Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Tin thứ Ba, 03-09-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
1<- Chuyện trao tặng cờ ở Trường Sa (TP). - TRUNG LÀ LÍNH TRƯỜNG SA, Ở YÊN MỸ – HƯNG YÊN (Mai Thanh Hải).
Câu chuyện đẹp ngày Quốc khánh (TT). Liên quan bài điểm trưa qua “Gỡ bỏ bản đồ ghi sai chủ quyền Hoàng Sa”.
Việt – Trung nhất trí kiểm soát tình hình Biển Đông (VNN).  - Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Trung Quốc (CP).  - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc (VOV).  - “Trung Quốc hết sức coi trọng quan hệ với Việt Nam” (TTXVN).
Nga thử tàu ngầm thứ ba cho VN (BBC). - Chuyên gia nói gì về tàu ngầm Trường Sa? (KP).  - Doanh nhân Thái Bình tuyên bố ‘bỏ’ dự án tàu ngầm (VTC).
Dự án phát triển cơ sở hạ tầng mới của Ðài Loan ở Biển Đông (VOA).
- Huỳnh Phan trò chuyện với Giáo sư Stein Tonnesson: Biên giới biển không thể phân định bằng quyền lực (TVN).

TQ ‘ra điều kiện cho Tổng thống Aquino’ (BBC).  - Căng thẳng Philippines-TQ leo thang vì chuyến đi bị hủy bỏ của ông Aquino (VOA).
Mối nguy hiện thực của Trung Quốc – Đây là lúc Washington phải lo lắng ( Foreign AffairsBoxitvn)
- Tuyên bố của Khối 8406 sau phiên tòa Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên (BS).
- Nhà báo Trần Quang Thành: Công an Long An ép buộc Đinh Nguyên Kha ký nhận tội khủng bố? (Ba Sàm).
Vẫn tùy tiện trong việc bắt, giam (RFA). “Bà Nguyễn thị Kim Liên, mẹ của sinh viên Đinh Nguyên Kha cùng vụ án với Nguyễn Phương Uyên và blogger Đinh Nhật Uy, vào trưa ngày 2 tháng 9 cho biết thông tin về hai người con của bà trong nhà tù như sau: Chuyến vừa rồi cũng y như những đợt trước, tôi và Thạch Thảo không được gặp Kha, chỉ có ba cháu mà thôi. Cháu với với ba rằng phải mời luật sư vì ở trong đó bị ép phải nhận tội khủng bố …”
Blogger Anh Ba Sài Gòn ra tù sớm (BBC). “ông không nằm trong đợt đặc xá nhân dịp Quốc khánh Việt Nam ngày 2/9 mà được giảm án ‘dựa trên kết quả cải tạo trong tù’”.  - Blogger Anh Ba Saigon được trả tự do (VOA).  -Việt Nam đặc xá hàng ngàn tù nhân dịp 2/9 (BBC).
2Hòa thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm (BBC).  – Audio: Vì sao HT Thích Quảng Độ từ nhiệm? (BBC).  – Phỏng vấn Hòa thượng Thích Quảng Ba: ‘Giáo hội không thể thiếu lãnh đạo’ (BBC). - Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ chức (RFA). - HT Thích Quảng Độ từ chức lãnh đạo GH Phật giáo VN Thống nhất (RFI). =>
VN ngày càng siết chặt internet? (BBC).   - Nghị định 72 bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam (VOA). - Các nước Đông Nam Á tìm cách trấn áp bình luận trên các mạng xã hội  (VOA).
- Đảng sẽ đưa đất nước về đâu? (RFA).
Đôi điều với ông Đằng về lời hô hào lập đảng « Dân chủ xã hội » (Trương Nhân Tuấn).
- Nguyễn Sĩ Bình: Đảng Cộng sản: võ sỹ không đối thủ? (BBC). “Đối thủ chính trị của ĐCSVN hiện nay không hẳn là một cá nhân hay một đoàn thể, mà là các lực lượng yêu nước ở trong và ngoài ĐCSVN. Có thể nói lực lượng đó là thành phần đa số trong xã hội ngày nay”.
TRAO ĐỔI VỚI JONATHAN LONDON VỀ UY QUYỀN CHÍNH ĐÁNG (Mõ Làng).  Bức hình trong bài viết này là của ông Jonathan London khác, ông này dạy ở trường ĐH UC Davis ở Mỹ, còn GS Jonathan London mà blogger Mõ Làng muốn trao đổi thì đang dạy ở  City University of Hong Kong. “Theo đánh giá của chúng tôi, ngày nay, uy quyền chính đáng của ĐCS vẫn chiếm ưu thế trong lòng dân Việt Nam. Bởi vì đường lối chính trị của Đảng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, lợi ích mà nhân dân có được như ngày nay là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ bằng sự đồng thuận của nhân dân với đảng. Ở Việt Nam chính trị vẫn ổn định, xã hội vẫn an toàn“. Có dám trưng cầu dân ý không? Cho Viện Gallup vào làm một cuộc trưng cầu dân ý để biết nguyện vọng của dân như thế nào.
Ngày 2/9, nghĩ về cái giá của nền độc lập (Anh Vũ).  - Từ nền độc lập nghĩ về văn hoá hoà bình (ĐCV). - MacARTHUR VÀ BÊN THẮNG CUỘC (Alan Phan). “Do đó, các lãnh tụ các quốc gia nhỏ bé nên nhớ điều này: nếu đánh nhau với Mỹ thì nên ‘vờ’ thua, nếu không thua thật. Mỹ nó ngu, nó sẽ đổ tiền ào ạt vào cho toàn dân ‘hủ hoá’ và lên thiên đường tư bản. Còn nếu đánh nhau với Tàu, ráng đánh cho thắng, chứ không thì khốn nạn cả lũ“.
Trương Ba Không – Cảm xúc Việt Trì (Dân Luận).
3<- Những người mẹ Việt khổ đau (Quê Choa).
- Phạm Chí Dũng: Đình chỉ phát hành Đại gia: Nhóm lợi ích can thiệp vào công tác xuất bản? (VOA).
Bọn tham nhũng cướp đất công để trả ơn cho nhau! (Xuân VN).
- Vũ Tôm: Lý sự tí chơi  (Trần Nhương).
“Bóng ma” những công trình tiền tỉ (NLĐ).
Thủ tuớng Nhật : Nhanh chóng có biện pháp làm sạch Fukushima (RFI). - Chính phủ Nhật bàn cách xử lý vụ khủng hoảng tại nhà máy Fukushima (VOA).
- Tiếp theo loạt bài ‘Thùng thuốc súng Trung Quốc’: Về tự do ngôn luận (phần 2) (Phan Ba). “Nhiệm vụ của một nhà văn là gì? Một nhà văn cần phải là tấm gương phản chiếu của xã hội. Ông ấy mang trách nhiệm cho xã hội và cộng đồng. Nhưng rất đáng tiếc là các nhà văn của chúng tôi trong Trung Quốc đã không làm tròn nhiệm vụ của họ. Họ tránh phê phán xã hội. Họ viết vì tiền. Họ có một cây kéo ở trong đầu, và đẳng cấp của họ không cao cho lắm“.
Tham nhũng: Điều tra lãnh đạo tập đoàn dầu khí Nhà nước Trung Quốc (RFI). - Trung Quốc ‘sờ gáy’ tập đoàn dầu khí (BBC).  - Trung Quốc điều tra tham nhũng quan chức hàm bộ trưởng (KT).  - Yahoo Trung Quốc chính thức đóng cửa (BBC).
Ủy ban liên Triều họp lần đầu tiên về việc mở lại Kaesong (VOA). - Đàm phán về Kaesong nối lại, Seoul tặng Bình Nhưỡng hơn 6 triệu đô la (RFI).
Đối lập Campuchia tiến hành biểu tình (BBC).
Thái Lan bị tố cáo bóc lột người nhập cư trái phép (RFI).
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 1) (Boxitvn).

- Tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và biển Hoa Đông: Trung – Nhật lại khẩu chiến (PT).
KINH TẾ
Ai giám sát nợ công? (TBNH).
Những sự kiện kinh tế nổi bật trong tuần (TBNH).
4Ngân hàng nội khó tiếp cận doanh nghiệp FDI (TBKTSG).
Khóc ròng vì tin chủ đầu tư (NLĐ).  - Vì sao khách hàng xin trả lại nhà thu nhập thấp nhiều thế nhỉ? (VNN/ Tầm nhìn). =>
Xuất khẩu nông sản tuột dốc (NLĐ).  - Xuất khẩu rau quả: giảm phụ thuộc vào Trung Quốc không dễ (TBKTSG).
Du lịch Việt Nam tăng 22% trong tháng 8 (VOA).
Người tiêu dùng Việt cần vững dạ để chọn lựa sữa nội và ngoại (SM).
McDonald’s và thị trường thức ăn nhanh béo bở tại Việt Nam (RFI).
Đại gia Việt Nam đổi tên thị trấn của Mỹ (TN).
Nhóm BRICS sẽ họp riêng về đề án quỹ dự trữ ngoại tệ chung (RFI).
WTO/OMC : Từ tự do mậu dịch đến sen đầm thương mại (RFI).

VĂN HÓA-THỂ THAO
Hà Nội lập đề án bảo tồn biệt thự cổ (TT).
- Nguyễn Huệ Chi: Gian nan con đường phục chế một tấm bia thời Lý (Boxitvn).
- Nguyễn Hoàng Đức: HẬU HIỆN ĐẠI LÀM SAO NỞ TRONG ĐẦU Í Ì I TRE NỨA ? (Bà Đầm Xòe).
5<- Đặng Mai Lan: Nhớ anh, tôi đi tìm những trang sách (Da màu).
- Nguyễn Nam: Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương (PBVH).  - Phùng Văn Tửu: Kỹ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương trong Trí nhớ suy tàn.
- LÊ THANH DŨNG: SUY NGẪM (tiếp theo) (Nguyễn Trọng Tạo).  - BA NGÀY VỚI CHÚ DU TỬ LÊ.  - KHI NHÀ VĂN LÀM TUYỂN TẬP.  - NGUYỄN HOA “VẪN ĐỐT LÒNG MÌNH LÊN”.
- Phạm Ngọc Thái: Chử Văn Long với tình thơ đậm tính nhân tình thế thái (Trần Nhương).
Hội Ðồng Hương Vinh Lộc-Huế tổ chức tiệc Hè (NV).
Áo dài Cham… điệu đấy chứ! (Inrasara).
Tính dân tộc là bản sắc của điện ảnh (TQ).
- Mảng sách chân dung văn nghệ sĩ: Vùng đất tốt đang chờ người khai hoang (SK&ĐS).
Điều còn mãi 2013: Nơi nhạc Việt thăng hoa (VNN).
Làm “oshin” trên phim (NLĐ).
Nghệ sĩ TP HCM treo ngược người hát opera (VNE).
Tùng Dương 30 tuổi vẫn “độc đạo” bắt đầu mơ về “ngôi nhà và những đứa trẻ” (LĐ).
LHP Venice 2013 ngập trong phim tình dục, bạo lực (TN).

GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Nhập ngũ không mất cơ hội học hành (NLĐ).
6Chương trình giúp đỡ người Việt trong nước kém may mắn (Boxitvn).
Nước mắt thủ khoa (NLĐ). Chị Trang kể về những tháng ngày vất vả xin việc theo chính sách “thu hút nhân tài” của tỉnh Nghệ An =>
Quy định “kỳ quặc” về đồng phục học sinh (24h).
9x làm chủ lò luyện thi Đại học (Ione).
Nghìn lẻ chuyện… đầu năm học (GD&TĐ).
Trong nghiêm khắc là lòng yêu thương học trò (GD&TĐ).
Trung Quốc phóng thành công vệ tinh viễn thám (VOA).

- Phản hồi quanh bài viết “Chuyện 5 hiệu trưởng từ chức”: Làm hiệu trưởng là hi sinh (TT).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Mất chức trưởng khoa vì sản phụ tử vong tại phòng mạch tư (VNE).
7<- Vụ chôn thuốc trừ sâu: Dân lập trại giữ hiện trường, công an đi điều tra lý lịch (LĐ).
Nạn “chặt chém” ở bến xe Miền Đông (RFA).
Vụ gia đình bị đốt khi đang ngủ: Bắt giữ 2 nghi can (NLĐ).
Giả trinh sát Bộ Công an để lừa đảo (NLĐ).
Kiểm tra 2 quán bar trá hình ở Q.1, đưa 120 người về trụ sở công an (NLĐ).
Áo phao để… ngắm (NLĐ).
- Huỳnh Văn Úc: Cô lái đò và sư thầy (Trần Nhương). – Thành An); Chung quy do lão …thày bói.
Rừng mất, nước cạn (NLĐ).
Đóng cửa nhà đi chơi lễ, “bà hỏa” hốt trọn kho kẹo dừa (Tân Châu).

QUỐC TẾ 
Vũ khí hóa học tại Syria : Tình báo Pháp đưa ra các bằng chứng (RFI).  - Syria : Chính quyền Obama nỗ lực thuyết phục Quốc hội.  - Bắc Kinh vẫn quan ngại trước khả năng Mỹ đơn phương đánh Syria. –  Syria : Nga tuyên bố không tin vào ‘chứng cớ’ của Tây phương. - Damas kêu gọi Liên Hiệp Quốc ‘ngăn chận tấn công’. –  Syria : Liên đoàn Ả Rập kêu gọi Liên Hiệp Quốc chu toàn nhiệm vụ.  - Syria : Hollande sụp bẫy Obama.
Canh bạc của Obama ở Syria (BBC).  - Syria – canh bạc lớn nhất nhiệm kỳ của ông Obama (LĐ). - Obama vận động đánh Syria (PLTP).  - Mỹ sẽ “đánh nhanh, rút gọn” vì Syria đã suy yếu (DV).- Mỹ tấn công Syria ‘sẽ tiếp tay cho al-Qaeda’ ? (TN).  - Vì sao Obama cần quốc hội gật đầu để đánh Syria? (VNE). - ‘Có bằng chứng là Syria sử dụng sarin’ (BBC).  - Nga không tin bằng chứng của Mỹ về Syria (NLĐ).  - Liên đoàn Arập ủng hộ hành động quốc tế chống Syria (TTXVN).  - Hòa bình và Giải Nobel Hòa bình (ND). - Nghi vấn Anh xuất hóa chất sang Syria (NLĐ)  - Các nhà lập pháp Mỹ bất đồng về vấn đề Syria (VOA).  - Tổng thống Mỹ “có quyền hành động” (NLĐ).
- Israel “nín thở” trước khả năng bị nã tên lửa hóa học (TTXVN).
8Cựu tổng thống Ai Cập Morsi sắp ra tòa (BBC).  - Ai Cập đưa cựu Tổng thống Morsi ra tòa (VOA).  - Lãnh sự quán Ai Cập tại Libya bị tấn công (VOV).
3 phiến quân Taliban bị hạ sát trong vụ tấn công căn cứ Mỹ ở Afghanistan (VOA). =>
Ông Mandela trải qua đêm đầu tiên tại tư gia (VOA).
Venezuela thừa nhận kinh tế khó khăn (BBC).
Dân Mỹ nghỉ lễ Lao Động (VOA).
Âm mưu thâm nhập vào các cơ quan tình báo Mỹ ? (RFI). “CIA tiết lộ 20 % đơn xin vào làm việc cho cơ quan tình báo này đáng « khả nghi » và « có liên hệ với các tổ chức khủng bố hoặc các thế lục thù nghịch.”

* RFA: + Sáng 2-9-2013; +  Tối 2-9-2013; + Sáng 3-9-2013
* RFI: 2-9-2013

Biên giới biển không thể phân định bằng quyền lực

-Nếu một nước mạnh hơn, định sử dụng sức mạnh để ép nước khác phải ký vào thỏa thuận nhượng bộ biên giới biển, tôi nghĩ trong thời đại ngày nay điều đó khó xảy ra.
TuanVietNam xin tiếp tục cuộc trò chuyện với Giáo sư Stein Tonnesson về xung đột trên Biển Đông.
Chiến tranh Việt - Trung: nội bộ một nền văn minh?
Khi nào thì ông bắt đầu quan tâm đến xung đột ở Biển Đông?
Vào năm 1992, tôi nhớ vậy, sau khi tôi làm xong luận án tiến sĩ về đề tài cách mạng Việt Nam và cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Lúc đó, tôi phát hiện ra có hai điều thú vị liên hệ tới Việt Nam và các bên liên quan khác, để cho các học giả nghiên cứu, và tìm cách giải quyết chúng, về mặt học thuật.
Thứ nhất là vấn đề sông Mekong, liên quan đến Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Căm-pu-chia, và Việt Nam.
Thứ hai là vấn đề Biển Đông, liên quan tới Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Philippines, Brunei và Việt Nam.
Đó là hai sự kiện mà tôi thực tâm muốn nghiên cứu. Và tôi bắt đầu tìm các nguồn tài trợ để nghiên cứu, và đã tìm thấy trong một số chương trình nghiên cứu chính trị.
Tôi nhớ là vào năm 1996, hay 1997, gì đó, khi vấn đề Biển Đông trở nên căng thẳng do có sự cố Mischief (vào năm 1995, Philippines đã hất cẳng quân đội Trung Quốc khỏi Đảo Vành Khăn - Mischief Reef). Từ đó, đề  tài  Biển  Đông bắt đầu được quan tâm trên bình diện quốc tế.
Đầu tiên, có một tác phẩm dạng như tiểu thuyết trinh thám, được viết bởi hai nhà báo, về cuộc chiến sẽ diễn ra ở Biển Đông.
Thứ hai là bộ phim của James Bond (trong loạt phim 007), về cuộc chiến ở Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam, và James Bond đã hành động để cứu khu vực này.
Cuốn sách thứ ba mà tôi chú ý là "Sự xung đột giữa các nền văn minh", do nhà chính trị học Samuel P. Huntington viết, về thời kỳ hậu chiến tranh lạnh.
Trong chương nói về cuộc chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc, ai đã đọc hẳn nhớ lời cảnh báo của tác giả là cuộc chiến diễn nằm nội bộ một nền văn minh, và chính vì vậy Mỹ phải đứng bên ngoài cuộc chiến. Đơn giản bởi vì họ thuộc một nền văn minh khác, và, vì vậy, không được can thiệp vào công việc nội bộ của một nền văn minh khác.
Tôi nghĩ, đấy là một quan điểm gây tranh cãi lớn, mà tôi hoàn toàn không đồng ý. Thế nhưng, về một mặt khác, cùng với cuốn tiểu thuyết và nhân vật James Bond, nó lại kích thích tôi muốn nghiên cứu sâu về Biển Đông.
Trong nghiên cứu về Biển Đông, hẳn ông cũng có những người giúp đỡ tại Việt Nam?
Một người trong ngành ngoại giao mà tôi gặp khi tham dự Hội nghị Việt Nam học năm 1998, trước đó đã tham dự một khóa học ở Oslo, và trở thành bạn với tôi. Đó là ông Nguyễn Vũ Tú, Đại sứ Việt Nam tại Philippines.
Còn có một vài người khác nữa, hiện đang giữ những chức vụ quan trong tại ngành ngoại giao cũng là bạn tốt của tôi.

{keywords}
Giáo sư Stein Tonnesson
Biên giới biển không thể phân định bằng quyền lực
Để tìm hiểu về quan điểm, và các bằng chứng của Việt Nam, về Biển Đông, ông làm cách nào để tiếp cận kho dữ liệu của Việt Nam?
Kho dữ liệu về Biển Đông mà tôi có thế tra khảo lại là kho dữ liệu của phương Tây, chủ yếu về thời kỳ thuộc địa. Bởi vì, anh phải hiểu rằng, đối với những sự kiện phức tạp như vậy, anh không thế nào mò vào kho dữ liệu của bất cứ nước nào có liên quan, bất kể chế độ chính trị nào. Mọi chuyện liên quan đến chủ quyền lãnh thổ đều được coi là tuyệt mật hết.
Chính vì vậy, tôi chỉ có thể tìm thấy những tư liệu cần thiết trong kho lưu trữ của người Pháp và người Anh thôi.
Còn tại Việt Nam, tôi có quan hệ tốt với một số học giả, và họ trao đổi với tôi những quan điểm của họ. Tôi thực sự đánh giá cao trình độ hiểu biết và thái độ khách quan của một số học giả Việt Nam.
Chẳng hạn, quan chức ở Ban Biên giới (Bộ Ngoại giao), hay những người đã trực tiếp tham gia đàm phán về lãnh thổ, với Lào, Căm-pu-chia, và tất nhiên là Trung Quốc. Chẳng hạn như các hiệp định ký năm 1999 và 2000. Hay những người đang đàm phán hiệp định bên ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
Những nhận xét của những người đóng góp rất lớn vào những nhận định, kết luận của trong các bài viết, công trình của tôi.
Theo ông, vấn đề gì quan trọng nhất trong giải quyết tranh chấp Biển Đông?
Càng nghiên cứu sâu về Biển Đông, tôi càng thấy tầm quan trọng vô cùng to lớn của luật quốc tế về biển, đặc biệt là công ước năm 1982. Bởi vì phân định biên giới trên biển không thể tiến hành bằng quyền lực, tức là cử tàu chiến đi vẽ đường phân định, hoặc xây dựng các hàng rào phân định.
Biển nói chung là mở, để cho tàu đánh cá, hay tàu nói chung, chạy qua, chạy lại. Vì vậy, muốn có lãnh hải rõ ràng, các bên liên quan phải chấp thuận đồng ý với nhau.

{keywords}
Bìa cuốn sách Việt Nam năm 1946: Chiến tranh đã bùng nổ như thế nào của Giáo sư Stein Tonnesson
Đó là chủ đề của bài tham luận trong lần hội thảo thứ 3 của tôi (2011). Tôi sẵn sàng thảo luận về mối tương tác giữa quyền lực và luật pháp, và tôi khẳng định rằng bất cứ bên liên quan nào cũng không thể giải quyết tranh chấp chỉ bằng quyền lực, cho dù anh có quyền lực quân sự mạnh hơn nước khác.
Ông có thế giải thích rõ hơn được không? Rõ ràng có nước đang sử dụng sức mạnh của mình, dưới các hình thức khác nhau, để đe doạ các nước còn lại?
Nếu một nước mạnh hơn, định sử dụng sức mạnh để ép nước khác phải ký vào thỏa thuận nhượng bộ biên giới biển, tôi nghĩ trong thời đại ngày nay điều đó khó xảy ra. Bởi vì sao? Các nước bây giờ hiểu rõ quyền của mình, theo Công ước Quốc tế về Luật Biển (UNCLOS), và họ sẽ không chấp nhận bị chèn ép đâu.
Nhưng bằng cách nào?
Họ sẽ duy trì yêu sách của họ, mặc dù có thể bị tấn công. Nhưng rồi họ sẽ tìm con đường tới với cường quốc khác để bảo vệ quyền lợi của mình.
Cuộc tranh giành chủ quyền trước sau cũng dẫn tới việc khai thác tài nguyên, chẳng hạn dầu khí. Nhưng liệu một cường quốc có dám đặt dàn khoan, giá trị hảng tỷ đô la, ở vị trí nằm xa bên ngoài thềm lục địa và đặc quyền kinh tế không? Tôi nghĩ là không, bởi các cường quốc bên ngoài sẽ tìm mọi cách can dự vào chuyện này, và họ được bảo vệ bởi UNCLOS.
Đó là lý do tôi cho rằng cách duy nhất để giải quyết tranh chấp về lãnh thổ là phải dựa trên UNCLOS.
Ông đánh giá thế nào về học giả Trung Quốc qua các lần hội thảo tại Việt Nam?
Tôi nhìn thấy hai xu hướng xảy ra cùng một lúc đối với các học giả Trung Quốc.
Xu hướng thứ nhất, họ tiếp tục truyền thống bảo vệ quyền lợi của quốc gia mình. Và mỗi khi có căng thẳng trong tranh luận tại hội thảo, họ đã nói những điều mà bản thân họ cũng chẳng mấy tin, nhưng vì lợi ích quốc gia họ, và họ dễ dàng ăn nói với "ở nhà" hơn. Nhưng xu hướng này có cái dở là hủy hoại mọi khả năng hiểu nhau hơn giữa các học giả các nước khác nhau.
Xu hướng thứ hai là có những người muốn hiểu biết thêm về luật biển quốc tế, sau mỗi kỳ hội thảo. Tôi cảm nhận sự tiến bộ của họ rất nhanh.
Chính vì vậy, tuy điều này không thể hiện công khai tại các diễn đàn, nhưng trong các cuộc gặp giữa họ với nhau, các cuộc nói chuyện ngày càng dựa nhiều hơn vào luật pháp quốc tế.
Ông nghĩ rằng ông cảm thấy xu hướng của các học giả Trung Quốc như thế nào?
Tôi nghĩ cuộc hội thảo đầu tiên họ tỏ ra thú vị nhất. Họ cởi mở, đưa ra các vấn đề hợp tác, và chúng tôi tranh luận với nhau cả trong thời gian làm việc, cả lúc ăn trưa, ăn tối, hay bên ly rượu.
Thế nhưng từ cuộc hội thảo thứ hai, khi "đường lưỡi bò" được các học giả quan tâm nhiều hơn, tranh cãi tới chủ quyền nhiều hơn, thì các cuộc tranh luận trở nên căng thẳng quá mức cần thiết. Và không khí tranh luận trở nên kém tính khoa học, bởi các học giả Trung Quốc không còn đưa ra được những lập luận mới, và các cuộc tranh luận trở nên kém thú vị.
Xin cám ơn ông.

- Tuyên bố của Khối 8406 sau phiên tòa Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên


1

Tuyên bố sau phiên tòa

Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên

Kính thưa
Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Các chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế.
Những ngày gần đây đồng bào trong và ngoài nước vui mừng vì sự trở về với gia đình và cộng đồng của sinh viên Nguyễn phương Uyên (dầu còn bị án treo) cũng như vì việc sinh viên Đinh Nguyên Kha được giảm nửa án tù. Điều này chứng minh một cách hùng hồn rằng đồng bào VN trong và ngoài nước luôn đồng hành với những người đấu tranh cho dân chủ, những người ái quốc chống tà quyền bán nước và bá quyền xâm lược, và cuộc đấu tranh của đồng bào đòi tự do cho họ không nhiều thì ít vẫn có kết quả.
            Tuy nhiên, Khối Tự do Dân chủ 8406 nhận định như sau:
            1- Việc bắt giam rồi xét xử Phương Uyên và Nguyên Kha là đi ngược Hiến pháp, vi phạm nhân quyền và những chuẩn mực dân chủ được minh định trong Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị mà nhà cầm quyền CSVN đã tham gia ký kết. Bản án bốn năm tù cho Nguyên Kha và ba năm treo cho Phương Uyên chứng tỏ nhà cầm quyền CSVN vẫn bất chấp công lý và lòng dân cũng như xu thế thời đại. Họ vẫn coi những người đấu tranh để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân quyền là “tội phạm”, là kẻ thù của chế độ; họ vẫn không đưa ra một giải pháp khả thi nào để bảo vệ đất nước và khai phóng dân tộc như quyền lợi quốc gia đòi hỏi; họ vẫn tiếp tục đi theo con đường độc tài toàn trị bất chấp những thực tế như sau:
- con đường đó hoàn toàn thất bại và nguy hiểm vì đã đưa đất nước đến thảm họa từ hơn nửa thế kỷ nay, biến VN thành một quốc gia lạc hậu nhất thế giới về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường và xã hội.
- đất nước VN -dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng CS- ngày càng lệ thuộc vào Trung quốc và bị Trung quốc hăm dọa trên mọi phương diện, nên nguy cơ Bắc thuộc một lần nữa là điều nhãn tiền.
- một trật tự mới về kinh tế, chính trị và an ninh hiện nay đang hình thành tại khu vực Đông Nam Á nhằm đối phó với sự trỗi dậy đầy tham vọng của bá quyền Bắc Kinh, với sự đe dọa ngày càng hung hãn của nước lớn Tàu cộng.
            2- Việc nhà cầm quyền CSVN xử cô Phương Uyên ba năm tù treo chỉ là một hành động lừa mị nhằm xoa dịu dư luận trong và ngoài nước. Trước hết là xoa dịu sự bất bình của các quốc gia dân chủ, nhất là Hoa Kỳ, hòng đạt được mục tiêu trước mắt là gia nhập Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, tham gia Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình dương ngõ hầu cứu vãn nền kinh tế đang lao dốc và ngăn chận nguy cơ động loạn do người dân đã quá bất bình trước cuộc sống khó khăn và trước khoảng cách giàu nghèo ngày càng kinh dị. Thứ đến là xoa dịu sự phẫn nộ càng lúc càng dâng cao của đồng bào trong và ngoài nước, do chỗ hiện nay trong vô số nhà tù CSVN không chỉ có một Phương Uyên mà còn rất nhiều nhà dân chủ, nhà ái quốc khác đang bị khủng bố tra tấn bằng nhiều hình thức khác nhau như:
- Cô Đỗ thị Minh Hạnh -một thanh nữ kiêu hùng từng chống bá quyền Bắc Kinh, chống khai thác bauxite, bảo vệ quyền lợi người lao động, hay bà Hồ thị Bích Khương, một dân oan đấu tranh, một nhà vận động nhân quyền. Cả hai đang bị các cai ngục, theo lệnh của nhà cầm quyền, đối xử tàn bạo: đánh đập đến thương tật mà không chữa trị, hòng buộc họ phải nhận tội.
- Luật sư Cù Huy Hà Vũ, Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà báo Lê Thanh Tùng, nhà báo Nguyễn Văn Hải, anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, anh Nguyễn Tấn Hoành, anh Lê Văn Sơn, anh Trần Minh Nhật và rất nhiều người khác đang bị trù dập bằng những thủ đoạn tàn nhẫn và thâm độc, khiến nhiều người trong họ phải tuyệt thực dài ngày để phản đối.
- Ngoài ra, còn có anh Lê Quốc Quyết, em trai của Luật sư Lê Quốc Quân (nhà dân chủ đang bị cầm tù với tội danh vu khống “trốn thuế), anh Nguyễn Tiến Nam, chị Trần Thị Nga, chị Bùi Thị Minh Hằng… mới đây đã bị An ninh mật vụ và công an trá hình côn đồ tấn công bằng nhiều cách hết sức đê tiện và tàn bạo. Hoặc ông Nguyễn Công Bằng, Tổng thư ký đảng Vì Dân, một nhà vận động nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam, mới đây đã lên tiếng tố cáo hành vi mưu sát ông tại Campuchia khi ông đang làm một công việc từ thiện cho người bản xứ. Ông đã bị đâm nhiều nhát dao vào ngực nhưng may mắn đã thoát cơn nguy tử.
Những người con ưu tú của đất nước quả là đang bị nhà cầm quyền CSVN ngang nhiên tước bỏ những quyền thiêng liêng bất khả nhượng của họ, đó là được sống tự do, được tôn trọng nhân phẩm, được luật pháp che chở, được đóng góp vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả những hành vi trên của nhà cầm quyền CSVN đã minh chứng rằng họ không hề có thiện chí muốn thay đổi não trạng độc tài phi nhân và cải thiện thực trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam. Thế giới và đồng bào muốn nhìn thấy một sự thay đổi mang tính hệ thống có thể kiểm chứng và không đảo ngược được chứ chẳng phải là những trò trình diễn.
            Trước những thực trạng nêu trên Khối 8406
            – Tha thiết kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước sáng suốt nhận chân những thủ đoạn cố hữu của nhà cầm quyền Hà Nội để không bị lừa bịp một lần nào nữa, tiếp tục đấu tranh đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa Việt Nam (trong đó có việc hình thành một Hiến pháp dân chủ và thành lập các chính đảng phi cộng sản), tranh thủ và vận dụng thời cuộc đang thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Phong trào dân chủ, đẩy nhà cầm quyền CSVN vào thế phải chọn lựa đứng về phía dân tộc hay bị đào thải.
- Cực lực lên án nhà cầm quyền CSVN vì những hành vi vi phạm quyền con người và quyền công dân, làm nhức nhối lương tâm nhân loại trong thời đại văn minh và nhân bản hôm nay, vi phạm những nghĩa vụ được minh định trong Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị mà họ đã cam kết tuân giữ cũng như nhiều điều trong Hiến pháp 1992 mà họ đã ban hành.
- Mạnh mẽ đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện những tù nhân lương tâm mà họ đã giam giữ theo những điều luật mơ hồ và phản dân chủ như điều 79, 88, 89, 258 và những tội danh trá hình khác như trốn thuế, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc…
- Mạnh mẽ đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân Việt Nam để dân tộc tự do chọn lựa hàng lãnh đạo chính trị, tự do định đoạt hướng đi của mình trong bối cảnh khu vực và quốc tế đầy biến động sắp tới, xây dựng một quốc gia dân chủ tự do, đa nguyên đa đảng, ngõ hầu dân tộc được chấn hưng và đất nước được trường tồn.
            Làm tại Việt Nam ngày 01-09-2013
            Ban điều hành Khối 8406:
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
3- Nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn – Quảng Nam – Việt Nam
4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
5- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa Kỳ.
            Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và các tù nhân lương tâm khác đang ở trong lao tù Cộng sản.

Mối nguy hiện thực của Trung Quốc – Đây là lúc Washington phải lo lắng

Avery Goldstein, Foreign Affairs, September/October 2013
Trần Ngọc Cư dịch
Avery Goldstein là Giáo sư Chính trị Toàn cầu và Bang giao Quốc tế [ngạch giáo sư để vinh danh David M. Knott] và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc Đương đại tại Đại học Pennsylvania. Bài tiểu luận này dựa vào bài báo của ông nhan đề “Những ưu tiên hàng đầu cần phải đưa lên hàng đầu: Mối nguy bức bách do sự bất ổn có khả năng đưa đến khủng hoảng trong các quan hệ Mỹ-Trung”, International Security, mùa Xuân 2013
Phần lớn cuộc tranh luận về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong những năm gần đây đã tập trung vào nguy cơ tiềm năng là cuối cùng Trung Quốc có thể trở thành một đối thủ ngang hàng với Mỹ, có quyết tâm thách thức trật tự quốc tế hiện hữu. Ít ra trong vòng một thập niên tới, mặc dù Trung Quốc còn tương đối yếu kém so với Mỹ, nhưng có một mối nguy thực sự là Bắc Kinh và Washington sẽ tự dẫn mình vào một cuộc khủng hoảng có thể nhanh chóng leo thang thành một cuộc xung đột quân sự. Khác hẳn với một cuộc cạnh tranh đại cường dài hạn có thể hoặc không có thể phát triển ở cuối đường, nguy cơ về một khủng hoảng có sự tham dự của hai cường quốc nguyên tử này là một mối lo ngại rõ nét trong tương lai gần – và những biến cố trong vài năm qua cho thấy rủi ro này có thể đang gia tăng.
Kể từ khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, Bắc Kinh và Washington đã tránh né được những đối đầu nguy hiểm trong một số trường hợp sau đây: vào những năm 1995-96, khi Mỹ phản ứng lại các vụ thử tên lửa của Trung Quốc để cảnh báo cử tri Đài Loan về mối nguy trong việc họ đòi độc lập; vào năm 1999, khi máy bay Mỹ dội bom lầm Sứ quán Trung Quốc trong một cuộc không kích của NATO tại Serbia; và vào năm 2001, khi một máy may thám thính của Mỹ đụng phải một phản lực cơ chiến đấu của Trung Quốc, đưa đến cái chết của viên phi công Trung Quốc và việc Bắc Kinh bắt giữ chiếc máy bay Mỹ và phi hành đoàn. Nhưng dù những vụ việc trên không đưa đến leo thang nghiêm trọng, chúng ta cũng không nên có thái độ tự mãn. Vì không một biến cố nào nói trên hội đủ định nghĩa của một cuộc khủng hoảng đích thực, tức là một cuộc đối đầu đe dọa lợi ích sinh tử [vital interests] của cả hai phía và do đó nhanh chóng gia tăng rủi ro chiến tranh. [Nhưng với tình hình hiện nay], nếu Bắc Kinh và Washington bị đẩy đến những biến cố tương tự trong một tương lai gần, thì cả hai Chính quyền đều có động lực mạnh mẽ để dùng tới vũ lực. Hơn nữa, những cám dỗ và sức ép leo thang xung đột sẽ có khả năng xảy ra cao nhất trong những giai đoạn đầu của cuộc đối đầu, khiến việc thực hiện nỗ lực ngoại giao để ngăn ngừa chiến tranh trở nên khó khăn hơn.
Các giới tuyến mong manh
Những viễn cảnh cho một cuộc khủng hoảng thuộc loại này trong quan hệ Mỹ-Trung có vẻ đã giảm thiểu khi những căng thẳng về đảo quốc Đài Loan lắng dịu, lấy mất ngòi nổ của thùng thuốc súng đã từng thúc đẩy phần lớn việc làm kế hoạch quân sự của Trung Quốc và Mỹ tại Đông Á kể từ giữa thập niên 1990. Nhưng những mồi lửa chiến tranh khác lại bắt đầu xuất hiện. Khi Trung Quốc và các nước láng giềng tranh cãi về chủ quyền biển đảo tại các biển Hoa Đông và Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam], Mỹ đã lặp lại những cam kết bảo vệ hai trong số những nước đang tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc (Nhật Bản và Philippines) và nuôi dưỡng những quan hệ ngày càng thân thiết với một nước thứ ba (Việt Nam). Hơn thế nữa, chiến lược “xoay trục”, hoặc “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á, một động thái ngoại giao được đi kèm với các kế hoạch triển khai quân sự, đã báo hiệu rằng Washington sẵn sàng can thiệp trong trường hợp có xung đột vũ trang ở khu vực này.
Mỹ còn nhấn mạnh rằng luật pháp quốc tế cho phép mình có quyền tự do thông thương trên vùng trời và vùng biển quốc tế, được định nghĩa nằm ngoài giới hạn 12 hải lý của một nước. Trái lại, Trung Quốc quyết đoán rằng tàu và máy bay quân sự của nước khác không được phép đi vào “khu đặc quyền kinh tế” cách bờ biển của mình 200 hải lý mà không được Trung Quốc cho phép – một sự cấm đoán, nếu dựa vào các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh, sẽ đặt phần lớn biển Hoa Nam [biển Đông Việt Nam] và vùng trời trên đó ra ngoài phạm vi hoạt động của tàu chiến và máy bay quân sự Mỹ. Những tranh chấp về tự do thông thương đã tạo ra những đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, và chúng vẫn còn là một ngòi nổ tiềm năng cho một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Đúng là, hiện nay Trung Quốc và Mỹ không phải là những nước thù địch – chắc chắn không phải là thù địch theo cung cách của Liên Xô và Mỹ trong Chiến tranh lạnh trước đây. Nhưng nguy cơ về một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung có thể thực sự nghiêm trọng hơn người ta tưởng nếu Bắc Kinh và Washington lâm vào một cuộc chiến đấu sinh tử, một còn một mất. Là hai địch thủ có vũ trang ở trong tình trạng báo động đường tơ kẽ tóc về chiến tranh hạt nhân [hair-trigger alert], Liên Xô và Mỹ đều hiểu rằng những lợi ích xung khắc nhau từ cơ bản của hai nước có thể đưa đến chiến tranh. Sau khi trải qua những cuộc đối đầu căng thẳng ở Berlin và Cuba, hai nước mới hiểu được lợi ích sinh tử của nhau – những lợi ích không thể bị thách đố mà không có nguy cơ đưa đến một cuộc khủng hoảng – và xây dựng được những cơ chế để tránh leo thang. Trung Quốc và Mỹ cho đến nay vẫn chưa đạt được một sự hiểu biết tương tự về lợi ích sinh tử của nhau hoặc phát triển được các phương tiện đáng tin cậy để quản lý khủng hoảng.
Cả Trung Quốc lẫn Mỹ vẫn chưa định nghĩa rõ ràng lợi ích sinh tử của mình trên những vùng rộng lớn của Tây Thái Bình Dương. Những năm gần đây, Trung Quốc đã đưa ra nhiều tuyên bố không chính thức về “lợi ích cốt lõi” [core interests] của mình, đôi khi đi ra ngoài việc đơn thuần là đảm bảo sự vẹn toàn lãnh thổ và chính trị của lục địa và tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc về Đài Loan. Bắc Kinh đã gợi ý, chẳng hạn, Trung Quốc có thể coi những vùng tranh chấp tại biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam] là lợi ích cốt lõi.
Washington cũng thiếu rõ ràng về những gì mà Mỹ coi là lợi ích sinh tử ở trong khu vực. Mỹ không trả lời thẳng thắn câu hỏi là liệu Đài Loan có nằm dưới chiếc dù an ninh của Mỹ hay không. Và lập trường của Mỹ về các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có phần khó hiểu: Washington duy trì thái độ trung lập đối với các tuyên bố chủ quyền của các phe tranh chấp và nhấn mạnh rằng các tranh chấp này phải được giải quyết bằng đường lối hòa bình, nhưng đồng thời Mỹ cũng tái khẳng định cam kết là sẽ đứng bên cạnh đồng minh của mình trong trường hợp một cuộc xung đột vũ trang nổ ra. Thái độ hàm hồ này của Trung Quốc và của Mỹ, về “các giới tuyến” [red lines] không thể vượt qua mà không gây ra nguy cơ xung đột, sẽ làm tăng thêm các rủi ro là, hai bên có thể dùng những biện pháp mà họ tưởng là an toàn nhưng hóa ra là có tính khiêu khích bất ngờ.
Nguy hiểm hơn chiến tranh lạnh?
Tình trạng thiếu rõ ràng về các động lực có thể dẫn Bắc Kinh hoặc Washington đến chỗ liều lĩnh gây chiến khiến một cuộc khủng hoảng dễ dàng diễn ra hơn nhiều, vì cả hai bên đều không biết chắc khi nào, ở đâu, hay với cường độ nào họ có thể lấn tới mà không bị bên kia đẩy lui. Tình hình này có phần tương tự như tình hình trong giai đoạn đầu của Chiến tranh lạnh, khi mà cả hai bên phải kinh qua một số khủng hoảng nghiêm trọng để thăm dò ý đồ của nhau và biết được luật đi đường [để tránh leo thang xung đột]. Nhưng bối cảnh quốc tế ngày nay thậm chí còn nguy hiểm hơn.
Ví dụ, cán cân lực lượng quân sự hạt nhân và qui ước giữa Trung Quốc và Mỹ là nghiêng lệch hơn nhiều so với cán cân lực lượng giữa Liên Xô và Mỹ trước đây. Nếu Bắc Kinh và Washington bất đắc dĩ lâm vào một cuộc xung đột, lợi thế khổng lồ của Mỹ trong các lực lượng qui ước sẽ tăng thêm sự cám dỗ khiến Washington có thể đe dọa sử dụng hoặc thực sự sử dụng vũ lực. Nhận thấy Washington đứng trước cám dỗ này, về phần mình Bắc Kinh có thể cảm thấy một sức ép là phải tức khắc sử dụng các lực lượng qui ước của mình trước khi chúng bị đối phương tiêu hủy. Mặc dù Trung Quốc không thể đảo ngược tình trạng bất quân bình lực lượng quân sự, nhưng Bắc Kinh có thể tin tưởng rằng nhanh chóng áp đặt những tổn thất to lớn cho Mỹ sẽ là phương thức tối ưu để buộc đối phương phải xuống nước.
Sự thể cả hai bên đều có những kho vũ khí hạt nhân sẽ giúp cho tình hình được chế ngự, vì cả hai bên đều muốn tránh những hành động có thể rước lấy một cuộc trả đũa hạt nhân. Thật vậy, nếu chỉ có những cân nhắc về vũ khí hạt nhân là đáng kể, thì những khủng hoảng Mỹ-Trung sẽ rất bình ổn và không đáng lo ngại quá nhiều. Nhưng các lực lượng qui ước của hai bên sẽ làm phức tạp vấn đề và phá hoại sự ổn định được cung ứng bởi sự ngăn ngừa sử dụng vũ khí hạt nhân [nuclear deterrence]. Trong một cuộc khủng hoảng, cả hai bên có thể tin tưởng rằng việc sử dụng các lực lượng qui ước sẽ đem lại lợi thế mặc cả cho mình, bằng cách thao túng sự sợ hãi leo thang chiến tranh của đối phương, thông qua điều mà nhà kinh tế Thomas Schelling gọi là một “cuộc thi đua làm liều” [competition in risk-taking]. Trong một cuộc khủng hoảng, Trung Quốc hoặc Mỹ có thể tin tưởng rằng mình đánh giá quyền lợi đang tranh chấp cao hơn cách đánh giá của đối phương nên sẽ sẵn sàng chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn. Nhưng bởi vì việc sử dụng các lực lượng qui ước mới chỉ là bước đầu trong một tiến trình không thể tiên liệu – một tiến trình chịu nhiều rủi ro do những nhận thức sai lầm, những biện pháp lệch lạc, và tính toán sai lầm – nên không có gì đảm bảo rằng hành động tháu cáy bên miệng hố chiến tranh [brinkmanship] sẽ chấm dứt kịp thời trước khi nó dẫn đến một đại họa hạt nhân ngoài dự kiến mọi người.
Hơn nữa, Trung Quốc rõ ràng tin tưởng rằng sự ngăn ngừa sử dụng vũ khí hạt nhân [nuclear deterrence] sẽ mở cửa cho việc sử dụng an toàn các lực lượng qui ước. Vì cả hai nước đều sợ tiềm năng một cuộc pháo kích lẫn nhau bằng đầu đạn hạt nhân, phía Trung Quốc có vẻ tin tưởng rằng cả họ lẫn người Mỹ sẽ không cho phép một cuộc xung đột vũ trang leo thang quá xa. Trái lại, các lãnh đạo Xô viết trước đây cho thấy họ sẽ dùng bất cứ phương tiện quân sự cần thiết nào nếu chiến tranh xảy đến – đấy là lý do vì sao chiến tranh Nga-Mỹ không bao giờ diễn ra. Ngoài ra, chính sách công khai “không sử dụng hạt nhân trước” của Trung Quốc, một chính sách chỉ đạo việc chuẩn bị và huấn luyện quân đội Trung Quốc nhằm đối phó các cuộc xung đột, có thể tăng cường sự tin tưởng của Bắc Kinh là một cuộc chiến tranh giới hạn với Mỹ sẽ không dẫn đến một cuộc leo thang bằng vũ khí hạt nhân. Do những tin tưởng này, Bắc Kinh có thể ít thận trọng hơn về việc sử dụng những biện pháp có nguy cơ gây khủng hoảng. Và nếu một cuộc khủng hoảng diễn ra sau đó, Trung Quốc cũng có thể ít thận trọng hơn về việc bắn phát đạn hạt nhân đầu tiên.
Những tin tưởng này là đặc biệt đáng lo ngại, căn cứ vào những phát triển công nghệ gần đây đã nhanh chóng hoàn thiện độ chính xác và sự hữu hiệu của các vũ khí qui ước. Sức tàn phá của chúng có thể mang lại một lợi thế ngoạn mục cho bên nào tấn công trước, một điều nói chung là khác với các hoạt động quân sự qui ước tại địa bàn chính ở châu Âu trong cuộc đối đầu Mỹ-Liên Xô. Hơn nữa, những hệ thống điện toán và vệ tinh dùng để điều khiển các vũ khí đương đại rất dễ trở thành mục tiêu của các cuộc đánh phá quân sự qui ước hay các cuộc tấn công xi-be [cyberattack = tấn công mạng], do đó những vũ khí ngày nay với độ chính xác cao có thể hữu hiệu chỉ với điều kiện chúng được sử dụng trước khi đối phương ra tay hoặc có những biện pháp chống trả. Nếu sự tự chế trong thời bình phải nhường bước cho nỗ lực tìm kiếm lợi thế trong một cuộc khủng hoảng, thì cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ đều không thể tin tưởng vào sự vững vàng của các hệ thống quản lý vũ khí qui ước tiên tiến của mình.
Trong hoàn cảnh như vậy, cả Bắc Kinh lẫn Washington sẽ có động lực tấn công trước. Trung Quốc sẽ cảm thấy sức ép đặc biệt năng nề, vì các vũ khí qui ước tiên tiến của nước này hoàn toàn lệ thuộc vào các mạng lưới vi tính dễ bị tấn công, vào các đài ra-đa cố định, và các vệ tinh, hơn cả đối phương. Sự hữu hiệu của các lực lượng quân sự tiên tiến của Mỹ ít lệ thuộc vào những hệ thống rất dễ bị tấn công này. Tuy nhiên, cái lợi thế mà Mỹ nắm giữ có thể sẽ gia tăng cám dỗ để Mỹ tấn công trước, đặc biệt đánh vào các vệ tinh Trung Quốc, vì Mỹ sẽ đủ sức đối phó một cuộc trả đũa tương tự của Trung Quốc.
Truyền thông bị gián đoạn
Một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung cũng có thể nguy hiểm hơn những cuộc đối đầu Chiến tranh lạnh vì tính cách bấp bênh của các kênh truyền thông hiện có giữa Bắc Kinh và Washington. Sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô và Mỹ đã nhìn nhận tầm quan trọng của việc truyền thông trực tiếp giữa các lãnh đạo cao nhất của hai nước và đã thiết lập đường dây nóng Moscow-Washington. Năm 1998, Trung Quốc và Mỹ cũng thiết lập một đường dây nóng cho việc truyền thông trực tiếp giữa Chủ tịch nước và Tổng thống của hai nước. Nhưng dù đã có đường dây nóng, Nhà Trắng vẫn không thể tiếp xúc kịp thời các lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc sau vụ dội bom Sứ quán [Trung Quốc] tại Belgrade năm 1999 hoặc vụ máy bay thám thính năm 2001. Việc Trung Quốc không sử dụng đường dây nóng có lẽ đã phản ánh sự ngần ngại của giới lãnh đạo Trung Quốc, không dám trả lời trước khi đạt được một sự đồng thuận trong nội bộ Đảng hay trước khi tham khảo ý kiến rộng rãi với giới quân sự. Sự trì hoãn có lẽ cũng phản ánh những khó khăn của Trung Quốc trong việc phối hợp chính sách, vì Trung Quốc thiếu một cơ quan tương đương đáng tin cậy như Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ [the U.S. National Security Council]. Dù với bất cứ lý do gì, kinh nghiệm cho thấy rằng những trì hoãn đáng thất vọng trong kênh truyền thông trực tiếp có thể xảy ra trong thời gian được coi là những giờ phút nghiêm trọng đầu tiên khi một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung đang diễn ra.
Thay vì trực tiếp trao đổi, truyền thông giữa lãnh đạo hai nước trong giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng có thể chỉ giới hạn vào những tuyên bố công khai hay những tín hiệu ngầm thông qua hành động. Nhưng những tuyên bố công khai lại được nhắm vào nhiều khối thính giả khác nhau, và tình cảm yêu nước của người Trung Quốc hay của người Mỹ, cũng như sức ép từ các đồng minh, có thể buộc cả hai bên chọn một lập trường công khai hiếu chiến hơn lập trường mà lẽ ra họ thực sự cảm thấy chính đáng. Vì thiếu một kênh truyền thông trực tiếp và bảo mật, hai nước sẽ không thể bàn bạc những đề xuất nhạy cảm về mặt chính trị. Hai nước cũng không thể chia sẻ những thông tin có thể giúp chặn đứng một cuộc leo thang nguy hiểm, như những chi tiết bí mật về các khả năng quân sự hay các cuộc điều quân đã được tiến hành.
Truyền thông xuyên qua hành động cũng rất rắc rối, với nhiều khả năng các thông điệp bị bóp méo khi gửi đi và giải thích sai lạc khi nhận được. Các nhà phân tích Trung Quốc có xu thế đánh giá quá cao sự dễ dàng trong việc gửi tín hiệu xuyên qua các hành động quân sự và đánh giá quá thấp những rủi ro đưa đến leo thang xung đột do truyền thông sai lạc [miscommunication]. Chẳng hạn, các học giả Andrew Erickson và David Yang đã dẫn chứng một số báo chí quân sự Trung Quốc từng đề nghị sử dụng hệ thống tên lửa đạn đạo chống chiến hạm của Trung Quốc, vốn được thiết kế để pháo kích các tàu sân bay của Mỹ, vào mục đích truyền đạt quyết tâm của Bắc Kinh trong một cuộc khủng hoảng. Một số học giả quân sự Trung Quốc từng đề nghị rằng Trung Quốc có thể gửi một tín hiệu bằng cách bắn đạn pháo cảnh báo nhắm vào vị trí gần một tàu sân bay Mỹ đang di chuyển hay thậm chí bằng cách cẩn thận đánh ngay vào tháp chỉ huy của tàu sân bay đó trong khi không đụng đến phần còn lại của chiếc tàu. Nhưng như nhà nghiên cứu chính trị Owen Coté đã nhận xét, ngay cả một hệ thống tên lửa đạn đạo rất chính xác chắc chắn cũng sẽ có một biên lỗi [magin of error] nào đó. Vì vậy, ngay cả một loạt đạn khiêm tốn nhất của loại vũ khí này cũng có thể vô tình gây ra nguy cơ tổn thất nghiêm trọng và đưa đến việc leo thang xung đột ngoài ý muốn.
Một yếu tố quan trọng sau cùng có thể làm cho một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung nguy hiểm hơn những cuộc khủng hoảng thời Chiến tranh lạnh là địa lý. Trung tâm của những cuộc đối đầu Chiến tranh lạnh chủ yếu nằm trên đất liền, nhất là tại Trung Âu, trong khi một cuộc đối đầu trong tương lai giữa Trung Quốc và Mỹ gần như chắc chắn sẽ bắt đầu ngoài biển. Sự khác biệt này sẽ ảnh hưởng sâu sắc lên một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung trong một số cung cách, đặc biệt do việc hai bên bị thúc bách phải làm một số lựa chọn bấp bênh vào lúc đầu. Đội tàu ngầm nhỏ bé trang bị tên lửa đạn đạo hạt nhân (SSBN) và đội tàu ngầm to lớn hơn trang bị vũ khí tấn công qui ước của Trung Quốc được an toàn nhất khi chúng ở trong vùng biển cạn gần lục địa Trung Hoa, nơi mà độ truyền âm yếu ớt [poor acoustics] sẽ làm giảm hiệu năng các hoạt động chống tàu ngầm dưới biển của Mỹ. Việc các đội tàu ngầm này ở gần các sân bay và hệ thống phòng không trên đất liền Trung Quốc cũng giảm bớt khả năng của Washington trong việc dùng không lực và tàu chiến Mỹ để chống lại chúng. Nhưng, nếu muốn giữ được một vai trò trong một cuộc đối đầu với Mỹ, các lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc phải rời khỏi các vùng biển an toàn nói trên. Viễn cảnh các đội tàu ngầm Trung Quốc được triển khai ra vùng biển sâu sẽ nhanh chóng gia tăng tính bất ổn của một cuộc khủng hoảng. Mặc dù công nghệ chiến tranh chống tàu ngầm của Mỹ sẽ có hiệu quả hơn trong việc chống các tàu ngầm Trung Quốc hoạt động trong vùng biển ít tiếng động ở ngoài khơi (cũng là nơi Mỹ giữ ưu thế không quân), nhưng một số chiến cụ của hải quân Mỹ vẫn có thể gặp rủi ro nếu đi vào trong tầm ngắm của những tàu ngầm còn sống sót của Trung Quốc. Vì thế, ngay từ buổi đầu của một cuộc khủng hoảng, Mỹ sẽ bị cám dỗ phải giảm thiểu rủi ro này bằng cách đánh chìm những tàu ngầm tấn công [attack submarines] Trung Quốc khi chúng cố gắng rời ao nhà. Nhất là vì chỉ có vài tuyến đường nhỏ hẹp để tàu ngầm Trung Quốc có thể ra vùng nước sâu, Mỹ sẽ bị cám dỗ phải tấn công trước thay vì chấp nhận một rủi ro lớn hơn cho các lực lượng hải quân của mình. Bất chấp quyết định này của Mỹ, bất cứ tàu ngầm tấn công nào của Trung Quốc tìm cách ra được vùng biển sâu xa bờ cũng phải đối diện một tình trạng nan giải là “cần phải được sử dụng hay sẽ bị tiêu diệt” [use them or lose them], vì chúng rất dễ bị tấn công bởi các lực lượng chống tàu ngầm của Mỹ – đây là một cú hích tiềm năng cho việc leo thang chiến tranh.
Các tàu SSBN [tàu ngầm được trang bị vũ khí hạt nhân] của Trung Quốc còn đặt ra nhiều rủi ro khác. Theo chính sách không sử dụng vũ khí hạt nhân trước của mình, Trung Quốc rõ ràng đã tuyên bố rằng bất cứ một cuộc tấn công nào nhắm vào các lực lượng hạt nhân chiến lược của Trung Quốc đều biện minh cho một cuộc trả đũa bằng hạt nhân, khiến cho việc Mỹ tấn công vào các tàu SSBN của Trung Quốc gần như không thể xảy ra. Do đó, vào giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng, gần như chắc chắn Bắc Kinh sẽ tin tưởng rằng Trung Quốc có thể triển khai an toàn các tàu SSBN của mình vào vùng biển sâu xa bờ, ở đó chúng sẽ giữ được vị trí tối ưu để thi hành lệnh bắn. Nhưng, một cuộc triển khai tàu ngầm vào vùng nước sâu như thế sẽ đặt ra nhiều rủi ro mới. Một nguy cơ là khả năng các lực lượng hải quân Mỹ có thể nhầm một tàu SSBN Trung Quốc với một tàu ngầm tấn công qui ước [conventional attack submarine] và nổ súng tấn công nó, đưa đến việc Trung Quốc trả đũa bằng vũ khí hạt nhân. Một nguy cơ khác là, một tàu SSBN Trung Quốc có thể tự mình leo thang xung đột mà không cần có lệnh rõ ràng từ Bắc Kinh, do truyền thông hạn chế mà các tàu ngầm này cần phải duy trì với đất liền nhằm tránh bị phát hiện.
Quản lý rủi ro
Các khả năng đưa đến một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung trong những năm tới là thấp, nhưng không thể bỏ qua, và chúng đã trở nên đáng lo ngại hơn vì rủi ro về một cuộc đối đầu như thế đang ngày một gia tăng. Những bước quan trọng nhất mà Bắc Kinh và Washington có thể thực hiện là những biện pháp có thể giúp ngăn chặn không cho các khủng hoảng diễn ra ngay từ đầu. Vì thái độ thiếu rõ ràng về phạm vi lợi ích sinh tử của mỗi bên có thể châm ngòi cho các cuộc khủng hoảng này, nên hai nước cần phải đẩy mạnh các trao đổi chính trị và quân sự tập trung vào vấn đề này. Ngay cả nếu hai bên không thể đạt được một một sự quán triệt hoàn toàn, thì các cuộc thảo thuận cũng có thể giúp nêu bật những gì mà mỗi bên cho là đã đặt ra những rủi ro lớn nhất.
Mặc dù triệt tiêu các khả năng đối đầu Mỹ-Trung sẽ là một điều khó khăn, nhưng hai nước có thể nỗ lực hơn nữa để đối phó những nguồn gốc có tiềm năng đưa đến bất ổn định và cải thiện khả năng quản lý những rủi ro mà hai nước sẽ gặp phải trong một cuộc khủng hoảng. Các lãnh đạo tại Washington có thể chia sẻ kinh nghiệm phong phú của mình trong việc quản lý khủng hoảng với các lãnh đạo Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp chính sách. Thêm vào đó, Mỹ cần phải nhấn mạnh nhu cầu là Trung Quốc cần phải sử dụng đường dây nóng hiện có cho việc truyền thông trực tiếp và kịp thời giữa các lãnh đạo chóp bu của hai nước trong một cuộc khủng hoảng.
Trung Quốc và Mỹ cũng phải tăng cường các trao đổi hiện còn rất khiêm nhượng giữa hai quân đội [military-to-military exchanges]. Với điều kiện là không gây thiệt hại cho các bí mật quan trọng, việc hai nước tăng cường tìm hiểu các hệ thống và các thủ tục quân sự của nhau sẽ làm giảm bớt rủi ro về việc vô tình leo thang trong một cuộc đối đầu. Hai bên sẽ có đủ khôn ngoan, nếu nuôi dưỡng được một sự quen biết thân thiện giữa các sĩ quan tham mưu của hai nước – một sự quen biết mà khi khi khủng hoảng xảy ra, có thể tạo được một chút niềm tin hữu ích nếu các lãnh đạo chính trị muốn tìm cách xuống thang xung đột.
Thúc đẩy Bắc Kinh và Washington đối phó với nhiệm vụ khó khăn trong việc ngăn ngừa một khủng hoảng tương lai sẽ không dễ dàng. Rốt cuộc, có lẽ phải cần đến kinh nghiệm sống qua một cuộc đối đầu hãi hùng ở dạng thức đã từng đánh dấu buổi đầu của Chiến tranh lạnh. Nhưng không nên để cho tình hình đi đến chỗ đó.
A.G.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN


Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 1)

Dịch giả: Nguyễn Quang A
 LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ hai mươi lăm* của tủ sách SOS, cuốn Thương lượng những thay đổi cơ bản: Hiểu và mở rộng các bài học của các cuộc đàm phán Tròn Ba Lan. Đây là cuốn tài liệu hướng dẫn giảng dạy mà những người tổ chức cuộc hội thảo về Bàn Tròn Ba Lan từ ngày 7 đến 10 tháng 4 năm 1999 tại Đại học Michigan, đã tiếp tục bằng cách cung cấp bản dịch của kỷ yếu hội thảo (cuốn thứ 24) cho các học giả, yêu cầu họ đọc kỹ, như tài liệu nguồn, và cùng các tư liệu phỏng vấn và tài liệu tham khảo khác để mỗi người viết một tiểu luận. Và cuốn sách này là tập hợp của các tiểu luận đó. Bạn đọc sẽ có thể có hiểu biết sâu hơn và các quá trình dân chủ hóa xảy ra hàng loạt vào cuối thế kỷ trước trên khắp thế giới. Mỗi tác giả nhìn nhận vấn đề từ khía cạnh chuyên môn của mình, cũng như xem xét về mặt lý thuyết.
Cuốn sách này chắc chắn là tài liệu bổ sung quý giá cho cuốn trước về Bàn Tròn Ba Lan. Và tất cả những ai đã quan tâm đến cuốn trước nên đọc cuốn này để có thể hiểu rõ hơn vấn đề dân chủ hóa, và nhất là để có cơ sở lý thuyết vững chắc hơn trong xem xét tình hình cũng như rút ra các bài học.
Những người chưa đọc kỷ yếu hội thảo, cuốn Bàn Tròn Ba Lan –Những bài học, vẫn có thể đọc cuốn này một cách độc lập vì có một phần tóm tắt ý kiến của mỗi diễn giả trong từng phiên hội thảo. Và sau khi đọc cuốn này rất có thể lại muốn đọc cả cuốn trước nữa.
Sau hai bài dẫn nhập của các nhà tổ chức hội thảo và phần trích dẫn các đoạn của tất cả các phiên của kỷ yếu hội thảo là tám tiểu luận chuyên sâu về những khía cạnh lịch sử, xã hội học, văn hóa, giải quyết xung đột, khoa học chính trị, cũng như toàn cầu hóa liên quan đến quá trình chuyển đổi dân chủ ở Ba Lan, các nước Đông Âu, Nam Phi và những sự so sánh để thấy những đặc điểm giống và khác nhau của các quá trình này. Có thể đọc từng tiểu luận riêng rẽ mà không ảnh hưởng gì đến việc đọc và hiểu các tiểu luận khác.
Trên trang mạng của Đại học Michigan, cuốn sách này có sẵn với định dạng pdf và những người muốn đọc nguyên bản có thể chuyển con trỏ đến tên tiếng Anh của cuốn sách ở trang bìa (hay ở đây), ấn phím Ctrl và click để tải về.
Tất cả các chú thích đánh số là chú thích nguyên bản; những chú thích đánh dấu * là của người dịch.
Tôi đã hết sức cố gắng để truyền tải chính xác nội dung nhưng do hiểu biết hạn chế nên bản dịch chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong được bạn đọc góp ý và lượng thứ.
Bắc Ninh, 31-8-2013
Nguyễn Quang A
–––––––––––––––
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN


* Các quyển trước gồm:
  1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007)
  2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
  3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
  4. 4.       G. Soros: Giả kim thuật tài chính
  5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản,  NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí  ẩn của Vốn]
  6. 6.       J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
  7. 7.       F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô
  8. G. Soros: Xã hội Mở
  9. 9.       K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử
  10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato
  11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx
  12. 12.     Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học
  13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006
  14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn
  15. Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh Hóa, 2008
  16. Kornai János: Lịch sử và những bài học, NXB Tri thức, 2007
  17. Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập tiểu luận
  18. Murray Rothabrd: Luân lý của tự do
  19. Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng, sắp xuất bản
  20. Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống, sắp xuất bản
  21. Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012.
  22. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012
  23. Daron Acemoglu, James A. Robinson: Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB Trẻ có bản dịch khác được xuất bản năm 2013)
  24. Kỷ yếu hội thảo Đại học Michigan: Bàn tròn Ba Lan-Những bài học, 2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét