Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Bài đáng chú ý - "Nếu không thay đổi thì Việt Nam không có tương lai"

Phó CN VP Quốc hội TS Nguyễn Sĩ Dũng: "Nếu không thay đổi thì Việt Nam không có tương lai"

“Tại kỳ họp lần này, Quốc hội tiếp tục thảo luận, xem xét thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, đây là cơ hội lịch sử để chúng ta thiết kế nền quản trị quốc gia đáp ứng được yêu cầu của thời đại, tạo ra xung lực mới cho sự phát triển”.

TS Nguyễn Sĩ Dũng (phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội) nói trong cuộc trò chuyện với Tuổi Trẻ.

* “Nếu không đổi mới, chắc chắn VN sẽ khó khăn, tôi nghĩ Quốc hội cũng cảm nhận được điều này”. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh đã phát biểu như vậy tại Quốc hội. Cá nhân ông cảm nhận ra sao?
Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi. Sống theo cách cũ, vì vậy sẽ không có tương lai. - Ts Nguyễn Sĩ Dũng
- Cá nhân tôi cảm nhận là Bộ trưởng Bùi Quang Vinh đã nói rất thẳng thắn và rất đúng đắn. Chúng ta đang sống trong một thế giới đã thay đổi. Sống theo cách cũ, vì vậy sẽ không có tương lai. Điều đáng lưu ý là không chỉ thế giới đã rất khác, mà những người dân cũng đã rất khác. Tôi có cảm giác là hàng chục triệu người dân đã hội nhập với thế giới hiện đại nhanh chóng và hiệu quả hơn so với nhiều thiết chế đang vận hành nền quản trị quốc gia của chúng ta.

Sự khó khăn mà Bộ trưởng Vinh phát biểu tại Quốc hội có thể đến không chỉ từ việc phải cạnh tranh toàn diện với các quốc gia khác, mà còn từ những mong đợi và những đòi hỏi lớn hơn của những người dân đã hiểu biết và trưởng thành vượt bậc.

* Vậy thì đổi mới tiếp theo nên bắt đầu từ đâu, theo ông?

- Mọi chuyện đều nên bắt đầu từ chính cái đầu của chúng ta. Không có sự cầm tù nào thê thảm và tàn hại bằng sự cầm tù tư duy của con người. Đổi mới tư duy chính vì vậy phải là bước đầu tiên, cũng là bước tiếp theo cho mọi sự đổi mới mà chúng ta tiến hành. Đây rõ ràng không phải là điều gì quá mới mẻ. Điều này đã được Đảng ta nói tới hàng chục năm nay. Vấn đề là thiếu những kiến thức mới, những khái niệm mới..., thật khó lòng đổi mới được tư duy. Quả thật, làm sao có thể đổi mới tư duy bằng cách xào nấu lại các giáo điều xưa cũ?!

Khi đã có tư duy mới, cái cần phải đổi mới trước tiên có lẽ là nền quản trị quốc gia. Thế giới đã chứng minh rằng không phải tài nguyên, vị trí địa lý hay thời tiết mà thể chế do con người xây dựng là nguyên nhân căn bản của sự thành công hay thất bại về kinh tế, cũng như về phát triển nói chung. Nhân đây, câu chuyện thành công của đội bóng U-19 gợi cho chúng ta điều gì? Phải chăng là nếu tổ chức được mô hình theo chuẩn quốc tế thì “thấp bé nhẹ cân” như các cầu thủ VN vẫn có hi vọng, và ngược lại?

Tại kỳ họp lần này, Quốc hội tiếp tục thảo luận, xem xét thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, đây là cơ hội lịch sử để chúng ta thiết kế nền quản trị quốc gia đáp ứng được yêu cầu của thời đại, tạo ra xung lực mới cho sự phát triển.

* Ông hình dung nền quản trị quốc gia “đáp ứng được yêu cầu thời đại” như thế nào?

- Tôi hình dung nền quản trị quốc gia hiện đại phải đáp ứng mấy yêu cầu sau: 1- Bảo đảm pháp quyền. 2- Bảo đảm trách nhiệm giải trình. 3- Bảo đảm sự minh bạch. 4- Bảo đảm sự tham gia và sự dự phần của mọi người dân. Tất nhiên, những điều nói trên hoàn toàn không phải là sáng kiến của cá nhân tôi. Đó là sự tổng kết của Liên Hiệp Quốc từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới.

Như vậy, đòi hỏi đầu tiên đối với việc đổi mới nền quản trị quốc gia là phải xác lập cho bằng được pháp quyền (cách mà chúng ta hay gọi hơn là xây dựng nhà nước pháp quyền). Đây là một vấn đề mang tính kỹ trị. Ý chí chính trị phải kết hợp với kiến thức và sự hiểu biết mới giúp chúng ta xây dựng được pháp quyền.

* Ông có đề xuất mô hình cụ thể nào không?

- Khoảng một vài tuần trước khi cố thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời, bác Kiệt có gọi tôi lên trò chuyện, và tôi đã trình bày một số suy nghĩ của mình. Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng hơn, tương tự như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự “hóa thân” vào Nhà nước. Làm được điều này, chúng ta không chỉ tránh được rủi ro của những xung đột không đáng có giữa Đảng và Nhà nước, mà còn xác lập được chế độ trách nhiệm giải trình hữu hiệu, bảo đảm được quy trình ban hành quyết định minh bạch, rõ ràng và đỡ tốn kém thời gian, công sức hơn. Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta.

Thật ra, nhất thể hóa cũng là chủ trương đã được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất lớn. Nhiều khía cạnh của vấn đề lại không thể chỉ giải quyết bằng mỗi một việc là sửa đổi Hiến pháp. Tất nhiên, có những vấn đề cơ bản khác nếu không được thiết kế trong Hiến pháp thì rất khó mở đường cho việc đổi mới tiếp theo nền quản trị quốc gia.

* Văn kiện Đại hội XI có nói đến việc “tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận”. Vấn đề nêu trên chạm đến những lý luận rất lớn và sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, ông nghĩ tính khả thi đề xuất của mình đến đâu?

- Người Anh có câu ngạn ngữ: “Bạn không bao giờ biết bạn có thể làm được điều gì, trước khi bạn thử làm điều đó”. Tôi nghĩ rằng người Anh không phải là không có lý.

VÕ VĂN THÀNH thực hiện
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh
“Năm 2016-2020 nếu VN không đổi mới chắc chắn VN sẽ khó khăn, tôi nghĩ Quốc hội cũng cảm nhận được điều này... Tôi tin tưởng đất nước VN sẽ phát triển với những con người thông minh và có học hành, chắc chắn VN sẽ không thua kém các nước như Hàn Quốc và Nhật.
Tất nhiên ở nhiều góc độ nhìn khác nhau thì chúng ta thấy vấn đề khác nhau. Nhưng có thể nói trên bình diện thống kê, phân tích chi tiết thì chúng tôi thấy ta đang có bước phục hồi mặc dù phục hồi còn ít và chưa thật sự bền vững. Đó là những tín hiệu tốt, chúng tôi nghĩ rằng lúc này niềm tin là điều quan trọng và chúng ta cần phải xây dựng niềm tin để chúng ta vươn tới”.
(Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh phát biểu trong phiên thảo luận của Quốc hội về kinh tế - xã hội sáng 1-11)
Quốc hội thảo luận về Hiến pháp và Luật đất đai
Trong tuần làm việc thứ ba của kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội dành hai ngày để thảo luận tại hội trường về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (ngày 5-11), về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật đất đai sửa đổi (6-11). Hai nội dung này được truyền hình và phát thanh trực tiếp.
Chương trình nghị sự của Quốc hội trong tuần còn gồm các nội dung quan trọng khác như thảo luận về dự thảo Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi); công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác phòng chống tham nhũng năm 2013; việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012; việc sửa đổi, bổ sung nghị quyết số 38/2004/QH11 ngày 3-12-2004 của Quốc hội về chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh.
Trong tuần, Quốc hội cũng sẽ nghe một số tờ trình về dự án Luật xây dựng (sửa đổi); dự án Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi); dự án Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế.
MAI HƯƠNG
(Tuổi trẻ)

Vương Trí Nhàn - Bảy bước tới tha hóa

Không chỉ làm cho con người nghèo khổ đi, cái chính là trong cơn băng hoại của thời hậu chiến , xã hội  ngày  nay cũng đang làm cho con người hư hỏng thoái hóa hơn bao giờ hết. Mỗi người trở nên khác mình, con người cũ tốt đẹp của họ như bị đánh mất đánh tráo, thay bằng một kẻ khác tồi tàn khốn nạn hơn.

 Người ta gọi quá trình đó là quá trình tha hóa. Xã hội làm tha hóa con người. Mà mỗi con người thì tự tha hóa.

Cần nhấn mạnh rằng với lương tri sẵn có, hầu như tất cả mọi người đều tự phát chống lại sự tha hóa đó. Nhưng tất cả đều bất lực.

Xét cả quá trình:
Nếu tạm gọi  khả năng chống lại cái ác từ chung quanh tấn công vào mình làm hỏng mình  là một thứ miễn dịch thì cái chất ấy ở con người ngày càng vơi cạn. 
Và con người đã lùi từng bước.
Tình thế đó đáng để chúng ta bàn bạc nhiều. Sau đây là cách lý giải của tôi .

 Bài viết này, tôi viết từ khoảng gần mười lăm năm trước, khi mà việc tố cáo tình trạng tha hóa còn bị  coi là  cái nhìn  sai lệch, người đứng đắn không nên đả động tới không nên phân tích làm gì nhiều. Ngày nay tình thế đã rõ ràng hơn và cái cơ chế làm tha hóa con người đã bộc lộ đầy đủ sức mạnh hơn, còn khả năng chống lại xu hướng chung của mỗi cá nhân ngày càng yếu đi. 

Tôi tin rằng mỗi bạn đọc bằng sự thể nghiệm của mình, sẽ có những bổ sung cần thiết cho bài viết còn quá hiền lành,  do đó mà đã trở nên lạc hậu, của tôi.

Hồi nhỏ, cũng như một số bạn bè cùng tuổi, tôi là đứa trẻ đãng trí, hay đánh mất những thứ lặt vặt: khi cái khăn mùi xoa, cái mũ, khi quyển truyện hoặc cái bút chì. Thông thường bố mẹ ở nhà cho qua không mắng mỏ gì đáng kể.

Nhưng đâu một hai lần, tôi nhớ không những bị đánh cho mấy roi cứ gọi là quắn đít, mà trước đó còn bị hỏi căn hỏi vặn:

Điên hả , sao nhắc bao nhiêu lần cũng bằng thừa?
Chạy nhảy thế nào mà đánh mất, kể lại xem nào.
Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?....

Đến bây giờ tôi cũng không nhớ lần ấy đánh mất cái gì, chỉ đoán chắc là mấy thử đắt tiền lắm, chứ không phải ba cái đồ vớ vẩn như mọi khi. Người ta chỉ phải suy nghĩ về sự mất mát khi cái bị đánh mất được coi là quan trọng.

Liên hệ tới chuyện ngày nay:

Niềm thiết tha với cái tốt cái đẹp vốn nằm trong tâm trí chúng ta từ thuở thiếu thời, khi đang còn cắp sách đến trường.

Mấy chục năm nay, Nhà nước cách mạng cũng luôn luôn kêu gọi mỗi thành viên của xã hội gắng trau dồi đạo đức. Câu nói của thầy Mạnh "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thường được nhắc nhở vì trong một hình thức cũ, nó lại diễn tả tốt nhất nội dung chủ yếu của đạo đức mới - sự vững vàng của nhân cách. 

Nhưng liệu có thể nói mỗi người chúng ta đã làm được điều chúng ta mong mỏi?

Giả sử bây giờ, ra giữa buổi họp, tôi bảo ông nọ bà kia là thoái hoá biến chất, mọi người sẽ cho tôi là có hiềm khích gì đó với họ, nên mới ăn nói sỗ sàng như vậy. Nếu tôi lại mạnh mồm khái quát rằng nay là lúc không ít người trong chúng ta đang hư hỏng đi, thì người ta sẽ bảo tôi là liều lĩnh vô căn cứ, là không có cái nhìn toàn cục, không thấy "mặt tốt là chủ yếu”.

Nhưng nhiều lúc ngồi một mình tỉnh táo, đối diện với lương tâm, hẳn nhiều người chúng ta phải công nhận là quanh mình số người hiền lành thánh thiện ngày một ít, số khôn ranh kiếm chác ngày một nhiều thêm.

Và tự ta nữa, nghiêm khắc mà nói, ta cũng đang sống không phải như ta mong muốn. 

Ở đây không nói tới những tội lỗi đã thành danh mục quản lý của pháp luật, mà chỉ nói tới những thói xấu nho nhỏ những thói xấu vẫn bị coi là không đáng kể, và dễ bị bỏ qua:

Xoay xỏa vụ lợi. Làm dở báo cáo hay qua loa vô trách nhiệm. Khéo léo tô vẽ mình trước cấp trên. Hùa theo đám đông, nói cho đám đông vừa lòng, chứ không dám nói sự thật..

Có phải là không ít thì nhiều, hàng ngày chúng ta đã để cho những thói xấu đó lộng hành? So với con người lý tưởng mà ta muốn noi theo, khi bước vào đời, thì thật ra ta đang xa dần, thậm chí có những phẩm chất tốt mà ta có từ lúc còn trẻ và cứ tưởng giữ được mãi, bây giờ đã bị đánh mất.

Nay không còn là lúc sợ ai lục vấn mình như cậu bé năm xưa nữa. Nhưng có lẽ, với tư cách người có học, sống nhiều bằng ý thức, cũng nên quan sát chính mình xem xem một quá trình tâm lý như thế nào đã xảy ra, khi ta tự đánh mất cái phần tốt đẹp ở con người mình như vậy.

Dưới đây là một vài nhận xét tôi rút ra từ kinh nghiệm bản thân và qua quan sát những người gần gũi chung quanh:

1. Sự kiếm sống hàng ngày là một khái niệm lâu nay chúng ta hay lẩn tránh và nó chỉ tồn tại như một giá trị ẩn, không được mang ra tính toán công khai. Nhưng phải nhận nó vẫn là nhu cầu có thực, hàng ngày gây sức ép với mọi người. Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là nhằm kiếm thêm ít tiền bạc, để cùng với đồng lương còm cõi, duy trì sự sống của bản thân và gia đình.

2. Các thói xấu lấn lướt ta mỗi ngày một ít. Thời gian đầu ta thường vừa làm vừa tự nhủ: chỉ chấp nhận đầu hàng lần này nữa thôi, sau sẽ không bao giờ tái diễn! Nhưng càng về sau, sự dằn vặt càng thưa thớt đi. Đời sống hàng ngày mang lại bao nhiêu căng thẳng mệt mỏi, khiến cho mỗi người chỉ có cách trượt theo thói quen và tránh nhất là gây thêm cho mình những phiền phức.

3. Có một điều ta thường viện ra để an ủi, ấy là khi thử đưa mắt quan sát thấy không phải chỉ có riêng mình làm bậy, mà chung quanh, cả những người có uy danh hơn, có trách nhiệm hơn, cũng đâu có giữ được lý tưởng - "Hơi đâu gái goá lo việc triều đình" - đấy là lý lẽ của những cái đinh ốc bé nhỏ.

4. Khái quát hơn, quả thật có nhiều việc thấy trái với lương tâm ta vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi người đều hành động như vậy.

Mà cảm giác sống theo tập thể ăn vào ta rất nặng. Ta sợ trở thành đơn độc lại càng sợ mang tiếng là chơi trội, dám khác mọi người(!).

5. Người ta ai mà chẳng vừa sống vừa trông trước trông sau xem cách sống của mình được đánh giá ra sao, và được đền đáp ra sao. Đến lúc thấy bao nhiêu cố gắng của mình cũng vô ích, những người tốt như mình thường thua thiệt, còn những kẻ xấu cứ được đủ thứ và lại leo cao mãi lên thì đành ngán ngầm buông xuôi (Sau khi phát hiện điều này, một số sẽ giãy giụa cốt vớt lại ít quyền lợi mà họ cho rằng họ đáng được hưởng. Từ ấy trở đi, họ dám sống rất tàn bạo).

6. Chắc chắn trong ta không bao giờ chết hẳn con người lý tưởng, con người tha thiết với sự nghiệp chung. Giả sử được xã hội dang tay dìu đỡ thì sau những lầm lỡ ban đầu, cũng dễ tu tỉnh trở lại. Nhưng mọi chuyện quá ì ạch. Có vẻ như điều mà xã hội mong đợi hơn cả ở các thành viên chỉ là những câu khẩu hiệu chung chung. Cái phần suy thoái trong ta chớp ngay lấy cơ hội thuận lợi đó. Nảy sinh tình trạng phân thân, sống một đằng, nói một nẻo và bởi lẽ, trước mặt bàn dân thiên hạ, giữa thanh thiên bạch nhật, ta vẫn luôn mồm nói điều tốt, nên càng yên tâm xoay xỏa kiếm chác trong bóng tối.

7. Đến lúc nào đó, ta chợt nhận ra "rằng quen mất nết đi rồi", có lẽ sẽ không bao giờ hoàn lương được. Sự lo sợ có tới (lo sợ chứ không phải hối hận) và để hóa giải, ta xoay sang cấu cúng, xin xỏ, hối lộ thánh thần
Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự làm hỏng, nhờ có mê tín, các khâu hoạt động khác có thể diễn ra một cách êm đẹp. Đại khái giống như một thứ bảo hiểm!

Khi một đứa trẻ đánh mất của quý gì đó, người ta phải căn vặn hỏi han xem quá trình đánh mất diễn ra như thế nào bởi nghĩ rằng qua đó, giúp cho nó biết tự giữ gìn của cải và từ nay trở đi không đánh mất nữa.

Quá trình tha hoá, quá trình tự đánh mất mình ở chúng ta có chỗ khác. Ai cũng chỉ sống một lần trên đời, cái gì mất đi thì vĩnh viễn không lấy lại được nữa.

Vậy cần gì phải mang bản thân ra mà tra khảo cho thêm rách việc?Có thể có một số người đã nghĩ thế và họ có lý của họ. Nhưng trong bài báo này, tôi muốn để nghị một cách nghĩ khác: ít ra chúng ta cũng nên sòng phẳng với nhau. Sự đánh giá chính xác về bản thân nên được xem như một phần di sản của một lớp người đang sống để lại cho các lớp kế tiếp, và nếu như nhờ thế một phần, mà những người sau ta sống không giống ta, tức sống tốt hơn, ấy là khi ta đã trở nên hữu ích.

Tân Phó Chủ tịch Tây Hồ Đỗ Anh Tuấn vừa ăn tiền, vừa cưỡng chế

Trúng mánh lớn dịp sốt đất vài năm trước lúc còn làm Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất quận Tây Hồ, Đỗ Anh Tuấn được Quang “đầu to” khôn khéo cài vào chân “đối ngoại” trong những kỳ cuộc có các “quan anh” xuất hiện để có thể lọt vào mắt xanh của các anh. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các nhà đầu tư, các cò đất ngay từ 3 – 4 năm trước đã được “phím” rằng liệu đường ăn ở vì đồng chí Tuấn còn lên nữa mà sẽ phụ trách mảng nhà đất đấy. Ai cũng cho rằng bọn đồng cốt chính trị chỉ hay nói nhảm vì ở quận Tây Hồ trẻ con đều biết Đinh Trọng Sơn (phó chủ tịch phụ trách nhà đất) là đệ cứng của đồng chí Phạm Quang Nghị luân chuyển xuống Tây Hồ. Cuối cùng, thiên hạ cũng được mở mắt. Tiền vung ra như vãi trấu nên cuối cùng đồng chí Tuấn cũng kiếm được một suất cơ cấu Phó Chủ tịch quận. Đạn của đồng chí này hẳn phải là loại cực mạnh mới có thể bắn được Đinh Trọng Sơn sang phụ trách văn xã nhằm đoạt cái ghế nhà đất của đồng chí Sơn.


Tuan
.
Phó Chủ tịch Đỗ Anh Tuấn
.
Trước đây, người không biết chuyện nội bộ thì bảo Đinh Trọng Sơn thế quá mạnh vì được đích thân Bí thư gửi xuống. Người biết chuyện thì thấy lo cho đ/c Sơn. Ai còn lạ gì cái bài luân chuyển cán bộ của đồng chí Nghị. Luân chuyển có thời hạn, liệu hồn đấy. Chăm chỉ mà cày cuốc. Nộp ít thì cho bật sới, nhường chỗ cho con thiêu thân khác chịu chơi hơn, nộp nhiều hơn. Việc của đồng chí Sơn với đồng chí Tuấn quả như vậy. Mấy hôm trước, đồng chí Sơn còn đương gặt lớn nhưng việc nộp thì … hơi chậm. Đùng cái, người ta thấy đồng chí bị điều sang văn xã. Suốt ngày đi lo chùa chiền, miếu mạo. Được mấy hôm, đồng chí gầy rộc đi. Mã xuống thảm hại. Cay quá, ai đời lại mất ghế về tay thằng vốn là quân của mình. Trước kia, nó gặp mình ở đâu thì chào từ xa rất lẽ phép. Từ ngày nó ngồi ngang hàng, nó khinh khỉnh ra mặt. Mà nhục nhất là đi họp. Trong các cuộc hội họp, người người xì xào: ơ cái “ông nhà đất” này sao bây giờ lại giẫm chân vào chùa chiền, giáo dục. Ngẫm đi ngẫm lại, đồng chí tự an ủi: kiếp “luân chuyển” nó thèo đảnh như vậy đấy.

Nhậm chức mấy bữa, các ngón nghề mà đồng chí Sơn để lại đều được đ/c Tuấn lôi ra sử dụng. Cưỡng chế, bán đất xen kẹt. Ăn chặn tiền đền bù. Bảo kê cho xây dựng không phép, bảo kê lấn chiếm đất công để thu tiền. Vẽ ra các dự án chỉnh trang… Đặc biệt, siêu dự án đô thị Tây Hồ Tây là món hời được trên ưu ái dành chờ để cho đồng chí Tuấn. Vừa rồi, đồng chí cố chứng tỏ lòng thành với quan anh bên trên, cất bao công lê lết xuống tận nhà Đỏ để thề bồi là cuối năm sẽ có mặt bằng sạch giao cho nhà thầu thi công. Thực hiện dã tâm đó, hôm 24/10, đồng chí chủ trì cuộc họp cùng với Công an bàn mưu tính kế, nặn ra cái kế hoạch cưỡng chế số 190 để từng bước làm cỏ hết bọn dân đen cầu Nhật Tân.
  Cầu Nhật Tân

Choáng với 11 quan tham gây thiệt hại 532 tỷ

Đây được xem là một trong những trọng án về tham nhũng được xét xử trong năm nay.

Liên minh ma quỷ

Trong thời gian từ tháng 4.2008 đến tháng 3.2009, Vũ Quốc Hảo (SN 1955, ngụ quận 7), Tổng giám đốc và Nguyễn Văn Tài (SN 1959), phó tổng giám đốc công ty cho thuê tài chính 2, thuộc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Viết tắt: ALC2) đã ký 10 hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng mua bán tài sản với nhóm công ty Lê Xuân Phong, công ty TNHH thương mại dịch vụ Xuân Việt của Phạm Minh Tuấn và công ty Đại Phú Gia của Khương Minh Hiệp. Công ty ALC2 đã giải ngân 795,235 tỷ đồng.

Công ty cho thuê tài chính 2
Các hợp đồng này thực chất là thực hiện nghiệp vụ cho vay, trong khi công ty ALC2 không có chức năng cho vay. Công ty Quang Vinh, bên ký hợp đồng cung ứng tài sản được giải ngân không sử dụng tiền để thực hiện nghĩa vụ theo nội dung hợp đồng đã ký.
Trong các hợp đồng đã ký, Vũ Quốc Hảo lợi dụng chức vụ, quyền hạn là tổng giám đốc công ty ALC2 trực tiếp quản lý tài sản đã bàn bạc với Đặng Văn Hai (SN 1957, quận 1) ký hợp đồng rút tiền nhằm chiếm đoạt để trả nợ cá nhân của Hảo 75 tỷ đồng. Lợi dụng việc thanh lý tài sản trong các hợp đồng thuê tài chính của doanh nghiệp tư nhân Anh Phương tỉnh Đồng Nai, Hảo vì động cơ tư lợi đã có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt 4,9 tỷ đồng.
Thông qua quan hệ quen biết với Hảo, Hai đã có hành vi gian dối sữa chữa làm giả hồ sơ, tài liệu, chỉ đạo ký hợp đồng kinh tế cung ứng tài sản với công ty ALC2 chiếm đoạt gần 61 tỷ đồng. Tổng giá trị thiệt hại do hành vi phạm tội của các bị can gây ra gần 532 tỷ đồng. Trong đó, tham ô tài sản chiếm đoạt gần 80 tỷ đồng. Lừa đảo chiếm đoạt gần 61 tỷ đồng. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành cong vụ gây thiệt hại gần 4 tỷ đồng.
Vạch trần bộ mặt của hai “quan” lớn nhất trong vụ án
Vũ Quốc Hảo, tổng giám đốc công ty ALC2, là người trực tiếp chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động kinh tế của công ty. Quá trình điều tra đủ căn cứ xác định Hảo đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt gần 80 tỷ đồng của công ty ALC2. Trong đó, 75 tỷ đồng tại hợp đồng mua bán và gần 5 tỷ đồng từ việc doanh nghiệp tư nhân Anh Phương tỉnh Đồng Nai thanh lý tài sản thuộc sở hữu của công ty ALC2.

Đây được xem là một trong những đại án lớn được xử trong năm nay
Hảo cố ý làm trái quy định về nghiệp vụ cho thuê tài chính thông qua việc ký 9 hợp đồng kinh tế gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản nhà nước với số tiền gần 387 tỷ đồng. Vì động cơ tư lợi, Hảo lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái qui định về nghiệp vụ cho thuê tài chính nhằm hưởng lợi gần 3,1 tỷ đồng. Hành vi nêu trên, Hảo đã phạm vào các tội tham ô tài sản, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, cố ý làm trái qui định của nhà nước về kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với chủ tịch HĐTV công ty TNHH xây dựng và thương mại Quang Vinh, Đặng Văn Hai, thành lập 7 doanh nghiệp, công ty tư nhân, thuê người làm đại diện trước pháp luật để ký các hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng mua bán khống với Hảo, Nguyễn Văn Tài, là giám đốc, phó giám đốc công ty ALC2, đã có hành vi gian dối làm giả tài liệu, hồ sơ ký hợp đồng bán tài sản cho công ty ALC2 lừa đảo chiếm đoạt gần 61 tỷ đồng. Hai còn lập các hợp đồng khống đồng phạm với Hảo nhằm chiếm đoạt 75 tỷ đồng và giúp đối tượng này làm trái công vụ hưởng lợi gần 4 tỷ đồng.
Bên cạnh hai bị can này, vụ án còn liên quan đến 9 vị “quan” khác là cán bộ chủ chốt của công ty ALC2 và chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp là khách hàng của công ty ALC2. Vụ án này được xem là đại án về tham nhũng trong thời gian qua, được ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng chỉ đạo sớm đưa ra xét xử.
Theo thông tin chúng tôi có được, vào ngày 6.11 đến 20.11 tới đây, TAND TP.HCM sẽ đưa vụ án ra xét xử do thẩm phán Vũ Thanh Lâm làm chủ tọa. Theo nhiều chuyên gia, do vụ án này liên quan đến hàng loạt “quan” và số tiền cực khủng nên chắc chắn trong các ngày xử án sẽ có nhiều tình tiết mới xuất hiện.
Khôi Nguyên 
(Xzone/Tri Thức Thời Đại

Bị sỉ nhục, Dũng 'lò vôi' bật lại Chủ tịch Bình Dương

Trong khi gửi đơn tố cáo ông Lê Thanh Cung – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương (BD) – lên Thủ tướng Chính phủ, vì ông Cung “ngâm” hồ sơ, kéo dài phê duyệt quy hoạch khu đất ở tại KCN Sóng Thần 3 suốt 7 năm; mới đây, ông Huỳnh Uy Dũng – Tổng GĐ Cty cổ phần Đại Nam – tiếp tục gửi đơn thứ 2, tố cáo ông Lê Thanh Cung, vì hành vi vu khống cá nhân ông Dũng...
Ngày 3.11, ông Dũng cho biết: Ngay trong ngày 4.11, đơn tố cáo “hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” của ông Lê Thanh Cung – Chủ tịch UBND tỉnh BD – sẽ được luật sư của ông Dũng gửi lên Cơ quan ANĐT – Bộ Công an và Viện KSND Tối cao.
Sau sự vụ ông Dũng gửi đơn tố cáo ông Cung có hành vi “không phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500, không cho chuyển nhượng QSDĐ ở dự án KCN Sóng Thần 3”, ngày 29.10, trên báo điện tử VTC News có đăng bài phỏng vấn ông Cung, với tiêu đề “Ông Dũng bịa đặt, lừa đảo”. Những ngày sau đó, rất nhiều tờ báo khác đã liên tục đăng tải lại thông tin trên.
bình dương, dũng lò vôi, kiện cáo, vu khống, Đại Nam

Trong đó, ông Cung đã khẳng định ông Huỳnh Uy Dũng “nói bậy và tự bịa đặt ra, cái đó là hình thức lừa đảo”. Đặc biệt, ông Cung còn cho rằng, “Ông Dũng sống được cũng nhờ “xương”, “máu” của tỉnh BD chứ. Nhờ Đảng bộ, chính quyền tỉnh BD, ông Dũng mới có tài sản như hiện nay, chứ ông Dũng tài ba gì, cũng từ đất đai BD thôi”; “cái đó là cố ý làm trái đó” v.v…
Căn cứ Điều 258 – Bộ luật Hình sự, ông Huỳnh Uy Dũng đã chính thức tố cáo ông Lê Thanh Cung, vì hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận vu khống và xâm phạm danh dự người khác. Ông Dũng nói: “Ông Cung biết rõ mình đang trả lời nhà báo, nhưng đã phát ngôn sai sự thật, xúc phạm, vu khống và kết tội tôi “nói bậy, bịa đặt, lừa đảo, cố ý làm trái”.
Trong thời gian chờ cơ quan thẩm quyền giải quyết tố cáo của tôi, người bị tố cáo phải chấp hành nghiêm túc Điều 10 – Luật Khiếu nại – Tố cáo, thì ông Lê Thanh Cung là phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh BD lại nhân danh “anh là người điều hành nhà nước”, vu khống xúc phạm danh dự cá nhân tôi”. Theo ông Dũng, hành vi vu khống của ông Cung trên báo chí đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của ông Dũng và DN của ông là Cty cổ phần Đại Nam.
“Một DN lớn như DN của tôi, kinh doanh 30 năm chưa bội tín với ai, chưa vi phạm pháp luật mà ông Chủ tịch tỉnh BD công bố trước công luận như vậy. Đó là cố tình bôi nhọ, sỉ nhục tôi, ông Cung phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và, nếu tôi bị thiệt hại về kinh tế, tôi chứng minh được thì ông Cung phải bồi thường thiệt hại cho tôi” – ông Huỳnh Uy Dũng nói.
Được biết hôm nay (4.11), ông Huỳnh Uy Dũng đã chính thức chuyển đơn tố cáo, kèm băng ghi âm và các tài liệu liên quan đến các cơ quan luật pháp.
(Lao động)

Ngô Minh - Cha tôi bị đội CCRĐ bắn như thế nào?

http://andyhiennguyen.files.wordpress.com/2011/11/dauto.jpg
Hình minh họa
Ba tôi là ông Ngô Văn Thắng, một ngư dân có chữ ở làng Thượng Luật. Tôi không biết ông học ở đâu và học đến cấp nào, nhưng tôi thấy, mỗi khi rỗi việc , ông ngồi lấy bút lông chấm mực tàu , cặm cụi viết chữ Nôm (hay Hán ?) lên những tờ giấy bổi, rồi cất vào cái tráp sơn mài đen láng. Ông giữ chức lý trưởng làng Thượng Luật thời Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, trong hai năm, từ năm 1947- 1948. Hồi đó làm lý trưởng phải được sắc phong . Ông hay nhâm nhi rươụ nói chuyện văn chương thời cuộc cùng các cụ trong làng. Mới 53 tuổi mà ông đã để râu trắng dài, nói cười vuốt râu như lão trượng. Mỗi bữa ăn, ông ngồi một mình hoặc với khách một mâm trên sập gụ. Năm mạ con tôi ngồi mâm trải chiếu dưới sàn nhà. Phong độ, vóc dáng nho nhã , trí thức thế nhưng ông lại làm nghề đánh cá chuyên nghiệp. Ông là người đi biển giỏi .Thời ba mươi tuổi ông đi biển suốt ngày đêm, nên có tiền để mua thuyền lưới thuê bạn chài cùng đi biển. Ngày đi biển, đêm về ông thắp đèn dầu ngồi đọc sách.
Ông làm lý trưởng cho chính phủ thân Pháp nhưng ông lại ủng hộ Việt Minh. Thời sau cải cách, các anh tôi thường khai trong lý lịch việc ông làm lý trưởng là để nguỵ trang việc ủng hộ Việt Minh. Vì thời chống Pháp, ông có một căm hầm bí mật nuôi bộ đội, cán bộ kháng chiến xã Hưng Đạo ( tức ba xã Hưng Thuỷ, Ngư Thuỷ, Sen Thuỷ thuộc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình bây giờ) ngay ở trong nhà. Có lần cả trung đội Việt Minh về ở ngày trong hầm nhà tôi để đi đánh đồn Hoà Luật ở xã Cam Thuỷ trên đường Quốc lộ 1A, hay đồn Sen Bàng, đồn Dốc Sỏi. Mạ tôi ở trong Hội mẹ chiên sĩ, cùng ba bốn mẹ nữ như mẹ Thiệt, Mẹ Nồng, Mẹ Tá …thường gánh chổi rèng ( một loại cây có mùi thơm, mọc nhiều trên cát , người ta chặt về đạp cho rụng hết lá rồi bó thành chổi quét sân, đem bán) , cùng ba bốn anh Việt Minh quân báo đóng giả con gái cùng gánh chổi rèng đi với các mẹ . Dưới chổi rèng là súng lục và lựu đạn , về chợ Cưỡi để tiêu diệt tên ác ôn tên là Tao, là đứa chuyên cướp bóc bà con đi chợ , ăn chặn và hãm hiếp phụ nữ. Phục kích mấy tuần liền cuối cùng Việt Minh đã diệt được tên Tao khốn nạn, làm chấn động cả vùng.
Từ giữa năm 1952 cho đến cuối năm 1953, căn nhà của ba mạ tôi như một trạm quân y dã chiến. Bộ đội, thương binh, bệnh binh thường được chuyển về trong nhà tôi điều trị, an dưỡng. Ba anh em tôi là Thạnh, Thường, Cường được đi học trường tư thục ở làng . Ba tôi cùng mấy ông gọi là có của trong làng bỏ tiền ra thuê thầy, nuôi thầy ngay ở trong nhà để dạy học. Một tuần thầy ở và dạy ở nhà này, tuần khác thì thầy dạy ở nhà khác. Bộ đội Việt Minh ở trong nhà tôi thường chép tặng ba anh em tôi những bài hát kháng chiến. Các anh còn tặng chúng tôi ảnh của lãnh tụ như Malencốp , Hồ Chủ tịch, Mao Trạch Đông cắt từ các báo. Tất cả những bài hát, ảnh tặng đó ba anh em đều bỏ trong các xắc đựng sách vở chung . Vào khoảng trung tuần tháng 7 năm 1953, bọn Pháp mở trận càn lớn về làng tôi . Lúc đó trong nhà tôi có một tiểu đội bộ đội ta bị thương đang điều trị. Khoảng 12 giờ đêm, các anh quân báo đã báo có địch, nhưng các anh bộ đội chủ quan, cứ ngủ yên. . Khoảng 4 giờ sáng chị Ngô Thị Vượng cuả tôi dậy để lo cơm nước cho các anh và gia đình . Chị vừa ra suối lấy nước, thì phát hiện ra bọn địch đang càn vào làng.
Tiếng chó sủa khắp cả xóm. Chị hốt hoảng chạy vô nhà đánh thức các anh thương binh dậy. Một tiếng sau thì địch đã vây làng. Lúc đó ở nhà tôi các lại trang phục vủa Việt Minh như quần áo ướt , vòng nguỵ trang, súng ống, ruột tượng gạo … vứt bừa bãi. Ba tôi thức dậy, ra đứng gác tước cửa để các anh chuẩn bị súng ống, lưu đạn để đối phó với địch. Sàn nhà tôi lát bằng ván gỗ, nên ba tôi cạy ván lên bảo các anh ném tất cả những thứ quần áo ướt, ruột tượng gạo… và những gì không mang theo xuống dưới ván rồi đóng lại như cũ. Ba tôi hướng dẫn cho tiểu đội thương binh rút khỏi nhà tôi, ra sau bờ dứa cách đó cây số. Chị Vượng trong lúc hoảng loạn đã mang cả các xắc đựng sách vở cùng với các bài hát Việt Minh và anh lãnh tụ cộng sản của ba em , chạy ra đầu làng tránh giặc. Địch bán rát, chị hoảng quá, vứt luôn cả cái xắc bên đường. Thế là bọn địch nhặt được.
Anh Dũng, người Cảnh Dương, Quảng Trạch, tiểu đội trưởng cùng anh em rút ra sau làng. Tiểu đội thương binh đã gặp địch và hai bên đánh nhau tới hai tiếng đồng hồ . Nhưng vì là thương binh, sức yếu , vũ khí chỉ có hai khẩu súng trường và năm qưả lựu đạn , cuối cùng các anh Phúc, Doan và Cẩn hi sinh ( mộ các anh hiện đã được quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện lệ Thuỷ ở xã Mai Thuỷ ) còn lại bị địch bắt. Anh Dũng, tiểu đội trưởng bị cụt một cánh tay ở làng Thượng Luật quê tôi . Sau khi bắt được mấy người Việt Minh, bọn địch bắt dân tập trung lên Động Cao là động cát phía tây làng. Chứng giơ cái xắc chị Vượng đã vứt bên đường , hỏi dân làng nhà ai có cái xắc này . Một cái xắc của ba học sinh mới lớp một , lớp bốn mà đã chứa đầy tài liệu Việt Minh . Chúng thề là sẽ tìm ra ba thằng Việt Minh nhóc này. Nhưng cả làng không ai nói gì, nên doạ nạt một hồi rồi chúng rút về, cầm theo cái xắc.
Năm 1980, anh Dũng, tiểu đội trưởng bị bắt trong trận càn 1953 ở làng tôi dẫn một đoàn tàu đánh cả từ Cảnh Dương, Quảng Trạch gần Đèo Ngang về cập bến làng tôi. Anh hỏi thăm nhà mẹ Vượng ( tức nhà tôi, quê tôi thường xưng danh theo tên con đầu) . Gặp mạ tôi, anh đã khóc. Anh cụt một tay, đang là huyện uỷ viên Huyện Quảng Trạch trực tiếp chỉ đạo nghề cá, đang dẫn đoàn tàu của huyện đi tìm ngư trường thí điểm . Anh kể rằng , năm 1953, mấy anh trong tiểu đội anh cùng với anh bị địch bắt đem về giam ở đồn Hoà Luật . Một năm sau thì được trao tả tù binh sau chiến thắng Điện Biên Phủ .
Ba tôi không vô đảng công sản, nhưung ông nỏ tiền mua lựu đạn, súng để cho bộ đội đi đánh đồn Hoà Luật, lại bảo mạ tôi giấu dưới cá, mắm gánh lên chợ Chè ( xã Hồng Thuỷ) giao cho bộ đội đánh đồn. Ông bỏ tiền ra mua hai khẩu móc-chê 60 ly ( súng cối) tặng cho du kích xã Hưng Đạo. Do việc ủng hộ tiền của , súng ống cho Việt Minh mà trong Cải cách ruộng đất, Đội đã quy cho ba tôi là ủng hộ Quốc dân Đảng. Thật vô lý. Y như các ông Đội này không phải là Việt Minh vậy. Các ông Khuyên, ông Đồng, người Sen Thuỷ là lãnh đạo xã Hưng Đạo, rất nhiều thời gian ở nhà tôi, sau này một thời làm lãnh đạo chủ chốt của Khu vực Vĩnh Linh đã nhiều lần kể lại việc đó. Ông Khuyên , ông Đồng trong Cải Cách ruộng đất cũng bị quy là địa chủ, bị đấu tố cực nhục. Ở xã Sen Thuỷ , Đội nêu khẩu hiệu :” Toàn dân căm ghét Khuyên , Đồng”. May là hai ông không bị xử bắn. Sau này, nhờ thành tích kháng chiến đó , mạ tôi đã được Chính phủ tặng “Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng ” do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký.
Có lẽ vì thế mà các anh tôi khai ba làm lý trưởng là để nguỵ trang, đóng kịch với giặc . Nhưng tôi lại nghĩ, lý trưởng thời đó phải có trình độ mới được sắc phong. Ba tôi thường cho người nghèo trong làng thóc, gạo, tiền. Ông sắm xe đạp, đèn pin cho hai anh Khương, Ninh lên vùng tự do ở Dương Thuỷ cách làng bảy cây số học văn hoá. Ông có một ngôi nhà rường ba gian hai chái lợp tranh, hai chiếc thuyền đánh cá cho khoảng 20 bạn nghề đi biển kiếm ăn hàng ngày. Khi thiếu người đi biển, ông cũng đi với các bạn nghề. Khi đủ người thì ông suốt ngày đi quăng chài ven biển bắt cá đối, cá buôi, cá ong…Tôi nhớ có lần ông xách về cả đạy ( cái túi lưới) đầy cá đối cho mạ tôi chạy chợ. Ba tôi là người rất hăng hái trong việc cúng Miếu thờ Thành Hoàng làng, Âm Hồn làng, cúng miếu thờ Cái Voi ở Cồn Dinh… cầu mong thần linh cho làng xóm yên ổn, dân làng làm ăn ngày càng khấm khá.
Nói đến tín ngưỡng thờ cúng, ở làng Thượng Luật của tôi từ năm 1957 trở về trước có miếu thờ Thành Hoàng làng và nhiều loại miếu thờ thần khác ở Rú Mạ, Rú Con. Đó là những khu rừng trên cát xanh tốt rậm rạp, nhiều cây gỗ to và dây leo chằng chịt như rừng nguyên sinh ở phía bắc làng. Tuổi thơ chúng tôi hay ra chui vào rừng để tìm tổ chím, hay háí củi. Cứ rằm tháng Bảy, bà con ngư dân làng tôi thường có lễ cúng thắp nhang ở các miếu thờ này. Nhưng lớn nhất là Âm Hồn và miếu thờ cá Voi ở Cồn Dinh. Âm Hồn là một khoảnh đất vuông vắn ở đầu làng, có bệ thờ, bàn cúng dùng để làng cúng tế những người chết thiêng, chết đường chết chợ, chết trôi trên biển…, nghĩa là chết không có mồ mả, nên hồn lang thang khắp nơi , quấy rối cuộc sống trần gian. Mỗi năm cứ đến ngày xá tội vong nhân ( rằm tháng Bảy) là cả làng đóng góp tiền bạc gạo thịt để cúng tế. Còn Cồn Dinh là một cái cồn đất cao to đắp bằng đất thịt gánh từ trong miền nông ra, do triều đình Nhà Nguyễn sức dân đắp để làm trạm thông tin liên lạc đường biển. Khi có tình hình gì đặc biệt xuất hiện, hay có giặc giã thì đốt lửa báo hiệu. Từ Huế ra rất nhiều Cồn Dinh như thế. Thông tin từ cồn này truyền qua cồn khác. Triều đình đốt lửa báo cho địa phương, hay địa phương đốt lửa báo về triều tình, theo ám hiệu sẽ biết chuyện dữ hay lành. Nhờ đó mà triều đình biết sớm để đối phó. Đường bộ cũng có các Dinh để làm trạm ngựa chạy thư. Như Dinh 10 ở huyện Quảng Ninh quê nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh là một trạm ngụa triều đình mà cái tên còn đến hôm nay. Năm đó ở làng tôi có con cá voi lớn dạt vào mắc cạn rồi chết. Cá voi , gọi là Cá Ông là loại cá thiêng, ngư dân không bao giờ ăn thịt mà làm lễ tang chôn cất đàng hoàng. Trưởng thôn phải đội mũ rơm, chống gậy đi trước như đưa đám ông bà vậy. Vì thế ở Cồn Dinh có một cái mộ Cá Ông và làng lập cái miếu thờ. Nghe nói miếu thiêng lắm. Nhưng thiết chế văn hoá tín ngưỡng tâm linh đó tạo ra những quy tắc, tập tục sống và ứng xử của cộng đồng dân làng Thượng Luật rất chặh chẽ. Nhưng rồi chính quyền cách mạng lúc đó cho là mê tính dị đoan nên cho dân quân đập phá tan tành tất cả các miếu thờ, Âm Hồn cũng không cho cúng nữa. Những Miếu thờ thần linh chôn vùi xuống cát. Làng tôi vô thần từ đó. Tôn ti trật tự theo thiết chế tín ngưỡng tâm linh bị đảo lộn. Vô thần nên lũ ma cô không còn sợ ai. Và làng tôi cũng tan nát, xác xơ từ đó ! Rú Mạ, Rú Con bị chặt phá tan tành, bây giờ không còn dấu vết.. Cồn Dinh, Mộ Cá Voi không ai lo trồng cây bảo vệ nên bị sóng biển tấn công sạt lở, rồi biến mất ! Làng tôi mất dần màu xanh, cộng thêm máy bay Mỹ ném bom huỷ diệt mấy lần, làng trở nên xác xơ hoang lạnh như trên sa mạc.
Trở lại chuyện ba tôi. Ông coi tử vi , đoán vận hạn , biết mình sắp bị nạn lớn vào tuổi 53 , nên ba rôi lặng lẽ lên xã xin đổi tên bốn anh em tôi là Ngô Văn Thạnh, Ngô Văn Thường, Ngô Văn Cường, Ngô Văn Cần ( ông là nhà nho, đặt tên con theo chữ nho, Thạnh-Thường-Cường Cần - tức là gia đình khả giả là nhờ lao động cường cần mà có ) thành Ngô Văn Khương, Ngô Văn Ninh, Ngô Văn Khôi, Ngô Văn Phục . Khương – Ninh- Khôi- Phục – nghĩa là hai anh đầu phải vững vàng chắc chắn để hai em sau tựa vào đó mà phục hồi danh dự gia đình. Tôi tên khai sinh là Ngô Văn Cường, sau đổi là Ngô Văn Khôi . Khi đi học tôi học theo bọn trẻ trong làng đổi thành Ngô Minh Khôi. Thế mà sau này thấy tôi học giỏi, thành đạt, là người đi đại học đầu tiên của xã, lại là nhà văn , nên mấy thế hệ con cháu của tám nhánh họ Ngô ở làng tôi sau này đều lấy chữ lót khi làm giấy khai sinh là Ngô Minh…cả.
Năm 1956 , quả nhiên ba tôi bị đại nạn thật. Ông bị nạn lúc 53 tuổi. Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới. Một buổi chiều, một tốp dân quân súng ông giương lê , mặt sát khí đằng đằng đến nhà bắt trói giật khuỷ tay ba tôi và anh Khương dẫn đi cùng với các ông Ngô Văn Thung, Ngô Văn Dung , Ngô Văn Toản ở xóm Thượng Nam, là những người chẳng phải giàu có gì, nhưng tương dối có của ăn của để và có chữ nhất làng. Sau này tôi mới hay họ bắt địa chủ theo chỉ đạo của Đội Cải cách Trung ương theo tỷ lệ 5% dân số. Họ xô ba tôi về phía trước. Ba vừa đứng thẳng lại để giữ thăng bằng họ lấy báng súng thúc , quát nạt:” Thằng địa chủ cường hào ni, mày chống cự hả !”. Tôi lúc đó mới bảy tuổi, không thể hiểu được tại sao ba tôi hiền lành và đàng hoàng thế lại bỗng dưng tai ương ập đến khủng khiếp như vậy. Anh Khương lúc đó mới 17 tuổi cũng bị bắt trói khuỷ tay dẫn đi. Họ bảo là bắt bọn địa chủ cường hào ác bá theo Quốc Dân Đảng. Họ lấy luôn tất các tấm ảnh ba tôi chụp đây đó và cả cái tráp đựng các tập giấy bổi ghi chữ Hán của ông . Họ cho đó là tài liệu phản động Quốc Dân Đảng. Sau này lớn lên tôi nghĩ đó có khi là những bài thơ ông sáng tác. Từ đó đến nay gia đình tôi không có ảnh ông để thờ. Họ giam ba và anh tôi trong một căn nhà tranh lụp xụp cuối xóm trong. Mỗi người bị bắt họ giam một nơi . Sau một thời gian họ tha cho anh Khương về . Có lẽ vì anh lúc đó mới 17 tuổi, chưa đến tuổi vị thành niên.
Tôi đến thăm ba, thấy ba bị cùm cả hai chân, ngồi một chỗ không đứng lên được. Ba nhìn tôi nước mắt lưng tròng. Ông quàng tay ôm tôi vào lòng liền bị tên đội quát :” Đụ mạ, thằng địa chủ cường hào kia…”. Cái cùm cùm ba tôi là một thanh ván gõ lên nước đỏ au, khoét hai lỗ thò bàn chân vào được, rồi họ xẻ dọc, một phía đóng chốt, một phía bắt khoá. Người ta làm ăn thì đói rách, ngu đần, nhưng nghĩ ra cách hại người thì vô cùng giỏi. Người bị cùm phải mở được khoá mới co chân lại được. Tôi đọc sách Tàu nghe nói đến gông-cùm mà chưa hình dung ra nó như thế nào. Đi bới cơm cho ba bị bắt, tôi mới biết hình thù cái cùm . Cùm là thứ để xích chân, còn gông là thứ để xích cổ, dành cho người tù khi bị giải đi . Một lần mạ tôi vắt cơm để tôi đi bới cho ba. Mạ dặn là trưa đứng bóng mới đi . Nhưng tôi nhớ ba, muốn đi sớm. Thế là xách mo cơm chạy. Đến cửa , thằng lính Đội đứng gác đỏ mặt dang tay quát
- Mày đi mô ?
- Dạ con mang cơm cho ba?
- Đồ con địa chủ, chưa tới giờ . Đến để tiếp tế tài liệu cho bọn phản động cường hào hả ?
Nói rồi nó tung chân đá mo cơm trong tay tôi bay xuống cát. Những hột cơm, những con cá nục mạ tôi kho bay tung toé trên cát. Tôi ôm mặt khóc chạy về nhà sà vào lòng mạ. Thế là hai mạ con cùng khóc. Tôi không biết thái độ ba tôi như thế nào khi ông ngồi trong chỗ giam nhìn ra sân thấy cảnh con bị đá như thế. Chắc là ông đau lòng lắm.
Trong tuổi thơ tôi đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là cái ác, thế nào là người ác. Không phải người ác làm sao lại thất nhân tâm đến vậy ? Ký ức đó tạc vào tâm khảm, đến già cũng không phai. Mỗi lần nhớ lại là nổi gai ốc. Ngôi nhà rường ba gian hai chái ba tôi đổ bao nhiêu công sức, tiền của để làm bị Đội tháo dở, chia “quả thực” cho bần cố nông. Người kèo, người cột, kẻ xuyên, trếng, rồi bàn khoa, cửa đố, rồi đôi câu đối sơn son thếp vàng trên gỗ..., họ giành nhau từng tấm phản, tháo ra vác chaỵ như vớ được vàng . Làng tôi nghèo, chỉ nhà tôi cùng vài nhà nữa mới có sàn nhà bằng ván gỗ , còn cả làng là nhà gỗ dương lợp cỏ rười, trong nhà toàn cát, nên cướp được tấm phản họ mừng lắm. Họ tranh nhau xúc sạch cả rương thóc, gạo nhà tôi. Mạ tôi van lạy “ Lạy các ông ác bà, Xin các ông các bà cho mạ con tui lại một ít cấu (gạo) để sống…”, mà chẳng ai thèm nghe. Mấy thùng đựng muối họ cũng khuân ra sân chia nhau vung vãi. Còn các loại nồi đồng, mâm đồng, thạp đồng, mâm thau, chậu thau, bát sứ Giang Tây, rồi mấy bức hoành phi, câu đối treo ở cột nhà.v.v… Cả bộ ngũ sự trên bàn thờ tiên tổ nhà tôi hàng trăm bần cố nông xông vào cướp giật, tranh giành, đánh nhau chí choé. Tay nào là rễ, chuỗi ( từ chỉ cơ sở nồng cốt của Đội cải cách, từ cội rễ mới xâu chuỗi ) thì được chia nhiều thứ hơn. Đội bắt mạ con tôi phải xuống ở nhà bếp . Hai chiếc thuyền lưới thì bị tịch thu đưa cho bần cố nông đi biển . May họ không biết chữ , nên tủ sách ba tôi để lại họ chỉ vứt lung tung chỏng chơ đầy sân cát để lấy cái kệ tủ , phá ra từng mảnh chia nhau. Sau khi họ đi rồi, mạ tôi nhặt lên vuốt ve từng cuốn sách rồi xếp vào những cái thúng rách…Hồi đó ba tôi mua sách nhiều lắm. Những Hồng Lâu Mộng, Rừng thẳm tuyết dày, Tam quốc diễn nghĩa... của Trung Quốc, những Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Người người lớp lớp của Trần Dần, Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Tố Tâm của Hiàng Ngọc Phách, Bức Tranh Quê của Anh Thơ, Truyện Kiều , rồi những cuốn truyện thơ Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa.v.v.. Những sách đó ba tôi mua mỗi khi đi chơi Đồng Hới, hay đi họp lý trưởng ở Huế. Nhìn cảnh đi tranh giành quả thực, tôi cứ nghĩ đến một lũ ăn mày đói khát lâu năm đang vớ được cái ăn trên trời rơi xuống. Thật khốn khổ cho những kiếp người ! Sau này hỏi các ông già trong làng tôi mới biết, Đội trưởng Đôị Cải cách ruộng đất là do Trung ương cử về, không qua tỉnh, huyện. Họ có toàn quyền giết ai, tha ai, ngủ với cô nào.... Họ vẫy tay là con gái nhà lành tối tối phải hiến thân cho họ. Đúng là trên Đội dưới Trời , không có ai to hơn.
Sau đó ba tôi bị dẫn đi hết nới này đến nơi khác đấu tố. Đội Cải cách mở lớp “học tập”, dạy cho các“chuỗi rễ” cách chỉ tay vào mặt, cách tát, cách giơ nắm đấm và từng câu đấu tố địa chủ để học thuộc. Người này thì đấu tố nội dung này, người khác thì chửi bới nội dung khác. Tất cả các câu hỏi và đấu tố đều được Ban Cải cách Trung ương soạn sẵn từ Hà Nội. Những người đấu tố toàn lũ trẻ hai lăm bốn mươi tuổi. Các ông bà già bảy tám chục , hiểu sự đời, thì nhìn ba tôi bị đấu tố là quay mặt đi. Mà toàn bọn tố điêu, vu khống. Tôi không hiểu tại sao họ lại dạy cho con người lấy chuyện điêu toa, dối trá, vu khống trắng trợn người khác làm lẽ sống như thế ? Chuyện đấu tố địa chủ đã làm cho cuộc sống làng quê ngàn đời bình yên, thân thuộc bỗng dưng bị tan tác, chia rẻ, nghi kỵ, thù oán lẫn nhau . Cả làng tôi từ ngày có Đội bỗng tắt ngóm tiếng cười đùa , tiếng hát. Cả làng như có tang. Đêm đêm gió nồm thổi qua rặng dương liễu ù ù như ngoài chiến địa. Bọn con trai thì tố “mày bóc lột tao”, “mày đánh đập tao”,” mày là thằng chó đẻ”… Con gái thì tố “mày cho tao ăn cơm thiu thối”, “mày hiếp tao lần này lần khác”, dù mặt mũi , thân hình họ không mảy may làm cho bất cứ người đàn ông xúc động. Có đứa phụ nữ còn tốc váy lên vừa vỗ bôm bốp vào hĩm vừa chỉ vào mặt ba tôi rủa :” Dòng họ nhà mày răng bằng cái l. của bà ! Trí , phú , cương , hào đào tận gốc, tróc tận rễ…”…Những người mà cả gia đình họ hàng mấy chục năm sống nhờ vào thuyền lưới , cơm cá nhà tôi cũng tố :” Mày bòn rút xương tuỷ nhà tao”, “tao nghèo là do mày “.v.v..Điêù kỳ lạ là những đứa tố điêu, vu khống chẳng hề biết ngượng ngùng, xấu hổ là gì. Họ tố điều gì ba tôi cũng bị Đội bắt phải cúi đầu xưng :“Dạ. Thưa ông . Con biết”. Mỗi lần ba tôi im lặng không nói tức thì báng súng thúc vào hông :” Đồ địa chủ ác bá, sao mày không đội ơn ông nông dân đi con !”. Ba tôi khi bị dẫn đi gặp ai Đội cũng bắt phải cúi đầu thưa “ Thưa ông , thưa bà nông dân”. Những ngày đó mạ con tôi chẳng dám ra đường.
Sau năm tháng gông cùm, tra khảo, đấu tố, sáng ngày mùng 6 tháng 5 âm lịch năm 1956, họ đưa ba tôi ra đầu làng xử bắn. Có người chứng kiến cuộc xử bắn “địa chủ” kể lại rằng : Đội bắt người đi chặt cây tre to làm cọc chôn sâu xuống cát. Họ trói ba tôi vào cột, bịt mắt. Một tiểu đội du kích 12 người cầm súng trường đứng cách mấy mét. Không có bản án tử hình được công bố, không có bản luận tội. Phạm nhân không được tự bào chữa, hay thuê luật sư bào chữa. Sau mười hai phát đạn nổ định tai, cha tôi gục xuống. Máu tươi lênh láng cát làng. Lúc đó mạ con tôi ở nhà, vì Đội cấm không cho ra nơi xử án. Nghe tiếng súng nổ, mạ tôi khóc nấc lên, ngất lịm đi rồi bỗng khóc gào thật to, hai tay bới cào tay xuống cát. “Ôi ông ơi, sao ông sống hiền hậu, nhân đức thế mà người ta nỡ giết ông, ông ơi”, “Trời ơi sao trời lại sinh ra bọn quỷ mặt người độc ác như thế, trời ơi , Trời có biết không ?” Hình như mạ tôi muốn gào bới cho Trời Đất nghe thấy nỗi đau đớn oan khiên này. Sáng hôm sau thì người chạy thư trên huyện đưa về cái lệnh ”dừng việc xử bắn địa chủ”. Thế là mấy cụ bị bắt cùng ba tôi như hai ông Huyên, Hứa ( Ngô Văn Thung, Ngô Văn Dung), ông anh con cô con cậu với tôi là Ngô Văn Toản thoát án xử tử hình. Từ đó tôi đến trường với cái biệt danh: “con địa chủ bị bắn trong CCRĐ”. Đội Cải cách bắn ba tôi xong họ bó vào mảnh chiếu rách rồi chôn lấp sơ sài ở một góc đồi cát.
Sau khi dừng chuyện cải cách, bắn giết, mấy ông anh con bác và anh Khương mới đưa hài cốt ba tôi về chôn ở cuối khu mộ của các cố tôi. Nghĩa là ba tôi chết không có một mảnh ván quan tài, không có điếu văn, tang lễ, không có trống kèn đánh thổi, không có con cháu khóc lóc tiễn đưa như tất cả những đám tang ở làng tôi hồi ấy. Sao sô phận của ba tôi lại bi thảm đến thế hỡ trời!. Sao lại có bọn người gọi là “cách mạng” mà lại giết hại cả những người từng hết lòng ủng hộ sự nghiệp của mình như vậy ? Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi.
Những ngày đó ai tiếp xúc với gia đình tôi đều sợ bị liên luỵ. Bà con họ hàng nội thân nhà tôi như gia đình anh Thiểu, anh Hiểu, chỉ Hổ, chị Hỷ… đêm đêm thường lén lút cho con cháu mang sang cho mạ tôi khi năm ba lon gạo, khi vài củ khoai, khúc sắn, khi chục con cá nục. Phải lén lút đợi khuya mới ném vào góc lều, vì Đội cấm. Lính của Đội canh gác, rình mò ghê lắm. Ai mà tiếp tế cho địa chủ cường hào cũng là kẻ thù của giai cấp, sẽ bị tiêu diệt, gia đình sẽ bị bắt ngay. Anh Ngô Tấn Ninh, lúc đó 12 tuổi hỏi mạ:” Tại sao gia đình mình có tí thuyền lưới hơn người, lại bị giết hở mạ ? Có phải họ ghen tức vì không được như nhà mình ?”. Mạ bảo :” Đội thì biết gì mà ghen với tức. Đội muốn giết ai thì giết !”
Làng tôi có anh Hảo. bà con gọi là Hảo Điên. Do thất tình với một người đẹp trong làng anh bị điên. Đêm ngủ , anh mơ gì đó , thế là bấu, rựt đứt luôn con cu của mình, phải đi viện cấp cứu . Từ đó suốt ngày anh cởi truồng đi khoe con cu cụt khắp xóm Thượng Bắc, Thượng Nam, múa hát và đái. Mỗi lần anh đái phải ba tiếng đồng hồ mới xong, vì lỗ đái bị tịt. Theo tôi thì anh Hảo không hoàn toàn điên. Vì có một buổi sáng đàn ông cả làng tôi ra biển. Không hiểu lửa củi thế nào mà nhà tay xã đội trưởng bốc cháy đùng đùng. Đúng lúc đó anh Hảo đi ngang qua. Thấy lửa , anh liền xông vào khuân hết súng và cả thùng lựu đạn ra bỏ dưới gốc cây dương liễu, rồi lại đi xăng xái múa hát như không có chuyện gì xảy ra. Không có anh hôm ấy, lựu đạn mà nổ thì nhất định không ít người trong xóm thương vong. Mỗi khi đi ngang sau lưng lều tranh của mẹ con tôi bao giờ anh cũng cười khanh khách , rồi chửi lớn :” Tiên sư bọn ngu dốt, người giỏi bây giết thì ai bày cho cách làm để có cái mà đút vào mồn hả !”. Anh vung tay chửi đi chửi lại rồi lại cười hực hực. Chửi xong anh lại vắt chiếc quần nâu lên vai, ngồi bệt bên lối đi đái tới chiều. Vì anh điên nên Đội Cải cách chẳng làm gì được anh cả. Bảo đi đấu tố anh cũng chẳng đi.
Lại có anh tên là Chắc, một tay thơ phú vần vè, nói lối giỏi nhất làng, khi vừa có lệnh “ngừng bắn địa chủ”, đã không còn đấu tố nữa , anh đi đường hát nghêu ngao mấy câu đồng dao tự anh ứng tác :
Người giỏi thì giết
Thằng đần lên ông
Rồi thì bốc cứt
Mà ăn ơi làng…
Người giàu thì giết
Thằng bần thì nuôi
Rồi thì chết đói
Cả làng mất thôi…
Người giaù giết hết
Cả nước bần hàn
Đời chi lạ rứa
Ơi giống Lạc Hồng…
Cũng phải nói thêm điều này: Đáng lẽ diệt được địa chủ cường hào rồi, ruộng đất, thuyền lưới về tay nông dân rồi thì họ sẽ no đủ hoặc giàu có lên mới phải chứ. Nhưng không . Tất cả những người đã hăng hái đấu tố, được chia nhiều quả thực từ gia đình tôi , sau đó họ không giàu lên mà cứ nghèo dần đi. Nghèo quá phải mang mấy thứ quả thực Đội chia cho đi chợ bán kiến tiền đong gạo nấu cháo ăn qua ngày. Nghèo đến độ chỉ năm sau họ lại đến nhà xin mạ tôi từng lon gạo. Thuyền lưới nhà tôi bị tịch thu đưa cho bần cố nông, nhưng họ không biết quản lý, không có vốn để sữa chữa, đại tu, không tiền để mua lưới mới rồi thuyền trở thành củi mục , lưới thành tả rách từ bao giờ không ai biết nữa. Thế là Cải cách ruộng đất bị biến thành cuộc sát phạt những trí thức, người giàu có, chứ chẳng có ý nghĩa “người cày có ruộng” gì cả !.
Sau này đọc sách báo, tôi mới biết cuộc sát phạt này bắt nguồn từ tư tưởng “đấu tranh giai cấp” của Quốc Tế Ba do Stalin chi phối. Sau chiến thắng phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II, Stalin đã ra lệnh giết hại hoặc bắt đi đày tận Xibêri cho đến chết hàng chục vạn trí thức ưu tú của Nga vì ông nghi ngờ trí thức luôn đối lập, không theo đường lối đấu tranh giai cấp của mình. Rồi đến Mao Trạch Đông ở Trung Quốc với hàng chục cuộc thanh trừng như “Cải cách ruộng đất”, “chống phái hữu” rồi “Cách mạng văn hoá” đẫm máu và nước mắt. Hàng mấy chục triệu trí thức Trung Quốc bị giết, bị đưa đi cải tạo lao động rồi chết dần chết mòn ở các vùng nông thôn hẻo lánh. Tư tưởng độc tài này phát triển cực điểm ở Cămpuchia khi Đảng gọi là Cộng sản của tên đồ tể Ponpot lên nắm chính quyền sau năm 1975. Hơn hai triệu trí thức, người dân thành thị Cămphuchia đã bị tàn sát thảm khốc bằng cuốc, xẻng, dao rựa đập vào đầu, tạo nên những cánh đồng chết, những hồ chôn người tập thể. Thật khủng khiếp. Ở nước ta bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên là “địa chủ” bị xử bắn đầu tiên năm 1953. Bà Năm là một địa chủ giàu có nhưng vô cùng yêu nước. Bà đã giúp đỡ cách mạng nhiều tiền ,vàng. Bà nuôi trong nhà rất nhiều cán bộ là lãnh tụ của Việt Minh. Rứa mà Đội Cải cách đem bà Năm ra xử bắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh can :” Chẳng lẽ cách mạng ruộng đất lại mở đầu bằng việc giết một phụ nữ, lại là người đã giúp đỡ cách mạng ?” . Đội lĩnh ý Cụ Hồ, mang hỏi các ông cố vấn Tàu. Cố vấn phán :” Giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thế là bà Năm bị tử hình. Câu chuyện này tôi đã nghe nhiều người kể , và mới đây đã được nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã viết ở trong tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường vừa xuất bản của ông. May mà Cụ Hồ đã phát hiện ra sai lầm, ra lệnh dừng việc đấu tố bắn giết địa chủ đang làm tan nát nông thôn .
Sau đó tiến hành mấy đợt sửa sai. Sửa sai cũng chỉ hô hào, rồi đổi thành phần là địa chủ xuống trung nông, chứ nhà cửa, tài sản, danh dự chẳng ai trả lại cho ba mạ tôi cả. Phải nói rằng, ba năm CCRĐ, nông thôn miền Bắc đã mất đi hàng vạn người giỏi : lao động giỏi , kinh doanh giỏi, học hành giỏi, là chỗ dựa vững chắc cho cuộc mưu sinh của bà con nông dân ở các làng quê. Vì cả miền Bắc lúc đó có hàng vạn làng, mà mỗi làng như làng Thượng Luật quê tôi có tới 4 người bị quy là địa chủ , bị bắt giam cầm và đấu tố đều là người giỏi, trí thức của làng. Nếu không dừng việc đấu tố, mà cứ nghe theo lời các cô vấn , chắc chắn nông thôn miền Bắc sẽ hàng vạn người làm ăn giỏi bị giết. Cầu mong Trời Phật làm sao trên đất nước thân yêu này không sinh ra bọn Đội quyền cao hơn Trời ấy một lần nữa !
Điều tâm linh nữa là tất cả những người du kích đã cầm súng bắn vào ba tôi trong cuộc xử án hôm đó, sau này hầu hết đều chết vì bị bom đạn chiến tranh. Có người bị chết cả nhà một lúc. Có người sống đến hoà bình lại chết vì cá mập trên biển. Hương hồn ba tôi nhân hậu, thương người chắc là ông không bao giờ trả thù ai. Nhưng lưới trời lồng lộng. Những kẻ ác không bao giờ thoát khỏi lưới trời trừng phạt. Người ta gọi đó là “quả báo” hay “ác giả ác báo”. Trong số những người du kích cầm súng xử bắn ba tôi thời đó, có một người còn sống đến hôm nay, lại trở thành su gia với gia đình anh Ngô Tấn Nình. Hai bên gả con cho nhau và sống hoà thuận, sinh cháu ngoan hiền vui vẻ. Có giỗ chạp gì hai nhà lại đến cùng nhau. Có lẽ lúc đó ông ta đã bắn không trúng hoặc chỉa súng bắn lên trời chăng ? Điều đó minh chứng rằng, anh em chũng tôi không hề lấy việc đau thương mất mát của gia đình làm thù oán. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng có quy luật của nó : Ở hiền gặp lành ! Đó là điều mạ tôi thường dạy anh em tôi mỗi tối.
Những tháng ngày khổ đau buồn bã đó, đêm về mạ tôi thường mời anh Yêng , một người có giọng ngâm thơ rất tốt vào nhà cùng anh Khương đọc Truyện Kiều, truyện thơ Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cức Hoa hay Lục Vân Tiên cho mạ nghe. Mạ vừa nghe thơ vừa bỏm bẻm nhai trâù. Dường như thơ đã an ủi chia sẻ với mạ những tang thương gia đình. Nhưng lúc đó tôi luôn ngồi bên mạ. Những âm điệu buồn của giọng ngâm thơ của anh Yêng đã ngấm vào tâm hồn tôi từ bao giờ…
( trích sách 100 NGÀY VƯỢT TRƯỜNG SƠN)
 Ngô Minh
(Quê Choa)

Họ đang vui như thế…

Thanh niên ở ĐBSCL đang làm gì? Câu hỏi trên tưởng chừng như thừa thãi, vì xưa nay ở đâu có nếp sinh hoạt đó: Thành thị thì kinh doanh buôn bán, lao động công nghiệp và dịch vụ…, nông thôn thì trồng trọt chăn nuôi là chủ yếu. Gần đây ở nông thôn ĐBSCL xuất hiện nhiều khu công nghiệp, còn nông nghiệp thì tiến độ cơ khí hóa diễn ra rất nhanh (máy cày, máy xới, máy trục, máy gặt đập liên hợp…) nên lẽ đương nhiên là cơ cấu lao động cũng dần dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Tuy nhiên, nếu sự dịch chuyển này diễn ra một cách cân đối thì cũng là một tín hiệu tốt lành, đằng này lại chứa đựng sự mất cân đối nghiêm trọng: Lao động công nghiệp (mà chủ yếu là làm công nhân) hầu như chỉ dung nạp nữ thanh niên, còn nam thanh niên thì không có việc làm. Các chủ doanh nghiệp cho biết lý do là vì các công việc này không cần sức vóc mà chỉ cần chăm chỉ, do đó tuyển nam công nhân vào làm sẽ không phù hợp, lại có nguy cơ đánh nhau, đập phá gây hư hại tài sản của doanh nghiệp.


Bất cứ nơi nào ở miền Tây cũng có thể trở thành chiếu nhậu

Bởi vậy mà trừ những nam thanh niên học hết lớp 12 (hoặc ít ra là hết lớp 9) có thể học nghề gì đó và tìm được việc làm, những thanh niên không học hoặc học hành dở dang thì hầu như chỉ còn cách đi làm hồ, số còn lại không được siêng năng lắm chỉ còn cách lêu lổng, vô công rỗi nghề. Một số rất nỗ lực xin làm bảo vệ, công nhân nhưng hầu hết đều bị từ chối (vì trình độ học vấn hay vì doanh nghiệp không tuyển nam công nhân). Thậm chí một số muốn được đi nghĩa vụ quân sự nhưng vẫn khó được tuyển, vì không đủ trình độ học vấn, mặc dù phần lớn các địa phương đều báo cáo đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
Tình trạng nói trên một mặt gây lãng phí một nguồn sức lao động rất lớn và mặt khác làm tăng nguy cơ nảy sinh các tệ nạn xã hội, bởi “Nhàn cư vi bất thiện”. Điều này thấy rõ nhất ở các cánh đồng hay nông trường vừa giải phóng mặt bằng để làm khu công nghiệp hay khu vui chơi giải trí gì đó: Lao động nông nghiệp bị xóa sổ mà không có việc làm gì để thay vào. Tất nhiên chính quyền địa phương cũng tìm cách để chuyển đổi nghề cho họ, nhưng thực tế cho thấy họ rất khó thích nghi với các nghề mới như kinh doanh hay làm dịch vụ, bởi thiếu vốn và kinh nghiệm, tay nghề.
Một khi đời sống vật chất đã thấp, thu nhập không có thì đương nhiên đời sống tinh thần của lớp nam thanh niên này cũng không thể khá hơn. Phần lớn trong số họ sống bám gia đình, một số sa vào các tệ nạn như như: cờ bạc, trộm cắp, một số còn dính vào ma túy… Nhìn chung, cách giải trí thông thường của nam thanh niên ở ĐBSCL hiện nay là… nhậu nhẹt. Nhậu có nghề. Nhậu triền miên, hàng ngày. Cách giải trí được xem là lành mạnh hơn chính là… uống cà phê.
Do nhu cầu uống cà phê quá lớn, mọi lúc mọi chỗ nên ở ĐBSCL có rất nhiều quán cà phê mà phần lớn là quán bình dân… Tuy gọi là bình dân nhưng các quán này cũng thường tuyển chọn người phục vụ là các cô gái trẻ đẹp để câu khách, từ đó hình thành một hạng gái gọi là “gái bán quán cà phê”. Trong khi các nữ thanh niên mải lo đi học hoặc đi làm công nhân suốt ngày và có khoảng cách quá lớn so với các nam thanh niên thiếu học, thất nghiệp thì các cô gái bán cà phê này chính là phần an ủi của các anh chàng ở quê. Bởi vậy mà trong khi các nam thanh niên thường xuyên “ngồi đồng” lê thê tại các quán cà phê, xem như là một kiểu hưởng thụ văn hóa thì tại đây người ta rất hiếm khi bắt gặp khách là phụ nữ. Chính vì vậy mà có thể nói các quán cà phê ở nông thôn thực sự trở thành các tụ điểm giao lưu riêng của các nam thanh niên nhàn rỗi.


Đờn ca tài tử giờ chủ yếu chỉ để phục vụ khách du lịch

Do khó kiếm được người yêu và khó có tiền cưới vợ nên hiện nay ở ĐBSCL đang báo động tình trạng nam thanh niên độc thân trong khi nhiều chị em phụ nữ chỉ chăm chăm lấy chồng nước ngoài hoặc lấy chồng thành phố. Tình trạng “cung cầu” mất quân bình nghiêm trọng đó dẫn đến tâm lý bức xúc tự phát trong vô thức của nam thanh niên, dẫn đến những hành động điên cuồng mất kiểm soát như đua xe, nhậu say nằm vắt ngang đường, đánh nhau, chém nhau… Thậm chí người ta thường nghe nhiều trường hợp nam thanh niên tự hủy hoại thân thể như tự tạo nên các vết sẹo trên mình, có trường hợp nhậu say rồi tự… nhai nuốt luôn ly rượu, đĩa sành, thậm chí tự… mổ bụng.
Mặt khác, cũng do tình trạng độc thân ngày càng tăng lên nên nhu cầu có những “mối tình chớp nhoáng” ngày càng nhiều. Bởi vậy mà trong khi kinh tế còn nghèo nhưng càng ngày nhiều dịch vụ xa xỉ lại nở rộ ngay ở nông thôn vùng sâu như: dịch vụ “gội đầu nam”, “giác hơi cổ truyền”, nhà nghỉ… Không kể nhiều dịch vụ cà phê ôm, thậm chí rượu đế ôm vốn có từ trước.
Trong khi đông đảo nam thanh niên còn chưa biết làm gì thì nhiều cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo ở nông thôn lại đang có nguy cơ thiếu lực lượng kế thừa nghiêm trọng. Bởi vì các thanh niên tương đối có học vấn, có ý thức thì đã đổ về các thành phố, số còn lại ở nông thôn thì mang nhiều mặc cảm nên hiếm khi họ đến với các đình, chùa, miễu… Đi chùa, cúng miễu bây giờ chủ yếu dành cho các cụ bà, cúng đình dành cho các cụ ông. Rất hiếm hoi thấy bóng dáng của một vài nam thanh niên lạc lõng ở các địa chỉ này.
Tuy nhiên, cuộc sống luôn là quá trình tự điểu chỉnh. Để bù vào khoảng trống của đời sống tinh thần nói trên, hiện nay ở ĐBSCL đang nở rộ các ban nhạc sống để phục vụ nhu cầu ca hát của nam thanh niên. Bất kể là đám cưới, đám hỏi, đám ma, đám giỗ, đầy tháng, thôi nôi, tân gia, hay chỉ đơn giản là… đám nhậu, người ta đều thường thuê dàn nhạc sống để phục vụ cho các anh chàng sung sức tha hồ ca hát, nhảy múa, hò hét vang dội suốt ngày, có khi thâu đêm suốt sáng. Điểm đặc biệt là các dàn nhạc này được đánh giá chỉ chủ yếu dựa vào công suất của hệ thống loa. Do đó, mỗi dịp ca hát này là một lần kinh động cả xóm làng.
Trong khi đó, cách giải trí phổ biến của chị em phụ nữ ở nông thôn ĐBSCL hiện nay có phần lành mạnh hơn. Các hoạt động này của chị em chỉ chủ yếu diễn ra vào ngày Chủ nhật vì phần lớn họ là công nhân. Đó là việc mua sắm tại các chợ quê, làm đẹp như cắt uốn nhuộm tóc, làm móng tay, tẩy trắng da, massage mặt…, làm cho các địa chỉ này đông đúc hẳn lên vào các ngày Chủ nhật.
Thỉnh thoảng có các đoàn ca nhạc, xiếc, ảo thuật, hội chợ giải trí… về vùng quê biểu diễn, thì tối đến nam nữ thanh niên lũ lượt đi xem, nhưng số mua vé vào thưởng thức không nhiều mà chủ yếu chỉ là cái cớ để họ đi chơi cho vui mà thôi. Chính vì vậy mà có một tình trạng kẹt xe, thậm chí kẹt… người diễn ra thường xuyên ngay tại vòng ngoài, phía trước của các sân khấu biểu diễn này, dù số người vào xem bên trong chỉ lèo tèo. Tương tự như vậy, tại các chùa vào các ngày rằm lớn và tại các nhà thờ vào dịp Giáng sinh cũng đông nghẹt nam nữ thanh niên, nhưng họ chủ yếu chỉ đi trẩy hội, số thanh niên đến đây vì mục đích tôn giáo có thể chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Họ, những người thanh niên sức dài vai rộng nơi vùng đất phì nhiêu, nơi “cánh đồng bất tận” đang sống và vui như thế.
Lê Công Lý  (Thể thao & Văn hóa Cuối tuần)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét