Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

BÀI ĐÁNG CHÚ Ý: - ĐẤT NƯỚC ĐÒI HỎI PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ! & Tại sao lãnh đạo Việt Nam bị thế giới coi thường đến như thế?

Kính gửi Hội nghị Trung ương 8: Đất nước đòi hỏi phải đổi mới chính trị!

A. ĐẤT NƯỚC ĐANG LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN

Hội nghị lần thứ 8 của BCH TƯ Đảng Cộng sản VN sẽ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết ĐH11 và các nghị quyết TƯ, trên cơ sở đó sẽ quyết định các việc trọng đại của đất nước. Đối chiếu thực tế cuộc sống đang diễn ra so với các Nghị quyết của Đảng, xin gửi tới Hội nghị bài viết với nỗi niềm trăn trở.
I. KINH TẾ SUY SỤP, DO “YẾU KÉM NỘi TẠI, CƠ CẤU LẠC HẬU”
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.”
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội viết: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt mục tiêu đó, phải tăng trưởng GDP hàng năm bình quân từ 7 đến 8%; GDP năm 2020 bằng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người khoảng 3000 USD.Tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao khoảng 45% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo khoảng 40% trong sản xuất công nghiệp.”
Ngay năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết ĐH11, nền kinh tế Việt Nam vấp phải khó khăn lớn nhất sau 20 năm, kể từ năm 1991. Mục tiêu tăng trưởng đề ra 7,5% chỉ đạt được 5,8%; Quốc hội đề ra mức lạm phát 7%, thực tế lên tới 19%; hơn 48000 doanh nghiệp phá sản; các tập đoàn kinh tế nhà nước được kỳ vọng là “quả đấm thép” của nền kinh tế thua lỗ nặng nhất, chỉ riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ USD; thị trường bất động sản đóng băng; hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen; nợ xấu chiếm 15% tổng tín dụng; nhập siêu10 tỉ USD; Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sút giảm nghiêm trọng vì tham nhũng, lãng phí làm cho chỉ số ICOR (số đồng vốn bỏ ra để thu 1 đồng lãi) tăng vọt xấp xỉ 2 con số (chỉ số ICOR của các nước trong vùng chỉ từ 3 đến 4). Kinh tế nhà nước là gánh nặng của nhân dân, nhận vào 65% tổng tín dụng để làm ra 28% tổng sản phẩm!
Cuối năm 2011, Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế để cứu vãn: Tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và hệ thống thể chế tài chính, giải quyết nợ xấu; tái cấu trúc đầu tư công. Diễn đàn Mùa thu 2012 ở TP Vũng Tàu nhận định: “Những nguy cơ mang tính cơ cấu và hệ thống đang đe dọa nền kinh tế”. Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng “Cần phải đổi mới về cải cách đất đai, tiếp theo là cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo nghĩa thị trường; sau đó là cải cách ngân hàng Nhà nước một cách quyết liệt; tất cả phải công khai, minh bạch”. Cam kết với WTO phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng thực tế dùng nhiều biện pháp hành chính và ngắn hạn, nhiều loại giá cơ bản phi thị trường. Các nhóm lợi ích bất chính đang là lực cản của tái cơ cấu nền kinh tế, chi phối chính sách ngày càng trắng trợn. Diễn đàn kinh tế mua thu năm 2013, ở Huế, Viện trưởng Trần Đình Thiên mở đầu tham luận, cho rằng “Kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam không nằm trong quỹ đạo đó. Những “điểm đen” như nợ xấu, sở hữu chéo trong các ngân hàng vẫn còn nguyên, tái cơ cấu kinh tế nhà nước vẫn nằm trên giấy. Kinh tế vẫn trong lộ trình “xuống đáy” và nằm bẹp ở đấy”. Giáo sư Võ Đại Lược đề nghị bán các doanh nghiệp nhà nước như bia, rượu, nước giải khát, đất đai của Tổng công ty Thương mại Hà Nội… lấy tiền làm việc có ích.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng mục tiêu đưa Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không thể nào đạt được. Cho đến nay Việt Nam chỉ có nền công nghiệp gia công và là bãi thải công nghiệp của các nước.
Hội nghị TƯ 3 (10-10-2011) nhận định: “Do yếu kém nội tại của nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ kéo dài….” Ngày 5-9 2013, tại diễn đàn Việt Nam-Nhật Bản, ông Bùi Quang Vinh, Ủy viên TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT phát biểu: “Kinh tế Việt Nam mấy năm qua gặp phải những khó khăn do tác động bên ngoài và chịu ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế thế giới, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những yếu tố của kết cấu bên trong, những yếu kém của nội bộ”.
Đúng vậy! Cũng trong tình hình kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế của các nước trong khu vực vẫn phát triển, nước lớn như Trung Quốc GDP năm 2011 là 9,2%, năm 2012 là 7,8%; nước nhỏ như Campuchia năm 2011 GDP là 7,5%, năm 2012 là 7%, năm 2013 dự kiến 7,6%).
Cuối năm 2013, vốn đầu tư nước ngoài có tăng lên so với hai năm trước, đã đem lại nhiều hy vọng cải thiện cho kinh tế Việt Nam, tuy nhiên vấn đề chính như ông Bùi Quang Vinh nói là “những yếu tố kết cấu bên trong, những yếu kém nội bộ” vẫn chưa được giải quyết! “Yếu tố và kết cấu” đó là gì? Phải chăng đó là điều mà nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị: Trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân và tư nhân hóa, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước?

2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN SỐNG DƯỚI MỨC SỐNG TỐI THIỂU 40%!
“Cương lĩnh” viết: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.”(Văn kiện ĐH 11, trang 80).
Báo cáo chính trị: “Gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp” (Văn kiện, trang 228).
Nghị quyết 20 /NQ-TƯ về xây dựng giai cấp công nhân viết: “Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.”
Hơn 20 năm qua, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng. Họ là những nông dân nghèo khó nhất rời đồng ruộng đến các khu kinh tế công nghiệp tìm việc. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2013, có 15 triệu người lao động làm công ăn lương, có 7,9 triệu đoàn viên công đoàn, ở khu vực vốn đầu tư nước ngoài có hơn 1,7 triệu người. Hai mươi năm qua có ba lần cải cách chế độ tiền lương, nhưng lương tối thiểu cho đến nay vẫn chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của người lao động. Luật Lao động cho doanh nghiệp được phép buộc công nhân làm thêm 300 giờ/năm. Các chủ doanh nghiệp căn cứ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định để trả cho công nhân. Do đó hình ảnh của giai cấp công nhân hiện nay, theo báo cáo của Viện nghiên cứu Công nhân, Công đoàn: Có 94% công nhân phải làm thêm ca, thêm giờ mà vẫn không đủ sống; Có 26,5% nam công nhân và 31,8% nữ công nhân suy dinh dưỡng; Có 19,2% công nhân thiếu máu; 70% thiếu iốt; Có 20% công nhân bỏ một bữa ăn trong ngày. Công nhân coi được làm thêm giờ như một ân huệ. Nhiều ông chủ doanh nghiệp phạt công nhân bằng hình thức không cho làm thêm giờ! (Ông Thee Hong Bae ở Công ty Yujin Vina TP HCM cắt tăng ca vĩnh viễn đối với công nhân Dương Văn Tam để phạt anh về “tội” sau đình công, mọi người đã đi làm mà 2 ngày sau anh mới có mặt! Cán bộ quản lý doanh nghiệp thường kiếm cớ để phạt hoặc làm nhục công nhân: Ngày 20-5-2013, ở Công ty Yujin Vina (TP HCM) anh Hậu lúc tan ca không xếp vào hàng, đã bị ông quản lý Chu bóp miệng, nắm cổ áo lôi đi; tháng 7-2013, anh HVT ở Prex – Vinh (Nghệ An) bị cán bộ quản lý ném phế phẩm vào mặt và đè đầu dúi vào máy; ngày 18-7-2013 các chị Đặng Thiên Trang, Chu Thị Vân nghỉ phép quá 1 ngày đã bị quản lý Công ty dệt may Thái Dương (TP HCM) phạt trừ lương và phụ cấp 700.000 đồng!…
Từ năm 1995 đến nay đã xảy ra hơn 5000 cuộc đình công, có những cuộc huy động hơn 10.000 công nhân (như ở Công ty Keyhing Toys Đà Nẵng năm 2005, Công ty Pouchen Biên Hòa năm 2010). Tất cả các cuộc đình công đều bị coi là bất hợp pháp, vì không có công đoàn lãnh đạo. Những người được công nhân đình công cử làm đại diện đối thoại với chủ, sau khi ổn định đều bị sa thải mà không được các cơ quan chức năng bảo vệ! Cách đây 5 năm, Viện Khoa học Xã hội thực hiện cuộc điều tra tại 24 doanh nghiệp, cho thấy có 84% người lao động không thấy công đoàn có vai trò giải quyết tranh chấp. Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại Đại hội 11 Công đoàn Việt Nam nhận khuyết điểm: “Công đoàn cơ sở chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công còn bị lúng túng.”
Chỉ cần đọc bài “Công nhân đồng loạt đình công đòi quyền lợi” trên báo Công An Nghệ An ngày 20-7-2013 cũng đã có thể hình dung tình cảnh khốn cùng, bị chà đạp nhân phẩm của giai cấp công nhân hiện nay. Bài báo kể trong một ngày tỉnh Nghệ An có 2 cuộc đình công ở Công ty Prex Vinh và Công ty May Hanosimex. Bài báo kể một số chi tiết: Bắt làm thêm giờ mà trả lương rất bèo, tổng thu nhập trung bình là 1650000 đồng/ tháng, nhiều công nhân bị bị ném phế phẩm vào mặt. Có người “yêu cầu quản lý không nên có thái độ như vậy” lập tức bị đuổi việc, công nhân bấm thẻ chấm công sớm 30 giây, bị trừ cả ngày công, 1900/2500 công nhân đã vào công đoàn, nhưng gửi kiến nghị lên, công đoàn không trả lời; chủ doanh nghiệp yêu cầu công nhân đình công cử đại diện đối thoại, nhưng cuộc đình công hồi năm ngoái, cả 8 người được cử làm đại diện đối thoại với chủ sau đó đều bị đuổi việc, cho nên lần này không ai dám nhận làm đại diện!
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội kiên trì quan điểm “Nếu điều chỉnh lương tối thiểu đảm bảo ngay nhu cầu tối thiểu thì rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may, da giày gia công sẽ phá sản.” Quan điểm này vừa trái với các nghị quyết nói trên của Đảng, vừa sai với thực tế (thời gian qua có nhiều cuộc đình công ở các doanh nghiệp dệt may, da giày gia công đều được chủ doanh nghiệp giải quyết yêu sách tiền lương mà họ không hề bị phá sản) và trái với lý luận: “Giá trị sử dụng của thứ hàng hóa đặc biệt sức lao động là ở chỗ nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Do đó người sử dụng lao động phải trả mức lương tối thiểu không chỉ đủ nuôi sống bản thân người lao động mà còn phải có dư để nuôi sống gia đình anh ta, đảm bảo tái sản xuất sức lao động” (Marx, Engels T23, trang 252). Ý kiến chưa thể tăng lương tối thiểu đủ mức sông tối thiểu giống như đại diện nhóm lợi ích của các ông chủ tư bản hoang dã. Thế mà tại sao họ không bị khiển trách? Ngành dệt may,da giày gia công còn được cho ưu tiên làm thêm giờ!
Từ năm 1930 cho đến trước Đổi Mới, những người cộng sản Việt Nam luôn luôn lấy khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ để vận động công nhân. Tại sao ngày nay, sau 28 năm Đổi Mới, trong khi Tổ chức Lao động Quốc tế đòi ngày làm 7 giờ, tuần làm 5 ngày, tức 35 giờ/tuần thì Nhà nước Việt Nam lại có chính sách bảo trợ chủ doanh nghiệp buộc công nhân làm thêm 300 giờ, nhưng thực tế còn cao hơn nhiều, với đồng lương chết đói? Tại sao chúng ta thừa lao động, nhất là lao động giản đơn mà không buộc các doanh nghiệp dệt may, da giày gia công là những ngành sử dụng lao động giản đơn giá rẻ, nếu thiếu nhân công thì phải tuyển dụng thêm, cấm họ buộc công nhân làm thêm giờ và đòi họ phải trả lương theo hợp đồng thỏa thuận với người lao động?

3. NÔNG DÂN KHIẾU KIỆN, TỰ TỬ VÀ BẮT ĐẦU DÙNG SÚNG!
Cương lĩnh viết: “Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.”
Phương hướng nhiệm vụ 5 năm (2011-2015): “Phát triển nông nghiệp toàn diện hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.”
Nghị quyết 26/NQ-TƯ (về nông nghiệp, nông dân, nông thôn) mục tiêu: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới…”
Sau Đổi Mới, nông dân đã đưa đất nước từ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới. Nhưng có nghịch lý là từ đó đến nay cuộc sống của nông dân ngày càng khốn khó. Đặc biệt là nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước, chưa bao giờ sống khổ như bây giờ: Được mùa rớt giá, càng làm càng lỗ; mỗi năm buộc phải đóng từ 30 đến 40 loại phí; học vấn thấp nhất; nhắm mắt xếp hàng cho người Đài Loan, Hàn Quốc chọn vợ để cứu gia đình; sang Campuchia bán thân; đóng phí rất nặng để đi xuất khẩu lao động, bị đánh đập, cưỡng hiếp. Mới đây, báo Tuổi Trẻ đăng tình cảnh lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở Malaysia phải trốn chui trốn nhũi vô cùng thê thảm. Nhiều năm qua, nông dân bị thu hồi đất không được đền bù thỏa đáng, phải cơm đùm cơm nắm đi khiếu kiện lên quận, rồi lên tỉnh, lên Trung ương, nằm chờ chực ngoài vườn hoa, trên vỉa hè và bị đuổi đánh tàn tệ.
Cuối cùng tức nước vỡ bờ, lúc đầu là tự thiêu, tự tử để tỏ sự phẫn uất một cách bất lực, sau đó là nổ súng hoa cải để cảnh báo nỗi bất bình, nay thì nổ súng sát thương. Những phát súng của Đặng Ngọc Viết không phải nhằm bắn vào người có oán thù với riêng anh mà có ý nghĩa biểu tượng bắn vào chế độ ruộng đất bất công, phi lý, chống lại lợi ích giai cấp nông dân của anh.
Tại sao những mục tiêu cao đẹp từ các nghị quyết của Đảng không thể trở thành hiện thực mà ngược lại? Những nhà khoa học và cán bộ quản lý gắn bó với nông dân đã phát hiện những nguyên nhân chủ yếu nhưng không được lắng nghe. Gần 20 năm, giáo sư Võ Tòng Xuân nhiều lần lặp đi lặp lại câu hỏi “Bao giờ nông dân mới giàu?” Và ông trả lời, nông dân không thể thoát nghèo, bởi đầu ra của hạt lúa bị Hiệp hội lương thực độc quyền thao túng. Giáo sư Đào Thế Tuấn nói: “Nghịch cảnh thay nông dân từng là quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc, cũng là người lặng lẽ âm thầm khởi xướng công cuộc đổi mới, nhưng lại ít được hưởng lợi nhất sau đổi mới!”; và “nông dân thiếu chủ quyền về đất đai, mất đất mà không có ai bênh vực”; và “Đáng lo thay, nông dân là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội, không có quyền mặc cả trên thị trường không được tham gia quyết định giá cả nông sản, vì thiếu nghiệp đoàn nông dân” (báo Nông Nghiệp Việt Nam xuân Tân Mão). Nguyên chủ tịch tỉnh An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị phân tích nguyên nhân các chỉ tiêu không đạt được, đã cho rằng: “Nói những điều to tát như tạo nền kinh tế bền vững, tái cấu trúc, tăng GDP… không bằng có những chủ trương, quyết sách, hành động sát thực tế để nông dân có đất canh tác, có đời sống ấm no, sung túc bền vững”. Ông phân tích “Thời kháng chiến chúng tôi, những cán bộ, đảng viên cùng với nông dân có chung một lợi ích. Sau khi cầm quyền, chúng tôi với nông dân bắt đầu có sự phân chia, “tuy một mà hai”. Sự phân chia dễ thấy là chúng tôi – tức chính quyền bắt đầu ra lệnh, ngay như tổ chức Đảng, các đoàn thể cũng ra lệnh được. Nông dân từ chỗ là chủ sở hữu đất, chủ sở hữu ruộng, sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đất là sở hữu nhà nước… Có độc lập rồì bỗng dưng mất hết hai cái quyền sống còn là quyền sở hữu ruộng đất và quyền sản xuất… Rồi họ dắt díu nhau lên Sài Gòn, Bình Dương làm công nhân, lại tiếp tục bơ vơ giữa các khu công nghiệp, vắt sức với đồng lương bèo bọt…”. Mang nỗi niềm của người mắc nợ nông dân, ông đi Đài Loan, Malaysia, Thái Lan để quan sát và ngạc nhiên kêu lên: “Nhìn cách họ tổ chức sản xuất nông nghiệp mà phát thèm: Nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học phối hợp rất chặt chẽ, trong đó nhà nông ở vị trí trung tâm, được nhà nước và doanh nghiệp lo cho từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Thái Lan có công ty tổ chức sản xuất nông nghiệp lo cho cả đầu vào cả đầu ra. Chính phủ hỗ trợ chính sách rất rõ ràng” (báo Pháp Luật TP HCM xuân Tân Mão). Tiến sĩ Đặng Kim Sơn Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp cho rằng “Nông dân, nông thôn bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”. Mới đây, trên báo Nông nghiệp Việt Nam, nhà văn của nông dân Nguyễn Khắc Trường, tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma” nổi tiếng, có bài viết về tình trạng nông dân ngày nay. Bài viết có những điểm rất đáng quan tâm: Nông dân xưa chất phác nền nếp lắm. Làng xóm xưa thanh bình lắm. Nông thôn bây giờ chẳng những nghèo về vật chất mà còn nghèo tinh thần. Nay không chỉ có trộm cướp mà còn có người nghiện hút, tình làng nghĩa xóm phai nhạt. Cái gốc của nông dân là ruộng đất mà giờ người ta không còn yêu quý đất nữa! (Thực ra họ không còn yêu đất chỉ vì đất không còn là của họ nữa mà là của “toàn dân”!). Ông so sánh với vài nước xung quanh và cho rằng nông dân Trung Quốc khổ hơn ta, nhà cửa họ lụp xụp hơn, mặt họ sầu não hơn. Nhưng nông dân Thái Lan thì sướng hơn, giàu có hơn nông dân ta. Ông kết luận: “Nói theo nghĩa nào đó nông dân chưa thực sự bước ra khỏi vũng bùn!”
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi đã tự hào viết câu thơ: “Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!” Đất nước của hơn 90% nông dân ngày ấy sáng lòa, bởi họ đã rũ bùn đứng dậy. Cớ sao sau 68 năm họ phải trở lại vũng bùn?!
4. KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO TĂNG NHANH THỨ 2 CHÂU Á!
Báo cáo chính trị ĐH 11: “Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng,văn minh.” Và ” Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.”
Tuy nhiên, sau Đại hội 11 khoảng cách giàu nghèo đã tăng tốc. Hai giai cấp lớn của xã hội là công nhân và nông dân chính là nguồn bổ sung cho số người nghèo đang phình to này. Theo Tổng cục Thông kê năm 2008 khoảng cách giàu nghèo là 8,9 lần; năm 2009 tăng lên 9,2 lần. Gần đây báo chí phát hiện nhiều chuyện “lương khủng” ở các tập đoàn, công ty nhà nước. Vụ lương khủng ở TP HCM khoảng cách thu nhập của cán bộ lãnh đạo và công nhân hơn 200 lần. Dư luận cho rằng vụ này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Trong những năm kinh tế đất nước sa sút, số người siêu giàu (có tài sản 30 triệu USD) vẫn cứ tăng nhanh: Năm 2010 có 100 người; năm 2011 tăng lên 170 người nhanh thứ hai châu Á. Ngày 15-9-2013, nhiều tờ báo đưa tin: Công ty tư vấn tài sản Wealth-X và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết: “Mặc cho nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào khó khăn, số người siêu giàu của nước này vẫn tăng gần 15% so với năm trước, từ 170 lên 195 người với tổng tài sản 20 tỉ USD. Trong khi đó Việt Nam có khoảng 8,1 triệu dân nghèo đói phải tìm đến cái chết để thoát khổ đau.”
Xin nêu hai trường hợp người nghèo đi tìm cái chết mà nguồn tin trên đã nói đến:
Tháng 4-2012, chị Lê thị Ngọc Nhãn ở khóm 2, phường 1, TP Cà Mau, trước khi tự tử đã gửi cho Trung tá Diện bức thư, có đoạn: “Sau khi cháu chết rồi, xin chú giúp cho các con của cháu được vào cô nhi viện. Cháu xin đội ơn chú đời đời”.
Tháng 5-2013, chị Nguyễn thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở xã An Xuyên, TP Cà Mau, trước khi treo cổ, đã viết bức thư gửi chính quyền: “Xin các cấp chính quyền thấu hiểu hoàn cảnh không có lối thoát của gia đình chúng tôi hiện nay, đồng ý cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi có thể sống những ngày còn lại”.
Trong bài nói về xây dựng Đảng hồi tháng 2-2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Mai kia Đảng này là Đảng của ai? Có còn giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”.
Thưa Tổng bí thư, cứ nhìn tình cảnh của hai giai cấp công nhân và nông dân và các chính sách làm cho họ bần cùng, chắc không khó tìm câu trả lời!
5. ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI BĂNG HOẠI CHƯA TỪNG CÓ
ĐH 11 quyết định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no tiến bộ,hạnh phúc;con người phát triển toàn diện về trí tuệ,đạo đức,thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” (Văn kiện trang 105).
Tuy nhiên ba năm qua đạo đức tiếp tục băng hoại ngày càng dữ dội! Hàng ngày báo đưa tin chém giết, trộm cướp, cưỡng hiếp xảy ra khắp mọi nơi. Người ta chém giết nhau chỉ vì những lý do lãng xẹt. Đáng lo nhất là tình trạng con cháu đánh đập, chém giết cha mẹ ông bà, anh em, vợ chồng giết nhau. “Đinh tặc” rải đinh đánh bẫy người đi xe gắn máy, để vá xe, bán lốp, vỏ xe với giá cắt cổ. Thanh, thiếu niên ném đá lên tàu hỏa, lên ô tô như thú vui. Mới đây một nhà phê bình có bài viết tựa đề “Người Việt hung hãn”. Có những hiện tượng bất thường đang nãy sinh: Người ta “tự xử”, bởi không còn tin khả năng quản lý của chính quyền, cũng không tin công lý từ tòa án! Bắt được kẻ trộm chó, cả xóm ra tay tự xử bằng gậy gộc. Mới đây, xã Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang vừa có “sáng kiến” lập rào làng, làm bốn cổng để chống trộm!
Nhà văn Nguyễn Khải người đầu tiên phát hiện tệ nói dối đang phát triển trong xã hội. Từ đó đến nay tình trạng nói dối bùng lên như một đại dịch, lan tràn từ trong Đảng tới các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, các đoàn thể, nay nhiễm vào trẻ con. Tại diễn đàn kinh tế mùa Thu đang diễn ra ở Huế, nhiều tham luận nói về tệ báo cáo láo khiến không thể biết đúng “bệnh”: nợ xấu bao nhiêu,thất nghiệp bao nhiêu, GDP của các tỉnh có tăng thực vậy không. Một trung tâm xã hội học vừa công bố kết quả điều tra: Trẻ học cấp 1 có tỉ lệ nói dối là 22%; trẻ ở cấp 2 có tỉ lệ nói dối 50%; cấp 3 là 64%; sinh viên đại học là 80%! Có thể hình dung được, đội ngũ cán bộ tương lai sẽ vượt xa cha anh về tài nói dối!
Có người giải thích đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Nên nhớ rằng, trước khi thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã từng sống trong cơ chế thị trường.
Dân tộc ta nổi tiếng hiền hòa. Ông cha ta từng “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn”, “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Thời hai cuộc kháng chiến, nhà nhà đêm không cài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Một dân tộc như vậy, nguyên nhân nào đã biến thành “ra ngõ gặp trộm cướp, giết chóc”?
Triết gia Immanuel Kant cho rằng “Tự do là cơ sở tồn tại của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là cơ sở nhận thức của tự do” (Phê phán lý tính thực hành (Đạo đức học), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, nxb Tri thức. chú thích ở trang 2-3). Có lẽ nên xem lại phương thức tổ chức quản lý xã hội đang có những gì bất cập so với các nước văn minh?
6. GIÁO DỤC TIẾP TỤC TỤT HẬU
ĐH11 quyết định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục , phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” (Văn kiện trang 130, 131).
Cách đây 20 năm nền giáo dục Việt Nam đã được nhận diện những điểm không bình thường: Trường chuyên, lớp chọn; thi cử phức tạp; nhồi nhét, không chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo; học thuộc lòng các bài mẫu; dạy thêm học thêm lu bù; sách giáo khoa in lại liên tục, nhưng nội dung không đổi mới; chất lượng giáo viên mỗi năm thêm sa sút; lương giáo viên không đủ sống… Có nhiều cấp ủy Đảng chỉ thị ngành giáo dục phải soạn giáo án tuyên truyền chủ trương chính sách: đưa vào chương trình phổ thông 13 luật thuế, luật phòng chống tham nhũng…
Nhiều cuộc hội thảo huy động trí tuệ các nhà giáo dục góp ý xây dựng. Nhiều nhà giáo dục giàu tâm huyết và trí tuệ như Hoàng Tụy, Hồ Ngọc Đại, Văn Như Cương… phân tích mổ xẻ ung nhọt của ngành giáo dục, đề xuất nhiều kiến nghị như: Khuyến khích sáng tạo; coi trọng óc tưởng tượng; công bằng , dân chủ trong giáo dục; tôn trọng cá tính học sinh; Bắt buộc cấp tiểu học, tiến tới trung học và mở cửa đại học; chú trọng bồi dưỡng nhân tài… Tuy nhiên giáo dục cứ như cỗ xe tụt dốc! Dù cho được tăng tỉ lệ đầu tư, nhưng hiệu quả thì xuống thấp. Chất lượng Đại học Việt Nam không được quốc tế công nhận.
Càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ cố tìm cách cho con đi học ở nước ngoài, ban đầu chỉ đi học cấp đại học, nay đưa đi học nước ngoài ngay từ cấp phổ thông. Xã hội đã quen với cụm từ “tị nạn giáo dục” nói về tình trạng này.
Nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân nói: “Nền giáo dục hiện nay có nhiều lỗi hệ thống”. Giáo sư Văn Như Cương nói: “Tính dối trá tràn ngập nền giáo dục”…
Mới đây, Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố bản báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013-2014” thực hiện ở 148 nước. Kết quả xếp hạng các hạng mục lớn của báo cáo cho thấy: Về chất lượng giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam đều thua kém các nước trong khu vực Châu Á. Ở bậc tiểu học Việt Nam có tỉ lệ đi học cao nhưng chất lượng giáo dục thua kém nhiều nước trong khối ASEAN. Theo ông Trịnh Ngọc Thạch, phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thì đưa trẻ đến trường nhiều chưa nói lên được chất lượng tốt. Nói chất lượng phải tính mấy yếu tố: Thứ nhất là chương trình có tốt không. Thứ hai là giáo viên có tốt không. Thứ ba là cơ sở vật chất có tốt không. Cả ba cái này chúng ta đều yếu. Bà Nguyễn Thị Bình nguyên phó chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Giáo dục năm 1976 nói: “Các tổ chức quốc tế đều đánh giá, trong chiến tranh, Việt Nam là tấm gương về giáo dục. Song bây giờ giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có tổ chức còn đánh giá giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào.”
Có hai vấn đề cốt lõi: Một là, mấy chục năm qua, thầy giáo không chỉ bị đãi ngộ vật chất quá thấp kém mà quan trọng hơn, trong một xã hội chính trị hóa, người thầy không còn được coi trọng như trong xã hội dân sự trước kia. Nấc thang giá trị của thầy giáo ở dưới các cán bộ Đảng và tất cả các cán bộ đoàn thể. Hai là nền giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa sâu sắc, bị chỉ đạo bởi ý thức hệ, nhằm đào tạo ra những công cụ trung thành phục vụ chế độ. Giáo điều, triệt tiêu tự do tư tưởng, cắt cánh tưởng tượng sáng tạo, không tôn trọng cá tính… đều xuất phát từ đó. Sản phẩm của một nền giáo dục như vậy sẽ không thể hội nhập được với nhân loại hiện đại và chắc cũng không thể là nguyên khí quốc gia trong sự nghiệp hiện đại hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa, dù quan tâm đến thực tế đất nước, nhưng không nên tạo ra một nền giáo dục dị biệt với thế giới. Giáo dục phải tuân theo các giá trị phổ quát của nhân loại, tự do dân chủ, bình đẳng. Những nước đi sau như chúng ta rất cần tham khảo, học theo các nền giáo dục tiên tiến.
7. “VÌ SAO CÔNG TÁC XÂY DƯNG ĐẢNG ĐƯỢC TƯ RẤT COI TRỌNG, ĐÃ CÓ NHIỀU NGHỊ QUYẾT, CHỈ THỊ RẤT ĐÚNG, RÂT HAY, NHIỀU CUỘC VẬN ĐỘNG SÂU RỘNG, NHƯNG KẾT QUẢ VẪN CHƯA ĐẠT YÊU CẦU?… VƯỚNG MẮC CHÍNH LÀ Ở CHỖ NÀO?” (TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG).
Cương lĩnh: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị phẩm chất, đạo đức và năng lực lãnh đạo”.
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011-2020, Chương V, mục 3: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng”.
Sau một năm, ngày 26-12-2011, Hội nghị TƯ 4 nhận định: bình, tự phê bình “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng,lảng phí, hư hỏng trong một bô phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn niềm tin đối với Đảng”. Hội nghị TƯ 4 đề ra “những việc cần và có thể làm ngay” là tiến hành trong toàn Đảng tự giác, gương mẫu kiểm điểm, phê bình, tự phê bình”.
Sau gần hai năm thực hiện nghị quyết TƯ 4, tình hình tham nhũng không giảm mà đang tăng lên và diễn biến rất phức tạp, đáng lo ngại:
- Ngày 5-12- 2012 Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) xếp Việt Nam về kết quả chống tham nhũng tụt 11 bậc, xuống 123/182 nước.
- Từ tháng 9-2012 đến 3-2013 Tổ chức Minh bạch quốc tế tổ chức khảo sát và kết luận: 55% người dân Việt Nam cho rằng tham nhũng đang tăng, tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở các cơ quan chức năng, ở lĩnh vực đất đai. Điều đáng lo là chỉ có 38% người dân Việt Nam nói mình dám tố cáo tham nhũng, tỉ lệ thấp nhất so với người dân trong khu vực ASEAN (bình quân là 63%). Tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi, xin kể 2 vụ việc trong hằng trăm vụ việc như thế: Theo báo Người Cao tuổi: Ở Ninh Bình có ông cựu chiến binh Đinh Văn Phiêu tố giác ông Ủy viên TƯ, Bí thư tỉnh Ninh Bình Đinh văn Hùng, tham nhũng, buôn trống đồng. Lập tức ông bị bắt đưa ra tòa xử 5 năm tù giam vì tội vu khống. Ông Lê Đăng đảng viên 60 tuổi Đảng tố cáo Thành phố Biên Hòa làm trái Quyết định 227 của Thủ tướng về quy hoạch, lập tức ông bị khai trừ Đảng. Người dân thường cứ nhìn vào đó mà liệu giữ mình!
- Mới đây các cơ quan thanh tra Việt Nam khảo sát cho biết có 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, trong 20 vụ tham nhũng lớn nhất thì 50% xảy ra ở doanh nghiệp nhà nước.
- Ngày 18-9-2013, trong cuộc họp UBTV Quốc hội, chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nói “Không tham nhũng lấy tiền đâu mà chạy chức?”, và ông đặt câu hỏi gây chấn động dư luận xã hội: “Có tham nhũng trong lực lượng chống tham nhũng không?”
Cuộc họp cho rằng rất cấp thiết phải trả lời câu hỏi: Vì sao tham nhũng không giảm mà cứ tiếp tục tăng?
Tại Hội nghị TƯ 5, TBT Nguyễn Phú Trọng đặt ra một loạt câu hỏi để tìm câu trả lời: “Phải chăng do các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ ý thức và bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện? Do sức chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng quá yếu? Do sự kém tu dưỡng rén luyện của của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức? Do chưa phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân, của công luận? Do những bất cập trong việc ban hành, thực thi các văn bản quy phạm pháp luật? Do mô hình tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng chưa phù hợp? Do sự yếu kém, tiêu cực trong công tác phát hiện và xử lý các vụ tham nhũng lãng phí?”
Các câu hỏi của TBT Nguyễn Phú Trọng đều chính xác, tuy nhiên chưa phải là câu hỏi chủ yếu nhất cần phải đặt ra. Tại Hội nghị TƯ 4, TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: “Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu?…..Vướng mắc chính là ở chỗ nào?”
Đây mới thực là câu hỏi rất lớn, do đó chúng tôi cho rằng phải tìm câu trả lời theo cách mà TBT Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh là phải “đột phá”!
Xin thưa với Tổng bí thư: Có thể đoan chắc rằng, trong lịch sử không có một đường lối, chính sách nào rất đúng, rất hay lại được vận động sâu rộng mà đi tới thất bại cả! Hay, đúng thì phải sát thực tế, tạo ra được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bất cứ giải pháp nào đưa tới thất bại, hơn nữa lại là thất bại rất nhiều lần, kéo dài hàng chục năm thì cần phải thực sự cầu thị, để nhận thức rằng đó là một giải pháp sai!
Nhà nước ta đã ký kết tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng từ 1-7-2009. Công ước này là tập trung trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đúc kết nên. Trong đó, không có kinh nghiệm nào chống tham nhũng thành công từ tự phê bình, phê bình cả!

Công ước này đặt 2 điều đầu tiên cho chính sách và thực tiễn chống tham nhũng là:

(1) “Thúc đẩy sự tham gia của xã hội và thể hiện các nguyên tắc của chế độ pháp quyền”.

(2) Về “cơ quan phòng chống tham nhũng” thì điều đầu tiên là có “sự độc lập cần thiết” để “thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.

Tiếc thay cả hai vấn đề quan trọng nhất của Công ước này, đều không được Việt Nam vận dụng!
Câu hỏi của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng sẽ được trả lời không khó khăn nếu tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đều phải đặt dưới pháp luật.
Trước khi kiến nghị các giải pháp khắc phục tình trạng khủng hoảng toàn diện kể trên, xin trích dẫn ý kiến của Engels đại diện cho K.Marx viết lời tựa bản Tuyên ngôn tiếng Đức năm 1883: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội ̶̶ cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. Nền sản xuất kinh tế đa thành phần phát triển đã làm cho chiếc áo toàn trị quá chật, đòi hỏi phải thay bằng chiếc áo dân chủ.

B. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP

1. Đại hội 6 chủ trương “Đổi mới toàn diện bắt đầu từ đổi mới kinh tế”. Đại hội 11 quyết định: “KIÊN TRÌ VÀ QUYẾT LIỆT THỰC HIỆN ĐỔI MỚI. ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ PHẢI ĐỒNG BỘ VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ”…

Thật đáng tiếc là cho đến nay thể chế, hệ thống chính trị nước ta hầu như vẫn giữ y nguyên khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết. Nền móng tự do dân chủ đã có từ Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946 đã không được thực hiện, phát huy. Các quyền tự do cơ bản như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do biểu tình đều khất “nợ” nhân dân suốt 68 năm! Đại hội 6 đã trả lại cho nhân dân quyền tự do kinh tế bị tước mất sau cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà người Việt Nam năng động sáng tạo hẳn lên, vượt qua đói nghèo, đạt được mức sống trung bình thấp. Tuy nhiên do chưa được đổi mới chính trị, nhân dân chưa có quyền tự do xây dựng một nhà nước pháp quyền thể chế hóa các quyền tự do. Không có nhà nước pháp quyền đúng nghĩa thì tự do kinh tế không được bảo trợ về pháp lý, bị vướng mắc bởi thể chế chính trị lạc hậu thao túng, chi phối, làm suy giảm năng lực phát triển. Tình trạng ốm yếu của nền kinh tế Việt Nam là vì vậy. Không có tự do chính trị cũng hạn chế tự do văn hóa, không thể tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhân loại, thậm chí không phân biệt thuần phong mỹ tục với hũ tục. Nhiều cán bộ chính trị tự cho mình quyền kiểm duyệt, cấm đoán tác phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy. Thiếu tự do chính trị là nguyên nhân gây hạn chế đồng thuận, chia rẽ dân tộc, bất ổn xã hội. Tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước là báo động đỏ cho sự chậm trễ đổỉ mới chính trị.
Có người lo ngại đổi mới chính trị sẽ gây ra nguy cơ bất ổn xã hội, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản, nói như vậy là không tin nhân dân, hoặc coi nhân dân là “thần dân”. Đổi mới chính trị chính là tin nhân dân, tôn trọng nhân dân, cùng nhân dân thảo luận, lựa chọn, xây dựng một thể chế thực sự của dân, do dân, vì dân, điều mà Đảng cộng sản thường nêu lên như tâm nguyện cao cả nhất từ những ngày đầu cách mạng. Đổi mới chính trị sẽ loại bỏ được nguyên nhân đã làm cho các nghị quyết của Đảng suốt nhiều nhiệm kỳ cứ phải lặp đi lắp lại: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức” (Văn kiện ĐH 11, trang 171). Được như vậy thì uy tín của Đảng, tình trạng nhân dân mất niềm tin vào Đảng sẽ được ngăn chặn.

2. KHÔNG NÊN THÔNG QUA DỰ THẢO HÍÊN PHÁP NẾU CHƯA ĐẠT YÊU CẦU ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ!
Sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là cơ hội vàng để đổi mới chính trị! Do đó, không nên tùy tiện phủ quyết những ý kiến không hợp với quan điểm bảo thủ, giáo điều mà cần tổ chức tranh luận công khai trên mọi cơ quan truyền thông.
Kiến nghị 72 nhằm xây dựng bản Hiến pháp bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, phát triển bền vững đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai, gồm 7 điểm quan trọng:
1- Lời nói đầu phải làm rõ mục tiêu đảm bảo an toàn, tự do hạnh phúc cho mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền, hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai. Quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tôn trọng ý chí dân tộc. Do đó không nên định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội cho một tổ chức chính trị. Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân tin cậy bầu chọn.
2 – Mục đích thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người. Dự thảo có nhiều điểm không phù hợp với các chuẩn mực phổ quát ở các Công ước Liên Hiệp Quốc mà nhà nước ta đã gia nhập. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” lâu nay mở đường cho việc nhân danh Hiến pháp đàn áp công dân, cần phải khắc phục.Do đó, Hiến pháp nên quy định thành lập một Ủy ban quốc gia về quyền con người.
3 – Cần công nhận quyền sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng đối với đất đai, để chống tham nhũng, lộng quyền, móc ngoặc giữa cán bộ nhà nước và doanh nhân gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân, gây bất ổn xã hội.
4 – Thực hiện nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập.
5 – Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, yên bình cho nhân dân. Đó cũng chính là mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản đặt ra cho mình từ khi thành lập. Đảng cộng sản là một thành phần trong nhân dân, không nên quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng cộng sản.
6 – Bảo đảm quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
7 – Thời gian lấy ý kiến toàn dân đến kéo dài hết năm 2013, khuyến khích việc tham khảo, so sánh, thảo luận công khai để xây dựng bản Hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Bản Kiến nghị 72 đã được 15 đại diện trình lên Ban soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Hơn 14000 người ký tên hưởng ứng, trong đó có hàng trăm giáo sư trong, ngoài nước, hàng trăm đảng viên lão thành, cựu chiến binh. Thế nhưng, 700 tờ báo và cả hệ thông truyền hình phát thanh không đưa tin, không tranh luận công khai sòng phẳng. Tất cả cơ quan truyền thông nhà nước đơn phương bóp méo, xuyên tạc, phê phán, nhưng không nêu đích danh Kiến nghị 72 mà coi đó là lập luận của một “lực lượng thù địch” vô hình, một “bọn xấu” không có địa chỉ! Thật đáng tiếc, cách làm không minh bạch như vậy lại có thể xảy ra ở một đất nước đã ký kết các Công ước của Liên Hiệp Quốc, đã từng là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an!
Một số người cho rằng việc góp ý không có vùng cấm, nhưng không được lợi dụng góp ý để vi phạm những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản! Xin hỏi những điều gì được gọi là “nguyên tắc cơ bản”? Quyền lãnh đạo của Đảng chăng? Hay “tam quyền phân lập” chăng? Không đúng! Nguyên tắc cơ bản phải là đảm bảo thực hiện cho được mục tiêu “của dân, do dân, vì dân” và tất cả phải thượng tôn pháp luật. Do đó, nếu chưa thống nhất được thì nên dừng lại không nên vội vàng thông qua bản dự thảo Hiến pháp còn quá nhiều bất cập, nên có thêm thời gian và không gian dân chủ để thảo luận. Bởi vì nếu vội vàng ban hành bản Hiến pháp không đạt các tiêu chuẩn tự do dân chủ phổ quát cũng tức là chưa đạt yêu cầu “đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế” mà ĐH 11 đã đề ra và hậu quả không mong muốn sẽ xảy ra cho dân tộc, cũng tức là cho Đảng cộng sản.

3. ĐIỀU 4, GỢI NHỚ “TRƯỚC MẶT QUẦN CHÚNG, KHÔNG PHẢI TA CỨ VIẾT LÊN TRÁN HAI CHỮ CỘNG SẢN MÀ ĐƯỢC HỌ YÊU MẾN” (HỒ CHÍ MINH).
Đất nước, nhân dân đòi hỏi ĐẢNG TỪ BỎ HÌNH THỨC ĐẢNG TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN. Phải thực hiện “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Hồ Chí Minh đã hứa hẹn, chấm dứt tình trạng đã kéo dài mấy chục năm nay mà nguyên UV BCT Nguyễn Văn An đã thẳng thắn và trung thực nhận định: “Bộ Chính trị là vua tập thể”. Không nên tiếp tục làm cho khẩu hiệu thiêng liêng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” để rồi Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước” nên cuối cùng quyền lực nhà nước thuộc về Đảng! Trong dân gian đã lưu truyền công khai những thành ngữ “Đảng cử dân bầu”, “mười năm phấn đấu, không bằng cơ cấu một giờ”… thật là phản cảm.
Chúng ta đang hội nhập toàn cầu, Hiến pháp của các nước văn minh không ghi quyền lãnh đạo của một đảng chính trị. Nước ta, từ những ngày cách mạng còn trứng nước, Đảng chỉ có 5000 đảng viên, Hiến pháp 1946 không ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân vẫn theo Đảng, vì Đảng có đường lối giành độc lập, tự do. Việc đưa sự độc quyền lãnh đạo của Đảng vào Điều 4 Hiến pháp đã gây rất nhiều tranh cãi. Nhiều đảng viên cộng sản từng giữ cương vị ủy viên Trung ương, Bộ trưởng cũng không đồng tình. Xin đừng vu cho họ tội chống Đảng, hoặc suy thoái chính trị. Tại sao họ lại chống lại Đảng mà họ đã bỏ gần hết cả đời phục vụ chứ? Bản thân tôi, một đảng viên 55 tuổi đảng, tôi cảm thấy Điều 4 là sự xúc phạm lòng tự trọng, tự hào của mình là một đảng viên. Từ khi vào Đảng, các đảng viên từng tâm niệm “phải yêu dân kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta”“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà được họ yêu mến.”(Hồ Chí Minh, ST,1985, T5, trang 184). Hiểu theo ý nghĩa của câu ấy thì việc ghi Điều 4 vào Hiến pháp không phải là ghi hai chữ cộng sản lên trán của Đảng mà chính là ghi lên trán của dân tộc! Liệu cách áp đặt như vậy có được nhân dân yêu mến hay không?

4. THẾ NÀO LÀ MỘT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN? TẠI SAO LẠI KHÔNG CHẤP NHẬN TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Lý do để các nhà lý luận của Đảng không đồng ý tam quyền phân lập là cho rằng đó là “dân chủ phương Tây”! Khổ quá! Các vị tìm đâu ra thứ dân chủ phương Đông chứ? Nhà sáng lập “tam dân chủ nghĩa” Tôn Trung Sơn nói hẳn rằng, dân chủ dân quyền thì phải học phương Tây, bởi vì phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền. Đã có nhiều nước phương Đông thực hiện nhà nước tam quyền phân lập như Nhật, Hàn quốc…nâng cao quyền dân, hạn chế được tham nhũng, đất nước phát triển rất nhanh. Chính các nước này đang chìa tay giúp đỡ ta. Ta cứ công kích tam quyền phân lập là theo Tây, không sợ mất lòng những người giúp đỡ mình sao?
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài viết “Dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp từ năm 2009, đã cảnh báo tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu phát triển là do thiếu cơ chế giám sát, kiềm chế quyền lực, “đó là lỗ hổng và yếu kém nhất trong hệ thống tam quyền của nhà nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể chế”. Ông cũng băn khoăn khi “việc thực hiện ba quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ông cho rằng lẽ ra sự lãnh đạo của Đảng là ở đường lối và đưa ra quan điểm lớn “Phải làm thế nào để thực hiện cho được quyền tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không chấp nhận bất cứ sự chi phối nào ngoài pháp luật”. Đến nay, dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng gần như cũ: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…. do Đảng cộng sản VN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng có một thắc mắc rất có lý “đã thống nhất sao lại còn phân công?” Vừa qua, một báo cáo viên của Ban Tuyên huấn Trung ương xuống giảng giải ở Đảng bộ phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM đã giải thích: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân là một khối thống nhất, do đó không thể chia cắt, không thể phân lập! Tại sao các nhà lý luận của Đảng không chịu hiểu rằng, nhà nước là công cụ để phục vụ nhân dân, do đó nhân dân muốn phân chia nó thế nào để phục vụ mình tốt hơn là quyền của nhân dân chứ?
Tại sao các chế độ dân chủ tìm đến nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập? Xin trích dẫn ra đây ý kiến của hai bậc hiền triết của nhân loại:
Từ thời cổ đại Platon quan sát các nhà nước và đi đến nhận định: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó.Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của nhà nước”. Học trò xuất sắc của ông là Aristote, người được Karl Marx coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại, đã cụ thể hóa tư tưởng của thày mình, cho rằng quyền lực nhà nước phải được chia làm ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Suốt hơn 2000 năm sau đó những đầu óc vĩ đại của nhân loại không ngừng khám phá, bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng phân quyền. Trong đó J. Locke và Montesquieu được đánh giá đã ghi hai cột mốc lớn nhất. Cho đến nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ, giàu mạnh tổ chức nhà nước theo tam quyền phân lập, dù hình thức có đôi chỗ khác nhau, nhưng điều cơ bản, phổ quát là không đổi.
Montesquieu cho rằng: “Khi mà quyền Lập pháp và Hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền Tư pháp không tách rời quyền Hành pháp và Lập pháp. Nếu quyền Tư pháp được nhập với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa cũng sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền Tư pháp nhập với quyền Hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức hay của quý tộc, hoặc của dân chúng năm luôn cả ba quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”. Ông đặc biệt nhấn mạnh quyền Tư pháp phải nhất thiết tách ra, độc lập với hai quyền kia.
Ngày nay, nhân loại đánh giá một nhà nước dân chủ văn minh khi thực hiện tốt các tiêu chí:
Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ các quyền con người.
Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Một cá nhân có thể làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm, còn quan chức nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Đối chiếu những ý kiến ở trên, soi rọi vào cách tổ chức nhà nước của ta, sẽ không quá khó khăn để hiểu vì sao nhà nước chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập, nạn quan liêu, tham nhũng lan tràn không sao ngăn nỗi. Những ý kiến chống lại Tam quyền phân lập cho rằng nó sẽ làm cho Đảng mất quyền lãnh đạo. Thật là sai lầm! ĐH 11 cho rằng: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược ,các định hướng chính sách và chủ trương lớn, bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, bằng hành động gương mẫu của đảng viên”(Văn kiện,trang 88). Nhà nước tam quyền phân lập chỉ buộc Đảng, cũng như Nhà nước phải đặt mình ở dưới Hiến pháp và pháp luật. Tư pháp độc lập của nhà nước pháp quyền có thể gọi người vi phạm pháp luật bất cứ đó là ai phải trả lời trước tòa án. Một phó thường dân cũng như ông tổng bí thư đều bình đẳng trước pháp luật. Có người ví von việc khó chấp nhận điều này là “Không ai lấy đá tự ghè vào chân mình”.Nhưng đó chính là cách duy nhất giúp cho Đảng thoát khỏi tham nhũng, quan liêu như hiện nay, để có thể lấy lại niềm tin của nhân dân đang sút giảm nghiêm trọng.
5. XÂY DỰNG XÃ HỘI DÂN SỰ ĐÚNG NGHĨA
Khái niệm xã hội dân sự có từ thời cổ Hy Lạp, nó chỉ một phạm trù rộng lớn của đời sống xã hội bao gồm gia đình, tôn giáo, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật… Đến thời khai sáng, các nhà tư tưởng đề cao quyền tự do cá nhân trong xã hội dân sự, độc lập với nhà nước, coi xã hội có trước nhà nước, nhà nước không được lấn át xã hội dân sự. Một nhà nước được coi là văn minh, hợp pháp khi nào được thành lập bởi sự thỏa thuận của tất cả các cá nhân trong xã hội dân sự, điều đó được xác lập bằng một Hiến pháp dân chủ. Sự phân chia giữa nhà nước và xã hội dân sự được coi là đặc trưng của một thể chế chính trị thực sự dân chủ.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do của người dân bị xâm phạm. Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ. Có thể có xã hội dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippine, Indonexia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh chóng.
Trong thể chế theo mô hình xã hội chủ nghĩa xô viết, tất cả đều Nhà nước hóa, từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, cái công cộng xóa bỏ cái riêng tư. Nhân dân chỉ còn sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất, ngay sức lao động và quyền bán sức lao động của mình cũng không còn, gia đình, tín ngưỡng cũng mất tính độc lập. Xã hội dân sự nhường chỗ cho xã hội toàn trị. Tất cả các hội đoàn đều do người của cấp ủy Đảng cử ra làm chủ tịch, thậm chí cả Đoàn chủ tịch, Ban Thường vụ đều là đảng viên. Tất cả các hội đoàn lấy nghị quyết của Đảng làm chuẩn để soạn thảo nghị quyết của mình. Nông dân đi khiếu kiện không có thể dựa vào Hội nông dân; Công nhân đình công không thể yêu cầu công đoàn lãnh đạo. Báo chí là tiếng nói của một hội đoàn nào đó, không phải tiếng nói của một con người tự do.
Đổi mới kinh tế mở ra một nửa cánh cửa của xã hội dân sự. Tuy nhiên các quyền tự do về tinh thần, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí, tự do sáng tạo nghệ thuật… vẫn chưa được thực hiện theo các giá trị phổ quát của nhân loại đã được ghi nhận trong các Công ước của Liên Hiệp Quốc và đã được Nhà nước Việt Nam cam kết gia nhập. Nhiều cán bộ cao cấp vẫn còn ngộ nhận: Cho rằng nước ta đã có hàng trăm hội đoàn cớ sao cứ bảo chưa có tự do hội họp và lập hội? Đã có hơn 700 tờ báo, tỉnh nào cũng có đài phát thanh, truyền hình cớ sao cứ kêu không có tự do báo chí, tự do ngôn luận? Xin các vị đọc lại ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này. Trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Versaille tháng 1-1919 có 8 điều, điều 3 là: “Tự do báo chí và tự do ngôn luận”; Điều 4 là “Tự do lập hội và hội họp”. Trong quyển “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết những năm 1921-1926 có đoạn: “Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo nào cả. Tôi gọi tờ báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế, hay văn học như đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội nhà báo TP HCM, 1980, trang 9). Như vậy, khi nói về các quyền tự do, Hồ Chí Minh cho rằng đó phải là tự do của mỗi con người. Đến năm 1938, báo Dân chúng của Đảng cộng sản xuất bản không xin phép và được nhà nước thực dân Pháp chấp nhận. Trong chế độ thuộc địa hà khắc, xã hội dân sự Việt Nam vẫn len lỏi nảy nở. Từ năm 1920 đã có công hội của Tôn Đức Thắng. Từ năm 1930 đã có các Đảng chính trị như Quốc dân Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam và các hội đoàn như Hội Ái hữu, Hướng đạo; từ năm 1934 có Tự lực văn đoàn một hội đoàn hiện đại tạo ảnh hưởng rất lớn lao về văn học và xã hội; 1937 có Hội truyền bá quốc ngữ… Trừ hai đảng chính trị, các hội đoàn đều công khai hoạt động. Chẳng lẽ nhà nước Việt Nam cảnh giác đối với nhân dân đã trải qua 68 năm làm cách mạng của mình hơn cả bọn thực dân Pháp! Chúng ta hãy nhìn ra thế giới văn minh, nhìn gần hơn là các nước quanh vùng để thương cho dân mình và mau chóng thực hiện các quyền tự do đã bị treo suốt 68 năm.
Xã hội dân sự bao trùm tất cả các mặt của đời sống xã hội cho nên nó vô cùng quan trọng. Thời đại toàn cầu hóa cho thấy con đường văn minh của nhân loại có những điểm chung giống nhau trong sự vận dụng các giá trị phổ quát, hình thành mô hình xã hội tiến bộ, phát triển, gồm có “ bộ ba” không thể thiếu một, đó là: xã hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền.
THEO TỐNG VĂN CÔNG, viet-studies.info

Phát biểu khai mạc Hội nghị TW 8 của Tổng Bí thư

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)


Sáng 30/9, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội.
Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Hội nghị:
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ tám để thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; và một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến công tác xây dựng Đảng.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị của chúng ta diễn ra vào thời điểm giữa nhiệm kỳ khóa XI với nhiều nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quan tâm. Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin nêu một số vấn đề có tính gợi mở về những nội dung được trình bày trong các Báo cáo, Tờ trình, mong các đồng chí quan tâm trong quá trình xem xét, thảo luận, quyết định.
1- Về phát triển kinh tế-xã hội
Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ đã chuẩn bị Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội. Đề nghị Trung ương đồng thời xem xét cả hai Báo cáo; phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế-xã hội nước ta, trọng tâm là việc thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Từ đó đề ra quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho năm 2014 và 2 năm 2014-2015 nhằm thực hiện đạt kết quả cao nhất Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Để thống nhất nhìn nhận bức tranh thực về kinh tế-xã hội năm 2013, đề nghị các đồng chí bám sát Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội cuối năm 2012 và thực tiễn của đất nước, của bộ, ngành, địa phương nơi công tác, phân tích kỹ tình hình, chỉ rõ những kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2013.
Chú trọng làm rõ các vấn đề như: Kinh tế vĩ mô ổn định đến đâu, liệu có còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại; tính thanh khoản và độ an toàn hệ thống ngân hàng thương mại như thế nào; tình trạng nợ xấu, sở hữu chéo giữa các ngân hàng, thị trường bất động sản bị đóng băng, "thừa tiền, thiếu vốn" được xử lý ra sao; kết quả của những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đạt được ở mức nào?...
Phải chăng đến năm 2014 vẫn phải tiếp tục thực hiện mục tiêu củng cố, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi nhịp độ tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược; bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đối với một số chỉ tiêu chủ yếu, Trung ương cần cho ý kiến định hướng để Quốc hội thảo luận, quyết định.
Việc đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội bao gồm toàn diện các vấn đề, từ việc tổ chức học tập quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết đến lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội từ Trung ương đến cơ sở.
Tập trung đánh giá sự cần thiết, đúng đắn, kịp thời của việc các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, ngay sau Đại hội XI đã quyết định chuyển nhiệm vụ trọng tâm từ phát triển nhanh sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã đem lại những kết quả như thế nào, có gì cần rút kinh nghiệm; việc thực hiện các mục tiêu Đại hội XI đề ra đạt được ở mức nào, có vấn đề gì mới nảy sinh, xu hướng phát triển trong nửa nhiệm kỳ còn lại ?...
Từ đó, chỉ rõ những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cũng như trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế-xã hội. Xác định cụ thể nguyên nhân khách quan, chủ quan, nguyên nhân thuộc về luật pháp, cơ chế, chính sách, nguyên nhân do tổ chức thực hiện; đâu là nguyên nhân chủ yếu, có tính quyết định.
Phải chăng thời gian qua việc tái cấu trúc 3 lĩnh vực ưu tiên theo tinh thần Kết luận của Hội nghị Trung ương 3 được triển khai một cách bị động trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định, cho nên chưa thực hiện được mục tiêu, yêu cầu đề ra; tới đây cần phải tiếp tục có những điều chỉnh và kiên trì tiến hành một cách bài bản, căn cơ hơn, gắn với tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế? Coi đột phá về thể chế, cải cách các chế độ và thủ tục hành chính, chống phiền hà, sách nhiễu, là khâu trọng yếu, bảo đảm phát huy đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, tạo xung lực mới cho phát triển nhanh và bền vững?
2- Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Cách đây đúng một năm, Hội nghị Trung ương 6 đã ban hành Kết luận về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế"; yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh Đề án để trình Ban Chấp hành Trung ương vào thời gian thích hợp.
Thời gian qua, Ban cán sự đảng Chính phủ cùng Ban Tuyên giáo Trung ương đã tích cực chuẩn bị, huy động sự tham gia của các cơ quan hữu quan, sự đóng góp đầy tâm huyết và hiệu quả của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, các cán bộ quản lý giáo dục, hoàn chỉnh Đề án, Tờ trình và dự thảo Nghị quyết để trình Trung ương xem xét, quyết định tại Hội nghị lần này.
Yêu cầu đặt ra là phải tạo được sự thống nhất cao, ban hành được một Nghị quyết Trung ương xứng tầm để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển lĩnh vực luôn được coi là quốc sách hàng đầu này. Trung ương cần thảo luận, bàn bạc thật kỹ sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; đánh giá thẳng thắn, đúng thực trạng tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của những thành tựu, kết quả đã đạt được cũng như những yếu kém, hạn chế cần chấn chỉnh. Đặc biệt là tập trung xác định rõ hơn nội hàm đổi mới căn bản và toàn diện.
Phải chăng đổi mới căn bản là đổi mới từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục-đào tạo cùng các cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện. Đổi mới toàn diện là đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến đổi mới các cơ sở giáo dục-đào tạo và sự tham gia của gia đình, cộng đồng và xã hội; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học, ở cả Trung ương và địa phương? Cái gì cần kế thừa, phát huy; cái gì cần bổ sung, sửa đổi?
Từ đó, hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp, nhất là những giải pháp chủ yếu, có tính đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục-đào tạo theo tinh thần: Chấn chỉnh, khắc phục triệt để những khuyết điểm, bất cập lâu nay; củng cố những kết quả, thành tựu đã đạt được; phát triển, nâng chất lượng giáo dục-đào tạo lên tầm cao mới.
Theo hướng này, phải chăng có thể thống nhất cao với những đề xuất thuộc về quan điểm như: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu giáo dục là phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển giáo dục từ chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu vừa đáp ứng yêu cầu số lượng, vừa chú trọng nâng cao chất lượng. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa giáo dục. Chuyển hệ thống giáo dục cứng nhắc, thiếu tính liên thông sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời...
3- Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Tại các Hội nghị lần thứ hai, thứ năm và thứ bảy của khóa này, Ban Chấp hành Trung ương đã lần lượt bàn về: Chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; định hướng về một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII đã thảo luận và cho nhiều ý kiến về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Ban Biên tập đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội; đồng thời tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu tiếp thu ý kiến của nhân dân, hoàn thiện toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để trình Hội nghị Trung ương lần này.
Như Trung ương đã nhiều lần xác định, đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, vì Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý cơ bản điều chỉnh những quan hệ xã hội trọng yếu nhất, có tính nền tảng, thể hiện bản chất của Nhà nước và chế độ; là đạo luật gốc của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội và chủ quyền quốc gia. Vừa qua, chúng ta đã phát huy cao độ tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm, động viên đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp.
Đề nghị Trung ương tiếp tục dành nhiều thời gian nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, góp ý cụ thể vào từng chương, điều và toàn văn Dự thảo. Tập trung cho ý kiến đối với một số vấn đề còn có các phương án lựa chọn khác nhau, tạo sự thống nhất cao để Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hoàn chỉnh toàn văn Dự thảo. Đồng thời cho ý kiến về việc lãnh đạo, chỉ đạo trình Quốc hội xem xét, thông qua.
4- Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Cách đây 10 năm, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với sự đổi mới tư duy mạnh mẽ và có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp mang tính đột phá, khả thi cao. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này là việc làm hết sức cần thiết để Trung ương phân tích, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống tình hình và đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng-an ninh, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình thế giới, khu vực đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp.
Đề nghị các đồng chí tập trung đánh giá khách quan những kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Chỉ rõ những mục tiêu, quan điểm, phương châm, tư tưởng chỉ đạo và bài học kinh nghiệm nào đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn, cần tiếp tục kiên trì, nghiêm túc thực hiện. Thí dụ như, phân tích, đánh giá về 4 nguy cơ và các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ đó; hay chủ trương xác định thế nào là đối tác, đối tượng trong tình hình mới,...
Đồng thời, cần phân tích thật thấu đáo bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế, thấy rõ những biến đổi sâu sắc, diễn biến phức tạp, khó lường và dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới để kịp thời bổ sung, phát triển một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và điều chỉnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong tình hình mới.
Tập trung làm rõ những thuận lợi, cơ hội cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức phải vượt qua để trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về thuận lợi, cơ hội, phải chăng đó là: thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới và phát triển; tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường; nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân và công an nhân dân được nâng lên một bước?
Về khó khăn, thách thức, phải chăng bao gồm: Sự biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực, nhất là tình hình trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch; những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế; những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội?...
Căn cứ vào quy mô và tính chất các nội dung, vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung phát triển, đề nghị Trung ương cân nhắc việc ban hành Nghị quyết mới của Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới hay chỉ ban hành Kết luận của Hội nghị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX).
5- Về công tác xây dựng Đảng
Tại Hội nghị lần này, Bộ Chính trị trình xin Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định một số vấn đề quan trọng sau đây:
Một là, xem xét, quyết định việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: Như các đồng chí đều biết, Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI) đã quyết định nâng thẩm quyền ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng từ Bộ Chính trị lên Ban Chấp hành Trung ương.
Việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả thi hành Điều lệ Đảng, giữ vững kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, tạo sức mạnh và sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Nhiều khóa trước đây, việc thực hiện Quy chế bầu cử trong Đảng đã tương đối có nền nếp và hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập và có những vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương xây dựng Dự thảo sửa đổi, bổ sung Quy chế bầu cử trong Đảng hiện hành theo nguyên tắc: Kế thừa tối đa những nội dung còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã bộc lộ bất cập trong thực tiễn thi hành.
Những nội dung mới của Dự thảo Quy chế lần này chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Phạm vi điều chỉnh của Quy chế; việc ứng cử, đề cử, bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, bầu bổ sung Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương; thủ tục ứng cử, đề cử, bao gồm điều kiện để được đưa vào danh sách bầu cử, số dư trong danh sách bầu cử và dự kiến trước việc phân công nhiệm vụ sau khi trúng cử...
Đề nghị các đồng chí, trên cơ sở nắm chắc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và bằng kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo công tác bầu cử trong Đảng ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, đóng góp nhiều ý kiến xác thực để xây dựng, ban hành Quy chế mới hoàn chỉnh hơn, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ của Đảng.
Hai là, quyết định việc thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII của Đảng: Theo thông lệ và kinh nghiệm chuẩn bị các Đại hội trước đây của Đảng, tại Hội nghị này, Bộ Chính trị trình Trung ương dự kiến thành lập 5 Tiểu ban: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban kinh tế-xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự; và Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội.
Các Tiểu ban có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo Chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội, Báo cáo tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có) và Báo cáo công tác nhân sự. Đề nghị Trung ương xem xét, quyết định việc thành lập các tiểu ban với cơ cấu và nhân sự cụ thể đã nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị.
Thưa các đồng chí,
Việc hoàn thành tốt các nội dung chương trình của Hội nghị lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2014-2015, tiến hành thành công đột phá về thể chế, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ Tổ quốc và khởi đầu cho quá trình chuẩn bị Đại hội lần thứ XII của Đảng. Vì vậy, đề nghị các đồng chí phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc để hoàn thiện các Báo cáo, Đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn”./.
(TTXVN)

Tại sao lãnh đạo Việt Nam bị thế giới coi thường đến như thế?


"...Họ đều giống nhau ở chỗ rất thiếu văn hóa. Họ không do nhân dân Việt Nam chọn lựa vì tài đức mà chỉ là sản phẩm của một bộ máy sàng lọc trong đó những người có kiến thức và nhân phẩm đều đã bị loại bỏ..."
Sau ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Mỹ đến lượt ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Pháp và cũng được tiếp đón với cùng một nghi thức tối thiểu. Sự rẻ rúng càng đáng ngạc nhiên trong trường hợp ông Dũng bởi vì ông tới Pháp mang theo những món quà lớn: một đơn đặt hàng 92 máy bay Airbus 320 và nhiều hợp đồng khác rất có lợi cho Pháp.
Dầu vậy, chính giới và dư luận Pháp đã chỉ coi chuyến công du của ông Dũng như một quantité négligeable. Không một tờ báo nào nói tới chuyến viếng thăm của ông, dù chỉ một vài dòng. Cũng không có đài phát thanh hay truyền hình nào đưa tin, dù chỉ một vài giây. Tệ hơn nữa một đài truyền hình mà chức năng chính là giải trí còn chiếu lại một đoạn phim về cuộc họp báo chung của ông Dũng với thủ tướng Pháp Jean Marc Ayrault để làm trò cười bằng cách đưa lên màn ảnh phong cách thô vụng và ngôn ngữ quê kệch của ông. Dù chống đối chính quyền cộng sản đến đâu không một người Việt Nam nào có thể không cảm thấy tủi hổ khi người đại diện chính thức, dù không chính đáng, của nước mình bị coi thường đến thế. Qua những người lãnh đạo chính quốc gia Việt Nam đã bị đánh giá thấp.
Tại sao những người lãnh đạo Việt Nam bị coi thường đến như thế?
Trước hết là vì chính quyền cộng sản Việt Nam không còn được nhìn như một chính quyền độc lập sau khi ông Trương Tấn Sang, trong chuyến đi Bắc Kinh hai tháng trước đây, đã thay mặt ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam thỏa thuận "phối hợp và điều phối" với Trung Quốc, trên thực tế là nhận chỉ thị của Trung Quốc, trong quan hệ đối ngoại. Kế đến và có lẽ còn quan trọng hơn là quả thực Việt Nam. không có trọng lượng nào trên thế giới. Chúng ta quá nghèo.
Thu nhập bình quân của một người Việt Nam chỉ hơn 1/10 mức trung bình thế giới một chút. Chúng ta cũng thua kém bi đát về mọi mặt. Tuy là nước đông dân thứ 13 trên thế giới với trên 90 triệu người nhưng chúng ta không có một công ty hay một sản phẩm nào đáng để ý, không có phát minh nào hay tác phẩm văn học nghệ thuật nào để đóng góp với nhân loại, không có tư tưởng, cũng chẳng có thành tích thể thao. Chúng ta chẳng có gì để thế giới trọng nể. Tụt hậu là một từ quá nhẹ, phải nhìn thẳng vào sự thực: chúng ta là một nước lụn bại, và thủ phạm của sự lụn bại này là Đảng Cộng Sản.
Đã thế chúng ta hiện còn đang là một xúc phạm đối với thế giới. Các qui định về dân chủ và nhân quyền đã được Liên Hiệp Quốc biểu quyết và có giá trị của luật pháp quốc tế nhưng luôn luôn bị chà đạp một cách thô bạo. Trước công pháp quốc tế chính quyền Việt Nam là một can phạm chỉ không bị xét xử chỉ vì thế giới còn vướng mắc nhiều vấn đề khẩn cấp hơn. Nhưng cũng không thể quí trọng, nhất là khi nó lại còn trâng tráo tuyên bố theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lênin mà nhân loại văn minh đã nhận diện và kinh tởm như một sự nhảm nhí và một tội ác.
Sau cùng là phẩm chất của những người lãnh đạo. Họ đều giống nhau ở chỗ rất thiếu văn hóa. Họ không do nhân dân Việt Nam chọn lựa vì tài đức mà chỉ là sản phẩm của một bộ máy sàng lọc trong đó những người có kiến thức và nhân phẩm đều đã bị loại bỏ. Họ không có tầm vóc của những người đáng kính, chưa nói những nhà lãnh đạo.
Chúng ta cũng chỉ xứng đáng với một cái nhìn khác nếu dám muốn và phấn đấu để có một chế độ khác, một chính quyền khác và những người lãnh đạo khác.
Ban Biên Tập Tổ Quốc

HRW: Việt Nam: Cần hủy bỏ cáo buộc vì mục đích chính trị đối với người chỉ trích


Thông cáo phát hành ngay
Việt Nam: Cần hủy bỏ cáo buộc vì mục đích chính trị đối với người chỉ trích

Cớ trốn thuế nhằm bịt miệng Lê Quốc Quân

(New York, ngày 30 tháng Chín năm 2013) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam cần hủy bỏ các cáo buộc vì mục đích chính trị đối với Lê Quốc Quân, một trong những nhà bảo vệ nhân quyền nổi tiếng và có uy tín nhất ở Việt Nam. Các nhà tài trợ cần bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng về đợt đàn áp những người bảo vệ nhân quyền và blogger đang tiếp diễn của chính quyền Hà Nội, và công khai kêu gọi phóng thích vô điều kiện Lê Quốc Quân và những người chỉ trích ôn hòa khác.

Phiên xử Lê Quốc Quân ban đầu được dự kiến diễn ra vào ngày mồng 9 tháng Bảy năm 2013, nhưng bị hoãn lại vào phút chót, và được xếp lịch lại vào ngày mồng 2 tháng Mười, tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội. Tội danh “trốn thuế” có mức án tối đa bảy năm tù và một khoản tiền phạt khá nặng.

“Cái tội hiển nhiên của Lê Quốc Quân là do ông là một người phê phán chính quyền hiệu quả và nổi tiếng,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Đến bao giờ thì chính quyền Việt Nam mới chấp nhận rằng tự do ngôn luận bao gồm cả quyền tự do ôn hòa bày tỏ chính kiến khác với đảng cầm quyền?”

Trước đây, chính quyền Việt Nam đã vận dụng tội danh trốn thuế để cầm tù blogger nổi tiếng Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) vào năm 2008. Tại phiên tòa, Điếu Cày bị kết án 30 tháng tù giam. Vào ngày lẽ ra phải được thả, chính quyền tiếp tục giam giữ ông với cáo buộc mới, “tuyên truyền,” và lại kết án ông thêm 12 năm tù giam nữa.

Lê Quốc Quân, 41 tuổi, là một luật sư và người viết blog cổ vũ nhân quyền và dân chủ. Ông bị bắt ngày 27 tháng Mười Hai năm 2012, chín ngày sau khi BBC đăng tải bài viết của ông nhan đề “Hiến pháp hay hợp đồng điện nước?” Bài viết bình luận về những thảo luận liên quan đến việc sửa đổi hiến pháp, phê phán việc bảo lưu điều 4 vốn đang tạo cho Đảng Cộng sản vị thế tối cao trong đời sống quốc gia.

Trước khi bị bắt lần này, Lê Quốc Quân viết 1 số bài trên blog nhiều độc giả của mình về nhân quyền, quyền công dân, đa nguyên chính trị, tự do tôn giáo và các vấn đề khác. Blog của ông ghi chép lại những vi phạm nhân quyền đối với bản thân ông và gia đình, và các bạn cùng hoạt động của mình. Ông cũng từng tham gia hàng loạt cuộc biểu tình ôn hòa ở Hà Nội chống Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại một số khu vực ở Biển Đông, vốn được Việt Nam coi là nằm trong lãnh hải của mình.

Giữa hai năm 2006-2007, Lê Quốc Quân ở Washington D.C hơn 5 tháng rưỡi với tư cách một người được cấp học bổng của Quỹ Quốc gia Hỗ trợ Dân chủ do Quốc hội Hoa Kỳ tài trợ. Ông sử dụng học bổng uy tín này để nghiên cứu về xã hội công dân, trong mối liên hệ với các vấn đề ông quan tâm về con đường phát triển kinh tế ở Việt Nam sao cho những người nghèo được hưởng lợi. Lê Quốc Quân bị bắt vào tháng Ba năm 2007, khi ông mới về Việt Nam được vài ngày sau khi hoàn tất chương trình học, với cáo buộc chống phá nhà nước theo điều luật 79 rất mơ hồ của bộ luật hình sự Việt Nam. Sau khi có nhiều tiếng nói phản đối từ trong và ngoài nước, chính quyền thả ông vào tháng Sáu năm 2007, nhưng suốt từ đó ông luôn bị công an theo dõi chặt cho đến khi bị bắt lại vào tháng Mười Hai năm 2012.

Năm 2011, Lê Quốc Quân định ứng cử vào Quốc hội Việt Nam nhưng bị nhà cầm quyền ngăn chặn. Cũng trong năm đó, ông bị tạm giữ vì “gây rối trật tự công cộng” khi cố gắng đến quan sát phiên toà xử nhà bất đồng chính kiến lỗi lạc Cù Huy Hà Vũ. Vào ngày 19 tháng Tám năm 2012, ông bị hai người đàn ông hành hung khiến phải vào viện trị thương. Ông nhận ra một trong hai người đó đã từng theo ông hàng tháng trời. Vụ việc này chưa được công an điều tra có hiệu quả.

“Chính quyền Việt Nam tỏ ra quá lo lắng về vị trí của mình trong xã hội đến mức phản ứng bằng việc tìm cách bịt miệng và bỏ tù hết nhà bất đồng chính kiến này đến nhà bất đồng chính kiến khác,” ông Adams nói. “Chính quyền Hà Nội cần nhận ra rằng những người phê bình chính quyền phản ánh luồng ý kiến ngày càng gia tăng và rộng khắp trong nước rằng đã đến lúc Việt Nam phải có một nền dân chủ đa đảng thực sự, chấp thuận tự do ngôn luận. Chiến thuật đàn áp mạnh tay của chính quyền sẽ không dập tắt nổi những tiếng nói đó.”

Để xem thêm các báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Việt Nam, xin truy cập:

http://www.hrw.org/languages?lang=vi

Muốn có thêm thông tin, xin liên hệ:

Ở London, Brad Adams (tiếng Anh): +44-7908-728-333 (di động); hoặc adamsb@hrw.org

Ở Bangkok, Phil Robertson (tiếng Anh, tiếng Thái): +66-85-060-8406 (di động); hoặc robertp@hrw.org; Twitter @Reaproy

Ở Washington, DC, John Sifton (tiếng Anh): +1-917-838-9736 (di động); hoặc siftonj@hrw.org; Twitter @johnsifton
 

Song Chi - Ngành Y nhà Sản thời mạt (tt)


Nguyên nhân vì sao?
Không phải đến bây giờ ngành Y tế VN mới xảy ra những vụ bê bối. Nhưng với mức độ dày đặc, liên tiếp hết vụ này đến vụ khác, xảy ra ở nơi này nơi kia, vụ việc sau tồi tệ hơn vụ trước…khiến người dân không khỏi bàng hoàng tự hỏi vì sao ngành Y lại đổ đốn đến vậy.
Cái gì cũng có quá trình cả. Mọi lĩnh vực ở VN bây giờ, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo đức xã hội, y tế, giáo dục…đều mang những “căn bệnh” nghiêm trọng trong cơ chế tồn tại của nó, chẳng khác nào ung thư. Nếu khi gốc rễ của “căn bệnh” không được xử lý, chữa trị đến nơi đến chốn mà chỉ “bôi thuốc” qua loa ngoài da, thì chỉ càng ngày càng trầm trọng, bục phát khắp nơi, đủ kiểu. Ngành Y cũng vậy.
Có những nguyên nhân dễ nhìn thấy như sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ. Ngành Y ở nước nào cũng là một ngành đòi hỏi cao về tay nghề, “đầu vào” thường được tuyển chọn gắt gao hơn một số ngành khác, thời gian đào tạo lâu dài. Bác sĩ chuyên khoa phải vừa học vừa thực tập cả chục năm mới được công nhận bằng cấp. Nhưng ở VN trong thời gian qua, vấn đề đào tạo của ngành Y lại có những lổ hổng “chết người”.
Báo chí đưa tin “Bộ Y tế kiện Bộ giáo dục” (báo Người Lao Động) vì cho rằng chất lượng nhân lực ngành kém là do việc mở ngành không có sự giám sát, tham mưu về mặt chuyên môn của Bộ Y tế và các chuyên gia y tế. “Một bất cập khác dưới góc nhìn của Bộ Y tế là chuyện các trường ngoài công lập cũng tham gia thị phần đào tạo này.
Mới đây, Hội đồng Hiệu trưởng các trường ĐH Y dược Việt Nam đã họp và phản ánh việc nhiều trường ngoài công lập có chỉ tiêu tuyển sinh số lượng khá lớn trong khi năng lực đào tạo và cơ sở thực hành hạn chế. Điều này dẫn đến điểm tuyển sinh vào các trường ngoài công lập rất thấp, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.”
Ngay chính Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận cũng “thừa nhận tại hội nghị đào tạo nhân lực y tế đồng bằng sông Cửu Long, các địa phương có ý chê trách Bộ GD-ĐT và Bộ Y tế về việc thẩm định các trường đào tạo ngành Y.” Rằng trên thực tế có những cơ sở đào tạo nhân lực y tế không đủ thiết bị thí nghiệm, thiết bị thực hành, chất lượng đào tạo rất kém v.v…
Chuyện các trường đại học, cao đẳng được cấp giấy phép mở tràn lan, chủ yếu để kinh doanh là chuyện không mới, nhưng có những ngành như Sư Phạm hay Y tế mà cũng cho “đào tạo đại trà” thì hậu quả như thế nào nay đã rõ. Trong việc này trách nhiệm thuộc về cả hai Bộ Y tế và Bộ Giáo dục phải phối hợp với nhau để giám sát chất lượng đào tạo nhân lực ngành Y.
Không những chất lượng đào tạo kém, nhiều bác sĩ, quan chức trong ngành Y còn xải bằng giả, chạy chức chạy bằng để kiếm “ghế” nên chuyên môn nghiệp vụ lắm lúc chưa đạt đến mức của bằng cấp, địa vị mà họ có. Ví dụ như vụ một chuyên viên thanh tra thuộc Phòng thanh tra Sở Y tế tỉnh Bình Phước sử dụng bằng tốt nghiệp THPT giả (“Thanh tra Sở Y tế…xài bằng giả”, VietnamNet), “Quảng Bình: Hàng chục nhân viên y tế sử dụng bằng giả” (Dân trí)…
Đỉnh cao là vụ ông Cựu Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang khai gian học vị tiến sĩ tại trường Đại học Uppsala (Thụy Điển) nhưng thật ra “trường đại học Uppsala Thụy Điển đã cấp chứng chỉ về nghiên cứu Khoa học Dược phẩm tự nhiên cho ông Cao Minh Quang, chứ không phải văn bằng” (“Thứ trưởng Bộ Y tế khai gian học vị tiến sĩ”, VNExpress). Theo quy định của trường Uppsala, chứng chỉ nói trên cần phải đạt được để tham dự khóa học tiến sĩ.
Không những thế, nhân vật này còn bị phanh phui nhiều vụ bê bối khác. Trên VTC News có cả loạt bài về “Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang và những tai tiếng”. Người ta tự hỏi không biết trong số các ông bà quan chức của ngành Y hiện nay có những người nào xài bằng giả, khai gian học vị mà chưa bị lộ chăng?
Như đã chỉ ra ở trên, những sai sót trong ngành Y ở VN không chỉ do yếu kém về chuyên môn mà còn do cung cách phục vụ, lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, nói chung là y đức của nhiều y bác sĩ quá kém và ngày càng tụt dốc.
Ai đã từng bước chân vào các Trung tâm Y tế, bệnh viện công lớn nhỏ ở VN thì đều có lần trải qua kinh nghiệm không lấy gì làm vui vẻ này. Trong khi ở nhiều quốc gia dân chủ tiến bộ, người bệnh khi vào bệnh viện điều trị vừa được hoàn toàn miễn phí mà còn được chăm sóc phục vụ đến nơi đến chốn, đúng nghĩa “bệnh nhân là thượng đế”, từ nhân viên, y tá, điều dưỡng, bác sĩ…lúc nào cũng nụ cười trên môi, nói năng nhẹ nhàng, ân cần chu đáo…
Còn ở VN, bệnh nhân luôn có cảm giác ngược lại là mình đang cầu cạnh, nhờ vả các y bác sĩ, nhẹ nhất thì cũng là nét mặt lạnh lùng, hỏi không muốn trả lời, hoặc tệ hơn còn quát nạt, mắng chửi bệnh nhân. Và như “luật bất thành văn”, người bệnh muốn được cư xử, chăm sóc tốt, điểu trị nhanh chóng thì phải đưa “phong bì”, gặp đâu dúi đó, từ trên xuống dưới, có tiền là thái độ cung cách phục vụ sẽ khác. Nạn “phong bì” đã tồn tại từ nhiểu năm nay trong ngành, như một căn bệnh mãn tính.
Tuy nhiên, nếu chỉ có thế cũng đã là may, rằng chỉ cần đút lót tiền thì sẽ được chữa trị tốt. Đằng này lòng tham của nhiều cán bộ nhân viên y tế đã không còn giới hạn, nên mới có những vụ động trời như “nhân bản” phiếu xét nghiệm hay tráo thủy tinh thể, chỉ vì tiền, bất chấp hậu quả xảy ra cho bệnh nhân.
Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho các sai phạm trong ngành Y càng ngày càng lan rộng, với mức độ kinh khủng hơn là do xử lý vẫn còn quá nhẹ. Khi xảy ra chết người, cách đối phó thường gặp ở các bệnh viện là tìm cách bao che cho nhân viên, loanh quanh che giấu nguyên nhân thật sự dẫn đến tử vong, khi không thể che dấu được nữa thì xử lý hành chính, kiểm điểm, kỷ luật, ngưng công tác một thời gian hoặc cùng lắm là buộc thôi việc.
Nhưng đó là với y bác sĩ, còn Phó Giám Đốc, Giám đốc BV, quan chức cấp cao trong ngành Y bị xử lý nặng rất hiếm. Có khi, chỉ là chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, ngang bằng hoặc cao hơn, như trường hợp bà Giám đốc BV Răng hàm mặt trung ương TP.HCM Lâm Hoài Phương bị thôi chức vì có rất nhiều sai phạm như lộng quyền, tự lợi, gian dối nhưng lại được chuyển qua… giảng dạy ở trường Đại học Y Dược TP.HCM!
Trong khi có những vụ như “nhân bản” phiếu xét nghiệm hay tráo thủy tinh thể nói trên rõ ràng là tội ác, phải xử lý hình sự chứ không còn là sai sót chuyên môn, kiểm điểm, xử lý hành chính nữa. Nếu áp dụng luật pháp mạnh tay, cứ sai sót nghiêm trọng là phải cách chức, bỏ tù thì có lẽ những kẻ tham lam, vô lương tâm cũng chùn tay bớt.
Chính vì pháp luật chưa xử lý nghiêm nên người dân tức giận, gần đây cứ lâu lâu chúng ta lại đọc thấy thông tin ở một trung tâm y tế hay bệnh viện nào đó có người bệnh bị chết oan ức do sai sót, tắc trách của bệnh viện hoặc không rõ lý do, khiến người nhà bức xúc bao vây đập phá bệnh viện, đuổi đánh cả y bác sĩ…Pháp luật không xử thì dân tự xử, thế thôi.
Còn những chuyện như tự nguyện từ chức thì càng…không bao giờ. Ở VN trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, dường như khái niệm “văn hóa từ chức”, sự liêm sỉ hay lòng tự trọng đều là những món xa xỉ, quý hiếm. Ngành Y cũng vậy.
Đứng đầu ngành hiện nay là bà Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, một trong các quan chức đạt số phiếu tín nhiệm cao thấp nhất, tại kỳ lấy phiếu tín nhiệm 47 chức danh của Quốc hội vào tháng Sáu, 2013 vừa qua. Đồng thời cũng là một trong các quan chức mà người dân mất lòng tin, thiếu thiện cảm nhất, cùng với “Ông Giao thông” Đinh La Thăng hay “Ông Giáo dục” Phạm Hữu Luận.
Thứ nhất vì từ khi bà Tiến tại vị cho đến nay, những sai phạm trong ngành cứ càng ngày càng nhiều, càng trầm trọng. Bản thân bà Tiến thì lại có rất nhiều câu phát ngôn hoặc việc làm khiến dư luận sửng sốt vì rất …bản năng, theo kiểu nói mà không nghĩ, hoặc rất vô cảm, thiếu trách nhiệm. Nếu muốn liệt kê cho hết những câu nói, việc làm như vậy của bà Bộ trưởng Y tế, e rằng bài viết này sẽ dài…gấp đôi, gấp ba!
Sự bất bình của người dân đối với bà Bộ trưởng Y tế càng lúc càng dâng cao từ cách xử lý của bà qua hàng loạt vụ việc. Từ vụ dịch “tay chân miệng” tràn lan tại 63 địa phương trên cả nước vào năm 2011, trong đó, 20 tỉnh, thành có ca bệnh tử vong với con số 119 người, thì tại buổi gặp mặt giữa Bộ Y tế và báo chí, bà Bộ trưởng vẫn tuyên bố “chưa đến mức phải công bố dịch”; cho tới hàng loạt vụ sản phụ tử vong rồi trẻ em tử vong vì tiêm vaccine nhưng bà Bộ trưởng với trách nhiệm của người đứng đầu ngành không hề có một lời chia sẻ với gia đình các bệnh nhân, hoặc ngỏ lời xin lỗi…
Nhất là khi 3 trẻ sơ sinh tử vong sau khi tiêm vaccine viêm gan B ở Bệnh viện Đa khoa huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị hôm 20 tháng Bảy, thì ngày 21 tháng Bảy bà Bộ trưởng bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến lại dẫn đầu đoàn công tác đi dâng hương, dâng hoa trong lễ khởi công xây dựng Nhà tháp chuông Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Gio Linh, thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, cả hai đều thuộc tỉnh Quảng Trị mà không hề ghé thăm gia đình 3 em bé vừa mới tử vong để an ủi họ một lời.
Và khi báo chí hỏi thì bà bảo “Lịch trình, chuyến bay... đã được bố trí kín lịch. Do vậy, bà không thể bố trí thời gian đi thăm các gia đình có cháu bé bị tử vong.
“Bộ Y tế cũng đã có đoàn công tác tại Quảng Trị thăm hỏi, chứ tôi không thể trực tiếp đi”, bà Tiến nói.” (“Bộ trưởng Y tế lý giải việc đến Quảng Trị nhưng không thăm 3 trẻ tử vong”, Tiền Phong).
Người dân phẫn nộ, đã có những bài viết, kiến nghị yêu cầu bà Tiến từ chức trên các blog, báo “lề dân”, thậm chí trên facebook đã lập ra hẳn một trang blog “Bộ trưởng Bộ Y tế hãy từ chức” với mục tiêu 10.000 người ký tên đề nghị bà Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức, hiện tại, ngày 30 tháng Chín, 2013, đã có 9.452 người tham gia.
Nhưng tất nhiên bà Tiến sẽ không từ chức. Ở nước này nếu chưa bị cách chức thì người ta vẫn cứ tiếp tục tại vị, làm gì được nhau nào?
Hệ quả của một chế độ không có dân chủ, người dân không được tự do bầu chọn người xứng đáng vào các cương vị từ thấp đến cao trong bộ máy chính quyền cũng không có quyền “đuổi” những kẻ bất tài, kém đức đi là vậy.
Nguyên nhân sâu xa hơn, xã hội VN trong mô hình thể chế chính trị độc tài dưới sự lãnh đạo của đảng và nhà nước cộng sản VN, luôn tự hào lấy tư tưởng Mác Lênin làm học thuyết chủ đạo, là một xã hội không có tình người, không coi trọng, thậm chí khinh rẻ con người. Sinh mạng con người quá rẻ, bao nhiêu cái chết oan ức do đủ thứ nguyên nhân trời ơi gây ra, chẳng riêng gì trong ngành Y.
Cái xấu cái ác sự không tử tế, bất công tràn lan, diễn ra hàng ngày khiến con người lâu dần chai sạn, tình người ngày càng hiếm hoi. Đó mới là lý do chính vì sao con người đối xử với nhau nói chung và các cán bộ nhân viên y bác sĩ đối xử với bệnh nhân nói riêng, như vậy.
Trong bất cứ quốc gia nào thì giáo dục và y tế cũng rất quan trọng, gắn bó với đời sống người dân. Người dân trong suốt cuộc đời mình rồi cuộc đời của con cái, không thể nào không dính dáng đến trường lớp, bệnh viện, đi học, đi khám bệnh…Có thể không tin vào công an, vào chính quyền cũng chả sao, nhưng nếu đến thầy cô giáo hay bác sĩ mà cũng không thể đặt niềm tin vào nữa thì quả là bi kịch!
Song Chi
(Blog Song Chi)

Làm ít, hưởng lương cao: Vào doanh nghiệp nhà nước!

Số liệu "nổi" cho thấy, nhân viên làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước đang được hưởng mức lương cao nhất so với các khu vực khác trong khi số lượng giờ làm việc lại thấp nhất.
Số giờ làm việc và mức lương được hưởng luôn là vấn đề được người lao động chú ý nhất.
Số giờ làm việc và mức lương được hưởng luôn là vấn đề được người lao động chú ý nhất.
Góp tham luận tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Thu 2013 diễn ra tại Tp.Huế vừa qua, hai học giả Nguyễn Thắng và Phạm Minh Thái đã đưa ra những số liệu đáng chú ý về tình hình việc làm và thu nhập 6 tháng đầu năm.
Với những dữ liệu thu thập được, các tác giả cho thấy, theo loại hình sở hữu, thời gian lao động bình quân 6 tháng đầu năm 2013 có xu hướng giảm so với cùng kỳ ở khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN). 
Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp tư nhân trong nước lại có sự tăng nhẹ về số giờ làm việc với mức tăng tương ứng là 0,61 giờ/ tuần và 0,12 giờ/tuần. Đáng chú ý là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng chính là hai loại hình sở hữu có số giờ lao động lớn nhất với mức trung bình lên tới xấp xỉ 50 giờ/tuần  trong 6 tháng đầu năm 2012. 
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, số giờ làm việc trung bình một tuần của người lao động cũng có xu hướng tăng nhẹ ở các ngành có số giờ làm việc cao như dệt may, da giày với các con số tương ứng là 49,4 giờ/tuần và 49,3 giờ/tuần trong 6 tháng đầu năm 2012.
Tuy nhiên, số liệu Điều tra Lao động và Việc làm từ cơ quan thống kê không cung cấp thông tin về thu nhập của những lao động tự làm, lao động gia đình và những lao động không thuộc hình thức làm công ăn lương. Nói một cách khác số liệu chỉ thu thập thông tin về thu nhập của những lao động làm công ăn lương. 
Trong khi đó nhóm lao động làm công ăn lương hiện nay vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khoảng 1/3 tổng số người làm việc và thậm chí tỷ lệ này còn giảm nhẹ từ 35,4% trong 6 tháng đầu năm 2011 xuống còn 34,6% trong 6 tháng đầu năm 2013. 
Do vậy, theo đánh giá của các tác giả, thu nhập của khoảng 2/3 tổng số người làm việc trong nền  kinh tế hiện nay đang ở trong trạng thái nằm trong “hộp đen” cần phải được tìm hiểu để có thể đánh giá được chất lượng của việc làm trên thị trường lao động.
Dù vậy, những số liệu ban đầu cũng đã hé lộ thông tin: lao động làm công ăn lương trong các DNNN có mức thu nhập cao nhất, và tốc độ tăng thu nhập là 7,6% trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 và 24,5% so với cùng kỳ năm 2011, với mức thu nhập trung bình là 6,2 triệu đồng/ tháng. 
Theo số liệu nổi về thu nhập thì người lao động làm việc tại DNNN đang có mức lương cao nhất.
Theo số liệu "nổi" về thu nhập thì người lao động làm việc tại DNNN đang có mức lương cao nhất.
Lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập cao thứ hai sau các DNNN, với tốc độ tăng thu nhập là 7,2%. Cả hai mức tăng này đều xấp xỉ tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI). 
Lao động làm công ăn lương trong hộ kinh doanh tập thể phi nông nghiệp (phi chính thức hoặc chính thức) có mức thu nhập thấp nhất (trung bình khoảng 3 triệu đồng/tháng) và thấp hơn đáng kể so với các nhóm khác. Mức tăng thu nhập của nhóm này trong 6 tháng đầu năm 2013 là 13,5%, cao hơn hơn so với mức tăng trung bình của lao động làm công ăn lương.
Nếu xem xét dưới góc độ các ngành chính của nền kinh tế, phân tích số liệu cho thấy lao động làm công ăn lương trong nông nghiệp có mức thu nhập thấp nhất, với  tốc độ tăng thu nhập của ngành này cũng rất thấp trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012, đạt 3,6%, tức là thấp hơn đáng kể so với tốc độ tăng giá tiêu dùng CPI. 
Tiếp theo là lao động làm công ăn lương trong ngành xây dựng với mức thu nhập trung bình là 3,6 triệu đồng/tháng, tốc độ tăng thu nhập là 7,8% trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012. 
Nhân viên trong ngành khai khoảng nhạn mức lương cao nhất so với các ngành khác.
Nhân viên trong ngành khai khoáng nhạn mức lương cao nhất so với các ngành khác.
Thu nhập cao nhất thuộc về lao động làm công ăn lương trong ngành khai khoáng với mức thu nhập trung bình là 5,9 triệu đồng/tháng, tuy nhiên đây lại là nhóm có tốc độ tăng thu nhập thấp nhất, chỉ tăng có 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012, và do vậy thấp hơn đáng kể so với tốc độ tăng giá tiêu dùng CPI.

Thanh niên không làm việc cũng không học tập gia tăng

Cũng theo nghiên cứu của TS Nguyễn Thắng và Phạm Minh Thái, một điểm rất đáng chú ý đó là tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ở khu vực đô thị của Việt Nam theo số liệu 6 tháng đầu năm trong giai đoạn 2011 đến 2013 là tương đối cao (tỷ lệ này cao xấp xỉ với các nước ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương) và tiếp tục xu huớng tăng.

Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2013 tỷ lệ thất nghiệp thanh niên ở thành thị đã lên tới 10,97% (cao hơn hẳn so với cùng kỳ các năm 2011 và 2012 với các tỷ lệ tương ứng là 8,83% và 8,91%).

Xu hướng thất nghiệp thanh niên gia tăng lại cho thấy sự khó khăn của thanh niên trên thị trường lao động khi được xem xét cùng với một chỉ số khác là tỷ lệ thanh niên không có hoạt động (thanh niên không làm việc cũng như không tham gia học tập hay đào tạo): tỷ lệ này đã tăng lên từ 8,43%  trong 6 tháng đầu năm 2011 lên 10,16% trong 6 tháng đầu năm 2012 và 10,53% trong 6 tháng đầu năm 2013.

Tỷ lệ thanh niên không hoạt động tăng lên là một dấu hiệu cảnh báo sự khó khăn trong thị trường lao động trong tương lai, vì không đi làm và không đi học sẽ làm cho trình độ và kỹ năng lao động của thanh niên vốn khó được cải thiện và thậm chí bị mai một đi nếu tình trạng đó kéo dài.

Nói cách khác, nhiều khả năng là do xin việc khó khăn nên nhóm thanh niên có kỹ năng thấp nhất đã rời khỏi lực lượng lao động vì ít hy vọng về sự thành công trong nỗ lực tìm việc của họ và như vậy tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm thanh niên thuộc lực lượng lao động giảm đi là nhờ giảm mẫu số (số thanh niên trong lực lượng lao động) chứ không phải nhờ tăng tử số (số thanh niên trong lực lượng lao động có được việc làm).

Các tác giả cho biết, xu hướng tăng lên của thất nghiệp thanh niên thành thị đi cùng với xu hướng tăng lên của tỷ lệ thanh niên không hoạt động là một dấu hiệu đáng quan ngại đối với không chỉ thị trường lao động Việt Nam nói riêng mà còn tạo ra một áp lực đáng kể đến những vấn đề xã hội. Do đó, hai chỉ tiêu này cần phải được tiếp tục theo dõi chặt chẽ để từ đó có thể có những giải pháp hạn chế tình trạng đó nhằm phòng ngừa những vấn đề xã hội có thể phát sinh.
Bích Diệp
(Dân trí)

Vụ chôn hóa chất: Đủ căn cứ khởi tố hình sự

Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội Lê Thị Nga, vụ chôn hóa chất độc hại ở Công ty Nicotex Thanh Thái đã có đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Bà Nga phân tích: Việc khởi tố cần tiến hành nhanh chóng, kịp thời theo đúng quy định của pháp luật hình sự để ngăn chặn những hệ quả khó xử lý cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Đây là một vụ vi phạm pháp luật về môi trường ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng, là tiếng chuông cảnh báo cho thực trạng môi trường và công tác bảo vệ môi trường trong cả nước. Bất kỳ ai theo dõi vụ việc đều có chung tâm trạng phẫn nộ đối với việc làm của công ty này. Hơn thế, người dân còn lo lắng, liệu còn bao nhiêu vụ tương tự đang xảy ra ở nhiều nơi nhưng vẫn “trong bóng tối”?
Độc hại vượt ngưỡng gần... 10 ngàn lần

Những hành vi của Công ty Thanh Thái đã vi phạm quy định nào của Luật bảo vệ môi trường thưa bà?
- Luật BVMT quy định rất cụ thể về việc bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tại chương V, đối với việc xử lý chất thải nguy hại như thuốc trừ sâu quá hạn, chất thải của sản xuất thuốc trừ sâu thì phải tuân theo những quy định hết sức nghiêm ngặt tại chương VIII.
Như thông tin mà cơ quan chức năng công bố, đối chiếu với các quy định của luật thì Nicotex Thanh Thái đã vi phạm Luật BVMT, tập trung nhất là hành vi chôn hóa chất độc hại và thải mùi hôi thối, khó chịu của thuốc bảo vệ thực vật ra môi trường vi phạm nghiêm trọng các quy định về xử lý chất thải nguy hại.
Về mức độ hậu quả: Các vi phạm này ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng, được chứng minh bằng kết quả kiểm nghiệm mẫu vật đất và nước của Trung tâm kiểm định thuốc Bảo vệ thực vật phía Bắc – Cục Bảo vệ thực vật. Cụ thể: Chất Cypermethrin, là thuốc trừ sâu độc nhóm II, kết quả kiểm nghiệm cho thấy đã vượt 63,2 lần cho phép; Chất Isoprothiolane là thuốc trừ bệnh độc nhóm III, kết quả kiểm nghiệm vượt 37,8 lần; Fenobucard là thuốc trừ sâu độc nhóm II vượt 60,6 lần;
Đặc biệt, mẫu CT1 và CT3 đều phát hiện có 01/02 chỉ tiêu là Cypermethin, là thuốc trừ sâu độc nhóm II thì CT1 vượt ngưỡng cho phép 9276 lần, CT2 vượt 7710 lần.
Như vậy là các loại hóa chất độc vượt ngưỡng an toàn môi trường rất nhiều lần, đặc biệt có chất độc vượt ngưỡng gần mười ngàn lần. Trong khi đó chiếu theo khoản 3 điều 92 Luật bảo vệ môi trường thì : khi hàm lượng của một hoặc nhiều hóa chất… vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần là đã đủ tiêu chí để khẳng định môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.
DN gây ra vụ chôn hóa chất động trời này hiện mới chỉ nhận mức phạt xử lý hành chính bằng tiền. Vậy theo bà, sai phạm ở đây đã đủ căn cứ để khởi tố hình sự chưa?nếu chiếu theo bộ Luật hình sự thì sẽ xử lý như thế nào thưa bà?
- Theo luật pháp hiện hành, việc xử phạt hành chính pháp nhân vi phạm không loại trừ và thay thế cho trách nhiệm hình sự của cá nhân của pháp nhân đó nếu hành vi đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Bộ Luật hình sự tại quy định tại điều 182 Tội: Gây ô nhiễm môi trường.
" 1. Người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường… vượt quá quy chuẩn quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm: a, Có tổ chức. b, Làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng...".
Hậu quả của hành vi của Công ty Thanh Thái thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng ở khoản 2.
Về cách thức thực hiện tội phạm thì đây là một vụ phạm tội có tổ chức, lỗi cố ý , có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Phân tích kỹ những dấu hiệu của vụ này thì việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm (người tổ chức, người thực hành, người giúp sức...) đối với giám đốc, các phó giám đốc qua các thời kỳ, những người trực tiếp thực hiện cũng không phải chuyện quá khó khăn với cơ quan tố tụng. Sai phạm này diễn ra trong thời gian dài, hết đời giám đốc này sang đời giám đốc khác.
Hơn ai hết, lãnh đạo và những người công tác trong công ty này họ có hiểu biết và nhận thức quá đầy đủ về độ độc hại của thuốc trừ sâu nếu thải ra môi trường theo cách nguy hiểm như vậy, nhưng vì lợi nhuận họ vẫn bất chấp pháp luật. Để thực hiện được việc chôn chất thải nguy hại trong một thời gian dài như vậy, chắc chắn phải được tổ chức rất bài bản, có chủ trương, có mục đích, động cơ và cách thức, phân công thực hiện chặt chẽ. Như vậy, vụ việc này dấu hiệu có đủ cả hai tình tiết quy định ở khoản 2 điều 182.
Đến thời điểm này, với những thông tin mà cơ quan chức năng đã công bố, đã có đủ căn cứ để khởi tố, theo tôi cần kịp thời khởi tố vụ án để điều tra và trên cơ sở đó khởi tố bị can. Khi đã có đủ dấu hiệu, căn cứ như vậy mà chần chừ thì sẽ không loại trừ được khả năng người bị tình nghi phạm tội sẽ bỏ trốn, tẩu tán tang vật, tài sản, xóa dấu vết, thay đổi hồ sơ, sổ sách gây khó khăn cho công tác điều tra và xử lý về sau. Việc khởi tố kịp thời cũng giải tỏa được những lo ngại, băn khoăn của cử tri và thể hiện thái độ kiên quyết của cơ quan tố tụng, không để "chìm xuồng" vụ sai phạm nghiêm trọng mà dư luận đầy bức xúc này.
Đã từng đoạt loại A về chất lượng môi trường

Còn trách nhiệm của các cơ quan quản lý, cơ quan thanh tra về lĩnh vực này thì sao thưa bà?
- Về phía cơ quan quản lý, ở đây có trách nhiệm của Ủy ban nhân dân, nhất là cấp huyện sở tại, của cơ quan, cán bộ chuyên trách.

chôn hóa chất, Nicotex Thanh Thái, Quốc hội
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga: Cần kịp thời xử lý vụ việc. Ảnh: Châu Vũ

Phải quy rõ trách nhiệm trong viêc tại sao từ năm 2008 đến nay có tới 10 đoàn đến DN này để làm việc mà không phát hiện, hoặc phát hiện nhưng chưa đủ mức độ sai phạm, liên tục xử lý hành chính mà không đề xuất hình thức xử lý nặng hơn, để sai phạm nghiêm trọng kéo dài suốt nhiều năm.
Có những căn cứ cho thấy một số cán bộ thanh tra, kiểm tra cả trung ương và địa phương chưa làm hết trách nhiệm, thậm chí còn có dấu hiệu bao che: Chẳng hạn, năm 2010 Cục bảo vệ thực vật đã về thanh tra. Nhưng rất khó hiểu là "kết thúc thanh tra không có tài liệu phản ánh về kết quả xử lý". Tại sao lại có chuyện lạ này? Không lẽ mới chỉ chưa đầy ba năm mà tài liệu đã bị hủy?Sở TN&MT Thanh Hóa cũng có tới 4 đợt kiểm tra trong 4 năm nhưng kết quả cũng lại là xử lý hành chính, nhắc nhở, chấn chỉnh vi phạm 2 lần,một lần phạt 12 triệu đồng, tại sao liên tục sai phạm mà không đề nghị tạm đình chỉ hay đình chỉ hoạt động?
Đáng chú ý, ngày 19/4/2012, Chi cục Bảo vệ thực vật tiến hành kiểm tra, đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng cơ sở, kết luận Công ty thuộc cơ sở loại A, với thực trạng sai phạm như vậy, phải chăng, kết luận này đã "đóng dấu chất lượng", hợp pháp hóa cho vi phạm? Những cán bộ công chức này là những người có quyền, và quyền hạn đó phải đi đôi với trách nhiệm nên không thể được coi là vô can trong vụ việc này.
Điều 127 Luật bảo vệ môi trường đã quy định rõ hình thức chế tài trong các trường hợp này là tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, xử lý hình sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
Tại sao chúng ta có đầy đủ lực lượng chức năng , mà cuối cùng khi có sự việc xảy ra thì chính người dân lại phải cùng nhau viết đơn khiếu nại, thay phiên nhau bảo vệ hiện trường, ngăn chặn việc chuyện tẩu tán tang chứng, vật chứng?
- Đúng là hình ảnh người dân tự phát, thay phiên canh gác hiện trường vụ sai phạm khiến chúng ta phải tự hỏi là tại sao người dân lại phải tự đứng ra bảo vệ mình như vậy, nhất là trong môi trường rất độc hại, nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng bản thân?
Đó là hệ quả của việc một số cán bộ trực tiếp thực thi công vụ đã có những hành vi khiến cho người dân mất đi niềm tin về việc: vụ việc sẽ được xử lý khách quan, nghiêm minh. Có lẽ họ mất niềm tin trước những kết quả xử lý ngay từ những khâu đầu tiên: chậm xử lý đơn thư của dân, thanh tra, kiểm tra không nghiêm, có dấu hiệu bao che, có những dấu hiệu thiếu trách nhiệm của công an xã...
Tất cả những việc làm của dân như canh gác hiện trường, tìm kiếm hố chôn hóa chất, ngăn chặn xe chở hóa chất, tìm kiếm luật sư….đều thể hiện sự e ngại, rằng biết đâu vụ việc lại sẽ bị chìm xuồng. Vừa rồi, đoàn ĐBQH Thanh Hóa đã đi tiếp xúc cử tri, lắng nghe thông tin. Tuy nhiên, với kết quả hiện nay, tôi cho rằng lãnh đạo, chính quyền, cơ quan chức năng cấp tỉnh, đoàn ĐBQH đã khá tích cực và khẩn trương xử lý. Mong cơ quan chức năng giải quyết sớm.
Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh vừa đạt mục đích trừng phạt, bồi thường đích đáng cho thiệt hại của người dân, nhưng vừa có tác dụng cảnh báo, răn đe những trường hợp chưa chưa bị phát giác.
Lê Nhung
(VNN) 

VietJet lấy đâu 9 tỷ USD mua 92 máy bay?

http://img.v3.news.zdn.vn/w480/Uploaded/pgi_xvauqbnau/2013_09_30/n3.jpg

Hãng hàng không tư nhân VietJet Air (VJA) đã hoàn tất biên bản ghi nhớ đặt hàng 100 máy bay Airbus bắt đầu nhận máy bay từ năm 2014 cho đến năm 2022.

Chỉ tính riêng cho nhu cầu mở đường bay và phát triển kinh doanh hàng không nội địa, mỗi năm VJA cần từ 5 đến 10 máy bay chưa kể các kế hoạch phát triển liên doanh ở thị trường nước ngoài.

Tuổi Trẻ đã phỏng vấn ông Lưu Đức Khánh, Giám đốc điều hành Hãng, người trực tiếp tham gia thương vụ này. 

* 100 máy bay cho một hãng hàng không tư nhân mới hoạt động chưa đầy hai năm liệu có quá nhiều không thưa ông?

- Khởi đầu của VJA chỉ có ba máy bay. Trong thời gian chưa đến hai năm chúng tôi đã có 10 máy bay. Kinh tế chưa thực sự phục hồi nhưng nhu cầu đi lại, vận chuyển bằng đường hàng không của người dân VN và du khách nước ngoài vẫn tăng, với khối lượng hành khách và hàng hóa vận chuyển như hiện nay trung bình mỗi năm VJA cần từ 5-10 máy bay.

Dư địa của thị trường đi lại hàng không nội địa VN còn có thể tăng cao, VJA sẽ phải bay đến những điểm đến nào có nhu cầu đi lại, du lịch. Khách du lịch khi đến hai đầu TP.HCM , Hà Nội họ phải tiếp tục đi đâu đó nữa, đặc biệt là du khách nước ngoài sẽ phải nối chuyến đến Nha Trang, Phú Quốc, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn…. vì vậy mục tiêu mà sắp tới chúng tôi phải tăng chuyến bay nội địa đến Buôn Mê Thuột, Cần Thơ….

Hợp đồng với Airbus kéo dài trong tám năm, tính trung bình mỗi năm cần 10 máy bay nếu tính cả kế hoạch cho thuê, góp vốn vào các liên doanh nước ngoài mà VJA sẽ tham gia thì số ượng này thậm chí chưa đủ.

* Ngoài liên doanh với hãng hàng không Kan Air (Thái Lan), VJA có kế hoạch mở rộng ra thị trường nước ngoài?

- VJA có chính sách phát triển thành công ty đa quốc gia và hướng phát triển liên doanh ra nước ngoài. Liên doanh với hãng hàng không Kan Air (Thái Lan) trong thời gian tới cũng cần ít nhất 3-5 máy bay một năm.

Trong năm 2014 VJA sẽ tham gia góp vốn vào hai liên doanh hàng không mới: một liên doanh với hãng hàng không ở Myanmar, và một hãng hàng không Đông Bắc Á. Cả ba liên doanh này cùng hoạt động trong năm 2014. Chúng tôi còn dự định cho khả năng phải thuê thêm máy bay để cung cấp cho các hãng nếu tất cả 4 thị trường này cùng phát triển.

* Hợp đồng này trị giá hơn 9 tỉ USD, ông chia sẻ thêm khả năng giải ngân của hợp đồng này?

- 100 máy bay này có 62 chiếc VJA đặt mua, 30 chiếc là VJA được quyền mua thêm khi đối tác có hàng và 8 chiếc thuê. Chúng tôi phải rất chắc chắn với kế hoạch tài chính của mình thì mới đặt bút ký. Mặc dù là hợp đồng ghi nhớ nhưng ngay trong tuần chúng tôi sẽ bắt đầu chuyển tiền một khoản tiền đáng kể theo cam kết chứ đâu thể nói suông và lô hàng đầu tiên trong đơn đặt hàng này chúng tôi sẽ nhận vào năm sau.



Để mua được máy bay việc vay vốn từ ngân hàng chỉ là một trong nhiều nguồn tài trợ vốn. Nguồn vốn chủ yếu do các tổ chức lớn của nước ngoài thu xếp. Chúng tôi có nhiều nguồn tài trợ cho dự án phát triển này như phát hành trái phiếu, từ các công ty thuê mua máy bay một khoản khác từ kế hoạch IPO (phát hành trái phiếu lần đầu ra công chúng) sớm nhất trong vòng 18-42 tháng tới. Trong tổng số nguồn tài chính này khoản vay lớn nhất là vay hỗ trợ xuất khẩu (export credit).

Châu Âu muốn phát triển nhà máy sản xuất máy bay Airbus thì chính phủ Pháp và châu Âu phải có biện pháp hỗ trợ tín dụng cho người mua máy bay. VJA cũng nhận được hỗ trợ từ khoản vay này…. Chỉ khi có những hỗ trợ tích cực này và sự chuẩn bị rõ ràng về tài chính chúng tôi mới đặt bút ký.

Trong suốt thời gian thương thảo hợp đồng, đại diện Airbus đã có nhiều thời gian nghiên cứu các hoạt động, kế hoạch kinh doanh, chiến lược phát triển, giá trị doanh nghiệp và cả báo cáo tài chính của VJA. Họ cũng nghiên cứu kỹ thị trường VN, lượng khách du lịch quốc tế đến VN, tăng trưởng của khách nội đia ra sao, khả năng phát triển của nền kinh tế….

* Thị trường hàng không VN nhiều tiềm năng vậy sao?

- Các dòng máy bay mua lần này chỉ có thể bay liên tục tối đa trong bán kính từ 5-5,5 giờ bay, VJA muốn mở rộng mạng đường bay, phát triển kinh doanh phải liên doanh tạo thành nhiều mạng đường bay mới đa dạng có thể nối mạng được với nhau dễ dàng. VJA sẽ tiếp tục mở thêm các đường bay trong nước, quốc tế tăng khả năng kết nối đến các địa danh du lịch, kinh tế lớn của khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Nhật Bản... 

Thị trường hàng không rất có tiềm năng, tăng trưởng thị trường nội địa tăng trưởng hai con số, đặc biệt mạnh nhất là phân khúc giá rẻ ở các nước trong khu vực chiếm từ 50-60% thị trường. Ở Malaysia cứ 1 triệu dân trung bình có 7 máy bay. Tỉ lệ này ở Thái Lan là 2,5 chiếc, Philippines là 1,4 chiếc, trong khi Việt Nam mới chỉ xấp xỉ một máy bay.

LÊ NAM
Ông Võ Huy Cường, phó cục trưởng Cục hàng không VN:
Hàng không giá rẻ có tiềm năng
Trong tương lai khi kinh tế tăng trưởng các hãng hàng không chi phí thấp sẽ có điều kiện phát triển tốt.
Năm qua, dù kinh tế có khó khăn nhưng các hãng hàng không giá rẻ, có chi phí thấp chẳng những tồn tại được mà còn phát triển tốt vì có một phần lớn hành khách từ hàng không truyền thống chuyển sang.
Tính đến hết quý 3-2013, tăng trưởng thị trường hàng không nội địa đạt mức 18,5% so với năm ngoái cũng là một tín hiệu tốt cho các hãng hàng không trong đó có hàng không giá rẻ. 

(Tuổi trẻ) 

Ông Nguyễn Tấn Dũng lại đề nghị Mỹ bỏ cấm vận vũ khí

Trả lời Bloomberg, một hãng tin tài chính của Hoa Kỳ, khi đến New York tham dự một khóa họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ tướng CSVN lập lại đề nghị Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận vũ khí.
Khu trục hạm USS Chung Hoon trang bị hỏa tiễn thuộc Đệ thất Hạm Đội Hoa Kỳ từng đến thăm viếng cảng Tiên Sa tại Đà Nẵng hai lần mà lần sau vào Tháng Tư 2013. Cùng tới Tiên Sa dịp này là tàu cứu hộ USS Salvor. (Hình: VNExpress)

Ngoài đề nghị vừa kể, trong cuộc phỏng vấn này, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN hoan nghênh sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại châu Á vì: “Hoa Kỳ là một cường quốc toàn cầu và cũng là một cường quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự hiện diện thích hợp của Hoa Kỳ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ đóng góp vào hòa bình, ổn định, an toàn và an ninh hàng hải”.

Ông Dũng cho rằng, khi quan hệ quân sự, quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ đang phát triển cùng lúc với quan hệ kinh tế, thương mại, Hoa Kỳ nên bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam bởi duy trì cấm vận vừa “không hợp lý”. vừa mang tính chất “phân biệt đối xử”, “thể hiện một thái độ thiếu tin tưởng”. Ông nói thêm rằng, chưa chắc Việt Nam sẽ hỏi mua vũ khí của Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam, nhưng Việt Nam vẫn muốn điều đó vì nó “thể hiện sự tin tưởng lẫn nhau”.

Có một số dấu hiệu cho thấy, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam càng ngày càng gắn bó hơn. Năm ngoái, ông Leon Panetta, lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã tới thăm Việt Nam. Năm nay, ông Chuck Hagel, Bộ trưởng Quốc phòng đương nhiệm đã nhận lời mời đến thăm Việt Nam vào năm tới.

Trong một thông cáo báo chí phát hành hồi cuối tháng tám, Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, cho biết, ông Hagel vừa nhắc lại cam kết tăng cường quan hệ quốc phòng song phương Hoa Kỳ - Việt Nam với người tương nhiệm phía Việt Nam khi gặp ông nay tại Brunei.

Hãng tin Bloomberg, cho biết, ông Mark Manyin, một chuyên gia về châu Á, từng nêu trong một nghiên cứu gửi Quốc hội Hoa Kỳ rằng, chính quyền Hoa Kỳ từng xác định Việt Nam là một trong những đối tác mới mà Hoa Kỳ cần tranh thủ trong khuôn khổ chủ trương tái cân bằng chiến lược và kinh tế qua vùng châu Á.

Ông Nguyễn tấn Dũng thì khẳng định, Việt Nam sẵn sàng gác lại quá khứ và hứa cùng nhau làm việc hướng tới tương lai vì mục tiêu chung của hai bên là hòa bình, hữu nghị và hợp tác trên cơ sở bình đẳng để hai bên cùng có lợi và cùng phát triển.

Hồi tháng 7 vừa qua, khi đến thăm Hoa kỳ, ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch Nhà nước Việt Nam, cũng đã từng công khai bày tỏ hy vọng, Hoa Kỳ sẽ đồng ý bán vũ khí cho Việt Nam. Tuy nhiên các chuyên gia về quan hệ quốc tế nhận định, điều đó chưa thể xảy ra vào lúc này.

Vào thời điểm đó, khi trò chuyện với BBC, bà Catharin Dalpino, người từng là Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, được xem như một chuyên gia về an ninh ở khu vực Đông Nam Á, nhận định rằng, chính giới Hoa Kỳ không ủng hộ việc bán vũ khí cho Việt Nam.

Qua cuộc phỏng vấn của AP,  Chủ tịch Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh, bây giờ là lúc để bình thường hóa quan hệ song phương trên mọi lĩnh vực, trong đó có mua bán vũ khí sát thương. Ông Sang thừa nhận “có khác biệt” giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về nhân quyền, song ông Sang cho rằng đó là điều “hoàn toàn bình thường”.

Bà Dalpino không nghĩ như vậy. Bà giải thích chuyện bán vũ khí của Hoa Kỳ là vấn đề phụ thuộc vào cả chính phủ lẫn Quốc hội Hoa Kỳ. Quyết định bán vũ khí thường được gắn với nhân quyền.

Thời gian vừa qua, nhiều chính khách Hoa Kỳ ở cả Hạ viện lẫn Thượng viện liên tục bày tỏ sự bất bình, khi Việt Nam liên tục thực hiện nhiều hành vi xâm hại nhân quyền. Mới đây, Ông Edward Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Hoa Kỳ và chín dân biểu khác vừa gửi thư cho Chủ tịch Nhà nước Việt Nam, đề nghị trả tự do cho ông Lê Quốc Quân – người sắp bị đưa ra xử về tội “trốn thuế”.

Trong thư gửi ông Trương Tấn Sang, đề nghị trả tự do cho ông Lê Quốc Quân, mười dân biểu của Hạ viện Hoa Kỳ nhận định, cáo buộc ông Quân “trốn thuế” có “động cơ chính trị và các bằng chứng chống lại ông Quân được chính quyền ngụy tạo". Cũng vì vậy, mười vị dân biểu này bày tỏ sự lo ngại là “trường hợp của ông Quân không phải cá biệt” trong số các vụ xử những người lên tiếng vì nhân quyền ở Việt Nam.

Mười dân biểu của Hạ viện Hoa Kỳ đã nhắc lại những tuyên bố của ông Sang khi ông này đến thăm Hoa Kỳ và thúc giục ông Sang trả tự do cho ông Quân cũng như các tù nhân chính trị khác, đồng thời “ngưng bắt và giam giữ những công dân có các lời kêu gọi và biểu đạt ôn hòa”.
(Người Việt)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét