Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

Hư học- hư danh- “hư” cả… cơ chế? - Xử án như thế, nhân dân sẽ mất niềm tin

Hư học- hư danh- “hư” cả… cơ chế?

Không phải chỉ là sự hơn thua nhau trong phát triển kinh tế khoa học kỹ thuật giữa hai quốc gia, mà là ở chỗ này- đó là sự hơn thua nhau cả một tầm thế kỷ, một tầm lịch sử về tư duy.
I - Những ngày này, xã hội xôn xao về vụ việc tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines tham gia đường bay quốc tế Việt Nam- Nhật Bản bị cơ quan cảnh sát điều tra NB bắt giữ vì hành vi vận chuyển quần áo và mỹ phẩm hàng hiệu có nguồn gốc trộm cắp. Không chỉ có tiếp viên này, 01 cơ phó và 04 nữ tiếp viên khác cũng đã bị cảnh sát thẩm vấn và có yêu cầu dẫn độ sang NB để phục vụ công tác điều tra.
Đã đành những vụ việc “người đẹp, việc xấu” như thế, đi một nhẽ. Đằng này, có những chuyện “người tốt, việc tốt” hẳn hoi, cũng phải đối mặt với cơ quan chức năng. Không tin, cứ hỏi anh Nguyễn Văn Thắng (Long Biên- Hà Nội), một người thợ cơ khí, chuyên chế tạo xe chuyên dụng cho người khuyết tật, buôn bán ô tô xe máy.
Đam mê nghiên cứu đã dẫn người thợ máy này đến việc thiết kế chế tạo cả một chiếc máy bay trực thăng cỡ nhỏ. Dù chuyến thử nghiệm thứ 03 thất bại, máy bay bị gẫy cánh, nhưng “thất bại lớn nhất” là niềm đam mê sáng tạo của anh có nguy cơ bị… gãy, trước áp lực của cơ quan chức năng. Khi họ lập biên bản, nghiêm cấm anh không được tiếp tục chế tạo, thử nghiệm.

Anh Nguyễn Văn Thắng không phải trường hợp đầu tiên. Trước đó, ông Nguyễn Quốc Hòa, kỹ sư cơ khí kiêm doanh nhân ở Thái Bình cũng đã chế tạo thành công chiếc tàu ngầm mini. Ngay lập tức báo chí Trung Quốc, báo chí Nga đưa tin. Còn ở trong nước, cũng ngay lập tức, cơ quan chức năng cho biết, nếu ông Nguyễn Quốc Hòa đưa tàu ngầm xuống biển thì sẽ bị… bắt. Bởi chưa có luật nào điều chỉnh loại phương tiện này, do mặt nước thuộc quyền kiểm soát của cảnh sát đường thủy.
Các nhà “khoa học chân đất” VN- những “hai lúa, hai búa” say mê sáng chế, từ lâu không còn là chuyện mới mẻ. Một Hai lúa mới học hết lớp 3 ở Lạng Sơn, chế tạo thành công thuốc trừ sâu bằng thảo dược. Một Hai lúa khác ở An Giang chế tạo thành công máy phun thuốc sâu điều khiển từ xa. Một Hai lúa nữa ở Quảng Bình chế tạo thành công chiếc xe xúc lật gắn ben 180 độ, được giới thầu xây dựng đánh giá cao.. v.v….
Có điều, tất cả những chế tạo ấy rộ lên một dạo rồi chìm nghỉm. Còn bây giờ, những chế tạo mới đây có nguy cơ đối mặt với pháp luật. Trong khi các cơ quan quản lý chuyên môn- các sở khoa học và công nghệ thì dửng dưng đứng ngoài cuộc làm… “quan sát viên”.
Vì thế, xã hội và nhất là những người say mê sáng chế như Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Quốc Hòa, những Hai lúa khác, hẳn rất “tủi thân” trước một thông tin gây chấn động cả thế giới. Đó là chuyện cậu bé Jamie Edwards học Trường Lancashire (Anh), mới 13 tuổi đã trở thành người trẻ nhất trên thế giới chế tạo thành công lò phản ứng hạt nhân. Với sự giúp đỡ đầy tấm lòng của ông Hiệu trưởng Jim Hourigan (Học viện Penwortham) khi ông đồng ý cấp cho Jamie ngân sách 3.350 USD để thực hiện. Được biết, dự án tiếp theo của cậu bé là chế tạo một máy gia tốc hạt thu nhỏ.
Hai câu chuyện của hai quốc gia cách xa nhau ngàn trùng cây số, vô tình trở thành hiện tượng “đối chứng” nhau, và vô tình, gửi thông điệp gì? Đó là một bên, môi trường sống có sự tôn trọng, khuyến khích hết mực giá trị của lao động sáng tạo, cho dù đó là một học sinh mới 13 tuổi. Một bên là nhân danh những quy định khô cứng, lạnh lùng của pháp luật, được thực thi bằng sự nghiêm cẩn cứng nhắc, cộng thêm cả thói thờ ơ, với lý do “chưa có tiền lệ”.
Không phải vô lý khi tác giả Khắc Giang, trong bài viết trên Tuần Việt Nam, ngày 31/3 đã bình: Khoa học phát triển là nhờ những thứ “không có tiền lệ”. Nếu chờ “tiền lệ,” liệu bao giờ loài người mới có ô tô, điện thoại, hay thậm chí là biết được trái đất có hình tròn thay vì hình dẹt? Và cũng cứ nếu cách ứng xử của nước Mỹ cách đây đúng 111 năm, với anh em nhà Wright- những người thử nghiệm đầu tiên về máy bay, như cách ứng xử của các cơ quan chức năng VN với Nguyễn Văn Thắng, thì liệu nhân loại ngày nay có cơ hội được bay trên bầu trời?
Đó là chưa kể, bên cạnh những nguyên tắc phiền toái, những bẻ hành bẻ tỏi của các “nhà khoa học giầy da cổ cồn”, làm thì dở nhưng “chém gió” giỏi, cũng khiến những “nhà khoa học chân đất” nghi ngại, không muốn hợp tác. Đó là chưa kể sự đố kỵ xấu tính của đồng loại đây đó, ngay lập tức đã phê phán sáng chế của tác giả chiếc tàu ngầm mini, với sự kênh kiệu vô lối.
Người viết bỗng nhớ một ví von bi hài mà rất sâu sắc của cố nhà văn Thép Mới: Xã hội ta giống như cái rọ cua. Con cua nào mon men bò được lên miệng rọ, lập tức đã có con cua khác… kéo xuống.
Sinh mệnh sáng tạo của các “con cua” Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Quốc Hòa rồi đây sẽ tiếp tục khỏe mạnh, hay chết yếu?
Chưa có tiền lệ, thì xin hãy “tạo ra tiền lệ” trước khát khao sáng tạo chính đáng của con người. Bởi bạn đọc sẽ nghĩ gì nếu đọc được bài viết này về công nghiệp sáng tạo: VN đang ở đâu trong chuỗi giá trị? (Lao động, ngày 02/04). Theo đó, trong khi ngành công nghiệp sáng tạo ở nhiều nước trên thế giới đóng góp cho GDP từ 7-15% thì tại VN, công nghiệp sáng tạo còn khá mới mẻ, tự phát, chủ yếu là nhập khẩu dây chuyền công nghệ từ các nước.
Mỗi lần VN mở triển lãm trong nước, hoặc gửi sản phẩm đi các triển lãm về thành tựu, sản phẩm kinh tế, ấn tượng ngán ngẩm nhất của người viết là luôn chỉ nhìn thấy “ca khúc”… mây tre đan xuất khẩu- cứ bao năm loanh quanh cho đời mỏi mệt (xin mượn ý của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn). Có lẽ vì thế, mà VN là một nước của tre xanh, biển rộng nhưng đến cây tăm, hạt muối cũng đều phải nhập khẩu? Lỗi tại ai?
Câu chuyện của cậu bé người Anh 13 tuổi và câu chuyện người Việt trưởng thành bị lập biên bản, bắt ngừng chế tạo, thậm chí dọa bắt, không chỉ là cách ứng xử khác biệt một trời một vực của con người với con người. Cũng không phải chỉ là sự hơn thua nhau trong phát triển kinh tế khoa học kỹ thuật giữa hai quốc gia, mà là ở chỗ này- đó là sự hơn thua nhau cả một tầm thế kỷ, một tầm lịch sử về tư duy.
Quốc gia phát triển hay tụt hậu, đạt tới đỉnh cao hay mãi lẹt đẹt không chỉ ở cái ngọn- sự thành công hay thất bại trong nghiên cứu sáng tạo, trong các thành tựu, mà trước hết được quyết định bởi cái gốc- cơ chế quản lý, môi trường xã hội ứng xử với khát vọng sáng tạo đó như thế nào.
**********
II- Cứ cho là những quy định “chưa có tiền lệ” ở xã hội ta khiến các nhà khoa học chân đất buộc phải khoan khoan hò khoan, thì một câu hỏi cần đặt ra. Chức năng nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng trong thực tiễn thuộc “giai tầng” các tiến sĩ. Vậy các TS ở VN đang làm gì?
Theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ, cả nước có 24.300 TS và 101.000 Th.s. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó TS tăng 7%/năm, Th.s tăng 14%/năm. Số liệu thống kê mới nhất của Bộ GD-ĐT, tính đến năm 2013, có 633 TS đang là giảng viên các trường CĐ, 8.519 TS là giảng viên các trường ĐH.
Số GS, TS chúng ta nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới".(VietNamNet, ngày 06/3)
Nhiều nhất và không có là hai định lượng ngành GD nên đỏ mặt.
Nhưng còn lại 15.000 TS đang làm việc ở đâu?
Câu hỏi này chưa được lý giải ngọn ngành.
Thì trước đó có một thông tin trên báo chí mà đọc xong thấy giật mình và rất “ngượng”: Campuchia đã sản xuất được xe ô tô điện tự chế điều khiển bằng smartphone Angkor EV 2014. Trong khi ngành công nghiệp sản xuất ô tô của VN đi trước rất nhiều, nhưng lại tụt hậu rất xa (VietNamNet, ngày 28/02).
Còn tại VN, nhiều dự án đầu tư của các tập đoàn sản xuất ô tô hàng đầu thế giới phải rời bỏ, với lý do họ không thể tìm mua các linh kiện đơn giản như ốc vít, dây điện hay đồ nhựa. Một quốc gia có tới hơn 24000 TS mà các linh kiện đơn giản cũng không thể tìm mua, để đến nỗi từng dự án bỏ ta đi (?)
Xét cho công bằng, đội ngũ này cũng là sản phẩm “tinh hoa” của ngành GD. Nhưng dù có tuổi đời 70 năm, và trải qua các cuộc cải cách, đổi mới, bóng dáng một nền GD hàn lâm, nặng tính lý thuyết vẫn bệ vệ ngự trị… bên đời, trùm lên cung cách tổ chức hoạt động GD và ĐT. Không phải vô lý khi GS Hoàng Tụy đã gọi đích danh đó là nền GD “hư học” (vô bổ, thiếu hiệu quả thực tiễn).
Chả trách không ít đề tài, luận án Ts, Th.s được bảo vệ xong, thì lập tức cũng trèo lên nóc tủ, ngắm gà khỏa thân?
Không ai phủ nhận kết quả và nỗ lực của học sinh VN, trong Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA 2012 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) năm 2013. Theo đó, học sinh VN xếp thứ 17 (môn Toán), đứng thứ 08 (môn Khoa học), và thứ 19 (môn Đọc hiểu) trong số 65 nước tham gia.
Nhưng vì sao càng trưởng thành, người Việt càng tụt hạng trên “bản đồ” trí tuệ thế giới? Theo báo GDVN (ngày 11/12/2013), trong báo cáo Chỉ số Đổi mới toàn cầu năm 2013, do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thực hiện, VN chỉ đứng 76/142 quốc gia được khảo sát. Và dần thụt lùi xuống nửa dưới bảng xếp hạng của thế giới về chỉ số đổi mới/sáng tạo. Nếu năm 2008, VN đứng thứ 65/ 153, năm 2009 là 64/130, năm 2010 tụt xuống 71/132, năm 2011 tăng lên 51/125, thì năm 2012 lại tụt nhanh xuống thứ 76/141 quốc gia. Và lẹt đẹt về các ấn phẩm nghiên cứu khoa học trình làng trên trường quốc tế. Chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/6 của Malaysia, và 1/10 của Singapore.
Oái oăm, GD càng “hư học”, con người lại càng “hư danh”. Cái “hư danh” này nó chi phối ngay cả tư cách nghiên cứu khoa học của không ít người. GS Nguyễn Văn Tuấn, trong một bài viết của mình, đã tổng kết tới 10 điều khó tin trong nghiên cứu khoa học ở VN. Đó là bán dữ liệu, giả tạo dữ liệu, gây áp lực để đứng tên tác giả bài báo, gian dối trong cách đề tên tác giả, đạo văn…v.v..
Tất cả những thủ thuật, mẹo mực gian trá nham nhở ấy để làm gì nếu không phải để con người vươn tới cái danh? Cái danh đây không chỉ là học vị, học hàm, mà còn là “cái ghế”. Cả xã hội hối hả sống theo “hư danh”, sẽ hiểu vì sao Thủ đô HN từng đề xuất hẳn một chiến lược “trí thức hóa” cán bộ quản lý, với mục tiêu 100% cán bộ khối chính quyền diện Thành ủy quản lý có trình độ TS; 100% cán bộ diện UBND TP quản lý có trình độ trên ĐH, trong đó 1/2 có trình độ TS…
Một khi cái ghế cũng cần chụp cái mũ TS, một khi cái “hư danh” còn rất được hâm mộ, thì nghiên cứu khoa học, sáng tạo và ứng dụng thực tiễn- một lao động khổ công- đành … trùm chăn. Đội ngũ hàng vạn TS hối hả làm tất cả mọi việc để có danh, có quyền, có lợi, trừ nghiên cứu, trừ sáng chế, sáng tạo. Thế nên, người ta đã tính được, từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ TS ở VN cao gấp 05 lần Nhật Bản (VietNamNet, ngày 06/3).
Mới đây, trả lời báo Pháp luật t/p HCM, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã cho rằng, cần phải kiên quyết tách rời học vị và địa vị, chức vụ, không nên chỉ nhìn vào bằng cấp mà bổ nhiệm. Chừng nào ở ta chưa chấm dứt được việc bổ nhiệm theo bằng cấp thì chừng đó bệnh “loạn TS” còn có nguy cơ gia tăng và thêm trầm trọng.
Còn GS Nguyễn Đăng Hưng nhìn nhận, VN ta không giống ai: Được bổ nhiệm theo lý lịch thành phần, tín nhiệm theo thân hữu gia tộc rồi mới đi học, học tại chức, học chuyên tu. Trên thực tế là học cho lấy có, đáp ứng yêu cầu hình thức, chẳng thu thập được gì gọi là chuyên môn…
Ông Trần Đức Cảnh, nguyên thành viên Hội đồng Liên trường ĐH vùng Đông Bắc bang Massaschusetts (Mỹ) thẳng thắn, nếu học vị không gắn liền với nhu cầu công việc, làm tăng năng suất và giá trị thì học vị cao có ích lợi gì.
Nhưng thẳng thì thẳng, mà cong vẫn cong. Cái sự cong ấy, lắm khi cũng rất bi hài. Trong xu hướng tinh giản biên chế, cũng có không ít vị chạy đua học vị TS, học hàm GS chỉ để tránh bị… giảm biên chế (Đất Việt, 24/3).
Chỉ còn sáu năm nữa- năm 2020, VN cơ bản sẽ phải trở thành một nước công nghiệp hiện đại, với nền kinh tế tri thức, và vị trí khoa học công nghệ phải là then chốt. Nhưng GD nước Việt vẫn mải mê với cái sự “hư học”, các trí thức nước Việt còn mải mê với “hư danh”, và cũng bởi, cái “hư” của cơ chế quản lý còn khá trầm trọng.
Thì mục tiêu đó, hẳn sẽ giống như câu hát của nhạc sĩ Phan Nhân: Anh đi tìm em, chứ em ở… nơi đâu?
Kỳ Duyên
(Quê choa)

Xử án như thế, nhân dân sẽ mất niềm tin

Sau năm ngày, dư luận đã dấy lên một làn sóng căm phẫn trước một hiện tượng xã hội đang diễn ra ở một TP Tuy Hòa (Phú Yên) vốn xưa nay yên ả.
Chưa bao giờ trên truyền thông đại chúng, trên các trang mạng lại tràn ngập những chính kiến bất bình của các nhà làm luật, các luật sư, thẩm phán, các nhà hoạt động xã hội và của tất cả người có lương tri như thế. Hàng triệu chính kiến bày tỏ sự không tán đồng với mức án mà VKSND TP Tuy Hòa đã đề xuất. Người ta đau đáu trông đợi một bản án công bằng hơn, phải đạo lý hơn, “tâm phục , khẩu phục hơn”.

Nhưng rồi niềm tin đã tan vỡ khi mà tòa án đã phán quyết một bản án mất lòng người, cho dù đã có thay đổi một chút. Nó không phản ánh được đúng bản chất của sự việc mà người ta phải gọi đúng tên của nó là “giết người”, giết đồng loại bởi một tập thể những người sống bằng tiền thuế của người dân.
Họ được nhân dân trao quyền lực và niềm tin để giữ gìn trật tự xã hội. Nhưng họ đã không làm được như nhân dân mong đợi mà lại kết thành một nhóm “đánh hội đồng”, sử dụng vũ khí, sức mạnh của những người trai trẻ và cái quyền của công an nhân dân để giết một người không còn khả năng tự vệ, một người chỉ còn biết van xin trong đau đớn, đói khát và tuyệt vọng.
Phải gọi đúng tên đó là hành động vô nhân tính, hành động không xứng với một con người theo nghĩa giản dị nhất của từ này.
Tôi là một người lính, từng đối mặt với những người lính ở bên kia chiến tuyến. Trước đó, trên chiến tuyến, chúng tôi đã nã đạn vào nhau, đâm lê vào bụng nhau. Nhưng khi ai đó bị sa cơ là tù binh thì chúng tôi (cả hai phía) đối xử với nhau vẫn như những con người (ít nhất là trong trường hợp của tôi và những người lính dưới quyền tôi). Còn ở đây, trong vụ án này, anh Ngô Thanh Kiều là công dân Việt Nam, là đồng bào của năm công an nhân dân. Ấy vậy mà họ lại hành động dã man, vô nhân tính đến rợn người.
Bản án mà tòa vừa tuyên chiều hôm qua (3-4) sẽ hằn sâu vào tâm thức nhân dân. Họ đang thách thức dư luận.
Tôi có một niềm tin chắc chắn rằng Đảng, Chính phủ không hề muốn như thế; những vị lãnh đạo cao nhất của nước ta khi biết đến vụ án này cũng không muốn như thế. Tôi cũng có một niềm tin cộng sản là họ không đồng ý với bản án mất lòng dân như thế.
Giết người mà chịu một bản án nhẹ hều như thế chẳng khác nào một tiền lệ khuyến khích những người công an khác tin rằng cứ vô tư hành xử côn đồ với dân, cứ mạnh dạn xuống tay với dân đi, bất quá chỉ bị năm năm tù, thậm chí chỉ chịu án treo thôi.
Cách nay dăm năm, tôi đã cảnh báo rằng tội phạm đã lờn, họ nghĩ phạm tội sao cũng được, miễn là không bị tử hình, sau đó sẽ sớm ra tù. Chính vì thế, tội phạm ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Một hệ quả khác nghiêm trọng mà xã hội phải gánh chịu từ kiểu xử án như thế này là người dân mất niềm tin vào công lý, không còn tin là xã hội này có “Bao Công” thật.
Bạn có biết ở các nước phương Tây, hình ảnh của vị thần công lý trên tòa án là ai không? Đó là một người phụ nữ bịt mắt, một tay cầm cái cân, một tay cầm kiếm. Bất luận trong trường hợp nào, người cầm cán cân công lý phải là người “nhắm mắt” lại, không chịu sự chỉ đạo, chi phối, xúi bẩy của người khác, bất luận trong trường hợp nào cũng phải giữ cho được cán cân công lý thăng bằng, không bị quyền uy, tiền bạc, lợi ích chi phối. Tay luôn nắm chắc thanh kiếm để trừng trị bất kỳ kẻ nào đi ngược lại với những điều cam kết với nhân dân.
TS NGUYỄN MINH HÒA (*)
(*) TS Nguyễn Minh Hòa hiện là trưởng khoa Đô thị học - Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM.
(PLTP)
 

Vụ xử 5 công an: không có tội “dùng nhục hình”

Trong vụ án này, chỉ có hành vi phạm tội “bắt người trái pháp luật” và hành vi “giết người”; cần phải khởi tố, truy tố và xét xử các bị cáo về hai tội phạm này mới chính xác.
Phiên tòa xử 5 công an đánh chết người xảy ra ở Phú Yên đã khép lại. Bản án sơ thẩm tuyên mức án cao nhất đối với bị cáo đầu vụ Nguyễn Thân Thành Thảo là 5 năm tù…
Bản án gây ngỡ ngàng, xôn xao dư luận…phần lớn không đồng tình với mức án mà VKSND TP Tuy Hòa đề xuất và bản án của Tòa. Nhìn lại vụ án, phải chăng ngay từ đầu, việc truy tố, xét xử không đúng tội danh đã dẫn đến hậu quả dây chuyền như vậy?

Trước hết, dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác.
Hoạt động điều tra chỉ được tính từ sau khi khởi tố. Khi chưa bị khởi tố thì nghi can nằm ngoài vòng tố tụng. Như vậy, tội dùng nhục hình chỉ xảy ra khi và chỉ khi Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt người phạm tội theo đúng quy định của pháp luật.
Hành vi của 5 công an là hành vi tra tấn dã man anh Ngô Thanh Kiều đến chết, nhưng không phải hành vi tra tấn nào của công an cũng cấu thành tội “dùng nhục hình” quy định tại Điều 298 Bộ luật hình sự.
Tội dùng nhục hình quy định tại Điều 298 Bộ luật hình sự là hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Trong trường hợp cụ thể này, hành vi tra tấn anh Kiều đến chết của 5 công an không xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, vì anh Kiều chưa phải là bị can; từ việc bắt anh Kiều không đúng pháp luật; anh Kiều không phạm pháp quả tang, cũng không thuộc trường hợp bắt khẩn cấp; Công an bắt người lúc 3 giờ sáng lại không thuộc trường hợp bắt khẩn cấp hay bắt người phạm tội quả tang là hành vi bắt người trái pháp luật.
Anh Kiều cũng chưa bị khởi tố bị can, nên hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra cũng chưa bị xâm phạm. Chỉ dừng lại ở hành vi này thôi cũng đủ dấu hiệu cấu thành tội bắt người trái pháp luật quy định tại điểm b khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự với tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”.
Giả thiết, sau khi bị bắt anh Kiều quá uất ức mà tự tử thì thuộc trường hợp “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù.
Trong một xã hội dân sự, không thể cứ thấy nghi là phạm tội thì bắt, còn lệnh bắt chỉ là thủ tục giấy tờ, không quan trọng; nói vậy chỉ có ở thời trung cổ, chứ thời nay mà quan niệm như vậy thì không ai nghe được. Nếu cơ quan điều tra bắt sai, lại hợp thức hóa giấy tờ thủ tục thì lại càng sai và hành vi này còn là hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 300 Bộ luật hình sự.
Chỉ được coi là dùng nhục hình khi đã có quyết định khởi tố bị can mà điều tra viên có hành vi tra tấn, đánh đập, bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, canh cặn, không cho ngủ, cùm kẹp, hỏi cung suốt ngày đêm, bắt phơi nắng, bắt tắm nước lạnh vào mùa đông hoặc có hành vi khác gây đau đớn về thể xác và tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam hoặc những người tham gia tố tụng khác.
Trong vụ án này, chỉ có hành vi phạm tội “bắt người trái pháp luật” và hành vi “giết người”, cần phải khởi tố, truy tố và xét xử các bị cáo về hai tội phạm này mới chính xác.
Ngoài việc xác định tội danh không đúng, các cơ quan tiến hành tố tụng ở TP Tuy Hòa còn vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc triệu tập người làm chứng, và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đến tòa để xét hỏi.
Liên quan đế hành vi tra tấn anh Ngô Thanh Kiều, còn có trách nhiệm của ông Lê Đức Hoàn, Phó Trưởng Công an TP Tuy Hòa, người trực tiếp chỉ đạo việc xét hỏi đối với anh Kiều, nhưng không có mặt tại phiên tòa mặc dù tòa án có triệu tập; việc vắng mặt quá nhiều người làm chứng, cũng như việc tranh tụng tại phiên tòa không được thực hiện đúng pháp luật, càng làm cho gia đình người bị hại và dư luận đã bức xúc, càng thêm bất bình hơn.
Đã đến lúc các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Phú Yên và ở Trung ương cần vào cuộc để làm rõ bản chất của vụ án góp phần ổn định tình hình, trả lời thỏa đáng trước công luận.
Đinh Văn Quế
(nguyên Chánh tòa Tòa Hình sự - Tòa án nhân dân tối cao)
(VNN) 

Viết khi nhận giấy mời của công an

21 giờ khuya ngày 2.4.2014, ông công an khu vực đến nhà đưa cho tôi Giấy Mời: 8 giờ 30 ngày 4.4.2014 đến trụ sở công an để “trao đổi liên quan đến một số bài viết”. Giấy mời có hai Liên. Tôi nhận Liên 2 và kí vào Liên 1 để người chuyển Giấy mời mang về trình. Trước khi kí, tôi ghi: Tôi đã nhận. Công an có việc cần trao đổi xin mời đến nhà tôi. Tôi không có việc cần gặp công an.
Không thể hình sự hoá đời sống dân sự
1. Nhà nước của dân, do dân, vì dân là nhà nước phục vụ. Người dân là chủ trả lương, trao quyền hạn và nghĩa vụ cho công chức nhà nước để phục vụ người dân. Nhà nước của dân, do dân, vì dân không phải là nhà nước cai trị coi người dân chỉ là bề tôi, là thần dân, là đám đông bầy đàn và quan chức nhà nước hưởng lương lậu, bổng lộc từ tiền thuế của dân cứ mặc sức dùng chức trách, quyền uy của dân trao để xách nhiễu dân.
Người dân đóng thuế nuôi bộ máy nhà nước là nuôi công bộc để phục vụ dân. Nhưng người dân có việc đến cơ quan nhà nước thì bị công bộc của dân mặt lạnh như kem, khinh khỉnh ra uy hành hạ dân đủ điều, làm khó trăm bề để vòi phong bao. Còn công bộc có việc cần gặp dân thì viết giấy sai người đưa xuống triệu dân lên. Quan chức nhà nước vẫn coi mình như “phụ mẫu chi dân”, như cha mẹ dân của thời quân chủ phong kiến mới hành xử với dân như vậy. Không thể cứ bình thản duy trì mãi một nhà nước xấu xí như một định mệnh bất hạnh của người dân Việt Nam khốn khổ.
2. Những bài viết của tôi thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Những bài viết đó có gì không thuận với chính thống cần nhắc nhở, trao đổi, tranh biện thì đó là việc của cơ quan tuyên giáo, của các nhà lí luận, của hội đồng lí luận, không phải việc của công an.
Vẫn biết công an có cơ quan an ninh văn hóa. Nhưng “Giỏi giang cũng chỉ một nghề / Con phượng thì múa, con nghê thì chầu” (Ca dao). Dù là an ninh văn hóa nhưng vẫn là công an, chỉ có nghiệp vụ công an, không có nghiệp vụ văn hóa, không có thẩm quyền thẩm định văn bản văn hóa. Vì thế khi muốn buộc Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tội Tuyên truyền chống nhà nước, cơ quan công an điều tra vẫn phải đưa những bài báo của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải sang cơ quan văn hóa thẩm định, kết luận. Dù trong nhà nước chuyên chính vô sản, cơ quan văn hóa cũng chỉ thẩm định theo ý muốn của cơ quan công an điều tra mà thôi. Nhưng những văn bản văn hóa phải do cơ quan văn hóa thẩm định đã xác nhận rằng cơ quan công an, dù là an ninh văn hóa cũng không có thẩm quyền thẩm định văn bản văn hóa. Không có thẩm quyền thẩm định, kết luận đúng sai của văn bản văn hóa, chỉ có thẩm quyền và nghiệp vụ công an thì có gì để “trao đổi liên quan đến một số bài viết” của tôi nhỉ!
DSC03707

Hơn nữa, cùng lấy con người làm đối tượng hướng tới, đối tượng quan tâm của công việc nhưng con người của văn chương, của khoa học xã hội nhân văn là con người văn hóa, tâm hồn, con người của chiều sâu tâm lí, tính cách với những buồn vui, đau khổ, vui sướng, day dứt, trăn trở. Còn con người mà công an dồn tâm sức soi xét, giám sát là con người sinh vật, con người hành động, với công an, đó là con người tội phạm.
Chỉ chuyên sâu khám phá, phát hiện mặt trái, mặt tiêu cực của con người sinh vật, con người tội phạm, chỉ thấy những xấu xa, tội lỗi, nguy hiểm của con người sinh vật, công an khó đồng cảm, chia sẻ được với nỗi đau của con người văn hóa, nỗi đau, nỗi trăn trở của những người làm văn chương, những người trân trọng giá trị văn hóa, tâm hồn của con người. Xa cách nhận thức, xa cách cái nhìn về con người như vậy, làm sao có thể “trao đổi” về những bài viết mang nỗi đau, nỗi day dứt về con người, về thế sự nhỉ!
Bệnh nghề nghiệp, thày thuốc chữa bệnh nhìn đâu cũng thấy vi trùng. Luật sư nhìn sự việc nào cũng liên tưởng tới điều luật này, điều luật nọ. Công an nhìn đâu cũng thấy tội phạm và công an luôn đặt mình ở vị trí đối mặt với tội phạm, ra uy trấn áp tội phạm. Mấy năm trước tôi đã một lần làm việc với hai cán bộ của bộ Công an tại trụ sở công an quận Tân Bình và tôi đã trở thành đối tượng của quyền uy trấn áp đó, trở thành tội phạm.
Mở đầu buổi làm việc hai cán bộ bộ Công an đưa cho tôi tập bài viết của tôi được in ra từ trên mạng bảo tôi kí xác nhận đúng là bài viết của tôi. Một việc làm tốn kém tiền bạc của dân, tốn kém công sức, thời gian cũng lại là tiền bạc và hoàn toàn không cần thiết. Các bài viết tôi đều ghi tên rõ ràng, đầy đủ. Suốt mấy năm qua, người đọc đều biết rõ về tôi, cơ quan an ninh văn hóa càng biết rõ hơn, tôi có chối bỏ những bài viết của tôi đâu mà phải tốn tiền in ra, đưa tôi xác nhận. Làm việc với an ninh, tôi không còn thư thái, tĩnh tâm dò từng chữ hơn chục bài viết, có bài hơn chục trang. Với lòng tin vào sự đàng hoàng của cơ quan công an, tôi chỉ nhìn qua tên bài viết rồi kí đại. Kí như vậy là tôi đã nhận phần bất trắc về mình nếu như có gài bẫy trong những bài in lại đó. Nhưng lần sau bị đưa vào tình thế đó, tôi vẫn lại kí đại. Đó là điều không thật sự an toàn đối với tôi.
Với sự cởi mở, vui vẻ của tôi, buổi trao đổi khởi đầu khá nhẹ nhàng, bình đẳng. Nhưng gần cuối buổi, anh cán bộ công an trẻ, có lẽ tuổi chỉ bằng già nửa tuổi của tôi bỗng lấy bộ mặt và giọng nói hình sự căng thẳng trấn áp tôi và yêu cầu tôi không được viết đưa lên mạng buổi làm việc này. Cuộc gặp có hai điều đáng nhắc lại.
. Tôi nhận ra mục đích chủ yếu của cuộc gặp chỉ để công an dằn mặt, nhắc nhở, răn đe tôi, một công dân sử dụng quyền tư do ngôn luận bộc lộ những chính kiến khác biệt với chính thống. Trước đó vài tháng, một công an cấp thành phố và một công an cấp quận đã đến nhà bảo tôi đừng viết bài nữa. Cuộc gặp này không nói thành lời điều đó nhưng bộ mặt hình sự, trấn áp, răn đe đã nói ra điều đó.
. Công dân làm việc với cơ quan công an về những bài viết công khai, hợp pháp trên mạng, không có gì là bí mật quốc gia thì có gì phải giấu nhỉ? Không muốn công khai những cuộc gặp răn đe của công an với công dân nhưng công an lại hào phóng phát đi quá nhiều giấy mời đòi công dân đến đồn công an làm việc. Yêu cầu tôi không được viết là tước đoạt quyền tự do ngôn luận của tôi. Dẫu vậy, để khỏi gây căng thẳng với cơ quan công an, tôi đã không viết lại một sự việc có nhiều điều rất đáng ghi lại về một thời công an trị.
Vâng. Người dân Việt Nam hôm nay đang phải sống trong thời công an trị. Công an lộng hành. Công an kiêu binh. Công an dày đặc trong xã hội. Công an có mặt quá đông trong chính trường. Công an là thường trực ban bí thư, nhân vật thứ hai trong đảng cầm quyền. Công an là Thủ tướng Chính phủ. Công an đứng đầu Chính phủ. Công an đứng đầu nhiều tỉnh, nhiều huyện. Công an đứng đầu Tòa án tối cao, đứng đầu Ủy ban Tôn giáo của Chính phủ.
Không có nghiệp vụ quản trị đất nước. Không có kiến thức hành chính quốc gia. Chỉ có nghiệp vụ trấn áp tội phạm. Nhà nước công an đó nhìn mọi người dân đều là tội phạm và biến xã hội thành một nhà giam lớn. Công an tùy tiện bắt giam người dân lương thiện. Công an lạnh lùng đánh chết dân trong trong trụ sở công an. Đánh chết dân trên đường làng. Đánh chết dân giữa phố đông. Công an đánh nhà báo, đánh dân giữ đất giúp cho nhóm lợi ích bất chính cướp đất của dân. Công an đang gây tội ác chồng chất với dân. Công an đang vay quá nhiều nợ máu của dân. Công an ngang nhiên tước đoạt những quyền con người thông thường cơ bản của người dân. Công an đùng đùng kéo đến bao vây ngăn chặn không cho người dân ra khỏi nhà đi biểu tình chống giặc Tàu xâm lược. Công an tùy tiện thu hộ chiếu, cấm người dân xuất cảnh. Trí thức viết về hiện thực đau buồn của đất nước, phản biện những chủ trương, những việc làm nguy hại cho đất nước của đảng cầm quyền, một việc làm được Hiến pháp và pháp luật cho phép cũng bị công an gọi lên gọi xuống hết năm này sang năm khác. Công an kết cấu thành băng nhóm chia nhau chốt chặn từng cung đường làm luật tống tiền lái xe. Công an làm cả những việc thất đức với người chết mà đám du thủ du thực, ma cô lưu manh ngoài đường phố cùng không dám làm là xông vào cướp băng tang viếng người chết.
Nhà nước công an đang hình sự hóa mọi mặt đời sống của một xã hội dân sự. Bóng công an đè nặng xuống cuộc sống người dân lương thiện. Nhưng những băng nhóm tội phạm cứ nhởn nhơ tồn tại, rầm rộ mang hàng nóng thanh toán nhau náo loạn cả khu dân cư giữa ban ngày thường xuyên diễn ra khắp đất nước giữa thời bình.
Công an nhân danh pháp lật để vi phạm pháp luật
Ông Võ Văn Kiệt, một người cộng sản trung thực hiếm hoi có nhận xét rất đúng rằng: Ngày 30 tháng tư năm 1975 có một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn. Trong xã hội, tình cảm cũng như nhận thức, tư tưởng, chính kiến của con người ngược xuôi, trái chiều nhau là đương nhiên, rất bình thường. Không thể “Bắt tình cảm ngược xuôi / Theo đúng luật đi đường nhà nước”.
Một xã hội độc tài, đảng trị như xã hội Việt Nam có vài chục triệu người yêu đảng Cộng sản, ủng hộ đảng Cộng sản dù yếu kém, tham nhũng thế nào cũng nghiễm nhiên lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt Nam như một định mệnh nghiệt ngã của dân tộc Việt Nam thì cũng sẽ có vài chục triệu người không dành cảm tình cho đảng Cộng sản, không chấp nhận sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản là điều rất bình thường. Người yêu đảng Cộng sản có nhu cầu được nói ra tình yêu đó thì người không chấp nhận dành quyền lãnh đạo đất nước cho đảng Cộng sản cũng có nhu cầu giải tỏa nỗi niềm của mình. Đó là nhu cầu tự nhiên, rất con người, rất chính đáng. Nói ra tình yêu, giải tỏa nỗi niềm bằng ngôn ngữ, bằng tác phẩm nghệ thuật, bằng ngôn luận, bằng báo chí, bằng biểu tình. Nhu cầu rất tự nhiên, rất con người đó được Hiến pháp 2013 bảo đảm ở điều 25: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tư do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình . . . Tôi viết bài giải tỏa những suy nghĩ, chính kiến của mình cũng chỉ là thực hiện cái quyền Hiến pháp trao cho tôi mà thôi.
Hiến pháp 2013 còn có điều 15: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Nhưng người dân sử dụng quyền Hiến pháp trao cho, biểu tình chống giặc Tàu cướp biển Việt Nam, bắn chết dân Việt Nam đã bị lực lượng đông đảo công an cùng côn đồ ngăn chặn, gây rối, đàn áp, hành hung, bắt giam. Công an đã nhiều lần đến chặn cửa nhà tôi không cho tôi đi biểu tình. Viết giấy mời tôi lên trụ sở công an “trao đổi liên quan đến một số bài viết” của tôi cũng nhằm trấn áp, răn đe tôi đừng viết ra những chính kiến của tôi khác biệt với chính thống.
Công an là công cụ bảo vệ pháp luật. Mọi việc làm của công an đều đương nhiên nhân danh pháp luật. Nhân danh pháp luật, công an đã làm nhiều điều trái pháp luật.
Phạm Đình Trọng
(ABS)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét