Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

Việt Nam theo đuổi liên minh đối phó Trung Quốc: Tại sao và nên như thế nào?

Việt Nam theo đuổi liên minh đối phó Trung Quốc: Tại sao và nên như thế nào?

 
 Sự kiện Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam cùng với những hành động hiếu chiến đi kèm đã làm biến đổi quan hệ Việt – Trung nói riêng và môi trường chiến lược của Việt Nam nói chung. Theo đó, đã đến lúc Việt Nam cần đánh giá lại bản chất quan hệ Việt- Trung cũng như định hướng chính sách đối ngoại để ứng phó với những thay đổi trong quan hệ song phương cũng như môi trường chiến lược.

Cụ thể, gần đây có một số các nhà quan sát đã lập luận rằng trong tình thế hiện nay, đã đến lúc Việt Nam cần phải từ bỏ chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết để chuyển sang chính sách chính trị liên minh, nhằm nâng cao vị thế chiến lược và khả năng mặc cả với Trung Quốc, qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia của mình. Bài bình luận này sẽ đi sâu thảo luận một số khía cạnh của vấn đề này, đặc biệt là lý do tại sao Việt Nam cần theo đuổi chính trị liên minh,  những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi đi theo phương hướng đó, cũng như gợi ý một số bước đi cụ thể nhằm hiện thực hóa lựa chọn này.

Chiến lược Trung Quốc của Việt Nam từ sau bình thường hóa

Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào tháng 11/1991 cho đến những năm gần đây Việt Nam nhìn chung đã duy trì được một chiến lược Trung Quốc khéo léo và phù hợp nhằm thu được lợi ích tối đa từ mối quan hệ với Trung Quốc. Chiến lược này kết hợp nhiều cách tiếp cận khác nhau theo phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, qua đó vừa coi Trung Quốc là một “đối tác” mà Việt Nam cần tranh thủ hợp tác, vừa là một “đối tượng” cần đấu tranh, đặc biệt là trên hồ sơ tranh chấp Biển Đông. Cụ thể, chiến lược này dựa trên bốn trụ cột lớn:

Một là, thực dụng kinh tế. Thông qua việc khuyến khích theo đuổi quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc, cỗ máy tăng trưởng của thế giới, Việt Nam đã tận dụng được đòn bẩy kinh tế từ Trung Quốc để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế và tăng cường nội lực của mình. Mặc dù còn những bất cập, như tình trạng nhập siêu lớn, phụ thuộc Trung Quốc về một số mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào… nhưng nhìn chung không thể phủ nhận đóng góp của quan hệ giao thương với Trung Quốc vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam hơn hai thập niên qua. Điều đáng nói là dù quan hệ giữa hai nước có những thăng trầm nhất định do tranh chấp Biển Đông nhưng cho đến nay có thể nói quan hệ kinh tế song phương đã được tách bạch ra khỏi những căng thẳng đó và quan hệ kinh tế giữa hai nước chưa bị Trung Quốc “bắt làm con tin” để cưỡng ép Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, đây vẫn là một khả năng có thể xảy ra, đặc biệt là trong trường hợp quan hệ song phương lao dốc.

Hai là, can dự chính trị. Việt Nam đã tăng cường quan hệ chính trị và các cơ chế giao lưu song phương ở mọi cấp độ với Trung Quốc nhằm tăng cường hiểu biết, tin cậy chính trị lẫn nhau. Cụ thể, từ sau bình thường hóa tới nay, hai bên đã trao đổi 36 chuyến thăm cấp cao (giữa Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng phía Việt Nam với Chủ tịch nước/ Tổng Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng phía Trung Quốc), cùng hàng nghìn chuyến thăm các cấp khác. Hai bên cũng đã nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện năm 2008. Cơ chế can dự song phương hiện có ở cả cấp độ Đảng lẫn Chính phủ, cấp trung ương lẫn địa phương, và cấp chính thức lẫn dân gian. Điểm đáng nói là mặc dù quan hệ chính trị và sự can dự song phương có bước phát triển đáng kể nhưng điều này không giúp Việt Nam kiềm chế được Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Ba là, cân bằng cứng. Do tranh chấp Biển Đông là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh quốc gia cũng như toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời với nhận thức rằng sự phát triển của quan hệ chính trị và kinh tế không thể giúp hóa giải vấn đề Biển Đông, nên Việt Nam cũng đã theo đuổi chính sách “cân bằng cứng” bằng cách tăng cường sức mạnh quốc phòng. Biện pháp này được thực hiện bằng cả nội lực thông qua phát triển năng lực ngành công nghiệp quốc phòng nội địa lẫn biện pháp hợp tác quốc tế và mua sắm vũ khí từ các đối tác nước ngoài. Có thể nói cho đến nay chính sách này đã giúp Việt Nam tăng cường đáng kể sức mạnh chiến đấu và khả năng răn đe đối với kẻ thù. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, trong quan hệ với Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông, khả năng quốc phòng của Việt Nam dù phát triển lớn mạnh tới đâu cũng không bao giờ đuổi kịp Trung Quốc, vốn hiện giờ là nước có chi phí quốc phòng lớn thứ 2 thế giới và vượt xa tổng chi tiêu quốc phòng của cả 10 nước ASEAN cộng lại.

Bốn là, cân bằng mềm. Đây là biện pháp mà Việt Nam ưu tiên áp dụng để ứng phó với sức ép của Trung Quốc, thông qua việc tăng cường quan hệ ngoại giao với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các cường quốc và các quốc gia tầm trung,cũng như thông qua việc khai thác tối đa đòn bẩy ngoại giao mà các tổ chức và dàn xếp khu vực, nhất là ASEAN và các dàn xếp do ASEAN chủ trì, mang lại. Đặc biệt cho đến nay Việt Nam đã có được tiếng nói đáng kể trong khuôn khổ ASEAN và đã thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược hoặc toàn diện với 15 quốc gia khác nhau. Trong khi đây là một thành tựu đáng kể đối với Việt Nam thì cũng cần phải thấy rằng các biện pháp cân bằng mềm sẽ bị hạn chế nếu Trung Quốc tìm cách chia rẽ ASEAN, phớt lờ các thể chế khu vực, đồng thời nếu quan hệ “đối tác chiến lược” giữa Việt Nam và các đối tác chính không vượt được ra ngoài khuôn khổ hình thức để đi vào các biện pháp hợp tác thực chất nhằm đối phó với mối đe dọa Trung Quốc.

Bốn trụ cột này trong chiến lược Trung Quốc của Việt Nam được các học giả quan hệ quốc tế gọi với một tên chung là chiến lược “hedging”, tạm dịch là chiến lược “phòng bị nước đôi”. Theo đó, Việt Nam đã không thiên hẳn về chính sách “phù thịnh” (bandwagon) với Trung Quốc hay “cân bằng” (balancing) chống lại láng giềng phương Bắc của mình mà áp dụng một chiến lược kết hợp các mẫu hình chính sách của cả hai hướng tiếp cận. Chiến lược “phòng bị nước đôi” vì vậy cho phép Việt Nam khai thác tối đa mối quan hệ với Trung Quốc để phục vụ mục tiêu phát triển của mình, đồng thời giúp Việt Nam “phòng bị” được trong trường hợp quan hệ xấu đi. Cụ thể, khi sức ép từ Trung Quốc vượt qua “giới hạn đỏ”, Việt Nam có thể chuyển hướng sang chiến lược “cân bằng” để đối phó với Trung Quốc mà không phải mất quá nhiều thời gian để xoay chuyển tư thế chiến lược của mình.

Bên cạnh đó, trong hơn 20 năm qua từ sau khi bình thường hóa, Việt Nam cũng đã duy trì một chính sách có thể gọi là không liên minh – liên kết trong quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ với Trung Quốc nói riêng. Theo đó, dù áp dụng các biện pháp ít nhiều mang tính đề phòng Trung Quốc như đã nói trên, nhưng các quan chức Việt Nam cũng nhiều lần khẳng định rằng “Việt Nam…là một nước độc lập, không liên minh, liên kết, đồng minh với nước nào, không dùng nước thứ 3 để chống lại nước khác.”

Với mục tiêu duy trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, “muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” và duy trì quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc thì rõ ràng chính sách không liên minh – liên kết như trên là phù hợp.

Tại sao cần chuyển hướng sang chính sách liên minh?

Tuy nhiên, một chính sách tốt đối ngoại tốt không phải là một chính sách bất biến, được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, mà phải là một chính sách linh hoạt, có thể điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh biến đổi để mang lại lợi ích tốt nhất cho quốc gia.

Như đã nói, sự cố Giàn khoan Hải dương 981 đã làm biến đổi nền tảng quan hệ Việt Trung từ sau bình thường hóa, chuyển hóa môi trường chiến lược của Việt Nam lẫn khu vực theo hướng bất lợi cho Việt Nam nếu như Việt Nam vẫn giữ cách tiếp cận cũ đối với chính sách đối ngoại nói chung cũng như chính sách Trung Quốc nói riêng. Nói cách khác, thế cân bằng cũ trong chính sách ngoại giao và chiến lược của Việt Nam đã bị Trung Quốc phá vỡ, và Việt Nam cần chủ động chuyển sang một thế cân bằng mới cho các chính sách của mình. Cụ thể hơn, đã đến lúc Việt Nam cần điều chỉnh lại chiến lược Trung Quốc từ sau bình thường hóa tới nay, đồng thời từng bước từ bỏ chính sách không liên minh – liên kết để dần chuyển hướng sang chính sách liên minh một cách khôn khéo và có chọn lọc để ứng phó với Trung Quốc. Sau đây là những lý do cơ bản cho sự chuyển hướng này.

Thứ nhất, hiện nay nền tảng của chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam đã trở nên không còn phù hợp hoặc phản tác dụng. Mỗi chính sách đều xuất phát từ một nền tảng nhất định. Khi các nền tảng thay đổi thì cần phải có sự điều chỉnh chính sách để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, giúp bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia. Cụ thể:
  • Chính sách không liên minh – liên kết chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Thực tế, chính sách không liên minh – liên kết về cơ bản là một sản phẩm từ thời Chiến tranh lạnh, khi mà các nước Thế giới thứ Ba tìm cách để không bị vướng vào cuộc xung đột Đông – Tây nên đã hình thành nên Phong trào Không liên kết như một cách thức vừa tập hợp lực lượng, nâng cao vị thế, vừa tự bảo vệ mình trước cuộc xung đột Đông – Tây. Sau Chiến tranh lạnh, một số quốc gia như Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách này vì nó vẫn ít nhiều phù hợp với lợi ích quốc gia của mình, nhất là trong việc khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Mặt khác, riêng đối với Việt Nam, chính sách không liên minh – liên kết còn nhằm trấn an Trung Quốc, đặc biệt là trong khoảng một thập niên gần đây, khi Trung Quốc luôn e ngại việc bị Hoa Kỳ tìm cách bao vây, kiềm chế. Tuy nhiên, khi môi trường và lợi ích thay đổi thì sự trung thành của các quốc gia đối với chính sách không liên kết cũng thay đổi theo. Ví dụ, bản thân Trung Quốc vốn là nước đầu tàu trong phong trào không liên kết hiện nay cơ bản cũng đã từ bỏ chính sách này (xem thêm bài Tư duy mới của Trung Quốc về liên minh) bằng cách thắt chặt quan hệ với Nga nhằm đối trọng với Mỹ, mà biểu hiện gần đây nhất là chuyến thăm của Putin tới Bắc Kinh với việc hai bên ký kết hợp đồng khí đốt kỷ lục và hỗ trợ nhau về ngoại giao, quốc phòng trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
  • Chính sách không liên minh – liên kết chỉ là lựa chọn tốt khi an ninh Việt Nam không bị đe dọa bởi các thế lực bên ngoài. Khi bị đe dọa, ép buộc, việc không liên minh – liên kết cướp đi của Việt Nam một lựa chọn hữu hiệu nhằm cân bằng lại mối đe dọa. Hiện nay, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng trở nên xác quyết trong vấn đề Biển Đông, có biểu hiện từ bỏ chính sách “thao quang dưỡng hối” để bắt đầu dùng sức mạnh đã tích lũy bấy lâu nhằm đạt được các mục tiêu đối ngoại của mình, thì việc Việt Nam tiếp tục trung thành với chính sách không liên minh – liên kết sẽ càng biến chúng ta thành một “mục tiêu thuận tiện” cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ. Phải nhận thức rõ ràng rằng vụ Giàn khoan Hải dương 981 sẽ không phải là vụ cuối cùng, cũng không phải là mức độ cưỡng ép cao nhất mà Trung Quốc sử dụng. Sẽ còn có nhiều vụ tương tự, và mức độ cưỡng ép của Trung Quốc sẽ còn cao hơn, không loại trừ việc Trung Quốc sử dụng vũ lực. Vì vậy, trong trường hợp này việc không liên minh liên kết sẽ phản tác dụng đối với Việt Nam.
  • Việc không liên minh – liên kết chỉ hợp lý khi nội lực của Việt Nam đủ mạnh. Trong trường hợp đó, dù xuất hiện các mối đe dọa, Việt Nam vẫn có thể ít nhiều tự xoay sở để đối phó. Tuy nhiên trong thực tế, dù hiện nay nội lực tổng hợp của Việt Nam nói chung cũng như năng lực quốc phòng nói riêng đã có nhiều cải thiện so với khoảng 2 thập niên trước đây, nhưng nhìn nhận khách quan thì chúng ta vẫn còn rất yếu, nhất là so với Trung Quốc. Nếu Việt Nam tiến bộ một thì Trung Quốc đã tiến bộ mười. Nếu chỉ một mình dựa vào nội lực và một vài sự ủng hộ ngoại giao hình thức để đối chọi với Trung Quốc là một điều không tưởng. Vì vậy, trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy với sức mạnh vượt trội và ngày càng trở nên hung hăng, hiếu chiến, thì nền tảng của chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam cũng bị lung lay.
Thứ hai, Trung Quốc đã phá vỡ “điểm cân bằng” trong quan hệ song phương và buộc Việt Nam phải thay đổi chiến lược. Nói cách khác, Việt Nam không còn đường lùi. Thực tế, quan hệ song phương trong lịch sử có thể nói luôn dựa trên một thỏa thuận ngầm, bất thành văn giữa hai nước, rằng Việt Nam sẽ tôn trọng Trung Quốc, thậm chí chấp nhận vai trò bá chủ của Trung Quốc, miễn là Trung Quốc tôn trọng sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự chủ của Việt Nam. Bởi thế mà các triều đình phong kiến Việt Nam bề ngoài thường chấp nhận tham gia hệ thống triều cống của Bắc Kinh như một cái giá danh nghĩa để đổi lấy hòa bình và cơ hội giao thương, phát triển cho Việt Nam, trong khi vẫn có thể duy trì được nền độc lập, tự chủ của mình. Quan hệ thời kỳ hiện đại, nhất là giai đoạn từ sau bình thường hóa cũng vậy, dù là trên danh nghĩa chủ quyền bình đẳng, hai bên cùng có lợi, nhưng Việt Nam vẫn đã giành cho Trung Quốc sự tôn trọng đúng mực trong vai trò một nước lớn, mà chính sách không liên minh – liên kết của Việt Nam là một hình thức của sự tôn trọng đó. Đổi lại, Trung Quốc cũng được kỳ vọng sẽ tôn trọng độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và sự tự chủ của Việt Nam. Tuy nhiên, với sự cố Hải dương 981, là sự cố nghiêm trọng nhất từ sau bình thường hóa nhưng chắc chắn không phải là sự cố cuối cùng, Trung Quốc đã vi phạm thỏa thuận ngầm này và phá vỡ “điểm cân bằng” trong quan hệ song phương. Khi điểm cân bằng bị phá vỡ, Việt Nam hoặc phải quy thuận theo Trung Quốc, hoặc phải tìm cách để ứng phó lại. Tuy nhiên, đó không phải là lựa chọn mà Việt Nam có thể thực hiện, bởi Việt Nam chỉ có một con đường là tìm cách ứng phó lại mối đe dọa từ Trung Quốc mà không thể “đánh đổi chủ quyền lấy thứ hữu nghị viễn vông”. Trong bối cảnh đó, chính sách không liên minh – liên kết không giúp được gì cho Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam có đủ điều kiện thuận lợi để chuyển sang chính sách liên minh. Một mặt, vị thế quốc tế và nội lực của Việt Nam hiện nay khác với thời kỳ trước bình thường hóa. Trong quá khứ, nhất là giai đoạn cuối 1970, khi Việt Nam liên minh với Liên Xô để đối phó với Trung Quốc, Việt Nam ít nhiều đã phải trả giá. Tuy nhiên lúc đó trong nước Việt Nam nội lực yếu kém, bên ngoài lại bị bao vây, cô lập, cấm vận, quan hệ ngoại giao hạn chế, nên đã dễ dàng bị Trung Quốc chèn ép, gây khó khăn, đặc biệt Trung Quốc đã có thể dùng vấn đề Campuchia để khiến Việt Nam “chảy máu đến chết”. Tuy nhiên, hiện nay nội lực của chúng ta đã lớn mạnh hơn trước nhiều. Đặc biệt, liên quan đến xu hướng liên minh, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao rộng mở, có quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi với hầu hết các nước trên thế giới. Chúng ta cũng có quan hệ bình thường và ngày càng phát triển với các cường quốc lớn và tầm trung. Đặc biệt, chúng ta đã là thành viên của tất cả các tổ chức chủ chốt của khu vực và thế giới. Vì vậy chúng ta vừa có điều kiện và mạng lưới quan hệ thuận lợi để hình thành các liên minh, vừa có đủ không gian ngoại giao để thoát thế bao vây, cô lập của Trung Quốc nếu bị trả đũa.
Thứ tư, môi trường chiến lược khu vực và thế giới hiện nay có lợi cho sự chuyển hướng của Việt Nam. Cụ thể, trong vấn đề Biển Đông, chúng ta có ưu thế chính nghĩa so với Trung Quốc. Các yêu sách quá mức và phi lý, bất chấp luật pháp quốc tế, cùng cách tiếp cận dựa trên sức mạnh của Trung Quốc nhìn chung đã khiến “mối đe dọa Trung Quốc” không còn là một lý thuyết nữa mà trở thành một điều hiện hữu. Vì vậy, Việt Nam sẽ dễ dàng nhận được sự ủng hộ của các nước và thu hút những “đồng minh” tiềm tàng. Ở khu vực, Việt Nam có đồng minh tự nhiên là các nước cùng có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, đặc biệt là Philippines. Ở phạm vi xa hơn, chúng ta có Nhật Bản, nước cũng có các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và ngày càng lo ngại trước mối đe dọa đến từ Bắc Kinh. Ở phạm vi xa hơn nữa, Ấn Độ và Hoa Kỳ cũng là những quốc gia có những lợi ích chiến lược mâu thuẫn với Trung Quốc. Đó là chưa kể các quốc gia tầm trung hay có ảnh hưởng lớn ở khu vực như Hàn Quốc, Australia, Indonesia, Singapore… cũng có những lý do để đồng cảm với Việt Nam trong nỗ lực tìm cách chống lại mối đe dọa từ Trung Quốc.
Tóm lại, phân tích các lý do cho thấy Việt Nam có đầy đủ lý do để nên theo đuổi một chính sách liên minh – liên kết một cách khôn ngoan và có chọn lọc để đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Việt Nam có đủ ý chí để thực hiện sự chuyển hướng này hay không. Câu hỏi này lại liên quan đến nhận thức của Việt Nam đối với các thách thức và rủi ro mà Việt Nam có thể gặp phải.
Thách thức và rủi ro
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam chính là sự trả đũa của Trung Quốc. Một khi nhận thấy Việt Nam liên kết với các nước khác, nhất là những cường quốc có lợi ích đối chọi như Hoa Kỳ hay Nhật Bản, Trung Quốc sẽ tìm cách “trừng phạt” hay gây sức ép đối với Việt Nam. Năm hình thức “trừng phạt” cơ bản nhất có thể có bao gồm:
  • Hạn chế, thậm chí gián đoạn quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kết hợp bao vây cô lập Việt Nam tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế
  • Can thiệp, kích động chống phá, phá hoại kinh tế – chính trị từ trong nội bộ Việt Nam
  • Sử dụng bên thứ ba để chống phá Việt Nam như trường  hợp Khmer Đỏ những năm 1970 – 1980
  • Tấn công quân sự Việt Nam
  • Cắt đứt quan hệ kinh tế với Việt Nam
Nếu phân tích các khả năng cơ bản này, chúng ta có thể thấy trong điều kiện hiện tại, các lựa chọn này của Trung Quốc hoặc ít khả thi, hoặc không gây thiệt hại đáng kể cho Việt Nam. Cụ thể
  • Việc hạn chế hoặc gián đoạn quan hệ ngoại giao với Việt Nam đơn giản sẽ không giúp ích gì cho Trung Quốc. Trái lại duy trì quan hệ ngoại giao sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc đàm phán với Việt Nam, tìm cách dụ dỗ lôi kéo Việt Nam quay lại về phía mình. Hơn nữa do Việt Nam đã có quan hệ rộng mở, việc cắt đứt quan hệ ngoại giao cũng không giúp Trung Quốc bao vây, cô lập Việt Nam. Tại các diễn đàn quốc tế, với vị thế của Việt Nam hiện tại, Trung Quốc cũng không thể dễ dàng cô lập Việt Nam bởi không như thời kỳ Chiến tranh lạnh, các tổ chức quốc tế không còn bị chia rẽ sâu sắc thành các phe khối khép kín, đối lập, trong khi Việt Nam đang có quan hệ tốt với các cường quốc trên thế giới.
  • Việc Trung Quốc can thiệp, kích động chống phá Việt Nam từ bên trong là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên nếu Việt Nam nâng cao cảnh giác, tiến hành các biện pháp đề phòng, thắt chặt kiểm soát biên giới và an ninh trong nước thì nguy cơ này hoàn toàn có thể ngăn chặn được.
  • Việc sử dụng các bên thứ ba chống phá Việt Nam cũng không phải là một lựa chọn khả dĩ của Trung Quốc, bởi không có sẵn một lực lượng như vậy cho Trung Quốc lợi dụng. Hiện nay lựa chọn này chỉ trở nên khả dĩ hơn đối với Trung Quốc nếu tình hình ở Campuchia chuyển biến bất lợi cho Việt Nam với việc Đảng Cứu quốc của Sam Rainsy, người vốn có xu hướng chống Việt Nam, thắng cử. Tuy nhiên điều này cũng ít xảy ra bởi khả năng Sam Rainsy thắng cử trong thời gian tới là không chắc chắn. Ngoài ra kể cả nếu thắng cử Sam Rainsy cũng có thể thay đổi quan điểm bới chống Việt Nam sẽ phương hại tới an ninh và kinh tế của Campuchia, trong khi bản thân Sam Rainsy cũng phải chịu trách nhiệm đối với cử tri trong nước về an ninh và thành tích kinh tế của quốc gia nếu muốn tiếp tục thắng cử.
  • Tấn công quân sự Việt Nam cũng không phải là lựa chọn khôn ngoan mà Trung Quốc sẽ tiến hành. Trước hết hành động quân sự sẽ bị cộng đồng quốc tế lên án vì vi phạm luật pháp quốc tế. Vị thế quốc tế của Việt Nam và môi trường chiến lược quốc tế hiện nay không cho phép Trung Quốc dễ dàng tiến hành tấn công quân sự Việt Nam như năm 1979. Hơn nữa việc Việt Nam đã nâng cao sức mạnh quốc phòng đáng kể thời gian qua hoàn toàn có thể làm Trung Quốc chùn tay. Ví dụ, các nhà chiến lược Việt Nam đã nói đến khả năng dùng các tên lửa tấn công vào các thành phố trọng yếu của Trung Quốc ở phía Nam trong trường hợp Trung Quốc tấn công quân sự. Vì vậy, dù không được phép chủ quan, nhưng Việt Nam cũng không nên quá lo lắng trước khả năng này.
  • Cuối cùng, khả năng cao nhất là Trung Quốc có thể sử dụng biện pháp cắt đứt quan hệ kinh tế để trừng phạt Việt Nam. Năm 2013, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với 28% nhập khẩu của Việt Nam đến từ Trung Quốc, trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như phụ tùng, máy móc, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tiêu thụ 10% giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra quan hệ kinh tế song phương còn có đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam và sự tham gia của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án công nghiệp – xây dựng. Có ước tính cho rằng, nếu Trung Quốc chấm dứt quan hệ kinh tế song phương thì GDP của Việt Nam sẽ bị thu hẹp 10%. Tuy nhiên mối đe dọa này không nên bị thổi phồng bởi lẽ: 1) Nếu Trung Quốc chấm dứt trao đổi kinh tế, bản thân Trung Quốc cũng sẽ thiệt hại. Kinh nghiệm từ trường hợp Nga – EU cho thấy, vũ khí kinh tế là con dao hai lưỡi không phải lúc nào cũng có thể sử dụng được; 2) Các hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay có sự tham gia lớn của các tập đoàn đa quốc gia liên quan tới các nước thứ ba. Chính vì vậy Trung Quốc không thể đơn giản chấm dứt thương mại song phương mà không gây nên sự phản đối và sức ép từ các nước này; 3) Với quan hệ thương mại, đầu tư rộng mở, Việt Nam có thể tìm được các thị trường xuất nhập khẩu thay thế để ít nhất giảm thiểu thiệt hại; 4) Trong cái rủi có cái may, nếu Trung Quốc hạn chế hoặc gián đoạn trao đổi kinh tế thì đó cũng là một cú hích giúp Việt Nam thay đổi, cải cách từ bên trong, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với bên ngoài để vừa giảm phụ thuộc vào Trung Quốc , vừa tạo đà tăng trưởng bền vững hơn cho nền kinh tế về lâu dài.
Tóm lại các rủi ro gắn liền với việc Trung Quốc trả đũa nếu Việt Nam quyết định đi theo con đường liên minh để đối trọng lại với Trung Quốc là có, nhưng không nên bị thổi phồng. Chính vì vậy thách thức lớn nhất đối với sự chuyển hướng này chính là việc liệu nội bộ Việt Nam có đủ sự đồng lòng và quyết tâm, đặc biệt là ở các lãnh đạo cấp cao, trong việc từ bỏ thứ “hữu nghị viễn vông” để tìm một thế đứng tốt hơn vì lợi ích dân tộc hay không.
Một vài gợi ý chính sách
Như vậy, có thể thấy, nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì sức ép như hiện nay, Việt Nam cần tính đến phương án theo đuổi các liên minh để đối trọng với Trung Quốc bởi đây là một lựa chọn vừa phù hợp với đòi hỏi của tình hình, vừa khả thi về mặt thực hiện. Tuy nhiên, trước khi Việt Nam có thể thực sự áp dụng chính sách này, cần định rõ một số nguyên tắc cơ bản như sau:
  • Chính sách liên minh không phải là một chính sách bất biến, một chiều hay tuyến tính. Cũng như chính sách không liên minh – liên kết, chính sách liên minh cũng có thể được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình. Tùy vào yêu cầu của tình hình, Việt Nam có thể tăng cường hay dịu bớt ưu tiên đối với chính sách này, miễn sao có thể giúp phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, thể hiện trước hết ở việc bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, và sau đó là đồng thời duy trì được quan hệ hòa bình, ổn định, hai bên cùng có lợi với Trung Quốc.
  • Một khi đã chuyển hướng sang chính sách liên minh, thì dù điều chỉnh mức độ ưu tiên, Việt Nam vẫn cần phải duy trì chính sách này đề phòng trường hợp Trung Quốc “ngựa quen đường cũ”. Ngoài ra, việc xây dựng các liên minh đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, đặc biệt là trong việc xây dựng lòng tin, nên đó là một tài sản chiến lược quan trọng mà Việt Nam cần gìn giữ để sử dụng phù hợp trong ứng xử với Trung Quốc.
  • Liên minh không đồng nghĩa với liên minh với Hoa Kỳ. Các đối tác liên minh của Việt Nam có thể đa dạng, tùy vào phạm vi và mục đích của liên minh, dựa trên nguyên tắc phối hợp với những nước có lợi ích tương đồng để cùng theo đuổi mục đích hay cân bằng lại mối đe dọa chung.
  • Liên minh không nên được hiểu chỉ có nghĩa là liên minh quân sự mà còn có thể là liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý…, qua đó giúp các quốc gia cùng chia sẻ lợi ích đối phó với mối đe dọa chung. Thực tế, kể cả khi Việt Nam đã hình thành hoặc tham gia được các liên minh thì Việt Nam cũng cần xác định rằng trong trường hợp xảy ra đụng độ quân sự, trách nhiệm chủ chốt, nếu không nói là duy nhất, vẫn thuộc về Việt Nam. Tuy nhiên, việc hình thành các liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý… với các nước khác bản thân chúng đã có giá trị răn đe đối với Trung Quốc. Hơn nữa, trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi thì các đồng minh dù không can dự trực tiếp về quân sự nhưng vẫn có thể mang lại những hỗ trợ quý giá về cả vật tài vật lực lẫn tinh thần để giúp chúng ta chống lại sức ép quân sự từ phía Trung Quốc.
  • Việc theo đuổi các liên minh không đồng nghĩa Việt Nam phải hi sinh quan hệ với Trung Quốc. Các liên minh chỉ là một công cụ giúp Việt Nam quản lý và điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc mà thôi. Là một nước lớn, Trung Quốc đáng nhận được sự tôn trọng của Việt Nam, nhưng với điều kiện Trung Quốc cũng tôn trọng các lợi ích chính đáng của Việt Nam. Chính vì vậy trong trường hợp Trung Quốc thể hiện mình không phải là một mối đe dọa đối với Việt Nam thì Việt Nam vẫn sẵn sàng phát triển quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhất là về mặt kinh tế, và chính sách liên minh của Việt Nam sẽ nằm ở trạng thái “chờ”, đề phòng cho trường hợp mối đe dọa từ Trung Quốc tái trỗi dậy.
Trên cơ sở các điều kiện và nguyên tắc này, Việt Nam cần xác định các liên minh có thể xây dựng, xác định các đồng minh phù hợp cho từng liên minh, đồng thời thiết lập lộ trình để hiện thực hóa chúng. Hiện nay có thể xác định 3 loại hình liên minh mà Việt Nam có thể thiết lập là liên minh chính trị – ngoại giao, liên minh pháp lý, và liên minh quân sự. Đương nhiên có thể có sự kết hợp giữa các liên minh này với nhau ở những quốc gia đồng minh nhất định.
Về đối tượng đồng minh, có thể xác định:
  • Liên minh chính trị – ngoại giao: Nòng cốt sẽ là Việt Nam – Philippines, vòng thứ hai sẽ là Hoa Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Malaysia, vòng thứ ba sẽ là các quốc gia còn lại của ASEAN và các thành viên khác của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cùng với Australia và Hàn Quốc.
  • Liên minh pháp lý: Nòng cốt sẽ là Việt Nam – Philippines, Vòng hai sẽ là Malaysia, Brunei, những nước có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Vòng thứ ba sẽ là Indonesia, Singapore và Nhật Bản, Hoa Kỳ, những nước có lợi ích lớn trong việc tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
  • Liên minh quân sự: Đối tác liên minh quân sự khả dĩ nhất cho Việt Nam chính là Hoa Kỳ. Theo đó nếu Việt Nam có được quan hệ liên minh quân sự với Hoa Kỳ thì sẽ gần như tự động gia nhập mạng lưới liên minh “trục và nan hoa” với các đồng minh của Hoa Kỳ tại khu vực như Nhật, Hàn Quốc, Philippines, Australia… Tuy nhiên khả năng này trong tình hình hiện tại còn nhiều trở ngại, nên tạm thời xin chưa bàn tới ở đây. Tuy nhiên, Việt Nam cần chuẩn bị dần các điều kiện cho điều này bằng cách cải thiện quan hệ hơn nữa với Hoa Kỳ, nhất là quan hệ chính trị. Đặc biệt, Việt Nam cần từ bỏ cách tiếp cận dựa trên “ý thức hệ” để phát triển quan hệ song phương một cách thực chất với mục tiêu lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết. Chỉ khi các rào cản chính trị và ý thức hệ được dỡ bỏ thì mới có thể tính tới được một mối quan hệ gần gũi về mặt quân sự giữa hai nước. Ngoài ra, các đồng minh quân sự tiềm tàng của Việt Nam còn có Philippines và Nhật Bản.
Về mặt lộ trình, Việt Nam cần tiến hành từng bước, vừa thực hiện vừa đánh giá phản ứng của các bên liên quan, nhất là Trung Quốc. Theo đó, trước mắt Việt Nam cần làm ngay các việc sau theo thứ tự ưu tiên:
  • Ký kết hiệp định đối tác chiến lược với Philippines càng sớm càng  tốt
  • Tham gia cùng Philippines trong vụ kiện Trung Quốc
  • Cùng các nước ASEAN, đặc biệt là các nước có tranh chấp nếu toàn bộ ASEAN không đạt được đồng thuận, ký kết một bản Quy tắc ứng xử trên  Biển Đông mang tính ràng buộc pháp lý giữa các bên với nhau, đồng thời mở cho các bên quan tâm ngoài khu vực tham gia (đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ), không cần chờ Trung Quốc đồng ý
  • Thiết lập cơ chế hợp tác, tham vấn trực tiếp về Biển Đông giữa 4 nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei (có thể mời Đài Loan tham gia) dưới hình thức một cuộc họp không chính thức về Biển ASEAN như các học giả và chuyên gia Indonesia đã đề xuất.)
  • Mở cửa cảng Cam Ranh cho tàu chiến Hoa Kỳ, Ấn Độ cũng như các nước có quan tâm
  • Nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược với Hoa Kỳ và Australia (dù danh nghĩa hay thực chất đều có tác động răn đe đối với Trung Quốc)
  • Mời Hoa Kỳ và các quốc gia quan tâm tham gia tập trận trong vùng biển Việt Nam
  • Thiết lập lực lượng hải quân quốc tế với sứ mạng “gìn giữ hòa bình” tuần tra chung tại Biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa nói riêng…
Đây chỉ là những gợi ý sơ bộ, cần được đánh giá, cân nhắc, thêm bớt,… để đảm bảo tính khả thi. Tuy nhiên, nguyên tắc là cần làm từng bước, dễ trước khó sau, để thăm dò phản ứng của Trung Quốc cũng như các bên liên quan. Sau đó tùy tình hình Việt Nam có thể điều chỉnh lộ trình cũng như các bước đi cụ thể cho phù hợp.
Tóm lại, điểm mấu chốt là đã đến lúc Việt Nam cần nghiêm túc xem xét lựa chọn liên minh như là một chiến lược lâu dài để đối phó với Trung Quốc trong bối cảnh chắc chắn Trung Quốc sẽ ngày càng hung hăng và xác quyết hơn trên Biển Đông. Tuy nhiên, lựa chọn này có khả thi hay không và có thể thực hiện đến đâu, tất cả còn phụ thuộc vào quyết tâm chính trị và tầm nhìn chiến lược về lợi ích quốc gia của các lãnh đạo Việt Nam.
Rốt cuộc, Việt Nam không thể chọn được láng giềng, nhưng có thể chọn được cách cư xử sao cho phù hợp nhất với láng giềng đó để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.
Lê Hồng Hiệp là giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế, trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia TPHCM, và hiện là Nghiên cứu sinh tại trường ĐH New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra.
Theo Nguyen Cuu Quoc Te

Nhận diện biểu hiện “Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục

 
TCCS - “Lợi ích nhóm” có trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy, nó có cả trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện này.

Khái niệm “lợi ích nhóm”

“Lợi ích nhóm” là một cụm từ, một thuật ngữ đang được nhắc đến nhiều trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đang làm cho nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các tầng lớp nhân dân quan tâm nhìn nhận, mổ xẻ dưới nhiều cách nhìn với các cấp độ, góc độ khác nhau. Lợi ích thường liên kết con người với nhau, và vì vậy phân chia ra các nhóm, giai tầng khác nhau. Chính vì thế mà có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hay lợi ích giai cấp... Từ “lợi ích nhóm” có thể hình thành nên nhóm lợi ích, nhóm xã hội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện ngày càng nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm này vừa có thể có lợi ích chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có lợi ích tiêu cực.

Như vậy, có thể hiểu lợi ích nhóm như sau: Lợi ích nhóm là lợi ích của một nhóm người liên kết với nhau, hỗ trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau có lợi ích và bảo vệ lợi ích đó. Xét về mục đích và bản chất, lợi ích nhóm có thể chia thành lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực. Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người. Việc hình thành nó là nhu cầu khách quan, chính đáng, tự nhiên trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm người với những đặc điểm, hoàn cảnh khác nhau. Còn lợi ích nhóm tiêu cực là “lợi ích” mà nhóm thu được nhằm vào các “tình huống” hay “phi vụ” nhạy cảm, không lành mạnh, mờ ám, thiếu minh bạch. Bài viết giới hạn ở việc phân tích những biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực (gọi tắt là lợi ích nhóm) trong công tác tổ chức, cán bộ.

“Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ

Trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm cũng rất đa dạng, phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình hoạt động của công tác tổ chức, cán bộ.

Thứ nhất, lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ.

Biểu hiện lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác cán bộ là một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không vì chính sách, lợi ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi cho họ (ví dụ: nới lỏng hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, chuyển ngạch, nâng ngạch,...). Biểu hiện khác của tình trạng này là những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng, ban hành chính sách cán bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản” (như điều kiện tiếp nhận, điều chuyển, bố trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt hoặc được đi học, đi công tác nước ngoài) để người thân của họ, hoặc cán bộ lãnh đạo có đủ điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện đó; ban hành chính sách, quyết định, nhiều khi mang tính “nội bộ”, có tính chất đặc quyền, đặc lợi cho một số ít cán bộ, trái với quy định hoặc theo quy định của Nhà nước nhưng không minh bạch để trục lợi.

Thứ hai, lợi ích nhóm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể của cấp dưới để trục lợi.

Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ chung của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế độ đối với cán bộ vì lợi ích nhóm của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, dẫn đến việc thực hiện trái quy định của cấp trên vì nhiều lý do hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với những tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để trục lợi cho bản thân hoặc cho người thân của mình theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách” làm thiệt hại cho lợi ích chung của cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có nơi, đáng lẽ phải vận dụng quy định của cấp trên để ban hành chính sách về công tác cán bộ của cấp mình phù hợp nguyên tắc, chủ trương, quy định, nhưng lại vận dụng ban hành trái quy định nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân hoặc người thân của mình trong việc tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách cán bộ khác, như mở tuổi để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian công tác,...

Thứ ba, lợi ích nhóm trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ.

Biểu hiện của lợi ích nhóm này dễ thấy nhất và đang phổ biến hiện nay là cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước đã chỉ đạo xây dựng chính sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến chính sách lương “khủng” - “thu nhập quá cao” trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý của một số doanh nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề; hoặc ban hành, thực hiện những chủ trương, chính sách cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí, thất thoát kinh phí của cơ quan, đơn vị, tổ chức. Một biểu hiện nữa của lợi ích nhóm trong tổ chức thực hiện công tác cán bộ là cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lý tuy biết cán bộ cấp dưới thuộc “cánh hẩu” của mình, trình độ năng lực hạn chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề bạt, bao che để tạo thành một “ê-kíp” cán bộ làm việc vì lợi ích nhóm để trục lợi. Trong khi đó, cán bộ có đủ năng lực, trình độ, điều kiện thì không được quan tâm quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đúng khả năng, sở trường của họ, khiến họ “bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm việc ở những nơi khác.

Thứ tư, lợi ích nhóm trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán bộ.

Biểu hiện này thể hiện ở một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí người thân của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh nghiệm công tác không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi thế, màu mỡ, quyền thế” để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền đi liền với tiền”. Trong khi những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và có kinh nghiệm công tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí đảm nhiệm các công việc đó. Tình trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi bộ” mang tính chất gia đình như ở Vụ PMU18 trước đây và một số vụ việc tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi sắp hết nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh đạo quản lý đã ban hành những quyết định bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc diện “thân tín”, cho người thân trong gia đình mình không đúng chế độ, tiêu chuẩn, điều kiện.

Tình trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan cho thấy, một số quy định của Đảng, Nhà nước ban hành nhưng chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, nên bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ lợi dụng để tham mưu, “lách luật” ban hành những quy định có lợi cho lợi ích của cán bộ lãnh đạo hoặc người thân của họ hoặc cho chính cán bộ làm công tác tham mưu về công tác cán bộ. Về nguyên nhân chủ quan cho thấy, một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ hoặc cán bộ lãnh đạo dù nhận thức đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ nhưng vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã cố tình không thực hiện đúng, đã chỉ đạo hoặc chủ động tham mưu ban hành những chủ trương, chính sách về công tác cán bộ ở cấp mình nhằm vụ lợi cho bản thân, người thân hoặc “cánh hẩu” của mình; mà không vì lợi ích chung của cơ quan, tổ chức, của toàn Đảng về công tác cán bộ. Một số cán bộ lãnh đạo không chấp hành nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, dẫn đến vi phạm về công tác này vì lợi ích cục bộ, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa lợi ích cục bộ của một số ít người, “cánh hẩu” của mình hoặc người thân của mình trong công tác bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử cán bộ.

Một số giải pháp khắc phục “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ

Biểu hiện “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua với những dạng khác nhau ở các cấp độ, mức độ khác nhau trong các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tuy chưa nhiều, chưa phổ biến nhưng rất nguy hại, cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời. Theo chúng tôi, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chính sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về tác hại của nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ để từ đó nâng cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, quy định, quyết định cũng như tổ chức thực hiện đúng công tác tổ chức, cán bộ; khắc phục triệt để lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm cho cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế của Nhà nước về tác hại của lợi ích nhóm, để từ đó thực hiện đúng, tốt chức năng tham mưu trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ. Kịp thời thay thế hoặc bố trí công việc khác cho phù hợp đối với những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ có biểu hiện động cơ lợi ích nhóm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, thiếu trách nhiệm hoặc tiêu cực trong tham mưu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, uy tín giảm sút.

Hai là, để tích cực tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là người đứng đầu phải nêu cao tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW, của Bộ Chính trị, ngày 14-5-2011 và Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 7-6-2012, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; đồng thời thực hiện nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm; nêu cao ý thức thực hiện đúng quy định về đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức. Động viên người thân trong gia đình chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình can thiệp, tác động để làm trái hoặc được hưởng những chế độ, chính sách về công tác cán bộ không đúng tiêu chuẩn, điều kiện.

Ba là, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức, cán bộ một cách đầy đủ, đồng bộ, chuẩn xác, công khai, minh bạch. Đồng thời phải kiểm soát, giám sát chặt chẽ quá trình thực thi mới hạn chế được việc lợi dụng, “lách luật” để cấp dưới ban hành chủ trương, chính sách, chế độ về công tác tổ chức, cán bộ thuộc cấp mình hoặc vận dụng thực hiện quy định của cấp trên ban hành mang tính chất lợi ích nhóm để trục lợi. Chấn chỉnh lại công tác tổ chức, cán bộ vì nhân tố con người là quan trọng nhất và quyết định tất cả. Chỉ đạo xây dựng một bộ tiêu chí cụ thể, sát thực hơn để đánh giá cán bộ một cách công khai, công bằng, hiệu quả nhất, đáp ứng được 3 tiêu chuẩn: thứ nhất, có tầm nhìn, năng lực, nhất là năng lực thực tiễn; thứ hai, có khả năng tổ chức triển khai; thứ ba, gương mẫu, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không cá nhân chủ nghĩa, không lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa và đề cao trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu; khắc phục tình trạng bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt tuy đúng quy trình, hình thức, nhưng không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng cán bộ theo quy hoạch và thực tế năng lực, trình độ của họ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, “đủ tâm” và “đủ tầm” gánh vác trọng trách được giao; kiên quyết chống những biểu hiện lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ. Sớm nghiên cứu áp dụng Luật Hồi tỵ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý không phải là người địa phương. Nâng cao mức lương cho cán bộ, công chức, bảo đảm để họ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh dự của người cán bộ, công chức sẵn sàng cống hiến cho Đảng, Nhà nước và hết lòng phục vụ nhân dân. Kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ, nghị quyết, quy định về công tác tổ chức, cán bộ đã ban hành để rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, khó thực hiện, dễ bị lợi dụng tạo lợi ích nhóm để trục lợi; ban hành mới những quy định còn thiếu và tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, có kết quả.

Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp trên phải chú trọng, tăng cường, đổi mới phương thức, biện pháp, nội dung kiểm tra, giám sát, kiểm soát tổ chức đảng cấp dưới, cán bộ, đảng viên dưới quyền trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chế độ, quy định về công tác tổ chức, cán bộ, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao về công tác tổ chức, cán bộ. Đặc biệt là phải hết sức coi trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực (quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước) của tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cơ quan, đơn vị, kể cả cán bộ tham mưu cấp chiến lược từ cấp tỉnh trở lên về công tác tổ chức, cán bộ; bảo đảm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đều phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát nghiêm ngặt, chặt chẽ bằng chế độ, quy định, quy chế cụ thể, không được lạm dụng thực hiện lợi ích nhóm để trục lợi. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước phải tiếp tục rà soát để bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc, chế độ công tác cho phù hợp, trong đó xác định rõ và phân công cụ thể, rành mạch trách nhiệm, quyền hạn của tập thể, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, mối quan hệ giữa các thành viên trong chỉ đạo, điều hành nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng để thực sự phát huy dân chủ, chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng hoặc quyền lực tập trung vào một số ít người, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa chủ trương, quyết định biểu hiện lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của một số ít người, thậm chí của một người. Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn chủ trì ở các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trước khi kết thúc nhiệm kỳ để chống “lợi ích nhóm”. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiểm soát, phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển. Những trường hợp có dấu hiệu vi phạm, bị tố cáo có vi phạm về lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ phải được chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế của Nhà nước,... trong cán bộ, đảng viên, công chức gắn với đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ để trục lợi. Trong đó chú trọng thực hiện quy định tất cả công chức khi vào làm việc tại cơ quan đảng, chính quyền đều phải kê khai trung thực, đầy đủ, chính xác tài sản của bản thân và của gia đình mình và sau đó phải thực hiện kê khai thường xuyên hằng năm; cuối nhiệm kỳ công tác hoặc trước khi được điều động, điều chuyển, luân chuyển công tác mới, bảo đảm công khai, minh bạch các nguồn thu nhập của bản thân và gia đình. Có biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý kịp thời các hoạt động phi pháp, ngăn chặn các biểu hiện bất minh, lợi ích nhóm, bảo đảm không có cơ hội để lợi dụng tạo ra nhóm lợi ích tiêu cực và lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ để tham nhũng, trục lợi. Sử dụng những công cụ, biện pháp giám sát của cộng đồng, của nhân dân và xã hội để phát hiện những dấu hiệu bất thường, bất minh nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ là công việc gốc của Đảng, bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Nếu trong lĩnh vực này có suy thoái, biến chất, tham nhũng, tiêu cực ở mức độ “lợi ích nhóm” thì rất nguy hại cho Đảng, Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm, hạn chế trong công tác tổ chức, cán bộ thời gian qua, dẫn đến tình trạng còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, bao che cho khuyết điểm sai phạm của cấp dưới. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ sự hình thành lợi ích nhóm, khái niệm lợi ích nhóm, biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ, chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến lợi ích nhóm, đề xuất một số giải pháp đấu tranh, ngăn chặn, giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra thấy được sự nguy hại, ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tổ chức, cán bộ nói riêng để có cơ sở, căn cứ đề ra các chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh thực sự có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng./.

Cao Văn Thống, Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
TS. Đỗ Xuân Tuất, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tuyên bố thành lập Hội Nhà báo độc lập Việt Nam


Hội nhà báo độc lập Việt Nam
The Independent Journalists Association of Vietnam - IJAVN
Sài Gòn ngày 4 tháng 7 năm 2014
Tuyên bố thành lập Hội nhà báo độc lập Việt Nam
Làm thế nào để báo chí và các nhà báo cất được tiếng nói theo đúng nghĩa của hai từ “tự do”? Làm thế nào để báo chí được làm đúng thiên chức của mình, phản biện và xây dựng một xã hội công bằng, một đất nước thật sự độc lập tự chủ, không cúi đầu hoặc run sợ trước hiểm họa ngoại xâm đang quá cận kề?
Đã đến lúc báo chí và các nhà báo Việt Nam cần có tư cách độc lập để trả lời những câu hỏi trên. Tuân theo kinh nghiệm của mọi xã hội dân sự tiến bộ nhất trên thế giới, một trong những giải pháp cần phải có là Hội Nhà báo độc lập Việt Nam.
1* Quan điểm thành lập:
- Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (tiếng Anh: Independent Journalists Association of Vietnam - IJAVN) là tổ chức xã hội dân sự nằm trong xã hội dân sự Việt Nam, vì một Việt Nam tiến bộ xã hội, dân chủ và đa nguyên, văn minh và giàu mạnh.
- Hội Nhà báo độc lập Việt Nam hoạt động trên cơ sở:
+ Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên có nghĩa vụ tuân thủ.
+ Các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội được minh định trong Hiến pháp Việt Nam.
- Thông qua hoạt động báo chí, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc ôn hòa, bất bạo động; tôn trọng đa nguyên chính trị; phi lợi nhuận; hướng đến mục tiêu cổ súy cho tự do của người dân và dân chủ cho toàn xã hội, đóng góp ý kiến phản biện dưới dạng các tác phẩm báo chí và diễn đàn ngôn luận cho xã hội và đất nước.
- Hội Nhà báo độc lập Việt Nam hướng đến mục tiêu xây dựng môi trường sinh hoạt trí tuệ và lành mạnh cho các hội viên và những người yêu thích nghề báo, đặc biệt là những người trẻ, nhằm thực hiện quyền tự do biểu đạt và tự do báo chí.
- Hội Nhà báo độc lập Việt Nam gồm những người có quá trình hoạt động báo chí không phân biệt quan điểm chính trị, tôn giáo, giới tính, độ tuổi; không phân biệt người trong nước và ngoài nước; tự nguyện dấn thân vì tự do báo chí, vì một nền dân chủ thật sự, vì tiến bộ xã hội và hạnh phúc người dân.
- Hội Nhà báo độc lập Việt Nam độc lập về quan điểm, nhân sự, tài chính…
2* Mục đích thành lập:
- Phản ánh trung thực và sâu sắc những vấn đề nóng bỏng của xã hội và đất nước.
- Phản biện đối với những chính sách bất hợp lý của nhà nước liên quan đến quản lý xã hội và tự do báo chí.
- Tổ chức trao đổi, đối thoại với các cấp chính quyền về tự do báo chí và quản lý xã hội khi có điều kiện, đồng thuận với những chính sách, giải pháp hợp lòng dân và có lợi cho đất nước.
- Hỗ trợ về tinh thần và vật chất, hoạt động tương thân tương ái giữa các hội viên.
- Lên tiếng và có hành động cần thiết để bảo vệ những người làm báo vì tiến bộ xã hội, nhưng bị sách nhiễu, bắt bớ, tù đày, khủng bố… Đấu tranh yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ những điều luật mơ hồ của Bộ luật hình sự được dùng để áp chế tự do báo chí như Điều 258, 88…
- Thu hút và đào tạo cây viết trẻ nhằm đóng góp cho nền báo chí chuyên nghiệp Việt Nam trong tương lai.
- Thu hút và tạo môi trường sinh hoạt cho các nhà báo và cộng tác viên báo chí, không phân biệt báo nhà nước hay truyền thông xã hội.
3* Những nội dung hoạt động chính:
- Sinh hoạt định kỳ và đột xuất về thông tin thời sự. Trao đổi về phương hướng và chủ đề viết.
- Tổ chức tọa đàm, hội thảo về một số chủ đề quan trọng của xã hội và đất nước.
- Xây dựng lực lượng làm báo trẻ để tạo lớp kế thừa cho lớp nhà báo lớn tuổi.
- Lên tiếng kịp thời về những trường hợp người dân và nhà báo bị xâm hại.
- Chuyển tải những vấn đề nóng bỏng và cấp thiết của đất nước, xã hội ra hệ thống truyền thông quốc tế.
- Liên kết và hợp tác với những tổ chức chính phủ và phi chính phủ quốc tế về báo chí.
- Vận hành một trang báo mạng dành cho các nhà báo và cộng tác viên.
4* Cơ cấu tổ chức:
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam có Ban lãnh đạo gồm chủ tịch và một số phó chủ tịch, ủy viên. Ban lãnh đạo được phân công điều hành theo các công việc và theo khu vực.
Ban lãnh đạo:
- Chủ tịch: Nhà báo Phạm Chí Dũng.
Phụ trách chung các hoạt động của Hội. Email: phamchidungsg@gmail.com
- Phó chủ tịch thường trực: Nhà báo, linh mục Anton Lê Ngọc Thanh.
Phụ trách khu vực miền Nam và trang báo của Hội. Email: naygum@gmail.com
- Phó chủ tịch: Nhà báo Nguyễn Tường Thụy.
Phụ trách khu vực miền Bắc. Email: tuongthuy52@gmail.com
- Phó chủ tịch: Nhà báo Bùi Minh Quốc.
Phụ trách khu vực miền Trung. Email: bmquoc40@gmail.com
- Ủy viên: Nhà báo Ngô Nhật Đăng.
Trị sự hai trang báo: Việt Nam Thời Báo và Vietnam Times Email: dangngonhat@gmail.com hoặc vietnamtimes00@gmail.com
Cơ cấu ban:
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam có một số ban chuyên môn và trang báo là cơ quan ngôn luận của Hội.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam mời gọi những người làm báo có tâm nguyện với dân tộc tham gia vào Hội, chung sức làm mọi việc có ích cho quê hương.
Mọi liên hệ, ghi tên tham gia và ủng hộ Hội Nhà báo độc lập Việt Nam xin gửi về các địa chỉ email: hoinhabaodoclapvietnam@gmail.com
Ban lãnh đạo Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
- Phạm Chí Dũng
- Anton Lê Ngọc Thanh
- Nguyễn Tường Thụy
- Bùi Minh Quốc
- Ngô Nhật Đăng.

Điều lệ hoạt động của Hội nhà báo độc lập Việt Nam
1* Quan điểm:
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (tiếng Anh: The Independent Journalists Association of Vietnam - IJAVN) là tổ chức xã hội dân sự nằm trong xã hội dân sự Việt Nam, vì một Việt Nam tiến bộ xã hội, dân chủ và đa nguyên, văn minh và giàu mạnh.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam hướng đến mục tiêu xây dựng môi trường sinh hoạt trí tuệ và lành mạnh cho các hội viên, đặc biệt là những người viết trẻ, nhằm thể hiện quyền tự do biểu đạt và tự do báo chí.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam không phân biệt quan điểm chính trị, tôn giáo, giới tính, độ tuổi; không phân biệt người trong nước và ngoài nước; tự nguyện dấn thân vì tự do báo chí, vì một nền dân chủ thật sự, vì hạnh phúc của nhân dân.
2* Những nội dung hoạt động chính:
- Sinh hoạt định kỳ và đột xuất về thông tin thời sự. Trao đổi về phương hướng và chủ đề viết.
- Tổ chức tọa đàm, hội thảo về một số chủ đề quan trọng của xã hội và đất nước.
- Xây dựng lực lượng viết báo trẻ để tạo lớp kế thừa cho lớp nhà báo lớn tuổi.
- Lên tiếng kịp thời về những trường hợp người dân và nhà báo bị xâm hại.
- Chuyển tải những vấn đề nóng bỏng và cấp thiết của đất nước, xã hội ra hệ thống truyền thông quốc tế.
- Liên kết và hợp tác với những tổ chức phi chính phủ quốc tế về báo chí.
- Vận hành một trang báo mạng dành cho các nhà báo và cộng tác viên độc lập.
3* Nguyên tắc sinh hoạt:
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam được tổ chức dựa trên hiệu quả và tinh thần đồng đội, phát huy tối đa trách nhiệm của từng cá nhân để Hội thực sự đóng góp có hiệu quả cho xã hội mà không bị lệ thuộc vào tính hình thức.
Hội được tổ chức theo tinh thần dân chủ:
- Thông tin đầy đủ; thảo luận và biểu quyết tự do; ủy nhiệm công tác; kiểm soát và báo cáo công việc.
- Quyết định bằng đồng thuận hoặc qua biểu quyết của đa số.
Hội được tổ chức trong tinh thần tự nguyện chấp hành kỷ luật:
- Tôn trọng nhân phẩm và quyền tự do của mỗi thành viên.
- Tôn trọng quyết định của tập thể.
- Tôn trọng những thành viên được ủy nhiệm công tác.
- Thực hiện và báo cáo những công việc được giao.
Các quyết định được biểu quyết theo đa số thành viên hợp lệ.
4* Hội viên:
Hội viên phải là người có ít nhất 5 tác phẩm báo chí đã công bố phù hợp với tiêu chí của Hội.
Hội viên được bảo đảm quyền tự do phát biểu đối với mọi vấn đề của Hội.
Hội viên có thể tự quyết định ra khỏi Hội.
Hội viên có thể bị khai trừ vì vi phạm kỷ luật hay có hành động ngược lại tiêu chí của Hội.
5* Cơ cấu tổ chức:
Cơ quan điều hành cao nhất của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam là Ban lãnh đạo, gồm chủ tịch và một số phó chủ tịch, ủy viên.
Ban lãnh đạo được phân công điều hành theo các công việc và theo khu vực.
Ban lãnh đạo thay mặt toàn thể thành viên ban hành quyết định và đôn đốc, giám sát việc thi hành.
Ban lãnh đạo biểu quyết mỗi khi thấy cần những qui định về cách thức sinh hoạt.
Nhiệm kỳ đầu của Ban lãnh đạo là 2 năm. Hết nhiệm kỳ đầu, các hội viên sẽ cùng quyết định cụ thể về các nhiệm kỳ kế tiếp.
Nhân sự và nhiệm vụ Ban lãnh đạo Hội và các ban chuyên môn, trang báo có thể được bố trí, điều chỉnh tùy yêu cầu tình hình và do Chủ tịch Hội quyết định.
Trong trường hợp vì lý do biến cố hoặc bất khả kháng mà Chủ tịch Hội không thể điều hành, Phó chủ tịch thường trực Hội sẽ đảm nhiệm công tác điều hành Hội. Nếu Phó chủ tịch thường trực Hội cũng không thể điều hành bởi lý do biến cố hoặc bất khả kháng, một Phó chủ tịch Hội sẽ được ủy nhiệm để điều hành công tác của Hội.
6* Các chi hội:
Trong giai đoạn đầu hoạt động, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam có 4 chi hội:
- Miền Bắc
- Miền Trung
- Miền Nam
- Hải Ngoại
Văn phòng của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam được đặt tại Sài Gòn.
7* Ban chuyên môn:
Trong giai đoạn đầu hoạt động, Hội có các ban chuyên môn:
- Văn phòng Hội
Người phụ trách: Chủ tịch, Phó chủ tịch thường trực, Chuyên viên
- Ban Sự kiện và Đào tạo
Người phụ trách: Một Phó chủ tịch và Chuyên viên
- Ban Quan hệ quốc tế
Người phụ trách: Một Phó chủ tịch hoặc Một Ủy viên và Chuyên viên
- Trang báo
Người phụ trách: Do chủ tịch bổ nhiệm sau khi tham khảo với toàn Ban lãnh đạo
Các ban chuyên môn có thể đón nhận sự hợp tác của mọi thành viên và thân hữu.
Nhân sự và nhiệm vụ các ban chuyên môn, trang báo có thể được bố trí, điều chỉnh tùy yêu cầu tình hình và do Chủ tịch Hội quyết định.
8* Tài chính:
Hội viên tự nguyện đóng góp.
Hội tiếp nhận đóng góp tài chính của các nhà hảo tâm trong nước và ngoài nước để sử dụng cho mục tiêu chung và các chương trình xã hội.

Danh sách hội viên ban đầu của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
(xếp theo a – b – c…)
1. Tường An (Pháp)
2. Vũ Thị Phương Anh (Sài Gòn)
3. Nguyễn Đình Ấm (Hà Nội)
4. Nguyễn Vũ Bình (Hà Nội)
5. Huỳnh Ngọc Chênh (Sài Gòn)
6. Tiêu Dao Bảo Cự (Đà Lạt)
7. Phạm Chí Dũng (Sài Gòn)
8. Ngô Nhật Đăng (Sài Gòn)
9. Nguyễn Hoàng Đức (Hà Nội)
10. Trương Minh Đức (Bình Dương)
11. Nguyễn Thanh Giang (Hà Nội)
12. Chu Vĩnh Hải (Sài Gòn)
13. Phạm Bá Hải (Sài Gòn)
14. Phan Thanh Hải (Sài Gòn)
15. Lê Hải (Đà Nẵng)
16. Vũ Sỹ Hoàng (Sài Gòn)
17. Huỳnh Trọng Hiếu (Quảng Nam)
18. Vi Đức Hồi (Lạng Sơn)
19. Lê Phú Khải (Sài Gòn)
20. Mai Thái Lĩnh (Đà Lạt)
21. Hạ Đình Nguyên (Sài Gòn)
22. Kha Lương Ngãi (Sài Gòn)
23. Hồ Ngọc Nhuận (Sài Gòn)
24. Vũ Quốc Ngữ (Hà Nội)
25. Hà Sĩ Phu (Đà Lạt)
26. Đỗ Trung Quân (Sài Gòn)
27. Bùi Minh Quốc (Đà Lạt)
28. Nguyễn Quốc Thái (Sài Gòn)
29. Lê Ngọc Thanh (Sài Gòn)
30. Phạm Đình Trọng (Sài Gòn)
31. Phạm Thành (Hà Nội)
32. Trần Quang Thành (Séc)
33. Nguyễn Văn Thạnh (Đà Nẵng)
34. Châu Văn Thi (Sài Gòn)
35. Huỳnh Công Thuận (Sài Gòn)
36. Nguyễn Tường Thụy (Hà Nội)
37. Nguyễn Trung Tôn (Thanh Hóa)
38. Nguyễn Khắc Toàn (Hà Nội)
39. Nguyễn Thị Huyền Trang (Sài Gòn)
40. JB. Nguyễn Hữu Vinh (Hà Nội)
41. Huỳnh Thục Vy (Đắc Lắc)
42. Dương Thị Xuân (Hà Nội)

Báo Trung Quốc: 4 lý do không thể thắng Việt Nam bằng chiến tranh

Trên trang mạng Quân sự Trung Quốc (Military.china.com) ngày 3/7 có bài viết cho rằng với 4 lý do cốt tử, gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ phải gánh chịu thất bại nếu gây chiến với Việt Nam.
 
Không quân Việt Nam luôn sẵn sàng túc trực bảo vệ bầu trời Tổ quốc.

Căng thẳng trên biển Hoa Đông giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc càng trở nên căng thẳng hơn thì những lời kêu gọi gây chiến không chỉ đến từ các cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc, mà còn bởi một bộ phận người Trung Quốc thiếu hiểu biết, mang tư tưởng chủ nghĩa dân tộc "Đại Hán" cực đoan, luôn cổ vũ cho những hành động mang tính chất ngang ngược vô đạo đối với các nước láng giềng.

Nhưng bên cạnh đó cũng những người Trung Quốc hiểu và biết rằng, nếu bây giờ Trung Quốc gây chiến với các nước láng giềng họ sẽ tự chuốc lấy họa.

Trên trang mạng Quân sự Trung Quốc (Military.china.com) ngày 3/7 có bài viết cho rằng với tình hình hiện tại Trung Quốc không thể gây chiến.

Theo đó lý do thứ nhất là sự lão luyện thiện chiến của quân đội Việt Nam. Bài viết cho rằng, không phải các lãnh đạo Trung Quốc không dám gây chiến mà bởi vì với những hạn chế hiện tại của Trung Quốc, thì nước này không thể tiến hành một cuộc chiến tranh với bất kỳ quốc gia láng giềng nào.

Nếu Trung Quốc gây chiến với Việt Nam, Trung Quốc sẽ rơi vào cái bẫy. Những bài học từ cuộc chiến với Việt Nam năm 1979 đã cho thấy sự hao tiền tốn của và sinh mạng như thế nào. Chỉ riêng trong trận Lão Sơn, mỗi tuần Trung Quốc tiêu hao gần 200.000 quả đạn pháo, nhưng vẫn thiệt hại từ 4.000 đến 8.000 quân.

Bài báo trên trang mạng của Trung Quốc nói: "Quân đội Việt Nam sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích rất lão luyện, họ sẽ đánh bại chúng ta bằng cuộc chiến tiêu hao từ từ cho đến khi chúng ta thất bại, chúng ta không thể khinh thường họ. Người Mỹ đã hết sức sai lầm khi tuyên bố "đưa Việt Nam về thời kỳ đồ đá" và Việt Nam đã đáp lại bằng câu nói rằng "chúng tôi đã bước vào thời kỳ đồ nhôm" (ám chỉ rất nhiều xác máy bay Mỹ đã xuất hiện trên mặt đất ở miền Bắc Việt Nam)... Vì vậy Trung Quốc không thể chiến thắng bằng cách gây ra chiến tranh, bài học về các lực lượng không quân và hải quân hùng mạnh nhất thế giới bị Việt Nam tiêu diệt vẫn còn giá trị". 

Thứ hai, đó là môi trường chính trị quốc tế, khi gây ra cuộc chiến tranh với Việt Nam, Trung Quốc đầu tiên sẽ phải đối mặt với sự lên án một cách gay gắt từ dư luận phương Tây và Hoa Kỳ cũng như Nhật Bản.

Không những thế, gây chiến với Việt Nam sẽ làm cho Trung Quốc không còn chỗ đứng trên trường quốc tế. Các nước trên thế giới sẽ lên án Trung Quốc vì sức mạnh truyền thông nằm trong tay các nước phương Tây, và trong cuộc chiến truyền thông thì Trung Quốc hoàn toàn bị động. Cuộc chiến sẽ làm cho Trung Quốc mất dần sức mạnh và suy yếu, các lực lượng thù địch Trung Quốc sẽ thừa cơ can thiệp vào Trung Quốc.

Thứ ba, Trung Quốc phải đối mặt với vấn đề thù trong giặc ngoài. Trong khi chính trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn tồn tại những vấn đề rất lớn thì bên ngoài Trung Quốc lại đang phải đối diện với một vòng vây chữ C của các nước.

Nếu Trung Quốc sử dụng những lực lượng tinh nhuệ nhất, hiện đại nhất để đối phó với Việt Nam thì ở những khu vực khác của Trung Quốc lực lượng sẽ yếu và mỏng đi, Trung Quốc sẽ đối mặt với điều cấm kỵ trong binh pháp đó là cùng một lúc phải đối mặt với hai hoặc nhiều mặt trận.

Có thể dự đoán khi Trung Quốc khai chiến với Việt Nam thì Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập ngay tức khắc, lúc đó Trung Quốc không thế nào chiến thắng được trên mặt trận Đài Loan vì Hoa Kỳ sẽ đứng sau hậu thuẫn.

Tiếp theo là Nhật Bản sẽ kiểm soát hoàn toàn quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, Trung Quốc sẽ đánh mất cơ hội kiểm soát Bắc Triều Tiên, Ấn Độ đánh chiếm khu vực tranh chấp và thôn tính miền Nam Tây Tạng...

Việc Trung Quốc không thể lấy bài học của Hoa Kỳ tại Lybia hay bài học của Nga tại Georgia bởi vì không chỉ là sức mạng quốc gia của họ mạnh hơn Trung Quốc mà với các cuộc chiến trên thì Nga và Mỹ họ đều có sự thuận lợi về yếu tố địa chính trị, họ không có những vấn đề lớn phức tạp với các nước láng giềng và sự ổn định cơ bản trong nội bộ đất nước, do đó họ không phải lo lắng áp lực từ bên ngoài và nội bộ để có thể giành chiến thắng.

Và điểm cốt lõi quan trọng nhất trong cuộc chiến Iraq, Afghanistan là bởi đó là những quốc gia sa mạc, Không quân Mỹ có thể dễ dàng oanh kích kẻ thù, trong khi đó Georgia vốn chỉ là một đồng bằng chỉ cách ba mươi sáu cây số từ Nga, vì vậy lực lượng cơ giới Nga có thể ngay lập tức cơ động đánh chiếm.
Hải quân đánh bộ Việt Nam diễn tập sẵn sàng chiến đấu.(Ảnh minh họa)

Nhưng với Việt Nam thì khác, những bài học trên không thể áp dụng được, Việt Nam được bao bọc bởi đồi và núi. Pháp, Hoa Kỳ và cả Trung Quốc đã phải nếm trải những thất bại đau đớn tại đây, một cuộc chiến với Việt Nam sẽ hết sức khó khăn, Việt Nam rất lão luyện trong chiến tranh du kích, do đó việc sử dụng tên lửa, máy bay chiến đấu là một sự ngu ngốc! Các đơn vị cơ giới (của Trung Quốc) sẽ bị chặn lại bởi các dãy núi, vì vậy chắc chắn chúng ta sẽ rơi vào một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài.

Hồ Trung Nghĩa (lược dịch) 
 
(Infonet)

Lê Diễn Đức - ‘ Con Cháu Các Cụ Cả’

Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa.


Câu ca dao trên có từ chế độ phong kiến với tập quán cha truyền con nối. Nhưng tập quán này là một thiết chế xã hội mang tính công khai, được xã hội chấp nhận.

Các chế độ độc tài toàn trị tệ hại hơn, có cấu trúc giống như một nhà nước phong kiến nhưng mọi thứ đều không minh bạch. Những kẻ cầm quyền sống ngập trong xa xỉ nhưng chỉ đến khi bị lật đổ người dân mới biết. Saddam Hussein (Iraq) hay Gaddafi (Lybia) là những ví dụ.

Hệ thống độc tài cộng sản toàn trị thì có mô hình một nhà nước với “vua tập thế” là Bộ Chính Trị, cơ quan đầu não của một đảng duy nhất cầm quyền. Không cha truyền con nối, nhưng con cháu các lãnh đạo được cơ cấu vào các tổ chức của đảng để bồi dưỡng và quy hoạch cho tương lai.

Trong chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh đã dùng cụm danh từ “Hạt Giống Ðỏ” để đặt tên cho con cháu cán bộ nằm vùng tại miền Nam Việt Nam. Những “Hạt Giống Ðỏ”/“Học sinh miền Nam” này được đưa ra Bắc nuôi dưỡng và học tập, nhiều người đi du học nước ngoài.

Từ khi Việt Nam “mở cửa,” thời cuộc thay đổi, việc quy hoạch giới “5C” (”Con Cháu Các Cụ Cả”) thường gắn liền với lợi ích nhóm lâu dài, nhằm duy trì và phát triển các mối làm ăn. Thời đại ở Việt Nam “5C” cũng được chuyển sang “Thái Tử Ðảng.”

“Thái Tử Ðảng” (Taizi Dang) là một danh xưng mang ý nghĩa châm biếm, dùng để chỉ tầng lớp con cháu của các quan chức cao cấp nổi bật và có ảnh hưởng ở Trung Quốc. Bằng một cách không chính thức, tầng lớp này thường được hưởng nhiều đặc ân của nhà nước. Do đó, tầng lớp con cháu này có nhiều cơ hội được quy hoạch để làm lãnh đạo trong tương lai, dù hình thức bên ngoài vẫn biểu hiện bởi các nguyên tắc dân chủ như thông qua bầu cử; hoặc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, tích lũy khối lượng tài sản khổng lồ mà những người dân thường không thể nào có được” (Wikipedia).

Trong giới “Thái Tử Ðảng” nhiều người được đi du học tại Mỹ, Anh, Úc... và sau khi học về đã chỗ đứng ngon lành dọn sẵn.

Tuy nhiên không phải tất cả con cháu các nhà lãnh đạo đều là “Thái Tử Ðảng,” điều này phụ thuộc vào cơ hội, khả năng và tham vọng của bản thân. Nhiều “thái tử” lắm tiền, ăn chơi hoang túng, sa vào rượu chè, nghiện hút, gái, chẳng làm nên công cán gì. Ví dụ như Nguyễn Ðức Quang (Quang Béo), con trai cựu Cục Phó Tổng Cục An Ninh, giám đốc Công an Hà Nội Nguyễn Ðức Nhanh, hay Nguyễn Khánh Trọng, con trai cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Công An Nguyễn Khánh Toàn.

Trong guồng máy quyền lực hiện nay, giới “Thái Tử Ðảng” khá đông, xin được kể ra một số có “máu mặt.”

Cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn có hai vợ, nhiều con, nhưng đáng chú ý có hai người.

Một, Lê Kiên Thành (sinh 1955), kỹ sư hàng không tại Liên Xô, hiện là chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị (HÐQT) Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Và Phát Triển Ðô Thị; chủ tịch HÐQT Công ty Cổ Phần Chế Biến Thực Phẩm Thái Minh; chủ một sân golf và là phó Chủ tịch thường trực Hội Golf Việt Nam, là thành viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.

Thứ hai, con út Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải Quan TP. Hồ Chí Minh (từ tháng 12 năm 2007), hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh II, Bộ Công An.

Cố Ðại Tướng Nguyễn Chí Thanh có con trai út là Nguyễn Chí Vịnh, thượng tướng, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, một người được cho là có quyền lực bao trùm, trên cả bộ trưởng Phùng Quang Thanh. Nguyễn Chí Vịnh thuở thanh thiếu niên học dốt, chơi bời, hay ăn cắp vặt, nhưng vẫn được châm chước, lên như diều gặp gió, mặc dù khi phong chức hay cơ cấu vào ủy viên Trung Ương Ðảng đã có phản ứng của các sĩ quan trong Bộ Quốc Phòng.

Vợ của Nguyễn Chí Vịnh là con gái Trung tướng Ðặng Vũ Chính, tức Ðặng Văn Trung, cựu tổng cục trưởng Tổng Cục 2 thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam (từ năm 1994 đến năm 2002). Vũ Chính đã “chuyển giao” thành công quyền lực cho con rể trong Tổng Cục 2, có lúc được xem là “nhà nước trong một nhà nước,” khiến Nguyễn Chí Vịnh tạo được thế đứng vững chắc. Nguyễn Chí Vịnh có ba con, một đi du học ở Úc, một đi Nga và một đi Trung Quốc.

Nguyễn Văn Bình, thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, được xem là trung tâm chi phối các nhóm lợi ích hiện nay ở thượng tầng. Nguyễn Văn Bình học toán ở Liên Xô cũ, con ông Nguyễn Văn Chuẩn, cựu tổng Giám Ðốc Ngân Hàng Quốc Gia, tức tương đương chức Thống Ðốc bây giờ.

Anh ruột của Nguyễn Văn Bình là Nguyễn Văn Thành. Thành lấy con gái ông Lê Quang Ðạo, Trung tướng, cựu chủ tịch quốc hội, là Nguyễn Nguyệt Tĩnh, một “soái” thành đạt ở Ba Lan làm ăn nhiều với thị trường Liên Xô. Con trai của Lê Quang Ðạo là Thiếu Tướng Nguyễn Quang Bắc. Vì thế Nguyễn Văn Bình có cả mối quan hệ lợi ích dây mơ rễ má với các tướng lĩnh quân đội.

Tô Huy Vũ con trai trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa hiện là Vụ phó của Ngân Hàng Nhà Nước.

Lê Minh Hưng, con trai cố bộ trưởng Công An Lê Minh Hương là phó thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước.

Tướng Tô Lâm, thứ trưởng Bộ Công An là con trai ông Tô Quyền, cựu cục trưởng Cảnh Sát Giao Thông, cựu giám đốc Công An Hải Hưng. Tô Lâm sinh năm 1957, được cho là người giải cứu vụ Vinashine cho Nguyễn Tấn Dũng, một nhân vật đầy quyền uy. Tô Lâm được Tướng Nguyễn Văn Hưởng trực tiếp nâng đỡ kéo lên từ vị trí cục trưởng lên tổng cục trưởng rồi thứ trưởng Bộ Công An chỉ trong vòng mấy năm!

Tô Lâm khôn ngoan, thường nhận con cháu lãnh đạo cấp cao về đơn vị mình để tạo ơn nghĩa, vây cánh. Phan Minh Hoàn (Hoàn Ty), con cựu Thủ Tướng Phan Văn Khải; Trần Quốc Liêm, em vợ Nguyễn Tấn Dũng, hay con trai giám đốc Công An Tuyên Quang; con trai giám đốc Công An Ninh Bình đều làm việc dưới trướng Tô Lâm.

Thiếu Tướng Nguyễn Ðức Chung (Chung con), giám đốc Công An Hà Nội, là con nuôi của Lê Hồng Anh, thường trực Ban Bí Thư.

Nguyễn Hoàng Linh, sinh năm 1971, là cục phó thuộc Tổng Cục Tình Báo (Tổng Cục 5), con trai tướng công an Nguyễn Văn Hưởng, một người cho lúc về hưu đã có ảnh hưởng lớn đến Nguyễn Tấn Dũng, quyền hành mênh mông, khuynh loát mọi quan hệ làm ăn lớn.

Phùng Quang Hải, trung tá, giám đốc Tổng Công Ty 319 thuộc Bộ Quốc Phòng, con trai của bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh. Phùng Quang Hải đang cùng với Nguyễn Thanh Phượng, con gái Nguyễn Tấn Dũng, điều hành môi giới mua bán vũ khí cho quân đội, một sân chơi rất hẹp mà chỉ “Thái Tử Ðảng” nặng ký mới vào được.

Con trai của Lê Ðức Anh, cựu chủ tịch nước, Lê Mạnh Hà, là phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh.

Trong giới “Thái Tử Ðảng” hiện nay, có lẽ Nguyễn Thanh Nghị, con thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, được quan tâm nhất.

Ông Nghị, sinh năm 1977, con trai cả của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, từng theo học tại Ðại học Kiến Trúc trong nước, sau đó đi du học tại Mỹ.

Năm 2011, tại Ðại Hội Ðảng Cộng Sản Việt Nam XI, tuy không được đại hội đảng từ cơ sở đề cử lên, song Nguyễn Tấn Dũng đã mặc cả với Nguyễn Văn Chi, ủy viên Bộ Chính Trị, chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương, kéo con trai vào danh sách do đại hội toàn quốc đề cử. Nghị được bầu làm ủy viên Dự Khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương, cùng với con trai của Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh, hiện là phó Bí Thư Thành Ủy, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP. Ðà Nẵng.

Ngày 11 tháng 11 năm 2011, Nghị được “bổ nhiệm” làm thứ trưởng Bộ Xây Dựng, phụ trách kiến trúc và quy hoạch thay cho Thứ Trưởng Nguyễn Ðình Toàn.

Tháng 3 năm 2014, Nghị được Bộ Chính Trị cử giữ chức phó bí thư Tỉnh Ủy tỉnh Kiên Giang, nơi Nguyễn Tấn Dũng từng làm phó bí thư, rồi bí thư Tỉnh Ủy và chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân. Nghị cũng kiêm giữ chức phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh từ ngày 28 tháng 3 năm 2014.

Nghị được cha phân công chỉ đạo đầu tư phát triển đảo Phú Quốc, vùng đất mà gia đình Nguyễn Tấn Dũng đã đầu tư khá nhiều. Nghị được giao chuẩn bị đề án “Ðặc Khu Hành Chính Kinh Tế Phú Quốc,” với tham vọng biến hòn đảo này thành một trong ba đặc khu kinh tế lớn nhất của Việt Nam.

Thế nhưng, vừa qua thủ tướng có quyết định rút ông Nghị khỏi tổ công tác về phát triển đảo Phú Quốc và đồng ý để bà Phan Thị Mỹ Linh, thứ trưởng Bộ Xây Dựng, thay Nguyễn Thanh Nghị.

Trong khi đó, con trai út của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận quyết định “đi đào tạo thực tế ở cơ sở” tại tỉnh Bình Ðịnh và làm phó bí thư Tỉnh Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Bình Ðịnh nhiệm kỳ 2013-2017 củng cố bậc thang đi lên danh vọng.

Rõ ràng có sự lúng túng của Nguyễn Tấn Dũng trong việc sắp đặt chỗ ngồi cho con trai lớn, nhưng có lẽ Dũng quyết chọn bài đi từ cơ sở. Nếu vào ủy viên chính thức ở Ðại Hội Ðảng XII, chức bí thư tỉnh sẽ trong tầm tay và từ bí thư Tỉnh Ủy ra trung ương đảm nhận vai trò cao hơn mặc nhiên thuận lợi.

Nhiều người cho rằng giới “Thái Tử Ðảng” có học, sẽ là hy vọng cho những cải cách tương lai hướng về thể chế dân chủ. Tôi thì không tin. Loại này cơ hội và láu cá hơn thế hệ trước nhiều. Một tay trí thức lưu manh còn nguy hiểm hơn một lão nông dân ngu dốt. Kim Jong Un ở Bắc Triều Tiên hay Assad ở Syria là những tấm gương nhãn tiền.

Tóm lại, thế hệ trước, những ông nông dân vô học đi làm cách mạng, sau khi cướp được chính quyền leo lên ghế lãnh đạo, đã chuẩn bị sẵn một tương lai cho con cháu, đôn nhau vào những vị trí ngồi mát ăn bát vàng, vừa để duy trì chế độ, vừa bảo vệ tài sản kiếm được. Một guồng máy cai trị mà sự tiếp nối giống như chế độ phong kiến cha truyền con nối, chỉ khác về hình thức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét