Bùi Tín - Một cuốn sách rất cần tìm đọc
Cuốn Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một
nhà báo sống Pháp được Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành hơn 1
tháng nay. Sách in đẹp, dày 428 trang, gồm16 phần, thêm phụ lục.
Tôi đã đọc cuốn sách này một mạch trong 2 ngày. Rồi đọc lại 1 lần nữa, để rồi suốt 1 tuần lễ ngẫm nghĩ về nội dung của nó.
Trần Đức Thảo (1917 – 1993), con một nhà tư sản Phố Cổ đất Hà Thành, là
một trí thức được đào tạo tại Pháp và cũng là một triết gia trẻ uyên bác
khá nổi tiếng, từng tranh luận tay đôi với nhà triết học Jean Paul
Sartre.
Năm 1951, khi 34 tuổi, Trần Đức Thảo tự nguyện về nước qua con đường
Moscow với thiện chí “mang hiểu biết của mình về góp phần xây dựng đất
nước”. Nhưng tai họa đã sớm đến với ông. Lãnh đạo VN, từ Hồ Chí Minh đến
Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng lúc bấy giờ) đều tỏ ý không cần đến “một
anh trí thức mọt sách do đế quốc đào tạo”, còn coi ông là một kẻ reo
rắc tư tưởng phản động nguy hiểm. Ông suýt chết 2 lần, một lần khi tham
gia đội cải cách ruộng đất ở Chiêm Hóa đã nói lên nhận xét là tòa án
nhân dân trong xét xử địa chủ là không ổn, mang tính cưỡng bức phi pháp,
làm cho cố vấn Trung Quốc phật lòng và ông suýt toi mạng về chuyện này;
hai là khi Hà Nội được giải phóng, ông tham gia bằng 2 bài viết trên
báo Nhân Văn cùng Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, bị coi
là “tên đầu sỏ nguy hiểm”. Từ đó ông bị giám sát, bỏ rơi trong cuộc
sống, mất việc, mất vợ, sống lay lắt, lập dị, đi đôi guốc mộc, nói, khóc
và cười một mình, cưỡi chiếc xe đạp trẻ con mang nhãn hiệu nước Nga
giữa phố phường Hà Nội.
Đến nay, khi cuốn sách ra rồi, mọi bí ẩn, đồn đoán nhiều khi sai lạc về con người ông mới được giải mã khá là đầy đủ.
Thì ra sau khi bị đe dọa, trù úm, cô lập, đầy ải về cả tinh thần và vật
chất, triết gia sinh bất phùng thời này quyết sống một cuộc sống 2 mặt,
một mình mình biết một mình mình hay, cảnh giác cao, và nhiều khi phải
đóng kịch với mọi người để tồn tại. Cái con người mà thiên hạ cho là lẩn
thẩn, có khi như mất trí ấy thật ra vẫn cực kỳ minh mẫn, ghi nhớ,
nghiền ngẫm, suy tư, với chủ tâm sẽ có ngày được phơi bày mọi sự ra ánh
sáng, khi bản thân được tự do.
Và cái ngày tự do ấy đã đến, khi người ta muốn đuổi ông già 74 tuổi vô
tích sự - và có thể là vô hại cho họ - ấy đi xa cho khỏi vướng víu.
Tháng 3 năm 1991, ông được cấp một vé máy bay một đi không trở lại để
sống nốt những ngày cuối đời trên đất Pháp.
Năm đầu trên đất Pháp, ông sống trong cơ sở của sứ quán đầy công an, an
ninh, mật vụ CS, nên vẫn phải mang “mặt nạ”, cả khi họ cho phép ông nói
chuyện về triết học, về phép biện chứng duy vật, về chủ nghĩa Mác. Để
giữ mạng sống, ông vẫn phải đóng kịch, như một anh trí thức sơ cấp mụ
mị, dở hơi, làm cho những anh chị em trí thức chờ đợi ở ông những phản
biện sâu sắc đều ngỡ ngàng thất vọng, trong đó có chính người viết bài
này (vào tháng 6/1992).
Một điều may mắn là anh Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một người Hà Nội du học ở
Pháp, vốn có cảm tình với triết gia Trần Đức Thảo, đã cùng giáo sư toán
học Bùi Doãn Khanh thăm dò được mong muốn thầm kín của ông, và được ông
cho biết ý định viết một cuốn sách trong vòng 6 tháng nhằm trình bày
tất cả những suy nghĩ chân thực của ông suốt 40 năm qua để cống hiến cho
nhân dân VN đau khổ, lầm than. Khi ông đột ngột qua đời ngày 23 tháng 4
năm 1993 trong nhà khách sứ quán CS, cuốn sách tâm huyết ông chưa viết
xong, mới chỉ là những ghi chép, phác thảo, dàn bài, ý vụt đến… đã bị an
ninh sứ quán thu lượm sạch. Nhưng họ đã bỏ sót một kho tư liệu quan
trọng: những cuốn băng ghi âm của ông Thảo.
Suốt trong gần 6 tháng, cứ đến cuối tuần, khi an ninh và viên chức sứ
quán lo vui gia đình, hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh lại lặng lẽ đón
ông Thảo đến một quán cà phê kín đáo, đặt ra những câu hỏi và ghi âm
những câu trả lời của ông. Ngay sau khi ông Thảo đột ngột từ trần - một
cái chết vẫn còn nhiều nghi vấn – hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh đã bỏ
công ghi lại thành 16 đoạn trên máy điện toán, rồi biên soạn lại thành
cuốn sách Trần Đức Thảo - Những lời trăng trối.
Cuốn sách đã giải mã đầy đủ con người và nhân cách Trần Đức Thảo. Cho
đến khi gần vĩnh biệt chúng ta ông đã dùng tư duy bén nhạy của một học
giả và triết gia để soi sáng một đoạn hệ trọng của lịch sử dân tộc, thay
thế cho những trang lịch sử chính thống trong đó con người và sự kiện
đã bị xuyên tạc, bóp méo.
Trong sách, Trần Đức Thảo có nhắc đến ông Hồ vài chục lần, kể từ cuộc
gặp ở Pháp, đến cuộc gặp ở chiến khu Việt Bắc, khi quy định phải đứng xa
Bác 3 mét, khi được hỏi mới được nói, phải gọi ông Hồ là Bác và nhiều
lần gặp sau ở Hà Nội, khi ông chỉ còn là một bóng người vật vờ, tồn tại
mà như không tồn tại.
Xin mời bạn đọc thưởng thức vài đoạn ngắn trong cuốn sách nói đến “ông
Cụ”, để thấy nhà triết học vẫn minh mẫn sâu sắc tinh anh đến mức nào.
… “ Đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành(1911) (với khát vọng
khiêm tốn là sẽ là kẻ thành đạt…) rồi cho đến sau này bỏ hẳn họ Nguyễn,
lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc
CHÍ MINH (1945)… Nói chung tên giả thường là rất tiêu biểu
tâm thức như thế đã phản ánh chân thực những bước chuyển biến trong đầu
óc của ‘ông Cụ’. Mỗi lần thay tên đổi họ là một bước có ý nghĩa trong
hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đây là quá trình diễn
biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái
biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chi mong có cơ
hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách để đạt tới
tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu
nước chân chính (‘Ái Quốc’), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong
thiên hạ (CHÍ MINH)! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tỉnh
táo, có liêm sỷ, một bộ não minh triết không bao giờ tự ý xưng mình là
‘Vương’, là ‘Ái Quốc’, là ‘CHÍ MINH’ như thế…”.
Và đây là một đọan trích nữa nhận định tổng hợp về “ông Cụ” của triết gia họ Trần:
“Cụ Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng thông minh, rất mưu
trí, một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng chụp bắt mọi
cơ hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy là
một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn,
không có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc một
cuồng vọng, với một ưu tư duy nhất là phải leo lên đến tột đỉnh quyền
lực đê đạt tới mục tiêu của mình… Vì thế ông Cụ không chấp nhận một ai
trong đám chung quanh là ngang mình. Vì thế mà không cần trợ lý, cố vấn,
vì thế không lắng nghe một ai. Bởi lãnh tụ chỉ chăm chú tìm chiến thắng
vinh quang, của giấc mơ thế giới đại đồng, chứ không cảm nhận được nỗi
đau đầy máu và nước mắt của dân trong thực tại. Một con người chỉ nghĩ
và sống với khát vọng chiến thắng, chứ không muốn sống bình thường như
mọi người. Riêng đối với tôi, cái nhìn đầu tiên của lãnh tụ là để đánh
giá tôi trong tương quan chiến thắng ấy, và cách đánh giá ấy là một bản
án không nơi kháng cáo. Vì thế tôi đã suy nghĩ nhiều về nhân vật lịch sử
này! Bởi Người là một cái bóng ma quyền lực đã đè nặng lên thân phận
tôi.
“Những điều tôi nói đây không phải để oán trách ‘ông Cụ’, bởi tôi biết
đây là một nhân vật bi thảm, luôn bị chi phối bởi nhiều thế lực trong và
ngoài. Nào là cuồng vọng của một lãnh tụ chính trị, nào là sức ép của
Mao, nào là những ý đồ phức tạp trong Bộ Chính trị với nhiều phe phái
kình chống nhau. Những sức ép ấy đã tiêu diệt hết tình cảm của con người
bình thường nơi ‘ông Cụ’ và ‘ông Cụ’ bị đưa vào thế phải chấp nhận sống
cô đơn, phải thủ vai ông thánh, ông thần, giữa bao thế lực quỷ quái,
quá khích, lúc tả khuynh, lúc hữu khuynh… để đạt tới, để nắm vững đỉnh
cao quyền lực…”.
Còn có rất nhiều đoạn lý thú độc đáo khác nói về “Hà Nội giải phóng” năm
1955 và “Miền Nam giải phóng” năm 1975, về những buổi dự “hát cô đầu”
cùng nhà văn Nguyễn Tuân, nhận xét về lực lượng Công an là bạn dân ra
sao dưới một chế độ CS cảnh sát trị.Trong đọan kết, triết gia Trần Đức
Thảo bộc bạch rằng vào lúc cuối đời ông đã nhận rõ chủ nghĩa Mác là một
học thuyết sai lầm từ gốc, chứ không phải là nó đúng nhưng đã bị vận
dụng sai, và nó sai cả về vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan do cổ vũ đấu
tranh giai cấp, bạo lực, chiến tranh, sai cả về phương pháp luận lô gích
biện chứng duy vật - hiện tượng học. Theo ông, Liên Xô, Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên đều là nạn nhân bi thảm của chủ
nghĩa Mác. Rất tiếc là ông đang say mê lý giải thì tai họa ập đến. Người
ta thoáng biết ý định thâm sâu của ông cùng bè bạn thân thiết, và ông
đã bị họ bịt mồm khi đang thổ lộ tâm tình thầm kín nhất. Dù sao ông đã
mãn nguyện phần lớn khi đã trút gần hết bầu tâm sự giữ kín 40 năm ròng.
Chính do những lẽ ấy mà cuốn Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối là cuốn
sách quý, rất nên tìm đọc, phổ biến rộng và bàn luận để tăng thêm hiểu
biết về lịch sử và những nhân vật nước ta. Tuy tác phẩm này đã ra đời
chậm hơn 20 năm, nhưng dù sao nó vẫn là một cuốn sách rất có giá trị với
thời cuộc hiện tại.
Bùi Tín
(VOA)
Phạm Chí Dũng - Làm sao để hơi nóng thoát ra ?
Bình nước sôi
Mùa Hè năm 2014, cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ diễn ra vào trung tuần tháng Năm đã không có mặt Dan Baer - viên trợ lý điển trai của Ngoại trưởng Hoa Kỳ. Đây là người dẫn đầu đoàn đàm phán Mỹ tại cuộc đối thoại cùng tên vào Tháng Tư năm 2013, cũng là nhân vật được giới quan sát đánh giá là rất nhiệt tình cho công cuộc phục hồi các giá trị dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Tuy thế, cuộc gặp mặt giữa hai quốc gia cựu thù vào năm nay lại được dẫn dắt bởi một gương mặt không kém mẫn cảm so với trưởng phái đoàn Hoa Kỳ năm ngoái: Tom Malinowski. Cũng như Dan Baer, ông Malinowski phụ trách về dân chủ và nhân quyền và lao động - những lĩnh vực mà Hà Nội không thú vị chút nào.
Mùa Hè năm 2014, cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ diễn ra vào trung tuần tháng Năm đã không có mặt Dan Baer - viên trợ lý điển trai của Ngoại trưởng Hoa Kỳ. Đây là người dẫn đầu đoàn đàm phán Mỹ tại cuộc đối thoại cùng tên vào Tháng Tư năm 2013, cũng là nhân vật được giới quan sát đánh giá là rất nhiệt tình cho công cuộc phục hồi các giá trị dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Tuy thế, cuộc gặp mặt giữa hai quốc gia cựu thù vào năm nay lại được dẫn dắt bởi một gương mặt không kém mẫn cảm so với trưởng phái đoàn Hoa Kỳ năm ngoái: Tom Malinowski. Cũng như Dan Baer, ông Malinowski phụ trách về dân chủ và nhân quyền và lao động - những lĩnh vực mà Hà Nội không thú vị chút nào.
Song những gì mà ông Malinowski lan truyền cho giới truyền thông quốc tế
sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ lần này lại thú vị hơn hẳn lần
trước. Cho dù xuất hiện với độ trễ đến ba tuần sau thời điểm đối thoại,
nhưng điểm đáng ghi nhận đầu tiên chính là sự có mặt trực tiếp của chính
Tom Malinowski. Không phải chỉ là một phát ngôn viên Nhà Trắng như ông
Patrick Ventrell chỉ để đưa ra vài tuyên bố chung nhất theo cách “hữu
nghị viển vông” trong cuộc họp báo sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ
vào năm trước, trong khi Dan Baer có vẻ cô mình trong tâm thế thất vọng
tràn trề vì không thể đến thăm những nhân vật bất đồng chính kiến mà
ông muốn gặp.
“Giống như một bình nước sôi, sẽ tốt hơn nhiều nếu ta mở nắp để hơi nóng thoát ra thay vì cố gắng đậy lại để rốt cuộc dẫn tới một sự bùng nổ lớn hơn”. Khác hẳn với không khí rất trầm lắng trong đối thoại nhân quyền năm ngoái, vào năm nay thậm chí Tom Malinowski còn nêu ra một ví von ẩn dụ rất tượng hình và mang phong cách thường xuất hiện trong hoàn cảnh tự tin của giới chính trị gia phương Tây. Ðây là điểm thứ hai đáng ghi nhận.
Bối cảnh người Mỹ có vẻ tự tin hơn hẳn như vậy lại diễn ra cùng thời điểm mà giới lãnh đạo Trung Nam Hải biếu không cho Việt Nam một món quà đắt giá: giàn khoan HD 981.
Ngay sau chiến dịch được xem như bước đầu tái nô thuộc Việt Nam như thế, hàng loạt sự kiện từ việc người đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng bị Tập Cận Bình từ chối tiếp ở Bắc Kinh theo tiết lộ của tờ The New York Times, những cuộc bạo động ở Bình Dương, Ðồng Nai và Hà Tĩnh, đến thái độ không thể lừng chừng hơn của Bộ Chính trị Hà Nội đối với việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, đã cho thấy chưa bao giờ từ năm 1945 đến nay, dân tộc Việt Nam phải chứng kiến một Nhà nước Việt Nam cô đơn và chia rẽ đến thế. Bất chấp phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà nhà nước này đã “dày công vun đắp” suốt hàng chục năm qua.
Phỏng theo tục ngữ “tham thì thâm”, món quà không thể giá trị hơn của “đối tác chiến lược toàn diện” giá trị nhất là Trung Quốc đã khiến chiến thuật “đu dây” của Việt Nam hầu như phá sản. Hệ lụy còn lại không phải là Hà Nội dung hòa mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” như thế nào, mà sẽ phải đối phó với những đòn tấn công tổng lực từ chính trị, kinh tế và cả quân sự của Bắc Kinh trong những năm tới ra sao.
Nâng ly chúc mừng
“Nhân quyền là một phần hết sức quan trọng trong mối quan hệ Việt-Mỹ hiện nay giữa căng thẳng Biển Ðông, chính sách tái cân bằng của Washington ở Châu Á, và các cuộc thương lượng hiệp định tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP” - một hãng tin quốc tế tiếp tục thuật lại câu chuyện với Malinowski.
Cần chú ý, trạng từ “hết sức” như thế đã rất ít khi được phía Mỹ nêu ra trên các bàn đàm phán từ nhân quyền đến TPP với Việt Nam. Dù chưa có thông tin cụ thể nào từ cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ tháng 5/2014 được công bố, nhưng ai cũng hiểu là bất kỳ vào thời điểm bế tắc nào của Hà Nội, những người hướng đến tầm nhìn “xoay trục” ở Washington đều hiểu rõ ưu thế mà họ nắm được so với một đối tác đã hầu như “hết sức”.
“Sở dĩ có hy vọng cao rằng đối thoại nhân quyền năm nay đạt tiến bộ xuất phát từ đối thoại TPP. Cho nên, cuộc đối thoại nhân quyền là cách mà qua đó chúng tôi có thể thảo luận chính xác các bước nào Việt Nam cần thiết phải thực hiện để có thể trở thành thành viên của TPP trong năm nay”. Không phải từ bất kỳ thành viên nào trong chính phủ Việt Nam, mà Tom Malinowski mới là người phát ra tín hiệu về một triển vọng mà vào năm ngoái đã không hề nhận ra tương lai.
Bắt đầu có thể nâng ly chúc mừng Nhà nước Việt Nam. Mặc cho các vòng đàm phán về TPP vẫn chưa đi đến kết thúc và vẫn còn “vô số việc phải làm” như lời nhắn nhủ của Bộ trưởng Thương mại Mỹ trong cuộc gặp với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 9, 2013 tại New York, nhưng lần gặp gỡ của Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Penny Pritzker cũng với ông Dũng tại Hà Nội vào đầu tháng 6, 2014 - một tháng sau đối thoại nhân quyền - đã phác ra một bức tranh không đến nỗi quá xấu xí: TPP có cơ hội được kết thúc vào cuối năm nay, và do đó người Việt cũng có thể tạm gột rửa vết dơ Trung Quốc trên mặt mình.
Trong một khoảnh khắc nồng nàn hơi thái quá, Tom Malinowski còn cho rằng, “Việt Nam có cơ hội, một cơ hội thật sự”. Quả thật, nửa cuối năm nay có vẻ là cơ hội gần cuối cho giới đàm phán Hà Nội, vì nếu đến năm sau khi tất cả các ứng cử viên Hoa Kỳ đều phải tất bật bởi chuyện vận động tranh cử, sẽ chẳng còn mấy ai tha thiết vận động cho Việt Nam vào TPP nữa.
Tuy nhiên, người Mỹ không hẳn trầm lặng này vẫn không quên thòng lời tự sự: “Nhưng liệu Nhà nước Việt Nam có thực hiện những bước cần thiết để nắm bắt cơ hội hay không là câu hỏi mà tôi không thể trả lời thay họ được.”
Rất đúng. Không ai có thể trả lời thay và làm thay cho người Việt, nếu bản thân giới lãnh đạo quá thiếu quả quyết ở đất nước “ngàn năm Bắc thuộc” này không tự xác quyết được tư thế “hãy cố gắng ký khi còn có thể đứng.”
Hãy chờ xem
Một lần nữa, dư luận trên dải đất chữ S lại nổi lên bão tố về những nghi biến quá tiềm tàng trong Hội nghị Thành Ðô giữa Việt Nam và Trung Quốc vào năm 1990 - sự kiện đánh dấu nguy cơ vong quốc đậm đà nhất kể từ sau cuộc chiến năm 1979 giữa “hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Kể từ đó đến nay, điều mà không ít trí thức và người dân cho là “chính sách ngoại giao đầu gối” quả đã phát huy hiệu năng xuất thần của nó: Việt Nam đang đối diện với nguy cơ có thể bị biến thành một tỉnh lỵ của chủ nghĩa Ðại Hán.
Trước tình thế “nước mất nhà tan” ấy, không quá khó hiểu trước lời nhận xét của Tom Malinowski: “Chúng tôi khá ấn tượng về việc phái đoàn Việt Nam sang đây làm việc với chúng tôi, tìm cách đạt tiến bộ trong các mối quan tâm của chúng tôi về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam.” Lẽ dĩ nhiên ở vào thời điểm quá nhạy cảm này, những gì mà chính phủ Việt Nam và ông Nguyễn Tấn Dũng chưa thực hiện hoặc chưa muốn thực hiện từ trước khi quốc gia này được chấp thuận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tháng 11/2013 cho đến cuộc Kiểm điểm Ðịnh kỳ Phổ quát về Nhân quyền Việt Nam vào tháng 2/2014 sẽ có cơ hội để biểu tả.
Lần đầu tiên kể từ động tác của Trương Tấn Sang trao bản sao lá thư của Hồ Chí Minh gửi Harry Truman cho Barack Obama vào tháng 7, 2013, người Mỹ mới hé lộ về khả năng “đối tác chiến lược” với Việt Nam. Cũng là lần đầu tiên trong các cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ, trưởng đoàn Hoa Kỳ nhắc tới từ “quân sự” nhằm khẳng định quan hệ Việt-Mỹ sẽ tiến sâu hơn nữa khi Hà Nội cải thiện nhân quyền.
Còn hơn cả TPP, vai trò xung yếu của Hạm đội 7 Hoa Kỳ cho đến lúc này mới hiển thị rõ hơn lúc nào hết trong con mắt yếu đuối của giới lãnh đạo Hà Nội. Nếu Trung Quốc đang phung phí tin đồn về chuyện có thể độc chiếm Biển Ðông đến năm 2020, có lẽ không ít tướng lĩnh quân đội Việt Nam lại tin rằng chỉ có Hạm đội 7 mới đủ sức hóa giải nỗi đe dọa từ hạm đội Nam Hải của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, “Chúng ta phải chờ xem bởi vì sự trắc nghiệm không nằm ở chất lượng cuộc đối thoại mà ở các bước sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới” - Tom Malinowski kết luận. Ðó cũng là ván bài lật ngửa theo thế không thể còn đi dây của một bộ phận lãnh đạo Việt Nam, nếu quả thực họ muốn “xoay trục” sang phương Tây.
Lẽ đương nhiên, đó cũng là triển vọng đang hé cửa hơn cho ít nhất vài ba chục tù nhân lương tâm như Ðỗ Thị Minh Hạnh đang bị lấp kín bởi cánh cửa nhà tù; cho vài ba thứ quyền tối thiểu của người dân Việt Nam như lập hội, công đoàn độc lập và biểu tình; và trên hết là cho nền tảng dân quyền thực sự trong một xã hội dân sự đang khát dân chủ đến khô cả họng.
Phạm Chí Dũng“Giống như một bình nước sôi, sẽ tốt hơn nhiều nếu ta mở nắp để hơi nóng thoát ra thay vì cố gắng đậy lại để rốt cuộc dẫn tới một sự bùng nổ lớn hơn”. Khác hẳn với không khí rất trầm lắng trong đối thoại nhân quyền năm ngoái, vào năm nay thậm chí Tom Malinowski còn nêu ra một ví von ẩn dụ rất tượng hình và mang phong cách thường xuất hiện trong hoàn cảnh tự tin của giới chính trị gia phương Tây. Ðây là điểm thứ hai đáng ghi nhận.
Bối cảnh người Mỹ có vẻ tự tin hơn hẳn như vậy lại diễn ra cùng thời điểm mà giới lãnh đạo Trung Nam Hải biếu không cho Việt Nam một món quà đắt giá: giàn khoan HD 981.
Ngay sau chiến dịch được xem như bước đầu tái nô thuộc Việt Nam như thế, hàng loạt sự kiện từ việc người đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng bị Tập Cận Bình từ chối tiếp ở Bắc Kinh theo tiết lộ của tờ The New York Times, những cuộc bạo động ở Bình Dương, Ðồng Nai và Hà Tĩnh, đến thái độ không thể lừng chừng hơn của Bộ Chính trị Hà Nội đối với việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, đã cho thấy chưa bao giờ từ năm 1945 đến nay, dân tộc Việt Nam phải chứng kiến một Nhà nước Việt Nam cô đơn và chia rẽ đến thế. Bất chấp phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà nhà nước này đã “dày công vun đắp” suốt hàng chục năm qua.
Phỏng theo tục ngữ “tham thì thâm”, món quà không thể giá trị hơn của “đối tác chiến lược toàn diện” giá trị nhất là Trung Quốc đã khiến chiến thuật “đu dây” của Việt Nam hầu như phá sản. Hệ lụy còn lại không phải là Hà Nội dung hòa mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” như thế nào, mà sẽ phải đối phó với những đòn tấn công tổng lực từ chính trị, kinh tế và cả quân sự của Bắc Kinh trong những năm tới ra sao.
Nâng ly chúc mừng
“Nhân quyền là một phần hết sức quan trọng trong mối quan hệ Việt-Mỹ hiện nay giữa căng thẳng Biển Ðông, chính sách tái cân bằng của Washington ở Châu Á, và các cuộc thương lượng hiệp định tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP” - một hãng tin quốc tế tiếp tục thuật lại câu chuyện với Malinowski.
Cần chú ý, trạng từ “hết sức” như thế đã rất ít khi được phía Mỹ nêu ra trên các bàn đàm phán từ nhân quyền đến TPP với Việt Nam. Dù chưa có thông tin cụ thể nào từ cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ tháng 5/2014 được công bố, nhưng ai cũng hiểu là bất kỳ vào thời điểm bế tắc nào của Hà Nội, những người hướng đến tầm nhìn “xoay trục” ở Washington đều hiểu rõ ưu thế mà họ nắm được so với một đối tác đã hầu như “hết sức”.
“Sở dĩ có hy vọng cao rằng đối thoại nhân quyền năm nay đạt tiến bộ xuất phát từ đối thoại TPP. Cho nên, cuộc đối thoại nhân quyền là cách mà qua đó chúng tôi có thể thảo luận chính xác các bước nào Việt Nam cần thiết phải thực hiện để có thể trở thành thành viên của TPP trong năm nay”. Không phải từ bất kỳ thành viên nào trong chính phủ Việt Nam, mà Tom Malinowski mới là người phát ra tín hiệu về một triển vọng mà vào năm ngoái đã không hề nhận ra tương lai.
Bắt đầu có thể nâng ly chúc mừng Nhà nước Việt Nam. Mặc cho các vòng đàm phán về TPP vẫn chưa đi đến kết thúc và vẫn còn “vô số việc phải làm” như lời nhắn nhủ của Bộ trưởng Thương mại Mỹ trong cuộc gặp với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 9, 2013 tại New York, nhưng lần gặp gỡ của Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Penny Pritzker cũng với ông Dũng tại Hà Nội vào đầu tháng 6, 2014 - một tháng sau đối thoại nhân quyền - đã phác ra một bức tranh không đến nỗi quá xấu xí: TPP có cơ hội được kết thúc vào cuối năm nay, và do đó người Việt cũng có thể tạm gột rửa vết dơ Trung Quốc trên mặt mình.
Trong một khoảnh khắc nồng nàn hơi thái quá, Tom Malinowski còn cho rằng, “Việt Nam có cơ hội, một cơ hội thật sự”. Quả thật, nửa cuối năm nay có vẻ là cơ hội gần cuối cho giới đàm phán Hà Nội, vì nếu đến năm sau khi tất cả các ứng cử viên Hoa Kỳ đều phải tất bật bởi chuyện vận động tranh cử, sẽ chẳng còn mấy ai tha thiết vận động cho Việt Nam vào TPP nữa.
Tuy nhiên, người Mỹ không hẳn trầm lặng này vẫn không quên thòng lời tự sự: “Nhưng liệu Nhà nước Việt Nam có thực hiện những bước cần thiết để nắm bắt cơ hội hay không là câu hỏi mà tôi không thể trả lời thay họ được.”
Rất đúng. Không ai có thể trả lời thay và làm thay cho người Việt, nếu bản thân giới lãnh đạo quá thiếu quả quyết ở đất nước “ngàn năm Bắc thuộc” này không tự xác quyết được tư thế “hãy cố gắng ký khi còn có thể đứng.”
Hãy chờ xem
Một lần nữa, dư luận trên dải đất chữ S lại nổi lên bão tố về những nghi biến quá tiềm tàng trong Hội nghị Thành Ðô giữa Việt Nam và Trung Quốc vào năm 1990 - sự kiện đánh dấu nguy cơ vong quốc đậm đà nhất kể từ sau cuộc chiến năm 1979 giữa “hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Kể từ đó đến nay, điều mà không ít trí thức và người dân cho là “chính sách ngoại giao đầu gối” quả đã phát huy hiệu năng xuất thần của nó: Việt Nam đang đối diện với nguy cơ có thể bị biến thành một tỉnh lỵ của chủ nghĩa Ðại Hán.
Trước tình thế “nước mất nhà tan” ấy, không quá khó hiểu trước lời nhận xét của Tom Malinowski: “Chúng tôi khá ấn tượng về việc phái đoàn Việt Nam sang đây làm việc với chúng tôi, tìm cách đạt tiến bộ trong các mối quan tâm của chúng tôi về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam.” Lẽ dĩ nhiên ở vào thời điểm quá nhạy cảm này, những gì mà chính phủ Việt Nam và ông Nguyễn Tấn Dũng chưa thực hiện hoặc chưa muốn thực hiện từ trước khi quốc gia này được chấp thuận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tháng 11/2013 cho đến cuộc Kiểm điểm Ðịnh kỳ Phổ quát về Nhân quyền Việt Nam vào tháng 2/2014 sẽ có cơ hội để biểu tả.
Lần đầu tiên kể từ động tác của Trương Tấn Sang trao bản sao lá thư của Hồ Chí Minh gửi Harry Truman cho Barack Obama vào tháng 7, 2013, người Mỹ mới hé lộ về khả năng “đối tác chiến lược” với Việt Nam. Cũng là lần đầu tiên trong các cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ, trưởng đoàn Hoa Kỳ nhắc tới từ “quân sự” nhằm khẳng định quan hệ Việt-Mỹ sẽ tiến sâu hơn nữa khi Hà Nội cải thiện nhân quyền.
Còn hơn cả TPP, vai trò xung yếu của Hạm đội 7 Hoa Kỳ cho đến lúc này mới hiển thị rõ hơn lúc nào hết trong con mắt yếu đuối của giới lãnh đạo Hà Nội. Nếu Trung Quốc đang phung phí tin đồn về chuyện có thể độc chiếm Biển Ðông đến năm 2020, có lẽ không ít tướng lĩnh quân đội Việt Nam lại tin rằng chỉ có Hạm đội 7 mới đủ sức hóa giải nỗi đe dọa từ hạm đội Nam Hải của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, “Chúng ta phải chờ xem bởi vì sự trắc nghiệm không nằm ở chất lượng cuộc đối thoại mà ở các bước sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới” - Tom Malinowski kết luận. Ðó cũng là ván bài lật ngửa theo thế không thể còn đi dây của một bộ phận lãnh đạo Việt Nam, nếu quả thực họ muốn “xoay trục” sang phương Tây.
Lẽ đương nhiên, đó cũng là triển vọng đang hé cửa hơn cho ít nhất vài ba chục tù nhân lương tâm như Ðỗ Thị Minh Hạnh đang bị lấp kín bởi cánh cửa nhà tù; cho vài ba thứ quyền tối thiểu của người dân Việt Nam như lập hội, công đoàn độc lập và biểu tình; và trên hết là cho nền tảng dân quyền thực sự trong một xã hội dân sự đang khát dân chủ đến khô cả họng.
(Blog Thụy My)
Tương lai nào cho công an và quân đội thời hậu-cộng-sản?
Giờ đây ai cũng biết đảng cộng sản Việt Nam đã mất hết khả năng điều
hành đất nước. Qua sự kiện giàn khoan Hysy 981, chính phủ Việt Nam tụt
thêm một mức nữa: Không còn khả năng duy trì chế độ. Cộng sản Việt Nam
không còn đồng minh, hết còn lý tưởng, hết ngân sách…
Cũng như những triều đại khác lúc cuối đời, dù đảng cộng sản Việt Nam có
quyết định và hành động gì nữa thì cũng sẽ đi vào chổ chết. Có nhường
nhịn thì vẫn bị tiếp tục lấn chiếm đất đai và biển đảo.
Có bắt bớ và giam cầm những người đấu tranh thì đã có những người khác
thay thế. Nhờ kiến thức lẫn kinh nghiệm của những người đi trước, thành
phần đấu tranh kế tiếp còn lợi hại hơn nhiều.
Nguy hiểm hơn, khi bắt bớ giam cầm hay đánh đập hành hung một người đấu
tranh là chính quyền cộng sản ngẫu nhiên tôn vinh họ thành những tấm
gương, biến họ thành những biểu tượng. Bắt rồi thả Nguyễn Phương Uyên là
có ngay một biểu tượng tuổi trẻ yêu nước. Đánh đập Trần Ngọc Anh là dọn
ghế ngồi cho một thủ lĩnh của dân oan. Kết án Đoàn Hữu Hậu là có ngay
một tấm gương của trí thức chống tham nhũng.
Không biết dân chúng đã hết sợ đến mức nào. Những thành phần đấu tranh
đã hết sợ từ lâu. Những người bị áp bức như Nguyễn Văn Thạnh, Vi Đức
Hồi,Trương Duy Nhất… vẫn tiếp tục đấu tranh dù đang ở trong tù, bị quản
thúc hay đang bị đàn áp. Mới năm nào còn lác đác tên tuổi của vài người
đấu tranh, bây giờ đếm và nhớ gần như không xuể!
Thắc mắc của dân chúng, bên phe đấu tranh và cả bên cộng sản là Việt Nam sẽ ra sao khi chế độ cộng sản sụp đổ?
Winston Churchill đã tiên đoán được chiến tranh Thế giới thứ Hai từ khi
Hitler thắng cử và đã chuẩn bị đối phó từ năm 1933, 1934. Vì đã chuẩn bị
sẵn 6, 7 năm trước nên ông không bở ngở. Biết phải làm gì trong những
giây phút đen tối nhất của nước Anh. Hiện nay, ai dám chắc rằng cộng sản
sẽ tồn tại tới 6, 7 năm nữa?
Những nhóm hoạt động xã hội dân sự, đảng phái đấu tranh chính trị nên
chuẩn bị giai đoạn chuyễn tiếp. Thời hậu cộng sản. Sự chuẩn bị chính
trị chu đáo sẽ làm Việt Nam thay đổi êm thắm. Đất nước dễ đi lên. Thay
vì phải sống trong một không khí thù hận và sợ hãi.
Một vấn đề phải giải quyết là làm gì với khối lượng an ninh, công an thừa thãi?
Trong các nước dân chủ, lực lượng an ninh cũng nhiều. Nhưng chẳng thấm
vào đâu so với các nước độc tài. Trung bình, tỷ lệ dao động khoảng chừng
1 cảnh sát cho 200 công dân. Vì phải phụ trách nhiều lãnh vực an ninh
khác nhau, nên lắm khi 1 cảnh sát khu vực phải chịu trách nhiệm đến… 800
gia đình. Chính phủ không cần tăng thêm nhân viên bởi vì dân chúng đã
làm nhiều chức năng của cảnh sát. Nào là tự vệ, nào là tố cáo, nào là
điều tra… Mỗi công dân, trong hiến pháp và trong thực tế đã là một «
cảnh sát không súng ống ». Mặt khác, có nhiều chức năng mà cảnh sát
không được làm như ở Việt Nam như xử lý xung đột về đâm chém, đất đai,
kinh tế, thương mại… Vì những nhiệm vụ này thuộc quyền của tòa án, những
người này rành luật pháp hơn. Quyền bắt giữ và quyền xử án được phân
chia hẳn hòi (Tam quyền phân lập).
Nếu Việt Nam là một nước dân chủ, thì chính phủ chỉ cần khoảng chừng nữa
triệu nhân viên cho an ninh xã hội. Dù không công bố, con số này đã
vượt quá xa gồm công an hình sự, công an khu vực, cảnh sát cơ động, dư
luận viên, an ninh chìm, dân phòng, cai ngục…
Vậy phải làm sao với số người dư thừa này?
Nhiều người tức giận nuôi hận thù và đấu tranh với ý nghĩ duy nhất là đuổi việc ngay các đám an ninh, dư luận viên, dân phòng...
Làm vậy thì Việt Nam sẽ rơi ngay vào hỗn loạn.
Xin kể lại thất bại chính trị ở xứ người để rút ra bài học. Sau khi Đồng
Minh đánh bại quân đội Irak dễ dàng như một cuộc tập trận, nhà ngoại
giao Paul Bremer được đề cử đến Irak để tổ chức và thành lập một chính
quyền dân chủ.
Với quyền lực của một “toàn quyền”, Paul Bremer đã xóa bỏ đảng Baas,
đảng chính trị cầm quyền duy nhất của Irak. Và xóa bỏ luôn quân đội
Irak. Sáu tiếng đồng hồ sau khi 2 sắc lệnh này có hiệu lực, Irak bị đánh
bom rồi chìm mãi trong máu lữa. Đến bây giờ vẫn chưa xong.
Làm chính trị là biết giải quyết những oan ức trong quá khứ, dàn xếp
những mâu thuẫn ở hiện tại và đề phòng những bất trắc trong tương lai.
Nếu áp dụng đường lối chính trị ngắn hơi, những bất trắc của tương lai
lại bắt đầu ngay từ hiện tại.
Nếu chính phủ Việt Nam hậu-cộng sản xóa bỏ lực lượng an ninh và đuổi bớt
lực lượng công an, dân phòng… thì xã hội sẽ có ngay những băng đảng
mafia nguy hiểm nhất: Biết dùng vũ khí và có tổ chức !!!
Những kẻ có nguy cơ thành trộm cướp trong tương lai đã được huấn luyện
bài bản về cách theo dõi, rình mò, đột nhập và dùng vũ lực.
Vậy phải làm sao? Và giải quyết như thế nào?
Câu trã lời là nên tìm công ăn việc làm phù hợp cho nhóm người chỉ biết
làm công cụ cho đảng. Song song với các thành phần khác trong xã hội.
Không phải vì họ xứng đáng hơn những người khác. Mà vì nếu bỏ mặc họ thì
xã hội sẽ rối loạn ngay.
Một trong những lối thoát là chuyễn đổi lực lượng an ninh, cảnh sát cơ
động dư thừa vào cơ chế quân đội. Với đồng lương, phần phụ trội tương
xứng hoặc hơn cả khi họ phục vụ trong chế độ cộng sản. Nhìn về phía
chuyên môn, thì họ có kỷ luật, trình độ hơn những kẻ lơ mơ từ dân sự vào
quân đội dưởi hình thức nghĩa vụ quân sự.
Với sự tiến bộ của vũ khí, kiểu quân đội đi bộ đội vài ba tháng, đào vài
ba hố cá nhân, bắn vài ba viên đạn… đã qua. Khi có chiến tranh, những
binh lính này sẽ là những tấm bia đở đạn. Dù muốn hay không, các chính
phủ trên thế giới đều phải có quân đội chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp đi
chung với mức lương xứng đáng. Được trang bị vũ khí đầy đủ và huấn luyện
đến nơi đến chốn. Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Quân đội đúng nghĩa của quốc gia dân chủ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất:
Bảo vệ đất nước. Họ không được quyền tham dự chính trị. Nên ngoài bộ
trưởng bộ quốc phòng ra, không có sĩ quan nào được chức tước gì trong
chính phủ. Nhiều nơi, bộ trưởng bộ quốc phòng cũng không phải là quân
nhân.
Nếu không ở trong trình trạng chiến tranh, một quân nhân chỉ là một
người làm việc cho chính phủ. So với những người khác, họ chẳng có quyền
hành gì ngoại trừ quyền hành của một công dân. Xe cộ, máy bay, tàu bè
quân đội cũng chẳng có được một ưu tiên nào. Thậm chí người lính cũng
không được mang súng cá nhân ra khỏi doanh trại.
Thay vì canh giữ những người đấu tranh thì lực lượng an ninh sẽ được
trao nhiệm vụ mới là bảo vệ những người dám tố cáo tiêu cực, những nhà
báo điều tra tham nhũng, những nhân chứng trong những vụ án nổi cộm… Sự
bảo vệ này sẽ thường trực 24 trên 24 nếu tình cảnh bắt buộc.
Ngoài ra, nên biệt phái các lực lượng an ninh đến yểm trợ trực tiếp cho
lực lượng bảo vệ trong các doanh nhân và công ty thành đạt.
Doanh nhân và công ty thành đạt nên hiểu theo nghĩa là: Những công ty ăn
nên làm ra, sẵn sàng đóng thuế cao và tạo công ăn việc làm cho nhiều
người. Từ Trung Nguyên đến Samsung, từ Kinh Đô đến Adidas... Những công
ty lắp ráp xe hơi, sản xuất bia rượu… mà lươn lẹo để không đóng thuế sẽ
không được những đặc quyền trên. Dù cho nó lớn đi cỡ nào đi chăng nữa.
Tài sản quý giá nhất và quan trọng nhất của quốc gia trong thời thái
bình là những thành phần có khả năng làm kinh tế, tạo công ăn việc làm
cho dân chúng. Người giám đốc tài giỏi sẽ kiếm được đội ngũ quản lý ưu
tú. Ban quản lý ưu tú sẽ có cách tìm, giữ hay đào tạo đội ngũ nhân viên
chuyên nghiệp. Công ty sẽ đi lên. Ngược lại, đổ tiền và ban cho ưu đãi,
độc quyền… với bộ phận quản trị tồi tệ thì trước sau gì công ty đó cũng
rơi vào vực thảm. Những tập đoàn kinh tế quốc doanh là những bằng chứng
thất bại không thể chối cải.
Một chính quyền không thể làm đất nước giàu có. Sự giàu có là do dân
chúng. Dân chúng làm ra công ty. Những công ty làm cho đất nước giàu có.
Mỹ đứng đầu về kinh tế thế giới nhờ Apple, Exxon, Boeing, General
Motor... Chính quyền Mỹ chỉ là cơ quan hòa giải, lập ra một sân chơi
bình đẳng để cho những con người như Bill Gates, Warren Buffet… phát huy
tài hoa của mình. Mỹ giàu có là nhờ công dân của họ.
Những công ty đã làm cho nước Đức giàu : BMW, Siemens, Bayer... Chính
quyền Đức chỉ bảo vệ quyền lợi của những công ty mình đối với thị trường
Âu Châu và thế giới. Qua thuế má, chính quyền mới hưởng xoái, có chi
phi để hoạt động và phân phối lợi tức cho những công dân khác.
Nếu một doanh nhân bản xứ được bảo vệ như vậy thì họ sẽ yên tâm làm ăn.
Các công ty ngoại quốc được bảo vệ như vậy thì họ sẽ tranh giành vào
Việt Nam. Nhiều công ty thì cần nhiều nhân lực. Công nhân càng ngày càng
khan hiếm nên các công ty này càng phải trả lương hậu hĩnh, góp phần
cho mức sống người dân lên cao. Chính phủ tương lai khỏi cần tốn nước
miếng mời mọc hay hứa hẹn. Khi đã thành lập được một môi trường thuận
lợi cho kinh doanh, tiền của và chất xám từ thế giới sẽ đổ vào Việt Nam.
Trong những quốc gia dân chủ, không cấm đoán là mặc nhiên cho phép. Nhân
dân sẽ mở những công ty tiêu khiển, khu vực ăn chơi mà trước đây chính
phủ Việt Nam cấm đoán như khu du lịch ăn uống qua đêm, trường bắn súng
dành cho tư nhân, sòng bài, trường đua xe… Những lãnh vực kinh tế dễ có
xung đột này cần có sự hiện diện thường trực của lực lượng an ninh hơn.
Đi xa hơn nữa, chính phủ tương lai cũng không nên đuổi việc những công
chức hành chánh. Bộ máy quá đồ sộ thì nên giao thêm nhiều trách nhiệm.
Chẳng hạn như làm giấy tờ xuất khẩu hết là trách nhiệm của công ty mà là
trách nhiệm của hải quan. Vậy hải quan sẽ phái nhân viên mình đến công
ty tư nhân để tìm đủ tài liệu cho việc xuất khẩu.
Nếu một công ty có dính líu đến hóa chất thì chính quyền sẽ phái thêm
công an chuyên về môi trường. Nếu là công ty tài chánh thì dùng cảnh sát
giao thông áp tải tiền bạc...
Nếu bị vòi vĩnh, làm việc thiếu hiệu quả, mất thời gian … thì công ty có
quyền đòi thay đổi nhân viên nhà nước. Ngay cả thưa kiện nếu thấy quyền
lợi và của cải của mình bị xâm phạm. Trong trường hợp thua kiện, chính
quyền phải bồi thường thiệt hại và công chức sai phạm sẽ bị đuổi việc.
Thậm chí phải bồi thường hay bị tù tội.
Nghiên cứu về các cuộc cách mạng người ta đều thấy rằng, lúc cuối đời,
những quyết định của thế lực cầm quyền đều sai lầm. Và những gì xảy ra
trong tương lai sẽ đen tối hơn trong hiện tại (théorie du chaos). Hiện
nay cộng sản Việt Nam cũng không ngoại lệ. Vụ giàn khoan thứ nhất chưa
xong đã có giàn khoan thứ hai. Dân oan trong quá khứ chưa giải quyết
được đã có những dân oan sắp đến. Tìm cách ngăn chặn những kỹ thuật
truyền thông chưa xong thì thị trường xuất hiện những kỹ thuật tân tiến
hơn. Càng ngày càng chắc chắn, mau lẹ và tinh vi. Rồi nào là tài chính,
kinh tế, môi trường, giáo dục…
Ngoài bạo lực ra, chính phủ cộng sản không có giải pháp chính trị.
Nếu có thì thì đã quá trễ. Vừa trễ vừa yếu ớt. Các chủ tịch nước, tổng
bị thư… đều im hơi lặng tiếng với vụ kiện giàn khoan. Dân chúng chửi
bới. Bây giờ lên tiếng với những lời tuyên bố mềm nhũng như cọng bún.
Dân chúng chửi tiếp. Nguyễn Tấn Dũng ranh ma hơn đã lên tiếng trước. Và
bị phe đấu tranh lật tẩy. Dân chúng vừa chửi rủa vừa thù hận.
Trong tình cảnh bi thảm của Việt Nam hiện nay, những thành phần ở vào vị
thế tuyệt vọng nhất không phải là tù nhân, dân oan, thất nghiệp... mà
là những nhân viên an ninh, dư luận viên, quan chức... của chính quyền.
Tương lai của họ ra sao? Người dân trốn cộng sản thì có thể vượt biên
qua thế giới tự do. Nhưng đảng viên cộng sản chạy đi đâu khi Việt Nam
sụp đổ? Chỉ cần chính quyền-hậu cộng sản lên tiếng là những người trốn
chạy ở Mỹ, Úc, Pháp... sẽ bị dẫn độ về Việt Nam ngay. Từng cá nhân một.
Dân chúng có đánh chết họ như đánh chết những người trộm cướp chó hay
không? Nhiều người nói rằng họ bảo vệ đảng cộng sản. Đúng nhưng chỉ đúng
một phần. Họ chỉ bảo vệ họ mà thôi. Họ hung bạo vì họ tuyệt vọng.
Tôi viết bài này để cầu xin dân chúng, xã hội dân sự và những đảng phái
chính trị có quyền lực trong tương lai. Xin cho những thành phần thừa
thải của bộ máy bạo lực những cơ hội, công ăn việc làm để lập công chuộc
tội.
Những công an không mang nợ máu thì xin cứ để họ sống trọn vẹn quyền
công dân trong nền chính trị dân chủ. Với đầy đủ quyền hành, chức vụ và
trách nhiệm. Phủ nhận quyền làm người của họ là gây thêm những oan ức.
Những trại cải tạo trong quá khứ lẫn những trại tù giam ở hiện tại không
thể giác ngộ được con người. Nó chỉ làm được một chuyện duy nhất: hành
hạ thân xác .
Thời trai trẻ, vì nhẹ dạ nên tôi cũng đã từng giao du với những thành
phần được coi là cặn bã của xã hội. Vì háo thắng nên tôi cũng đã đăng
lính và gia nhập vào những đơn vị tác chiến có thành tích ngoài mặt trận
lẫn trong những quán cà phê, vũ trường. Ngay cả những quân nhân của các
đơn vị khác cũng tránh ngồi cùng bàn, ăn cùng mâm với chúng tôi. Dần
dần, chúng tôi không còn bạn bè, ngoài anh em đồng đội. Vì chúng tôi đã
có những ngôn ngữ riêng, thời gian làm việc riêng, cách tiêu khiển
riêng, những giá trị riêng... Và từ từ cô lập với đời sống dân sự.
Mặc quân phục là mặc quần áo của giai cấp nô lệ, làm những con chó cho
cấp trên sai khiến. Biết làm gì khi chỉ được huấn luyện để dùng bạo lực?
Biết nuôi bản thân và gia đình ra sao nếu không có mức lương cao như
vậy?
Khi tuổi trẻ đã cống hiến cho vinh quang của đơn vị thì phải có can đảm
lắm mới đi tìm việc làm khác. Vào lính đã khó. Ra lính còn khó hơn. Dù
đã chung vai sát cánh với những thành phần đầu trâu mặt ngựa, tôi vẫn
không làm điều gì sai trái. Một phần do may mắn, một phần do cá tính của
bản thân. Sau nhiều nổ lực, tôi đã thành một người chồng có trách
nhiệm, một người cha biết yêu thương, một nhân viên có khả năng, một
công dân tuân thủ pháp luật...
Nhưng tôi không xin miễn tội cho tất cả những nhân viên an ninh đã dùng
bạo lực quá mức cần thiết. Cần phân biệt những hành vi đánh đập vì cấp
trên ban xuống và những đánh đập do tự cá nhân quyết định. Tự quyết định
sẽ mạnh bạo hơn. Nằm trong lực lượng trấn áp, tôi đã từng có những hành
động không phải đối với người khác. Đã từng hả hê và cũng đã từng miễn
cưỡng. Những cú đánh hả hê luôn luôn dốc toàn lực.
Những kẻ đánh đập thủ lĩnh dân oan Trần Ngọc Anh, Trần Thị Nga, Huỳnh
Ngọc Tuấn... rất hả hê khi dùng bạo lực. Sau này Việt Nam có đổi đời,
các hung thủ này không thể viện cớ là do cấp trên sai khiến. Cấp trên sẽ
phải bị xử án theo tội của cấp trên: Ra lệnh và bao che. Các kẻ dùng
tay chân trực tiếp thì phải xét xử theo chiều hướng tự ý dùng bạo lực.
Nhiều người đấu tranh cho rằng sự sụp đổ của cộng sản vẫn còn lâu. Vì họ
thấy thực lực của phe đấu tranh còn mỏng. Nhưng nhìn từ khía cạnh của
một kẻ từng cầm súng đạn, áo giáp, dùi cui, lựu đạn cay thì tôi lại thấy
sự sụp đổ này rất gần. Bởi vì phương pháp dùng lực lượng trấn áp, đánh
đập chỉ có thể áp dụng theo tính cách nhất thời. Trong lúc chờ đợi chính
phủ giải quyết bằng chính trị. Không có chính quyền nào có thể luôn
dùng bạo lực để thay thế cho những phương pháp giải quyết bình thường và
hằng ngày được.
Những người đấu tranh còn ít. Nhưng họ chỉ là những que diêm. Thuốc nổ
sẽ là quần chúng. Càng bị đè nén thì thuốc nổ càng được tích lũy. Chỉ
cần một trong những que diêm này, trong một tình huống đặc biệt, ở giai
đoạn chín muồi, châm ngòi là cộng sản Việt Nam sẽ nổ tan tành.
Dương Thành Tân
(Thông luận)
'Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ ý đồ xâm lược Việt Nam'
Hôm qua 30.6, tại Hà Nội, Tạp chí Mặt Trận, Viện Chính sách pháp luật và quản lý cùng các đối tác đã tổ chức hội thảo “Đa dạng hóa tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam”.Phóng viên nước ngoài tác nghiệp trên tàu cảnh sát biển tại Hoàng Sa - Ảnh: Hoàng Sơn |
Theo TS Hoàng Hải, Tổng biên tập Tạp chí Mặt Trận, trong bối
cảnh Trung Quốc (TQ) hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang
Shiyou-981), hội thảo được tổ chức để thu hút những ý kiến đóng góp cho
việc tuyên truyền trong quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ.
“Đó là bản chất của Trung Quốc”
PGS-TS Đàm Đức Vượng, nguyên Chánh văn phòng Hội đồng Lý luận T.Ư, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, tính từ thời nhà Tần (221-216 TCN) đến nay TQ đã 23 lần xâm lược Việt Nam (VN). Vụ việc hạ đặt trái pháp luật giàn khoan Hải Dương-981 trên vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của VN chính là cuộc "xâm lược" mới nhất của TQ, TS Vượng khẳng định.
“Đó là bản chất của Trung Quốc”
PGS-TS Đàm Đức Vượng, nguyên Chánh văn phòng Hội đồng Lý luận T.Ư, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, tính từ thời nhà Tần (221-216 TCN) đến nay TQ đã 23 lần xâm lược Việt Nam (VN). Vụ việc hạ đặt trái pháp luật giàn khoan Hải Dương-981 trên vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của VN chính là cuộc "xâm lược" mới nhất của TQ, TS Vượng khẳng định.
|
Theo TS Vượng, từ hàng nghìn năm nay, TQ luôn theo đuổi chính sách
“viễn giao, cận công” (bang giao nước ở xa, tấn công nước ở gần) với VN.
Có lúc TQ đặt quan hệ với VN nhưng đó chỉ là sách lược còn về chiến
lược TQ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ xâm lược, biến VN thành một tỉnh của TQ.
Trong lịch sử, có giai đoạn TQ giúp đỡ VN “nhưng về toàn cục TQ xưa
nay luôn tính chuyện thôn tính VN. Đó là bản chất của TQ”, TS Vượng
khẳng định.
TS Vượng nhấn mạnh cần thấy rõ bản chất hành động xâm lược của TQ để tránh sự mơ hồ trong nhận thức, tuyên truyền. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi mà TQ một mặt đánh chiếm Hoàng Sa của VN bằng vũ lực (1974), đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của VN nhưng vẫn xuyên tạc lịch sử, đổi trắng thay đen vu cáo VN, như tố cáo với Liên Hiệp Quốc rằng VN là “kẻ gây sự” quanh giàn khoan Hải Dương-981, thậm chí vu khống rằng tàu VN đâm va tàu TQ hơn 1.400 lần, bóp méo diễn dịch theo ý đồ của TQ về công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng...
Phải tận dụng tất cả các kênh truyền thông
TS Nguyễn Anh Dũng (Báo Nhân Dân), cho biết có những vấn đề nhạy cảm mà phía VN và TQ từng thỏa thuận không đưa ra ở những diễn đàn chính thức. Ví dụ Nhân Dân nhật báo (cơ quan của BCH T.Ư Đảng Cộng sản TQ) không đăng tải thì Báo Nhân Dân của Việt Nam cũng không đăng. “Nhưng TQ đã đi trước một bước khi cho ra đời tờ Hoàn Cầu. Đây là một tờ báo con của Nhân Dân nhật báo nhưng tờ báo này rất hung hăng, thậm chí còn tuyên bố phải dạy cho VN một bài học. TQ đã “lách luật” làm thế không vi phạm cam kết, chúng ta cũng giữ cam kết nhưng sự thật thế nào phải nói để nhân dân biết. Không đưa trên diễn đàn này thì chúng ta phải đưa trên những diễn đàn khác”, ông Dũng nói.
Theo TS Phạm Bích San, Phó tổng thư ký Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN, nếu chỉ dựa vào báo chí chính thống trong tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thì chưa đủ mà cần tất cả các kênh khác. TS San khẳng định việc tuyên truyền sẽ tạo dựng ý thức cho người dân về chủ quyền biển đảo, tạo dựng ý thức cảnh giác sự xâm lược của TQ.
Đồng tình với ý kiến này ông Hồ Hải Long, Tổng biên tập Tạp chí Thương gia và Thị trường cho rằng ngoài các báo chí truyền thống cần tận dụng các phương tiện như blog, mạng xã hội để cung cấp thông tin. Thậm chí mỗi công dân VN qua các Facebook cá nhân hoặc các kênh truyền thông cá nhân mình cũng có thể giúp cộng đồng, bạn bè quốc tế hiểu rõ vấn đề. Trong đó đặc biệt là đối tượng người dân TQ để họ hiểu được hành động phi nghĩa của chính phủ TQ.
TS Phạm Bích San nhấn mạnh VN cần tận dụng các kênh truyền thông quốc tế đặc biệt trong bối cảnh báo giới quốc tế phần lớn đều có xu hướng phê phán TQ, ủng hộ việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó cần đa dạng hóa các dạng thông tin nếu không sẽ không thu hút được quan tâm của công chúng. “Đầu tháng 5 vừa qua khi TQ kéo giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển của Việt Nam, người dân cực kỳ quan tâm đến vấn đề chủ quyền nhưng đến nay sau gần hai tháng mặc dù vẫn quan tâm nhưng sự đòi hỏi đã khác. Nếu báo chí chỉ đưa tin hằng ngày tàu ta bị tàu TQ đâm bao nhiêu lần, các lực lượng của nhẫn nại, kiên trì... thì số người quan tâm sẽ dần ít đi”, TS San nói.
TS Vượng nhấn mạnh cần thấy rõ bản chất hành động xâm lược của TQ để tránh sự mơ hồ trong nhận thức, tuyên truyền. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi mà TQ một mặt đánh chiếm Hoàng Sa của VN bằng vũ lực (1974), đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của VN nhưng vẫn xuyên tạc lịch sử, đổi trắng thay đen vu cáo VN, như tố cáo với Liên Hiệp Quốc rằng VN là “kẻ gây sự” quanh giàn khoan Hải Dương-981, thậm chí vu khống rằng tàu VN đâm va tàu TQ hơn 1.400 lần, bóp méo diễn dịch theo ý đồ của TQ về công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng...
Phải tận dụng tất cả các kênh truyền thông
TS Nguyễn Anh Dũng (Báo Nhân Dân), cho biết có những vấn đề nhạy cảm mà phía VN và TQ từng thỏa thuận không đưa ra ở những diễn đàn chính thức. Ví dụ Nhân Dân nhật báo (cơ quan của BCH T.Ư Đảng Cộng sản TQ) không đăng tải thì Báo Nhân Dân của Việt Nam cũng không đăng. “Nhưng TQ đã đi trước một bước khi cho ra đời tờ Hoàn Cầu. Đây là một tờ báo con của Nhân Dân nhật báo nhưng tờ báo này rất hung hăng, thậm chí còn tuyên bố phải dạy cho VN một bài học. TQ đã “lách luật” làm thế không vi phạm cam kết, chúng ta cũng giữ cam kết nhưng sự thật thế nào phải nói để nhân dân biết. Không đưa trên diễn đàn này thì chúng ta phải đưa trên những diễn đàn khác”, ông Dũng nói.
Theo TS Phạm Bích San, Phó tổng thư ký Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN, nếu chỉ dựa vào báo chí chính thống trong tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thì chưa đủ mà cần tất cả các kênh khác. TS San khẳng định việc tuyên truyền sẽ tạo dựng ý thức cho người dân về chủ quyền biển đảo, tạo dựng ý thức cảnh giác sự xâm lược của TQ.
Đồng tình với ý kiến này ông Hồ Hải Long, Tổng biên tập Tạp chí Thương gia và Thị trường cho rằng ngoài các báo chí truyền thống cần tận dụng các phương tiện như blog, mạng xã hội để cung cấp thông tin. Thậm chí mỗi công dân VN qua các Facebook cá nhân hoặc các kênh truyền thông cá nhân mình cũng có thể giúp cộng đồng, bạn bè quốc tế hiểu rõ vấn đề. Trong đó đặc biệt là đối tượng người dân TQ để họ hiểu được hành động phi nghĩa của chính phủ TQ.
TS Phạm Bích San nhấn mạnh VN cần tận dụng các kênh truyền thông quốc tế đặc biệt trong bối cảnh báo giới quốc tế phần lớn đều có xu hướng phê phán TQ, ủng hộ việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó cần đa dạng hóa các dạng thông tin nếu không sẽ không thu hút được quan tâm của công chúng. “Đầu tháng 5 vừa qua khi TQ kéo giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển của Việt Nam, người dân cực kỳ quan tâm đến vấn đề chủ quyền nhưng đến nay sau gần hai tháng mặc dù vẫn quan tâm nhưng sự đòi hỏi đã khác. Nếu báo chí chỉ đưa tin hằng ngày tàu ta bị tàu TQ đâm bao nhiêu lần, các lực lượng của nhẫn nại, kiên trì... thì số người quan tâm sẽ dần ít đi”, TS San nói.
Chính phủ bàn giải pháp ứng phó tình hình biển Đông
Ngày 30.6, dưới sự chủ
trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng
6.2014 đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng và bàn các giải pháp
ứng phó với TQ trên biển Đông, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước... Phiên họp được truyền hình trực tuyến với sự tham dự của lãnh đạo các địa phương trên cả nước. Phát biểu chỉ đạo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết phiên họp diễn ra trong bối cảnh đặc biệt bởi từ ngày 2.5 tới nay, TQ đã bất chấp đạo lý, pháp lý, quan hệ hữu nghị Việt - Trung đưa và hạ đặt trái phép giàn khoan thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này của TQ không những xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, ảnh hưởng xấu tới quan hệ Việt - Trung mà còn đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, an ninh của khu vực. Trong bối cảnh như trên, nhiệm vụ đặt ra là vừa phải nỗ lực cao nhất bằng các giải pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, vừa bằng mọi giải pháp phù hợp để gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh trật tự để xây dựng và phát triển KT-XH của đất nước. Đồng thời quyết tâm, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu đã được đề ra từ đầu năm 2014 trên tinh thần không điều chỉnh các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển KT-XH được đề ra cho năm 2014. Về kết quả thực hiện nhiệm vụ KT-XH tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2014, theo báo cáo tăng trưởng GDP quý 2 tăng cao hơn quý 1 và ước 6 tháng đầu năm đạt 5,18%, tăng cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ 2 năm trước. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp, giá cả thị trường khá ổn định, cung - cầu hàng hóa được bảo đảm...
Anh Vũ
|
Trường Sơn
(Thanh niên)
Sự dối trá chính thức có hệ thống
Đêm 28.6, tàu kiểm ngư KN 951 về tới Đà Nẵng để sửa chữa những hư hại do
bị các tàu Trung Quốc đâm sáng 23.6. Hình ảnh tàu bị đâm và hư hại từ
nhiều góc độ rõ ràng hơn.
Từ gần hai tháng nay những hình ảnh của vòi rồng áp suất cao nã vào tàu Việt Nam, của những cảnh vây hãm, rượt đuổi, tìm cách đâm va tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển và tàu cá của ngư dân Việt Nam, không còn xa lạ với nhân dân ta.
Từ gần hai tháng nay những hình ảnh của vòi rồng áp suất cao nã vào tàu Việt Nam, của những cảnh vây hãm, rượt đuổi, tìm cách đâm va tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển và tàu cá của ngư dân Việt Nam, không còn xa lạ với nhân dân ta.
Đoạn video tàu Trung Quốc rượt đuổi rồi va đâm nhiều lần tàu cá ĐNa 90152 Ts cho đến khi tàu này chìm hẳn và không những vậy, còn ngăn không cho các tàu cá khác đến cứu những ngư dân bị nạn, và lần này những tấm ảnh tàu KN 951 bị hai tàu kéo Trung Quốc Hữu Liên 09 và Tân Hải 285 va đâm nói lên không thể rõ ràng hơn về sự hung hãn, tàn bạo của các tàu Trung Quốc, và làm dấy lên trong lòng người Việt Nam phẫn nộ và uất ức.
Sự phẫn nộ và uất ức không chỉ vì những hành vi phi nhân tính đó. Sự thật đã rõ ràng thế nhưng những tuyên bố và trả lời báo chí của những Hồng Lỗi, Hoa Xuân Oánh rằng chính tàu Việt Nam đã tấn công tàu Trung Quốc hàng nghìn lần, rằng tàu cá số ĐNa 90152 Ts đã tự va vào giàn khoan và tự chìm! vân vân và vân vân. Rõ ràng là sự đổi trắng thay đen không biết hổ thẹn!
Khi sự đổi trắng thay đen được lặp lại nhiều lần, kể cả trong tuyên cáo mà Trung Quốc gửi ông Tổng thư ký Liên Hợp Quốc ngày 9.6.2014, thì đó không còn là những hành vi cá biệt, mà là sự dối trá lịch sử có tính hệ thống bất chấp thực tế đã được phóng viên Việt Nam và quốc tế chứng kiến, quay phim, chụp ảnh.
Nhưng họ lại là người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, họp báo dưới lá cờ của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; là đại diện của nước này tại Liên Hợp Quốc, một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Có nghĩa là sự dối trá này là chính thức.
Ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ, Chủ tịch Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Trung Quốc - Việt Nam, ngày 18.6.2014, khẳng định với lãnh đạo Việt Nam rằng “Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc coi trọng và chưa bao giờ thay đổi phương châm hữu nghị trong quan hệ với Việt Nam, luôn mong muốn phát triển quan hệ tốt đẹp, ổn định lâu dài với Việt Nam”. Thế nhưng ngay sau đó Cục Hải sự Trung Quốc đã thông báo việc di chuyển giàn khoan Nam Hải số 9 từ vùng biển ngoài khơi phía nam Trung Quốc đến cửa Vịnh Bắc Bộ, tại một vùng còn đang tranh chấp giữa hai nước. Thử hỏi người dân Việt Nam làm sao tin được thiện chí của phía Trung Quốc trong “16 chữ vàng” và “4 tốt”?
Cách đây một hai hôm, ông Tập Cận Bình, Chủ tịch Đảng Cộng sản, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, khẳng định rằng “Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ bất chấp có mạnh lên đến như thế nào đi chăng nữa”; rằng “Chủ nghĩa bá quyền hay chủ nghĩa quân phiệt không có trong gene của người Trung Quốc”. Thế nhưng gần như cùng lúc, ngày 25.6.2014 Tân Hoa Xã tung ra một bản đồ “ngoạm” cả Biển Đông, ngoạm cả bang Arunachal Pradesh, ở Đông Bắc Ấn Độ.
Thử hỏi là gì nếu không phải là một thể hiện ở mức cao nhất của sự dối trá?
Xin mượn và có bổ sung, một câu nói của ông Tập Cận Bình trong những ngày này: “Việc phô diễn sức mạnh quân sự chỉ cho thấy sự thiếu đạo đức và tầm nhìn, chứ không phản ảnh sức mạnh. Nền an ninh chỉ có thể được vững chắc và lâu dài chỉ khi nó được xây dựng dựa trên nền tảng tinh thần và tầm nhìn, sự trung thực, và tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước”. Những cụm từ tô đậm là phần bổ sung của chúng tôi.
Gs Nguyễn Ngọc Trân
Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại
(Đại biểu Nhân dân)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét