nhân món hàng chỉ là thời gian chờ đợi mà
thôi. Nếu xét theo quan điểm lợi ích của toàn xã hội thì toàn bộ thời
gian, công sức và vật tư dùng để sửa chữa những món đồ đó chỉ mang lại
những chiếc nồi niêu xoong chảo chẳng có lợi ích bao nhiêu. Nếu thời
gian và vật tư đó được dùng cho những hoạt động có năng suất cao hơn thì
chắc chắn là có thể tạo ra những giá trị lớn hơn cho xã hội. Từ quan
điểm hiệu quả kinh tế và thịnh vượng của cả cá nhân lẫn xã hội thì trách
nhiệm và quá trình sửa chữa không được trả công như thế có hại nhiều
hơn là lợi.
Hơn
thế nữa, nếu những đồ đệ tốt bụng của Lôi Phong lại còn xếp hàng hộ
những người đang cầm xoong chảo đợi chữa thì việc giải thoát cho những
người nghèo đó khỏi cả công việc xếp hàng chán ngắt như thế có thể thậm
chí làm cho hàng còn dài ra hơn. Đấy thật là một cảnh tượng vô lí, một
nhóm thì đứng xếp hàng để cho nhóm người kia không phải làm như thế. Hệ
thống trách nhiệm kiểu đó giả định rằng có một nhóm người muốn được phục
vụ như là điều kiện tiên quyết. Cái đạo đức vị tha như thế không thể là
đạo đức mang tính phổ quát được. Rõ ràng là những người ca ngợi tính ưu
việt của hệ thống mình vì mọi người mà không cần viện dẫn đến giá cả
như thế đã không suy nghĩ vấn đề một cách thấu đáo.
Trách
nhiệm sửa chữa đồ dùng cho người khác còn tạo ra hậu quả phụ mà ít ai
ngờ tới. Đấy là nếu những người từng tham gia vào việc sửa chữa bị các
đồ đệ của Lôi Phong đẩy ra khỏi thương trường thì họ sẽ mất việc và sẽ
gặp nhiều khó khăn.
Tôi
không bao giờ phản đối việc học theo tấm gương của Lôi Phong trong việc
giúp đỡ những người gặp khó khăn, đấy là công việc có ích, thậm chí là
cần thiết đối với xã hội. Nhưng nếu coi việc trợ giúp người khác là
trách nhiệm phải làm thì nó sẽ tạo ra sự rối rắm, hỗn loạn và xuyên tạc
tinh thần tự nguyện của Lôi Phong.
Trong
xã hội của chúng ta có những người rất yếm thế và những người căm thù
cái xã hội mà theo họ là coi đồng tiền là tất cả. Họ nghĩ rằng những
người có tiền là những kẻ không thể chịu đựng nổi và người giàu tự coi
là mục hạ vô nhân, còn người nghèo là những người lo lắng cho quyền lợi
của nhân loại. Họ tin rằng tiền làm méo mó quan hệ bình thường giữa
người với người. Kết quả là họ muốn xây dựng một xã hội dựa trên tinh
thần tương trợ lẫn nhau, không cần nói đến tiền và giá cả. Đấy là xã
hội, nơi người nông dân trồng cấy mà không hề nghĩ đến công xá, nơi
người công nhân dệt vải cho tất cả mọi người, cũng không cần công xá,
nơi người thợ cắt tóc làm việc miễn phí ..v. v.. Xã hội lí tưởng như thế
có thể tồn tại được hay không?
Muốn
trả lời chúng ta phải quay trở lại với lí thuyết kinh tế về sự phân bố
nguồn lực, mà như thế thì sẽ lạc đề và hơi dài. Để đơn giản, xin bắt đầu
bằng một thí nghiệm tưởng tượng như sau. Hãy lấy trường hợp anh thợ
cạo. Hiện nay đàn ông thường cắt tóc ba hay bốn tuần một lần, nhưng nếu
có người cắt miễn phí thì họ có thể đi cắt mỗi tuần một lần. Tiền công
cắt tóc sẽ làm cho lao động của người thợ cạo được sử dụng một cách hữu
hiệu hơn. Trên thị trường, tiền công cắt tóc phụ thuộc tỉ lệ lao động xã
hội làm trong ngành này. Nếu nhà nước giữ giá cắt tóc thấp thì số người
muốn cắt tóc gia tăng, số thợ cạo cũng gia tăng tương ứng và như vậy là
số người làm trong những ngành khác phải giảm, đấy là nói trong trường
hợp lực lượng lao động không thay đổi. Cái gì đúng trong trường hợp thợ
cạo thì cũng đúng cho những ngành nghề khác.
Trong
nhiều khu vực nông thôn ở Trung Quốc giúp đỡ miễn phí là việc bình
thường. Nếu một người nào đó muốn dựng nhà thì tất cả họ hàng và bạn bè
đều đến giúp. Thường là không phải trả tiền, chỉ phải chi phí thức ăn
cho những người đến phụ giúp mà thôi. Lần sau, khi bạn của người đã được
giúp đỡ xây nhà thì anh ta cũng sẽ đến giúp miễn phí. Thợ điện cũng
thường sửa đồ điện miễn phí, chỉ cần tặng quà nhân dịp tết nhất là được.
Những vụ trao đổi phi tiền tệ như vậy không thể là đơn vị đo lường
chính xác lao động đã bỏ ra. Hậu quả là giá trị lao động không được khai
thác một cách có hiệu quả và sự phân công lao động trong xã hội cũng
không được khuyến khích. Tiền và giá có vai trò quan trọng trong sự phát
triển của xã hội. Không được để cho đồng tiền chiếm chỗ của những tình
cảm như tình bạn và tình yêu. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là tình
bạn và tình yêu có thể thay thế được đồng tiền. Chúng ta không thể loại
bỏ được đồng tiền chỉ vì sợ rằng nó sẽ ăn mòn những mối ràng buộc trong
quan hệ của con người với nhau. Trên thực tế, giá cả bằng tiền là phương
pháp hiện có duy nhất để ta có thể phân bố nguồn lực sao cho chúng có
thể được sử dụng một cách hữu hiệu nhất. Nếu chúng ta duy trì cả giá trị
bằng tiền lẫn tình cảm và những giá trị cao quí khác của chúng ta thì
chúng ta có thể hi vọng xây dựng được một xã hội vừa hiệu quả lại vừa
nhân ái.
Sự cân bằng quyền lợi cá nhân
Giả
sử A và B phải chia hai quả táo trước khi ăn. A chạy trước và nhặt được
quả to hơn. B cáu kỉnh hỏi: “Sao anh lại có thể ích kỉ thế nhỉ?”, A vặn
lại: “Thế nếu anh nhặt trước thì anh chọn quả nào?” B đáp: “Tôi sẽ nhặt
quả nhỏ hơn”. A vừa cười vừa nói: “Tôi chả làm đúng như anh muốn là
gì?”
Trong
câu chuyện trên A đã được lợi hơn B, trong khi B theo nguyên tắc “đặt
quyền lợi của người khác lên trên quyền lợi của mình” mà A thì không.
Nếu chỉ một bộ phận trong xã hội tuân theo nguyên tắc này còn những bộ
phận khác không theo thì bộ phận theo sẽ bị thiệt trong khi những bộ
phận không theo sẽ được lợi. Nếu hiện tượng này không được ngăn chặn thì
nhất định sẽ dẫn tới xung đột. Rõ ràng là, nếu chỉ có một số người đặt
quyền lợi của người khác lên trên quyền lợi của mình thì cuối cùng hệ
thống này nhất định sẽ dẫn tới xung đột và hỗn loạn.
Nếu
cả A và B đều quan tâm đến quyền lợi của phía bên kia thì vấn đề chia
hai quả táo bên trên sẽ không thể nào giải quyết được. Nếu cả hai đều
tìm cách ăn quả táo nhỏ hơn thì sẽ xuất hiện vấn đề mới, như ta đã từng
thấy trong Vùng đất của những người quân tử. Cái gì đúng với A và B thì
cũng đúng với tất cả những người khác. Nếu toàn bộ xã hội đều tuân theo
nguyên tắc làm lợi cho người khác, chỉ có một người không, thì cả xã hội
sẽ phục vụ cho người đó; xã hội như thế có thể tồn tại được, đấy là về
lí thuyết. Nhưng nếu cả người này cũng quay ra theo nguyên tắc trên thì
xã hội – như một hệ thống của sự hợp tác – sẽ không thể tồn tại được
nữa. Nguyên tắc mình vì người khác nói chung chỉ khả thi với điều kiện
là những người khác sẽ quan tâm tới quyền lợi của toàn xã hội, còn mình
thì không. Nhưng trên bình diện toàn cầu thì đấy là điều bất khả thi,
đấy là nói trừ phi ta có thể buộc mặt trăng phải quan tâm đến quyền lợi
của dân chúng trên trái đất.
Lí
do của sự rắc rối như thế là vì xét một cách tổng quát thì trong xã hội
không có sự phân biệt giữa “ta” và “người”. Dĩ nhiên là đối với một anh
chàng John hoặc Jane Doe cụ thể nào đó thì “ta” là ta, còn người là
“người”, “ta’ không thể lẫn lộn với “người” được. Nhưng từ quan điểm của
xã hội thì mỗi người đều vừa là “ta” vừa là “người”. Khi nguyên tắc “vì
người trước khi vì mình” được đem ra áp dụng cho anh A thì trước hết
anh A phải suy nghĩ về sự thiệt hơn của những người khác. Nhưng khi
nguyên tắc này được anh B áp dụng thì quyền lợi của anh A lại nằm ở vị
trí quan trọng nhất. Đối với các thành viên trong cùng xã hội đó thì câu
hỏi là liệu họ phải nghĩ đến người khác trước hay những người khác phải
nghĩ đến họ trước sẽ dẫn đến rối loạn và mâu thuẫn. Vì vậy mà, trong
bối cảnh này nguyên tắc vị tha là không phù hợp và mâu thuẫn, và cũng vì
vậy mà không thể dùng để giải quyết nhiều vấn đề xuất hiện trong quan
hệ giữa người với người. Nhưng dĩ nhiên điều đó cũng không có nghĩa là
tinh thần cỗ vũ cho nó không đáng được ca ngợi hay những hành động vì
người khác là không đáng ca ngợi, nhưng nó không thể tạo ra cơ sở mang
tính phổ quát để các thành viên trong xã hội theo trong khi tìm cách bảo
vệ quyền lợi của cả hai bên.
Những
người đã trải qua cuộc Đại cách mạng văn hóa vô sản hẳn còn nhớ rằng
khi khẩu hiệu “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và phê phán chủ nghĩa
xét lại” vang lên khắp đất nước thì cũng là lúc mà những kẻ lắm mưu mô
và nhiều tham vọng lên như diều gặp gió. Thời gian đó đa số người dân
Trung Quốc có thể thực sự tin rằng cuộc “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân và phê phán chủ nghĩa xét lại” có thể trở thành tiêu chuẩn xã hội
và kết quả là họ đã tìm mọi cách để chỉ trích chủ nghĩa cá nhân. Cũng
trong thời gian đó những kẻ cơ hội đã lợi dụng khẩu hiệu này nhằm thu
lợi riêng. Chúng lợi dụng chiến dịch bài trừ bóc lột nhằm biện hộ cho
việc lục soát nhà của người khác và cướp đoạt tài sản của họ. Chúng kêu
gọi người khác bài trừ chủ nghĩa cá nhân và vì lợi ích của cách mạng mà
thừa nhận là những kẻ phản bội, gián điệp hay phản cách mạng và bằng
cách đó ghi thêm cho họ những tội lỗi mới. Không cần suy nghĩ, những kẻ
cơ hội chủ nghĩa đã đẩy tha nhân vào hoàn cảnh đầy nguy hiểm cho cuộc
sống của họ, mà tất cả chỉ nhằm giành một chức vụ nào đó trong chính
quyền mà thôi. Như vậy là, chúng ta đã phân tích những vấn đề lí luận
liên quan đến nguyên tắc “mình vì mọi người”, nhưng Cách mạng văn hóa
còn cho thấy mâu thuẫn của nguyên tắc này khi nó được đem ra áp dụng vào
thực tế.
Trong
kí ức, Cách mạng văn hóa đã phai mờ dần, nhưng chúng ta phải nhớ rằng
lúc đó tất cả các khẩu hiệu đều bị đem ra phê phán và kiểm soát một cách
kĩ lưỡng. Nhưng hiện nay thì không thế nữa, vì khi câu hỏi đặt ra là
phải dùng nguyên tắc nào để xử lí những vấn đề xã hội thì dường như
người ta đã không còn kĩ lưỡng nữa. Chúng ta vẫn sử dụng những biện pháp
tuyên truyền cũ nhằm động viên người dân giải quyết những cuộc tranh
luận, thậm chí ngay cả tại tòa án những phương pháp lỗi thời vẫn có ảnh
hưởng khá lớn.
Những
độc giả đã quen lật đi lật lại vấn đề chắc chắn sẽ có một vài câu để
hỏi về vấn đề chia một cách hợp lí nhất hai quả táo vừa nói. Nếu chúng
ta đồng ý rằng “mình vì mọi người” không thể là nguyên tắc giải quyết
tốt nhất vấn đề chia hai quả táo thì có phải là không có cách nào tốt
hơn hay không? Xin nhớ rằng ở đây có một quả táo to và một quả táo nhỏ
và chỉ có hai người tham gia chia mà thôi. Có thể là ngay cả những những
vị thần bất tử huyền thoại của Trung Quốc cũng thấy khó mà tìm được
giải pháp thỏa đáng?
Nhưng
trong xã hội thị trường câu hỏi hóc búa vừa nói thực ra là có thể giải
quyết được. Hai người đó có thể thảo luận xem phải giải quyết như thế
nào. Thí dụ A lấy quả to hơn với thỏa thuận là lần sau B sẽ được lấy quả
to hơn hoặc nếu A lấy quả to hơn thì B sẽ được đền bù một khoản nào đó.
Món tiền do A trả sẽ giúp giải quyết vấn đề khó khăn này. Trong nền
kinh tế có sử dụng tiền tệ thì chắc chắn là hai bên sẽ áp dụng biện pháp
này. Bắt đầu bằng khoản đền bù nhỏ (thí dụ, 1 xu), số tiền sẽ được nâng
dần lên cho đến khi một bên đồng ý lấy quả táo nhỏ cùng với món tiền
đền bù. Nếu số tiền ban đầu quá nhỏ thì ta có thể cho rằng cả hai bên
đều muốn lấy quả to và trả khoản đền bù nhỏ bé kia. Nhưng khi số tiền
đền bù được nâng lên thì sẽ đến một lúc một trong hai bên đồng ý lấy quả
táo nhỏ cùng với tiền đền bù. Chúng ta có thể nói một cách chắc chắn
rằng nếu hai bên đều đánh giá vấn đề một cách hữu lí thì họ sẽ tìm ra
được biện pháp giải quyết cuộc tranh luận. Và đấy cũng là biện pháp giải
quyết một cách hòa bình khi quyền lợi của các bên xung đột nhau.
Ba
mươi năm sau khi Trung Quốc cải cách và mở cửa, một lần nữa vấn đề giàu
nghèo lại được gióng lên, lòng thù hận với những người giàu có đang
ngày một tăng lên. Trong giai đoạn khi mà người ta tập trung vào cuộc
đấu tranh giai cấp – khởi đầu của mọi phong trào quần chúng – thì những
đau khổ của quá khứ lại được đem ra so sánh với hạnh phúc của ngày hôm
nay. Xã hội cũ bị phủ nhận và sự bóc lột trước đó được sử dụng như là
hạt giống nhằm kích động lòng hận thù của dân chúng. Khi cuộc Cách mạng
văn hóa được khởi động vào năm 1966 (một phong trào nhằm quét sạch những
hiện tượng xấu xa của hệ thống giai cấp cũ), tại nhiều khu vực con cháu
của giai cấp địa chủ đã bị chôn sống, mặc dù đa số địa chủ đã chết từ
trước rồi. Không ai thoát: cả già lẫn trẻ, thậm chí phụ nữ và trẻ con
cũng không thoát. Dân chúng nói rằng phải có lí do thì người ta mới yêu
cho nên cũng phải có lí do thì người ta mới ghét. Lòng căm thù con em
của giai cấp địa chủ xuất phát từ đâu? Nó xuất phát từ lòng tin tưởng
nhiệt thành rằng hậu duệ của giai cấp địa chủ tìm cách bóc lột để tạo
dựng địa vị của chúng. Hiện nay khoảng cách giàu nghèo còn nổi bật hơn
nữa. Và trong khi thừa nhận có những người sử dụng các phương tiện phi
pháp để làm giàu thì trong bất kì xã hội nào khoảng cách giàu nghèo cũng
là hiện tượng không thể tránh được. Ngay cả trong các nước đã phát
triển, nơi những cách làm giàu phi pháp bị ngăn chặn một cách quyết liệt
thì khoảng cách giàu nghèo vẫn là hiện tượng thường thấy.
Lí
lẽ chống lưng cho lòng căm thù những người có của là lí lẽ sai ngay từ
căn cốt. Nếu một người nào đó căm hận người giàu vì anh ta chưa giàu thì
chiến lược tốt nhất mà anh ta có thể áp dụng là trước hết hãy lật độ
người giàu và đợi một thời gian khi đã giàu rồi thì mới ủng hộ việc bảo
vệ quyền của người giàu. Đối với một số nhóm người thì đây là biện pháp
hợp lí nhất. Nhưng đối với toàn xã hội thì không có cách nào phối hợp
tiến trình để cho tất cả mọi người trong xã hội cùng giàu lên với tốc độ
như nhau được. Một số người sẽ giàu trước, còn nếu ta đợi để mọi người
cùng giàu với tốc độ như nhau thì sẽ chẳng có ai giàu hết. Chống lại
người giàu là vô lí vì người nghèo chỉ có thể trở thành giàu có nếu mọi
người và bất kì người nào cũng được bảo đảm có quyền làm giàu, nếu thành
quả lao động không bị xâm phạm, và nếu quyền sở hữu được tôn trọng. Một
xã hội mà trong đó càng ngày càng có nhiều người có tài sản và đồng ý
rằng “làm giàu là vinh quang” thì trên thực tế có thể làm được một cái
gì đó.
Nhà
khoa học Li Ming của Trung Quốc đã viết rằng chia nhân dân thành hai
nhóm “giàu” và “nghèo” là cách phân biệt không đúng giữa hai nhóm người
này. Đúng ra là phải chia thành nhóm những người có quyền và nhóm những
người không có quyền. Ý ông muốn nói là trong xã hội hiện đại, vấn đề
giàu nghèo thực chất là vấn đề quyền. Người giàu trở thành giàu là vì họ
có quyền, còn người nghèo thì không. Quyền mà ông nói tới là quyền con
người chứ không phải là đặc quyền đặc lợi. Không thể có chuyện là tất cả
các công dân đều có đặc quyền đặc lợi được. Chỉ có một nhóm thiểu số có
thể tiếp xúc với đặc quyền đặc lợi mà thôi. Nếu chúng ta muốn giải
quyết vấn đề giàu nghèo thì trước hết chúng ta phải thiết lập nhân quyền
ngang nhau cho tất cả mọi người. Phân tích của Li Minh là sâu sắc và
thấu đáo.
Nguồn: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
[1] Người
ăn mày may mắn là người ngoài, vì nếu ông ta cũng là người sống trong
Vùng đất của những người quân tử thì cuộc cãi vã sẽ chẳng bao giờ kết
thúc được.
[2] Lôi
Phong (18/12/1040-15/08/1962) là một chiến sỹ Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc trở thành anh hùng dân tộc sau khi chết vào năm 1961 trong
một tai nạn giao thông. Phong trào “Học tập đồng chí Lôi Phong” diễn ra
trong toàn quốc được khởi động vào năm 1963, phong trào này kêu gọi nhân
dân Trung Quốc theo gương phấn đấu hi sinh của anh trong việc phục vụ
Đảng cộng sản Trung Quốc và chủ nghĩa xã hội.
Thị trường và đạo đức (Kì 10)
Leonid V. Nikonov
Đạo lí của bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội thị trường.
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này, nhà triết học Nga Leonid Nikonov khảo sát có phê phán
một cách kĩ lưỡng ý tưởng về “bình đẳng” trong nền kinh tế thị trường và
thấy rằng phần lớn những lời phê phán mang tính bài tư bản dựa trên đòi
hỏi về bình đẳng – dù đấy có là bình đẳng về khả năng, bình đẳng về giá
trị hay về kết quả - là không phù hợp. Leonid Nikonov là giảng viên
triết học tại trường đại học tổng hợp quốc gia Altai ở Barnaul, cộng hòa
liên bang Nga. Ông giảng dạy các môn như triết học, bản thể học, nhận
thức luận, và triết học tôn giáo. Hiện nay ông đang viết tác phẩm với
nhan đề Khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tự do (Moral Measurements of Liberalism)
và đã từng công bố nhiều bài viết trên các ấn phẩm mang tính hàn lâm
của Nga. Năm 2010 ông thành lập và sau đó trở thành giám đốc Trung tâm
triết lí của tự do, trung tâm này thường xuyên tổ chức những cuộc hội
thảo và thảo luận cũng như những chương trình khác ở Nga và Kazakhstan.
Ông càng gắn bó hơn với công việc đó sau khi giành giải nhất cuộc thi (ở
Nga) diễn ra vào năm 2007 viết về đề tài Chủ nghĩa tư bản thế giới và quyền tự do của con người,
một cuộc thi tương tự như cuộc thi do quĩ Students For Liberty diễn ra
vào năm 2011 và tham gia giảng dạy cho khóa học về tự do diễn ra vào mùa
hè ở Alushta, Ukraine. (Chương trình lúc đó do Cato.ru, còn hiện nay
thì do InLiberty.ru sắp xếp). Năm 2011 ông được mời làm thành viên trẻ
của tổ chức Mont Pelerin Society, một tổ chức do 39 nhà khoa học thành
lập vào năm 1947 nhằm khôi phục lại những tư tưởng tự do truyền thống.
___
___________________________________________________________
Thị
trường không nhất thiết phải tạo ra kết quả như nhau cũng như không đòi
hỏi mọi người phải có khả năng như nhau. Nhưng để có thị trường thì đấy
là cái giá đáng phải trả. Bất bình đẳng không chỉ đơn thuần là kết quả
bình thường của sự trao đổi trên thương trường. Nó là điều kiện tiên
quyết của quá trình trao đổi, không có nó thì trao đổi sẽ chẳng còn ý
nghĩa gì. Hi vọng rằng những vụ trao đổi trên thương trường và xã hội
thị trường, trong đó tài sản được phân bố thông qua thị trường, sẽ tạo
ra sự bình đẳng là hi vọng hão huyền. Bình đẳng về những quyền căn bản,
trong đó có bình đẳng về quyền tự do trao đổi, là nhu cầu thiết yếu của
thị trường tự do, nhưng đừng nghĩ rằng thị trường tự do sẽ tạo ra kết
quả như nhau cho tất cả mọi người, cũng như thị trường tự do không cần
sự bình đẳng về điều kiện nào khác, ngoài bình đẳng trước pháp luật. Có
thể coi lí tưởng của quá trình trao đổi bình đẳng là sự bình đẳng về khả
năng ban đầu hoặc bình đẳng vể kết quả chung cuộc. Nếu hiểu theo nghĩa
bình đẳng về khả năng thì chỉ có những người ngang nhau về mọi khả năng
liên quan mới có thể tham gia vào quá trình trao đổi bình đẳng, bất kì
sự khác biệt nào cũng tạo ra trao đổi bất bình đẳng, đấy là lí do vì sao
một số người bác bỏ hợp đồng lao động – vì sự bất bình đẳng (và vì vậy
mà bất công) - giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nếu hiểu
theo nghĩa bình đẳng về kết quả chung cuộc thì nghĩa là chỉ những giá
trị ngang nhau mới được mang ra trao đổi hoặc sau khi trao đổi người ta
sẽ nhận được những giá trị như nhau. Thí dụ, cùng một số lượng hàng hóa
với chất lượng như nhau được chuyển từ phía này sang phía kia thì cuộc
trao đổi sẽ đáp ứng được điều kiện bình đẳng. Hãy tưởng tượng một cảnh
kì quái, trong đó hai sinh vật có hình dạng giống như con người, hoàn
toàn giống nhau (để tránh sự khác biệt tạo ra bất bình đẳng), chuyển
giao cho nhau những món đồ hoàn toàn giống nhau. Bỏ qua một bên xúc cảm
thẩm mĩ mà ta có thể có trước bức tranh trái tự nhiên này, ý nghĩa mà nó
có thể gợi ra là ý tưởng về trao đổi bình đẳng là ý tưởng đầy mâu
thuẫn. Trao đổi như thế chẳng làm thay đổi được gì, nó chẳng cải thiện
được địa vị của bất cứ bên nào, nghĩa là chẳng bên nào có lí do để trao
đổi hết. (Karl Marx khăng khăng nói rằng trao đổi trên thương trường là
dựa trên sự trao đổi của những giá trị ngang nhau, điều đó đã tạo ra một
lí thuyết kinh tế vô nghĩa lí và chẳng ăn nhập gì với thực tế hết). Gắn
trao đổi trên thương trường với nguyên tắc bình đẳng là đã tước đi
chính lí do của sự trao đổi, mà lí do là các bên trao đổi để lấy cái tốt
hơn. Về mặt kinh tế học, trao đổi là dựa trên sự công nhận về cách đánh
giá khác nhau của các bên tham gia trao đổi.
Tuy
nhiên, xét về mặt đạo đức, tư tưởng bình đẳng có thể là tư tưởng hấp
dẫn đối với một số người. Đặc điểm chung của nhiều đánh giá mang tính
đạo đức là chúng thường hình thành trên quan niệm về trách nhiệm, chỉ
quan tâm tới việc phải làm chứ không quan tâm tới khía cạnh kinh tế hay
cái thực sự hiện có hoặc thậm chí không quan tâm tới cái sẽ xuất hiện
sau đã làm cái phải làm. Thí dụ, theo Immanuel Kant thì trách nhiệm đòi
hỏi phải thực thi, bất chấp kết quả và hậu quả và thậm chí bất chấp cả
khả năng thực hiện cái cần phải làm. Nói “anh phải” cũng có nghĩa là nói
“anh có thể”. Cho nên, mặc dù bình đẳng trong trao đổi là lố bịch về
mặt kinh tế, nhưng nó vẫn (và đang) được coi là lí tưởng về mặt đạo đức.
Bình
đẳng – như một vấn đề đạo đức – là một chủ đề phức tạp. Chúng ta có thể
phân biệt hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất: bình đẳng là mối quan tâm
chủ yếu (những người theo chủ nghĩa bình quân) và quan điểm thứ hai:
bình đẳng không phải là chủ yếu (những người không theo chủ nghĩa bình
quân). Những người không theo chủ nghĩa bình quân không cần khẳng định
bình đẳng là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn, họ chỉ bác bỏ việc
coi bình đẳng là mục đích nhằm loại bỏ những mục đích khác, đặc biệt là
tập trung vào việc bảo đảm cho sự bình đẳng về mặt vật chất. Những
người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa khẳng định tầm quan trọng của một số
quyền bình đẳng, mà cụ thể là bình đẳng về những quyền căn bản, họ cho
rằng quyền bình đẳng này không phải là bình đẳng về kết quả, cho nên
cũng có thể coi họ là những người theo chủ nghĩa bình quân kiểu khác.
(Người dân trong các xã hội hiện đại và tự do coi bình đẳng về quyền là
nền tảng của luật pháp, của quyền sở hữu và lòng khoan dung). Những
người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa cổ điển và những người theo phái tự
do cổ điển bảo vệ quan điểm của họ, họ coi đấy là hình thức bình đẳng
trong sáng nhất hay phù hợp nhất hoặc ổn định nhất, còn những người biện
hộ cho quyền bình đẳng trong “phân phối” tài sản lại tuyên bố rằng bình
đẳng của phái tự do là bình đẳng chỉ mang tính hình thức, bình đẳng
trên lời nói chứ không phải trên thực tế. (Họ cho rằng bình đẳng trước
pháp luật chỉ là nói về suy nghĩ và hành động của người ta chứ không nói
về tình trạng đáng mong ước của thế giới hay của phân bố tài sản. Coi
cách tiếp cận với quyền bình đẳng như thế chỉ là hình thức chứ không
phải là thực chất phụ thuộc vào quan niệm của người ta về vai trò của
thủ tục pháp lí và tiêu chuẩn hành vi).
Thật
khó thảo luận những vấn đề triết học phức tạp trước khi chúng được
trình bày một cách rõ ràng hoặc được đặt ra một cách đúng đắn. Các nhà
triết học cả ở phương Đông lẫn phương Tây đã nêu ra các học thuyết về
đạo đức cách đây hàng ngàn năm, tức là trước khi có những phân tích về
những đánh giá liên quan đến trách nhiệm và lập luận hiển ngôn. David
Hume là người đầu tiên thực hiện công trình nghiên cứu theo hướng này,
sau đó là Immanuel Kant và những triết gia theo trường phái thực chứng
khác như George Moore, Alfred Ayer, Richard Hare ..v..v..; công việc
nghiên cứu vẫn còn tiếp tục. Mặc dù cuộc tranh luận giữa những người
theo chủ nghĩa bình quân và những người không theo chủ nghĩa bình quân
không chỉ giới hạn trong việc xem xét quan hệ hợp lí giữa bình đẳng và
đạo đức, tìm hiểu mối quan hệ giữa bình đẳng và đạo đức sẽ là đóng góp
có giá trị vào cuộc tranh luận sôi nổi, đang diễn ra hiện nay, về việc
liệu dùng vũ lực để tái phân phối lượng tài sản bất bình đẳng do thị
trường tạo ra là việc làm hợp đạo lí hay là đáng phải bị cấm, nếu xét về
mặt đạo lí. (Điều này khác hẳn với vấn đề là tài sản của những người
chủ sở hữu hợp pháp bị nhà cầm quyền hay những kẻ tội phạm chiếm đoạt
phải được trả về cho khổ chủ).
Xin
xem xét vấn đề đạo đức của sự công bằng thông qua một câu hỏi đơn giản
sau đây: Tại sao bình đẳng - dù đấy là bình đẳng về khả năng ban đầu hay
bình đẳng về kết quả chung cuộc thì cũng thế - về mặt đạo đức, lại ưu
việt hơn là bất bình đẳng (hoặc ngược lại)? Muốn tìm được câu trả lời
cho cuộc tranh luận như thế thì phải hỏi trực tiếp cả những người theo
chủ nghĩa bình quân lẫn những người không theo chủ nghĩa bình quân.
Phạm
vi của những câu trả lời khả thể là có giới hạn. Trước hết, người ta có
thể quyết định những tỉ lệ số học cụ thể nào đó (về bình đẳng hoặc bất
bình đẳng) là tốt hơn những tỉ lệ khác. Thí dụ, tỉ lệ giữa X với Y là
đức hạnh hơn nếu giá trị của các biến số này bằng nhau và kém đức hạnh
hơn nếu các biến số này không bằng nhau, nghĩa là tỉ lệ 1:1 tốt hơn tỉ
lệ 1:2 (và càng đức hạnh hơn so với tỉ lệ 1:10). Mặc dù dường như quan
điểm như thế là rất rõ ràng, nhưng vấn đề đạo đức lại không dễ giải
quyết như thế. Các giá trị không thể được rút ra từ những biểu thức toán
học, bản thân những biểu thức này vốn đã trung tính về mặt đạo đức rồi.
Khẳng định rằng tỉ lệ toán học này là ưu việt hơn tỉ lệ toán học kia là
việc làm cực kì tùy tiện, chẳng khác gì hành động kì quặc của những đồ
đệ của Pythagor, những người đã phân chia các con số thành giống đực,
giống cái, đáng yêu, tốt, xấu ..v..v..
Tốt
hơn là không nên tập trung vào sự bình đẳng về khả năng ban đầu hay kết
quả chung cuộc mà nên tập trung vào đức hạnh của từng cá nhân, coi đấy
là cơ sở để đánh giá những mối quan hệ (trong đó có quan hệ trao đổi)
giữa các cá nhân với nhau. Theo đó: không ai có đức hơn (hoặc kém đức
hơn) người khác hay ngược lại, một số người có đức hơn (hoặc kém đức
hơn) những người khác. Trên cơ sở đó ta có thể nói rằng đòi hỏi bình
đẳng về khả năng ban đầu hay kết quả là đáng mong muốn hay không đáng
mong muốn. Cả hai quan điểm đều cùng hội tụ về một điểm là cần tái phân
phối bằng bạo lực nhằm xóa bỏ hay thiết lập sự bất bình đẳng, trong cả
hai trường hợp, luận cứ quan trọng nhất là đức hạnh của các bên, mặc dù
giữa ý tưởng về đạo đức của người ta và địa vị hiện có của người ta là
những khái niệm cách nhau một trời một vực, không thể nào kết nối với
nhau được. Nói một cách cụ thể hơn thì vấn đề chính là quan hệ giữa, một
bên là đức hạnh và bên kia là số lượng hay giá trị tài sản mà một người
nào đó đang nắm giữ. Chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa mà hỏi rằng
vì sao mỗi buổi sáng hai người đức hạnh như nhau lại phải uống cùng số
lượng hay cùng số tiền cà phê như nhau? Hoặc liệu một người nhân từ và
ông hàng xóm keo kiệt của ông ta, cả hai đều có đạo đức như nhau (hoặc
họ có như nhau không?), lại phải hay không được sở hữu số chậu lan như
nhau? Những người có đạo đức như nhau dường như không có biểu hiện gì rõ
ràng là họ bình đẳng về khả năng hay tiêu dùng hoặc tài sản mà họ nắm
giữ là như nhau. Hãy xem xét quan hệ của hai người chơi cờ có đạo đức
như nhau. Đạo đức như nhau có phải là tài nghệ như nhau hay ván cờ nào
cũng hòa hay không? Hay họ phải theo cùng luật chơi, và điều này sẽ kéo
theo là không thể có qui định mang tính qui chuẩn là tất cả các ván cờ
đều sẽ hòa. Như vậy là, không có mối liên hệ nào giữa đức hạnh với khả
năng ban đầu hay kết quả cụ thể. Nếu chúng ta tập trung chú ý vào hành
vi hay luật lệ chứ không chú ý vào khả năng ban đầu hay kết quả chung
cuộc thì chúng ta sẽ thấy là tình hình công việc là do hành động, sự lựa
chọn và (nhất là trong những trường hợp tội phạm) ý định. Một người có
bao nhiêu tiền trong túi và số tiền này lớn hơn hay nhỏ hơn số tiền
trong túi của người hàng xóm, tự bản thân nó không phải là thành tố mang
tính đạo đức. Vấn đề là số tiền đó từ đâu mà ra. Một ông trùm tư bản
và một người lái taxi đều có thể được coi là người có đạo đức hay không
đạo đức, tất cả phụ thuộc vào việc là hành động của người đó có tương
thích với những tiêu chuẩn đạo đức phổ quát hay là không, thí dụ như họ
có tôn trọng những qui tắc công lí và những tiêu chuẩn đạo đức vốn có
trong họ và trong những người khác hay không. Người ta ca ngợi hay phê
phán một người không phải vì anh ta giàu hay nghèo mà vì hành động mà
anh ta làm. Địa vị khác nhau tạo ra khả năng khác nhau trong việc thực
hiện những hành vi tốt hay xấu, đạo đức hay vô đạo, công bằng hay bất
công, nhưng những tiêu chuẩn vừa nói bên trên - chứ không phải khả năng
ban đầu hay kết quả cuối cùng – mới chi phối hành vi của con người. Sử
dụng một cách bình đẳng các tiêu chuẩn đạo đức là cơ sở để chúng ta đánh
giá hành vi của một người là có phù hợp đạo lí hay không. Bình đẳng về
mặt đạo đức nghĩa là tội ác là tội ác, dù người lái taxi hay một ông
trùm tư bản thực hiện thì cũng vậy mà thôi, và buôn bán trung thực tạo
ra lợi nhuận vẫn là buôn bán trung thực, do hai người lái taxi hay hai
ông trùm tư bản hoặc một ông trùm tư bản và một người lái taxi buôn bán
với nhau thì cũng thế.
Xin
quay trở lại với quan hệ giữa tài sản và bình đẳng. Tài sản mà người ta
có có thể là kết quả của hành vi đúng đắn hay dùng bạo lực cướp đoạt.
Trao đổi trên thị trường tự do có thể tạo ra bất bình đẳng hơn hoặc bình
đẳng hơn, nhà nước can thiệp hoặc tái phân phối cũng có thể tạo ra bất
bình đẳng hơn hoặc bình đẳng hơn. Không thể nói trước được là những hình
thức tương tác như thế là bình đẳng hay bất bình đẳng. Một doanh nhân
có thể tạo ra của cải và vì vậy mà giàu hơn người khác, ngay cả khi tài
sản được tạo ra cũng có lợi cho người kia. Trao đổi trên thị trường tự
do có thể làm cho mọi người bình đẳng hơn: thịnh vượng lan rộng và xói
mòn dần đặc quyền đặc lợi bất công mà một số người được thừa hưởng từ
những hệ thống cũ. Một người ăn cắp của một người nào đó và vì vậy mà có
nhiều tài sản hơn nạn nhân, kết quả là bất bình đẳng hơn; còn nếu hắn
lại bị mất cắp thì sẽ có bình đẳng hơn. Tương tự như thế, sự can thiệp
của các lực lượng cưỡng bức có tổ chức của nhà nước có thể tạo ra sự bất
bình đẳng nghiêm trọng về tài sản – bằng cách chà đạp quyền lựa chọn
của những người tham gia trên thương trường (chủ nghĩa bảo hộ, tài trợ
và “độc quyền để thu lợi”) hoặc đơn giản là sử dụng bạo lực và cưỡng
bức, như đã từng xảy ra trong các nước theo chế độ cộng sản. (Tuyên bố
hi sinh vì bình đẳng không có nghĩa là thực sự tạo ra bình đẳng, như
kinh nghiệm cay đắng của hàng chục năm qua đã cho thấy).
Dù
hệ thống pháp luật hay hệ thống kinh tế có làm cho người ta tiến đến
gần hơn hay xa hơn bình đẳng về thu nhập thì đấy vẫn chỉ là vấn đề thực
tiễn chứ không phải là vấn đề lí thuyết. Báo cáo về mức độ tự do kinh tế
thế giới (The Economic Freedom
of
the World Report -www.freetheworld.com) đo mức độ tự do kinh tế và sau
đó tiến hành so sánh nó với những chỉ số thể hiện mức độ thịnh vượng
khác nhau (tuổi thọ, trình độ học vấn, mức độ tham nhũng, thu nhập tính
trên đầu người..v.v..). Số liệu cho thấy rằng dân chúng trong những nước
có nền kinh tế tự do nhất không chỉ giàu có hơn hẳn dân chúng các nước
có nền kinh tế ít tự do hơn, mà bất bình đẳng về thu nhập (cụ thể là
phần thu nhập quốc dân mà 10% người nghèo nhất được hưởng) không phải là
đặc điểm của những chính sách khác nhau, nhưng tổng thu nhập của họ thì
lại là đặc điểm như thế. Nếu chia các nước trên thế giới thành 4 nhóm
(mỗi nhóm chiếm 25% dân số thế giới) thì phần thu nhập quốc dân mà 10%
người nghèo nhất trong nhóm nước có nền kinh tế ít tự do nhất (trong đó
có những nước như Zimbabwe, Myanmar và Syria) được hưởng trong năm 2008
(năm gần nhất có số liệu) là 2,47%; trong nhóm tiếp theo (đứng tứ ba về
tự do kinh tế) con số đó là 2,19%; nhóm tiếp theo (đứng thứ hai về tự do
kinh tế) con số đó là 2,27%; còn nhóm tự do nhất là: 2,58%. Mức độ dao
động không phải là lớn. Có thể nói bất bình đẳng về kinh tế dường như
miễn nhiễm đối với những qui định của chính sách kinh tế. Nhưng mặt
khác, tổng thu nhập mà 10% người nghèo nhất được hưởng thì lại khác nhau
một trời một vực, biến số này chắc chắn là không miễn nhiễm trước các
chính sách kinh tế. Người nằm trong diện 10% những người nghèo nhất
trong những nước ít tự do kinh tế nhất chỉ có thu nhập trung bình là 910
dollar một năm, trong khi người nằm trong diện 10% người nghèo nhất
trong những nước có nền kinh tế tự do nhất lại có thu nhập trung bình
hàng năm lên tới 8.474 dollar. Dường như đối với người nghèo thì nghèo ở
Thụy Sỹ vẫn tốt hơn là nghèo ở Syria.
Dù
bạn và tôi có khởi đầu bình đẳng trước khi trao đổi hay có tài sản như
nhau sau khi trao đổi thì điều đó, tự nó, cũng không phải là vấn đề đạo
đức. Nhưng mặt khác, không đối xử một cách bình đẳng với những người
bình đẳng với nhau về mặt đạo đức và không để họ được bình đẳng trước
pháp luật – tất cả đều nhằm tạo ra thu nhập bình đẳng hơn (đây dường như
là một công trình không thành công vì khó mà thao túng được kết quả) –
chắc chắn là vấn đề đạo đức rồi. Đấy chính là vi phạm quyền bình đẳng về
mặt đạo đức.
Cuộc
tranh cãi ồn ào nhất về bất bình đẳng về thu nhập lại không phải là
tranh cãi về bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo trong những xã
hội tự do về kinh tế mà là tranh cãi về khoảng cách khổng lồ giữa tài
sản của người dân trong những xã hội tự do về mặt kinh tế và tài sản của
người dân trong các xã hội không được tự do về mặt kinh tế. Khoảng cách
giàu nghèo chắc chắn có thể được giải quyết bằng cách thay đổi luật lệ,
nghĩa là thay đổi chính sách kinh tế. Giải phóng người dân trong những
xã hội không được tự do về kinh tế sẽ tạo ra một lượng tài sản rất lớn,
điều đó sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa những người giàu trên thế giới
và người nghèo trên thế giới hơn bất kì chính sách có thể tưởng tượng
được nào khác. Hơn nữa, điều đó còn có những hậu quả tích cực trong việc
thực thi công lí vì nó chấm dứt việc đối xử bất bình đẳng với người dân
trong các nước có bộ máy cai trị tồi vì nạn ô dù, tập quyền, chủ nghĩa
quân phiệt, chủ nghĩa xã hội và bạo lực. Tự do kinh tế là bình đẳng
trước pháp luật và quyền của mọi người trong việc sản xuất và trao đổi
đều được tôn trọng như nhau, đấy là tiêu chuẩn công lí đúng đắn dành cho
những con người đức hạnh.
Nguồn: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét