KIẾN NGHỊ KHẨN từ báo SÀI GÒN TIẾP THỊ gửi CT Quốc hội, CT Nước và một số cơ quan
Đôi lời:
Chúng tôi nhận được bản Kiến nghị này từ một nhà báo, trong Ban chấp
hành Công đoàn, báo Sài Gòn Tiếp thị. Thư được đồng gửi tới một số địa
chỉ khác. Không thấy nơi gửi có Thủ tướng chính phủ.
Để biết thêm vụ việc, mời tham khảo: - UBND TP.HCM trả lời kiến nghị của CBCNV báo Sài Gòn Tiếp Thị , trong “Kiến nghị” này có đoạn cam kết “duy trì hoạt động tờ báo đúng theo tôn chỉ mục đích”. – Chị Hai Thủ tướng, bài
viết của Nhà báo Huy Đức, đăng trên Sài Gòn Tiếp thị, được dư luận cho
là đã gây rất nhiều phiền toái cho bản thân ông và tòa báo. - Một tâm sự ngắn của Huy Đức trên FB Osin (với 57 phản hồi của độc giả): “… nếu
như năm 2009 mình không viết ‘Chị Hai Thủ Tướng’ thì tôi và SGTT có như
thế này chăng (bài này tôi chỉ định viết cho Osin Blog nhưng nghĩ, đang
là người của SGTT cũng nên tham khảo ý kiến Tam Chanh, ai dè bạn ấy cân nhắc, tham vấn, rồi cho đăng trên SGTT…”
“Không hiểu tại sao, từ năm 2009 tới
nay, người viết gặp nạn thường có duyên nợ với Thủ tướng: Lê Công Định,
Trần Huỳnh Duy Thức với hai blogs, Change we need và Trần Đông Chấn (nói
từ chuyện nhà cho tới chính sách của Thủ tướng); Phạm Chí Dũng bị nghi
tác giả của Quan Làm Báo; Trương Duy Nhất “chấm điểm” Chính phủ và Thủ
tướng quá thấp…”
Có lẽ câu
chuyện không nhỏ này cũng góp phần tô điểm thêm cho bản “Thông điệp đầu
năm” của TT, mà những mong muốn “minh bạch”, “dân chủ” trong đó không
thể thiếu sự đi đầu của một tờ báo từng rất được quan tâm là SGTT. Xin
tạm một ví dụ, năm 2009, ngư dân ta tránh bão vào Hoàng Sa, bị Trung Quốc bắt giữ, cướp phá, đánh đập. Chỉ SGTT dám đưa tin, rồi mãi 1 tháng sau khi vụ việc xảy ra, Người phát ngôn mới lên tiếng.
BT
—
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
______________________
TP.Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 1 năm 2014
KIẾN NGHỊ KHẨN
CỦA TẬP THỂ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐANG LÀM VIỆC TẠI
BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ
VỀ THẢM CẢNH CỦA BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ
Đồng kính gửi: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
- Ban Tuyên giáo Trung ương,
- Cục báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông,
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
- Hội nhà báo Việt Nam,
- Ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh,
- Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
- Ủy ban kiểm tra Trung ương,
- Hội nhà báo Thành phố Hồ Chí Minh,
- Trung tâm Xúc tiến Thương mại & Đầu tư TP.Hồ Chí Minh,
- Sở Công thương TP. Hồ Chí Minh,
- Sở Thông tin và Truyền thông TP.Hồ Chí Minh,
- Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh,
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,
- Liên đoàn lao động TP.Hồ Chí Minh,
- Công đoàn viên chức TP. Hồ Chí Minh.
Chúng tôi: Công đoàn, Chi đoàn Thanh niên, Chi hội nhà báo Báo Sài Gòn Tiếp Thị và tập thể người lao động đang làm việc tại Báo Sài Gòn Tiếp Thị TP.HCM đồng lòng ký tên vào bản kiến nghị này, để mong Lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý báo chí, cũng như các cơ quan ngôn luận quan tâm xem xét, bởi chúng tôi – tập thể trên 100 con người đang bị tổn thương nặng nề và đang đứng trước nguy cơ bị mất việc. Sài Gòn Tiếp Thị, tờ báo mà chúng tôi gầy dựng, gắn bó và làm việc suốt thời gian qua (19 năm), tờ báo để lại dấu ấn đậm nét cho bạn đọc trong và ngoài nước, đang đứng trước nguy cơ bị chết và thay thế bằng một tờ báo khác mang trùng tên.
Chúng tôi được Ban biên tập thông tin lại về nội dung cuộc làm việc giữa Ban biên tập báo Sài Gòn Tiếp Thị, các trưởng phòng ban cùng đại diện Ban biên tập Thời báo Kinh tế Sài Gòn vào ngày 23 tháng 12 năm 2013. Theo bên tiếp nhận thì họ bị ép nhận để duy trì thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị chứ không tham gia gì về sinh mạng của tờ SGTT hiện nay.Vì vậy họ không cần nhận bàn giao bất cứ cái gì và phương án dự kiến của Thời báo Kinh tế Sài Gòn sẽ xin ra bộ mới, với thiết kế mới, bộ máy mới chỉ sử dụng măng set Sài Gòn Tiếp Thị dựa trên cơ sở kế thừa tôn chỉ mục đích của Sài Gòn Tiếp Thị và có thể gói gọn lại nội dung. Và dự kiến bộ máy nhân sự phục vụ cho bộ mới này khoảng 40 người. Trong đó phóng viên khoảng 20-25 người, tòa soạn – biên tập viên khoảng 10 người. Tuy nhiên, số lượng nhân sự dự kiến không phải là danh sách thống nhất được tiếp nhận theo tinh thần Thông báo số 924/TB-VP của Văn phòng Ủy ban Nhân dân TP.HCM ngày 30 tháng 11 năm 2013, mà tất cả nhân sự phải đăng ký tuyển dụng theo qui trình tuyển dụng mới.
Việc thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị mà tập thể CBNV của Sài Gòn Tiếp Thị được cấp phép và liên tục gầy dựng 19 năm qua được chuyển giao cho một cơ quan báo chí khác là trái với Luật về Quyền sở hữu trí tuệ và Quyền sở hữu thương hiệu.
Việc chấm dứt hợp đồng lao động với hơn 100 người lao động đang làm việc tại cơ quan báo Sài Gòn Tiếp Thị, không quan tâm đến quyền lợi của chúng tôi là trái với Luật lao động, và đạo lý của người Việt Nam.
Cụ thể:
1. Nguy cơ mất việc
Căn cứ văn bản chỉ đạo của UBND TP.HCM số 515/UBND-VX-M ngày 27 tháng 8 năm 2013 giao Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở Tư pháp, Sở Công thương và các cơ quan liên quan tham mưu phương án sáp nhập Báo Sài Gòn Tiếp Thị về Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Như vậy, từ một tờ báo độc lập trở thành phụ trương của Thời báo Kinh tế Sài Gòn .
Sau cuộc họp của Ủy ban để xử lý trách nhiệm của các Giám Đốc cơ quan chủ quản ITPC (4 vị từ năm 2007 đến nay) chúng tôi được bà Vũ Kim Hạnh, nguyên Giám đốc ITPC cũng là người sáng lập tờ Sài Gòn Tiếp Thị thông tin là ông Phó Chủ tịch Ủy ban Hứa Ngọc Thuận kết luận là việc xử lý và sáp nhập báo Sài Gòn Tiếp Thị sẽ được giao cho Sở Tư pháp đề xuất qui trình và giải pháp vì còn liên quan việc : bán nhà trụ sở báo để trả nợ (mà theo chúng tôi tìm hiểu thực tế thì có khả năng dư trả nợ); tiếp tục theo đuổi việc kiện đòi nợ các tổ chức đang thiếu nợ Sài Gòn Tiếp Thị, thực hiện các hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp còn dang dở và nhất là giải quyết số phận hơn 100 người lao động.Vì luôn sẵn sàng chịu trách nhiệm đầy đủ từ pháp lý tới thực tế với tất cả những việc trên, chúng tôi không hề có nguyện vọng tự đình bản nhất là càng không cam tâm thấy tờ báo hiện nay bị chết để rồi cái tên bị lấy đi và do một tổ chức khác thực hiện bộ mới và hầu hết người của Sài Gòn Tiếp Thị bị nghỉ việc. Chưa kể hiện nay báo Sài Gòn Tiếp Thị có một số lao động nữ mang thai và đang trong giai đoạn thai sản, việc chấm dứt hợp đồng lao động với họ là trái với Luật lao động.
Ban Biên tập Thời báo Kinh tế Sài Gòn cũng bày tỏ hết sức khiên cưỡng tiếp nhận, vậy thì sao không thể có một giải pháp khác.
Trong 11 tháng qua, chúng tôi đã cùng nhau xây dựng lại cơ chế tài chính tờ báo và hoạt động thực sự có lãi. Vậy nếu việc bán nhà đủ để trả nợ thì qui trình mà Sở Tư Pháp đang được xây dựng có những điều chỉnh tích cực nào không?
Sau buổi làm việc với đại diện Ban biên tập Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 23.12.2013 vừa qua, tập thể chúng tôi được Ban biên tập thông báo rõ ràng là Báo Sài Gòn Tiếp Thị sẽ phải xin phép đình bản vào cuối tháng 2.2014 và Thời báo Kinh tế Sài Gòn chỉ tiếp nhận để duy trì thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị. Thời báo Kinh tế Sài Gòn đã chuẩn bị nhân sự và bộ máy mới hoàn toàn để vận hành một ấn phẩm mới dưới cái thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị. Theo những gì đề cập ở trên, thì số nhân sự đủ để phục vụ cho tờ báo mới trong đó nhân sự cũ của báo Sài Gòn Tiếp Thị chỉ có thể được tiếp nhận một phần nhân sự (sau khi đã qua khâu tuyển dụng), như vậy còn lại toàn bộ từ sau tháng 2.2014 sẽ không có việc làm.
Chúng tôi tự hỏi đã có sai phạm gì không thể cứu chữa để tờ báo phải bị đình bản? Cán bộ nhân viên Sài Gòn Tiếp Thị đã vi phạm điều gì để phải bị mất việc? Nếu các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý báo chí xem tờ báo là một cơ quan nhà nước, thì chúng tôi cũng là những nhân viên nhà nước. Chúng tôi không thể bị mất việc vì những lý do không do chúng tôi gây nên theo Kết luận Thanh tra toàn diện tình hình tổ chức, hoạt động và tài chính của báo Sài Gòn Tiếp Thị. Thực trạng của Sài Gòn Tiếp Thị là: mọi khoản nợ của báo Sài Gòn Tiếp Thị đã có phương án- kế hoạch để trả theo lộ trình đã được UBND TP.HCM phê duyệt. Những nhân sự có trách nhiệm cũng đã bị xử lý. Tờ báo đang hoạt động tốt, tài chính tích cực. Đội ngũ dù trước đây bị nợ lương, nợ nhuận bút (gần đây đã cải thiện) nhưng vẫn kiên trì bám vị trí và toàn tâm toàn ý xây dựng lại tờ báo.
Ban biên tập SGTT đã công bố các số liệu kinh doanh hơn 11 tháng đầu năm 2013, cho thấy trong bối cảnh thị trường có rất nhiều khó khăn, báo Sài Gòn Tiếp Thị vẫn kinh doanh có lãi (các cơ quan quản lý có thể kiểm tra sổ sách chứng từ của báo Sài Gòn Tiếp Thị).
Nội dung các trang báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày càng được củng cố. Với sự quan tâm sâu sát của ITPC và UBND TP.HCM, chúng tôi đã tiến hành nhiều bước đổi mới như sắp xếp lại nội dung gần gũi với bạn đọc, tái cấu trúc, tinh gọn bộ máy, tổ chức kinh doanh độc lập (trước đây giao cho đại lý độc quyền)… Nhờ vậy báo Sài Gòn Tiếp Thị đã vượt qua khủng hoảng, toàn thể đội ngũ chúng tôi vẫn sát cánh cùng nhau làm việc để báo Sài Gòn Tiếp Thị là một trong những tờ báo đáng tự hào của TP.HCM với nhiều thông tin bổ ích, những góp ý xây dựng kịp thời.
Đội ngũ của chúng tôi đã được đào tạo chính qui: trong hơn 100 nhân viên có 80 người có trình độ từ đại học trở lên, 60 người trình độ chính trị từ trung cấp trở lên. Bên cạnh đó, chúng tôi còn được trui rèn qua thực tế công việc. Chúng tôi tự hào là một tờ báo để bạn đọc tin tưởng, không thông tin lá cải, giật gân khá phổ biến trên thị trường báo chí hiện nay. Chúng tôi tự hào vì dù có bị chậm lương, trễ nhuận bút, chúng tôi vẫn viết bằng đúng lương tâm trách nhiệm của người làm báo, không để cho uy lực đồng tiền chi phối. Chúng tôi ý thức được rằng, không gian làm báo chuyên nghiệp với những người lao động có trình độ ấy đã, đang và sẽ tích cực phấn đấu hướng tới mục tiêu cung cấp thông tin hữu ích, khách quan cho bạn đọc; là người dân Việt Nam nói chung và người dân TPHCM nói riêng; Từ những thông tin ấy, tờ báo phản ánh tiếng nói chân thành của người dân đóng góp nhằm điều chỉnh, chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém của nhiều ngành thuộc quản lý Nhà nước. Tất cả, cũng vì lợi ích là tiến bộ xã hội.
Như vậy, vì lý do gì mà chúng tôi bị mất việc?
2. Về thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị
Từ tháng 3.2014, Thời báo Kinh tế Sài Gòn chỉ tiếp nhận việc duy trì thương hiệu tờ Sài Gòn Tiếp Thị và vận hành theo tôn chỉ mục đích dưới hình thức một phụ trương của Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Điều này khiến đội ngũ chúng tôi, những người đã gìn giữ bản sắc tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị trong suốt 19 năm qua quá bàng hoàng và xót xa. Bởi lẽ chúng tôi là đội ngũ đã xây dựng, sáng tạo và thiết lập nên phần hồn và xác cho tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị. 19 năm gắn bó với Sài Gòn Tiếp Thị là quãng thời gian đủ dài để chúng tôi thấu hiểu những giá trị tinh tuý của tờ Sài Gòn Tiếp Thị, thấu hiểu nhu cầu của bạn đọc và vận hành tờ báo với bản sắc riêng của nó.
Chúng tôi muốn đặt câu hỏi, thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị là của ai? Về pháp lý, báo của nhà nước thì măng sết này là của nhà nước. Nhưng chúng ta hiểu thương hiệu báo là của người đọc và xây dựng bằng mồ hôi nước mắt của đội ngũ nhà báo làm ra tờ báo ấy, được giám sát và ủng hộ của người đọc. Tài sản của người đọc này không thể tùy tiện trao, chuyển mà không mảy may quan tâm tới giá trị thực sự của nó là tâm huyết gầy dựng và chí cốt gìn giữ với lòng trung thành có thử thách với bạn đọc. Bạn đọc Sài Gòn Tiếp Thị, những người suốt 19 năm đều đặn mua báo để nuôi nấng Sài Gòn Tiếp Thị có được coi là người đã tạo ra thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị hay không? Những doanh nghiệp cùng đồng hành với Sài Gòn Tiếp Thị trong 19 năm qua có được xem là người đóng góp cho thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị hay không? Những mạnh thường quân đã ủng hộ tiền bạc vật chất giúp đỡ tờ báo khi mới ra đời, và những chuyên gia đóng góp bài viết, tư vấn cho Sài Gòn Tiếp Thị có được xem là người đóng góp cho thương hiệu Sài Gòn Tiếp Thị?
Có thể khẳng định, tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị là thương hiệu báo chí của xã hội, của người đọc (những người đọc bỏ tiền mua báo, không hề là một đám đông mơ hồ), của tập thể những con người làm việc ở Sài Gòn Tiếp Thị xây dựng và tạo nên. Quyết định của cơ quan quản lý chỉ cố duy trì thương hiệu này bằng cách trao cho đơn vị khác quản lý, thay đổi toàn bộ những con người làm việc ở Sài Gòn Tiếp Thị đồng nghĩa với thực tế đang diễn ra là phần xác của Sài Gòn Tiếp Thị và giết mất phần hồn của nó. Việc duy trì sự có mặt của tờ báo trong đời sống chính trị xã hội liệu có còn ý nghĩa khi đội ngũ những người làm nên tờ báo như chúng tôi bị thất nghiệp phải sống vô định khi vẫn muốn tiếp tục chịu trách nhiệm và sống với tờ báo của mình?
Hành động khai tử một tờ báo, chỉ vì nợ nần thua lỗ trong khi chính họ đang chứng minh được là đủ sức trả nợ đang khiến dư luận giới báo chí hoang mang không hiểu thực chất lý do quyết định “ép đình bản Sài Gòn Tiếp Thị hiện nay”.
Chính vì điều này, chúng tôi tha thiết đề nghị các cơ quan quản lý, công luận, hãy xem xét, để chúng tôi là những người đã sáng tạo ra tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị, có thể được tiếp tục duy trì hoạt động của nó với phần hồn mà chúng tôi đã thổi vào đó 19 năm qua.
3. Kiến nghị
Với sự nỗ lực của tập thể trên 100 người lao động đang làm việc tại Sài Gòn Tiếp Thị, hiện nay chúng tôi đang vận hành tờ báo ổn định về nội dung lẫn tài chính. Cơ quan quản lý nhà nước có thể thay đổi cơ quan chủ quản để giám sát hoạt động tờ báo chặt chẽ và có những hỗ trợ kịp thời. Nếu việc bố trí chủ quản từ bộ máy của thành phố có nhập nhằng xin hãy để tờ báo được đưa ra đề xuất hợp lý và khả thi.
Chúng tôi thiết tha kiến nghị :
Thứ nhất, tạm thời tiếp tục duy trì hoạt động của báo Sài Gòn Tiếp Thị dưới sự giám sát của Sở Thông Tin Truyền Thông và ban tuyên giáo Thành Ủy trong khi chờ phương án của Sở Tư Pháp.
Thứ hai, trong khi duy trì tốt hoạt động tờ báo, chúng tôi cam kết thảo luận và giảm số lượng cán bộ nhân viên cho phù hợp nhu cầu. Đề nghị cơ quan chủ quản khẩn trương báo cáo Ủy ban Nhân dân tạm ứng ngân sách theo công văn số 225/CV-SGTT ngày 6 tháng 12 năm 2013 và công văn 04/CV-SGTT ngày 8 tháng 1 năm 2014 của báo Sài Gòn Tiếp Thị để chúng tôi giải quyết chế độ chính sách cho người lao động dịp Tết nguyên đán 2014.
Các cơ quan quản lý hãy lưu tâm đến số phận của chúng tôi – những con người đã tạo và xây dựng nên thương hiệu tờ báo Sài Gòn Tiếp Thị và lắng nghe nguyện vọng của chúng tôi, những người lao động tự tin rằng có thể có tiếp tục duy trì tờ báo từ những cơ sở đã nêu ở trên, và đủ tự trọng để không muốn trở thành “gánh nặng” cho xã hội.
Chúng tôi khẩn thiết mong các cơ quan công luận lên tiếng vì đây là lần đầu tiên một tờ báo bị buộc phải đình bản một cách oan ức và lần đầu tiên phần hồn thực sự của một thương hiệu bị tiêu hủy, chỉ còn phần xác của thương hiệu này bị mang qua cơ quan khác và người lao động phải đứng trước nguy cơ thất nghiệp.
Rất mong nhận được sự giải đáp và quyết định đạt lý thấu tình từ các cấp lãnh đạo. Chân thành cảm ơn.
Trân trọng,
Nơi nhận:
- Như trên;
- Các cơ quan báo chí TW và địa phương (để biết);
- Lưu.
Đính kèm:
- Thông báo số 924/TB-VP của Văn phòng UBND Thành phố ngày 30.11.2013;
- Bản chữ ký của tập thể người lao động đang làm việc tại Báo Sài Gòn Tiếp Thị đồng ý nội dung của bản kiến nghị khẩn ngày 26.12.2013.
Chỉ số IF và số trích dẫn là những tiêu chí cần được xét đến
Hoàng Ngọc Long |
Mặc
dù có một số khả năng ngoại lệ hi hữu như đã đề cập, nhưng về cơ bản
việc đánh giá chất lượng bài viết căn cứ trên IF của tạp chí là điều khá
hợp lý.
Đối với một bài báo công bố trên tạp chí quốc tế ISI, chúng ta có bốn khả năng sau đây:
1. Bài báo công bố trên tạp chí có IF rất cao và được trích dẫn nhiều.
2. Bài báo công bố trên tạp chí có IF rất cao, nhưng ít được trích dẫn.
3. Bài báo công bố trên tạp chí có IF không cao nhưng được trích dẫn nhiều.
4. Bài báo đăng trên tạp chí có IF nhỏ và được trích dẫn ít.
(IF là tỉ lệ của tổng các trích dẫn trong các tạp chí ISI với tổng số bài của tạp chí đó.)
Ở đây, loại bài báo thứ nhất là quá tốt và không phải bàn cãi. Với các bài báo loại thứ hai, có thể đó cũng là bài báo có kết quả là tốt, nhưng ít được trích dẫn vì nhiều lý do như lĩnh vực nghiên cứu không có nhiều người làm và quan tâm,… Nhưng ngược lại cũng không loại trừ khả năng đó là bài báo có nội dung không xuất sắc, nhưng phản biện sơ xuất cho đăng vì thấy tác giả là người nghiên cứu nhiều kinh nghiệm.
Còn với loại bài thứ ba, thường thì đó là bài báo có chất lượng, nhưng không được đăng trên tạp chí có IF cao vì tên tuổi tác giả chưa mấy người biết đến, và ý tưởng của bài báo còn quá mới mẻ. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng những trường hợp như vậy là không nhiều, và những ý tưởng khoa học hay phải dựa trên nền khoa học cơ sở vững chắc để đảm bảo tính khả thi – ở Việt Nam, không ít các nhà tự học đã đưa ra những ý tưởng khoa học điên rồ, làm mất khá nhiều công sức của các cơ quan khoa học Việt Nam (bản thân người viết bài này cũng có lần được đọc ý tưởng xây nhà chống bão bằng cách cho ngôi nhà có thể tự quay!!)
Cuối cùng là loại bài thứ tư, vừa không được đăng trên tạp chí có chỉ số IF cao, vừa ít được trích dẫn. Trong số này vẫn có thể có khả năng hi hữu đó là các công trình khoa học hay, bởi có ý kiến cho rằng có thể đương thời mọi người chưa hiểu hết giá trị của công trình và phải đến mấy chục năm sau ý tưởng đó mới được sử dụng. Điều này hoàn toàn có thể, nhưng phải nhấn mạnh rằng, với việc phân nhánh sâu sắc của khoa học hiện nay thì điều nói trên là hầu như không còn, và theo quan điểm của người viết bài này các công trình khoa học hay thì thường được trích dẫn nhiều.
Như vậy, có thể nói rằng trong đa số các trường hợp, chỉ số IF của tạp chí càng cao thì bài viết đăng trên đó càng có giá trị. Mặc dù có một số khả năng ngoại lệ hi hữu như đã đề cập, nhưng về cơ bản việc đánh giá chất lượng bài viết căn cứ trên IF của tạp chí là điều khá hợp lý. Trong ngành vật lý năng lượng cao của tác giả tạp chí với IF < 0,5 khác một trời một vực với tạp chí lớn hơn 4 – qua đó chúng ta cũng thấy rằng không thể đánh đồng chất lượng các tạp chí SCI/ISI, vì tùy theo IF cao hay thấp mà đó là thượng vàng hay hạ cám.
Nhưng phải lưu ý là: IF các ngành có thể rất khác nhau. Với những ngành ít biến động như Toán, các tạp chí sẽ có IF thấp hơn so với những ngành mà quan điểm có thể thay đổi hằng năm như Y học, Thiên văn học và Vật lý năng lượng cao.
Tuy nhiên trong từng ngành các chuyên gia đều có thể kể ra những tạp chí uy tín hàng đầu. Đăng được một bài trong các tạp chí uy tín phải tốn rất nhiều công sức và đối với một số người là ngưỡng khó có thể vượt qua. Một số ý kiến cho rằng việc đánh giá chất lượng công trình do Quỹ NAFOSTED tài trợ ở mỗi ngành nên tính theo mức chỉ số IF của tạp chí ở cấp trung bình của ngành đó, quy thành một đơn vị bài báo và tổng bài báo đăng ký sẽ tương đương với tổng số IF mà các công bố của ứng viên phải đạt được. Ví dụ: Nếu một ứng viên đăng ký 2 bài ISI, lấy bài báo trung bình của ngành có IF = 1, vậy ứng viên phải có tổng IF =2. Kết quả là: Nếu đề tài công bố 1 bài có IF=2 hoặc 4 bài có IF=0,5 sẽ đều được tính là hoàn thành chỉ tiêu đặt ra. Cách tính này sẽ giúp năng cao các công trình khoa học mà không chạy theo số lượng các công bố như hiện nay.
Hiện nay, qua giai đoạn đầu của Quỹ NAFOSTED, chúng ta tạm chấp nhận việc đặt chỉ tiêu nghiệm thu các đề tài theo số lượng công bố trên các tạp chí ISI, nhằm tăng các công bố khoa học quốc tế, và cũng để cho các tác giả quen dần với việc đăng bài trên các tạp chí quốc tế. Nhưng rõ ràng trong tương lai, chúng ta phải chú trọng năng cao chất lượng công bố khoa học, và khi đó việc tính tới IF cùng số trích dẫn sẽ là căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng đề tài.
1. Bài báo công bố trên tạp chí có IF rất cao và được trích dẫn nhiều.
2. Bài báo công bố trên tạp chí có IF rất cao, nhưng ít được trích dẫn.
3. Bài báo công bố trên tạp chí có IF không cao nhưng được trích dẫn nhiều.
4. Bài báo đăng trên tạp chí có IF nhỏ và được trích dẫn ít.
(IF là tỉ lệ của tổng các trích dẫn trong các tạp chí ISI với tổng số bài của tạp chí đó.)
Ở đây, loại bài báo thứ nhất là quá tốt và không phải bàn cãi. Với các bài báo loại thứ hai, có thể đó cũng là bài báo có kết quả là tốt, nhưng ít được trích dẫn vì nhiều lý do như lĩnh vực nghiên cứu không có nhiều người làm và quan tâm,… Nhưng ngược lại cũng không loại trừ khả năng đó là bài báo có nội dung không xuất sắc, nhưng phản biện sơ xuất cho đăng vì thấy tác giả là người nghiên cứu nhiều kinh nghiệm.
Còn với loại bài thứ ba, thường thì đó là bài báo có chất lượng, nhưng không được đăng trên tạp chí có IF cao vì tên tuổi tác giả chưa mấy người biết đến, và ý tưởng của bài báo còn quá mới mẻ. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng những trường hợp như vậy là không nhiều, và những ý tưởng khoa học hay phải dựa trên nền khoa học cơ sở vững chắc để đảm bảo tính khả thi – ở Việt Nam, không ít các nhà tự học đã đưa ra những ý tưởng khoa học điên rồ, làm mất khá nhiều công sức của các cơ quan khoa học Việt Nam (bản thân người viết bài này cũng có lần được đọc ý tưởng xây nhà chống bão bằng cách cho ngôi nhà có thể tự quay!!)
Cuối cùng là loại bài thứ tư, vừa không được đăng trên tạp chí có chỉ số IF cao, vừa ít được trích dẫn. Trong số này vẫn có thể có khả năng hi hữu đó là các công trình khoa học hay, bởi có ý kiến cho rằng có thể đương thời mọi người chưa hiểu hết giá trị của công trình và phải đến mấy chục năm sau ý tưởng đó mới được sử dụng. Điều này hoàn toàn có thể, nhưng phải nhấn mạnh rằng, với việc phân nhánh sâu sắc của khoa học hiện nay thì điều nói trên là hầu như không còn, và theo quan điểm của người viết bài này các công trình khoa học hay thì thường được trích dẫn nhiều.
Như vậy, có thể nói rằng trong đa số các trường hợp, chỉ số IF của tạp chí càng cao thì bài viết đăng trên đó càng có giá trị. Mặc dù có một số khả năng ngoại lệ hi hữu như đã đề cập, nhưng về cơ bản việc đánh giá chất lượng bài viết căn cứ trên IF của tạp chí là điều khá hợp lý. Trong ngành vật lý năng lượng cao của tác giả tạp chí với IF < 0,5 khác một trời một vực với tạp chí lớn hơn 4 – qua đó chúng ta cũng thấy rằng không thể đánh đồng chất lượng các tạp chí SCI/ISI, vì tùy theo IF cao hay thấp mà đó là thượng vàng hay hạ cám.
Nhưng phải lưu ý là: IF các ngành có thể rất khác nhau. Với những ngành ít biến động như Toán, các tạp chí sẽ có IF thấp hơn so với những ngành mà quan điểm có thể thay đổi hằng năm như Y học, Thiên văn học và Vật lý năng lượng cao.
Tuy nhiên trong từng ngành các chuyên gia đều có thể kể ra những tạp chí uy tín hàng đầu. Đăng được một bài trong các tạp chí uy tín phải tốn rất nhiều công sức và đối với một số người là ngưỡng khó có thể vượt qua. Một số ý kiến cho rằng việc đánh giá chất lượng công trình do Quỹ NAFOSTED tài trợ ở mỗi ngành nên tính theo mức chỉ số IF của tạp chí ở cấp trung bình của ngành đó, quy thành một đơn vị bài báo và tổng bài báo đăng ký sẽ tương đương với tổng số IF mà các công bố của ứng viên phải đạt được. Ví dụ: Nếu một ứng viên đăng ký 2 bài ISI, lấy bài báo trung bình của ngành có IF = 1, vậy ứng viên phải có tổng IF =2. Kết quả là: Nếu đề tài công bố 1 bài có IF=2 hoặc 4 bài có IF=0,5 sẽ đều được tính là hoàn thành chỉ tiêu đặt ra. Cách tính này sẽ giúp năng cao các công trình khoa học mà không chạy theo số lượng các công bố như hiện nay.
Hiện nay, qua giai đoạn đầu của Quỹ NAFOSTED, chúng ta tạm chấp nhận việc đặt chỉ tiêu nghiệm thu các đề tài theo số lượng công bố trên các tạp chí ISI, nhằm tăng các công bố khoa học quốc tế, và cũng để cho các tác giả quen dần với việc đăng bài trên các tạp chí quốc tế. Nhưng rõ ràng trong tương lai, chúng ta phải chú trọng năng cao chất lượng công bố khoa học, và khi đó việc tính tới IF cùng số trích dẫn sẽ là căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng đề tài.
FOREIGN AFFAIRS
January 10, 2014
January 10, 2014
Party of the Century
How China is Reorganizing for the Future
How China is Reorganizing for the Future
Bản
dịch của Lee Hoàn
Đảng của thế kỷ:
Trung Quốc tái cơ cấu cho tương lai như thế nào
Trung Quốc tái cơ cấu cho tương lai như thế nào
Eric X. Li
Tháng 11 năm 2013, Đảng Cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đã tổ chức Hội nghị TƯ 3 khóa XVIII, một Hội nghị được
nhiều mong đợi. Các Hội nghị TƯ 3, được tổ chức một năm sau Đại hội
đảng, thường thiết lập chương trình nghị sự, chính sách quản trị của
ban lãnh đạo mới. Hơn 30 năm trước, Đặng Tiểu Bình đã trình bày
những cải cách kinh tế mang tính đột phá tại Hội nghị TƯ 3 khóa XI –
một Hội nghị làm thay đổi quỹ đạo của Trung Quốc và của cả thế giới.
Một năm sau bước chuyển giao thế hệ lãnh đạo mới, tại Hội nghị vừa
qua, Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã trình bày những nội dung cụ thể
nhất dự định để lãnh đạo đất nước.
Hầu hết các
phân tích đã tập trung vào phạm vi rộng lớn của chương trình cải
cách kinh tế tại kỳ họp. Điều đó là đúng, những điều chỉnh về kinh
tế được công bố là sâu rộng hơn nhiều những gì mọi người hằng mong
đợi, và nếu được thực hiện, có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững. Cải cách bao gồm cho phép cổ phần (sở hữu tư nhân)
các công ty nhà nước, giảm rào cản pháp lý cho các doanh nghiệp
thương mại, trao cho nông dân được kiểm soát tốt hơn đất đai của họ,
tự do hóa khu vực tài chính và nhiều nội dung khác nữa.
Tuy vậy,
ngay cả khi các cải cách kinh tế đang được chào đón, đã có các chỉ
trích ban lãnh đạo mới của Trung Quốc bỏ qua cơ hội tốt đối với
những cải cách chính trị trong chương trình nghị sự của Hội nghị.
Các nhà bình luận đã chỉ ra, một cách chính xác, rằng lãnh đạo của
đảng đã thực sự tăng cường được quyền lực. Các phương tiện truyền
thông như The Wall Street Journal, CNN, và The Economist đã mô tả sự
phát triển vừa qua, về bản chất, đảng đã rẽ phải về kinh tế
và rẽ trái về chính trị. Những quan điểm như vậy thật chưa
đúng.
Hội nghị lần này đã khởi động một bước
quan trọng, ở nhiều chiều kích, những cải cách chính trị chưa từng
có sẽ làm thay đổi căn bản nền quản trị quốc gia lớn nhất thế giới.
Cải cách bao gồm cách thức tái cân bằng mối quan hệ giữa chính
quyền trung ương và địa phương và tái cơ cấu cơ chế kiểm tra
kỷ luật trong đảng và hệ thống tư pháp của nhà nước. Hội
nghị lần này cũng trình bày việc tái cơ cấu tổ chức ban hành các
quyết định quan trọng nhất của đảng trong lịch sử nước Cộng hòa Nhân
dân.
TÁI CÂN BẰNG THỂ CHẾ
Trong nhiều thế kỷ, một trong những nội
dung chính trị gây nhiều tranh cãi nhất của đế quốc Trung Hoa là sự
cân bằng quyền lực giữa chính quyền trung ương và địa phương. Thành
công hay thất bại của quản trị quốc gia phụ thuộc phần lớn vào mối
quan hệ này đã được điều chỉnh như thế nào. Sự cân bằng lành mạnh
luôn đảm bảo cho sự thịnh vượng và ổn định trong thời gian dài.
Ngược lại đã dẫn đến các cuộc đảo chính và phản đảo, và đôi khi dẫn
đến sự sụp đổ của một triều đại.
Trung Quốc trong đương đại cũng không là
ngoại lệ. Trong lịch sử 64 năm của mình, mối quan hệ giữa chính
quyền trung ương và địa phương đã trải qua ít nhất ba giai đoạn.
Thời kỳ đầu (1949-1956) là thời kỳ tập trung hóa theo kiểu Liên Xô.
Hối thúc bởi sự cần thiết phải củng cố quyền lực chính trị và vực
dậy nền kinh tế bị tê liệt, đảng đã nhập khẩu mô hình của
Liên Xô và Bắc Kinh giữ quyền cai trị tối cao.
Nhưng bắt đầu từ cuối những năm 1950,
Mao đã áp dụng chính sách phân cấp quyền lực. Vào thời điểm đó, do
điều kiện kinh tế và xã hội khác nhau đáng kể giữa các vùng. Hơn
nữa, việc thiếu vắng quyền lực chính trị ở cấp địa phương đã dẫn đến
việc quản lý yếu kém của bộ máy quan liêu ở trung ương và tình trạng
trì trệ chung. Mao cho rằng phân cấp sẽ giải phóng năng suất kinh tế
và đem lại sức sống chính trị tại địa phương. Quá trình này được
tăng cường do có sự kết thúc của Cách mạng Văn hóa vào cuối năm
1970. Đến lúc đó, chính quyền địa phương đã kiểm soát đáng kể hoạt
động thu thuế, các doanh nghiệp nhà nước, và thậm chí quản lý cả bộ
máy quân đội. Những tàn tích của thời gian này kéo dài đến giai đoạn
đầu của cải cách do Đặng tiến hành vào cuối những năm 1970. Trong
suốt những năm 1980, chính phủ trung ương nhiều lần do hết tiền mặt
đã phải yêu cầu hỗ trợ từ nguồn tài chính của các địa phương.
Mãi cho đến đầu những năm 1990, đảng mới
bắt đầu cân bằng lại được quyền lực giữa trung ương và các địa
phương. Thủ tướng Chu Dung Cơ chính thức hóa quá trình này vào năm
1994 bằng cách điều chuyển quyền đánh thuế trở lại tay Bắc Kinh, tuy
vậy do tồn tại gần ba thập kỷ nên sự phân cấp đã không thể đảo ngược
một cách dễ dàng. Ở thời điểm Hội nghị mới nhất khai mạc, chỉ một
nửa số 20 nghìn tỷ nhân dân tệ doanh thu thuế hàng năm của quốc gia
về được với ngân sách do Bắc Kinh kiểm soát.
Hội nghị lần gần đây nhất đã điều chỉnh
lại hoàn toàn cơ cấu này. Dường như cải cách lớn nhất trong quản trị
chính trị của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua, theo các nhà lãnh
đạo đảng, là Trung Quốc sẽ có một ngân sách quốc gia duy nhất,
doanh thu hợp nhất và chi tiêu vững chắc dưới sự kiểm soát của Bắc
Kinh. Theo hệ thống mới này, chính quyền trung ương sẽ kiểm soát
gần như hoàn toàn chi tiêu quốc gia. Trách nhiệm hành chính như giám
sát các dự án cơ sở hạ tầng và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ
được phân định rõ ràng hơn giữa Bắc Kinh với chính quyền các khu vực
và địa phương. Quy định về chuyển tiền thanh toán giữa trung ương và
địa phương được chuẩn hóa. Và Bắc Kinh tiến hành quản lý trực tiếp
các khoản nợ của chính quyền địa phương.
Những điều chỉnh này là thử thách khắc
nghiệt cho phát triển Trung Quốc trong dài lâu. Hệ thống thuế và cơ
chế giám sát nợ mới sẽ giúp ngăn ngừa chính quyền địa phương từ việc
lạm dụng các nguồn lực đến việc đạt được các mục tiêu kinh tế trong
ngắn hạn. Và với nguồn chi mới này, chính phủ trung ương có thể tài
trợ được cho các chính sách xã hội cần thiết trong những năm tiếp
theo.
Kiểm soát đô thị hóa: trong 20 năm tới
đây, mỗi năm 13 triệu người sẽ di chuyển đến các thành phố đã có và
mới ở Trung Quốc. Khoảng cách nông thôn – đô thị và dân nhập cư đô
thị hóa từ lâu đã đặt ra vấn đề dai dẳng cho mô hình phát triển của
Trung Quốc. Người nông dân không được tiếp cận với chăm sóc sức khỏe
và không được hưởng các lợi ích từ giáo dục, thậm chí không có các
quyền gắn với đất đai như dân cư đô thị, do đó dẫn đến sự phát triển
mất cân đối cho các thành phố. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối
với lao động nhập cư, những người đã chuyển đến các thành phố để
sống và làm việc nhưng vẫn được coi là cư dân nông thôn. Họ buộc
phải tồn tại trong tình trạng bấp bênh – xa đất của họ, không
có phúc lợi nơi đô thị. Giờ đây Bắc Kinh sẽ có thể bổ sung lớn hơn
nguồn lực quốc gia cho phúc lợi công cộng như y tế, phúc lợi xã hội
và giáo dục, tạo điều kiện cho nông dân trở thành cư dân đô thị
chính thức.
Nội dung lớn nhất được trình bày tại Hội
nghị này là nguyên tắc thị trường phải là yếu tố quyết định trong
phân bổ các nguồn lực kinh tế. Một số người đã cho rằng việc tái cân
bằng quyền lực chính trị về trung ương dường như đi ngược lại với
mục tiêu này. Nhưng không phải như vậy. Thực hiện phân cấp trong 30
năm qua đã dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ ở địa phương và thiếu các quy
tắc chuẩn cho hoạt động thương mại. Cả hai nội dung này đã cản trở
sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc. Các công ty
thường xuyên sử dụng quan hệ với chính quyền địa phương để ngăn chặn
đối thủ cạnh tranh tham gia thị trường. Các quy tắc và qui định khác
nhau giữa các tỉnh gây khó khăn cho các công ty hoạt động bên ngoài
địa phương của họ.
Các chính sách tập trung hóa của Hội
nghị lần thứ ba, do đó sẽ tăng cường nền kinh tế thị trường sôi động
ở Trung Quốc. Ngoài ra, tập trung hóa cũng có tác động tích cực
khác. Ví như, chính quyền trung ương có thể bảo vệ tốt hơn đối với
môi trường và an toàn thực phẩm khi yêu cầu thực thi các tiêu chuẩn
quốc gia.
TIẾP SAU SỰ KIỆN BẠC HY
LAI
Ngay từ những ngày đầu phát triển, ĐCSTQ
đã chính thức quan ngại về tệ tham nhũng. Cơ quan kiểm tra nội bộ
đầu tiên của đảng (sau gọi là Ủy ban Kiểm tra Trung ương) được thành
lập vào năm 1927, chỉ sáu năm sau khi đảng thành lập và 22 năm trước
khi đảng thực sự giành được quyền lực chính trị. Cho dù quyền lực và
sự ảnh hường của Ủy ban này, theo từng thời kỳ, có lúc tăng lúc
giảm, nhưng nguyên tắc hoạt động vẫn luôn nhất quán.
Từ 1927 đến nay, mô hình phòng chống
tham nhũng của đảng vẫn là tổ chức kiểm tra nội bộ được áp dụng theo
Đảng Cộng sản Liên Xô. Về lý thuyết, Ủy ban Kiểm tra kỷ luật (DIC) ở
mỗi cấp chính quyền chịu sự lãnh đạo của DIC cấp trên, trực tiếp.
Mọi báo cáo đều được chuyển về Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương
(CDIC). Tuy nhiên, trong thực tế, hệ thống này thường bị phá vỡ.
Người đứng đầu cơ quan chống tham nhũng thường làm việc dưới ảnh
hưởng, có sự gắn kết sự nghiệp của mình với người đứng đầu bộ máy
hành chính hoặc chịu sự lãnh đạo, về phía đảng, của người đang bị xử
lý kỷ luật. Lấy ví dụ về vụ án Bạc Hy Lai, bí thư bị thất sủng của
Trùng Khánh. Bạc, bị kết tội tham nhũng năm ngoái, là Ủy viên Bộ
Chính trị, cơ quyền lực cao nhất ở Trung Quốc. Người đứng đầu Ủy ban
chống tham nhũng của Trùng Khánh, tiếc thay, còn không phải là ủy
viên của Ủy ban Trung ương, vị trí ít nhất hai mức thấp hơn Bạc. Về
cơ bản là không thể kỷ luật được Bạc tại bất kỳ thời điểm nào trong
suốt nhiệm kỳ của ông. Hiển nhiên, một chế độ như vậy, mặc dù thành
công trong việc trừng phạt hành vi phạm tội ở mức độ thấp, sẽ không
thể kiểm soát được sự lạm dụng quyền lực ở các cấp cao hơn.
Hội nghị đã đẩy mạnh tái cấu trúc chế độ
kiểm tra, chuyển Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương vào cơ quan có
quyền ban hành quyết định độc lập với lãnh đạo cấp ủy. Các DIC giờ
đây buộc phải báo cáo lên Ủy ban trung ương tại Bắc Kinh. Ủy ban
Kiểm tra kỷ luật Trung ương có toàn quyền bổ nhiệm cán bộ chống tham
nhũng ở các cấp trên toàn quốc và tiến hành điều tra tất cả các vụ
việc. Như để khẳng định ngay cho sự điều chỉnh này, khi kết thúc Hội
nghị, Hou Kai, một cán bộ đảng có ảnh hưởng tại Bắc Kinh, được bổ
nhiệm đứng đầu Ủy ban kiểm tra Kỷ luật tại Thượng Hải.
Tương thích với cải cách chế độ kiểm tra
nội bộ đảng, từ Hội nghị này hệ thống cơ quan tư pháp cũng được cơ
cấu lại. Giờ đây, hệ thống tòa án ở mỗi cấp không còn phụ thuộc cơ
quan hành chính cùng cấp và chỉ chịu kiểm soát của tòa án cấp trên.
Chưa thể đánh giá hết tầm
quan trọng của những cải cách quản trị ở Trung Quốc trong tương lai,
nhưng đây là những điều chỉnh về chất nhất trong phân định và tạo
lập quyền lực của đảng trong nhiều thập kỷ tới. Trung Quốc là một
đất nước rộng lớn với một chính phủ có nhiều phức hệ. Sự ra đời của
cơ quan kiểm soát độc lập ở mọi cấp chính quyền có thể giúp đảng
ngăn chặn được tham nhũng
và tăng cường hiệu quả hoạt động, việc mà trước đây đảng chưa thực
hiện được.
HỒI KẾT CỦA MÔ HÌNH “BA
ĐẦU TÀU”
Có lẽ, cải cách chính trị đáng chú ý
nhất của Hội nghị lần này là việc thành lập Ủy ban An ninh Quốc gia
và Ban Chỉ đạo trung ương về thúc đẩy cải cách, hướng dẫn các hoạt
động an ninh quốc gia và chính sách kinh tế. Cả hai cơ quan này sẽ
hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thường vụ Bộ Chính
trị, do đó, hầu giải quyết được các mâu thuẫn bất lợi trong cơ cấu
chính trị của Trung Quốc như đã có trong nhiều thập kỷ qua.
Khi đảng thành lập nhà nước Cộng hòa
Nhân dân (1949), nhà nước này được khuôn mẫu theo mô hình của Liên
Xô và thường gọi là mô hình ba đầu tàu. Về hình thức, có ba
cơ quan song song chia sẻ quyền lực: Quốc vụ viện – cơ quan lập pháp
do Chủ tịch nước đứng đầu; Hội đồng Nhà nước – nội các do Thủ tướng
lãnh đạo; và Bộ Chính trị đứng đầu là Tổng Bí thư. Chủ tịch nước và
Thủ tướng cũng là thành viên của Bộ Chính trị (trong những thập kỷ
gần đây, Tổng Bí thư cũng đồng thời là Chủ tịch nước). Cho đến nay,
Hiến pháp vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo độc nhất của đảng.
Về hình thức, sự phân định như trên đã
tạo ra những phức tạp về thể chế, những mâu thuẫn và chứa đựng nội
dung thiếu bền vững. Từ những ngày đầu của nền Cộng hòa Nhân dân, đã
có những cuộc tranh luận về mức độ nhất thể hoặc tách biệt các cơ
quan, về đảng đứng đầu bởi Trung ương và Bộ Chính trị, với chính
phủ, được điều hành bởi Hội đồng Nhà nước. Trong 30 năm đầu tiên
dưới thời Mao, người cầm lái vĩ đại dù chỉ lãnh đạo Đảng,
nhưng đồng thời kiểm soát trực tiếp toàn bộ chính phủ. Xung đột thể
chế như vậy càng trầm trọng hơn bởi ảnh hưởng của cá nhân người đứng
đầu, dẫn đến những hậu quả thường là rất thảm khốc. Vào giữa những
năm 1960, sự khác biệt quan điểm giữa Mao, đứng đầu ĐCSTQ, với Lưu
Thiếu Kỳ, đứng đầu chính phủ, đã là ngòi nổ gây nên thảm họa Cách
mạng Văn hóa.
Kiến tạo Ủy ban An ninh Quốc gia và Ban
Chỉ đạo trung ương về thúc đẩy cải cách, Hội nghị lần thứ ba này
đánh dấu sự kết thúc mô hình ba đầu tàu. Giờ đây, đảng đã
nắm chắc vị trí đứng đầu và là trung tâm nền quản trị chính trị
quốc gia, đồng thời tiếp tục củng cố tính hợp hiến của đảng. Chức
trách của Ủy ban an ninh quốc gia sẽ bao gồm tất cả các khía cạnh
của chính sách an ninh đối nội và đối ngoại của Trung Quốc, từ lực
lượng Công an đến Bộ Ngoại giao. Ban Chỉ đạo trung ương về thúc đẩy
cải cách sẽ là mũi nhọn trong chiến lược kinh tế quốc gia. Cả hai cơ
quan này giờ đây đều được đặt dưới sự chỉ đạo duy nhất của Bộ Chính
trị. Ở một ý nghĩa nào đó, hệ thống quản trị Trung Quốc đã gần hơn
với hệ thống bán tổng thống (như Pháp...).
Cải cách sẽ giúp ổn định quản trị và
cũng có thể báo hiệu một bước đột phá lớn về chính trị. Thật vậy,
ĐCSTQ cuối cùng cũng thừa nhận rằng đảng là một tổ chức quản trị,
không phải là một đảng chính trị. Hơn một trăm năm trước đây, các
đảng chính trị hiện đại từ phương Tây du nhập vào Trung Quốc. Nhưng
ở các nước phương Tây, nhà nước quốc gia được thiết lập trước, các
đảng phái đại diện cho từng nhóm dân cư trong hệ thống chính trị
thường ra đời sau đó. Ở Trung Quốc, quá trình này xảy ra theo chiều
ngược lại, đảng ra đời trước, và 28 năm sau, đảng lập nên nhà nước
Cộng hòa Nhân dân. Từ đó, ĐCSTQ đã tuyên bố đại diện cho một đa số
dân tộc Trung Hoa.
Cùng sự kết thúc nhà nước Xô Viết với
mô hình ba đầu tàu và cấu trúc pha trộn đảng với Chính phủ, Hội
nghị lần thứ ba đánh dấu một mốc quan trọng cho sự trưởng thành
trong quản trị quốc gia của đảng. Về lâu dài, quản trị quốc gia của
Trung Quốc, về chất, sẽ khác với mô hình hiện đang vận hành tại hầu
hết các quốc gia, trong đó với nhiều đảng chính trị đại diện cho các
nhóm lợi ích khác nhau cạnh tranh nhau thông qua bầu cử. ĐCSTQ đang
phát triển thành một tổ chức quản trị hiện thân cho toàn bộ xã hội
Trung Quốc, nhưng không giống các triều đại phong kiến Trung Hoa.
Tương lai của quản trị chính trị ở Trung Quốc sẽ phụ thuộc vào năng
lực thể chế của ĐCSTQ có tiếp tục thích ứng được với một xã hội đang
thay đổi nhanh chóng.
THÀNH CÔNG TỔNG THỂ
Đề cập đến
nội dung của Hội nghị lần này, hầu hết giới quan sát và các trung
tâm nghiên cứu phương Tây đánh giá thấp những cải cách chính
trị của ĐCSTQ do họ không nhận thấy những nội dung dân chủ trong đa
đảng và trong bầu cử. Theo ý thức hệ, với Trung Quốc thuật ngữ
"cải cách chính trị" đã bị đánh tráo và thường được diễn giải
phù hợp với nền dân chủ kiểu phương Tây. Do vậy, mọi cải cách không
phù hợp với ý nghĩa này, dù lớn hay nhỏ, đều bị bác bỏ. Các quan
điểm như vậy phản ánh những cách nhìn, nếu không hoàn toàn có hại,
cũng rất non nớt trong hiểu biết về Trung Quốc.
Các học giả về Trung Quốc hiện đại
thường chia sự lãnh đạo của đảng ở quốc gia to lớn này thành hai
thời kỳ, mỗi kỳ khoảng 30 năm. Kỳ đầu tiên từ 1949 đến1979, dưới
thời Mao, kỳ thứ hai bắt đầu với cải cách mở cửa của Đặng vào năm
1979 và kéo dài đến ngày hôm nay. Một số đã cho rằng thời kỳ 30 năm
thứ hai được khởi nguồn chính từ và thậm chí là từ sự trì trệ của
thời kỳ trước đó. Nhận định như vậy là sai lầm. Mặc dù thời kỳ đầu
tiên và thứ hai dường như cho thấy có sự tương phản nhau trong ý
thức hệ, nhưng thời kỳ thứ hai là kết quả tự nhiên của thời kỳ đầu
tiên. Nếu không có những thành tựu của thời kỳ đầu tiên – độc lập
dân tộc và xây dựng được cơ sở hạ tầng công nghiệp cùng lớp người cơ
bản hiện đại – thì không thể có được thời kỳ thứ hai.
Nếu những cải cách chính trị mới đây
được thực hiện, Hội nghị lần này sẽ mở đầu một kỷ nguyên thứ ba –
tích hợp thành quả của hai kỷ nguyên trước và tạo ra kỷ nguyên mới
cho Trung Quốc hiện đại, vẫn bằng mô hình quản trị quốc gia vận hành
không qua bầu cử nhưng hiệu quả. Khi tính đến hình thức giám sát và
cân bằng mới, chính quyền sẽ nổi trội hơn về năng lực, về tính đáp
ứng và linh động.
Ngày nay, khủng hoảng về quản trị quốc
gia gây nhiều hệ lụy trên khắp thế giới. Từ hiện trạng đảng phái tê
liệt ở Hoa Kỳ đến những bế tắc của chủ nghĩa Tinh hoa châu Âu, hay
các nước phát triển đang ngập tràn trong tình trạng trì trệ kéo dài.
Ở hầu hết các nước đang phát triển, từ Thái Lan đến Nam Sudan, chế
độ bầu cử hoặc là không được thực hiện hoặc là hoàn toàn mất tính
hợp pháp.
Dù phải đối mặt với vô vàn thách thức và
đòi hỏi ngày càng tăng, Trung Quốc trong nhiều tiêu chí, đã đạt
thành tích về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và gắn kết xã
hội nói chung. Trong thời đại của Tập, Trung Quốc sẽ trở thành nền
kinh tế lớn nhất thế giới. Và với quỹ đạo này, đến giữa thế kỷ này
Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc thật sự về kinh tế, chính trị
và quân sự. Nhưng tiềm năng sẽ không thể thành hiện thực một khi
thiếu vắng một hệ thống quản trị quốc gia chặt chẽ, trưởng thành và
phù hợp với đất nước về chính trị. Những gì đã xảy tháng mười một
năm ngoái ở Bắc Kinh hé lộ nhiều điều hơn so với trước đây người ta
đã tưởng./.
Người dịch gửi cho viet-studies ngày
14-1-14
#109 – Lý Quang Diệu viết về Đông Nam Á và Việt Nam
Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “Southeast Asia”, in L.K Yew, One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp. 159-203.Biên dịch và Hiệu đính: Trương Thị Thanh Hiền & Vũ Thị Hương Giang[1]
Download: Ly Quang Dieu viet ve Dong Nam A va Viet Nam.pdf
INDONESIA: Dịch chuyển khỏi trung ương
Sự phát triển quan trọng nhất trong nền chính trị Indonesia kể từ cuối thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Suharto là một sự phát triển không ấn tượng một cách đáng ngạc nhiên. Nó không liên quan đến các cuộc biểu tình đường phố ồn ào kêu gọi những thay đổi sâu rộng hay các kế hoạch táo bạo của chính phủ để thay đổi nền kinh tế đất nước. Bạn không thể tạo ra một bom tấn Hollywood từ điều đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng các sử gia, những người nhìn lại nhiều năm trước, sẽ nhận ra bản chất rất quan trọng của nó. Sự phát triển mà tôi đang đề cập đến chính là sự khu vực hóa, còn được gọi là sự phân quyền (hay phi tập trung hóa – NHĐ).
Năm 1999, người kế nhiệm cương vị Tổng thống của Suharto, ông B.J. Habibie, đã lặng lẽ ký thành luật việc chuyển giao quyền lực từ Jakarta đến khoảng 300 huyện vốn hợp thành đất nước rộng lớn này. Các đạo luật bắt đầu có hiệu lực trong năm 2001 và kết quả mang lại đầy ấn tượng. Với việc mỗi khu vực tự chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình thông qua các quan chức được bầu ở địa phương, đất nước như được hồi sinh. Sự phát triển kinh tế hiện nay được trải rộng một cách đồng đều hơn. Quyền tự chủ địa phương cũng đã làm dịu đi những áp lực từ chủ nghĩa ly khai và giúp đất nước đoàn kết như một. Một Indonesia được phân quyền thịnh vượng hơn và có khả năng đạt đến tiềm năng đầy đủ của mình hơn.
Trước khi ban hành các đạo luật này, Indonesia đã có một trong những hệ thống chính trị tập trung nhất trên thế giới. Những quyết định quan trọng về kinh tế được đưa ra tại Thủ đô bởi Tổng thống và Nội các của ông và được thực hiện trên khắp đất nước bởi các quan chức và đại diện của chính quyền trung ương. Tất cả mọi thứ đều được tổ chức thông qua Jakarta. Những nhà đầu tư nước ngoài, kể cả những người đến từ Singapore, đã hiểu được các quy tắc của trò chơi. Họ biết rằng lệ phí ban đầu để đầu tư thậm chí là cho những khu vực xa xôi của đất nước đều được chi trả ở Jakarta. Tất nhiên, các khoản thu thuế và lợi nhuận phát sinh từ việc khai thác những nguồn tài nguyên phong phú của đất nước đã chảy ngược trở về Thủ đô, nơi mà sau đó đã quyết định cách thức những lợi ích sẽ được tái phân bổ như thế nào.
Trong nhiều năm, hệ thống này đã có hiệu quả khá tốt dưới sự lãnh đạo của Suharto. Là một quân nhân, Suharto đã kế nhiệm cương vị Tổng thống của Sukarno năm 1968 và nắm quyền trong 3 thập kỷ kế tiếp. Thành tựu của ông phải nói là ngoạn mục. Suharto kế thừa một đất nước khó khăn bởi lạm phát phi mã và đang suy tàn với các điều kiện kinh tế nghiêm trọng. Ông đã thay đổi tình thế bằng việc tập trung các nguồn lực của đất nước cho sự phát triển. Trong khi Sukarno dành hết sức lực cho việc đấm vào mặt bàn trong các hội nghị quốc tế và cố gắng làm cho Indonesia – và bản thân ông – trở thành người lãnh đạo của các quốc gia đang nổi lên, Suharto hiểu rằng Indonesia không thể cất tiếng nói trên sân khấu toàn cầu nếu không thành công trước tiên trong việc giải quyết các vấn đề trong nước. Khi Liên bang Malaysia ra đời, Sukarno đã đưa ra khẩu hiệu Ganyang Malaysia, có nghĩa là Đánh tan hay Nuốt chửng Malaysia. Suharto, với quyết tâm ổn định các mối quan hệ quốc tế của đất nước, đã hạ khẩu hiệu này, chấp nhận Malaysia như một nước láng giềng và công nhận rằng Sabah và Sarawak thuộc về Malaysia.
Indonesia đã có những bước phát triển quan trọng trong khoảng 30 năm dưới thời Suharto, ông đã bổ nhiệm các nhà quản trị có trình độ và những nhà kinh tế học nghiêm chỉnh để điều hành đất nước. Phải so sánh Myanmar và Indonesia để có thể hiểu được tầm quan trọng của những đóng góp của Suharto. Hai quốc gia đã có xuất phát điểm giống nhau về mức độ phát triển. Cả hai đều là những đất nước trù phú và được điều hành bởi những nhà lãnh đạo quân sự. Tuy nhiên, Tướng Ne Win của Myanmar, hay Miến Điện thời bấy giờ, đã đi theo con đường Xã hội Chủ nghĩa. Nếu không có những chính sách cứng rắn nhằm thúc đẩy phát triển của Suharto, Indonesia đã giống Myanmar. Suharto có thể đã thất bại vì tham nhũng và chủ nghĩa gia đình trị. Nhưng lịch sử cũng sẽ đánh giá ông vì những thành quả đã đạt được, tự chúng đã minh chứng điều đó: mang lại giáo dục cho người dân, phát triển kinh tế và xây dựng giao thông và cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, hệ thống tập quyền mà Suharto dựa vào không phải là lựa chọn tốt nhất để thống nhất một đất nước đa dạng như vậy. Đất nước Indonesia được hình thành bởi 17.500 hòn đảo trải dài trên 5.000 km và là nơi sinh sống của hơn 200 nhóm sắc tộc khác nhau. Trong những năm 1960, Goh Keng Swee đã nhấn mạnh rằng sự tan rã cuối cùng của Indonesia gần như là “không thể tránh khỏi”. Ông đã nhận ra các lực lượng đang hoạt động trên quần đảo này khó có thể được mô tả như là đang chia sẻ một nhận thức bản sắc chung, dù là về khía cạnh văn hóa hay lịch sử.
Ngôn ngữ là một nhân tố giúp ngăn chặn sự tan rã, và Sukarno, dù có những sai lầm và hạn chế, có thể được khen ngợi về điều này. Sukarno đã chọn tiếng Malay là quốc ngữ, không phải tiếng Java. Nếu muốn chọn tiếng Java, ông đã có thể dẫn ra nhiều lý do thỏa đáng cho lựa chọn đó. Người Java là nhóm sắc tộc chiếm đa số ở Indonesia. Ngôn ngữ của họ tinh tế với một nền văn học lâu đời. Bản thân Sukarno cũng là người Java và Jakarta, thủ đô đồng thời cũng là trung tâm kinh tế và văn hóa của đất nước, được đặt tại đảo Java. Tuy nhiên, Sukarno hiểu rằng tiếng Java sẽ không liên kết đất nước, bởi vì nó đã bị xem là tiếng nước ngoài ở nhiều nơi trên đất nước Indonesia. Những đảo khác sẽ xem nó là một gánh nặng và điều này sẽ chia cắt đất nước. Mặt khác, tiếng Malay đã được sử dụng rộng rãi như là ngôn ngữ thứ hai vì nó là ngôn ngữ của các thương nhân và các thủy thủ, những người không chỉ đã đi khắp đất nước mà còn cả khu vực Đông Nam Á. Ông đã chọn tiếng Malay và quyết định tất cả các trường học sẽ dạy nó như tiếng mẹ đẻ, còn tiếng địa phương hay phương ngữ là ngôn ngữ thứ hai. Kết quả là bất kỳ người nào phát ngôn ở Jakarta ngày nay đều được hiểu bởi người dân ở khắp đất nước. Đó là một hành động đúng đắn và là món quà lớn nhất mà Sukarno dành cho Indonesia.
Tuy nhiên, một ngôn ngữ chung duy nhất là không đủ. Suharto còn duy trì đất nước thông qua một lực lượng quân sự hùng hậu, ví dụ ông đã từng sử dụng quân đội để đàn áp các cuộc nổi dậy ở Aceh. Điều này chỉ mang lại ổn định chừng nào việc sử dụng vũ lực còn có thể được duy trì. Nhưng vai trò của quân đội đã thay đổi. Trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống, Suharto muốn vị Tổng tư lệnh của mình, Tướng Wiranto, đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân. Tuy nhiên, Tướng Wiranto đã từ chối vì ông hiểu những giới hạn của hành động quân sự. Khi Habibie kế nhiệm cương vị Tổng thống của Suharto, đã có một nỗi lo sợ thật sự rằng hàng loạt các phong trào ly khai trên khắp đất nước có thể lợi dụng tình hình chính trị thay đổi để đòi độc lập.
Chính quyền Habibie đã quyết định rằng khu vực hóa là con đường phải đi. Tuy nhiên, thay vì chuyển giao quyền lực cho khoảng 30 tỉnh, một điều mà theo thời gian có thể khuyến khích một số tỉnh đòi độc lập, giới lãnh đạo Jakarta đã đi tắt đón đầu bằng cách tuyên bố 300 huyện và khu tự trị là những đơn vị chính quyền cơ sở. Sau đó, trong năm 2004, chính phủ đã công nhận rằng phương pháp tiếp cận này không thể tránh khỏi những vấn đề và đã ban hành các đạo luật để tái thiết lập quan hệ thứ bậc giữa tỉnh và huyện. Tuy nhiên, sau năm 2001, mỗi khu vực đã lấy lại toàn quyền quyết định trong nhiều vấn đề địa phương, như y tế, giáo dục, công trình công cộng, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, môi trường, lao động, v.v… Thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư cũng đã được giao lại cho chính quyền địa phương, ngoại trừ các lĩnh vực dầu hỏa, khí đốt và nguyên liệu phóng xạ. Việc ông Habibie không xuất thân từ Java mà từ Nam Sulawesi hẳn đã tạo nên sự khác biệt. Nếu một người Java kế vị ông Suharto thì hệ thống bánh xe và nan hoa có thể sẽ vẫn tiếp tục tồn tại ít nhất là một khoảng thời gian nữa. Việc ông Habibie đã trải qua 20 năm học tập và làm việc tại Đức, nước có hệ thống liên bang thay vì hệ thống đơn nhất, có thể cũng đã đóng vai trò nhất định. Ngoài ra, ông Abdurrahman Wahid, người kế nhiệm cương vị Tổng thống của ông Habibie vào cuối năm 1999, đã tôn trọng các đạo luật mà ông Habibie đã ký và tạo điều kiện để chúng được thực thi đầy đủ. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về quá trình khu vực hóa của Indonesia đã nói rằng, sau năm 2001, hai phần ba công chức trước đây làm việc cho chính quyền trung ương giờ chịu trách nhiệm báo cáo trước các chính quyền địa phương, và trên 16.000 cơ sở dịch vụ, bao gồm trường học và bệnh viện, đã được chuyển đổi tương tự.
Sự chuyển đổi có tính rủi ro khá cao, nhưng đã diễn ra thành công. Ngày nay, mỗi khu vực quản lý các nguồn tài nguyên của chính mình và trực tiếp giao dịch với các công ty nước ngoài. Bơ đã được trét đều ra xung quanh và cục diện của toàn quần đảo đã thay đổi. Một số quy trình đã được tăng tốc bởi vì các doanh nghiệp đã không còn phải đối phó với nhiều lớp chính quyền nữa. Chính quyền địa phương quen thuộc hơn với các sự kiện trên thực địa, điều này cho phép họ có thể phản ứng với những hoàn cảnh đang thay đổi. Các cuộc khảo sát hậu phân quyền cũng cho thấy nhiều người dân Indonesia tin rằng các dịch vụ công đã được cải thiện từ năm 2001. Không còn nghi ngờ gì nữa, điều này ít nhất một phần là kết quả của việc những nhà làm chính sách quan trọng đã không chỉ báo cáo lên trên, về Jakarta, mà còn xuống dưới, đến những người dân đã bầu cho họ và đến các cơ quan lập pháp địa phương.
Quần đảo Riau là một ví dụ về việc một khu vực đã được hưởng lợi từ những thay đổi như thế nào. Trước đó, quần đảo này thuộc sự quản lý của Jakarta, tuy nhiên hiện nay, họ trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư từ Singapore và Malaysia – điều này hết sức hợp lý, vì Batam, thành phố lớn nhất của tỉnh, nằm gần Singapore hơn là Jakarta. Đầu tư nước ngoài đã tăng đáng kể, đồng thời có nhiều cơ hội việc làm cho người dân địa phương.
Nhưng quan trọng nhất, sự phân quyền đã giữ Indonesia thành một đất nước thống nhất. Không khu vực nào có thể tuyên bố rằng nó đang bị Trung ương áp bức hay đối xử không công bằng, vì số phận của mỗi khu vực giờ đây nằm trong tay của chính người dân khu vực đó. Lợi nhuận từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang được quản lý bởi chính quyền địa phương. Giải pháp quân sự đối với chủ nghĩa ly khai dưới thời Tổng thống Suharto đã biến Indonesia thành một nồi áp suất. Mối quan hệ giữa Trung ương và các tỉnh thường xuyên căng thẳng và người ta phải đảm bảo rằng nắp đậy được giữ chắc chắn, hoặc sẽ có một vụ nổ xảy ra. Giải pháp trao lại sự tự chủ cho các địa phương của Tổng thống Habibie đã giải thoát hơi nước từ nồi áp suất và làm cho tình hình được duy trì trong một thời gian dài.
Quá trình khu vực hóa là không thể đảo ngược. Một khi bạn đã đưa cho các khu vực quyền sở hữu trực tiếp cộng đồng của họ, thì không thể đặt sự kiểm soát trở lại. Sẽ có những điều chỉnh khi đất nước tìm kiếm sự cân bằng tự chủ phù hợp, ví dụ giữa các tỉnh và các huyện, nhưng Indonesia sẽ không quay trở lại hệ thống tập quyền như thời Tổng thống Suharto.
Tuy nhiên, sẽ là quá bất cẩn khi tin rằng con đường phát triển của Indonesia, nhờ những phát triển tích cực này, không còn những khó khăn và bấp bênh nữa. Sự khu vực hóa có thể là một điều rất tốt cho đất nước, những nó không phải là một hạt đậu thần kỳ. Những thách thức truyền thống cũng như những thách thức mới gần đây, bao gồm sự bế tắc chính trị tại Trung ương, cơ sở hạ tầng nghèo nàn và tham nhũng tràn lan, tiếp tục đe dọa làm chệch hướng Indonesia. Do đó, việc liệu Indonesia có đối mặt với những thách thức này, với cách thức và vào thời điểm như thế nào, sẽ quyết định vận mệnh của người dân đất nước.
Singapore đã nếm trải mùi vị của vấn đề gây nên bởi bế tắc chính trị khi chúng ta cùng lúc ký Hiệp ước Dẫn độ và Hiệp định Hợp tác Quốc phòng với Indonesia. Tổng thống rõ ràng đã tin rằng hiệp ước là vì lợi ích của đất nước ông, nếu không ông ta đã không ký nó. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp quốc gia, hay Dewan Perwakilan Rakyat (DPR), đã chặn hiệp ước lại với lý lẽ bề ngoài có vẻ là do nó đe dọa chủ quyền của Indonesia. Bất kỳ nhà phân tích chính trị nào cũng có thể nói với bạn nguyên nhân thật sự mà họ muốn tạm dừng thỏa thuận: Một cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào năm 2009, và các nhà lập pháp, mà phần lớn trong số họ không thuộc đảng của Tổng thống, muốn tăng các cơ hội cho đảng của họ bằng cách hạ thấp vị thế của Tổng thống. Có thể nào mà Tổng thống, vốn là một vị tướng quân đội, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Ngoại giao và Tổng chưởng lý, lại không hiểu các quyền chủ quyền của Indonesia là gì? Binh sĩ của Singapore đã huấn luyện hơn 20 năm ở Indonesia trong suốt thời kỳ của Thống thống Suharto mà không có bất kỳ lời phàn nàn nào. Tuy nhiên, đó là một phần của cái gọi là wayang kulit, hay sân khấu chính trị, và nó vẫn tiếp tục gây tai họa cho Indonesia, xuất phát từ cách thức các thể chế được tổ chức tại Trung ương như thế nào.
Hiến pháp Indonesia được sửa đổi vào năm 2002 nhằm tạo điều kiện cho Tổng thống được bầu cử trực tiếp bởi người dân. Trước đó, Tổng thống được bầu gián tiếp bởi các nhà lập pháp. Do đó, Tổng thống đương nhiên nhận được sự ủng hộ của cơ quan lập pháp và không phải lo lắng về việc các chính sách của mình sẽ bị cản trở. Nhưng hệ thống mới tạo ra khả năng Tổng thống sẽ xuất thân từ các đảng khác chứ không phải từ đảng đang chiếm đa số trong cơ quan lập pháp, điều này đến lượt nó lại có khả năng gây nên bế tắc. Nếu những nhà sửa đổi Hiến pháp Indonesia đã nghiên cứu hệ thống của Pháp, họ sẽ xem xét việc trao cho Tổng thống quyền kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp, hoặc ngay sau khi đắc cử, hoặc có thể sau đó một thời gian, để Tổng thống có thể thu hút toàn bộ cử tri nhằm tạo ra một sứ mệnh cầm quyền rõ ràng hơn.
Cấu trúc được thiết kế năm 2002 có xu hướng tạo nên sự bế tắc và cản trở việc ra quyết định tại Trung ương. Hơn nữa, cải cách khó có thể diễn ra vì bất kỳ dự thảo luật nào cũng phải được thông qua bởi DPR, mà cơ quan này không có động cơ để từ bỏ bất cứ quyền lực nào của mình. Duy trì khả năng cản trở Tổng thống phù hợp với mục tiêu của DPR. Nhìn từ góc độ này, khu vực hóa là sự cứu cánh, bởi vì nhiều quyết định quan trọng đã được trao lại cho các khu vực.
Cản trở lớn thứ hai đối với Indonesia là cơ sở hạ tầng. Khi bạn sở hữu 17.500 hòn đảo, khả năng kết nối những hòn đảo này trở nên rất cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, bởi vì những trung tâm dân cư quan trọng cần được kết nối với nhau để cho sự tăng trưởng trong một khu vực sẽ tạo thuận lợi cho khu vực khác. Nhiều bến phà tốc hành và chuyến bay nội địa hơn sẽ giúp ích đáng kể. Việc xây dựng những cây cầu nối các đảo cũng sẽ vô cùng có lợi. Không có điều nào đang được thực hiện đủ. Cầu bắc qua eo biển Sunda, vốn sẽ là cây cầu dài nhất của đất nước nối đảo Sumatra và Java, hai đảo quan trọng nhất Indonesia, đã được nói đến trong nhiều năm rồi. Nếu được xây dựng, cây cầu này sẽ biến hai đảo này thành một đảo lớn, tạo ra nhiều tiềm năng kinh tế. Nhưng không may, lời nói đã không được biến thành hành động.
Các nhà phân tích Indonesia thấy rằng sự cải thiện cơ sở hạ tầng đã chậm lại so với thời kỳ Tổng thống Suharto. Chính phủ hiện tại đã tổ chức một loạt hội nghị cấp cao về cơ sở hạ tầng và đã lên những kế hoạch lớn nhằm nâng cấp đường giao thông và các hình thức liên kết khác, nhưng vẫn thiếu những dự án thực tế. Sự thất vọng càng lớn hơn bởi sự thật rằng rất nhiều người trong tầng lớp tinh hoa Indonesia thích tận hưởng kỳ nghỉ cuối tuần của mình tại Singapore. Cuối mỗi kỳ nghỉ ngắn, họ trở về với một ý thức mạnh mẽ rằng giao thông và các sân bay của chính họ đang cần sự đầu tư và phát triển rất lớn.
Cuối cùng, đất nước phải giải quyết với tình trạng tham nhũng tràn lan. Sự khu vực hóa đã không làm được gì để giảm thiểu tình trạng này, vì các tỉnh trưởng cũng đang đòi hỏi phần của họ trong chiếc bánh. Tham nhũng là kết quả của những kẽ hở ở tất cả các cấp chính quyền. Một đô la được chi ra, nhưng 10 xu bị rút ra ở đây và 20 xu ở kia, và đến lúc nó tới được người công nhân bình thường, hay nhà đầu tư nước ngoài đang cố gắng thu lợi nhuận, thì chỉ còn lại rất ít. Tổng thống Yudhoyono hiểu rằng phá bỏ tham nhũng khó khăn như thế nào một khi nó đã được cho phép hình thành. Việc đó sẽ cần sự hành động hết sức quyết đoán và lâu dài, và phải bắt đầu từ Trung ương. Nếu tham nhũng có thể được giảm xuống đáng kể, khi đó một tương lai mới có thể được tạo ra và một Indonesia mới là có thể.
Indonesia đã đạt thành tích không làm quá tệ trong thập kỷ vừa qua, liên tục tăng trưởng từ 4% đến 6%. Đất nước hầu như đã không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Họ đang thu hút đầu tư lớn từ Trung Quốc và Nhật Bản, nhờ vào sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, trong khoảng 20 đến 30 năm tới, tôi sẽ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy đất nước chuyển mình. Malaysia có khả năng tạo ra những bước tiến lớn hơn. Họ nhỏ gọn hơn về mặt địa lý. Họ có hệ thống giao thông tốt hơn và một lực lượng lao động có khát vọng hơn.
Mặc dù sự phát triển tích cực đang diễn ra ở Indonesia, nhưng họ vẫn là một nền kinh tế dựa vào tài nguyên với lối suy nghĩ của những người muốn kiếm sống thông qua những gì mà thiên nhiên cung cấp hơn là những gì bạn có thể tạo ra bằng chính đôi tay của mình. Họ tin rằng họ có những nguồn tài nguyên đủ cho họ dùng trong một thời gian dài. Và họ có thể đúng. Họ có những vùng lãnh thổ lớn chưa được khai thác. Họ có dầu và khí đốt, chúng có thể bị cạn kiệt, nhưng họ cũng có gỗ và dầu cọ, không bị cạn kiệt, bởi vì đây là những sản phẩm nông nghiệp có thể được trồng lại nhiều lần. Những nguồn tài nguyên mà họ sở hữu có xu hướng tạo ra văn hóa an nhàn để nói rằng: “Đây là đất của tôi. Anh muốn những gì bên dưới đó phải không? Hãy trả tiền cho tôi để có nó”. Theo thời gian, điều này đã nuôi dưỡng một đặc tính không dám làm vốn sẽ không dễ dàng để khắc phục.
Hỏi: Indonesia tiếp tục có những tham vọng quyền lực lớn và vì sự tăng trưởng của họ trong những năm qua, họ đã cải thiện được hình ảnh quốc tế của mình. Ấn tượng của ông đối với những tham vọng đó và tác động của chúng đối với Châu Á cũng như đối với một nước láng giềng nhỏ như Singapore là gì?
Đáp: Nhìn chung, Indonesia hy vọng Singapore ủng hộ họ trên vũ đài quốc tế. Tôi cho rằng nếu điều đó không chống lại lợi ích của chúng tôi, chúng tôi sẽ ủng hộ họ. Ở ASEAN, họ vẫn là nhà lãnh đạo trên thực tế. Họ có 240 triệu dân. Tất nhiên, nếu là 240 triệu dân trên một hòn đảo lớn, điều đó sẽ khác. Nhưng dù vậy, họ vẫn là quốc gia lớn nhất.
Hỏi: Người ta cho rằng Indonesia trước đây đã làm cho ASEAN phát triển bằng cách cho phép các quốc gia khác, như Singapore và Malaysia, gây được sự chú ý. Họ không hống hách, không giống như Ấn Độ trong SAARC (Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á). Một Indonesia tự tin hơn có muốn tiếp tục giữ vị trí trung tâm ở ASEAN không?
Đáp: Chúng ta sẽ phải đợi xem. Nhưng ngay cả khi họ làm điều đó, tôi không thấy làm thế nào họ có thể lấy đi được những gì chúng tôi đã thiết lập cho chính mình, đó là một trung tâm thông tin, hậu cần, thương mại và đầu tư.
Hỏi: Khi ông là Thủ tướng, một trong những đặc điểm rõ ràng trong quan hệ giữa Indonesia và Singapore là mối quan hệ gần gũi của ông với Tổng thống Suharto. Vì vậy, hai quốc gia đã phát triển sự hiểu biết lẫn nhau. Ông có thấy những khó khăn hay những vấn đề phía trước hay không khi mà mối quan hệ đó không còn nữa?
Đáp: Dù không còn sự qua lại như ngày xưa, nhưng Thủ tướng Lý Hiển Long thỉnh thoảng vẫn gặp Tổng thống Yudhoyono. Sự trao đổi thương mại thường xuyên được tiến hành thông qua những người Indonesia gốc Hoa. Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Singapore phát triển một nhóm nòng cốt không phải là người Malay nhưng có thể nói tiếng Malay lưu loát để chúng tôi có thể duy trì những mối quan hệ này. Điều này là quan trọng nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với cả Malaysia và Indonesia.
Hỏi: Với sự thống trị của Trung Quốc ở phần này của thế giới, ông thấy mối quan hệ Indonesia-Trung Quốc sẽ phát triển như thế nào?
Đáp: Người Trung Quốc sẽ đối xử tôn trọng và lịch sự đối với họ. Họ muốn nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Indonesia sở hữu và tôi thấy rằng mối quan hệ đó đang phát triển. Họ đã dỡ bỏ lệnh cấm, được áp đặt dưới thời Tổng thống Suharto, về việc dạy tiếng Trung và việc kỷ niệm những ngày lễ của người Trung Quốc. Vì vậy, sự tương tác với Trung Quốc sẽ lớn mạnh. Họ đang khuyến khích người Hoa của họ đến Trung Quốc để kinh doanh.
Hỏi: Một vấn đề khác mà những nhà đầu từ nước ngoài, trong đó có Singapore, đã chú ý là việc gia tăng chủ nghĩa dân tộc kinh tế ở Indonesia. Các công ty bị áp lực phải tăng cổ phần của chủ sở hữu địa phương. Ông nghĩ điều này sẽ diễn ra nhiều hơn hay ít đi?
Đáp: Nhiều hơn, tôi nghĩ vậy. Họ muốn có một phần bánh lớn hơn.
Hỏi: Ông có thấy Indonesia vẫn còn là nơi ươm mầm của chủ nghĩa khủng bố không? Và sự gia tăng của lực lượng dân quân Hồi giáo có phải là một mối đe dọa đối với sự ổn định của Indonesia?
Đáp: Nếu bạn đọc các báo cáo, bằng cách nào đó Tổ chức Jemaah Islamiyah đã tuyển thêm một số tân binh ở Indonesia và họ đã tiến hành các vụ đánh bom ở Bali và khách sạn Marriott. Tuy nhiên, tôi thấy Indonesia khác với Malaysia. Malaysia là chủ nghĩa Hồi giáo cởi mởi hơn. Có những thay đổi quan trọng đang diễn ra ở Indonesia do ảnh hưởng của Ả-Rập Xê-út. Mô hình chủ nghĩa Hồi giáo của họ được lấy làm tiêu chuẩn vàng vì họ đã tổ chức những cuộc họp và chi trả chi phí cho những người Hồi giáo từ những khu vực khác của thế giới đến tham dự. Điều này dẫn đến sự gia tăng của các nhóm chủ nghĩa Hồi giáo gây sức ép ở Indonesia. Tuy nhiên, những điều này không thay đổi đột ngột – đặc biệt là nếu nói về văn hóa của người dân.
***
THÁI LAN: Tầng lớp dưới gây khuấy động
Sự xuất hiện của Thaksin Shinawatra đã thay đổi vĩnh viễn nền chính trị Thái Lan. Trước khi ông ta nổi lên, Bangkok thống trị mọi mặt trong cạnh tranh chính trị và chủ yếu cai trị theo hướng vì quyền lợi của thủ đô của đất nước. Nếu trước đó có bất đồng nào trong giới tinh hoa Bangkok thì cũng không có điểm nào khủng khiếp như những bất đồng sắp xảy ra. Cũng không có bất hòa nào gây chia rẽ như những bất hòa nổi lên trong và sau nhiệm kỳ của Thaksin. Những gì Thaksin đã làm chính là đảo lộn tình hình nguyên trạng chính trị Thái Lan bằng cách chuyển cho các vùng nghèo hơn của đất nước những nguồn lực từng bị Bangkok và các cư dân trung, thượng lưu của nó chiếm phần lớn. Nền chính trị của Thaksin là kiểu chính trị mang tính hòa nhập hơn, cho phép nông dân từ phía bắc và đông bắc được chia sẻ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Một hố sâu ngăn cách đã tồn tại từ trước khi ông xuất hiện trên chính trường, do các chính sách tập trung cho Bangkok của các vị tiền nhiệm gây ra. Tất cả những gì ông làm là thức tỉnh người dân về hố sâu này cùng sự bất công của nó, và đưa ra các giải pháp chính sách để vượt qua hố sâu ấy. Nếu ông không làm như vậy, tôi tin rằng ai đó khác cũng sẽ đến và làm điều tương tự.
Khi nhậm chức Thủ tướng năm 2001, Thaksin đã là một doanh nhân thành công và là một tỷ phú. Nhưng nếu người Thái giàu có trông chờ ông chứng tỏ tinh thần đoàn kết giai cấp, họ sẽ nhanh chóng bị thất vọng. Ông đã thực hiện các chính sách ưu đãi người nghèo nông thôn với một mức độ chưa từng có tiền lệ. Ông đã nới hạn các khoản vay cho nông dân, dành học bổng du học cho sinh viên con nhà nông thôn và cung cấp nhà ở được chính phủ trợ giá cho người nghèo đô thị, mà nhiều người trong số đó đã di cư ra thành phố để tìm việc làm và chỉ đủ tiền để sống trong các khu ổ chuột. Kế hoạch chăm sóc sức khỏe của ông – nhằm vào những ai không tự trả được bảo hiểm y tế – giúp người dân chỉ phải trả 30 baht (khoảng 1USD) cho mỗi lần khám bệnh.
Với những đối thủ của Thaksin, ông đã làm đảo lộn đất nước. Họ không muốn để ông yên thân với điều đó. Họ gọi ông là một kẻ dân túy và tuyên bố rằng các chính sách của ông sẽ khiến quốc gia phá sản. (Đáng chú ý là điều này không ngăn cản họ tiếp tục nhiều chính sách như vậy và tạo ra nhiều chính sách tương tự khi họ cầm quyền từ tháng 12-2008 đến tháng 8-2011.) Họ buộc ông phạm tội tham nhũng và ưu đãi công việc kinh doanh của gia đình, những cáo buộc mà ông đã bác bỏ. Họ cũng không vui vẻ với việc ông xử lý cứng rắn – mà một số người nói là độc tài –đối với truyền thông, cũng như cuộc chiến chống ma túy gây tranh cãi của ông ở miền nam đất nước, mà trong quá trình đó quy trình chuẩn mực và nhân quyền đôi khi có thể bị lơ là. Tuy nhiên, nông dân, với số lượng áp đảo, đã phớt lờ các chỉ trích và bầu lại ông năm 2005. Giới tinh hoa Bangkok cuối cùng đã không thể chịu đựng nổi con người này. Ông bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự năm 2006.
Kể từ đó, thủ đô của Thái Lan đã trải qua nhiều biến động. Từ năm 2008, cảnh hỗn loạn xảy ra nhiều lần trên đường phố Bangkok, với các cuộc biểu tình ồ ạt liên quan đến hoặc là phe Áo Vàng – những người phản đối Thaksin nhân danh bảo vệ chế độ quân chủ, hoặc là phe Áo Đỏ – gồm những người ủng hộ Thaksin nồng nhiệt. Nhưng cuộc tổng tuyển cử gần đây nhất – được tổ chức năm 2011 và trao chức Thủ tướng cho em gái của Thaksin là Yingluck – chứng minh cho sự ủng hộ của cử tri Thái đối với con đường mới mà Thaksin đã chọn cho Thái Lan. Những nông dân ở miền bắc và đông bắc sau khi đã được hưởng lợi từ việc tiếp cận vốn sẽ không từ bỏ điều đó. Thaksin và các đồng minh hiện đã chiến thắng năm lần tổng tuyển cử liên tiếp, trong các năm 2001, 2005, 2006, 2007 và 2011. Với các đối thủ của Thaksin, việc gắng sức đấu lại là vô ích.
Bất chấp những náo động gần đây trong xã hội Thái Lan, vẫn còn lý do để lạc quan về dài hạn. Áo Đỏ sẽ tiếp tục đông hơn Áo Vàng trong một thời gian dài vì nhóm sau hình thành từ một nhóm đang teo tóp. Thế hệ trẻ hơn đã không còn quan điểm kính trọng như trước đối với hoàng gia. Hơn nữa, mặc dù Vua Bhumibol Adulyadej là một nhân vật được kính trọng nhưng phần lớn uy tín và phép thuật liên quan đến ông sẽ không còn khi ông qua đời.
Quân đội luôn có vai trò trung tâm trong chính trị Thái Lan. Nó đảm bảo rằng không một phong trào nào chống lại chế độ quân chủ – nguồn gốc sức mạnh của quân đội – được phép ngóc đầu dậy. Tuy nhiên, cả quân đội cũng không còn lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận và thích nghi với tình hình đã thay đổi. Suy cho cùng, họ cũng không thể trụ vững trước ý chí của giới cử tri trong một thời gian kéo dài. Qua thời gian, các cấp bậc cũng sẽ vào tay những binh lính thuộc thế hệ trẻ, ít say mê chế độ quân chủ hơn. Các nhà lãnh đạo quân đội sẽ tiếp tục bám lấy các đặc quyền và sẽ không hài lòng với việc bị giáng xuống thành một đội quân bình thường. Nhưng họ cũng sẽ học cách sống với một chính phủ do các đồng minh của Thaksin lập nên. Thậm chí quân đội còn có khả năng chấp nhận sự quay trở lại Thái Lan của Thaksin nếu ông có thể hứa hẹn sẽ hòa thuận với họ và không đòi trả thù.
Thái Lan không thể quay trở lại nền chính trị cũ, trở lại thời đại tiền-Thaksin khi giới tinh hoa Bangkok nắm độc quyền quyền lực. Thái Lan sẽ tiếp tục đi theo con đường mà Thaksin lần đầu dẫn đất nước bước vào. Khoảng cách về mức sống trên toàn đất nước sẽ thu hẹp lại. Nhiều nông dân sẽ được gia nhập tầng lớp trung lưu và sẽ giúp thúc đẩy tiêu dùng nội địa của đất nước. Thái Lan sẽ ổn.
Hỏi: Một số nhà phân tích Thái Lan không lạc quan lắm về các thay đổi trong chính trị Thái Lan từ khi Thaksin xuất hiện. Họ nói về chuyện trong những năm 1960, các thủ tướng có thể phát triển kinh tế Thái Lan bằng các chính sách dài hạn, nhưng từ khi Thaksin nắm quyền năm 2001, chính phủ đã dùng đến các biện pháp dân túy ngắn hạn và phân phát cho người nghèo.
Đáp: Không, đó là quan điểm rất một chiều. Thaksin khôn khoan và sắc sảo hơn các nhà phê bình của ông ta nhiều. Đó là lý do tại sao ông ta cải thiện quan hệ với vùng đông bắc để vượt qua phản kháng từ họ.
Hỏi: Nhưng tôi nghĩ người ta lo ngại về cuộc đua tới đáy, để gắng sức giành càng nhiều phiếu của nông thôn càng tốt.
Đáp: Thế anh lấy tiền đâu cho các trợ cấp?
Hỏi: Vấn đề là ở chỗ ấy.
Đáp: Không thể, để trợ cấp được, anh phải có nguồn lực. Nó chỉ đến từ ngân sách. Và nếu anh muốn cho đi nhiều hơn mà ngân sách đã cân bằng rồi thì anh buộc phải tăng thuế.
Hỏi: Hoặc cũng có thể đến từ vay mượn.
Đáp: Ai sẽ cho vay? Với tài sản thế chấp gì?
Hỏi: Vậy ông không cho rằng Thái Lan sẽ trải qua một đợt tê liệt dài hạn vì sa vào nền chính trị dân túy?
Đáp: Tôi nghi ngờ điều đó. Sao họ lại thỏa mãn quá mức cho người nghèo làm gì?
Hỏi: Ấn tượng của ông về Thaksin là gì?
Đáp: Ông ta là nhà lãnh đạo thực tiễn, tích cực làm việc chăm chỉ để đạt kết quả nhanh chóng. Ông tin tưởng vào kinh nghiệm kinh doanh và bản năng của mình hơn các lý thuyết kinh tế. Ông ta từng nói với tôi rằng ông ấy đã đi xe khách suốt từ Bangkok tới Singapore và ông ấy xác định là đã biết điều gì khiến Singapore thành công. Vì thế ông ấy sẽ làm theo cách tương tự. Tôi không biết liệu một chuyến đi có cho ông ấy hiểu được hộp đen của chúng ta chính là giáo dục, kỹ năng, đào tạo và một xã hội cố kết với các cơ hội bình đẳng cho tất cả hay không. Đừng quên rằng ở đông bắc có nhiều người dân tộc Lào hơn người Thái.
Hỏi: Từng có một thời gian, ít nhất cách đây một thập niên, khi các lãnh đạo Singapore nói về Thái Lan như một đối thủ ghê gớm của Singapore với tư cách là một trung tâm giao thông, chế tạo và du lịch y tế. Điều đó còn đúng không?
Đáp: Hãy xem địa lý của họ. Anh có thể đi vòng qua Bangkok nhưng không thể nào đi vòng qua Singapore nếu đi bằng tàu biển.
Hỏi: Thế còn đường không?
Đáp: Kỹ năng và giáo dục của họ cao ở mức nào? Họ phải giỏi hơn chúng ta [đã].
Hỏi: Họ có tiềm năng để giỏi hơn chúng ta không?
Đáp: Trước tiên, chúng ta có lợi thế tiếng Anh. Thứ hai, chúng ta có cơ sở hạ tầng giáo dục đã đang tạo ra những sinh viên tốt nghiệp chất lượng cao, những người từ các trường bách khoa tới các viện giáo dục công nghệ (ITEs). Không ai là không có kỹ năng nào đó. Liệu họ có thể phát triển điều này cho 60 triệu dân rải khắp các vùng nông thôn không?
Hỏi: Chúng ta có thể thảo luận địa chính trị của khu vực không? Thái Lan là đồng minh của Hoa Kỳ. Nơi đây từng được dùng làm một căn cứ của Hoa Kỳ trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Liệu họ có tiếp tục làm đồng minh không?
Đáp: Điều đó không tạo khác biệt gì. Câu hỏi thật sự là : Liệu lợi ích của họ có trùng nhau? Anh có thể có một liên minh và liên minh đó sẽ vững chắc chỉ khi nào các lợi ích còn song trùng. Cũng giống như NATO. Họ đoàn kết khi còn Liên Xô. Khi Liên Xô tan rã, NATO trở nên vô hiệu.
Hỏi: Có một quan điểm là thời điểm bước ngoặt xuất hiện khi Thái Lan gặp khó khăn với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và người dân nhận ra là Hoa Kỳ đã không tới giải cứu họ. Và từ khi đó họ đã quyết định là Trung Quốc có thể là một người bạn còn đáng tin cậy hơn nhiều.
Đáp: Bởi vì giá trị của Thái Lan đối với Hoa Kỳ đã rớt xuống cùng với sự chấm dứt của Chiến tranh Việt Nam.
Hỏi: Ông nhìn nhận thế nào về phản ứng của người Thái trước sự thống trị và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực này của thế giới?
Đáp: Anh biết lịch sử của người Thái rồi. Khi người Nhật còn mạnh và chuẩn bị tấn công Đông Nam Á, họ cho phép quân đội Nhật vào Thái Lan, giúp họ dễ dàng tiến vào Malaysia và Singapore. Bởi vậy hễ ai là phe đang thắng, ai là bên mạnh hơn, thì đó sẽ là bên họ liên minh cùng.
***
VIỆT NAM: Mắc kẹt trong tư duy xã hội chủ nghĩa
MYANMAR: Các vị tướng thay đổi phương hướng
Xem phần còn lại của văn bản tại đây: Ly Quang Dieu viet ve Dong Nam A va Viet Nam.pdf
[1]
Trương Thị Thanh Hiền biên dịch và hiệu đính phần về Indonesia, Vũ Thị
Hương Giang phần về Thái Lan, Việt Nam, Myanmar. Chương này còn có phần
về Malaysia nhưng không được dịch ở đây.
Tốc độ và khuynh hướng phát triển của hai nước nhìn chung có nhiều điểm khá giống nhau, và hoàn cảnh dẫn đến những cải cách này có thể thấy được qua ba điểm đặc trưng: TIếp nhận (xã hội mong muốn sự thay đổi sau nhiều thập kỉ bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lí kinh tế kiểu Xô Viết), các cuộc khủng hoảng (dẫn đến nền kinh tế gặp khó khăn nghiêm trọng), và cơ hội ( sự sụp đổ của các nhà lãnh đạo độc đoán phải nhường chỗ cho các nhà lãnh đạo mới).
Ở các chỉ số phát triển, cả hai nước cũng đã có những kết quả khá tương đồng với nhau. Đối với Trung Quốc vào năm 1978, GDP bình quân đầu người ở mức khoảng 200 USD, 81,4% dân số nước này sống ở nông thôn và tỷ lệ xuất khẩu so với GDP là 6,6%. Đối với Việt Nam, các con số đó cũng có những điểm tương ứng ở năm 1986 là 240 USD, 80,3% dân số nông thôn và 6,6% tỷ lệ xuất khẩu.
Việt Nam và Trung Quốc cũng đã có những chính sách và kế hoạch phát triển tương tự nhau, trong đó bao gồm bốn phần chính. Đầu tiên, hai nước đã tạo cho người nông dân tự do hơn trong việc sử dụng đất, hợp thức hóa và chấp nhận cho sự phát triển của khu vực tư nhân ở một mức độ nhất định. Thứ hai, tập trung thực hiện toàn cầu hóa và thu hút FDI. Thứ ba, cải cách khu vực kinh tế nhà nước và tạo sự công bằng cho tất cả các ngành kinh tế. Thứ tư, hiện đại hóa ngành tài chính.
Mặc dù có những điểm tương đồng như vậy nhưng những gì mà cả hai nước đạt được trong hiệu suất lại khá khác nhau. Trong thực tế, khoảng cách GDP bình quân đầu người giữa Trung Quốc và Việt Nam đang ngày càng tạo ra một khoảng cách khá lớn. Đặc biệt vào năm 1985, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam cao hơn một chút so với Trung Quốc, nhưng đến thời điểm hiện tại thì con số GDP tính bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng một phần ba so với Trung Quốc. Các nhà phân tích dự đóan rằng, nếu tiếp tục giữ nguyên mô hình và tiếp tục phát triển thì sự khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và Trung Quốc vào năm 2050 sẽ tương tự như những gì chúng ta thấy ngày nay giữa Mexico và Hoa Kỳ.
Yếu tố quan trọng làm nền tảng cho sự chênh lệch và hiệu quả kinh tế giữa hai nước được nhóm thành ba phần: Cởi mở, đầu tư và quản trị nhân lực. Rõ ràng những gì Việt Nam thể hiện cho thấy Việt Nam không hề tụt lại phía sau so với Trung Quốc về việc cởi mở hay quản lí nguồn nhân lực. Trong năm 2011, tỉ lệ thương mại so với GDP là 165% ở Việt Nam và 50% ở Trung Quốc, trong khi đó tị lệ FDI ở Việt Nam là 62% và 10% ở Trung Quốc.
Việt Nam cũng được so sánh và tỏ ra không hề thua kém Trung Quốc trên hầu hết các chỉ số về nguồn nhân lực, bao gồm tuổi thọ bình quân, sự phổ cập Internet và số lượng sinh viên du học tại Hoa Kỳ trong mỗi 1000 sinh viên. Cụ thể, kết quả đạt được của Việt Nam qua Chương trình OECD Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA) thì sinh viên Việt Nam tại nước ngoài đều đạt mức trên trung bình so với mức của OECD ở cả ba môn thử nghiệm gồm Tóan, Khoa học và Đọc. Điều này có thể thấy sức mạnh về nguồn nhân lực của Việt Nam không hề thua kém nước bạn.
Ở lĩnh vực liên quan đến chất lượng quản lí nhà nước, Việt Nam đạt được sự ổn định chính trị nhanh hơn Trung Quốc, trong khi cả hai đều đạt được những kết quả khá cân bằng nhau về pháp quyền, tiếng nói, chất lượng giải trình và trong cả các cuộc chiến chống tham nhũng. Tuy nhiên, ở mặt hiệu quả của chính phủ và chất lượng quy định, Việt Nam lại kém hay thậm chí tồi tệ hơn Trung Quốc rất nhiều. Điều này cho thấy hệ quả thấp kém trong quản lí nhà nước của Việt Nam có được do các yếu tố liên quan đến lãnh đạo chứ không phải chênh lệch trong việc thiết lập thể chế hay chất lượng nguồn nhân lực.
Có những lý do lịch sử đem lại những hạn chế cho Việt Nam trong thời gian qua. Trước tiên, có sự khác biệt quan trọng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Hơn nữa, cả hai nước đều có cách tiếp cận khác nhau để duy trì quyền lực của mình. ĐCSVN dựa chủ yếu vào những gì họ có được từ chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Hoa Kỳ. ĐCSVN có xu hướng tìm đến những lợi ích của họ dựa vào những chiến thắng ở quá khứ để khắc phục những khó khăn trong thời điểm hiện tại và có khả năng là cả trong tương lai. Như việc gần đây Việt Nam đã liên minh mật thiết với Nga là một ví dụ. Ngược lại, ở Trung Quốc thì lấy cảm hứng từ các phép lạ Đông Á, đã tin rằng việc chuyển đổi Trung Quốc thành một quốc gia thịnh vương là cách duy nhất để tăng cường tính hợp pháp của Đảng.
Thứ hai, ĐCSVN đã đạt được nhiều phản ứng khả quan trong việc ra quyết định và hoạch định chính sách. Kết quả là, Việt Nam có xu hướng thụ động thực hiện theo mô hình của Trung Quốc trong khi vẫn phải miễn cưỡng để thử nghiệm và tìm ra con đường riêng cho mình. Ngược lại, ngay từ những năm đầu cải cách, ĐCSTQ đã thực hiện một cách nỗ lực và triệt để nhằm đảm bảo sức mạnh của lãnh đạo Đảng, những người mạnh dạn thử nghiệm và rút ra những bài học cho riêng mình sẽ đem lại khá nhiều cơ hội cho đất nước trong tương lai.
Thứ ba, với sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên và được sự trợ giúp lớn từ viện trợ nước ngoàii đã đem lại điều gì đó như một lời nguyền cho Việt Nam. Đất nước đã dựa quá nhiều vào viện trợ nước ngoài, kiều hối và đầu từ nước ngoài trong khi bỏ qua sự phát triển sức mạnh nền kinh tế bản địa. Dòng chảy của các nguồn lực bên ngòai đã cho Việt Nam những ấn tượng sai lầm rằng sự phát triển là một quá trình tích lũy vốn và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng chứ không phải là một quá trình mà trong đó các nhà lãnh đạo và xã hội phải liên tục gồng mình chống đỡ những thách thức và những thử nghiệm không đem lại kết quả tốt đẹp.
Bên cạnh những thiếu sót như vậy, Việt Nam vẫn có cơ hội tạo ra sự thay đổi trong những năm tới. Sự lãnh đạo hợp lý trong những lần cải cách sắp tới là cần thiết để phát triển kinh tế và đáp ứng với những nguyện vọng của người dân. Cuối cùng, không ai nên đánh giá thấp sức mạnh của nguời Việt khi người dân tại đây luôn hướng tới và theo đuổi giấc mơ ngàn năm: Độc lập, hòa bình và thịnh vượng.
Vũ Minh Khương, NUS/EAF
Việt Nam theo đuổi mô hình cải cách của Trung Quốc
Cải
cách kinh tế ở Việt Nam và Trung Quốc đã mang lại những kết quả khá khả
quang trong vài thập kỉ vừa qua. Ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân từ năm 1986 đến năm 2012 ở mức khoảng 7%, trong khi đó ở Trung
Quốc là 9,5% tính từ năm 1978 đến năm 2012. Bên cạnh đó, cả hai nước đã
chuyển mình từ nền kinh tế đóng cửa thành hai điểm đến hấp dẫn của giới
đầu tư, FDI và trở thành trung tâm sôi động trong lĩnh vực sản xuất và
thương mại toàn cầu.
Tốc độ và khuynh hướng phát triển của hai nước nhìn chung có nhiều điểm khá giống nhau, và hoàn cảnh dẫn đến những cải cách này có thể thấy được qua ba điểm đặc trưng: TIếp nhận (xã hội mong muốn sự thay đổi sau nhiều thập kỉ bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lí kinh tế kiểu Xô Viết), các cuộc khủng hoảng (dẫn đến nền kinh tế gặp khó khăn nghiêm trọng), và cơ hội ( sự sụp đổ của các nhà lãnh đạo độc đoán phải nhường chỗ cho các nhà lãnh đạo mới).
Ở các chỉ số phát triển, cả hai nước cũng đã có những kết quả khá tương đồng với nhau. Đối với Trung Quốc vào năm 1978, GDP bình quân đầu người ở mức khoảng 200 USD, 81,4% dân số nước này sống ở nông thôn và tỷ lệ xuất khẩu so với GDP là 6,6%. Đối với Việt Nam, các con số đó cũng có những điểm tương ứng ở năm 1986 là 240 USD, 80,3% dân số nông thôn và 6,6% tỷ lệ xuất khẩu.
Việt Nam và Trung Quốc cũng đã có những chính sách và kế hoạch phát triển tương tự nhau, trong đó bao gồm bốn phần chính. Đầu tiên, hai nước đã tạo cho người nông dân tự do hơn trong việc sử dụng đất, hợp thức hóa và chấp nhận cho sự phát triển của khu vực tư nhân ở một mức độ nhất định. Thứ hai, tập trung thực hiện toàn cầu hóa và thu hút FDI. Thứ ba, cải cách khu vực kinh tế nhà nước và tạo sự công bằng cho tất cả các ngành kinh tế. Thứ tư, hiện đại hóa ngành tài chính.
Mặc dù có những điểm tương đồng như vậy nhưng những gì mà cả hai nước đạt được trong hiệu suất lại khá khác nhau. Trong thực tế, khoảng cách GDP bình quân đầu người giữa Trung Quốc và Việt Nam đang ngày càng tạo ra một khoảng cách khá lớn. Đặc biệt vào năm 1985, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam cao hơn một chút so với Trung Quốc, nhưng đến thời điểm hiện tại thì con số GDP tính bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng một phần ba so với Trung Quốc. Các nhà phân tích dự đóan rằng, nếu tiếp tục giữ nguyên mô hình và tiếp tục phát triển thì sự khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và Trung Quốc vào năm 2050 sẽ tương tự như những gì chúng ta thấy ngày nay giữa Mexico và Hoa Kỳ.
Yếu tố quan trọng làm nền tảng cho sự chênh lệch và hiệu quả kinh tế giữa hai nước được nhóm thành ba phần: Cởi mở, đầu tư và quản trị nhân lực. Rõ ràng những gì Việt Nam thể hiện cho thấy Việt Nam không hề tụt lại phía sau so với Trung Quốc về việc cởi mở hay quản lí nguồn nhân lực. Trong năm 2011, tỉ lệ thương mại so với GDP là 165% ở Việt Nam và 50% ở Trung Quốc, trong khi đó tị lệ FDI ở Việt Nam là 62% và 10% ở Trung Quốc.
Việt Nam cũng được so sánh và tỏ ra không hề thua kém Trung Quốc trên hầu hết các chỉ số về nguồn nhân lực, bao gồm tuổi thọ bình quân, sự phổ cập Internet và số lượng sinh viên du học tại Hoa Kỳ trong mỗi 1000 sinh viên. Cụ thể, kết quả đạt được của Việt Nam qua Chương trình OECD Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA) thì sinh viên Việt Nam tại nước ngoài đều đạt mức trên trung bình so với mức của OECD ở cả ba môn thử nghiệm gồm Tóan, Khoa học và Đọc. Điều này có thể thấy sức mạnh về nguồn nhân lực của Việt Nam không hề thua kém nước bạn.
Ở lĩnh vực liên quan đến chất lượng quản lí nhà nước, Việt Nam đạt được sự ổn định chính trị nhanh hơn Trung Quốc, trong khi cả hai đều đạt được những kết quả khá cân bằng nhau về pháp quyền, tiếng nói, chất lượng giải trình và trong cả các cuộc chiến chống tham nhũng. Tuy nhiên, ở mặt hiệu quả của chính phủ và chất lượng quy định, Việt Nam lại kém hay thậm chí tồi tệ hơn Trung Quốc rất nhiều. Điều này cho thấy hệ quả thấp kém trong quản lí nhà nước của Việt Nam có được do các yếu tố liên quan đến lãnh đạo chứ không phải chênh lệch trong việc thiết lập thể chế hay chất lượng nguồn nhân lực.
Có những lý do lịch sử đem lại những hạn chế cho Việt Nam trong thời gian qua. Trước tiên, có sự khác biệt quan trọng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Hơn nữa, cả hai nước đều có cách tiếp cận khác nhau để duy trì quyền lực của mình. ĐCSVN dựa chủ yếu vào những gì họ có được từ chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Hoa Kỳ. ĐCSVN có xu hướng tìm đến những lợi ích của họ dựa vào những chiến thắng ở quá khứ để khắc phục những khó khăn trong thời điểm hiện tại và có khả năng là cả trong tương lai. Như việc gần đây Việt Nam đã liên minh mật thiết với Nga là một ví dụ. Ngược lại, ở Trung Quốc thì lấy cảm hứng từ các phép lạ Đông Á, đã tin rằng việc chuyển đổi Trung Quốc thành một quốc gia thịnh vương là cách duy nhất để tăng cường tính hợp pháp của Đảng.
Thứ hai, ĐCSVN đã đạt được nhiều phản ứng khả quan trong việc ra quyết định và hoạch định chính sách. Kết quả là, Việt Nam có xu hướng thụ động thực hiện theo mô hình của Trung Quốc trong khi vẫn phải miễn cưỡng để thử nghiệm và tìm ra con đường riêng cho mình. Ngược lại, ngay từ những năm đầu cải cách, ĐCSTQ đã thực hiện một cách nỗ lực và triệt để nhằm đảm bảo sức mạnh của lãnh đạo Đảng, những người mạnh dạn thử nghiệm và rút ra những bài học cho riêng mình sẽ đem lại khá nhiều cơ hội cho đất nước trong tương lai.
Thứ ba, với sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên và được sự trợ giúp lớn từ viện trợ nước ngoàii đã đem lại điều gì đó như một lời nguyền cho Việt Nam. Đất nước đã dựa quá nhiều vào viện trợ nước ngoài, kiều hối và đầu từ nước ngoài trong khi bỏ qua sự phát triển sức mạnh nền kinh tế bản địa. Dòng chảy của các nguồn lực bên ngòai đã cho Việt Nam những ấn tượng sai lầm rằng sự phát triển là một quá trình tích lũy vốn và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng chứ không phải là một quá trình mà trong đó các nhà lãnh đạo và xã hội phải liên tục gồng mình chống đỡ những thách thức và những thử nghiệm không đem lại kết quả tốt đẹp.
Bên cạnh những thiếu sót như vậy, Việt Nam vẫn có cơ hội tạo ra sự thay đổi trong những năm tới. Sự lãnh đạo hợp lý trong những lần cải cách sắp tới là cần thiết để phát triển kinh tế và đáp ứng với những nguyện vọng của người dân. Cuối cùng, không ai nên đánh giá thấp sức mạnh của nguời Việt khi người dân tại đây luôn hướng tới và theo đuổi giấc mơ ngàn năm: Độc lập, hòa bình và thịnh vượng.
Vũ Minh Khương, NUS/EAF
Bảo Anh chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Vũ Minh Khương là trợ lý giáo sự tại Trường Chính sách Công Cộng Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore
© 2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Không thể để báo lá cải hoành hành
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh |
TP - Trước thực trạng một số đơn vị báo chí thiên
về khai thác mặt trái, giật gân nhằm câu khách, Ủy viên Bộ Chính trị,
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh khẳng định: “Điều này
ảnh hưởng đến uy tín nền báo chí cách mạng, làm công chúng bức xúc".
Trước thực trạng một số đơn vị báo chí xa rời tôn chỉ, mục đích, thiên về khai thác mặt trái, giật gân, hình ảnh phản cảm nhằm câu khách vì mục tiêu kinh tế, ông Đinh Thế Huynh khẳng định: “Điều này ảnh hưởng đến uy tín nền báo chí cách mạng, làm công chúng bức xúc, những người làm báo chân chính cảm thấy bị tổn thương”.
Ngày 14/1, tại Hội nghị báo chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, bên cạnh việc ghi nhận những đóng góp của báo chí cho sự nghiệp phát triển chung, ông Đinh Thế Huynh thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, thiếu sót.
Trong đó ông đã nhắc tới thực trạng một số cơ quan báo chí vì chạy theo lợi ích kinh tế một cách phi văn hóa, vô trách nhiệm với xã hội; buông lỏng quy trình tác nghiệp, thiếu nhạy bén trong xử lý các tình huống; thông tin sai sự thật, thậm chí có thông tin sai sót ở mức nghiêm trọng, không thể khắc phục hậu quả.
Bất cập trong quy hoạch báo chí cũng dẫn tới tình trạng trùng lặp, vi phạm bản quyền về nội dung, phân tán, lãng phí các nguồn lực.
Dù nhìn nhận đây chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”, nhưng ông Huynh khẳng định những hạn chế, thiếu sót đó tác động tiêu cực đến việc xây dựng, củng cố nền tảng tinh thần xã hội, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ cho công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Thiếu sót này làm ảnh hưởng nền báo chí cách mạng VN, làm giảm hiệu quả, thành tựu mà đông đảo những người làm báo chân chính đã nỗ lực đạt được trong năm qua.
“Không thể để tình trạng các báo có xu hướng lá cải tiếp tục hoành hành. Và những người làm báo phải dũng cảm, biết hy sinh, dám từ bỏ nếu có lợi ích trong việc ra đời những phụ trương, những “ấn phẩm bẩn”, Trưởng Ban Tuyên giáo nói.
Ông Huynh khẳng định vai trò của cơ quan chủ quản là rất lớn, trực tiếp, có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, trong quy hoạch tới đây sẽ tính đến việc cho dừng những tờ báo mà cơ quan chủ quản không còn hoạt động, hoặc hoạt động không có hiệu quả, không có khả năng chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý tờ báo.
Chia sẻ với những người làm báo, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đánh giá 2013 là năm khó khăn chưa từng có của báo chí, thậm chí có tờ báo lâm vào cảnh nợ nần, phá sản, có tờ báo phải đóng cửa.
Trước thực trạng một số đơn vị báo chí xa rời tôn chỉ, mục đích, thiên về khai thác mặt trái, giật gân, hình ảnh phản cảm nhằm câu khách vì mục tiêu kinh tế, ông Đinh Thế Huynh khẳng định: “Điều này ảnh hưởng đến uy tín nền báo chí cách mạng, làm công chúng bức xúc, những người làm báo chân chính cảm thấy bị tổn thương”.
Ngày 14/1, tại Hội nghị báo chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, bên cạnh việc ghi nhận những đóng góp của báo chí cho sự nghiệp phát triển chung, ông Đinh Thế Huynh thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, thiếu sót.
Trong đó ông đã nhắc tới thực trạng một số cơ quan báo chí vì chạy theo lợi ích kinh tế một cách phi văn hóa, vô trách nhiệm với xã hội; buông lỏng quy trình tác nghiệp, thiếu nhạy bén trong xử lý các tình huống; thông tin sai sự thật, thậm chí có thông tin sai sót ở mức nghiêm trọng, không thể khắc phục hậu quả.
Bất cập trong quy hoạch báo chí cũng dẫn tới tình trạng trùng lặp, vi phạm bản quyền về nội dung, phân tán, lãng phí các nguồn lực.
Dù nhìn nhận đây chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”, nhưng ông Huynh khẳng định những hạn chế, thiếu sót đó tác động tiêu cực đến việc xây dựng, củng cố nền tảng tinh thần xã hội, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ cho công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Thiếu sót này làm ảnh hưởng nền báo chí cách mạng VN, làm giảm hiệu quả, thành tựu mà đông đảo những người làm báo chân chính đã nỗ lực đạt được trong năm qua.
“Không thể để tình trạng các báo có xu hướng lá cải tiếp tục hoành hành. Và những người làm báo phải dũng cảm, biết hy sinh, dám từ bỏ nếu có lợi ích trong việc ra đời những phụ trương, những “ấn phẩm bẩn”, Trưởng Ban Tuyên giáo nói.
Ông Huynh khẳng định vai trò của cơ quan chủ quản là rất lớn, trực tiếp, có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, trong quy hoạch tới đây sẽ tính đến việc cho dừng những tờ báo mà cơ quan chủ quản không còn hoạt động, hoặc hoạt động không có hiệu quả, không có khả năng chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý tờ báo.
Chia sẻ với những người làm báo, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đánh giá 2013 là năm khó khăn chưa từng có của báo chí, thậm chí có tờ báo lâm vào cảnh nợ nần, phá sản, có tờ báo phải đóng cửa.
(Tiền phong)
Doanh thu báo in giảm
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cho biết, đến hết tháng 12/2013 cả nước có 838 cơ quan báo chí in (tăng 25 cơ quan). Nếu số bản báo phát hành trên thị trường năm 2012 khoảng 850 triệu bản thì năm 2013 chỉ còn khoảng 836 triệu bản. Tổng doanh thu của báo chí in năm 2013 khoảng 4.100 tỷ đồng, giảm 0,8% so với 2012.
Hết tháng 12/2013, Việt Nam có 92 báo, tạp chí điện tử (cấp mới 19 báo, tạp chí điện tử ). Doanh thu quảng cáo trên báo điện tử trong năm 2013 dù tăng chậm nhưng dự báo thời gian tới rất khả quan.
Ngô Nhân Dụng - Sĩ khí rụt rè
Đọc một bài trên mạng Bô Xít Việt Nam về câu chuyện vạch ra những lầm
lẫn trong hai cuốn từ điển, bỗng nhớ đến hai câu thơ của Tú Xương tả
cảnh các nhà Nho trong thời Pháp thuộc:
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Nhiều vị độc giả có thể chưa đọc bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho
tiếng Việt” của tác giả Lê Mạnh Chiến, cho nên xin phép tóm tắt lại. Hai
cuốn từ điển được nói tới trong bài này là của Giáo Sư Nguyễn Lân, đã
tạ thế năm 2003. Cuốn đầu là “Từ điển từ và ngữ Hán Việt” đã in nhiều
lần, từ năm 1993, dài 867 trang (chắc tổng số trang phải là một số chẵn,
868?). Cuốn thứ nhì là “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” in lần đầu năm
2000, dùng phần lớn nội dung cuốn trước, cộng thêm phần tiếng Việt nên
dài hơn, tới 2112 trang, cũng đã xuất bản lại nhiều lần.
Năm 2004, tác giả Lê Mạnh Chiến đã viết một bài nhận xét về cuốn đầu, Từ điển Hán Việt, ông nêu ra 170 chỗ giải nghĩa sai lầm. Khi viết bài, chính ông chưa biết tên tác giả và cũng không thấy tên đầy đủ của cuốn từ điển, vì tập sách ông có trong tay đã bị rách mấy trang đầu. Nghe chi tiết đó, chúng ta có thể thương cảm các học giả độc lập sống trong một nước nghèo. Nhưng ông Lê Mạnh Chiến vẫn viết bài, để giúp các giáo sư và học sinh cả nước dùng cuốn từ điển này biết mà tránh những sai lầm trong đó. Ông gửi bài cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ. Nhưng tờ báo của Bộ Giáo Dục chỉ đăng được sáu kỳ (từ số 582 đến số 587, giữa năm 2004), thì loạt bài bị ngưng lại, không đăng nữa; các độc giả mới được thấy 67, 68 thí dụ, dưới một nửa số sai lầm mà ông Lê Mạnh Chiến tìm ra.
Tác giả sau đó có dịp gặp một nhà biên tập trong tờ báo trên, được nghe những lời giải thích. Mặc dù độc giả Tạp chí Thế Giới Mới chưa biết tên tác giả cuốn từ điển đó, nhưng những người trong cuộc biết đây là tác phẩm của Giáo Sư Nguyễn Lân, người được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ. Người ta cho biết “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người ‘có tiếng’ ca ngợi.” Nhưng họ phải ngưng đăng vì Giáo Sư Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện.” Ông Lê Mạnh Chiến kể: “Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.”
Sau khi bài báo bị chấm dứt, ông Lê Mạnh Chiến kể ông đã viết những bài ngắn hơn, mỗi bài khoảng 4,000 chữ, nêu ra khoảng 20 chỗ sai lầm làm thí dụ, cho đăng trên những tờ báo khác, như báo Đại biểu Nhân dân, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tạp chí Văn hóa Nghệ An, vào năm 2005. Ông Lê Mạnh Chiến cũng tiết lộ rằng ngay khi báo Đại biểu Nhân dân đăng kỳ đầu tiên, đã có người đến phản đối; đó là một giáo sư tiến sĩ, đại biểu quốc hội, liên hệ mật thiết với Giáo Sư Nguyễn Lân. Ông ta đến tòa báo nói rằng Giáo Sư Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh,” sao dám làm mất uy tín của ông?
Giáo Sư Nguyễn Lân đã qua đời trước khi những bài báo của ông Lê Mạnh Chiến xuất hiện, cho nên chúng ta không thể biết nếu còn sống ông cụ sẽ phản ứng ra sao. Lúc in hai cuốn từ điển trên, Nguyễn Lân đã gần 80 tuổi (cụ sinh năm 1906). Ở tuổi đó, ngồi biên soạn những cuốn từ điển một, hai ngàn trang giấy, khó tránh khỏi lỗi lầm. Thường ở các nước văn minh, không ai một mình soạn từ điển, mà lúc nào cũng có hàng chục, hàng trăm người cộng tác, nhiều người chỉ làm một công việc là tìm những chỗ sai lầm mà thôi. Chỉ ở những nước nghèo khó như nước ta mới có cảnh những tác giả “một mình một ngựa” làm từ điển! Theo thói quen của những người Việt Nam được giáo dục theo lối cổ truyền, chúng ta không nên vì câu chuyện này mà xúc phạm một người đã khuất. Nhưng điều đáng nói trong cả câu chuyện trên là thái độ và cách suy nghĩ, cách nói năng của những người trong chuyện.
Thứ nhất là một tờ báo của Bộ Giáo Dục phải tránh không vạch ra những sai lầm do “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” vấp phải! Đó cũng là lối lý luận của một đại biểu quốc hội, nói rằng “một nhân vật nổi tiếng đã ‘thành danh,’ sao dám làm mất uy tín của ông?”
Thái độ và lối suy nghĩ đó sẽ làm cho nước ta chậm tiến; không bỏ đi thì sẽ lạc hậu mãi mãi. Nhất là khi câu nói xuất phát từ miệng một giáo sư tiến sĩ, một nhà khoa học, đứng đầu một cái viện nghiên cứu to lớn có tầm vóc quốc gia. Khoa học tiến bộ chính là vì người lớp sau dựa trên các công trình của người lớp trước rồi tìm cách vượt lên trên tìm ra những điều “đúng” với thực tại hơn. Nếu Newton cứ sợ sệt, không dám nói những điều trái ngược với nhân vật nổi tiếng đã ‘thành danh’ là Aristote, thì vật lý học vũ trụ đã dậm chân tại chỗ từ thế kỷ 16! Nếu Einstein sợ không dám làm mất uy tín của Newton thì loài người chắc vẫn chưa biết rằng trọng khối và năng lượng chỉ là hai hình thức biểu hiện của một thực tại. Chính Einstein, vào lúc cuối đời, cũng công nhận rằng suốt đời ông coi thường lý thuyết vật lý lượng tử (quantum) là sai lầm.
Thứ hai, là hành động “tự kiểm duyệt” của một tờ tạp chí thuộc Bộ Giáo Dục, che lấp những sai lầm của “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” là một thói quen đáng xấu hổ. Bao nhiêu người đang tranh đấu đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, có ai chấp nhận những hành động “tự kiểm duyệt” như vậy hay không? Chắc hẳn những người phụ trách tờ báo Thế Giới Mới đã nhận được nhiều cú điện thoại gây áp lực, họ cũng lo sợ cho nồi cơm của gia đình mình, cho nên tự đục bỏ một bài viết có giá trị và rất ích lợi cho xã hội. Đó chính là cảnh “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo” mà Tú Xương đã mô tả.
Tại sao “Sĩ khí” lại “rụt rè” như gà phải cáo?
Chúng ta cũng không nên chê trách riêng những người biên tập báo Thế Giới Mới. Họ là sản phẩm của một nếp sống, một thứ “văn hóa” của thời đại; họ tập được thói quen đó vì những kinh nghiệp cuộc đời. Cho nên họ phản ứng theo những điều kiện trước mặt, như một phản xạ Pavlov. Nền nếp “văn hóa” đó được diễn tả qua câu tục ngữ “vạch áo cho người xem lưng.”
Không nên vạch áo cho người xem lưng. Nhưng nếu cái lưng đó có bệnh, cần phải chữa trị, thì có thể nào cứ khăng khăng không vạch áo cho người xem lưng mãi được chăng? Nhất là căn bệnh đó không phải chỉ tai hại cho một cá nhân, người có cái lưng cần vạch ra, mà còn tác hại trên hàng triệu sinh viên, học sinh sử dụng những cuốn từ điển đầy sai lầm. Một, hai thế hệ sử dụng các cuốn từ điển đó sẽ học sai, hiểu sai, tương lai tiếng Việt Nam sẽ ra sao?
Đây là hậu quả của lối sống trong một chế độ độc tài chuyên chế, tác hại đến cả xã hội. Đảng Cộng sản luôn luôn bưng bít các lỗi lầm. Đảng có cả một bộ máy công an và tuyên truyền để che đậy, giấu giếm những sai lầm. Các cuộc họp đều bí mật, bên trong chửi bới nhau, kể tội nhau những gì người ngoài không được biết. Các lãnh tụ không bao giờ sai lầm cả, chỉ có các cấp dưới thi hành sai mà thôi. Các cán bộ không được nói đến sai lầm của cấp trên.
Tất cả chỉ vì một chế độ độc tài chắc chắn phải đi đôi với bạo lực và gian trá. Bao giờ nước Việt Nam thoát khỏi ách độc tài thì mới thoát khỏi lối sống giả dối, xóa tan nền “văn hóa” che đậy, bưng bít.
Năm 1974, nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn đã viết một bài có tựa đề “Đừng Sống Dối Trá” (Live Not By Lies) đúng vào ngày ông bị mật vụ đến bắt đem đi. Sau đó ông bị trục xuất, sống lưu vong cho đến ngày chế độ cộng sản sụp đổ mới về nước. Cố tổng thống Tiệp Khắc Václav Havel (1936-2011) viết trong cuốn “Quyền lực cho những người Bất lực” (The Power of the Powerless,) năm 1978, đã mô tả nước ông là nơi các công dân bị bắt buộc phải “sống trong một trò giả dối” (live within a lie). Năm 1984, chính ông đã kêu gọi đồng bào ông: “Hãy sống thật!” Năm năm sau, ông được mời làm tổng thống một quốc gia bắt đầu lên đường dân chủ hóa.
Nhiều nhà trí thức Việt Nam như Hà Sĩ Phu cũng đang kêu gọi đồng bào hãy “biết hổ thẹn,” hãy ngẩng đầu lên nói sự thật. Một đảng viên cộng sản lâu năm như Lê Hiếu Đằng cũng can đảm công khai từ bỏ đảng để được sống thật. Những tấm gương đó cho thấy trong đất nước chúng ta vẫn còn rất nhiều người có sĩ khí. Hy vọng những tấm gương đó sẽ được nhiều người bắt chước. Để người Việt Nam có thể chúc nhau, nhân dịp Tết sắp đến, như lời Tú Xương đã chúc đồng bào phải sống ra sao để:
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Năm 2004, tác giả Lê Mạnh Chiến đã viết một bài nhận xét về cuốn đầu, Từ điển Hán Việt, ông nêu ra 170 chỗ giải nghĩa sai lầm. Khi viết bài, chính ông chưa biết tên tác giả và cũng không thấy tên đầy đủ của cuốn từ điển, vì tập sách ông có trong tay đã bị rách mấy trang đầu. Nghe chi tiết đó, chúng ta có thể thương cảm các học giả độc lập sống trong một nước nghèo. Nhưng ông Lê Mạnh Chiến vẫn viết bài, để giúp các giáo sư và học sinh cả nước dùng cuốn từ điển này biết mà tránh những sai lầm trong đó. Ông gửi bài cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ. Nhưng tờ báo của Bộ Giáo Dục chỉ đăng được sáu kỳ (từ số 582 đến số 587, giữa năm 2004), thì loạt bài bị ngưng lại, không đăng nữa; các độc giả mới được thấy 67, 68 thí dụ, dưới một nửa số sai lầm mà ông Lê Mạnh Chiến tìm ra.
Tác giả sau đó có dịp gặp một nhà biên tập trong tờ báo trên, được nghe những lời giải thích. Mặc dù độc giả Tạp chí Thế Giới Mới chưa biết tên tác giả cuốn từ điển đó, nhưng những người trong cuộc biết đây là tác phẩm của Giáo Sư Nguyễn Lân, người được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ. Người ta cho biết “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người ‘có tiếng’ ca ngợi.” Nhưng họ phải ngưng đăng vì Giáo Sư Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện.” Ông Lê Mạnh Chiến kể: “Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.”
Sau khi bài báo bị chấm dứt, ông Lê Mạnh Chiến kể ông đã viết những bài ngắn hơn, mỗi bài khoảng 4,000 chữ, nêu ra khoảng 20 chỗ sai lầm làm thí dụ, cho đăng trên những tờ báo khác, như báo Đại biểu Nhân dân, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tạp chí Văn hóa Nghệ An, vào năm 2005. Ông Lê Mạnh Chiến cũng tiết lộ rằng ngay khi báo Đại biểu Nhân dân đăng kỳ đầu tiên, đã có người đến phản đối; đó là một giáo sư tiến sĩ, đại biểu quốc hội, liên hệ mật thiết với Giáo Sư Nguyễn Lân. Ông ta đến tòa báo nói rằng Giáo Sư Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh,” sao dám làm mất uy tín của ông?
Giáo Sư Nguyễn Lân đã qua đời trước khi những bài báo của ông Lê Mạnh Chiến xuất hiện, cho nên chúng ta không thể biết nếu còn sống ông cụ sẽ phản ứng ra sao. Lúc in hai cuốn từ điển trên, Nguyễn Lân đã gần 80 tuổi (cụ sinh năm 1906). Ở tuổi đó, ngồi biên soạn những cuốn từ điển một, hai ngàn trang giấy, khó tránh khỏi lỗi lầm. Thường ở các nước văn minh, không ai một mình soạn từ điển, mà lúc nào cũng có hàng chục, hàng trăm người cộng tác, nhiều người chỉ làm một công việc là tìm những chỗ sai lầm mà thôi. Chỉ ở những nước nghèo khó như nước ta mới có cảnh những tác giả “một mình một ngựa” làm từ điển! Theo thói quen của những người Việt Nam được giáo dục theo lối cổ truyền, chúng ta không nên vì câu chuyện này mà xúc phạm một người đã khuất. Nhưng điều đáng nói trong cả câu chuyện trên là thái độ và cách suy nghĩ, cách nói năng của những người trong chuyện.
Thứ nhất là một tờ báo của Bộ Giáo Dục phải tránh không vạch ra những sai lầm do “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” vấp phải! Đó cũng là lối lý luận của một đại biểu quốc hội, nói rằng “một nhân vật nổi tiếng đã ‘thành danh,’ sao dám làm mất uy tín của ông?”
Thái độ và lối suy nghĩ đó sẽ làm cho nước ta chậm tiến; không bỏ đi thì sẽ lạc hậu mãi mãi. Nhất là khi câu nói xuất phát từ miệng một giáo sư tiến sĩ, một nhà khoa học, đứng đầu một cái viện nghiên cứu to lớn có tầm vóc quốc gia. Khoa học tiến bộ chính là vì người lớp sau dựa trên các công trình của người lớp trước rồi tìm cách vượt lên trên tìm ra những điều “đúng” với thực tại hơn. Nếu Newton cứ sợ sệt, không dám nói những điều trái ngược với nhân vật nổi tiếng đã ‘thành danh’ là Aristote, thì vật lý học vũ trụ đã dậm chân tại chỗ từ thế kỷ 16! Nếu Einstein sợ không dám làm mất uy tín của Newton thì loài người chắc vẫn chưa biết rằng trọng khối và năng lượng chỉ là hai hình thức biểu hiện của một thực tại. Chính Einstein, vào lúc cuối đời, cũng công nhận rằng suốt đời ông coi thường lý thuyết vật lý lượng tử (quantum) là sai lầm.
Thứ hai, là hành động “tự kiểm duyệt” của một tờ tạp chí thuộc Bộ Giáo Dục, che lấp những sai lầm của “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” là một thói quen đáng xấu hổ. Bao nhiêu người đang tranh đấu đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, có ai chấp nhận những hành động “tự kiểm duyệt” như vậy hay không? Chắc hẳn những người phụ trách tờ báo Thế Giới Mới đã nhận được nhiều cú điện thoại gây áp lực, họ cũng lo sợ cho nồi cơm của gia đình mình, cho nên tự đục bỏ một bài viết có giá trị và rất ích lợi cho xã hội. Đó chính là cảnh “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo” mà Tú Xương đã mô tả.
Tại sao “Sĩ khí” lại “rụt rè” như gà phải cáo?
Chúng ta cũng không nên chê trách riêng những người biên tập báo Thế Giới Mới. Họ là sản phẩm của một nếp sống, một thứ “văn hóa” của thời đại; họ tập được thói quen đó vì những kinh nghiệp cuộc đời. Cho nên họ phản ứng theo những điều kiện trước mặt, như một phản xạ Pavlov. Nền nếp “văn hóa” đó được diễn tả qua câu tục ngữ “vạch áo cho người xem lưng.”
Không nên vạch áo cho người xem lưng. Nhưng nếu cái lưng đó có bệnh, cần phải chữa trị, thì có thể nào cứ khăng khăng không vạch áo cho người xem lưng mãi được chăng? Nhất là căn bệnh đó không phải chỉ tai hại cho một cá nhân, người có cái lưng cần vạch ra, mà còn tác hại trên hàng triệu sinh viên, học sinh sử dụng những cuốn từ điển đầy sai lầm. Một, hai thế hệ sử dụng các cuốn từ điển đó sẽ học sai, hiểu sai, tương lai tiếng Việt Nam sẽ ra sao?
Đây là hậu quả của lối sống trong một chế độ độc tài chuyên chế, tác hại đến cả xã hội. Đảng Cộng sản luôn luôn bưng bít các lỗi lầm. Đảng có cả một bộ máy công an và tuyên truyền để che đậy, giấu giếm những sai lầm. Các cuộc họp đều bí mật, bên trong chửi bới nhau, kể tội nhau những gì người ngoài không được biết. Các lãnh tụ không bao giờ sai lầm cả, chỉ có các cấp dưới thi hành sai mà thôi. Các cán bộ không được nói đến sai lầm của cấp trên.
Tất cả chỉ vì một chế độ độc tài chắc chắn phải đi đôi với bạo lực và gian trá. Bao giờ nước Việt Nam thoát khỏi ách độc tài thì mới thoát khỏi lối sống giả dối, xóa tan nền “văn hóa” che đậy, bưng bít.
Năm 1974, nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn đã viết một bài có tựa đề “Đừng Sống Dối Trá” (Live Not By Lies) đúng vào ngày ông bị mật vụ đến bắt đem đi. Sau đó ông bị trục xuất, sống lưu vong cho đến ngày chế độ cộng sản sụp đổ mới về nước. Cố tổng thống Tiệp Khắc Václav Havel (1936-2011) viết trong cuốn “Quyền lực cho những người Bất lực” (The Power of the Powerless,) năm 1978, đã mô tả nước ông là nơi các công dân bị bắt buộc phải “sống trong một trò giả dối” (live within a lie). Năm 1984, chính ông đã kêu gọi đồng bào ông: “Hãy sống thật!” Năm năm sau, ông được mời làm tổng thống một quốc gia bắt đầu lên đường dân chủ hóa.
Nhiều nhà trí thức Việt Nam như Hà Sĩ Phu cũng đang kêu gọi đồng bào hãy “biết hổ thẹn,” hãy ngẩng đầu lên nói sự thật. Một đảng viên cộng sản lâu năm như Lê Hiếu Đằng cũng can đảm công khai từ bỏ đảng để được sống thật. Những tấm gương đó cho thấy trong đất nước chúng ta vẫn còn rất nhiều người có sĩ khí. Hy vọng những tấm gương đó sẽ được nhiều người bắt chước. Để người Việt Nam có thể chúc nhau, nhân dịp Tết sắp đến, như lời Tú Xương đã chúc đồng bào phải sống ra sao để:
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Ngô Nhân Dụng
Mỹ cam kết hỗ trợ an toàn cho vùng biển Đông Nam Á
(TNO) Ngày 14.1, Diễn đàn thường niên cấp Tư lệnh lần thứ 3 - Sáng kiến
hợp tác thực thi pháp luật trên biển các nước vùng Vịnh Thái Lan với
chủ đề "Tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin, đảm bảo an ninh, an toàn
trên biển" được tổ chức tại Đà Nẵng.
Các đại biểu tham dự diễn đàn chụp ảnh lưu niệm - Ảnh T.L |
Tham dự hội nghị, ngoài đoàn đại biểu thuộc lực lượng Cảnh sát biển của 4 quốc gia thuộc vùng Vịnh Thái Lan (Campuchia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam), dự lễ khai mạc còn có bà Rena Bitter, Tổng lãnh sự Mỹ tại TP.HCM và các đại biểu thuộc Chương trình Kiểm toán xuất khẩu và an ninh biên giới của quốc gia này.
Thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm, Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam chủ trì hội nghị. Phát biểu khai mạc, thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm nêu rõ: “Hội nghị này các quốc gia trong khu vực Vịnh Thái Lan sẽ thúc đẩy những lĩnh vực hợp tác cụ thể song phương và đa phương. Hoạt động của lực lượng thực thi pháp luật trên biển của quốc gia vùng vịnh thể hiện vai trò là lực lượng chấp pháp, lực lượng nòng cốt, chủ trì trong giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn trên vùng Vịnh Thái Lan".
Thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm cho biết, thông qua các diễn đàn, trong hai năm qua, lực lượng thực thi pháp luật trên vùng Vịnh Thái Lan của 4 quốc gia đã có mối liên hệ chặt chẽ. Lực lượng Cảnh sát biển VN đã làm tốt vai trò thực thi pháp luật trên biển, bảo đảm an ninh, an toàn trên các vùng biển để ngư dân được vươn khơi, đánh bắt cá một cách hợp pháp; quan trọng hơn là tạo một môi trường ổn định để phát triển kinh tế biển.
Tại diễn đàn này, Tổng lãnh sự Mỹ Rena Bitter đã có bài phát biểu nhấn mạnh về "tái cân bằng nỗ lực của Mỹ sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương".
Bà Tổng lãnh sự nói: "Một điều không còn là bí mật đó là trọng tâm địa chính trị của thế giới đang chuyển sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á với người dân năng động, có lịch sử phong phú và nằm ở vị trí chiến lược dọc theo các tuyến hàng hải là một điểm quan trọng trong tương lai của khu vực và thế giới.
Bà Rena Bitter cho biết, quyết định của Tổng thống Obama trong việc tái cân bằng nỗ lực sang khu vực châu Á -Thái Bình Dương thể hiện không chỉ tầm quan trọng ngày càng gia tăng của khu vực mà còn là sự tái khẳng định rằng Mỹ là cường quốc ở Thái Bình Dương có lợi ích gắn liền với nền kinh tế, an ninh và trật tự chính trị của châu Á.
Tổng lãnh sự Mỹ Rena Bitter đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam và các nước tham dự diễn đàn đồng thời nhấn mạnh: Mỹ cam kết hỗ trợ trong các nỗ lực bảo đảm an toàn cho vùng biển Đông Nam Á nhằm phục vụ cho một tương lai ổn định và thịnh vượng của tất cả.
Theo chương trình, hội nghị sẽ kết thúc vào ngày 16.1.
Nguyễn Thế Thịnh
(Thanh niên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét