Đã tròm trèm 1 năm ngày Hiến pháp
1992 (HP) được chính thức đưa ra lấy ý kiến đóng góp của nhân dân. Dẫu
vậy, đối với những người nặng lòng với sự phát triển của đất nước, nặng
lòng với HP thì thời gian ấp ủ, suy tư về sửa đổi HP còn lâu hơn nhiều.
Nhớ lại, từ lúc ban đầu, những người có địa vị, trách nhiệm, có học thức
đã đăng đàn trịnh trọng thưa với đồng bào những lời vốn đơn giản, bình
dị như nó cần phải có ở bất cứ xã hội dân chủ, văn minh nào nhưng lại là
mong muốn, ước ao của người Việt Nam. Rằng, đợt lấy ý kiến đóng góp sửa
đổi HP lần này không có vùng cấm, rằng tha thiết mong nhân dân tham gia
ý kiến để có bản HP xứng tầm, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển mới
v.v… và v.v…
Thế rồi, rất nhiều thời gian, công sức
và của cải đã được bỏ ra. Thậm chí, xét về hình thức, trưng cầu dân ý về
sửa đổi HP cũng đã được thực hiện. Rất nhiều ý kiến tâm huyết của nhân
sĩ trí thức, nhất là tầng lớp trí thức tinh hoa, những người đã được đào
tạo từ nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Họ đã đi nhiều, biết
nhiều, trải nghiệm vì thế cũng nhiều. Hơn ai hết, chính họ là những
người có thể hiểu thấu cơ sở của đời sống xã hội, nguồn gốc, động lực
phát triển; hiểu thấu những giá trị phổ quát cũng như khát khao của của
loài người tại những đất nước tiến bộ, văn minh mà ngày nay, con cái,
người thân của “một bộ phận không nhỏ” đã và đang tìm đến để học tập,
sinh sống, những mong khi học xong thì trở về đóng góp “phần nhỏ của
mình” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Oái ăm ở chỗ, không biết từ đâu, vì ai
đã khiến xã hội chúng ta, dù đã sang thế kỷ 21 lâu rồi mà thói nói một
đằng, làm một nẻo vẫn không có gì thay đổi. Ai đời lấy ý kiến đóng góp
sửa đổi hiến pháp mà cứ như là họp thường vụ…Công đoàn, theo kiểu ai
không đồng ý thì giơ tay; ai đời miệng luôn nói là trình độ dân trí,
nhận thức pháp luật của nhân dân thấp nhưng lại hỏi ý kiến đại trà về
hiến pháp…Ai đời chưa có kết quả công khai về đợt phát phiếu lấy ý kiến
nhân dân mà đã tuyên bố hùng hồn rằng tuyệt đại bộ phận nhân dân đồng ý
với dự thảo, với điều 4, với… Lẽ ra, cần có sự phân tích cẩn thận, công
khai làm rõ nguyên nhân bao nhiêu phần trăm đồng ý mà không có ý kiến gì
(thực chất, là họ không quan tâm vì không hiểu hoặc hiểu thì phần đông
trong số họ tin rằng có góp ý cũng chẳng được tiếp thu…); bao nhiêu phần
trăm phản đối; bao nhiêu phần trăm không đồng ý về những vấn đề cốt lõi
cần phải có đổi mới căn bản:
Có thể nói, đến nay, việc lấy ý kiến
đóng góp sửa đổi hiến pháp đã thất bại dù tốn không biết bao nhiêu công
sức, thời gian và tiền của. Bằng chứng là dự thảo HP hầu như không có gì
sửa đổi. Té ra, đừng tổ chức sửa đổi có khi nhân dân lại đỡ còng lưng
đóng thuế. Té ra, nên sửa lại câu nói của người xưa: Dân chủ xã hội chủ
nghĩa gấp triệu lần dân chủ tư sản VỀ HÌNH THỨC.
Người dân vỡ oà trong …thất vọng vì
những vấn đề lớn của HP vẫn án binh bất động. Thì đây, vấn nạn tham
nhũng, lãng phí và phòng chống tham nhũng lãng phí, lợi ích nhóm… đã
hoàn toàn bất lực, hiệu quả quản lý xã hội thì sờ đâu hỏng đấy. Bao
nhiêu vụ bức xúc kinh hoàng xảy ra thì bấy nhiêu vụ không thể quy trách
nhiệm cho một tổ chức cá nhân cụ thể nào cả. Vụ việc thẩm mỹ viện Cát
tường, không tìm được địa chỉ trách nhiệm; vụ oan sai thấu tận trời xanh
Nguyễn Thanh Chấn, đã phơi bày sự thối rửa không thể khắc phục của hệ
thống tư pháp (dù có cơ quan điều tra giỏi nhất thế giới). Nên đổi mới,
uốn nắn hệ thống tư pháp này hay nên xoá đi làm lại mới đáp ứng kỳ vọng
nhân dân về một nền tư pháp độc lập trong xét xử ?. Kinh tế nhà nước thì
càng chủ đạo càng như bồ thủng đáy, càng làm kiệt quệ tài nguyên,
khoáng sản và các nguồn lực khác của đất nước, càng đẩy đất nước đến chỗ
nợ nần. Vinashine hư hỏng, để lại món nợ 86.000 tỷ đồng (đến nay, hậu
quả mà nó mang lại ít nhất 2 lần số đó), định san sẻ rủi ro, nợ nần sang
“anh” khác thì bập ngay vào ụ nổi của Vinalines mất toi vài trăm tỷ.
Mua một thiết bị vài chục triệu mà người ta có thể nâng khống lên hàng
chục nghìn lần, đến hàng trăm tỷ để chiếm đoạt. Giá điện thì có cả
“BIKINI”, đất nước đang rất khó khăn, nhân dân đang cơ cực, miệng nói an
sinh xã hội trong khi mình thì bốc tiền mua xe sang vượt đến 250% quy
định, chi sai hoặc chưa đúng chế độ hàng nghìn tỷ đồng thì từ trên xuống
dưới rắp tâm định hô “biến”. An sinh xã hội hay đang bắt xã hội trả
thêm tiền để an sinh cho mình đây ?. Đền bù đất đai cỡ bát phở/mét vuông
đất trong khi bán lại vài chục triệu. Liệu đó là công bằng, dân chủ. Có
phải phần nhiều trong số chênh lệch đó đã được dùng để bôi trơn bộ máy
quản lý nhà nước từ trên xuống dưới không ? Và nhiều chuyện, càng nói,
càng rầu lòng khác….
Người viết tin rằng hầu hết các Đại biểu
Quốc hội đều biết rõ rằng những vấn nạn nói trên là cặp bài trùng (chứ
không phải là tạm thời) với dự thảo hiến pháp mà các vị sắp bấm nút
thông qua. Đó đương nhiên không thể là công trạng và cũng không thể là
chuyện bình thường trước lịch sử, trước Tổ quốc và trước nhân dân. Giải
quyết bài toán đó càng không hề phức tạp, khó khăn nếu không muốn nói là
đã có lời giải sẵn.
Cách đây gần 60 năm, vị Tổng tư lệnh đầu
tiên và duy nhất của Việt nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có quyết
định lịch sử “kéo pháo ra” và đã góp phần làm nên thắng lợi lịch sử,
chấn động địa cầu. Không nói ai cũng biết Ông đã khó khăn thế nào khi bỏ
ngoài tai mọi lời khuyên của chuyên gia Trung quốc vào thời điểm đó.
Ông đã vượt qua nhiểu phản đối, chỉ trích của các cộng sự và đối mặt với
trùng trùng, điệp điệp chiến sĩ, đồng bào muốn nhanh chóng khởi
sự…Ngoài trí tuệ siêu việt, biết địch, biết ta, “kéo pháo ra” còn là
quyết định thể hiện tính nhân văn tuyệt đỉnh, xót thương từng dọt máu,
từng dọt mồ hôi của đồng bào chiến sĩ, thể hiện tấm lòng tận trung với
nước, tận hiếu với dân. Quyết định đó còn là bằng chứng về sự độc lập
trong tư duy và đức hy sinh cao cả, sẵn sàng đánh đổi thành công, sự
nghiệp của cá nhân; đặt lên trên hết lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc.
Lịch sử ghi nhận, quyết định đó đã góp phần làm nên sự vĩ đại của một
con người, đã trở thành đền đài, sông núi, mãi mãi được nhân dân ghi
lòng tạc dạ.
Việc bấm nút thông qua hiến pháp sửa đổi
tới đây cũng yêu cầu mỗi vị Đại biểu Quốc hội một tầm nhìn, một tấm
lòng trung trinh vì nước, vì dân. Xin được thưa thêm với các vị, tính
lịch sử và tầm vóc của việc thông qua hiến pháp tại thời điểm này không
thua kém quyết định “kéo pháo ra” ngày nào. Các vị đã được nghe, đã được
“cảm” tiếng nói cháy bỏng từ gan ruột nhân dân. Thời cơ và thách thức,
thuận lợi và khó khăn, thực trạng và nguyên nhân đã bộc lộ hoàn toàn
theo nhiều chiều, nhiều góc cạnh khác nhau trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Thông tin mà các Vị có được trước khi quyết định bấm nút rõ
ràng hơn, đầy đủ hơn, khả năng tiếp cận chân lý của các vị cũng toàn
diện hơn so với “kéo pháo ra”. Vấn đề là thái độ và hành vi của các vị.
Thật khó lòng trách cách hành xử, cách
lãnh đạo, cách phát ngôn của những người đứng đầu Đảng Cộng sản. Vì như
mọi Đảng phái khác trên thế giới, họ phải đứng ra bảo vệ, duy trì sự
lãnh đạo của chính họ. Có chăng, chỉ trách họ đã lãnh đạo xã hội, lãnh
đạo đất nước gần 70 năm rồi mà tình hình chung của dân tộc Việt vẫn còn
đầy bó buộc, thiếu một triết lý rõ ràng, khoa học vươn tới cùng các dân
tộc khác, thiếu một cơ chế phát huy động lực phát triển…
Là một Đảng viên, người viết cũng mong
Đảng Cộng sản tiếp tục là lực lượng lãnh đạo một cách “danh chính, ngôn
thuận”, là một công dân, có gia đình, bạn bè, bà con, làng xóm, người
viết vô cùng băn khoăn khi nghe nói: Đảng không có lợi ích nào khác
ngoài hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Trong khi trong thực tế, ai giàu
hơn, ai ấm no (không nói là hạnh phúc, vì chắc gì họ đã hạnh phúc, vinh
quang) hơn “một bộ phận không nhỏ” vốn chắc chắn là Đảng viên ?; ai nói
mà không làm, ai tự cho mình ăn trên, ngồi trốc nhân dân, ai bao che,
dung túng cho khuyết điểm sai lầm của nhau ?; ai là người thiết kế và tổ
chức mô hình nhà nước mà đến nỗi tư pháp, hành pháp và lập pháp đã xuất
hiện những bất cập không thể tha thứ, phân công, phân cấp và giám sát
quyền lực coi như không có hiệu quả ?; ai là người miệng luôn nói suốt
đời phấn đấu hy sinh, luôn là Đảng viên gương mẫu bốn tốt, “học tập và
làm theo” như …sách mà ngoài đời làm nên Vinashine, Vinaline, đưa cả xe
sang, BIKINI vào giá điện độc quyền bòn rút của nhân dân ?; ai quản lý
mà nông dân – lực lượng trung thành nhất, đông đảo nhất một lòng một dạ
theo Đảng từ khi có Đảng nhưng hễ cứ được mùa là rớt giá; ngay cả giờ
đây, khi đứng trên luống cày, mảnh ruộng của mình vẫn cay đắng, vẫn đầy
âu lo, ngộ nhỡ ngày mai người ta lại làm nhà tầng trên đất của mình, ngộ
nhỡ mình ốm đau, bệnh tật, ngộ nhỡ mưa gió, bão bùng, ngộ nhỡ vì ai đó
mà mình trắng tay…?; và ai, ai, ai…? Điều đáng kinh ngạc là những vấn
nạn này đã, đang và sẽ sinh sôi nếu dự thảo hiến pháp được thông qua như
dự định của phần đông quí vị.
Xét đến cùng, “kéo pháo ra” là quyết
định lịch sử của một người nhưng làm nên “kéo pháo ra” là các anh hùng,
chiến sỹ và đồng bào. Giờ đây cũng vậy, nếu chưa có vị Tổng tư lệnh nào
bằng xương, bằng thịt hiện hữu thì nhân dân mong và uỷ thác cho các vị
Đại biểu Quốc hội khơi dậy, phát huy nhân tố “Tổng tư lệnh” trong tâm
khảm của mỗi quí vị (Về mặt triết học, người viết tin ai cũng có nhân tố
này) để làm nên HP lịch sử, đồng hành cùng dân tộc, vì trước hết là lợi
ích của nhân dân, của đất nước. Không phản đối ai lãnh đạo nhưng nhất
thiết HP phải là nền tảng, là cặp bài trùng với sự phồn vinh của đất
nước, sự ấm no, hạnh phúc, bảo đảm tự do và dân chủ của nhân dân. HP
nhất thiết phải là nền tảng khắc chế được những tồn tại yếu kém suốt 68
năm qua. HP mới phải tạo ra xung lực mạnh mẽ, dân cường, nước thịnh ngõ
hầu bảo đảm vững chắc hoà bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, cái mà cha
ông không tiếc máu xương mang lại. Đáp án về HP đáp ứng các yêu cầu này
cũng đã có sẵn, các vị cũng đã biết, đã “cảm”. Vấn đề là quyết định của
quí vị.
Gần 70 năm trước đây, “kéo pháo ra” là
quyết định lịch sử, đưa dân tộc ta lên tâm cao mới, người ra quyết định
đó cũng đã ung dung đi vào lịch sử dất nước và thế giới. Thần thái và
vong linh của con người đó, giờ khắc này, thật ra vẫn rất gần chúng ta,
theo như giáo lý của ông bà chúng ta. Người viết xin thắp thêm nến nhang
để Vị Tổng tư lệnh có thể hiển linh, thúc dục nhân tố “Tổng tư lệnh”
trong lòng mỗi quí vị Đại biểu Quốc hội khi bấm nút thông qua HP.
Bài học nào cho Việt Nam trong tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear ?
Tòa án Công lý quốc tế (CIJ –
Cour International de Jutice) vừa mới ra phán quyết hôm nay (11-11-2013)
về việc giải thích lại kết quả vụ phân xử ngày 15-6-1962 « chủ quyền
ngôi đền Preah Vihear » theo yêu cầu của Cambodge. Phía Cambodge chính
thức đệ đơn ngày 28-4-2011 yêu cầu Tòa giải thích lại nội dung của phán
quyết 1962. Nguyên nhân phía Thái Lan cho rằng phán quyết 1962 chỉ nói
đến chủ quyền của ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung
quanh (diện tích khoảng 4,5 km²).
Phán quyết ngày 11-11-2013 của CIJ không
gây ngạc nhiên : mỏm đồi mà ngôi đền Préah Vihear tọa lạc thuộc chủ
quyền của Cambodge và phía Thái phải rút hết mọi lực lượng vũ trang ra
khỏi khu vực. Đúng như nội dung của phán quyết tháng 6 năm 1962 : «
đường biên giới là đường xác định trên bản đồ và sẽ không cần thiết để
tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy hay
không… Tòa phán thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah
Vihear. »
Bài học trễ tràng cho phía Việt Nam : áp dụng cho trường hợp thác Bản Giốc.
Ngôi đền Préah Vihear, theo nội dung văn
bản, tọa lạc trên đường biên giới, trong khi trên bản đồ thì ngôi đền
này thuộc Cambodge. Tương tự, thác Bản Giốc, theo văn bản, tọa trên
đường biên giới, nhưng theo bản đồ thì nó thuộc VN. Yếu tố quyết định
trong phán quyết CIJ 1962, Tòa phán rằng ngôi đền thuộc chủ quyền của
Cambodge, vì nước này đã thể hiện các hành vi thuộc thẩm quyền quốc gia
(effectivité), liên tục trong một thời gian dài tại ngôi đền này không
có sự phản đối của Thái Lan. Trong khi thác Bản Giốc, chính quyền bảo hộ
Pháp đã thực thi nhiều hành vi thể hiện chủ quyền tại thác này, một
cách liên tục và hòa bình trong một thời gian rất dài, không gặp sự phản
đối nào từ phía TQ. Các hành vi tiêu biểu : cho quân đội đi tuần chung
quanh thác (bên này và bên kia thác), làm các cuộc nghiên cứu địa chất,
các dự án về du lịch… Sau khi VNDCCH được thành hình, nhà cầm quyền này
cũng tiếp nối quản lý thác này cũng không gặp sự phản đối nào của TQ.
Quyết định chia thác Bản Giốc và cồn Pò
Thong với TQ theo HUBG 1999, phía VN được phần ít, là một thiệt thòi lớn
cho phía VN. Trong bất kỳ tranh chấp biên giới nào, các yếu tố tương
quan sức mạnh, công pháp quốc tế, lịch sử và chính trị luôn là các yếu
tố quyết định. Phe yếu thế luôn tìm cách giải quyết tranh chấp bằng
phương tiện pháp lý và ngoại giao trong khi phe mạnh thì muốn dùng vũ
lực. Phía Thái Lan đã nhiều lần dùng vũ lực với Cambodge để hy vọng giải
quyết tranh chấp biên giới, trong khi phía Cambodge lại khôn khéo khai
thác các mặt ngoại giao và pháp lý để giải quyết. Bài viết dưới đây cho
thấy điều đó.
Việc phân định lại biên giới Việt-Trung,
đối với quần chúng VN, là một vấn đề « bí mật ». Nhân dân VN không hề
biết việc thuơng lượng xảy ra như thế nào, ai chịu trách nhiệm ? Kết quả
hiển nhiên, yếu tố chính trị và áp lực phía TQ đã là các yếu tố quyết
định cho vấn đề phân định. Nếu việc này áp dụng tương tự cho việc phân
định Biển Đông, ta có thể đoán trước kết quả.
Bài viết này nhằm kể lại lịch sử các
diễn biến tranh chấp hai nước Thái Lan và Cambodge về ngôi đền Préah
Vihear đồng thời nội dung phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế
15-6-1962. Hy vọng phía VN, nhà cầm quyền cũng như giới học giả, lấy ra
kinh nghiệm về ngoại giao và pháp lý của Cambodge để áp dụng trong tương
lai cho việc tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đồng
thời phân định Biển Đông.
Lược sử tranh chấp :
Tranh chấp giữa hai nước Thái Lan và
Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear bắt đầu từ sau Thế chiến thứ
II. Đây là một tranh chấp mang nhiều « kịch tính », bắt nguồn từ văn
hóa, lịch sử của hai nước. Thời gian gần đây, tranh chấp yếu tố « dân
tộc chủ nghĩa » các đảng phái hai bên lợi dụng, tình hình chính trị tại
Thái Lan.
Sau khi độc lập năm 1953, nhận thấy phía
Thái Lan vẫn còn chiếm đóng khu vực ngôi đền Preah Vihear, mặc dầu theo
các cuộc phân định Pháp-Thái trong quá khứ đã để khu vực ngôi đền thuộc
về Kampuchia, ông hoàng Sihanouk lên tiếng qua các văn kiện ngoại giao
yêu cầu Thái trả lại chủ quyền ngôi đền cho Cambodge. Trước đó, năm
1949, nước Pháp nhân danh là nước bảo hộ, cũng đã hai lần lên tiếng yêu
cầu Thái trả lại ngôi đền nhưng không có kết quả. Do đó Sihanouk đưa vấn
đề tranh chấp, trước hết ra ONU, nhưng tại đây tuyên bố không nhận phân
giải những tranh chấp về chủ quyền, biên giới ; do đó phải đưa qua Tòa
Án Quốc Tế CIJ (Cour Internationale de Justice – La Haye). Nội vụ tranh
chấp được phân xử, theo phán quyết CIJ ngày 15-6-1962, ngôi đền thuộc về
Kampuchia, đúng theo đường biên giới vẽ trên bản đồ đính kèm các công
ước về biên giới Pháp-Thái 23-3-1907. Tuy nhiên, phía Thái Lan, quần
chúng vẫn không « tiêu hóa » được quyết định này. Chủ quyền ngôi đền,
cũng như chủ quyền các tỉnh phía hữu ngạn sông Cửu Long như Battambang,
Sisophon, Siemreap…, thỉnh thoảng được các đảng phái chính trị hay các
nhân vật thuộc công chúng khơi dậy, cho rằng theo lịch sử, chúng thuộc
về Thái Lan.
Tranh chấp khu vực ngôi đền Preah Vihear
đến từ nhiều lý do : văn hóa, lịch sử, tâm lý quần chúng và tình hình
chính trị tại Thái Lan. Việc tranh chấp hiện nay đã vượt lên mức độ báo
động vì hai bên Thái-Kampuchia đã sử dụng vũ lực. Việc này đe dọa an
ninh trong vùng. Cuộc tranh chấp hôm nay được các nước trong Hiệp Hội
các nước Đông Nam Á (ASEAN), mà Kampuchia cũng như Thái Lan là thành
viên, hiện đang nhóm họp Hội nghị thuợng đỉnh tại Djakarta (Nam Dương),
hứa hẹn sẽ giải quyết trong « nội bộ ».
Câu hỏi đặt ra là giải pháp nào sẽ thỏa
mãn cho cả đôi bên ? Phía Thái Lan cho rằng phán quyết của CIJ chỉ nói
đến chủ quyền của ngôi đền mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung
quanh (diện tích 4,5 km²). (Xem hình 6)
Bài viết này sẽ thử tìm hiểu các nguyên nhân của tranh chấp, qua những
mối tương quan về lịch sử, pháp lý, chính trị và văn hóa giữa hai nước
Thái và Miên, để có một nhận định tổng quát về hình hình, sau đó thử đưa
ra một phương hướng giải quyết. Dĩ nhiên, các yếu tố về địa lý chính
trị, hoặc sức mạnh về kinh tế và quân sự của Thái Lan hiện nay, có thể
có ảnh hưởng quan trọng đến việc đi tìm giải pháp chung cuộc.
1. Ngôi đền Preah Vihear :
Ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên mỏm
núi cao 625 mét, nhìn xuống bình nguyên Kampuchia, thuộc rặng núi Dang
Rek (là biên giới giữa hai nước Thái-Miên đã được phân định theo các
hiệp ước Pháp-Thái 1904 và 1907 về phân định biên giới, sẽ nói bên
dưới), tọa độ kinh độ 14°23’ 18° đông, vĩ độ 104°41’ 02° bắc, cách Nam
Vang khoảng 400 km về hướng bắc và cách đền Angkor Vat khoảng 140 km về
hướng đông-bắc. Khu vực đền Preah Vihear tập hợp nhiều kiến trúc, có
diện tích khoảng 20 héc-ta, xây dựng theo chiều dài như hình 1a và 1b.
Theo các nhà khảo cổ, ngôi đền được xây dựng, sau đó được tu bổ và sửa
chữa, khoảng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Những ghi chú (bằng chữ
Phạn và chữ Khmer) trên các tấm bia ở trong đền cho thấy các triều đại
có đóng góp vào việc xây dựng và trùng tu là các triều đại Yacovaraman
(889-910), Suryavarman I (1002-1049) và Suryavarman II (1112-1162). Đây
là một di dản văn hóa lớn của nhân loại, được UNESCO công nhận từ năm
2008. Ngôi đền có kiến trúc đặc sắc văn minh Ấn Độ, thờ thần Shiva (Ấn
Độ Giáo) sau trở thành chùa Phật giáo. Kiểu mẫu kiến trúc đền này được
xem như là tiền thân của các kiến trúc được xây dựng hàng thế kỷ sau như
ở Angkor Vat, là những thể hiện sự huy hoàng của nền văn minh Khmer.
Hiện nay đền được gọi qua hai tên : tên Khmer là Preah Vihear, tên Thái
là Khao Phra Viharn, cùng có nghĩa là « đền thờ thánh ». Đền thuộc tỉnh
Preah Vihear (Kampuchia), tiếp giáp với tỉnh Sisaket (Thái Lan) phía
đông bắc.
Từ phía Kampuchia, địa hình mỏm núi rất
cheo leo, vách đá hình thẳng đứng, từ đây lên đền thiêng rất khó khăn,
vì đường đi là một con đường hẹp, chênh vênh đẻo vào núi đá thành từng
bậc thang, rất nguy hiểm. Về phía Thái Lan thì địa hình thoai thoải theo
dốc lài, do đó từ phía Thái Lan lên đền thiêng rất dễ dàng. Từ 2008,
sau khi ngôi đền được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và lịch sử của
nhân loại thì từ phía Kampuchia, một con đường làm bằng những bậc thang
gỗ từ đồng bằng lên đến đền. (Xem hình 2)
Hình 1a : Quần thể đền Preah Vihear.
Hình 1b : quần thể Preah Vihear nhìn từ một góc khác.
Hình 2 : đường dẫn bằng cầu thang gỗ, mới làm sau năm 2008, từ phía Kampuchia lên đền.
2. Sơ lược lịch sử :
2 .1 Sự suy vi của đế quốc Khmer.
Trước thế kỷ thứ 14, đế quốc Khmer là
một đế quốc hùng mạnh, có một nền văn minh sáng chói. So với các kiến
trúc đã được xây dựng tại Châu Âu cùng thời, thì kiến trúc Angkor Vat
được các nhà khảo cổ đồng ý xem là vượt trội so với các kiến trúc phương
Tây. Đế quốc Khmer chỉ bắt đầu suy sụp từ khi Vương quốc Xiêm Ayuthia
thành lập, vào thế kỷ 14. Dưới sự bành trướng thường trực của Xiêm (lần
lượt qua ba đế quốc Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok), qua nhiều thế kỷ,
lãnh thổ của đế quốc Khmer bị mất vào nước Xiêm rất lớn (khoảng 2/3 diện
tích Thái Lan hiện nay). Angkor, tượng trưng cho trung tâm văn hóa và
sức mạnh của đế quốc Khmer, bị Xiêm chiếm và cướp sạch vào năm 1350. Mặc
dầu quân Khmer chiếm lại được Angkor năm 1357 nhưng vào năm 1431 thì
Angkor bị bỏ phế do sự suy yếu của triều đại Khmer cũng như sự uy hiếp
thường trực của quân Xiêm. Các trung tâm quyền lực của Khmer sau này
được xây dựng như Ba-san, Phnom Penh và Longvek. Đến năm 1594, Longvek,
trung tâm quyền lực cuối cùng của đế quốc Khmer sụp đổ. Từ đó vương quốc
Khmer trở thành chư hầu của đế quốc Xiêm.
Có thể cho rằng nền văn minh Khmer tàn
lụn từ khi bỏ Angkor. Biến cố sụp đổ của Longvek thế kỷ sau đó đánh dấu
sự chấm dứt nền văn minh Khmer. Dân tộc Khmer đã bị quân Xiêm giết chóc,
đồng hóa, bắt làm nô lệ, truy nã suốt nhiều thế kỷ. Dân tộc này phải
tản mát, trốn vào rừng sâu núi thẳm để tồn tại, đến đổi dấu tích văn hóa
và ký ức về nguồn cội của họ đã bị xóa sạch. Những gì của tổ tiên họ
xây dựng, như đền Angkor Vat, họ hoàn toàn không biết. Các phế tích này
chỉ mới được phát hiện vào giữa thế kỷ 19, nhờ sự khám phá tình cờ của
các nhà thám hiểm người Pháp.
Dân tộc Khmer chịu sự bành trướng và
đồng hóa của Xiêm, từ phía bắc xuống và từ phía tây sang, cho đến thế kỷ
17 thì đụng độ một thế lực khác, với một nền văn minh đối chọi khác, đó
là đế quốc Đại Việt, hiện hữu ở phía đông, chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Hoa.
Đến cuối thế kỷ 18, đế quốc Khmer chỉ
còn là một nước nhược tiểu. Để hiện hữu, các vua Khmer phải chịu thần
phục cả hai đế quốc Xiêm và Đại Việt. Người Pháp đặt chân đến Đông Dương
vào giữa thế kỷ 19, trở thành cứu tinh của dân tộc Khmer. Vua nước Pháp
chấp nhận thỉnh nguyện của vua Khmer xin được sự bảo hộ của Pháp. Nhờ
sự can thiệp của Pháp mà việc bành trướng của Xiêm mới ngưng lại (nhưng
sự suy vi của Khmer chỉ mới chấm dứt sau chế độ Khmer đỏ sụp đổ).
2.2 Khmer dưới thời bảo hộ của Pháp.
Năm 1856 vua Ang Duong thỉnh cầu được sự
bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các
lãnh vực đối ngoại và đối nội.
Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu
tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, buộc Xiêm phải từ bỏ quyền «
thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer (tương tự Hòa ước Thiên Tân giữa
Pháp và nhà Thanh về Việt Nam năm 1885). Nhưng do thế lực của Pháp còn
yếu, ảnh hưởng của Xiêm còn sâu sắc trong nội bộ ở các tỉnh thuộc Khmer ở
hữu ngạn sông Cửu Long, do đó Pháp nhượng cho Xiêm các tỉnh Battambang,
Sisophon và Siemreap.
Sau khi đặt được nền hành chánh thực dân
tại Nam Kỳ và bảo hộ tại Bắc Kỳ, đến năm 1893, trong lúc việc phân định
biên giới giữa miền bắc Việt Nam và các tỉnh Hoa Nam tiến hành theo các
kết ước 1885 và 1887, Pháp nhận ra rằng quân Xiêm đã tiến chiếm các
vùng thuộc Lào (Vientiane và Luang Brabang), phía tả ngạn sông Cửu Long,
(có nơi gần sát Việt Nam, gần đèo Ai Lao thuộc Bình Định, cũng như các
nơi có dân tộc Thái sinh sống), mà các vùng này trước đây thần phục Việt
Nam. Điều nên biết là Thái Lan nằm giữa hai thế lực đế quốc Anh tại
Miến Điện và Pháp tại Việt Nam (và Kampuchia). Vì thế Pháp đưa chiến
thuyền uy hiếp Bangkok. Thời điểm này hải quân của Pháp có thể trội hơn
hải quân Anh, do đó phía Anh Quốc ngồi yên để Pháp uy hiếp Xiêm. Quân
Xiêm phải bỏ Lào và rút về bên kia sông Cửu Long. Việc này đưa đến hòa
ước Pháp-Xiêm ngày 3 tháng 10 năm 1893. Theo đó, ở phía Lào, Xiêm phải
từ bỏ mọi tham vọng về lãnh thổ ở phía tả ngạn sông Cửu Long; ở phía
Cambodge thì trả lại cho Khmer các tỉnh hữu ngạn sông Cửu Long, tức vùng
lãnh thổ đã nhượng cho Thái Lan từ năm 1867. Hòa ước này cũng dự trù
một công trình phân định biên giới giữa Thái và Đông Dương.
Hai thỏa ước về biên giới ngày 7 tháng
10 năm 1902 và ngày 13 tháng giêng 1904, tiếp nối hệ quả của hòa ước
1893, buộc Xiêm phải trả lại cho Khmer các tỉnh Battambang, Sisophon và
Siemreap. Việc cắm mốc được thực hiện trên thực địa năm 1907 qua một
công ước phân định biên giới.
Việc phân định biên giới cũng như việc
trả lại 3 tỉnh cho Cambodge, được tái khẳng định qua các hiệp ước
Pháp-Xiêm ngày 14 tháng 2 năm 1925, hiệp ước Pháp-Xiêm về Đông Dương
ngày 25 tháng 8 năm 1926 và hiệp ước hữu nghị Pháp-Xiêm ngày 7 tháng 12
năm 1937. Hiệp ước hữu nghị Pháp-Xiêm 1937 xác định các thể lệ về thuơng
mãi và lưu thông (trên sông Cửu Long) nhưng cũng đính kèm một qui ước
(charte) về biên giới giữa Thái và Pháp liên quan đến hai nước Lào và
Miên mà Pháp là nước bảo hộ. Điều 22 kết ước này khẳng định hiệu lực của
các hiệp ước về biên giới ký năm 1904 và 1907.
3. Đường biên giới qui ước :
3.1 Đường biên giới Thái-Miên theo hiệp ước 13-2-1904 và công ước 23-3-1907.
Theo Hiệp ước 13-2-1904 :
Article 1er
La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du
Grand Lac, de l’embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le
parallèle de ce point dans la direction de l’est jusqu’à la rencontre de
la rivière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se
confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu’à la chaîne de
montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux
entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d’une part, et du Nam Moun,
d’autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête
vers l’est jusqu’au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la
frontière du royaume de Siam, conformément à l’article I du traité du 3
octobre 1893.
Article 3e
Il sera procédé à la délimitation des frontières entre le royaume de
Siam et les territoires formant 1′Indo-Chine française. Cette
délimitation sera effectuée par des commissions mixtes composées
d’officiers nommés par les deux pays contractants. Le travail portera
sur la frontière déterminée par les articles 1 et 2, ainsi que sur la
région comprise entre le Grand Lac et la mer.
Theo Công ước 23 tháng 3 năm 1907 :
Clause I :
La frontière entre l’Indochine Française et le Siam part de la mer en un
point situé en face du plus haut sommet de l’île de Koh Kut. Elle suit à
partir de ce point une direction Nord-Est jusqu’à la crête de Phnom
Kravanh. Il est formellement convenu que, dans tous les cas, les
versants Est de ces montagnes, y compris la totalité du bassin Klong
Kopo, doivent rester à l’Indochine Française.
La frontière suit la crête des Phnom Kravanh dans la direction du Nord
jusqu’au Phnom Thom qui se trouve sur la ligne principale de partage des
eaux, entre les rivières qui coulent vers le Golfe de Siam et celles
qui coulent vers le Grand Lac. Du Phnom Thom la frontière suit d’abord
dans la direction du Nord-Oest, puis la direction du Nord, la limite
actuelle entre la province de Battambang d’une part, et celle de
Chantaboun et Krat d’autre part, jusqu’au point où cette frontière coupe
la rivière appelée Nam-Sai. Elle suit alors le cours de cette rivière
jusqu’à son confluent avec la rivière de Sisophon et cette dernière
jusqu’à un point situé à 10 kilomètres en aval de la ville d’Aranh. De
ce dernier point enfin, elle se continue en droite ligne jusqu’à un
point situé sur les Dang-Rèk à mi-chemin entre les passes appelées
Chong-Ta-Koh et Chong-Sa-Met. Il est entendu que cette dernière ligne
doit laisser en territoire siamois la route directe entre Aranh et
Chong-Ta-Koh.
A partir du point ci-dessus mentionné, situé sur la crête de Dang-Rek,
la frontière suit la ligne de partage des eaux entre le bassin du
Grand-Lac et du Mékong d’une part, et le bassin du Nam-Meun d’autre part
et aboutit au Mékong en aval de Pak-Moun, à l’embouchure du Huei-Done,
conformément au tracé adopté par la précédente commission de
délimitation le 16 Janvier 1907.
Un croquis schématique de la frontière décrite ci-dessus est annexé au présent protocole.
Điều 1 của Hiệp ước 1904, phản ảnh từ
điều 1 của Hiệp ước 3-10-1893, sau đó được xác định bằng văn bản (khoản
1) « Nguyên tắc về phân định biên giới đính kèm hiệp ước 23 tháng 3 năm
1907 » và bản đồ đính kèm.
Khoản 1 của « Nguyên tắc về phân định
biên giới đính kèm hiệp ước 23 tháng 3 năm 1907 » như đã thấy bao hàm
nội dung Hiệp ước 3-10-1893 và Điều 1 Hiệp ước 13-2-1904, do đó đầy đủ
và chính xác (vì có bản đồ đính kèm). Nội dung được tạm dịch như sau :
Khoản 1 : Biên giới giữa Đông Dương
thuộc Pháp và Xiêm bắt đầu từ một điểm ngoài biển, đối diện với điểm cao
nhất của đảo Koh Kut. Từ điểm này (đường biên giới) theo hướng đông bắc
đến đỉnh Phnom Kravanh. (Hai bên) xác quyết rằng trong mọi trường hợp,
triền phía đông của những ngọn núi, bao gồm toàn bộ lưu vực Klong Kopo,
thuộc về Đông Dương thuộc Pháp.
Đường biên giới qua các đỉnh của rặng
núi Phnom Kravanh theo hướng bắc đến Phnom Thom, (là điểm) nằm trên
đường phân thủy chính của các con sông chảy vào vịnh Thái Lan và những
con sông chảy Biển Hồ. Từ Phnom Thom đường biên giới thoạt tiên theo
hướng đông bắc, sau đó chuyển qua phía bắc, ranh giới hiện tại giữa các
tỉnh Battambang một bên, và của tỉnh Chantaboun và tỉnh Krat một bên,
cho đến điểm mà tại đó đường biên giới này cắt dòng sông mang tên là Nam
Sai. Sau đó đường biên giới theo con sông này cho đến hợp lưu của nó
với sông Sisophon, theo sông này cho đến điểm cách tỉnh Aranh 10 km về
phía hạ lưu. Cuối cùng từ điểm chót này, đường biên giới theo một đường
thẳng đến một điểm trên rặng Dang-Rek, khoảng giữa hai cửa ải gọi là
Chong-Ta- Koh và Chong-Sa-Met. Việc này được hiểu là đường (biên giới
theo đường) thẳng vừa nói để lại con đường trực tiếp nối Aranh và
Chong-Koh-Ta thuộc về đất Xiêm.
Từ điểm ghi trên, ở trên đỉnh của rặng
núi Dang Rek, đường biên giới theo đường phân thủy giữa lưu vực Biển Hồ
và sông Mekong một mặt, với lưu vực sông Nam Meun mặt khác, và dẫn đến
sông Mekong ở hạ lưu của Pak-Moun, ở cửa sông Huei-Done, theo đúng như
đồ tuyến đã được chấp nhận của ủy ban phân định ngày 16 tháng giêng năm
1907.
Một sơ đồ đường biên giới được mô tả ở trên được đính kèm theo đây (hình 3 và hình 3a).
Hình 3 : Bản đồ phân định đính kèm hiệp
ước 16 tháng giêng năm 1907 do hai ủy ban « Bernard » và « Monguers »
thực hiện từ 1903 đến 1907.
Hình 3a : Khu vực ngôi đền Preah Vihear và đường biên giới trong khu vực được họa theo bản đồ đính kèm công ước.
Như thế phần lớn đường biên giới
Thái-Miên, kể cả vùng cận đền Preah Vihear, được xác định bằng rặng núi
Dang Rek, theo đoạn có gạch dưới của văn bản phân định biên giới : đường
biên giới theo đường phân thủy, tức đường sống núi, chạy qua các đỉnh
cao nhất của rặng núi Dang Rek.
3.2 Tranh chấp đền Preah Vihear
Phía Thái Lan bắt buộc phải trả lại đất
các tỉnh đã chiếm năm 1941 cho Khmer, theo như các thỏa ước đã ký với
Pháp tại Washington tháng 12 năm 1946, nhưng tại khu vực ngôi đền Preah
Vihear thì quân Thái, đóng tại đây từ năm 1941, vẫn không chịu rút đi.
Phía ngoại giao Pháp có can thiệp hai lần vào năm 1949 nhưng không có
hiệu quả. Khmer được Pháp trả độc lập ngày 3 tháng 12 năm 1953. Đầu năm
1954, bộ ngoại giao Khmer bắt đầu gởi công văn chính thức phản đối Thái
Lan về vấn đề ngôi đền. Việc tranh chấp hai bên Thái-Miên về chủ quyền
ngôi đền trở nên gay gắt hơn vào năm 1955 khi phía Khmer tuyên bố trung
lập. Phía Thái cho rằng quyết định của Khmer đã trở thành một đe dọa an
ninh của Thái. Việc này có thể hiểu vì chính giới Thái Lan lo ngại, quân
Thái cộng, xuyên qua đất Khmer, sẽ tìm được hậu phương để quấy phá
trong lâu dài. Vì mọi người ai cũng biết bề trong của Sihanouk đã bắt
tay với Bắc Kinh. Biên giới Thái vì thế được quân sự hóa. Ngôi đền nhân
dịp này cũng được phía Thái Lan trùng tu. Việc hành hương lên ngôi đền
dĩ nhiên do cảnh sát Thái kiểm soát. Dầu vậy phía Thái cũng dễ dàng cho
dân Khmer lên đền hành hương. Phía lãnh đạo Khmer thì nhất quyết Preah
Vihear phải trả lại cho Khmer. Kể từ lúc này, dầu không cụ thể như Nam
và Bắc Việt Nam, nhưng tranh chấp ngôi đền đã có âm hưởng mâu thuẫn về
thức hệ chính trị (hai phe đối nghịch trong chiến tranh lạnh), Thái Lan
bắt đầu giúp cho phe chống đối với Sihanouk.
Tháng 3 năm 1956, Sihanouk đề nghị đưa
việc tranh chấp ngôi đền trước một trọng tài quốc tế. Tháng 12 cùng năm,
phía Khmer cho biết sẽ đưa nội vụ ra trước Liên Hiệp Quốc nếu quân Thái
không chịu rút.
3.3 Lý lẽ của Thái Lan :
Thái Lan viện lý lẽ ở việc không phù hợp giữa nội dung văn bản mô tả đường biên giới với bản đồ đính kèm.
Thật vậy, theo văn bản phân định ngày 23
tháng 3 năm 1907 ở trên, đường biên giới là đường phân thủy của rặng
Dang Rek. Theo hình thể địa lý khu vực đền Preah Vihear, ta thấy quần
thể này được xây dựng trên mỏm đá cao nhất so với các chóp núi chung
quanh. Hợp lý thì đường biên giới phải đi qua khu quần thể này (xem hình
4). (Để xác định đường phân thủy trong các cuộc phân chia biên giới,
nhân viên cắm mốc thường lấy nước đổ lên mặt đất, sau đó xem nước chảy
về hướng nào. Giả sử trong trường hợp biên giới Thái-Miên, nếu nước chảy
về phía sông Cửu Long hay lưu vực Biển Hồ thì vùng đất đó thuộc Khmer.
Ngược lại, nếu nước đó chảy vào sông Nam Meun thì đất đó thuộc Thái
Lan.)
Nhưng trên bản đồ thì toàn khu quần thể
Preah Vihear thuộc về lãnh thổ Khmer. Theo các biên bản phân giới, đường
bên giới cách quần thể Preah Vihear 500 m. (Công việc cắm mốc kéo dài
từ năm 1904 đến năm1904, do hai ủy ban phụ trách.)
Hình 4 : Góc bản đồ khu vực Preah Vihear, có ghi độ cao các chỏm núi. Khu đền được xây dựng ở đỉnh cao nhất.
Như vậy có sự mâu thuẫn giữa văn bản phân định biên giới và bản đồ đính kèm văn bản.
(Trường hợp này không phải là hiếm hoi,
nếu so sánh biên giới Thái-Miên với việc phân định và phân giới giữa
Pháp và nhà Thanh về biên giới giữa các tỉnh Hoa Nam và Bắc Kỳ. Tại đây,
hầu hết các biên bản phân định cũng như các bản đồ đính kèm đều hoàn
toàn sai với địa hình trên thực địa. Việc này đã gây khó khăn và làm mất
nhiều thì giờ cho các ủy ban phân giới cắm mốc. Đường biên giới do đó
không rõ rệt. Đó là hậu quả của các viên công chức làm việc trên bàn
giấy, phân định một cách mù quáng trên bản đồ, bằng những đường thẳng,
không cần biết tấm bản đồ đó có đúng hay không và đường biên giới (theo
đường thẳng) qua đồi núi, sông suối, chia cắt làng mạc ra sao ? Ở các
trường hợp khác, tại các nước Châu Phi hay Trung Đông, việc phân định
biên giới trên bản đồ, hoạch định đường biên giới theo đường thẳng, kinh
tuyến hay vĩ tuyến, bất kỳ đường này đi qua sông suối, đồi núi như thế
nào. Tệ hơn, các đường này phân chia làng mạc ra làm hai. Nhiều bộ tộc
cùng một giống nòi mà bị chia ra làm hai, làm ba nước. Có nhiều dân tộc
lớn bị phân chia rải rác, không có quốc gia. Đôi khi nhiều bộ tộc, hay
dân tộc, có thù hận với nhau lại cho ở chung vào một nước. Hệ quả của
các việc này gây ra nhiều cuộc chiến tranh đòi tự trị, các cuộc thanh
lọc chủng tộc, diệt chủng… mà đến hôm nay vẫn chưa chấm dứt.)
Phía Thái Lan cho rằng trong trường hợp
này giá trị văn bản sẽ cao hơn giá trị của bản đồ. Họ cũng cho rằng tại
khu vực này nhân viên phân định đã phân định không đúng qui tắc được xác
định trong văn bản đồng thời lúc phân định tại khu vực ngôi đền thì
không có mặt của nhân viên phân định phía Thái Lan. Tuy nhiên, việc này,
kiểm chứng lại biên bản ngày 18 tháng giêng năm 1907 thì thấy không
đúng. Nhân viên Thái có mặt trong lúc phân định khu vực đền Preah
Vihear. Đề nghị của Thái Lan hai bên mở cuộc thảo luận để làm sáng tỏ
đường biên giới.
Tháng 5 năm 1957, Thái đề nghị một « ủy
ban địa lý hỗn hợp » để xét lại đường biên giới. Theo họ, ngôi đền thuộc
về lãnh thổ Thái. Phía Thái cũng cho rằng, cho dầu ngôi đền này thuộc
về bất kỳ nước nào, hai nước cần phải dành sự dễ dàng cho việc đi hành
hương của dân chúng hai bên hoặc du khách nước ngoài. Một văn kiện ngoại
giao của Thái, tuyên bố năm 1958, đề nghị hai nước đều có chủ quyền
chung tại ngôi đền. Nếu trường hợp bên Khmer không đồng ý, Thái sẽ đặt
lại vấn đề toàn bộ hồ sơ phân định biên giới. Bởi vì, lý luận của Thái,
Thái ký hiệp ước biên giới là ký với Đông Dương thuộc Pháp chức không
phải ký với Khmer. Khmer và Đông Dương thuộc Pháp là hai nước khác nhau.
Thái cũng cho biết là sẵn sàng xuất ngân quĩ để trùng tu lại ngôi đền
đồng thời cũng biện hộ cho việc dàn quân ở khu vực đền Preah Vihear là
chỉ nhằm mục đích bảo vệ ngôi đền mà thôi.
Đề nghị thuơng thảo của Thái Lan được
phía Khmer chấp thuận. Phía Thái đề nghị một ủy ban hỗn hợp để nghiên
cứu hồ sơ Preah Vihear nhưng phía Khmer chỉ đồng ý thuơng thuyết trên
căn bản các kết ước về biên giới đã ký trong quá khứ giữa Pháp và Thái.
3.4 Trọng tài quốc tế :
Rốt cục vấn đề tranh chấp được phía
Cambodge đưa đưa ra Tòa án Quốc tế ngày 6 tháng 10 năm 1959. Mặc dầu
phía Thái Lan khiếu nại, yêu cầu CIJ bác đơn, nhưng qua phiên tòa sơ
thẩm ngày 26 tháng 5 năm 1961, CIJ tuyên bố có thẩm quyền phân xử vì hai
bên Thái và Cambodge đều có phê chuẩn chấp nhận hiệu lực các phán quyết
của CIJ. Hồ sơ có mã số CIJ 65.
Nguyên văn vụ xử ngôi đền Preah Vihear ngày 15 tháng 6 năm 1962 được ghi lại, những đoạn quan trọng, như sau (nguồn : CIJ) :
a) Với 9 phiếu trên 3, Tòa phán rằng
ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của
Cambodge. Vì vậy Thái Lan phải cho rút đi các lực lượng quân sự hay cảnh
sát, hay những người canh gác đã được bố trí tại ngôi đền, hay ở các
khu vực chung quanh, thuộc lãnh thổ Cambodge.
b) Với 7 phiếu trên 5, Tòa phán rằng
Thái Lan phải trả lại cho Cambodge những bức tượng, các bia đá, những bộ
phận rời thuộc về ngôi đền, những kiểu mẫu bằng sa thạch và đồ gốm cổ,
đã có thể bị phía nhà chức trách Thái lấy ra khỏi đền, hay khu vực đền,
trong lúc ngôi đền bị Thái chiếm đóng từ năm 1954.
CIJ đã lý luận như sau :
Ngôi đền cổ Preah Vihear ở trong tình
trạng hoang phế, tọa lạc trên một mỏm núi thuộc rặng Dangrek mà rặng núi
này là biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Mối tranh chấp có
nguyên nhân từ việc phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908
giữa nước Pháp, đại diện Đông Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này
chiếu theo công ước ngày 13 tháng 2 năm 1904. Công ước này đã thiết lập
một cách tổng quát một đường biên giới, đường này sẽ được xác định chính
xác bởi một ủy ban phân định hỗn hợp Pháp-Thái.
Ở khu vực có ngôi đền Preah Vihear,
đường biên giới phải theo đường phân thủy. Theo thỏa thuận từ buổi họp
ngày 2 tháng 12 năm 1906, để xác định đường phân thủy, ủy ban hỗn hợp
phải tìm hiểu trên thực địa, qua một cuộc hành trình đi dọc theo đường
sống núi của rặng Dangrek. Một trắc địa viên người Pháp cùng tháp tùng
để ghi nhận địa hình toàn vùng phía đông của rặng núi. Điều không nghi
ngờ là các vị chủ tịch của các ủy ban Pháp và Xiêm đã thực hiện cuộc
hành trình này và những người này cũng đã có thể thăm viếng ngôi đền.
Vào các tháng giêng – tháng hai năm 1907, ủy ban Pháp đã báo cáo lên
chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn toàn được phân định. Như
thế đường biên giới đã được xác định, cho dầu không tìm thấy dấu vết nào
về một quyết định, hay một ghi nhận bất kỳ liên quan rặng núi Dangrek
trong các biên bản được thành lập sau ngày 2 tháng 12 năm 1906. Lúc ủy
ban nhóm họp để kết thúc công trình phân giới, mọi người đã chỉ tập
trung vào kết luận về một hiệp ước khác, liên quan biên giới Pháp-Xiêm,
tức hiệp ước ngày 23 tháng 3 năm 1907.
Công tác cuối cùng của công trình phân
định là làm bản đồ. Nhà nước Xiêm, vì không có phương tiện kỷ thuật, đã
yêu cầu nhân sự phía Pháp để thành lập các bản đồ vùng biên giới. Các
bản đồ đã được một nhóm người Pháp hoàn tất vào xuân năm 1907, trong đó
có sự tham gia của nhiều người thuộc ủy ban hỗn hợp. Nhóm người này đã
thường xuyên quan hệ với nhà nước Xiêm trong năm 1908. Một tấm bản đồ
của ê kíp (sau khi thiết lập) đã giao cho nhà nước Xiêm, theo đó đền
Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer. Tấm bản đồ này cũng tài liệu I
(hình 3 và hình 3a) đính kèm hồ sơ, đã được phía Cambodge làm căn bản để
đòi hỏi chủ quyền ngôi đền.
Phía Thái phản biện : 1/ bản đồ không do
ủy ban hỗn hợp thiết lập, do đó nó không có giá trị bắt buộc ; 2/ tấm
bản đồ vẽ đường biên giới không phù hợp với đường phân thủy, mà đáng lẽ
đường (phân thủy) này để dành ngôi đền về phía Thái ; 3/ tấm bản đồ này
cũng chưa hề được phía Thái công nhận, hoặc giả nếu có, là do phía Thái
Lan tưởng rằng đường biên giới đã vẽ đúng theo đường phân thủy.
Lý lẽ của Tòa trước phản biện của Thái :
Tấm bản đồ I kèm theo chưa bao giờ được công nhận bởi ủy ban hỗn hợp.
Ủy ban này đã ngừng hoạt động từ nhiều tháng trước khi tấm bản đồ I được
thiết lập. Người ta có thể hoài nghi việc tấm bản đồ này đã được những
trắc địa viên sử dụng làm căn bản trong khu vực núi Dangrek và Tòa cho
rằng, nguyên thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng mọi
người đã thấy, trong hồ sơ phân định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ
Thái như là kết quả của công trình phân định biên giới. Nhà cầm quyền
Thái đã không có phản ứng nào (về các tấm bản đồ này) từ thời kỳ đó,
cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau. Người ta phải kết luận
rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía Thái đã chấp nhận
tấm bản đồ đính kèm I mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì bây giờ họ
không thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp thuận.
Nhà nước Xiêm, sau đó là Thái Lan, đã
chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm I trước năm 1958, là lúc hai
bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ quyền ngôi đền.
Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho thấy có
sự khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới
trên bản đồ I. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi
đền thuộc lãnh thổ Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng,
thậm chí in ra, những tấm bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về
phía Cambodge. Mặt khác, trong khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp
ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937, mà các hiệp ước này khẳng định hiệu lực của
đường biên giới, hoặc là vào năm 1947, trước ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm
tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt lại vấn đề này, thì họ đã không
làm gì cả. Tóm lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường biên giới như
đã vẽ trong bản đồ I, cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với đường
phân thủy của rặng Dangrek.
Phía Thái Lan đã tuyên bố rằng, trong
mọi thời kỳ tranh chấp, vì đã chiếm hữu trên thực tế ngôi đền, do đó
Thái không cần phải đặt lại vấn đề này. Việc chiếm hữu và hành sử chủ
quyền trên thực tế là những bằng chứng rằng phía Thái Lan chưa bao giờ
chấp nhận đường biên giới theo như bản đồ I.
Tòa bác lý lẽ này như sau : sẽ khó chấp
thuận các hành động này, đến từ các chính quyền địa phương, vì nó phủ
nhận thái độ của chính quyền trung ương. Hơn nữa, vào năm 1930, lúc
hoàng thân Damrong (bộ trưởng bộ Nội Vụ Thái), lúc thăm viếng ngôi đền,
đã được sự tiếp đón chính thức của giới chức Pháp phụ trách địa phương
của Cambodge, dịp này Thái Lan đã không có thái độ nào.
Vì vậy Tòa cho rằng phía Thái Lan đã
thực sự nhìn nhận tấm bản đồ I. Cho dầu còn hiện hữu một hoài nghi về
việc này, nhưng bây giờ Thái Lan không thể phủ nhận cái mà họ đã ký nhận
trước đó, bởi vì Pháp và Cambodge đã tin cậy vào nó, cũng như phía Thái
Lan đã hưởng được những lợi ích mà công ước 1904 dành cho nước này
trong vòng 50 năm. Mặc khác, sự ký nhận này bao hàm luôn tấm bản đồ I,
như những điều ước khác. Vào thời kỳ đó hai bên có thỏa thuận về cách
diễn đạt ý nghĩa của các điều ước, theo đó đường biên giới vẽ trên bản
đồ sẽ mạnh hơn ý nghĩa diễn tả trong công ước. Trong khi đó, không có gì
cho thấy rằng hai bên ký kết có sự chú ý đặc biệt đến đường phân thủy,
cho dầu bản thân đường này thể hiện một sự quan trọng cực kỳ cho hai bên
trong việc xác định đường biên giới. Tòa cho rằng ý nghĩa của nó hôm
nay vẫn không thể khác.
Vì vậy, Tòa cho rằng, trong vùng tranh
chấp, đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ không cần
thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân thủy
hay không.
Vì những lý lẽ này Tòa phán quyết thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear.
4. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear từ sau vụ phân xử đến nay.
Quần chúng Thái Lan thời đó đón nhận tin
CIJ xử Cambogde thắng kiện với sự phẫn nộ. Theo họ, nguyên nhân việc
thua kiện là do những người có trách nhiệm đã không coi là quan trọng
việc đưa ra tòa CIJ của phía Cambodge. Nhưng việc này, nếu theo dõi kỹ
hồ sơ của Cambodge, phía Thái Lan khó có thể thắng, cho dầu Thái Lan có
lập hồ sơ vững chắc đến mức nào. Bởi vì phía Cambodge đã áp đặt thẩm
quyền quốc gia (effectivité) một cách liên tục và hòa bình tại ngôn đền
trong một thời gian dài. Dĩ nhiên phản ứng của nhà nước Thái, trước áp
lực của dư luận, tìm cách xoa dịu tình hình. Nhiều tướng lãnh lên tiếng
cho biết sẽ « không bao giờ trả ngôi đền lại cho Cambodge » hay « mỗi
tất đất của Thái Lan sẽ được bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng xương máu
của chúng ta… ». Chính phủ Thái Lan cho rằng nguyên nhân thất bại của
Thái Lan là do sự hiện diện của cộng sản (sic !) và thành phần thực dân
(ý nói các thẩm phán người Pháp) trong bồi thẩm đoàn. Chính phủ Thái
cũng tìm cách trả đũa những nước đã tham gia vào phán quyết chống lại
Thái Lan, cũng như đặt lại vấn đề phán quyết của CIJ đồng thời bác bỏ
mọi nhượng bộ về lãnh thổ. Thái Lan cho triệu hồi đại sứ tại Pháp về
nước để phản đối Pháp vì các học giả hay các luật gia của nước này đã
giúp cho Cambodge trong việc soạn thảo và chuẩn bị tài liệu cũng như tư
vấn về luật. Thái Lan cũng trả đũa Hoa Kỳ, mặc dầu nước này là đồng minh
của họ, qua việc bộ Ngoại giao Thái tuyên bố sẽ không tham gia các buổi
họp tại Hội nghị Genève về sự trung lập của Lào hoặc đại diện của Thái
trong tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (OTASE) được nhận chỉ thị không nhóm
họp cho đến khi có lệnh mới. Thái trả đũa Hoa Kỳ vì tại phiên xử của
CIJ về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear, phía Cambodge được ông Dean
Acheson, nguyên là thẩm phán Tối Cao Pháp Viện của Hoa Kỳ, giúp đỡ. Dân
chúng Thái Lan cũng xuống đường phản đối dữ dội, trong suốt hai tháng,
tháng sáu và tháng bảy năm 1962, với sự tham dự đông đảo của sinh viên
từ các trường đại học trong nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến tranh
lạnh, Hoa Kỳ cần sự ủng hộ không chỉ Thái Lan, (Nam VN) mà còn cả Lào và
Cambodge trong chiến lược « be bờ – containment » chống lại khối cộng
sản. Nhưng Thái Lan cũng cần Hoa Kỳ nhiều mặt, ít ra về các khoản viện
trợ. Vì thế, Hoa Kỳ áp lực với chính phủ Thái để chấp nhận, hay ít ra
không phản đối, phán quyết của CIJ đồng thời yêu cầu nước này tiếp tục
trách nhiệm tại OTASE và ký thỏa ước về trung lập cho nước Lào. Thái âm
thầm rút khỏi Preah Vihear từ ngày 15 tháng 7 năm 1962 nhưng phải đến
đầu năm 1963 quân đội Cambodge mới bắt đầu tiếp quản ngôi đền này.
Nhà nước Thái giải thích cho dân chúng
việc phải rút bỏ Preah Vihear vì các lý do từ điều 94 của Hiến Chương
Liên Hiệp Quốc : 1/ Tất cả các nước thành viên của LHQ cam kết tuân thủ
các phán quyết của CIJ trong mọi tranh chấp mà nước thành viên này có
can dự. 2/ Nếu một bên của vụ tranh chấp không thực thi những khoản bắt
buộc do phán quyết của CIJ, thì bên kia có thể yêu cầu Hội Đồng Bảo An
và cơ quan này, nếu thấy cần thiết, có thể khuyến cáo hay quyết định
những phương cách cần thiết để thực hiện phán quyết đó.
Dầu vậy, phía Thái Lan cũng bảo lưu việc
sẽ trở lại bằng mọi phương tiện hợp pháp, khi thời điểm cho phép, để
dành lại chủ quyền ở ngôi đền. Một Ủy ban được thành lập gồm các nhà
luật học, chuyên gia nhằm nghiên cứu về vấn đề Preah Vihear cũng như về
chủ quyền của bốn tỉnh (hữu ngạn sông Cửu Long) hiện thuộc về Cambodge.
Nhưng vấn đề Preah Vihear vẫn không được
giải quyết ổn thỏa, vì quân Thái chỉ rút đi các đơn vị đóng trong đền
nhưng dưới chân ngọn đồi thì họ cho rào kẽm gai. Quân đội được lệnh khai
hỏa vào bất kỳ ai vượt qua hàng rào này. Như đã thấy trong hình, ngôi
đền Preah Vihear tọa lạc trên chỏm núi cao, ngăn cách với bình nguyên
Cambodge bằng một bức tường đá thẳng đứng. Nếu dưới chân ngọn đồi hoàn
toàn rào lại thì từ phía Cambodge không có cách nào lên đền. Phía Thái
Lan viện lý do phán quyết của CJI chỉ liên quan đến chủ quyền ngôi đền
mà không nói đến chủ quyền vùng đất chung quanh ngôi đền.
Chỉ hai tháng sau, súng đã nổ tại ngôi
đền từ khi có phán quyết của CIJ. Ngày 24 tháng 8, quân đội Cambodge tổ
chức một cuộc hành quân nhằm mục tiêu lập trong ngôi đền một đồn binh.
Việc này không thành công vì quân Thái nổ súng. Chỉ đến năm 1963, nhân
dịp đầu năm, ông hoàng Sihanouk tổ chức một cuộc hành hương lên ngôi
đền, với sự tham gia của nhiều phái đoàn ngoại giao nước ngoài. Cuối
cùng, ngày 5 tháng giêng năm 1963 cuộc hành hương được thực hiện hoàn
hảo mà không xảy ra vấn đề nào. Cuộc hành hương được biến thành buổi lễ
thâu nhận ngôi đền vào nước Cambodge.
Đến tháng 12 năm 1963, tình hình chính
trị trong khu vực thay đổi. Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp sâu hơn vào nội
tình Nam VN. Trong khi đó, ông hoàng Sihanouk công khai liên minh với
Trung Cộng. Việc này gây tức tối cho Hoa Kỳ, vì Cambodge đã phá vỡ thế
trung lập. Trong chừng mực, Cambodge trở thành hậu cần quan trọng của
quân cộng sản. Nhân dịp này phía Thái Lan chuẩn bị kế hoạch để chiếm lại
ngôi đền. Các cuộc chạm súng ở các vùng biên giới Thái-Miên trở nên
thường trực. Nhà nước Thái cũng chuẩn bị dư luận trong nước, qua các
tuyên bố của tướng Praphat trước một diễn đàn sinh viên : « Cho đến khi
tôi chết, tôi vẫn ước mơ lấy lại ngôi đền Preah Vihear ».
Hoa Kỳ chấm dứt quan hệ ngoại giao với
Cambodge tháng năm năm 1965. Trước đó một tháng, quân Thái đã thình lình
tấn công và chiếm được ngôi đền, nhưng vài hôm sau thì bị quân Cambodge
lấy lại. Các cuộc đụng độ kéo dài cho đến tháng 6 năm 1966. Ông hoàng
Sihanouk vận động đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An LHQ nhưng việc này không
thành vì không thể thuyết phục để có đa số phiếu. Phía Thái Lan thì cho
rằng nguyên nhân việc đụng độ giữa quân đội hai bên là do từ phía
Cambodge nổ súng trước, quân đội Thái chỉ nổ súng tự vệ và trả đũa. Cho
đến khi Cambodge và Hoa Kỳ nối lại quan hệ ngoại giao, tháng sáu năm
1966, thì tình hình biên giới Thái-Miên mới ổn định. Cuối tháng 6 năm
1966, một phái đoàn quân sự thuộc ONU đến quan sát khu vực và nhận thấy
rằng mọi sự đều bình thường.
Hai bên Thái-Cambodge, qua trung gian
của một ủy ban thuộc LHQ, từ tháng 9 năm 1966, bắt đầu đối thoại về vấn
đề biên giới. Tháng 3 năm 1970 ông hoàng Sihanouk bị lật đổ. Tướng Lon
Nol, thân Mỹ, lên lãnh đạo Kampuchia. Tình hình khu vực lúc đó bất ổn do
thế lực của phe cộng sản tăng cao. Khmer đỏ được sự trợ giúp trực tiếp
từ Trung Cộng nên phát triển mạnh. Do nhận định đúng tình hình, Thái Lan
lựa chọn thái độ « không can thiệp » vào các vấn đề nội bộ của
Kampuchia, vì lo ngại quân Thái cộng phát triển do bắt tay được với
Khmer đỏ và Việt Cộng. Tướng Lon Nol đề nghị với Thái Lan hai nước «
cộng đồng quản lý – condominium » về ngôi đền Preah Vihear để hy vọng
liên kết với Thái Lan chống lại Khmer đỏ và Việt Cộng nhưng bị Thái từ
chối. Thái viện lý do tình hình không thuận tiện để thuơng thảo về vấn
đề biên giới. Vấn đề tranh chấp Preah Vihear vì vậy chìm vào quên lãng.
Một thời gian dài với gần ba thập niên
Kampuchia liên tục chịu đựng chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, họa
diệt chủng, và bất ổn thường trực (1970-2000). Quân Khmer đỏ thua trận
1979, tàn quân rút vào các chiến khu vùng tây và tây bắc Kampuchia, giáp
ranh với Thái Lan, tức khu vực thuộc các tỉnh Preah Vihear, Siem Reap,
Battambang. Ở đây quân Khmer đỏ lại được các tài phiệt và quân phiệt
Thái Lan bảo vệ, một mặt dùng Khmer đỏ bảo vệ biên giới, ngăn chận bước
tiến của Việt Nam, một mặt mua bán đá quí. Khu vực ngôi đền bỏ hoang
phế. Chỉ vài khoảng cuối thập niên 90, khi khối cộng sản sụp đổ và VN
rút khỏi Kampuchia, hòa bình mới bắt đầu lập lại trên đất này.
Năm 2000, hai nước Thái và Kampuchia ký
kết một bản ghi nhớ (MOU – memorandum of understanding) về việc hợp tác
giữa hai bên trong một Ủy Ban hỗn hợp về biên giới JBC (Commission Mixte
des Frontières) để kiểm soát và cắm mốc biên giới chung dựa trên các
bản đồ đã được hai bên công nhận. Trong thời chiến tranh, một số mốc
giới bị mất mát hay bị dời đi.
Hai bên chỉ căng thẳng trở lại từ tháng 7 năm 2008. Nguyên nhân bắt
nguồn từ tháng 7 năm 2008, sau buổi họp tại Canada, UNESCO đã công nhận
ngôi đền Preah Vihear của Kampuchia là một di sản văn hóa của nhân loại.
Hình 5 : Bản đồ khu vực Preah Vihear được
UNESCO ghi vào « di sản văn hóa của nhân loại ». Vùng màu vàng thuộc về
khu vực đền. Vùng màu xanh là vùng mở rộng.
Việc này gây làn sóng bất bình trong dân
chúng cũng như chính giới Thái Lan. Họ cho rằng mặc dù ngôi đền Preah
Vihear thuộc về Kampuchia nhưng khu vực này vẫn chưa được phân định rõ
rệt. Nạn nhân đầu tiên là ông Noppadon Pattama, Bộ trưởng bộ Ngoại Giao
Thái Lan. Ông này đã phải từ chức, vì đã ký với Kampuchia trước đó một
thỏa ước hữu nghị liên quan đến việc ủng hộ đề nghị (lên UNESCO) của
Kampuchia về ngôi đền Preah Vihear (là « di sản văn hóa nhân loại »).
Văn bản ký kết, nếu có hiệu lực, không những hàm ý công nhận chủ quyền
của Kampuchia tại ngôi đền mà còn công nhận toàn bộ khu vực chung quanh
Preah Vihear (khoảng 4,5 km²) thuộc về Kampuchia. Theo phán quyết của
Tòa án Tối cao Thái Lan thì thỏa ước hữu nghị mà ông Noppadon Pattama ký
kết với Kampuchia thì không có hiệu lực, vì nó vi hiến.
Từ tháng 4 năm 2011, tranh chấp ngôi đền
đột ngột căng thẳng trở lại, với vài cuộc chạm súng nhỏ giữa quân đội
hai bên Thái-Khmer, làm cho một số lính của hai bên tử thuơng. Việc căng
thẳng này làm cho dân chúng sinh sống các vùng phụ cận, gồm trên 10.000
người, phải di tản sang các vùng chung quanh. Cũng cần nhắc lại, năm
1992, Thái Lan đã chống lại việc UNESCO nhìn nhận Angkor Vat là di sản
văn hóa của nhân loại.
Thực ra, nguyên nhân vụ căng thẳng bắt
nguồn từ chính trị. Từ năm 2006, sinh hoạt chính trị Thái Lan có nhiều
bất ổn. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thường xuyên được các đảng
phái chính trị khai thác để kích động quần chúng. Thủ tướng Thaksin bị
quân đội đảo chánh năm 2006, mặc dầu ông này đã được đắc cử qua một cuộc
bầu cử dân chủ. Việc loại ông Thaksin ra khỏi chính trường bằng một
phương pháp « phi dân chủ » đã làm cho dân chúng, phe ủng hộ Thaksin,
phẫn nộ. Phe quân đội đảo chánh được sự đồng thuận của nhà vua. Hiện nay
chính quyền do phe dân sự đối lập với Thaksin nắm quyền lãnh đạo qua
các cuộc bầu cử dân chủ sau này, nhưng sinh hoạt chính trị tại Thái Lan
vẫn không ổn định. Tính chính thống của phe đối lập đã bị đặt vấn đề.
Phe này trưng ra những bằng chứng cho thấy Thaksin tham nhũng, hàm ý
biện hộ cho việc đảo chánh. Nhưng phương cách giải quyết « phi dân chủ
», không thông qua pháp luật, được xem là vi hiến. Đây là mầm mống cho
các bất ổn chính trị.
Hình 6 : Bản đồ khu vực ngôi đền Preah
Vihear cho Thái Lan đưa lên UNESCO nhân đại hội tại Christchurch, Tân
Tây Lan năm 2007. Theo đó Thái Lan cho rằng vùng màu vàng thuộc về Thái
Lan.
5. Kết luận:
Xét đòi hỏi của Thái Lan quan tấm bản đồ
(hình 6) năm 2007, ta thấy phía Thái nhìn nhận chủ quyền của Kampuchia ở
ngôi đền nhưng không chấp nhận chủ quyền nước này khu vực đất chung
quanh. Lý lẽ của Thái Lan do đó vẫn đặt trên việc đường biên giới là
“đường phân thủy” thay vì là đồ tuyến trên bản đồ I.
Về pháp lý, nếu xét nội dung của phán
quyết CIJ ghi ở phần trên, ta thấy CIJ nhìn nhận đường vẽ trên bản đồ I
là đường biên giới hai nước. Việc Thái Lan phản đối bản đồ này hôm nay,
cũng như lý lẽ của Thái trước tòa CIJ năm 1962, thì không thuyết phục.
Thái Lan không đưa ra được yếu tố mới nào khác, ngoài việc nhắc đặt lại
vấn đề đường biên giới vẽ trên bản đồ I. Việc này họ đã đặt ra từ năm
1962 qua vụ án nhưng không được CIJ chấp nhận. CIJ đã cho rằng, Thái Lan
vì không phản đối tấm bản đồ này trong một thời gian dài, việc này hàm ý
phía Thái đã đồng ý. Phán quyết : đường biên giới là đường xác định
trên bản đồ I và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này
có phù hợp với đường phân thủy hay không.
Về chính trị, rõ ràng sự việc tranh chấp
hôm nay giữa hai nước Thái-Kampuchia về ngôi đền là do động lực chính
trị từ các đảng phái ở Thái Lan. Nhớ lại lúc ông Lon Nol vừa lật đổ
Sihanouk, ông này đề nghị với Thái Lan việc “cộng đồng quản lý –
condominium”, tức hai bên đều có chủ quyền tại ngôi đền, nhưng Thái từ
chối. Riêng ông Sihanouk, sau khi thắng kiện, có tuyên bố sẵn sàng để
ngôi đền cho hai bên “quản lý”, dân chúng hai bên có quyền tự do hành
hương và thăm viếng, nhưng chủ quyền thì thuộc về Cambodge. Phía Thái
cũng không đồng ý.
Do những động lực chính trị giai đoạn
của các tổ chức chính trị, quyền lợi đảng phái lớn hơn quyền lợi đất
nước. Phía Thái Lan đã bỏ nhiều cơ hội có lợi cho mình, do phía Cambodge
đề nghị, nhằm giải quyết tranh chấp ngôi đền. Tranh chấp tiếp tục đã
đưa phía Thái Lan vào ngõ cụt.
Phán quyết của CIJ năm 1962 đã quá rõ
rệt để có thể giải thích lại. Tòa đã khẳng định, cho dầu đường biên giới
vẽ trên bản đồ có phù hợp với văn bản hay không, nó vẫn là đường biên
giới chính thức giữa hai nước Thái và Cambodge.
Phán quyết ngày 11 tháng 11 năm 2013 của
CIJ không thể khác : Cambodge có chủ quyền tại ngôi đền và vùng đất
chung quanh, với sự đồng thuận của đa số tuyệt đối của bồi thẩm đoàn.
Hiệu lực của CIJ mang tính bắt buộc,
được sự bảo kê của Hội đồng Bảo an LHQ. Phía Thái Lan từ nay khó lòng
tìm được một lý do nào để đặt lại vấn đề chủ quyền tại ngôi đền này.
————————–
Tài liệu tham khảo :
Luciano Garavaglia, Le litige du temple
de “Preah Vihear” dans le cadre des relations entre le Cambodge et la
Thaïlande en pleine guerre froide (1950-1970), ISSN 1575-0698, Nº. 12,
2009. Pages. 73-112.
Hồ sơ « THE TEMPLE OF PREAH VIHEAR
INSCRIBED ON THE WORLD HERITAGE LIST (UNESCO) SINCE 2008 » ; Bộ Ngoại
Giao Vương quốc Cambodge.
Theo Trương Nhân Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét