Văn hóa xe máy ở Việt Nam
Nghe nhỏ bạn nói ở Ý xe máy chỉ dùng để đi giao báo và cho nhân viên
làm vệ sinh đường phố di chuyển cho thuận tiện. Chẳng biết đúng hay sai
nhưng ở những nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan thì xe
máy cũng chỉ để dùng cho nhân viên giao hàng. Sỡ dĩ như vậy là vì, do
hình dáng nhỏ gọn và khả năng di chuyển nhanh chóng, phương tiện này
được ưa chuộng để đi đến mọi ngõ ngách của thành phố. Thế nhưng xe máy
không phải là phương tiện phổ biến ở các quốc gia này. Người Nhật, người
Hàn và người Đài Loan sản xuất xe máy không phải để bán cho dân của họ.
Họ sản xuất để bán cho các thị trường gắn bó truyền thống với xe máy và
xem xe máy là phương tiện di chuyển chính ở châu Á và châu Phi, trong
đó có Việt Nam.
Đa số những người mới đến Việt Nam lần đầu đều sẽ ngạc nhiên vì đất nước
này có nhiều xe máy quá. Và sẽ xuất hiện trong đầu một câu hỏi là tại
sao người dân ở đây lại sử dụng nhiều xe máy đến như vậy. Câu trả lời
nhanh nhất cho câu hỏi này là vì xe máy tiện lợi và thích hợp. Sở dĩ
nói xe máy tiện lợi là vì như đã nói ở trên, hình dáng và cách thức vận
hành của loại xe này rất nhanh gọn và thích hợp với những con phố
nhiều ngõ nhiều ngách ở Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là văn hóa lề đường.
Nét văn hóa này trải dài từ miền quê cho đến thành phố. Do đó, xe máy
càng được xem là lựa chọn tối ưu cho nét văn hóa lề đường này. Còn khi
nói xe máy thích hợp với dân Việt là bởi số đông dân Việt chẳng thể mua
nổi một chiếc ô tô cho chính mình. Thuế quan dành cho việc mua sắm ô tô
ở Việt Nam rất cao, làm cho giá thành một chiếc xe đội lên gấp 3 lần so
với giá gốc. Sắp tới đây Việt Nam mới bắt đầu dỡ bỏ từ từ thuế ô tô
nhưng cũng theo lộ trình dài hạn. Hệ thống phương tiện công cộng thì
nghèo nàn, chỉ vài ba chiếc xe buýt nhập khẩu xe cũ từ những nước khác.
Chưa kể là những chiếc xe ấy có cái kiểu đón và trả khách rất thiếu an
toàn, cùng với cách di chuyển rất mất trật tự. Thử hỏi, nếu không chọn
lựa xe máy thì còn chọn lựa gì hơn?
Tiến sĩ Alan Phan từ Hoa Kỳ hướng góc nhìn về vùng Đông Nam Á và so sánh
sự khác biệt. Trong khi đa số các quốc gia ở Đông Nam Á đều sử dụng xe
máy nhiều (nhiều nhất là Việt Nam) thì quốc gia mới mở cửa là Myanmar
lại không nhận thấy xe máy là thứ phương tiện an toàn và mang lại lợi
ích cho dân họ. Người Myanmar kiên quyết nói không với xe máy, chắc có
lẽ họ đã nhìn thấy những điều kinh khủng do xe máy gây ra cho giao thông
của Việt Nam. Xe máy là thứ phương tiện “chụp giựt” theo lời của ông
Alan, và bất cứ người nước ngoài nào đến Việt Nam đều phải “ngạc nhiên
và kinh hãi” về thứ phương tiện chụp giựt đó. Sở dĩ nói xe máy là thứ
phương tiện chụp giựt là do tính tiện lợi của nó làm cho người điều
khiển có thể bất chấp mọi thứ để leo lên lề mà đi, băng ẩu qua đường,
vượt đèn đỏ, tấp vào lề đường một cách bất chợt… Mọi thứ dường như quá
hỗn loạn với xe máy. Nét văn hóa xe máy còn thể hiện ở các cô các chị cứ
chiều chiều phóng xe máy đi ăn hàng, cứ thế mà ngồi trên xe dựng sát lề
mà nhâm nhi, thậm chí có khi còn vừa một tay lái xe một tay cầm thức
ăn. Văn hóa xe máy còn thể hiện ở các anh, chạy xe hàng hai hàng ba, đua
xe lạng lách, rồi đến cả cắt đầu xe ô tô bằng xe máy. Văn hóa này chắc
chỉ có ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Thực sự có thể nói giao thông cũng thể hiện một nét văn hóa mà mỗi nơi
đều có sự khác biệt. Ví dụ như ở Mỹ người ta lái xe bên phải, trong khi ở
Nhật, họ lại lái xe bên trái. Chưa kể là mỗi bang ở Mỹ lại có một quy
định riêng về lái xe, và vì thế mỗi bang cũng có một loại giấy phép lái
xe riêng. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng có văn hóa giao thông riêng. Và cái
kiểu giao thông đó gọi là manh múng, chụp giựt và gây hoảng sợ. Cái kiểu
giao thông đi lại bằng xe máy, nên cứ thế mặc định là “ôi dào, đã có xe
máy rồi, đi nhanh ấy mà, phóng một vèo là tới, cần chi mà phải sửa soạn
vội”, và thế là chúng ta cứ chần chừ cho đến gần đến giờ hẹn mới phóng
xe đi, vừa không an toàn, vừa thể hiện suy nghĩ tùy tiện, không chu đáo.
Rồi còn cái kiểu khi kẹt xe thì người này chen người kia, ai cũng muốn
đi nhanh nên biến cả đường phố thành một mớ hỗn độn. Nếu như ở các nơi
khác, luật giao thông đặt ra là để người tham gia giao thông đi cho trật
tự và an toàn, thì ở Việt Nam cũng thế thôi. Nhưng khác nhau là ở chỗ
người tham gia giao thông các nước khác tuân theo luật lệ giao thông một
cách có ý thức, còn ở Việt Nam thì người tham gia giao thông ít có ý
thức hơn, chủ yếu là để đối phó với cảnh sát giao thông. Vui một cái là
người ta hay đổ lỗi cho cảnh sát giao thông Việt Nam hay ăn hối lộ tiền
của người tham gia giao thông, rồi có người nói rằng vì do nhà nước trả
lương cho cảnh sát giao thông ít quá, họ đành ra gác đường để kiếm chút
cháo. Tôi thì nghĩ theo kiểu khác. Do cái máu kém ý thức của dân Việt ra
cả. Nếu chúng ta có ý thức tuân thủ luật giao thông và nắm vững luật
thì chẳng có anh công an giao thông nào ăn được một đồng của chúng ta.
Do dân Việt ý thức kém, nên trả lương cho công an giao thông ít cũng là
cách giúp họ siêng năng ra ngoài canh gác cho những người ý thức kém đi
đứng cho đàng hoàng hơn.
Có lần cô tôi nói, đi xe máy là da thịt bọc khung kim loại, còn đi ô tô
thì kim loại bọc da thịt. Tôi bật cười khi nghe cách so sánh như vậy.
Đáng buồn là ở Việt Nam chẳng có nhiều điều kiện để đi cái xe kim loại
bọc da thịt cho nó an toàn. Đôi khi tôi ước gì Sài Gòn giống như
Washington DC, có hệ thống phương tiện công cộng phục vụ tối ưu cho
người dân di chuyển an toàn và thuận tiện. Tôi ước gì Sài Gòn là
Washington DC, Bình Dương và Biên Hòa là những thành phố vệ tinh cũng
giống như các thành phố của Virginia. Chỉ cần xây dựng hệ thống tàu điện
ngầm nối tuyến xuyên giữa các thành phố thì từ nay chẳng cần phóng xe
máy đi từ Bình Dương đến Sài Gòn và ngược lại, vừa sợ mưa nắng, vừa
chẳng an toàn.
Nói cho cùng, đổ lỗi cho chiếc xe máy là không đúng, phải đổ lỗi cho văn
hóa giao thông manh múng do người điều khiển phương tiện giao thông
kia, và cũng phải đổ lỗi cho hệ thống hạ tầng giao thông quá kém cỏi.
Trong một nền kinh tế, hệ thống giao thông chẳng khác nào huyết mạch để
hàng hóa lưu thông nhanh chóng và thuận tiện. Giao thông yếu kém thì
chẳng khác nào cơ thể kinh tế đang khỏe mạnh chẳng còn sức sống. Mỗi
ngày chỉ tính riêng Sài Gòn và khu vực Đông Nam Bộ, hàng trăm vụ kẹt xe
vào các giờ cao điểm đã làm thiệt hại biết bao nhiêu thứ: thời gian,
tiền bạc, ô nhiễm môi trường…thậm chí tính mạng của bệnh nhân trên các
xe cấp cứu. Kẹt xe quả thật là thảm họa của nền kinh tế, nhưng nguyên
nhân chính của kẹt xe không phải do dân số đông mà là hệ thống hạ tầng
giao thông yếu kém, trong đó có văn hóa xe máy manh múng. Thay vì bỏ
tiền ra biến các vùng đồng bằng cung cấp lương thực cho nhân dân thành
các cánh đồng sân golf mướt mắt, tại sao không dùng số tiền đó đầu tư
cho giao thông công chánh?
Nói đi phải nói lại, cái văn hóa xe máy manh múng và tùy tiện dù cho gây
thiệt hại cho dân Việt rất nhiều, nhưng cũng trở thành một nét văn hóa
đặc trưng của đất nước này. Cũng giống như cà phê phin Việt Nam phải
uống lề đường mới ngon, thì tới Việt Nam rảo quanh phố phường bằng xe
máy mới thú. Ấy chẳng vậy mà cặp diễn viên vàng của Hollywood là
Angelina Jolie và Brad Pitt khi đến Việt Nam lần đầu đã phóng vù vù
trên xe máy dạo phố Sài Gòn đó ư? Và còn nhiều anh Tây cô Tàu cũng tập
xe máy để hòa vào thứ văn hóa ồn ào và đông đúc này. Sài Gòn, Hà Nội
đang xây dựng hệ thống tàu điện cả trên mặt đất, dưới lòng đất và cả
trên cao. Hy vọng trong tương lai hệ thống huyết mạch này sẽ giúp cải
thiện tình trạng giao thông kinh hoàng ở các đô thị lớn của Việt Nam.
Người Việt Nam rồi sẽ văn minh hơn giống như câu nói của hai vị giám đốc
của chương trình phương tiện giao thông đô thị Dario Hidalgo và Madhav
Pai của Embarq – một chương trình sáng kiến về giao thông vận tải bền
vững và phát triển đô thị của Viện Tài Nguyên Thế Giới: “Một quốc gia
phát triển là khi người giàu sử dụng hệ thống phương tiện công cộng.”
Cao Huy Huân
21.11.2014
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
21.11.2014
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)
Những vị khách được nuông chiều hay những nhà yêu nước tận tụy? Người Hoa ở Bắc VN thời kỳ 1954-1978
Bài báo này đánh giá quan hệ ba bên giữa cộng đồng người Hoa ở miền
Bắc Việt Nam, chính quyền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt tập trung
vào ảnh hưởng của mối quan hệ lên bản sắc quốc gia và dân tộc của Hoa
kiều ở miền Bắc Việt Nam, trong thời kỳ 1954 đến 1978. Việc nghiên cứu
kỹ lưỡng hai vấn đề trọng tâm về tư cách công dân và hệ thống trường học
của người Hoa cho thấy các lãnh đạo Bắc Việt Nam thực hiện những chính
sách khoan dung đối với Hoa kiều, chủ yếu bởi họ xem mối quan hệ giữa
nhà nước Việt Nam với cộng đồng người Hoa là nhân tố cốt lõi trong mối
quan hệ của Bắc Việt Nam với Trung Quốc. Các chính sách này rốt cuộc đã
góp phần trì hoãn việc đồng hóa Hoa kiều và tới cuối những năm 1970,
chúng vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ chuyển đổi những đối tượng lưu trú
được ưu đãi thành công dân Việt Nam. Mặc dù nhiều Hoa kiều mang địa vị
người nước ngoài được hưởng đặc quyền, số khác lại sẵn sàng thay mặt
Việt Nam tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau khi tái thống nhất,
với mong muốn làm rõ sự trung thành, nói cách khác là “thanh lọc” quốc
gia – dân tộc, chính phủ Việt Nam đã khởi xướng một quy trình đồng hóa
bắt buộc mang tính quyết đoán. Chính sách này cùng với sự suy thoái
trong quan hệ Việt – Trung cuối những năm 1970 đã làm dấy lên một làn
sóng di cư ra nước ngoài của các Hoa kiều.
Cuối 1977 và đầu 1978, đông đảo Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam bắt đầu
trốn khỏi đất nước, trở thành “những người tị nạn” lênh đênh trên biển
khơi. Cũng khoảng thời gian đó, Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam bắt đầu
vượt biên giới Việt Trung, trở thành những người tị nạn trên đất liền
giống như bộ phận đang vượt biển.[1] Tới đầu tháng 6 năm 1978, số người
tị nạn tại Trung Quốc đã đạt đến con số 100.000. Vào giữa tháng 7, tổng
số người đã vượt mức 160.000.[2] Thành phố Hà Khẩu thuộc tỉnh Vân Nam
Trung Quốc tiếp nhận số người tị nạn cao nhất trong một ngày là hơn
1.900 người; ở Đông Hưng, một huyện biên giới thuộc Quảng Tây, con số
4.000 người mỗi ngày được ghi nhận.[3] Tiếp giáp với Đông Hưng là thành
phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam, nơi người Hoa từng chiếm
80% dân số. Tháng 6 năm 1978, 70% Hoa kiều tại thành phố này cùng với
60% đồng hương ở tỉnh Quảng Ninh đã dời sang Trung Quốc.[4] Lượng người
tị nạn đầu tiên xuất phát từ các tỉnh tiếp giáp Trung Quốc. Tiếp đến,
Hoa Kiều từ những khu vực khác của miền Bắc Việt Nam đã hòa vào dòng
người tị nạn.[5] Cuộc di dời bắt đầu từ những cư dân ở khu vực nông
thôn, nhưng về sau, thành phần tị nạn bao gồm cả những Hoa kiều sống ở
các thành thị.[6] Giữa tháng 7 năm 1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới
với Việt Nam nhằm ngăn chặn dòng người tị nạn, nhưng các nhóm nhỏ vẫn
tiếp tục tràn vào.[7] Tháng 2 năm 1979, khi Trung Quốc khởi động cuộc
chiến kéo dài ba tuần chống lại Việt Nam, 202.000 người tị nạn đã có mặt
tại Trung Quốc. Vài tháng sau cuộc chiến, số người tị nạn vẫn tăng với
tỷ lệ trên 10.000 người mỗi tháng. Năm 1994, ước tính cho hay tổng số
người tị nạn Đông Dương và con cái họ tại Trung Quốc là 288.000, 99%
trong số đó xuất phát từ Việt Nam.[8]
Xét theo nhiều phương diện, cuộc di cư của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam
có sự khác biệt so với những người vượt biên bằng thuyền ở miền Nam
Việt Nam. Trong khi phần đông người vượt biên lựa chọn các nước phương
Tây và các nước châu Á ủng hộ phương Tây, hầu hết người Hoa ở miền Bắc
Việt Nam dời về Trung Quốc. Nhiều người vượt biên ở miền Nam Việt Nam
quyết định rời bỏ đất nước chủ yếu bởi họ nhận thấy khó lòng thích nghi
được với hệ thống xã hội chủ nghĩa mà đặc thù là chính sách tịch thu tài
sản, các trại cải tạo và khu kinh tế mới. Ở miền Bắc Việt Nam, nơi hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã tồn tại hơn hai thập kỷ, nhân tố cốt yếu duy
nhất khiến cho người Trung Quốc phải di dời là sự sụp đổ khối liên minh
Trung – Việt. Sau cùng, ở miền Nam Việt Nam, cuộc di cư của những người
vượt biên không làm cho cộng đồng người Hoa tan biến. Đông đảo cư dân
gốc Hoa vẫn sinh sống tại đây đến ngày nay. Tuy nhiên, ở miền Bắc Việt
Nam, những cộng đồng Hoa kiều rộng lớn không còn tồn tại.[9] Khác biệt
về tình trạng di cư, xét theo chừng mực nào đó phản ánh sự khác biệt về
kinh nghiệm giữa cộng đồng Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam và những người
đồng hương của họ ở miền Nam. Từ năm 1954 đến 1976, chủ yếu vì nguyên do
chia cắt Việt Nam, Hoa kiều ở Việt Nam bị tách thành hai cộng đồng, có
sự khác biệt lớn về quy mô, quyền lực kinh tế, tính đa dạng văn hóa,
ngôn ngữ và nghề nghiệp, xu hướng chính trị và mối quan hệ với chính
quyền sở tại cũng như với Trung Quốc.
Những khác biệt ấy đã đem lại động lực lớn lao cho việc nghiên cứu. Thay
vì nghiên cứu các vấn đề liên quan đến toàn bộ Hoa kiều ở Việt Nam, bài
báo này tập trung vào cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam trong
suốt thời kỳ đất nước chia cắt. Bài viết sẽ nghiên cứu những đặc điểm
riêng biệt của cộng đồng này, mối quan hệ ba bên giữa cộng đồng người
Hoa, chính quyền Bắc Việt Nam và Trung Quốc cũng như ảnh hưởng của hiện
trạng lên bản sắc quốc gia và dân tộc của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam.
Luôn lưu tâm những động lực này, tôi đặc biệt chú ý đến những vấn đề
xung quanh tư cách công dân của người Hoa và hệ thống trường học của
người Hoa. Tôi cho rằng chính sách nhà nước của miền Bắc Việt Nam đối
với người Hoa thời kỳ 1954-1978 khoan dung hơn nhiều so với những chính
sách mà hầu hết các chính phủ Đông Nam Á khác vận dụng, chủ yếu bởi các
nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam xem mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và cộng
đồng người Hoa là nhân tố cốt lõi trong mối quan hệ của Việt Nam với
Trung Quốc. Sự ưu đãi của chính quyền Bắc Việt Nam dành cho Hoa kiều góp
phần vào nỗ lực duy trì và củng cố khối liên minh giữa Bắc Việt Nam và
Trung Quốc. Một phần kết quả của sự ưu đãi này là quá trình đồng hóa
người Hoa thành cộng đồng người Việt đã bị trì hoãn. Cuối những năm
1970, cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam vẫn chưa hoàn tất việc
chuyển đổi từ cộng đồng lưu trú sang nhóm dân tộc bản địa. Quá trình
đồng hóa bị trì hoãn và sự suy thoái trong quan hệ Việt – Trung những
năm cuối 1970 là những lý do quan trọng nhất cho sự di dời của Hoa kiều
ra khỏi miền Bắc Việt Nam.
Những đợt di cư
Cuộc di dời của cư dân từ nhiều vùng miền – nay là lãnh thổ Trung Quốc –
đến khu vực Đồng bằng Sông Hồng bắt đầu từ thời tiền sử. Nhiều nghiên
cứu cho thấy các bộ tộc Lạc Việt cổ đại định cư ở miền nam Trung Quốc
trước khi chuyển đến Đồng Bằng Sông Hồng. Người ta tin rằng vua An Dương
Vương huyền thoại, vị vua đã kết thúc triều đại của các vua Hùng, xuất
thân từ vùng tây nam Trung Quốc. Cuộc xâm chiếm Đồng Bằng Sông Hồng của
nhà Tần và Vương quốc Nam Việt đã đưa cư dân từ vùng đất phía bắc sang
lãnh địa mà sau này được biết đến như miền Bắc Việt Nam.[10]
Suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của Trung Quốc (111 TCN đến 939 SCN), một
dòng người liên tục di cư từ phương bắc đến Đồng Bằng Sông Hồng. Có thể
phân chia họ thành nhiều nhóm, nhóm đầu tiên bao gồm quan lại, tướng
lĩnh, lính và gia đình họ. Một số thành viên trong nhóm này ở lại Việt
Nam vĩnh viễn, hòa nhập với cư dân bản địa và sau khi tướng của triều
Hán là Mã Viện dẹp trừ tàn bạo cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm
42 SCN, họ nổi lên như những gia tộc Hán – Việt đầy quyền lực.[11] Một
số nguồn khẳng định rằng phần đông quân lính của Mã Viện đã định cư ở
miền Bắc Việt Nam và ngày nay vẫn có thể nhận diện hậu duệ của họ.[12]
Sau khi nhà Hán sụp đổ, nhiều người Hoa có thế lực chuyển đến Đồng Bằng
Sông Hồng nhằm tránh xa thời kỳ hỗn loạn ở Trung Quốc.[13] Các quan lại
người Hoa tiếp tục di cư thời kỳ triều nhà Tùy và nhà Đường trị vì tiếp
nối. Nhóm thứ hai bao gồm các thương nhân, thợ thủ công và thường dân,
họ tự chuyển đến Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội của riêng mình. Trong đó
có cả người tị nạn chạy trốn khỏi Trung Quốc để tránh những tai ương về
chính trị, kinh tế và xã hội. Nhóm cuối cùng là các phạm nhân được đưa
đến vùng biên giới để thi hành án.[14] Tổng dân số miền Bắc Việt Nam vào
thế kỷ thứ 3 và thứ 4 SCN theo ước tính là vào khoảng 500.000, trong số
đó người Hoa chiếm 10.000 đến 100.000.[15] Những người nhập cư thế hệ
đầu rốt cuộc đã bị đồng hóa; một số hậu duệ của họ, theo tranh luận, là
những người tham gia tích cực trong các phong trào độc lập chống Trung
Quốc vào thế kỷ thứ 6 và thứ 10.[16]
Sau khi Việt Nam giành độc lập vào thế kỷ thứ 10 SCN, Trung Quốc không
còn đưa quan lại, tướng lĩnh, lính và phạm nhân tới Việt Nam nhưng những
người nhập cư và tị nạn vì lý do chính trị và kinh tế vẫn tiếp tục
chuyển đến. Nhìn chung, nhà cầm quyền Việt Nam khuyến khích người Trung
Quốc đồng hóa thông qua đối xử bình đẳng, thậm chí là có lợi cho những
cư dân gắn bó lâu dài và để mắt đến những vị khách nhất thời.[17] Châu
Hải chỉ ra rằng, những đợt di cư quy mô lớn của người Hoa vào Việt Nam
thường diễn ra trong các thời kỳ Trung Quốc có biến động về chính
trị.[18] Chẳng hạn, cuộc xâm chiếm của người Mông Cổ ở Trung Quốc đã
khiến một bộ phận người Hoa trốn chạy đến miền Bắc Việt Nam.[19] Do
những tương đồng về hoàn cảnh chính trị và văn hóa, người Hoa nhập cư có
khả năng giành được những vị trí quan lại ở Việt Nam khá dễ dàng. Danh
sách những nhà khoa bảng đỗ đạt các kỳ thi tuyển công chức triều đại Lý
và Trần cho thấy họ gốc Hoa chiếm tỷ lệ cao.[20] Quan lại và lính tráng
Trung Quốc một lần nữa chuyển đến Việt Nam trong thời kỳ quân Minh chiếm
đóng (1407-1427). Sau khi Việt Nam giành độc lập, số người Hoa có mặt ở
Việt Nam được phép lưu lại.[21] Cuộc xâm lược Trung Quốc của người Mãn
Châu vào thế kỷ thứ 17 đã dấy lên một làn sóng nhập cư mới, bộ phận nhập
cư người Hoa này trở thành thợ mỏ, thương nhân, nông dân cũng như quan
lại và lính tráng tại Việt Nam.[22] Ở miền Bắc Việt Nam, Hoa Kiều có tầm
ảnh hưởng lớn đối với nghề làm gốm và nghề khai thác mỏ.[23] Họ cũng
hoạt động mạnh ở Phố Hiến, một trung tâm thương mại sầm uất tại Hưng
Yên. Ước tính có khoảng 56.000 người Hoa sống ở Bắc Kỳ vào thế kỷ thứ
18.[24] Bộ phận đông đảo những người nhập cư mới cho phép họ tạo dựng
những cộng đồng riêng, một trong số đó được biết đến với cái tên Minh
Hương.[25] Sau khi Việt Nam chinh phục Chăm Pa và Đồng Bằng Sông Cửu
Long, càng nhiều dân nhập cư Trung Quốc bắt đầu đổ về miền Trung và miền
Nam Việt Nam. Trên thực tế, các thủ lĩnh đất Việt sử dụng lực lượng Hoa
kiều trốn chạy sang Việt Nam sau cuộc xâm lăng của người Mãn Châu làm
đội quân tiên phong để mở rộng cõi Nam.[26] Châu Hải chỉ ra rằng trước
thế kỷ thứ 17, người nhập cư Trung Quốc ở Việt Nam dễ bị đồng hóa vào xã
hội bản địa. Về sau, dân số Hoa kiều lớn mạnh, đủ để hình thành những
cộng đồng riêng. Những cơ cấu xã hội này rốt cuộc trở thành một trở ngại
cho quá trình đồng hóa.[27]
Đầu thế kỷ thứ 19, triều Nguyễn thừa nhận một cơ cấu trong đó người Hoa ở
Việt Nam được phân chia thành nhiều cộng đồng dựa trên thổ ngữ. Mỗi
nhóm do một người đứng đầu, có nhiệm vụ truyền đạt chỉ dụ của chính
quyền, thu thuế và hòa giải tranh chấp.[28] Cai Tinglan, một vị quan
kiêm học giả Trung Quốc phải ghé vào Việt Nam tránh bão vào năm 1835,
nói rằng ông gặp người Hoa ở khắp nơi ông đặt chân đến, dọc miền Trung
và miền Bắc Việt Nam. Hầu hết những người ông tiếp xúc xuất thân từ
Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây. Họ chủ yếu là thương nhân, trong số
đó có cả quan lại và ngư dân. Ông khẳng định rằng Hoa Kiều có cộng đồng,
khu định cư và người lãnh đạo riêng. Cai nhận thấy chính quyền giảm
thuế và trao đặc quyền thương mại cho người Hoa, việc kết hôn khác tộc
giữa đàn ông Hoa và phụ nữ Việt thường xuyên diễn ra và nhìn chung người
Hoa giàu có hơn người Việt bình thường.[29]
Thời kỳ Pháp đô hộ, người Hoa tiếp tục di cư đến Việt Nam và cộng đồng
người Hoa ở miền Nam Việt Nam phát triển nhanh hơn nhiều so với ở miền
Bắc. Tại miền Bắc Việt Nam, phiến quân, cướp và những đội quân người Hoa
hoạt động rất tích cực thời kỳ những năm 1860 đến những năm 1880.[30]
Nhân vật nổi tiếng Lưu Vĩnh Phúc và đội quân Cờ Đen của ông đã khuấy đảo
người Pháp, giết chết những tên thực dân đình đám như Francis Garnier
và Henri Riviere.[31] Một số phiến quân là thành viên của nhóm người Hoa
không thuộc Hán tộc đến từ Quảng Tây. Ở Việt Nam ngày nay tồn tại những
thông tin xác nhận người Tày là hậu duệ của quân Cờ Đen.[32] Vài người
Hoa còn dính líu đến việc bắt cóc phụ nữ và trẻ em Việt Nam bán sang
Trung Quốc.[33] Hoạt động trọng yếu nhất của người Hoa ở miền Bắc Việt
Nam có lẽ là khai thác mỏ.[34] Ước tính cho thấy người Hoa điều hành hầu
như toàn bộ 124 hầm mỏ ở miền Bắc Việt Nam vào cuối thế kỷ 19.[35] Đầu
thế kỷ 20, một bộ phận người Hoa ở Việt Nam tham gia vào cuộc cách mạng
của Tôn Dật Tiên chống lại triều Thanh và sau khi nhà Thanh sụp đổ,
chính quyền Trung Hoa Dân Quốc nỗ lực bảo vệ người Hoa tại Việt Nam.[36]
Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc cũng thiết lập hai tòa lãnh sự ở miền
Bắc Việt Nam. Chính quyền của Tưởng Giới Thạch dàn xếp hai thỏa thuận
với Pháp thời kỳ những năm 1930, trao cho người Hoa địa vị “ngoại kiều
được hưởng đặc quyền”. Về lý thuyết, họ được đối đãi như người Pháp và
hưởng nhiều đặc ân hơn cả bản thân người Việt.[37] Thái độ của người
Pháp đối với người Hoa mang tính mâu thuẫn,[38] nhưng theo lập luận
thuyết phục của Alain Marsot thì chủ nghĩa thực dân Pháp đã thúc đẩy
tình trạng nhập cư của người Hoa bởi nó đem lại an ninh, cơ hội thương
mại cùng nhu cầu về lao động.[39]
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Quân đội Trung Hoa Dân Quốc chiếm
đóng miền Bắc Việt Nam trong thời gian ngắn. Thời kỳ này góp phần củng
cố mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa kiều và nâng cao vị thế của người
Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Thông qua một thỏa thuận Trung – Pháp được ký
kết vào năm 1948, các lãnh sự Trung Quốc có quyền phủ quyết đối với các
ứng viên cho chức vụ lãnh đạo cộng đồng người Hoa tại địa phương. Thỏa
thuận cũng tuyên bố Hoa kiều tại Việt Nam có quyền tự do đi lại và giao
thương, đồng thời duy trì địa vị cá nhân và gia đình theo tập quán của
người Hoa.[40]
Các đặc điểm của cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam
Cộng đồng người Hoa có mặt tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng thời gian
từ 1954 đến 1978 khác biệt so với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt
Nam về một số phương diện. Trước hết, vì người Hoa hiện diện ở miền Bắc
Việt Nam từ thời cổ đại, có thể khẳng định rằng các cộng đồng Hoa kiều ở
khu vực phía bắc có lịch sử lâu đời hơn nhiều so với các cộng đồng phía
nam. Mặc dù sau vài thế hệ, thông thường người Hoa nhập cư bị đồng hóa,
nhưng dòng nhập cư liên tục những cư dân mới trên thực tế đảm bảo cho
một sự hiện diện rõ ràng của Trung Quốc (ở Việt Nam) kể từ năm 111 TCN.
Dù cộng đồng Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với miền Nam,
miền Nam Việt Nam lại là điểm đến mà nhiều người Hoa lựa chọn để tái
định cư suốt thời kỳ Pháp thuộc. Những biến đổi chính trị và xã hội về
sau cũng góp phần vào sự dao động về quy mô dân cư giữa hai cộng đồng.
Khi Chiến tranh Đông Dương lần I nổ ra vào năm 1946, một bộ phận người
Hoa rời miền Bắc tới miền Nam Việt Nam,[41] số khác quay trở về Trung
Quốc.[42] Năm 1954 khi Việt Nam bị chia cắt, gần 60.000 người Hoa di cư
từ Bắc vào Nam.[43] Đồng thời trong khoảng thời gian đó, những nhà Cộng
sản Trung Quốc cũng chuyển từ Nam ra Bắc,[44] nhưng với số lượng nhỏ.
Tồn tại những ước lượng khác nhau về số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam.
Các viên chức thực dân Pháp ước tính vào năm 1886, có 7.467 người châu Á
ngoại quốc ở Bắc Kỳ; Alain Marsot tin rằng tất cả đều là người Hoa. Năm
1906 và 1907, có khoảng 30.000 người Hoa ở Bắc Kỳ. Số người Hoa ở Bắc
Kỳ tăng lên 32.000 vào năm 1911; 41.800 vào năm 1913; 46.000 vào năm
1926; và 52.000 vào năm 1931.[45] Chính quyền Bắc Việt Nam tuyên bố có
1,5 triệu người Hoa tại Việt Nam vào năm 1951, trong đó 1,4 triệu ở miền
Nam, 53.000 ở miền Trung và 90.000 ở miền Bắc Việt Nam.[46] Một số liệu
khác ước tính rằng 170.000 người Hoa có mặt tại miền Bắc Việt Nam năm
1955,[47] nhưng Alain Marsot lại tuyên bố chỉ có 50.000 người Hoa ở miền
Bắc Việt Nam thời kỳ 1957, chiếm 0,4% dân số bản địa. Tỷ lệ này thấp
hơn nhiều so với con số tổng thể ở Đông Nam Á, vào khoảng 5%. Trên thực
tế, trong số tất cả các khu vực và quốc gia ở Đông Nam Á, miền Bắc Việt
Nam có tỷ lệ người Hoa thấp nhất trên dân số vùng.[48] Theo Victor
Purcell, tổng số Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam là khoảng 55.000 người vào
năm 1960, nhưng một cuộc điều tra dân số chính thức của Việt Nam được
tiến hành cùng năm lại báo cáo có 174.644 người Hoa tại đây, chiếm 1,1%
tổng dân số.[49] Hai học giả khác đưa ra số liệu 190.000 người Hoa ở
miền Bắc Việt Nam năm 1965.[50] Chính quyền Việt Nam sau thống nhất ước
tính số người Hoa ở miền Bắc Việt Nam vào những năm cuối 1970 trước khi
họ dời đi là trên 200.000,[51] và một học giả khác cho hay vào năm 1978,
có 300.000 người Hoa ở miền Bắc Việt Nam.[52]
Những số liệu khác biệt phần nào bắt nguồn từ sự thiếu thống nhất về mặt
học thuật trong định nghĩa về người Hoa. Vài số liệu rõ ràng không bao
gồm người Hoa ở vùng nông thôn trong khi những số liệu khác lại bao gồm
không chỉ người Hoa ở nông thôn mà cả những nhóm người Hoa không thuộc
Hán tộc. Chẳng hạn, theo một nghiên cứu, người Hoa chiếm đến 78% dân số
Hải Ninh thời kỳ 1946 đến 1954, bởi trong nghiên cứu này, 100.000 người
Nùng ở Hải Ninh được xem là người Hoa. Vấn đề tranh cãi đó là người Nùng
có xuất thân từ tầng lớp nông dân người Hoa thuộc Hán tộc, được gọi là
người Nùng sau năm 1885, chủ yếu là do người Pháp không muốn thừa nhận
họ là người Hoa vì những lý do chính trị.[53] Vấn đề tương tự phát sinh
khi nhận diện cộng đồng Minh Hương. Triều Nguyễn phân chia họ thành một
nhóm riêng biệt nhưng lại trao cho họ hầu hết quyền lợi mà công dân Việt
Nam được hưởng. Thời kỳ thuộc địa, có khi họ được đối đãi như người
Việt, có khi lại như người Hoa. Mọi việc rắc rối hơn ở chỗ, vào cùng một
thời điểm lịch sử, có những cá nhân được đối đãi như người Việt, trong
khi số khác lại được xem là người Hoa.[54]
Hai cộng đồng còn có sự khác biệt về mặt phân bổ địa lý. Hầu hết người
Hoa ở miền Nam Việt Nam sống trong thành thị và Sài Gòn là một trong
những điểm tập trung đông đảo nhất của người Hoa nhập cư ở Đông Nam
Á.[55] Tại miền Bắc, số người Hoa sống ở các thành phố lớn là khá ít ỏi.
Người Hoa không còn tập trung ở khu vực thành thị. Số người Hoa sống ở
Hà Nội theo ước tính là 2.000 vào năm 1913;[56] 4.200 vào năm 1920;[57]
5.000 vào năm 1931; 15.000 vào năm 1948;[58] 10.000 vào năm 1968;[59] và
13.000 vào năm 1978.[60] Hải Phòng có 8.500 người Hoa vào năm 1913;[61]
10.250 vào năm 1920;[62] 19.000 vào năm 1931[63] và hơn 30.000 vào
những năm 1970.[64] Hầu hết người Hoa sống ở khu vực nông thôn thuộc các
tỉnh giáp ranh với Trung Quốc, đặc biệt là tỉnh Quảng Ninh.[65]
Giữa hai cộng đồng còn tồn tại những khác biệt sâu xa hơn. Về tự nhiên,
cộng đồng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam gần Trung Quốc hơn rất nhiều so
với cộng đồng ở miền Nam Việt Nam, phần đông sống dọc biên giới Việt –
Trung. Tiềm lực kinh tế của người Hoa ở miền Bắc Việt Nam không đáng kể
so với những đồng hương người Hoa ở miền Nam. Trong khi người làm kinh
doanh chiếm một tỷ lệ lớn dân số Hoa kiều ở miền Nam, nghề nghiệp của
người Hoa ở miền Bắc Việt Nam lại đa dạng hơn. Sau cùng, cư dân người
Hoa ở miền Bắc Việt Nam thuộc nhiều dòng dõi khác biệt. Hầu hết người
Hoa ở miền Nam đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến. Tại miền Bắc Việt Nam,
ngoài những cộng đồng đến từ Quảng Đông và Phúc Kiến còn có những cộng
đồng quy mô lớn bắt nguồn từ Quảng Tây và Vân Nam.[66]
Cần lưu ý rằng người Hoa thuộc Hán tộc không phải là nhóm người duy nhất
di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam. Trong số 54 dân tộc Việt Nam được
nhận diện chính thức, hơn 20 dân tộc bao gồm những người Hoa nhập cư
trong vài thế kỷ gần đây. Chỉ có hai dân tộc Hoa và Ngái nằm trong danh
sách người Hoa thuộc Hán tộc theo hệ thống phân loại chính thức của
người Hoa. Bài báo này chỉ xét đến dân tộc Hoa và Ngái, bỏ qua nhóm
người không thuộc Hán tộc.[67] Đồng thời tôi cũng không đề cập đến bộ
phận chuyên gia người Hoa thuộc bộ máy quân sự và chính trị, những người
có mặt tại Việt Nam từ 1954 đến 1978.
Địa vị công dân ở miền Bắc Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chú ý đến bộ phận người Hoa ở Việt Nam
ngay sau khi thành lập vào năm 1930. Chủ trương chính trị đầu tiên của
Đảng xem người lao động gốc Hoa là đồng minh của những nhà cách mạng
Việt Nam.[68] Sau đó, Đảng giải thích khối liên minh này bắt nguồn từ
thực tế rằng cư dân gốc Hoa ở Đông Dương thuộc về một quốc gia nửa thuộc
địa. Họ không được hưởng các đặc quyền của người phương Tây và bị người
phương Tây bóc lột về nhiều mặt.[69] Khi Chiến tranh Đông Dương lần I
nổ ra vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hứa hẹn rằng sau khi đội ngũ
Cộng sản đánh bại thực dân Pháp, người Việt và người Hoa sẽ cùng chung
sống hạnh phúc tại Việt Nam.[70] Năm 1951, chính quyền Bắc Việt Nam
tuyên bố người Hoa được hưởng các quyền lợi tương tự như công dân Việt
Nam.[71] Khi hầu hết các quốc gia mới độc lập ở Đông Nam Á quyết định áp
dụng chính sách đồng hóa bắt buộc đối với cộng đồng người Hoa và xóa bỏ
mối liên hệ giữa cộng đồng người Hoa với Trung Quốc, thì chính quyền
Bắc Việt Nam lại thông qua chính sách bình đẳng và khoan dung đối với cư
dân gốc Hoa đồng thời thắt chặt mối dây ràng buộc giữa Trung Quốc và cư
dân bản địa của mình. Trên thực tế, những năm cuối 1940 và 1950, những
người Cộng sản Việt Nam đã chuyển giao phần lớn trách nhiệm tổ chức cộng
đồng Hoa kiều cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bởi họ tin rằng
“ĐCSTQ có thể tổ chức cộng đồng Hoa kiều hiệu quả hơn”. Chi nhánh nội
địa của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở miền nam Quảng Đông đã gửi những cán
bộ nòng cốt cả về chính trị và quân sự đến miền Bắc Việt Nam nhằm tạo
lập các cơ sở của đảng cũng như đơn vị quân đội trong lòng cộng đồng Hoa
kiều.[72]
Sự chia cắt và nền độc lập của Việt Nam vào năm 1954 đã khiến cho việc
giải quyết địa vị công dân người Hoa sống ở hai miền đất nước trở thành
vấn đề cấp bách, một hiện trạng tồn tại ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
mới giành độc lập. Vấn đề trầm trọng thêm khi người Mãn Châu và các
chính quyền Trung Hoa Dân Quốc thông qua nhiều đạo luật về quốc tịch,
thừa nhận lưỡng quyền công dân và quyền công dân theo huyết thống.[73]
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa áp dụng chính sách tương tự khi nắm quyền
vào năm 1949. Năm 1952, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua một chỉ thị
trong đó phân biệt tất cả Hoa kiều là “những người lưu trú gốc Hoa”.[74]
Tuy nhiên, trong một nỗ lực giành lấy niềm tin từ các nước Đông Nam Á,
năm 1955, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã tuyên bố tại hội nghị
Bandung rằng Trung Quốc đã thay đổi chính sách và không còn ủng hộ lưỡng
quyền công dân. Thay đổi này có nghĩa là những Hoa kiều đã nhập quốc
tịch nước ngoài thì không còn là công dân Trung Quốc nữa. Những người
không nhập quốc tịch nước ngoài vẫn được xem là kiều bào Trung Quốc,
nhưng họ phải tôn trọng phong tục tập quán và tuân thủ luật pháp của
quốc gia nơi họ cư trú.
Không bao lâu sau khi Trung Quốc tuyên bố thay đổi chính sách, miền Nam
Việt Nam bắt đầu buộc cư dân Hoa kiều nhập tịch. Từ tháng 12 năm 1955
đến tháng 9 năm 1956, chính quyền ban hành bốn sắc lệnh quy định tất cả
những người Hoa sinh ra ở Việt Nam sẽ tự động trở thành công dân Việt
Nam. Trẻ em là kết quả của hôn nhân lưỡng tộc giữa người Hoa và người
Việt cũng được xem là công dân Việt Nam. Những người không phải là công
dân bị loại trừ khỏi mười một ngành nghề và trong vòng 6 đến 12 tháng
phải thanh lý hoạt động kinh doanh. Một khi nhập tịch, người Hoa sẽ phải
phục vụ trong quân đội và giải thể các bang hội của mình. Chính quyền
miền Nam Việt Nam cũng tiến hành các biện pháp nhằm thay đổi hệ thống
trường học của người Hoa. Tiếng Việt là ngôn ngữ bắt buộc phải sử dụng
trong các trường trung học của người Hoa và người Việt được bổ nhiệm làm
hiệu trưởng các trường này.[75]
Trung Quốc chỉ trích gay gắt chính sách nhập tịch bắt buộc của miền Nam
Việt Nam và miền Bắc Việt Nam cũng tích cực tham gia vào cuộc công kích.
Điển hình, ngày 23 tháng 5 năm 1957, tờ Nhân Dân xuất bản bài báo có
nhan đề “Bè lũ Ngô Đình Diệm là kẻ thù chung của người Việt và Hoa
kiều”. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – do đội ngũ Cộng
sản hậu thuẫn – liên tục tuyên bố trong các văn kiện “… tất cả sắc lệnh
và phương sách mà chế độ bù nhìn của Mỹ áp dụng đối với người Hoa sẽ bị
xóa bỏ”, và rằng “người Hoa có quyền tự do cũng như quyền lựa chọn quốc
tịch của mình”.[76] Miền Bắc Việt Nam cũng khuyến khích người Hoa ở miền
Bắc tập hợp lực lượng và biểu tình nhằm phản đối các chính sách của Ngô
Đình Diệm.[77]
Cách tiếp cận vấn đề quyền công dân của miền Bắc Việt Nam khác biệt so
với miền Nam ở hai phương diện. Trước hết, chính sách của miền Bắc Việt
Nam đối với quyền công dân khoan dung hơn so với miền Nam; thứ hai, Bắc
Việt Nam đón nhận nó không phải với tư cách công việc nội bộ mà là vấn
đề giữa Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời sẽ đàm phán với Trung Quốc
thay vì với cộng đồng người Hoa về vấn đề quyền công dân. Năm 1955, ngay
sau khi Trung Quốc thay đổi chính sách lưỡng quyền công dân, miền Bắc
Việt Nam khởi động các cuộc đàm phán với Trung Quốc về người Hoa ở Việt
Nam và hai chính quyền đi đến thỏa thuận miệng về chuyển đổi người Hoa
thành công dân Việt Nam. Năm tiếp theo, nhân chuyến công du đến miền Bắc
Việt Nam, Chu Ân Lai thúc giục cộng đồng Hoa kiều nơi đây xem Việt Nam
là quê hương. Một thỏa thuận song phương được tiếp nối vào năm 1957,
khẳng định người Hoa ở miền Bắc Việt Nam được hưởng các quyền lợi tương
tự như công dân Bắc Việt Nam và được khuyến khích tự nguyện nhập quốc
tịch Bắc Việt Nam sau khi “kiên trì và không ngừng thuyết phục cũng như
giáo dục tư tưởng”.[78] Theo một nguồn tư liệu Việt Nam, thỏa thuận này
đã đưa đại sứ Trung Quốc Luo Guibo đến miền Bắc Việt Nam và tuyên bố:
“chúng ta phải tiến hành chuyển đổi toàn bộ người Hoa thành công dân
Việt Nam trong khoảng thời gian 8 đến 10 năm, hoặc lâu hơn một
chút”.[79] Nhằm thuyết phục người Hoa chấp nhận đồng hóa, chính quyền
Bắc Việt Nam đã thành lập Tiểu Ban công tác người Hoa vào năm 1956 và
Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam vào năm 1958.[80] Hai chính quyền
cùng nhau khởi động một chiến dịch tuyên truyền nhằm quảng bá các khẩu
hiệu như “xây dựng Việt Nam cũng như xây dựng Trung Hoa” đồng thời chỉ
trích tư duy “đại Trung Hoa” và “tư duy làm khách”.[81] Chính quyền Bắc
Việt Nam cũng khởi động chiến dịch phổ cập giáo dục, khuyến khích người
Hoa học đọc và viết tiếng Việt.[82]
Người Hoa và chính quyền Bắc Việt Nam rõ ràng đồng ý từ từ tiếp cận vấn
đề nhập tịch và về phía nội bộ cộng đồng người Hoa, một số nhóm nhỏ sẽ
được nhập tịch trước các nhóm khác. Nhìn chung, họ mong muốn người Hoa ở
nông thôn mang quốc tịch Việt Nam trước bộ phận người Hoa ở thành thị.
Sự phân hóa có thể liên quan đến quy mô dân số và vị trí địa lý của
người Hoa ở nông thôn. Như đã đề cập, đa số người Hoa ở miền Bắc Việt
Nam sống ở nông thôn. Ngoài ra, họ sống dọc vùng biên giới chiến lược
Việt-Trung. Một trong những nhóm người Hoa đông đảo nhất ở nông thôn là
dân tộc Ngái, nhiều thế hệ trước đây đã di cư từ miền nam Trung Quốc đến
tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam. Bộ phận dân số này được cho là bao gồm
những người nói tiếng Hẹ (Khách Gia) và một số khác đến từ Vân Nam.[83]
Mặc dù quy mô dân số chính xác vẫn chưa rõ ràng, ước tính có 160.000
người Hoa ở Quảng Ninh vào năm 1978, chiếm 22% dân số toàn tỉnh. Những
số liệu này đã biến người Hoa ở Quảng Ninh thành cộng đồng lớn thứ hai
tại đất nước Việt Nam thống nhất, chỉ đứng sau cộng đồng ở Chợ Lớn.[84]
Họ tập hợp thành bốn huyện trong tỉnh, chiếm từ 50% đến 60% dân số mỗi
huyện. Họ tham gia vào hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác mỏ,
chế tạo gốm sứ, buôn bán và dịch vụ.[85]
Ngay từ tháng 10 năm 1945, chính quyền Bắc Việt Nam đã chủ trương tất cả
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, ngoại trừ “những người lưu trú gốc Hoa”
thuộc tầng lớp tư bản thành thị, đều là công dân Việt Nam.[86] Tuy
nhiên, chính sách này không được thực thi hiệu quả. Đó là nguyên nhân
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai thúc giục người Hoa ở Quảng Ninh nhập
quốc tịch Việt Nam vào năm 1956, cuộc hô hào đã gặp phải sự phản đối từ
cư dân Hoa kiều. Một tư liệu của Việt Nam cho hay vào năm 1957, đại sứ
quán Trung Quốc tại Hà Nội và chính quyền Bắc Việt Nam nhất trí quan
điểm người Ngái ở Quảng Ninh được xem là công dân Việt Nam, trong khi
vấn đề quốc tịch cho người Hoa sống tại các khu vực khác thuộc miền Bắc
Việt Nam bị trì hoãn.[87]
Chính sách phân hóa người Ngái khỏi cộng đồng người Hoa ở thành thị có
khả năng góp phần loại trừ họ ra khỏi Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt
Nam, một tổ chức chủ yếu bao gồm Hoa kiều tại các thành phố lớn như Hà
Nội, Hải Phòng và Nam Định.[88] Việc phân hóa này cũng khiến cho chính
quyền Việt Nam dùng đến một thuật ngữ riêng biệt đối với người Hoa ở
Quảng Ninh. Trong một bài báo nhắc đến người Hoa ở Quảng Ninh năm 1965,
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh dùng thuật ngữ “người Hán” (dân tộc Hán) thay
cho Hoa kiều (người Hoa ở hải ngoại).[89] Bài báo viết về nông dân và
ngư dân ở đảo Cô Tô cũng gọi họ là người Hán thay vì Hoa kiều,[90] trong
khi nông dân người Hoa tại các tỉnh phía Bắc khác vẫn được gọi là Hoa
kiều.[91] Nhìn chung, việc áp dụng chính sách phân hóa này không mấy ảnh
hưởng tức thời đến người Ngái và bộ phận người Hoa ở nông thôn – họ vẫn
có thể dễ dàng vượt qua biên giới mà không cần hộ chiếu. Thời kỳ khủng
hoảng những năm cuối 1970, Việt Nam tuyên bố người Hoa ở miền Bắc đã tự
nguyện trở thành những công dân Việt Nam thực sự, nhưng Trung Quốc biện
luận rằng hầu hết những nỗ lực khuyến khích họ nhập quốc tịch Việt Nam
đều thất bại.[92] Cuối những năm 1970, nhiều người Ngái trở về Trung
Quốc hoặc đến các quốc gia khác cùng với người Hoa. Năm 1979, chính
quyền Việt Nam thừa nhận những người ở lại là nhóm dân tộc riêng biệt,
độc lập với dân tộc Hoa.[93]
Năm 1961, miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc đi đến một thỏa thuận khác,
theo đó đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội sẽ ngừng phát hành hộ chiếu
cho người Hoa ở Việt Nam. Người Hoa muốn đi thăm Trung Quốc phải nộp đơn
xin chính phủ Việt Nam chấp thuận. Sau khi chấp thuận, đơn sẽ được
trình lên đại sứ quán Trung Quốc, nơi sẽ cấp visa du lịch và giấy thông
hành cho người nộp đơn. Đây là một bước rất quan trọng trong quá trình
nhập tịch của cư dân gốc Hoa mặc dù Việt Nam vẫn chưa có thẩm quyền cấp
hộ chiếu phổ thông cho họ. Điều này về cơ bản khiến cho người Hoa ở miền
Bắc Việt Nam trở thành “người không có hộ chiếu”.[94]
Thời kỳ Cách mạng Văn hóa Trung Quốc, khởi đầu vào năm 1966, người Hoa ở
miền Bắc Việt Nam gây nên nhiều xáo trộn. Họ tổ chức các cuộc biểu tình
chống lại “bá quyền Liên Xô” và tiến hành các cuộc tuần hành “ủng hộ
đường lối Mao-ít” tại Hà Nội.[95] Về sau, các lãnh đạo Việt Nam đã cáo
buộc rằng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, “các Hoa kiều phản động đã
truyền bá ‘tư tưởng Mao Trạch Đông’ và ‘Cách mạng Văn hóa’, xuyên tạc
đường lối chính trị của Việt Nam và thiết lập một mạng lưới tình
báo”.[96] Đây không phải những cáo buộc thiếu căn cứ. Thời kỳ này, Tân
Việt Hoa Báo (Xin Yue Hua Bao), cơ quan tin tức của Tổng hội Liên hiệp
Hoa kiều Việt Nam, tràn ngập các báo cáo về người Hoa ở Việt Nam hô hào
khẩu hiệu cách mạng, hát bài hát cách mạng, lên án chủ nghĩa xét lại,
học tập đường lối của Chủ tịch Mao Trạch Đông và thể hiện lòng trung
thành với vị lãnh đạo này.[97] Bí thư Đảng ủy của một trường tiểu học
người Hoa ở Hà Nội về sau nhớ lại, trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa,
trường học trở nên hỗn loạn bởi các cuộc xung đột giữa các bè phái chính
trị khác nhau.[98]
Nếu người Hoa ở miền Bắc Việt Nam sẵn sàng trở thành công dân Việt Nam
trước cuộc Cách mạng Văn hóa thì Cách mạng Văn hóa đã đảo ngược, hay ít
ra là trì hoãn tình hình. Mặc dù Trung Quốc đồng ý chuyển giao các vấn
đề về cộng đồng Hoa kiều cho chính quyền Bắc Việt Nam vào năm 1957,[99]
một tuyên bố của Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều Việt Nam năm 1967 ghi nhận
rằng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam chịu sự chỉ đạo của “hai chính quyền
và hai đảng”.[100] Các viên chức đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội một
lần nữa lại can thiệp sâu vào vấn đề người Hoa ở địa phương. Trong
chuyến viếng thăm vài trường học người Hoa tại Hà Nội, một bí thư đến từ
đại sứ quán Trung Quốc bình luận rằng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam có
quyền và nghĩa vụ đọc báo chí tiếng Hoa, nghe các chương trình phát
thanh tiếng Hoa và thể hiện lòng trung thành với Chủ tịch Mao như người
Hoa vốn làm ở Trung Quốc, rằng cộng đồng người Hoa và đại sứ quán Trung
Quốc ràng buộc bởi tình máu mủ.[101]
Phản ứng trước những động thái và bình luận cực đoan này, chính quyền
Việt Nam tiến hành những nỗ lực đặc biệt nhằm ngăn chặn người Hoa nghe
các chương trình phát thanh tiếng Hoa, đọc báo cũng như tạp chí tiếng
Hoa. Một số người Hoa giữ các chức vụ trong Đảng, quân đội hay chính phủ
đều bị giáng chức. Chính quyền cũng tiến hành kiểm soát đối với các
trường học người Hoa được Việt hóa.[102] Ngoài ra, chính quyền phát động
chiến dịch Ba Chia Sẻ và Hai Tốt (chia sẻ vui buồn, sống chết, nghĩa vụ
với người Việt đồng thời lao động tốt và chiến đấu tốt) nhằm hòa nhập
người Hoa và người Việt.[103] Sau cùng, miền Bắc Việt Nam lại bắt đầu
khuyến khích người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam nhưng một lần nữa, họ thể
hiện thái độ miễn cưỡng.[104] Báo cáo cho hay, sau tháng 3 năm 1967,
chính quyền địa phương Lào Cai ngược đãi người Hoa và buộc họ phải nhập
quốc tịch Việt Nam. Để phản đối, mười sinh viên người Hoa từ Lào Cai đã
vượt biên trong đêm và có mặt tại Trung Quốc. Tháng 12 năm 1967, khoảng
1.000 người Hoa đã đặt chân đến Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc động
viên họ trở về Việt Nam nhưng 101 người được phép ở lại Trung Quốc. Gần
400 người Hoa từ Việt Nam dời sang Trung Quốc năm 1968 vì những lý do
tương tự và hầu hết được phép ở lại.[105] Nhiều người Hoa rõ ràng đã
phớt lờ lời kêu gọi nhập tịch bởi vào năm 1976, Tổng hội Liên hiệp Hoa
kiều Việt Nam một lần nữa phải hối thúc bộ phận người Hoa ở thành thị tự
nguyện nhập quốc tịch Việt Nam.[106]
So với các nước Đông Nam Á khác, cho đến cuối những năm 1970, kế hoạch
chuyển đổi quốc tịch cho cư dân người Hoa của miền Bắc Việt Nam bất
thành, một thất bại đặc biệt nghiêm trọng nếu xét quy mô nhỏ bé của cộng
đồng người Hoa nơi đây. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất cho
thất bại là bản chất ôn hòa của chính sách Bắc Việt Nam đối với người
Hoa. Ở các nước như Malaysia, miền Nam Việt Nam và Indonesia, chính
quyền có khả năng buộc người Hoa thay đổi quốc tịch, nhưng ở miền Bắc
Việt Nam, theo như thỏa thuận giữa hai chính quyền Bắc Việt Nam và Trung
Quốc, biện pháp duy nhất được áp dụng là thuyết phục và giáo dục nhưng
rốt cuộc chẳng mấy hiệu quả.
Chính sách của miền Bắc Việt Nam đối với người Hoa không chỉ ôn hòa mà
còn mang tính mâu thuẫn nội tại. Một mặt, chính quyền Bắc Việt Nam hăm
hở động viên người Hoa trở thành công dân Việt Nam; mặt khác, chính
quyền không chỉ trao cho người Hoa tất cả các quyền công dân Việt Nam
được hưởng vào thời điểm trước khi họ mang quốc tịch Việt Nam mà còn
trao cho người Hoa đặc quyền nếu họ vẫn duy trì quốc tịch Trung Quốc.
Giống như công dân Việt Nam, người Hoa được phép tham gia bầu cử, tham
gia Đảng Lao Động và làm công chức.[107] Đặc quyền chủ yếu nhất đối với
người Hoa là miễn trừ quân dịch: suốt cuộc chiến tranh kéo dài với Mỹ và
miền Nam Việt Nam, người Hoa ở miền Bắc Việt Nam không có nghĩa vụ tham
gia quân đội.[108] Một người Hoa tị nạn ở Việt Nam giải thích rằng vào
năm 1978, nhiều người Hoa không muốn mang quốc tịch Việt Nam vì địa vị
ấy sẽ gắn liền với các nghĩa vụ quân sự cũng như chế độ phục dịch khác.
Vài người tị nạn thừa nhận, một trong những lý do họ dời đến Trung Quốc
những năm cuối 1970 là vì họ không muốn bị gửi sang tham chiến ở
Campuchia.[109]
Hoa kiều cũng được hưởng tự do thương mại nhiều hơn công dân Việt Nam.
Vấn đề xã hội hóa người Hoa ở miền Bắc Việt Nam bắt đầu vào những năm
cuối 1950 và bao gồm hai chính sách: một là khuyến khích các thương nhân
cùng thợ thủ công người Hoa tự tổ chức thành các hợp tác xã, và hai là
khuyến khích một số thương nhân người Hoa trở thành chủ thể sản xuất,
theo cách nói của chủ nghĩa cộng sản, tức là công nhân nhà máy hoặc nông
dân.[110] Quá trình chuyển đổi ấy chưa được hoàn tất cho đến giữa năm
1974.[111] Đối với nhiều người Việt Nam, việc người Hoa có thể qua lại
Trung Quốc là một đặc quyền khác, bởi lý do những chuyến viếng thăm này
tạo cơ hội để người Hoa buôn lậu hàng Trung Quốc như nước hoa, bột,
rượu, và dược thảo. Người ta tin rằng người Hoa kiểm soát một mạng lưới
hàng hóa chợ đen.[112] Thời kỳ 1974 và 1975, Tổng hội Liên hiệp Hoa kiều
Việt Nam báo cáo tình trạng có quá nhiều thương nhân bán lẻ người Hoa
và một vài trong số đó dính líu đến kinh doanh phi pháp.[113] Một người
Việt tị nạn đến từ miền Bắc Việt Nam nhớ về các cư dân Hoa kiều:
Họ hưởng nhiều đặc quyền mà ngay cả người Việt chúng tôi không có được.
Chừng nào quan hệ Việt – Trung còn tốt đẹp, họ khá giả về mọi mặt so với
người Việt – những người buộc phải tham gia vào lực lượng lao động xã
hội chủ nghĩa. Họ có những cơ hội giáo dục mà chúng tôi không được đón
nhận và quyền tự do mua bán rộng rãi hơn. Chính quyền muốn người Hoa trở
thành công dân để họ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội chủ nghĩa
như người Việt, nhưng họ từ chối nhằm có thêm tự do và tránh chế độ quân
dịch.[114]
Một người Hoa tị nạn từ miền Bắc Việt Nam cũng đồng tình: “Vẹn cả đôi
đường. Người Hoa ở miền Bắc có mọi quyền cũng như đặc quyền của công dân
Việt Nam mà không chịu bất lợi nào”.[115] Một bác sĩ người Việt gốc Hoa
khẳng định rằng bệnh nhân người Hoa được đối xử tốt hơn người Việt tại
các bệnh viện của Bắc Việt Nam.[116] Thậm chí vào năm 1978, khi Trung –
Việt khởi động cuộc khẩu chiến quyết liệt vì vấn đề người Hoa ở Việt
Nam, chính quyền Trung Quốc vẫn thừa nhận rằng trước năm 1975, Hoa kiều ở
miền Bắc Việt Nam được đối đãi tốt.[117] Năm 1978, chính quyền Việt Nam
lý luận rằng sở dĩ người Hoa được đối xử tốt bởi họ được xem là công
dân Việt Nam chứ không phải người nước ngoài và chính quyền Việt Nam
trao nhiều quyền lợi cho người Hoa ở Việt Nam hơn là Trung Quốc trao cho
người Việt ở Trung Quốc.[118] Nhưng khi trao đặc quyền cho người Hoa,
chính quyền Việt Nam vẫn duy trì một truyền thống bắt nguồn từ chính
quyền thực dân Trung Quốc mà vài triều đại Việt Nam cũng như chính quyền
thực dân Pháp còn giữ lại, trái ngược với ý định công khai là đối xử
với người Hoa như công dân Việt Nam.[119] Đối xử ưu đãi có thể đã tác
động mạnh đến việc gia tăng sự khác biệt mà người ta nhận thấy giữa
người Việt và người Hoa, thúc đẩy cảm giác ưu việt của người Hoa và một
sự gắn kết mang tính ảo tưởng với Trung Quốc, tất cả những điều này
khiến họ miễn cưỡng đồng hóa.
Cần lưu ý rằng mặc dù phần đông Hoa kiều vui vẻ chấp nhận những đặc ân
mà chính quyền mang lại, cũng có nhiều người tự nguyện từ bỏ đặc quyền
và hành xử như những công dân tận tụy của Việt Nam. Điển hình là từ năm
1964 đến 1975, khoảng 1.800 người Hoa ở Quảng Ninh gia nhập quân đội mỗi
năm. Suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam, tổng cộng 22.000 người Hoa tại
tỉnh này đã tham gia quân đội.[120] Nhiều người Hoa từ các tỉnh và các
thành phố lớn khác như Hà Nội và Hải Phòng cũng tình nguyện tham gia
quân ngũ.[121] Thời kỳ 1967 đến 1974, chính quyền Bắc Việt Nam công nhận
hai mươi bảy người Hoa ở Hải Phòng là các liệt sĩ bởi họ đã hy sinh
thân mình cho “cuộc cách mạng Việt Nam nhằm bảo vệ thành phố Hải Phòng
anh hùng”. Từ năm 1969 đến 1972, hơn 100 người Hoa ở Hải Phòng được trao
danh hiệu “Lao Động Kiểu Mẫu” và hơn 1.000 người được trao danh hiệu
“Lao Động Tiên Tiến”. Cùng thời kỳ, các cá nhân người Hoa ở Hải Phòng
nhận 24 Huân chương Hồ Chí Minh, 11 Huân chương Lao Động, 5 Huân chương
Quân Công, 2 Huân chương Kháng Chiến từ chính phủ và 10 bằng khen do Phủ
Thủ tướng trực tiếp trao tặng.[122] Nhiều lãnh đạo Bắc Việt Nam, từ Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho đến Lê Duẩn, không ngừng tuyên dương các cư dân
gốc Hoa vì sự đóng góp của họ đối với cách mạng Việt Nam trước năm
1978[123] và về sau, chính phủ Việt Nam tiếp tục công nhận những đóng
góp này.
Bản chất khoan dung và mâu thuẫn nội tại từ chính sách của miền Bắc Việt
Nam đối với người Hoa chỉ có thể giải thích bằng mong muốn mãnh liệt
của các lãnh đạo Bắc Việt là duy trì quan hệ bền chặt với Trung Quốc,
động thái mà họ nghĩ rằng có lợi cho nỗ lực tái thống nhất và tái thiết
Việt Nam. Họ đối xử với người Hoa ở miền Bắc Việt Nam như những đại diện
của Trung Quốc, tin tưởng rằng việc trao cho họ các đặc quyền sẽ thúc
đẩy tình hữu nghị và đoàn kết giữa hai nước Việt – Trung.
Trường học người Hoa
Vị trí của Trung Quốc trong quan hệ ba bên
Chính sách đồng hóa của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á nói chung
Tài liệu tham khảo
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Nguoi Hoa o Bac Viet Nam thoi ky 1954-1978.pdf
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Viện Nghiên Cứu & Giáo Dục cũng như Trung
Tâm Giáo Dục Toàn Cầu thuộc Đại học Butler đã tài trợ cho những chuyến
đi đến Trung Quốc và Việt Nam vào năm 2007, 2008. Tôi biết ơn những hỗ
trợ nhiệt tình từ các giáo viên và bạn bè tại Trung Quốc và Việt Nam:
Giáo sư Fan Honggui và Huang Xingqiu ở Quảng Tây; Ngài Liu Zhiqiang ở
Bắc Kinh; Giáo sư Châu Thị Hải, Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Văn Huy ở Hà
Nội; Ngài Truong Thai Du ở thành phố Hồ Chí Minh và Giáo sư Fan Ruiping ở
Hồng Kông. Tác giả xin chịu trách nhiệm cá nhân cho mọi quan điểm cũng
như sai sót nếu có trong bài báo này.
[1] Theo một ước lượng vào năm 1978, người Trung Quốc chiếm 85% số người
vượt biên ở miền nam Việt Nam và 95% số người tị nạn di cư từ miền Bắc
Việt Nam sang Trung Quốc. Chang P.M. 1982, trang 212-13.
[2] Amer 1991, trang 46.
[3] Beijing Review 2 tháng 6 năm 1978, trang 15.
[4] Nguyễn V. 1978, trang 43, 48.
[5] Beijing Review 16 tháng 6 năm 1978, trang 15.
[6] Godley 1980, trang 36.
[7] Porter 1980, trang 57.
[8] People’s Daily, 25 tháng 8 năm 1994.
[9] Một ước lượng cho hay vào năm 1989, có trên 900.000 người Trung Quốc
ở miền Nam Việt Nam nhưng chỉ có 2.000 đến 3.000 người Trung Quốc ở
miền Bắc Việt Nam. Guowuyuan qiaoban qiaowu ganbu xuexiao, 1993, trang
74. Báo cáo điều tra dân số chính thức của Việt Nam thống kê con số
961.702 người Việt gốc Hoa ở Việt Nam vào năm 1989. Chỉ còn lại một bộ
phận nhỏ trong số họ sống ở miền bắc Việt Nam, 4.015 người ở Hà Nội,
2.659 người ở Hải Phòng, 2.287 người ở Lạng Sơn và 2.276 người ở Quảng
Ninh. Châu 1992, trang 44-45.
[10] Lu 1964, trang 26, 39, 47.
[11] Tham khảo Taylor 1983, trang 69-80 để có được thông tin trọn vẹn về các gia tộc Hán Việt.
[12] Zhang W. 1975, trang 5.
[13] Lu 1964, trang 109-14; Taylor 1983, trang 69-80; Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969.
[14] Zhang C. 23 tháng 5 năm 1969.
[15] Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969; 27 tháng 5 năm 1969.
[16] Zhang C. 25 tháng 5 năm 1969; Châu 1992, trang 98; Zhang W. 1975, trang 17.
[17] Phân tích cô đọng về chính sách của Việt Nam đối với người Hoa từ
thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 20, tham khảo Châu 2004, trang 69-85.
[18] Châu 1992, trang 17.
[19] Zhang C. 23 tháng 5 năm 1969; Châu 1992, trang 20.
[20] Woodside 1971, trang 8.
[21] Châu 1992, trang 23.
[22] Li B. 1990, trang 4-5.
[23] Li B. 1990, trang 68-72.
[24] Zhang W. 1975, trang 36; Châu 1993, trang 52-59.
[25] Li B. 1990, trang 6. Để hiểu thêm lược sử về Minh Hương và một
nghiên cứu chi tiết về cộng đồng này, tham khảo Chen C. 1964.
[26] Châu 1992, trang 25-26; Ly Singko 1978, trang 32-41.
[27] Châu 1992, trang 100.
[28] Li B. 1990, trang 7. Thực dân Pháp về sau kế thừa hệ thống này và
vào năm 1885 đã giảm số lượng cộng đồng từ bảy xuống còn năm, lấy năm
thổ ngữ Trung Hoa chính làm cơ sở. Marsot 1993, trang 85.
[29] Dai 1997, trang 40-50.
[30] Châu 1992, trang 28-29; Li B. 1990, trang 8-9; Zheng 1976, trang 33-34.
[31] McAleavy 1968.
[32] Fan H. 2004, trang 203; Fan H. 1999, trang 163.
[33] Marsot 1993, trang 43; McAleavy 1968, trang 183.
[34] Zheng 1976, trang 85-86; Miller 1946, trang 268-79.
[35] Châu 1992, trang 121.
[36] Tôn Dật Tiên từng sáu lần viếng thăm Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 1900 đến 1907. Những người ủng hộ ông đã tiến hành năm cuộc
nổi loạn chống quân Mãn Châu ở Việt Nam. Zhang W. 1975, trang 90-91. Để
biết thêm thông tin thú vị về mối quan hệ của Tôn Dật Tiên với người
Pháp và người Hoa ở Việt Nam suốt những năm tháng trước Cách Mạng 1911,
tham khảo Barlow 1979.
[37] Marsot 1993, trang 44-51, 53, 116-17.
[38] Purcell 1952, trang 209; trang 227-29.
[39] Marsot 1993, trang 84.
[40] Purcell 1952, trang 230.
[41] Thompson và Adloff 1955, trang 56.
[42] Purcell 1952, trang 265.
[43] Elegant 1959, trang 261; Mitchison 1961, trang 58; Zhang W. 1957,
trang 43. Để biết thêm chi tiết về những trải nghiệm của một gia đình
người Hoa ở miền Bắc Việt Nam trước và trong thời kỳ chia cắt, tham khảo
Vuong-Riddick 2007.
[44] Qi 16 tháng 2 năm 1969; Xin Yue Hua Bao 24 tháng 8 năm 1961; 28 tháng 7 năm 1964; 31 tháng 8 năm 1965.
[45] Marsot 1993, trang 92, 95-98.
[46] Li B. 1990, trang 16.
[47] Li B. 1990, trang 81.
[48] Marsot 1993, trang 5.
[49] Fu 2004, trang 295.
[50] Fitzgerald 1972, trang 196.
[51] Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17.
[52] Nguyen M. 1979, trang 1041.
[53] Qing 1996. Năm 1954, khoảng 5.000 người Nùng ở Hải Ninh theo Voong A
Sang chuyển đến miền Nam Việt Nam. Ở đó, họ thành lập những cộng đồng
riêng và bắt đầu tự nhận là người “Hoa Nùng” hay người Nùng gốc Hoa.
Tham khảo Châu 2006, trang 112; Zhang W. 1975, trang 89. Những nghiên
cứu gần đây về nhận diện người Nùng, tham khảo Hutton 2000, trang
254-76. Hutton chỉ ra rằng (trang 263) người Nùng gốc Hoa khác biệt so
với người Thái-Nùng vốn là nhóm dân tộc có quy mô lớn hơn nhiều.
[54] Châu 1992, trang 58-60.
[55] Ước tính vào năm 1955, có 800.000 người Hoa ở miền Nam Việt Nam và
trong số đó có trên 570.000 người sống ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Châu
1992, trang 38.
[56] Marsot 1993, trang 95.
[57] Châu 1992.
[58] Purcell 1952, trang 210, 214.
[59] Xin Yue Hua Bao 27 tháng 11 năm 1968.
[60] Kỳ 1978, trang 18.
[61] Marsot 1993, trang 96.
[62] Châu 1992, trang 35.
[63] Purcell 1952, trang 214.
[64] Xin Yue Hua Bao, 10 tháng 8 năm 1974; Kỳ 1978, trang 18.
[65] Nguyen M. 1979, trang 1041; Unger 1987, trang 598; Li B. 1990, trang 18.
[66] Lấy ví dụ, hầu hết những người Hoa ở Quảng Ninh có đất đai tổ tiên nằm ở Quảng Tây. Tham khảo Zhao 1993, trang 11.
[67] Danh sách hoàn chỉnh 19 nhóm dân tộc khác có nguồn gốc từ Trung Quốc, tham khảo Fan H. 1999, trang 162-246.
[68] Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17; Kỳ 1978, trang 22.
[69] Xin Yue Hua Bao 6 tháng 11 năm 1969.
[70] Xin Yue Hua Bao 30 tháng 10 năm 1969.
[71] Xin Yue Hua Bao 7 tháng 11 năm 1969.
[72] Guo 2007.
[73] Mitchison 1961, trang 45-46; Evans 1990, trang 48.
[74] Woodside 1979, trang 389.
[75] Fitzgerald 1972, trang 114; Godley 1980, trang 46-47; Minority
Rights Group, 1992, trang 26-27; Qiaowu weiyuanhui qiaowu yanjiusuo
1966, trang 30-40.
[76] Beijing Review 2 tháng 6 năm 1978; 16 tháng 6 năm 1978.
[77] Xin Yue Hua Bao 6 tháng 7 năm 1960; 17 tháng 7 năm 1960a; 17 tháng 7 năm 1960b; 17 tháng 7 năm 1960c.
[78] Evans 1990, trang 49.
[79] Unger 1987, trang 602.
[80] Châu 2006, trang 111.
[81] Zhuang S. 6 tháng 3 năm 1960; Xin Yue Hua Bao 30 tháng 3 năm 1960.
[82] Xin Yue Hua Bao 19 tháng 4 năm 1960; 12 tháng 5 năm 1960; 22 tháng 5 năm 1960; 19 tháng 4 năm 1961.
[83] Purcell 1952, trang 218; Unger 1987, trang 612; Fan H. 1999, trang 299.
[84] Kỳ 1978, trang 18. Theo Qing 1996, tổng dân số của Quảng Ninh là
664.000 vào tháng 1 năm 1976, bao gồm 142.000 người Hoa và người Hoa
chiếm 21,4% tổng dân số.
[85] Nguyễn V. 1978, trang 41-42.
[86] Woodside 1979, trang 389.
[87] Unger 1987, trang 609. Một nghiên cứu gần đây về người Ngái, tham khảo Hutton 2000, trang 254-76.
[88] Chính quyền Việt Nam về sau lập luận rằng bộ phận người Hoa ở thành
thị cũng cần được xem là công dân Việt Nam vì ba lý do: thứ nhất, họ
được đối xử như công dân Việt Nam; thứ hai, tổng hội của họ nằm dưới sự
kiểm soát của Đảng Lao Động Việt Nam; và thứ ba, họ không có hộ chiếu do
Trung Quốc cấp hay thẻ cư trú vĩnh viễn do Việt Nam cấp. Kỳ 1978, trang
23.
[89] Nguyễn T. 7 tháng 9 năm 1965.
[90] Xin Yue Hua Bao 13 tháng 5 năm 1961; Hồng 14 tháng 5 năm 1964.
[91] Xin Yue Hua Bao 27 tháng 4 năm 1963; 20 tháng 11 năm 1963.
[92] Cankao Xiaoxi, 18 tháng 6 năm 1978; Hãng thông tấn Xinhua, 15 tháng 6 năm 1978.
[93] Fan H. 1999, trang 73; trang 219-20; Fan H. 2004, trang 264.
[94] Hoàng 1978, trang 11; Bộ Ngoại Giao, Việt Nam 1978.
[95] Amer 1991, trang 17.
[96] Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1979, trang 38.
[97] Xin Yue Hua Bao 19 tháng 10 năm 1966; 27 tháng 11 năm 1966; 11
tháng 12 năm 1966; 25 tháng 12 năm 1966; 5 tháng 7 năm 1967; 14 tháng 7
năm 1967.
[98] Xin Yue Hua Bao 7 tháng 12 năm 1973
[99] Porter 1980, trang 55.
[100] Xin Yue Hua Bao 21 tháng 9 năm 1967.
[101] Như trên.
[102] Fu 2004, trang 305.
[103] Xin Yue Hua Bao 20 tháng 8 năm 1966.
[104] Benoit 1981, trang 148.
[105] He Kou Xian Zhi, 1994, trang 608-09.
[106] Xin Yue Hua Bao 1 tháng 9 năm 1976.
[107] Xin Yue Hua Bao, 20 tháng 3 năm 1960.
[108] Mai 1978, trang 56. Ngay cả trước thời thuộc Pháp, Hoa kiều ở Việt
Nam cũng thừa hưởng đặc quyền ấy; Purcell 1952, trang 224.
[109] Cankao Xiaoxi 13 tháng 5 năm 1978; 1 tháng 6 năm 1978.
[110] Xin Yue Hua Bao 16 tháng 1 năm 1960; 20 tháng 1 năm 1960; 23 tháng
1 năm 1960; 25 tháng 1 năm 1960; 27 tháng 1 năm 1960; 1 tháng 2 năm
1960; 13 tháng 6 năm 1965; 13 tháng 8 năm 1966; Zhuang Y. 1960.
[111] Stern 1986, trang 284.
[112] Benoit 1981, trang 144.
[113] Xin Yue Hua Bao 10 tháng 8 năm 1974; 29 tháng 3 năm 1975.
[114] Benoit 1981, trang 148.
[115] Benoit 1981, trang 144.
[116] Nguyễn V. 1978, trang 43.
[117] Chang P.M. 1982, trang 197.
[118] Hoàng 1978, trang 12; Sở Văn Hóa và Thông Tin Thanh Hóa, 1978, trang 17.
[119] Một tuyên bố trong Bộ Văn Hóa và Thông Tin Việt Nam, 1878, trang 6.
[120] Fu 2004, trang 296.
[121] Tham khảo Xin Yue Hua Bao 1 tháng 6 năm 1965; 30 tháng 8 năm 1966; 18 tháng 10 năm 1966.
[122] Li B. 1990, trang 143.
[123] Li B. 1990, trang 139-43.
Nguồn: Xiaorong Han (2009). “Spoiled Guests or Dedicated Patriots? The
Chinese in North Vietnam, 1954–1978”, International Journal of Asian
Studies, Vol. 6, No. 1, pp. 1–36.
Biên dịch & Hiệu đính: Đỗ Hải Yến
(Nghiên Cứu Quốc Tế)
Phó Tổng tham mưu trưởng chống dự án Hải Vân Nam
Bảng quảng cáo dự án Khu Du lịch Nghỉ dưỡng World Shine trên núi Hải Vân.
|
Vai trò phản biện xã hội dân sự
Trung Tướng Bế Xuân Trường là nhà quân sự cao cấp nhất đang tại chức đồng hành với phản biện của Trung tướng Lê Văn Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5 cũng như các tướng lĩnh sĩ quan cao cấp khác đã về hưu và giới nhân sĩ trí thức kịch liệt phản đối việc doanh nghiệp Trung Quốc được giao 200 ha đất ở vị trí chiến lược, có thể khống chế vùng trời, vùng núi, vùng biển Đà Nẵng và nếu có chiến tranh có thể chia cắt đất nước ngang vĩ tuyến 16.
Đây là lần đầu tiên các giới chức quân sự cao cấp đang tại chức đã hòa đồng với ý kiến phản biện xã hội dân sự bác bỏ dự án du lịch nghỉ dưỡng rộng 200 ha ở vị trí chiến lược trên đèo Hải Vân. Đáp câu hỏi của chúng tôi là đánh giá thế nào về vai trò phản biện xã hội đã góp phần đưa ra sự thật về một mối nguy hiểm cho an ninh quốc gia, Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ từ Hà Nội nhận định:
Tôi đánh giá rất cao tác dụng của phản biện xã hội đã kiên trì thực hiện bấy lâu nay ở nhiều tổ chức xã hội dân sự và cá nhân có trách nhiệm với xã hội.
-GS Chu Hảo
Theo Pháp Luật Online và VnExpress bản tin trên mạng ngày 19/11, Trung tướng Bế Xuân Trường, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, thành viên Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội nói rằng, những khu vực, địa hình có giá trị về quốc phòng-an ninh, những dự án có yếu tố nước ngoài như Khu Du lịch Nghỉ dưỡng World Shine trên núi Hải Vân, nhà nước đã có qui định là phải qua thẩm định rất chặt chẽ của cơ quan hữu quan như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Nếu dự án ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì tuyệt nhiên không được thực hiện.
Theo lời Trung tướng Bế Xuân Trường, quan điểm của Bộ Quốc phòng là không đồng ý với dự án nước ngoài trên núi Hải Vân, dù cho đến nay chưa nhận được báo cáo của Quân khu 4 về dự án này.
Chiều ngày 20/11, tại cố đô Chính quyền Thừa Thiên-Huế đã tổ chức họp báo biện minh cho dự án du lịch nghỉ dưỡng mà Tỉnh đã cấp phép đầu tư cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc. Đại tá Trần Đình Phòng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế đã có phát biểu đối kháng với Trung tướng Bế Xuân Trường Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng như nhiều tướng lĩnh khác. Theo các báo điện tử Dân Trí và Dân Việt, Đại tá Trần Đình Phòng nói rằng khu vực cấp phép dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân không ảnh hưởng đến quốc phòng và phòng thủ bờ biển của tỉnh. Vẫn theo lời Đại tá Phòng toàn bộ các cao điểm ở đây đều được lực lượng quân sự của tỉnh và Quân khu 4 khống chế, có thể kiểm soát được các tình huống xấu xảy ra.
Quan điểm của Đại tá Trần Đình Phòng như thế chứng tỏ ông không nhận thức được tầm quan trọng chiến lược của toàn bộ khu vực núi và đèo Hải Vân nói chung có thể chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 16 và mũi Cửa Khẻm nói riêng, nằm ở vị trí khống chế vùng núi, vùng trời vùng biển Đà Nẵng.
|
Thiếu tướng về hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc đã từng cảnh báo rất gay gắt về việc những người lãnh đạo từ Trung ương tới địa phương sử dụng lá bài phát triển kinh tế và lợi ích riêng tư đã cấp phép đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc ở những vị trí chiến lược quốc phòng. Dự án nghỉ dưỡng quốc tế ở đèo Hải Vân là thí dụ mới nhất. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nhấn mạnh:
“Hà Tĩnh là cái yết hầu của miền Trung và hơn nữa nó xây dựng thành một thứ căn cứ, ở trong đó phức tạp lắm chứ không phải chỉ đơn giản là chỗ luyện thép đâu. Hay Cảng Đông Hà cũng vậy thôi cũng là một chỗ quan trọng cũng là bán cho nó, cho nó thuê nó có thể làm thành căn cứ quân sự, rồi từ Kỳ Anh vào tới chân đèo Ngang cũng thế thôi cũng lại cho nó thuê, phía biển nó làm gì ngoài ấy cũng không biết. Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước, dù là không có ý thức đi nữa thì cũng là tạo điều kiện để cho Trung Quốc nó chiếm nước mình.”
Địa phương biện minh
Tại cuộc họp báo tổ chức ngày 20/11/2014 tại Huế, các giới chức của Thừa Thiên Huế trình bày các luận điểm được cho là loanh quanh hoặc chơi chữ, để biện minh cho việc cấp giấy phép đầu tư cho dự án World Shine là đúng qui trình. Người đọc báo nhận thấy là giấy phép đầu tư cấp 200 ha đất mũi Cửa Khẻm Hải Vân cho Công ty Thế Diệu Trung Quốc được cấp từ tháng 10/2013 mà đến ngày 21/3/2014 Ban quản lý Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô mới đề nghị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh cho ý kiến về dự án. Theo lời Đại tá Trần Đình Phòng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế, tại thời điểm đó (21/3/2014) Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã tiến hành khảo sát và kết luận khu vực này không nằm vào các qui hoạch liên quan đến quốc phòng và không ảnh hưởng đến quốc phòng. Tuy nhiên hơn 6 tháng sau, đến ngày 4/10/2014 Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh lại xét thấy việc cấp phép dự án có một số nội dung liên quan đến an ninh quốc phòng, nên đề nghị UBND tỉnh báo cáo Quân khu 4 và Bộ Quốc phòng. Được biết từ trước tháng 10 đã bắt đầu có thông tin râm ran trên mạng về vụ việc này và trùng với thời điểm Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh nghĩ đến việc phải báo cáo Quân khu 4 xin ý kiến.
Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.
-TS Nguyễn Quang A
Trong câu chuyện với chúng tôi, đáp câu hỏi là phải làm gì, phải cải cách gì để tránh những trường hợp tương tự như Thừa Thiên Huế với dự án đầu tư nước ngoài trên đèo Hải Vân, Giáo sư Chu Hảo từ Hà Nội nhận định:
“Tôi nghĩ đây là vấn đề thực thi những chủ trương, chính sách đã được ban hành khá là đầy đủ và cũng tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên việc thực thi đó rất là kém bởi vì sự kiểm tra, giám sát và sự minh bạch thông tin không được tốt. Chứ không phải là chưa có khung pháp lý để xử lý việc này.”
Theo nhà phản biện TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS ở Hà Nội, những qui định về an ninh quốc phòng rất chặt chẽ nhưng những người có chức có quyền có trăm ngàn cách để lách luật. Đáp câu hỏi làm thế nào để giảm bớt tình trạng giao đất chiến lược cho nhà đầu tư có yếu tố Trung Quốc và những ai có thể giúp ích cải thiện tình trạng nhiễu nhương này. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Nếu chúng ta kỳ vọng vào những người cánh hẩu với Trung Quốc để người ta bớt đi thì không bao giờ cả, số người như thế ở Việt Nam không phải là ít. Chỉ có mỗi một cách như vừa rồi là dư luận của công chúng, của các giới khác nhau, kể cả những người đương quyền mà còn thực sự lo lắng cho vận mệnh đất nước. Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.”
Sự lên tiếng của giới nhân sĩ trí thức và các nhà phản biện từ các tổ chức xã hội dân sự và đặc biệt của các tướng lĩnh đang giữ các trọng trách trong quân đội, cũng như các tướng lĩnh sĩ quan cao cấp đã về hưu đã có kết quả ban đầu. Nếu như Trung tướng Bế Xuân Trường Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khẳng định Bộ Quốc phòng không đồng ý dự án du lịch nghỉ dưỡng quốc tế trên đèo Hải Vân mà Công ty Trung Quốc được cấp phép, thì trong trường hợp này có thể thấy rằng công luận đã thắng.
Nam Nguyên,
phóng viên RFA
Theo RFA
Công ty quốc doanh của Việt Nam quá tải
400 công ty quốc doanh mà chính phủ muốn cổ phần hóa đa số không hấp dẫn.
Khi đưa Việt Nam Airlines lên sàn chứng
khoán vào ngày 14 tháng 11, chính phủ Việt Nam đã hy vọng thả nổi một
trong số ít các công ty được biết đến ở nước ngoài sẽ giúp họ đẩy nhanh
kế hoạch để “cổ phần hóa” hàng trăm xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên,
muốn bán 3,5% trị giá của hãng hàng không, nưng Việt Nam đã không thu
hút được đến một người/công ty đầu tư nước ngoài. Ngân hàng địa phương
là những người mua chính.
Cất cánh không trơn tru. Nguồn: The Economist. |
Tuy nhiên, hệ thống quan liêu của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước là cơ chế tốt để tham nhũng và quản lý yếu kém phát triển. Ví dụ nổi bật nhất, năm 2010 Vinashin, một công ty đóng tàu, vỡ nợ vay của nước ngoài, khiến nợ công của Việt Nam xuống cấp. Nhiều công ty quốc doanh có đầy “công nhân” [ccccc] không làm được việc.
Hiệu suất kém của các công ty quốc doanh đang kềm giữ tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, hiện nay khoảng 5,5% một năm, thấp hơn so với khả năng của quốc gia có dân số trẻ có học, và có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Là điều bất thường trong một một quốc gia cộng sản, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đã phải qua một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ở Quốc hội năm ngoái vì khả năng quản lý kinh tế yếu kém của ông.
Năm nay, bên cạnh việc khôi phục lại uy tín cá nhân bằng cách [có vẻ] chống lại Trung Quốc trong cuộc tranh chấp lãnh thổ, ông Dũng đã làm sống lại kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có từ lâu, với hy vọng làm cho chúng giống như các doanh nghiệp tư nhân. Trong kế hoạch cổ phần hóa trong năm tới có cả công ty Hàng hải Việt Nam [Vinalines] – nơi có hai cựu giám đốc đã bị kết án tử hình vào năm ngoái trong chiến dịch chống tham nhũng. Với tình trạng chung của nhiều công ty quốc doanh hiện nay, mục tiêu cổ phần hóa hơn 400 công ty vào cuối năm 2015 của ông Dũng là lạc quan.
Edmund Malesky, một người quan sát tình hình Việt Nam thuộc Đại học Duke tại Mỹ, cho rằng chính phủ ở Hà Nội có thể muốn đẩy mạnh việc cổ phần hóa vì đang nhắm tới Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thỏa thuận thương mại lớn hiện đang được đàm phán, trong đó sẽ bắt buộc các nước thành viên phải cắt giảm các khoản bao cấp. Nếu thả nổi doanh nghiệp nhà nước nổi làm chúng tăng hiệu lực, thì chính phủ sẽ bớt phải trợ cấp. Như thế Việt Nam sẽ dễ dàng hơn để có thể đạt được một thỏa thuận TPP, để được tiếp cận với một thị trường xuất khẩu rộng lớn hơn.
Chiến lược này hợp lý, nhưng cũng không dễ thực hiện. Thị trường chứng khoán của Việt Nam vẫn là một trong những thị trường nhỏ nhất tại châu Á, và các giới đầu tư nước ngoài muốn mua cổ phần trong các công ty mà nhà nước vẫn kiểm soát sẽ ngần ngại bỏ vốn đầu tư, nhất là trong lĩnh vực năng lượng và giao thông vận tải, những khu vực chiến lược mà chính phủ dễ can thiệp.
- Nguồn: Công ty quốc doanh của Việt Nam Quá tải. The Economist, 22 tháng 11 năm 2014.
TIN LÃNH THỔ
TIN XÃ HỘI
- Cảnh cáo bác sĩ để kim trong bụng bệnh nhân chín năm PHAP LUAT ONLINE
- Lý Sơn được hỗ trợ thêm gần 20 tỉ đồng PHAP LUAT ONLINE
- “Có thể tăng lương, nếu tính toán hợp lý” VNECONOMY
- Nhiều chuyện ngược đời và trái khoáy ở ngành giáo dục GIAO DUC
- Nhiều chuyện ngược đời và trái khoáy ở ngành giáo dục GIAO DUC
- Dân khổ sở vì dự án treo suốt 8 năm NGUOI DUA TIN
- Võ sư lừng danh và bài thuốc cai nghiện ma túy bằng… võ thuật NGUOI DUA TIN
- Rùng mình con đường thể dục nhiều kim tiêm nghi nhiễm HIV NGUOI DUA TIN
- Phú Yên: Tiền có sẵn nhưng không bồi thường cho dân PHAP LUAT ONLINE
- PCI và lựa chọn “hai con đường” của Hòa Bình VNECONOMY
- Sau ngày 2/9 mới cấm ô tô đi trên đường Cầu Giấy-Xuân Thủy GIAO DUC
- Bắt xe biển đỏ, lộ ra… biển trắng NGUOI DUA TIN
- Giết con riêng của vợ vì sợ… gánh nặng NGUOI DUA TIN
- Bàn thiết lập đường dây nóng biển Đông giữa các nước ASEAN GIAO DUC
- Rơi nước mắt lời cuối của Dương Tự Trọng trong phiên tòa NGUOI DUA TIN
- Đặc phái viên của Tổng Bí thư nói gì với Chủ tịch Trung Quốc? GIAO DUC
- Cướp tài sản của tình địch, lãnh 8 năm tù THANH NIEN
- Máy bay Vietnam Airlines bị chậm giờ vì hành khách xô xát THANH NIEN
- Người đạp xe xuyên Việt ủng hộ người nghèo đã đến Hà Nội THANH NIEN
- Thư ký tòa huyện bị cảnh cáo, cho thôi việc THANH NIEN
- Tiến hành thu hồi nhà đất cấp sai cho ông Trần Văn Truyền THANH NIEN
TIN KINH TẾ
- 5 lời khuyên khi đi công tác với nhân viên DOANH NHAN
- 5 phẩm chất của nhà lãnh đạo hướng nội DOANH NHAN
- Lối sống và tình trạng loãng xương DOANH NHAN
- Richard Branson cho thuê thương hiệu DOANH NHAN
- Sáng tạo cho đảo xa DOANH NHAN
- Những cô gái đã ‘hớp hồn’ các tỷ phú thế giới NGUOI DUA TIN
- Những siêu phẩm mạ vàng 24k cực đắt đỏ của nhà Táo NGUOI DUA TIN
- Tiết lộ về người làm túi thời trang từ bao tải cám con cò ‘gây sốt’ Nhật NGUOI DUA TIN
- Bị ngăn cấm, nữ sinh tự tử cùng người yêu trong nhà nghỉ BAO DAU TU
- Những cái chết trên công trình xây dựng VEF
- TP.HCM ưu tiên vốn tập trung thực hiện sáu chương trình đột phá PHAP LUAT ONLINE
- Mổ xẻ “sóng ngầm” tỉ giá NGUOI LAO DONG
- 5 cổ phiếu cần quan tâm ngày 17/9 BAO DAU TU
- Đề xuất thêm gói ‘ngàn tỉ’ hỗ trợ vay mua nhà VIETSTOCK
- Xế sang Mercedes-Benz B-Class 2015 lộ diện BAO DAU TU
- Hơn 50 tỷ USD vốn FDI vào bất động sản VIETSTOCK
- Đại gia Bình Định dùng 1.800 tỷ làm từ thiện giàu cỡ nào? NGUOI DUA TIN
- 4 chiếc smartphone đáng mua nếu bạn không thích iPhone 6 NGUOI DUA TIN
- Chứng khoán sáng 28/8: Sau rung lắc, cổ phiếu phục hồi mạnh VNECONOMY
- Hà Nội lấy lại đà tăng trưởng tín dụng VNECONOMY
- Giám đốc OSCA từng liên quan tới ca tử vong khi phẫu thuật nâng ngực BAO DAU TU
- Hồ Ngọc Hà mặn mà khoe sắc BAO DAU TU
- Đất quanh cầu Nhật Tân đang tăng giá VNECONOMY
- Nhiều loại hàng sẽ được miễn thuế trong khu kinh tế cửa khẩu VIETSTOCK
- Quản lý đất đai sẽ phải đổi mới từ tháng 9 tới VNECONOMY
- Vàng ì ạch nhích giá, USD giảm VNECONOMY
- Góc nhìn: Kinh tế học và chuyện “bia Sài Gòn ở Kỳ Anh” VNECONOMY
- Nghịch lý trả lương qua tài khoản, nhưng không có cây ATM của Agribank VIETSTOCK
- VPH: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất dự án La Casa hơn 73 tỷ đồng VIETSTOCK
- Bỏ một loạt chính sách thuế từ ngày 1-9 VIETSTOCK
- Tiến độ dự án của VIC và triển vọng cuối năm 2014 VIETSTOCK
- Thị trường bất động sản: “Cửa sáng” cuối năm VIETSTOCK
- Yêu cầu công ty đào 6,9 tấn vàng đóng thuế đúng qui định VIETSTOCK
- Dòng chảy sếp Tổng nhà băng và dấu ấn 2012! VIETSTOCK
- Bất động sản ồ ạt tung dự án ‘khủng’ THANH NIEN
- Chủ tịch VietcomBank làm Phó chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Châu Á THANH NIEN
- Ngân hàng ‘tháo van’ cho vay với bất động sản THANH NIEN
- Xăng giảm giá 1.141 đồng/lít THANH NIEN
- ‘Cò’ đưa xe quá tải vượt trạm cân THANH NIEN
TIN DIỄN ĐÀN
- “Thượng đế” coi thường “cơm vua” DOANH NHAN
- Kinh doanh sách sẽ thay đổi cấu trúc DOANH NHAN
- Muốn đổi mới nền kinh tế, phải đổi mới cán bộ DOANH NHAN
- Mỹ đào tạo nhiều tỷ phú nhất thế giới DOANH NHAN
- Những con phố Chinatown DOANH NHAN
- Xin cơ chế ngoài luật SAIGONTIMES
- Góc cạnh kinh tế của một đề án giáo dục SAIGONTIMES
- Quyền được nghỉ yên SAIGONTIMES
- Casino có thực sẽ là mỏ vàng? SAIGONTIMES
- Khi hợp đồng xây dựng quá “dễ vỡ” SAIGONTIMES
TIN GIÁO DỤC
- SGK của TP HCM sát thực tế hơn NGUOI LAO DONG
- 60 năm thành lập Trường THPT Nguyễn Trãi NGUOI LAO DONG
- GS Hoàng Như Mai: Người thầy chí tình NGUOI LAO DONG
- Tỉ phú Malaysia âm thầm ‘cắm rễ’ trên đất Việt NGUOI LAO DONG
- Tiếp viên trưởng VNA xách tay 345 bao thuốc lá cao cấp từ Hàn Quốc NGUOI LAO DONG
- GS-NGND Hoàng Như Mai: Giảng dạy bằng cả trái tim THANH NIEN
- Lên giảng đường… để ngủ THANH NIEN
- Sinh viên chủ yếu học chay THANH NIEN
- Trường ĐH Duy Tân đón nhận Huân chương lao động hạng nhì THANH NIEN
- Tặng 1.000 cuốn sách ‘Gian nan chỉ là thử thách’ cho sinh viên Huế THANH NIEN
TIN ĐỜI SỐNG
- Khéo tay biến chai nhựa cũ thành đồ “độc” PETROTIMES
- Ngắm “thiên thần lai” Hàn Quốc vạn người mê PETROTIMES
- “Hô biến” hộp khoai tây thành đồ trang trí PETROTIMES
- Nguyễn Hồng Thịnh – “Một người lao động dầu khí tiêu biểu” PETROTIMES
- Những nàng béo làm “liêu xiêu” làng thời trang thế giới PETROTIMES
- Lòng tốt không mất đi NGUOI LAO DONG
- GDP của TP HCM đạt 9,5% NGUOI LAO DONG
- Bác sĩ Việt “xuất khẩu” kỹ thuật mổ nội soi NGUOI LAO DONG
- Cần làm rõ nguồn gốc tài sản của nhà ông Truyền NGUOI LAO DONG
- Sức mạnh tình người NGUOI LAO DONG
- Điều gì xảy ra khi bạn cai rượu VNEXPRESS
- Vụ dầu bẩn Đài Loan: Sản phẩm chưa vào Việt Nam? DAN VIET
- Cận cảnh bé sơ sinh khổng lồ nặng 6,3kg NGUOI DUA TIN
- Lợi ích bất ngờ từ quả na có thể bạn chưa biết NGUOI DUA TIN
- Cụ ông 90 tuổi tìm được người vợ cũ đã xa cách 70 năm NGUOI DUA TIN
- Chuyện tình chàng trai Hà thành và bạn trai song tính ở trời Nam NGUOI DUA TIN
- Ngoại tình với người đàn bà không có mặt NGUOI DUA TIN
- Cháy tại xưởng in, hàng chục người tháo chạy THANH NIEN
- Chữa mất ngủ không dùng thuốc THANH NIEN
- Giảm béo bụng THANH NIEN
- Hai ngư dân tử vong trong lúc lặn THANH NIEN
- Đặc biệt trên báo in ngày 23.11.2014 THANH NIEN
TIN CÔNG NGHỆ
- Kính sát tròng thay màn hình video THANH NIEN
TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ
- 10 người Juventus đại thắng Lazio BAO MOI
- Ảnh chế bóng đá thế giới trong tuần: “Đại chiến bệnh viện” BAO MOI
- Monaco – Caen: Ngày của những “tội đồ” BAO MOI
- Xem lại pha bắt bóng khiến ĐTVN hòa tức tưởi của Nguyên Mạnh BAO MOI
- Atletico bất ngờ ĐỒNG Ý bán Miranda cho Man Utd BAO MOI
- Công bố kết luận vụ Phó Đức Phương bị mời khỏi liveshow Khánh Ly GIAO DUC
- NSƯT Ái Xuân trở lại sân khấu sau lần bị xúc phạm giữa đám đông GIAO DUC
TIN THẾ GIỚI
- Xung đột ở biển Đông và biển Hoa Đông: Bốn viễn cảnh an ninh PHAP LUAT ONLINE
- Mỹ ủng hộ Ukraine gia nhập NATO PHAP LUAT ONLINE
- ‘Không có sai lầm của quân đội Mỹ, CIA’ trong vụ Benghazi VOA
- Nga triển khai thêm lực lượng tới Crimea GIAO DUC
- Dân Triều Tiên đã bắt đầu thích cà phê VNECONOMY
- Quan tòa Mỹ bác đơn kiện Samsung của Apple VNECONOMY
- Ukraine cáo buộc Nga tấn công quân sự ở biên giới, bắt giữ thêm 1 lính GIAO DUC
- Hơn 60 binh sĩ Ukraine bỏ hàng ngũ xin tị nạn ở Nga GIAO DUC
- Ukraine tố Nga có kế hoạch cắt cung khí đốt cho châu Âu VNECONOMY
- Nga-Ukraine hầm hè sau cuộc gặp Putin-Poroshenko VNECONOMY
- Khủng hoảng Ukraine: Châu Âu đối mặt với mùa đông lạnh đầy khó khăn GIAO DUC
- Mỹ thêm tàu sân bay tới châu Á sau chạm trán Trung Quốc ở Biển Đông PHAP LUAT ONLINE
- GIAO DUC
- Chiến lược mở rộng vai trò an ninh của Nhật THANH NIEN
- Mỹ mua thêm 43 chiến đấu cơ F-35 giá 4,7 tỉ USD THANH NIEN
- Đông bắc Mỹ tê liệt vì bão tuyết THANH NIEN
- Động đất 6.3 độ Richter ở Tứ Xuyên, Trung Quốc THANH NIEN
- Đức phóng thích một phụ nữ làm gián điệp cho Nga THANH NIEN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét