Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

Chủng tộc, tôn giáo, hay giai cấp? - Dân chủ và Phát triển

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Dân chủ và Phát triển

Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA

000_Hkg9227925-305.jpg
Hình minh họa chụp tại TPHCM hồi tháng 11 năm 2013.  -AFP
Từ mấy năm qua, dư luận chứng kiến một nghịch lý tại nhiều nơi, như Miến Điện, Thái Lan hay Trung Quốc về mối quan hệ giữa hai phạm trù dân chủ và phát triển với một kết luận được nhiều người cho là chân lý. Đó là dân chủ chưa chắc đã có lợi cho phát triển kinh tế, ít ra tại các nước chưa qua giai đoạn công nghiệp hóa như nhưng các nước Tây phương. Mục Diễn đàn Kinh tế lần lượt phản bác “chân lý” đó qua phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây cùng chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Chuyển hóa không dễ dàng

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, hôm Thứ Hai đầu tuần, Liên hiệp Âu châu quyết định hạn chế mối quan hệ với Thái Lan sau cuộc đảo chính của quân đội vào tháng trước. Dường như là nền quân chủ lập hiến theo thể chế dân chủ của Thái đang có vấn đề với hai cuộc đảo chính, vào Tháng Chín năm 2006 và Tháng Năm năm 2014, xen kẽ là hai cuộc bầu cử và nhiều năm hỗn loạn. Cùng giai đoạn ấy, xứ lân bang là Miến Điện cố chuyển hóa từ chế độ độc tài quân phiệt qua chế độ dân chủ mà chưa có kết quả sau ba năm vẫn đầy bất ổn. Trong khi đó, một xứ ai cũng nói là độc tài, kể cả người dân tại đặc khu kinh tế Hong Kong, là Trung Quốc lại có tiến triển vượt bậc về kinh tế. Khi thế giới bị khủng hoảng và Miến Điện bắt đầu thay đổi thì kinh tế Trung Quốc qua mặt kinh tế Nhật Bản, đến nay thì chuẩn bị vượt Mỹ để là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thưa ông, chúng tôi nhắc lại bối cảnh quốc tế vừa qua để hỏi ông một câu, rằng nền dân chủ có ích lợi gì cho kinh tế không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đây là đề tài có thể giúp ta nhìn lại Việt Nam, với hai điều kiện. Thứ nhất, về không gian thì hoàn cảnh mỗi nước mỗi khác nên ta cần thận trọng khi so sánh. Thứ hai, về thời gian thì nền dân chủ không là loại cỏ cứ gieo là mọc nên ta cần tính bằng nhiều thập niên.
Kết luận của tôi là dân chủ có ích cho kinh tế mà không là sự chuyển hóa dễ dàng.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Tôi xin nhấn mạnh tới nhận thức sai của nhiều người ở phương Tây về ưu thế của chế độ độc tài Á Châu trong công cuộc phát triển quốc gia. Người ta cứ ngợi ca thành tích Trung Quốc sau ba chục năm cải cách kinh tế, xen kẽ với nhiều vụ tàn sát và đàn áp chính trị, trong khi nóng ruột đợi phép lạ của Miến Điện sau có ba năm chuyển hóa. Kết luận của tôi là dân chủ có ích cho kinh tế mà không là sự chuyển hóa dễ dàng. Những gì xảy ra tại Bắc Phi sau mùa Xuân Á Rập cách nay ba năm có thể cho thấy khó khăn của sự chuyển hóa, nhưng chẳng vì vậy mà mình nên duy trì chế độ độc tài.
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ khởi đi từ đó và xin đề nghị ông lần lượt giải thích cho ưu điểm của nền dân chủ cho công cuộc phát triển kinh tế sau khi trả lời cho một câu hỏi vì ông vừa nhắc đến. Tại sao nhiều người ở các nước dân chủ Tây phương lại cho rằng chế độ độc tài Á Châu hay tại nơi khác nữa lại có lợi cho công cuộc phát triển?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nhắc đến hiện tượng này là để cảnh báo thính giả của chúng ta tại Việt Nam là đừng nên hiểu lầm mà mang họa.
Tại các nước dân chủ Âu-Mỹ, giới trí thức thiên tả thường cho rằng nhà nước nên can thiệp vào kinh tế để điều tiết thị trường và bảo vệ lẽ công bằng xã hội. Nếu sống trong các xã hội này thì ta hiểu ra và chấp nhận điều ấy vì xứ sở đã có quyền tự do nên tranh luận về mức độ can thiệp của nhà nước để nâng cao phẩm chất của cuộc sống ở nơi ấy. Nhưng trí thức Tây phương trở thành duy ý chí khi cho là chế độ độc tài lại có ưu điểm là lấy quyết định sáng suốt và mau lẹ về phân bố tài nguyên quốc gia. Thí dụ được họ hay nêu ra là thành tích tăng trưởng của Trung Quốc.

000_Hkg9637658-250.jpg
Ảnh chụp tại Hà Nội hôm 24/03/2014. AFP PHOTO.

Cũng các nước dân chủ lại có một thành phần chuyên gia kinh tế hay tư tưởng xã hội xuất thân từ các nước nghèo. Họ đưa ra một quan điểm khác trong các đại học hay trung tâm nghiên cứu Âu-Mỹ. Đó là nền dân chủ vẫn có lợi nhất cho công cuộc phát triển. Lý do là vì họ đã sống trong thực tế lạc hậu và ý thức được cái giá của nạn độc tài mà giới trí thức sinh đẻ ở phương Tây không biết, nên mới cứ đề cao vai trò can thiệp của nhà nước trong các quốc gia đang phát triển.
Vũ Hoàng: Sau khi ông cảnh báo về hoàn cảnh khác biệt ở hai nơi, ta sẽ bắt đầu vào đề. Thưa ông, dân chủ là gì mà có lợi cho công cuộc phát triển hơn chế độc tài?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu thính giả để ý thì đã thấy là từ cả chục năm nay, tiết mục chuyên đề của chúng ta không đề cao dân chủ như một lý tưởng xa vời mà thần diệu như một khẩu hiệu sách động.
Trả lời cho câu hỏi “dân chủ là gì” thì thật vô ích nếu nói “dân chủ là thể chế chính trị đảm bảo quyền bình đẳng của mọi người dân trước hệ thống luật pháp do người dân góp phần xây dựng”. Định nghĩa có vẻ trừu tượng ấy thật ra lại xa vời trước mối quan tâm thiết thực của nhiều người về sinh hoạt kinh tế. Vì thế, tôi xin nói về nội dung cụ thể của dân chủ.

“Không ai có độc quyền chân lý”

Vũ Hoàng: Như vậy, ta đi vào nội dung cụ thể đó. Thưa ông, dân chủ bao hàm những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, một xã hội chỉ có dân chủ khi được cởi mở tư tưởng.
Cởi mở là “không ai có độc quyền chân lý”, tức là đưa ra một định nghĩa mà cả nước phải nghe. Tôi không nói đến chân lý “bốn tốt” và “16 chữ vàng” trong quan hệ mờ ám giữa Việt Nam và Trung Quốc mà người dân Việt phải tuân thủ. Đấy là một hình thái độc quyền chân lý, tất nhiên là cản trở dân chủ mà còn dẫn tới nạn lệ thuộc kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc. Tôi xin nhắc đến một định nghĩa khác của một người có thẩm quyền.
Ông ta tốt nghiệp đại học, từng là Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương Bắc Kinh, hiện là Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Trung Quốc. Đấy là một chuyên gia kinh tế, Trung ương Ủy viên, con trai một lão đồng chí của Mao Trạch Đông là Trần Vân. Ông Trần Nguyên này phát biểu như sau, tôi xin trích nguyên văn: “Chúng ta là đảng Cộng sản và sẽ quyết định rằng chủ nghĩa cộng sản là gì.”
Khi một đảng viên cao cấp mà nêu ra một chân lý như vậy thì đảng cũng có quyền định nghĩa về đà tăng trưởng, về quyền làm chủ tập thể hay về phát triển kinh tế. Với tình trạng độc quyền chân lý này thì chẳng có dân chủ mà phát triển cũng chỉ là chuyện ảo. Đó là nội hàm thứ nhất và điều kiện cần thiết của dân chủ: phải có cởi mở tư tưởng và giải trừ tình trạng độc quyền chân lý.
Vũ Hoàng: Như vậy, thưa ông, nếu có cởi mở tư tưởng thì phải có tự do thông tin và thị trường mới có dữ kiện vô tư và khả tín để lấy quyết định về kinh tế hay kinh doanh. Có phải vậy không?
Cởi mở là “không ai có độc quyền chân lý”, tức là đưa ra một định nghĩa mà cả nước phải nghe.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đúng như vậy mà còn phải hơn vậy.
Từ địa hạt tư tưởng đến pháp lý thì nền dân chủ phải đảm bảo được các quyền “tự do dân sự”. Phạm trù này là chuyện tự nhiên trong các nền dân chủ mà không hiển nhiên cho những ai sống quá lâu trong chế độ độc tài. Khái niệm “tự do dân sự” có nghĩa là người dân phải có tự do mà nhà nước không thể hạn chế dù bằng luật lệ. Quyền tự do của người dân mang ý nghĩa đối lập với nhà nước và phải hạn chế quyền lực của nhà nước. Trong các quốc gia dân chủ thì nhà nước chỉ được làm những gì mà dân cho phép, trong khi người dân được quyền xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tồn tại song song với nhà nước, để giải quyết yêu cầu thực tế của người dân.
Từ khái niệm tự do dân sự, ta mới có xã hội dân sự và các tổ chức hay hiệp hội của người dân để giúp dân. Vì thế, tự do dân sự mở ra tự do thông tin, tự do nghiệp đoàn, tự do giáo dục và đào tạo hay các cơ quan ngoài chính phủ có chức năng yểm trợ phát triển. Một thí dụ là Bộ Kế hoạch hay Ngân hàng Nhà nước mà muốn ban bố chính sách kinh tế hay tài chính thì phải tham khảo ý dân hay khảo sát thị trường qua các hiệp hội tư nhân, từ công đoàn đến phòng thương mại, nhờ vậy mà tránh được sai lầm hay liều thuốc đổ bệnh. Nói vắn tắt thì vì có sự giám sát và phản ứng thường trực của xã hội dân sự, quốc gia dễ tránh được chính sách sai lầm. Điếu ấy có lợi cho phát triển.
Vũ Hoàng: Thế còn những định chế mà người ta thường nói là cần thiết cho phát triển, như quyền tư hữu, quyền đầu tư và kinh doanh của tư nhân?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Những chuyện ấy dĩ nhiên cần thiết, nhưng chỉ xuất hiện và tồn tại sau khi đã có cởi mở về tư tưởng và tự do về dân quyền. Nếu nhà nước giữ độc quyền chân lý về phương hướng đổi mới và nói rằng các thành phần kinh tế đều có quyền hạn như nhau mà thực tế pháp lý lại thu hẹp quyền tư doanh hoặc đề cao chế độ công hữu thì quyền tư hữu hay tự do kinh tế trở thành vô nghĩa. Cũng từ tình trạng yếu kém về định chế này, nhà nước có toàn quyền quyết định về chính sách đầu tư hay tín dụng, chỉ nâng đỡ khu vực quốc doanh và tạo điều kiện cho tay chân nhà nước trục lợi. Đấy là liều thuốc dẫn tới tệ đầu cơ, tham nhũng, ô nhiễm môi sinh, bất công xã hội và tăng trưởng thiếu quân bình. Về dài thì dẫn tới khủng hoảng.
Vũ Hoàng: Ông nói “về dài”, tức là trở lại khái niệm thời gian. Xin ông giải thích thêm cho rõ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin đi dần vào kết luận vì thời lượng của chúng ta có hạn.
Người ta nghiệm thấy trong các nước đang phát triển thì xứ nào có mức tự do và dân chủ cao hơn thì cũng có trình độ tăng trưởng khá hơn và sau nhiều thập niên thì trở thành một nước đã phát triển. Bên cạnh đó, các nước chuyển hóa từ chế độ độc tài sang dân chủ thì hay gặp dăm bảy năm khó khăn, với đà tăng trưởng giảm sút. Nhưng nếu kiên định theo hướng đó thì xứ sở sẽ có tương lai khá hơn về lượng lẫn phẩm. Thí dụ ở đây là Đài Loan, Nam Hàn, rồi Philippines hay Indonesia. Trường hợp khó khăn này nay của Miến Điện nên được xét trên cái trục thời gian đó.
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, thế còn Việt Nam?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi có những đồng nghiệp là tư vấn kinh tế và tài chính tại Việt Nam lẫn nhiều nước đang cải cách để chuyển hóa, như Miến Điện hay Bangladesh. Họ đánh giá cao tinh thần cầu thị và cải sửa của người dân tại các xứ này trong khi phê phán tinh thần chủ quan tự mãn của Việt Nam. Đó là cái gì cũng làm như biết hết mà chẳng muốn cải cách, chỉ để duy trì đặc quyền và đặc lợi trong hệ thống mờ ám và thiếu trong sáng hiện nay.
Nhận xét của giới tư vấn được thực tế minh chứng khi các ngân hàng và giới đầu tư ngoại quốc đều lặng lẽ rút khỏi thị trường Việt Nam vì thất vọng với nạn thông tin thiếu minh bạch, trì hoãn cải cách và bảo vệ quyền lợi phe nhóm. Đã có kinh nghiệm làm ăn tại xứ độc tài và ít chú ý đến chính trị, họ vẫn coi ổn định chính trị tại Việt Nam chỉ là chuyện ảo! Nếu dám chuyển hóa qua dân chủ thì Việt Nam sẽ có thể phát triển – và ngay trước mắt thì còn bảo vệ được nền độc lập….
Vũ Hoàng: Thay mặt cho quý khán thính giả, xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này.

Chủng tộc, tôn giáo, hay giai cấp?

Ai muốn thấy rõ một sai lầm căn bản Karl Marx đã phạm, cứ theo dõi chuyện đang diễn ra tại xứ Iraq. Marx mở đầu bản Tuyên ngôn Cộng sản bằng lời khẳng định: Lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp. Nhưng lịch sử xứ Iraq đang diễn ra trong mấy năm gần đây, cũng như lịch sử Việt Nam và Trung Quốc từ vài ngàn năm nay, cho thấy những động cơ thúc đẩy lịch sử không phải là đấu tranh giai cấp như Marx tưởng tượng. Hai động cơ mạnh nhất gây ra chiến tranh, thúc đẩy loài người giết nhau trên quy mô tập thể và kéo dài nhiều thế kỷ, là chủng tộc và tôn giáo.

Người Việt Nam sở dĩ kháng cự được làn sóng đồng hóa để bành trướng của văn minh Hán tộc là do tổ tiên chúng ta đã ý thức rằng “mình khác, họ khác.” Người Việt mình nói một ngôn ngữ khác, theo những phong tục tập quán khác, thờ phượng các thần thánh khác họ, cho nên mình phải là một nước độc lập. Những anh hùng như Trưng Nữ Vương, Phùng Hưng, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi chỉ nhân danh tình tự dân tộc mà kêu gọi dân Việt đoàn kết chống Bắc xâm. Quang Trung không kêu gọi giai cấp vô sản Việt Nam vùng lên chống tư bản nhà Thanh; bài hịch xuất quân của ngài nói: Ðánh cho để tóc dài! Ðánh cho để răng đen. Dân Việt thiết tha gìn giữ những tập tục cổ truyền đó, mặc dù nhà Hán, nhà Minh đã tìm cách bắt thay đổi. Cho nên Quang Trung đã thành công, đuổi được giặc nhà Thanh.

Những biến cố ở Iraq cho thấy tôn giáo và chủng tộc là những yếu tố quyết định lịch sử. Năm 2003 quân Mỹ tấn công Iraq lấy cớ là Saddam Hussein đang chế bom nguyên tử, đe dọa thế giới và nước Mỹ, và nhà độc tài này quan hệ mật thiết với tổ chức khủng bố al-Qaeda, thủ phạm vụ tàn sát ngày 11 tháng 9 năm 2001. Chính quyền Mỹ bắt, xử tử Hussein rồi, tuyên bố họ sẽ giúp xây dựng một xứ Iraq theo chế độ dân chủ tự do, chia đều quyền lợi cho các nhóm dân. Với quân đội Mỹ giúp bảo vệ an ninh, với viện trợ kinh tế của nước Mỹ giầu có, người ta nghĩ sẽ thực hiện được giấc mơ đó. Chế độ mới sẽ được dùng làm mẫu cho công cuộc dân chủ hóa toàn thể vùng Trung Ðông, một giấc mơ còn lớn hơn nữa.

Sau gần 12 năm, hai giấc mơ này đều tan vỡ. Dân chúng Mỹ chưa bao giờ chấp nhận tham dự một cuộc chiến tranh kéo dài quá mấy năm. Trong Ðại Chiến Thứ Nhất (1914-18) và Thứ Hai (1939-45), nước Mỹ chỉ tham dự vào hai năm chót. Chiến tranh Cao Ly dài 3 năm; Mỹ đưa quân đội tới Việt Nam năm 1964, đến 1968 đã thấy kéo dài quá, tính đường rút đi rồi. Nước Mỹ không có kinh nghiệm của một đế quốc như Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, chiếm đóng xứ khác rồi cai trị theo một chương trình lâu dài, vô giới hạn. Sớm muộn, quân Mỹ cũng rút khỏi Iraq.

Nhưng lịch sử xứ Iraq không do người Mỹ quyết định. Nói cách khác, chính quyền Mỹ, hay chính quyền bất cứ cường quốc nào khác, không thể quyết định thay đổi lịch sử của miền đất gọi là Iraq, trong đó có nhiều sắc dân và nhiều tôn giáo phức hợp sống bên cạnh nhau mà không sống chung với nhau. Càng không thể quyết định một nền nếp sống theo chủng tộc và tôn giáo đã kéo dài hàng ngàn năm trong vùng đất kéo dài từ bờ phía Ðông Ðịa Trung Hải sang tới đồng bằng Punjab thuộc nước Pakistan. Chủng tộc và tôn giáo quyết định các diễn biến lịch sử của cả vùng này. Riêng trong xứ Iraq, người theo Hồi Giáo đã chia ra hai phái Sunni và Shi A từ hơn ngàn năm.

Saddam Hussein thuộc thiểu số người theo phái Sunni đã cai trị nước Iraq nhờ bạo lực. Trong nước này 60% dân số theo phái Shi A, và 20% là người Kurds. Hussein đã hai lần gây chiến với Iran, một nước đa số dân theo phái Shi A. Ngược lại, trong nước Syria, chính quyền của cha con ông Assad thuộc một nhóm Shi Ai thiểu số cai trị một nước đa số theo phái Sunni, với nhiều sắc dân khác nhau. Người Sunni ở Iraq và Syria gần gũi nhau hơn là gần những người cùng một nước nhưng theo giáo phái khác. Dân tộc Kurd đã chịu số phận chia năm xẻ bảy, chưa bao giờ lập được một quốc gia và phải đóng vai người thiểu số trong các nước Iran, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và một số nước khác.

Gần đây, khi dân Sunnis ở Syria nổi lên đòi lật đổ Bashar al-Assad, thì những người Iraq theo phái Sunni cũng hợp tác, tạo thành một lực lượng với dự án thành lập một quốc gia mới, Ðại quốc Iraq và Syria Hồi Giáo (Islamic State of Iraq and Greater Syria - ISIS). Các nước Á Rập, Hồi Giáo như Saudi, Jordan giúp ISIS, nhưng chính phủ Mỹ không muốn giúp vì trong nhóm này có các cán bộ al-Qaeda. Trong mấy tuần qua, quân ISIS tấn công, chiếm mấy thành phố lớn, quân đội của chính phủ Iraq chạy như vịt. Trong vùng do ISIS chiếm đóng, biên giới giữa hai nước Iraq và Syria đã bị xóa, trong thực tế và được cử hành một cách chính thức và long trọng trước các máy truyền hình.

Nước Mỹ đã chi ra 2,000 tỷ đô la trong cuộc chiến và chương trình tái thiết Iraq; trong đó có 25 tỷ để thành lập một đạo quân quốc gia, bao gồm các chủng tộc và các giáo phái. Vì đa số dân Iraq theo phái Shi Ai, chính quyền ở thủ đô Baghdad do người Mỹ lập nên có một ông thủ tướng Shi Ai, Nouri al-Maliki. Malaki thành lập một chính phủ liên hiệp với những người thuộc phái Sunni cũng như người Kurds. Ông ta giao hảo với chính quyền Shi A ở Iran, chính quyền Mỹ chấp nhận. Khi quân Mỹ rút về, Malaki bắt đầu một chính sách loại bỏ những sĩ quan và công chức cao cấp theo phái Sunni. Quân đội mất niềm tin, dân Sunni bất mãn. Vì vậy, trước đạo quân ISIS chỉ có vài ngàn người quyết tử, quân đội Iraq, tổng cộng trên 50,000 không thấy hứng thú kháng cự. Những thành phố đa số dân theo phái Sunni dễ dàng ngả theo ISIS.

Tại thành phố Baiji, quân ISIS chỉ lên tiếng kêu gọi, tất cả lực lượng cảnh sát tự giải tán. Khi chiếm được Mosul, thành phố lớn thứ nhì của Iraq, ISIS chiếm được bao nhiêu triệu đô la trong ngân hàng của chính phủ. Họ cũng trở thành chủ nhân của những vũ khí do Mỹ cung cấp cho quân Iraq. Thành phố Kirkuk được quân Kurd chiếm nên không vào tay ISIS. Người Kurds từ lâu vẫn muốn dùng Kirkuk làm thủ đô một vùng, nếu không phải là một quốc gia, tự trị, một nước Kurdistan. Vùng đất này cũng là nơi tập trung nhiều mỏ dầu lửa. Ngay trong vùng này cũng có nửa triệu người Iraq gốc Thổ Nhĩ Kỳ, mà chính phủ nước Thổ đang lo phải đưa quân sang bảo vệ những người cùng chủng tộc, cùng ngôn ngữ.

Sau khi lãnh tụ bin Laden bị biệt kích Mỹ giết, tàn quân al-Qaeda đã tìm được một chỗ tập họp mới. Lực lượng al-Qaeda trước đây trong thời Hussein không thể xuất hiện tại xứ Iraq, nay xâm nhập các đạo quân của ISIS. Nhưng ngày nay quân khủng bố có gốc gác al-Qaeda đã tổ chức một cuộc đặt bom đánh cả ở phi trường Karachi, nước Pakistan. Osama bin Laden ngày xưa cũng chỉ mơ ước sẽ có lúc đạt được thành tích đó. Trong khi đó, tướng Qassem Suleimani, đứng đầu lực lượng QUDS của Iran đã bay đến thành phố Tal Afar, gần biên thùy Syria. Chính quyền Iran chắc chắn lo quân ISIS với đa số theo phái Sunni có thể tàn sát người đồng đạo Shi A với họ, và phá hoại các địa điểm tôn giáo thiêng liêng của người Shi A.

Trong cố gắng tái lập hòa bình và trật tự lâu dài cho xứ Iraq, Mỹ và Iran bỗng dưng đứng về cùng một phía, chống lại đoàn quân ISIS. Chính phủ Mỹ sẽ phải dùng áp lực viện trợ kinh tế và quân sự để ép các phe ở Iraq ngồi xuống bàn với nhau cách chia sẻ lại quyền hành và các nguồn lợi dầu lửa; không để cho một phe nào lấn áp phe nào. Khi họ tạm thời đoàn kết được, thì quân mới hy vọng ngăn bước tiến của đoàn quân ISIS. Jordan, Á Rập Sau đi sẽ phải giảm bớt số tiền viện trợ cho các đạo quân ISIS, nếu Mỹ làm áp lực. Người Kurds đã có một cơ hội mở rộng quyền kiểm soát vùng đất mà tổ tiên họ đã sống mấy ngàn năm. Biết đâu, trong thế kỷ này nước Kudistan sẽ ra đời?

Lịch sử xứ Iraq đang diễn ra trước mắt vì những xung khắc chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo đã bắt rễ từ hàng ngàn năm. Chắc chắn không phải vì giai cấp nào đấu tranh với giai cấp nào. Ông Karl Marx chỉ đưa ra những lý thuyết hoang tưởng. Các lãnh tụ cộng sản như Stalin, Mao Trạch Ðông đều biết Marx nói sai hết; nhưng họ lợi dụng khẩu hiệu “cách mạng vô sản” của Marx để bành trướng các đế quốc của họ. Giống như các hoàng đế nhà Hán, nhà Ðường dùng khẩu hiệu “Thiên hạ vi công” để mở rộng biên cương.

Người Việt Nam đời xưa không tin ở những khẩu hiệu viển vông đó, cho nên giữ được nền độc lập. Ðến thế kỷ 20 mới có một nhóm người Việt theo Mao Trạch Ðông làm cách mạng toàn thế giới. Ðảng Cộng sản ghi vào cương lĩnh, từ năm 1950, là xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Mao Trạch Ðông.

Họ đặt ra khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội;” ngầm hiểu là yêu cả Mao Trạch Ðông. Họ theo ông Mao, nhân danh đấu tranh giai cấp, giết địa chủ, đánh tư sản, và gây nên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Ðến bây giờ họ mới biết mình mắc bẫy rơi vào vòng lệ thuộc phương Bắc, không thoát ra được.
Ngô Nhân Dụng
Theo Người việt

Bắc Kinh nỗ lực bịt miệng giới truyền thông tranh đấu

Trung Quốc cấm nhà báo lập trang web cá nhân. Trong ảnh là hình nhà báo Cao Du, người bị bắt hồi tháng 4/2014. REUTERS
Trung Quốc cấm nhà báo lập trang web cá nhân. Trong ảnh là hình nhà báo Cao Du, người bị bắt hồi tháng 4/2014. REUTERS

Trọng Thành  -RFI

Về thời sự Châu Á, Libération hôm nay có bài « Trung Quốc, ‘‘bức trường thành câm lặng’’ », ghi nhận tình trạng nhân quyền tiếp tục xấu đi trầm trọng tại nước này, với việc Bắc Kinh có một loạt biện pháp và hành động nhằm gia tăng đàn áp các luật sư, nhà báo, nhà tranh đấu… từ nhiều tuần nay.
Ông Tập Cận Bình, lãnh đạo số một Trung Quốc, là người trực tiếp đưa ra chủ trương này, ông ta đang « nỗ lực dựng lên một bức trường thành để bịt miệng tất cả », như ghi nhận của một phóng viên Trung Quốc xin ẩn danh.

Hồi tuần trước, cơ quan Nhà nước quản lý truyền thông, xuất bản, thuộc Ban Tuyên huấn của đảng Cộng sản Trung Quốc, đã ra chỉ thị cấm các nhà báo thực hiện hay công bố « các nội dung mang tính phê phán » mà không được sự đồng ý của người phụ trách. Nhưng thế nào là « phê phán » thì tài liệu này không cho biết. Bên cạnh đó, người làm truyền thông cũng bị cấm lập trang web cá nhân, phương tiện cho phép họ né tránh kiểm duyệt. Các phóng viên bị đe dọa tước thẻ nhà báo, thậm chí bị « đưa ra tòa, nếu phạm luật ».
Gần đây, Bắc Kinh sử dụng trường hợp các phóng viên ăn hối lộ của một số doanh nghiệp, để mô tả các phóng viên như « kẻ cắp », nhằm bôi xấu báo giới nói chung. Tiếp theo đó, cơ quan tuyên huấn của đảng Cộng sản nhắm thẳng vào một nhà báo nổi tiếng và rất có uy tín, bà Cao Du (Gao Yu), 70 tuổi (nguyên Phó Tổng biên tập Tuần báo Kinh tế học/Economics Weekly). Nhà báo kỳ cựu này đã bị bí mật bắt giữ và hai tuần sau đó, đầu tháng 5, hình ảnh nhà báo Cao Du « tự thú » về tội « phổ biến bí mật quốc gia », được đưa lên truyền hình.
Hồi tháng 5, blogger Zhang Jialong (Trương Cổ Long) bị trang mạng Tencent (Đằng Tấn) sa thải, vì tham gia vào nhóm bốn blogger gặp Ngoại trưởng Mỹ. Trong buổi gặp này, ông Trương Cổ Long đã yêu cầu Hoa Kỳ giúp người Trung Quốc « hạ bỏ bức trường thành kiểm duyệt ».
Theo ghi nhận của Libération, nhiều nhà báo Trung Quốc đã phải từ bỏ công việc trong bối cảnh đàn áp này. « Tương lai của Đảng và của đất nước phụ thuộc một phần lớn vào cuộc chiến chống lại sự thâm nhập của tư tưởng Tây phương », đó là một nhận định trên « Nhân dân nhật báo », tờ báo chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc, số ra cuối tháng 5. Thực tế này cho thấy Trung Quốc – vốn xếp thứ 175, bên cạnh các nước như Erythée và Syria, theo bảng xếp hạng tự do báo chí của Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF) – có thể sẽ tiếp tục bị tụt hạng.
Cùng với các nhà báo là giới luật sư. Hồi tuần trước, luật sư người Quảng Đông Đường Kinh Lăng (Tang Jingling), nổi tiếng về các hoạt động bảo vệ nhân quyền, bị cáo buộc « âm mưu lật đổ nhà nước ». Báo Libération cũng nhắc đến luật sư Phổ Chí Cường, thành viên phong trào Công dân mới, bị kết án 4 năm tù.
Để khống chế thông tin từ nguồn, hồi tuần trước, đảng Cộng sản Trung Quốc lưu hành một dự thảo chỉ thị cấm các luật sư thu hút sự chú ý của công luận đến các vụ án mà họ tham gia bào chữa, qua việc sử dụng internet hay truyền thông. Cụ thể là các luật sư bị cấm công bố thư ngỏ, « đưa ra các bình luận sai », hay « khuyến khích biểu tình », « gây áp lực lên các thẩm phán »… Dự thảo này hiện còn chưa được Tổ chức các luật sư chấp thuận, và bị nhiều phê phán quyết liệt ngay trong nội bộ tổ chức này.
Nhà nước Thánh chiến Hồi giáo Cận Đông : Phương Tây có phản ứng chậm trễ ?
Về Cận đông, nguy cơ sụp đổ của nhà nước Irak đang đến gần, nhưng không chỉ có vậy. Xã luận Libération mô tả đà tấn công của tổ chức « Nhà nước Hồi giáo Irak và Trung Đông », không chỉ nhắm vào Bagdad, mà cả Syria và Jordani.
Theo Libération, không còn có thể coi đây là nội chiến, hay đụng độ giữa các quốc gia, mà là một chiến dịch tấn công vào cộng đồng những người theo hệ phái Hồi giáo Shia, cuộc chiến cũng làm đảo lộn các đường biên giới tại khu vực Trung Đông. Càng để chậm ngày nào, sẽ càng khó ngăn chặn đà tiến của lực lượng này. Các chiến thắng của « Nhà nước Hồi giáo Irak và Trung Đông » khiến các tân binh của lực lượng này hết sức phấn khích, thêm vào đó, nhiều vũ khí, khí tài hiện đại và hàng trăm triệu đô la đã lọt vào tay quân nổi dậy. Libération chê trách phản ứng chậm trễ của Phương Tây. « Các nước Phương Tây đã bị mất tin cậy tại khu vực này, đến mức người ta khó tin rằng còn một cơ hội để hành động », Libération tỏ ra rất bi quan.
Bài « Cuộc tiến công của lực lượng thánh chiến tại miền Tây Irak đặt Jordani dưới áp lực » của Le Monde mô tả « tài nghệ » của « Nhà nước Hồi giáo Irak và Trung Đông » trong cuộc chiến tâm lý. Một đoạn video được đưa lên mạng hồi cuối tháng 4/2014, cho thấy hình ảnh của một chiến binh Hồi giáo trẻ, mang thắt lưng thuốc nổ, vừa xé một hộ chiếu Jordani vứt vào lửa, vừa đe dọa tấn công Jordani. Trong những ngày gần đây đoạn video này lại làm nóng mạng internet, khi quân nổi dậy đã chiếm được một số địa điểm, chỉ còn cách Jordani chừng 60 km.
Le Monde với bài « Tại Bagdad, John Kerry tìm cách áp đặt một chính phủ liên hiệp », mô tả những nỗ lực ngoại giao quyết liệt của Hoa Kỳ để tìm giải pháp cho tình trạng hỗn loạn này.
Bầu cử Libya trong hỗn loạn : Hy vọng đặt vào tướng Haftar
Còn tại Bắc Phi, báo La Croix chú ý đến cuộc bầu cử Quốc hội ngày hôm nay, cuộc bầu cử được coi là « mang tính quyết định » này diễn ra trong bối cảnh bất ổn khắp nơi, đặc biệt là ở khu vực miền Đông. « Libya : Giữa bùng nổ và chống cách mạng » là tựa đề bài viết chính trong hồ sơ của La Croix.
Đăng ký tham gia vào cuộc bầu chọn 200 nghị sĩ cho Quốc hội mới, chỉ có 1,5 triệu cử tri (trên tổng số 6 triệu dân), thấp hơn nhiều so với con số 2,8 triệu cử tri trong cuộc bầu cử 2012. Theo một nhà chính trị học đại học Lyon 3, việc tổ chức cuộc bầu cử vào thời điểm này là không hợp lý, vì tình trạng an ninh không được bảo đảm, nhiều phòng phiếu bị đóng cửa. Một thành viên của ECFR, Hội đồng Châu Âu về quan hệ quốc tế, dự đoán, số cử tri tham gia tối đa sẽ chỉ ở mức 500.000 người.
Quyết định mới đây chuyển nhà Quốc hội từ thủ đô Tripoli sang Benghazi, thủ phủ miền Đông, có thể coi là một động thái làm dịu bớt những đòi hỏi tự trị của miền Đông.
Hy vọng hiện tại được đặt nhiều vào tướng Khalifa Haftar, người đang tiến hành một chiến dịch tấn công lực lượng Hồi giáo ở miền Nam. Nguyên là tổng tham mưu trưởng quân đội Libya trong những năm 1970-1980, bị Kadfafi không ưa, tướng Haftar sống lưu vong 20 năm tại Mỹ, trước khi trở về nước năm 2011. Viên tướng, xuất thân từ bộ tộc Al-Farjani, được coi là chiếc cầu nối kết hai miền Đông và miền Tây Libya.
Miền Đông Ukraina bị ảnh hưởng chủ nghĩa dân tộc Nga như thế nào ?
Liên quan đến khủng hoảng Ukraina, trong bối cảnh nhiều nỗ lực ngoại giao đang được xúc tiến để hỗ trợ kế hoạch hòa bình của Tổng thống Ukraina, Le Monde có bài đáng chú ý, mô tả sự hình thành của chủ nghĩa dân tộc tại miền đông Ukraina, nơi đang các đụng độ giữa lực lượng ly khai và quân đội chính phủ diễn ra từ hơn 2 tháng nay, qua bài « ‘‘Rousski Mir’’, ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa Kremlin thành hình tại miền đông Ukraina ».
Từ « Rousski Mir » (có nghĩa là « thế giới Nga ») đang thịnh hành, vốn là tên gọi của một quỹ văn hóa Nga thành lập năm 2007. Sau đó, từ ngữ này đã trở thành khái niệm thông dụng, tiêu biểu trong ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa mới, mà Tổng thống Nga đang muốn dựng nên, đặc biệt vào thời điểm tình cảm dân tộc được kích phát cực điểm với việc bán đảo Crimée của Ukraina, bị sáp nhập vào Nga hồi tháng 4/2014. Linh hồn của ý thức hệ mới này là sự phù trợ của đạo Chính thống cho một lợi ích chung của nước Nga, việc tôn trọng « các giá trị truyền thống » (thời kỳ Liên Xô cũng như trước đó) và tôn vinh sự hy sinh quên mình.
Le Monde ghi nhận, chưa bao giờ các thành phần dân tộc chủ nghĩa cực đoan lại được các phương tiện truyền thông Nga chào mời nhiều đến như vậy, qua các cuộc thảo luận truyền hình, chương trình thời sự… Một giảng viên đại học miền Đông Ukrain gần gũi với lãnh đạo tự phong của nước Cộng hòa Donetsk tuyên bố « xấu hổ với một chút máu Ukraina trong huyết mạch, tôi cảm thấy sẽ được thanh tẩy, khi máu của tập đoàn quân sự Kiev rớt xuống ». Người này hy vọng xe tăng Nga tràn qua biên giới, và giải pháp duy nhất cho xung đột hiện nay là tiêu diệt toàn bộ thế lực cầm quyền Ukraina.
Tiết lộ mới của Wikileaks : Đàm phán bí mật giữa 50 quốc gia về một thỏa thuận thương mại mới
Báo l’Humanité dành trang nhất, cùng bài xã luận và hai trang cho hồ sơ những cuộc đàm phán bí mật đe dọa các dịch vụ công trên thế giới. « Thỏa thuận siêu bí mật đe dọa các dịch vụ công thế giới » là tựa đề bài phân tích. Thỏa thuận viết tắt tiếng Anh là TISA (Trade in services agreement), là mục tiêu các đàm phán giữa khoảng 50 quốc gia, Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và khoảng 20 nước khác. 50 quốc gia tham gia đàm phán chiếm 70% tổng lượng giá trị thương mại dịch vụ toàn cầu.
Mặc dù sự tồn tại của các đàm phán này không phải là điều bí mật. Trang web của bộ Ngoại thương Hoa Kỳ có nhiều thông điệp nói về tiến triển của các đàm phán, diễn ra từ hai năm nay tại đại sứ Úc ở Thụy Sĩ. Tuy nhiên, ngày 19/06 vừa qua, Wikileak, trang mạng của Julian Assange, vừa công bố một « tài liệu mật », tức phần phụ lục của hiệp ước, liên quan đến các dịch vụ tài chính.
Tài liệu này được các nước tham gia cam kết giữ bí mật trong vòng 5 năm, sau khi thỏa thuận đạt được, hoặc sau khi đàm phán về thỏa thuận thất bại.
Mục tiêu của tài liệu này, theo bản dịch mà l’Humanité cho biết, là giải phóng các dịch vụ tài chính khỏi các quy định pháp lý, gây khó khăn cho chính quyền các quốc gia tham gia hiệp định muốn thông qua các điều luật cản trở lĩnh vực này. Tài liệu này cũng chủ trương phá hủy sự độc quyền của các quốc gia về phương diện quỹ hưu trí…, tư nhân hóa một loạt các dịch vụ khác như nước, năng lượng, y tế, giao thông…
Tóm lại theo l’Humanité, đối tượng của thỏa thuận này là tấn công vào các hệ thống dịch vụ công, như « hệ thống bảo hiểm xã hội ». Cho đến nay, rất ít báo đưa lại thông tin này.
Trang nhất báo Pháp
Thời sự Cận đông và Bắc Phi chiếm nhiều chú ý của báo Pháp hôm nay. « Syria-Irak : Sự ra đời của ‘‘Jihadistan’’, một nhà nước Hồi giáo » là hàng tựa trang nhất Libération. Báo La Croix chú ý đến « Bầu cử tại nước Libya hỗn loạn ». « Vén màn bí mật : Trái bom làm nổ tung các dịch vụ công trên thế giới » là hàng tít đầu của L’Humanité, liên quan đến các cuộc thương thuyết bí mật về một hiệp định mới về dịch vụ toàn cầu, với sự tham gia của hơn 50 quốc gia.
Le Monde quan tâm đến thời sự Châu Âu với hồ sơ lớn « Hollande-Renzi : cuộc phản công nhắm vào Merkel ». Tòa án Châu Âu hoãn khẩn cấp quyết định của Hội đồng Bảo hiến Pháp, buộc phải duy trì sự sống đối với ông Vincent Lambert, là tựa trang nhất Le Figaro. Cũng liên quan đến nước Pháp, tờ báo kinh tế Les Echos lưu ý « Đà phục hồi chững lại ».

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét