Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Tin ngày 28/8/2013 - tiếp

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI


Việt Nam: Những tiền đề khủng hoảng

Con tin suy thoái của các nhóm lợi ích:
Chưa bao giờ nền kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bấp bênh nguy hiểm như giờ đây, với quá nhiều hệ lụy từ hệ thống ngân hàng và các thị trường đầu cơ như bất động sản, vàng, chứng khoán, cùng khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng và nợ công quốc gia có thể lên đến 95 – 106% GDP nếu tính theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc, trong đó có đến vài chục tập đoàn kinh tế quốc doanh có rất ít khả năng thu hồi vốn từ đầu tư trái ngành những năm trước và cũng có rất ít khả năng trả nợ cho Nhà nước từ tình trạng chúa chổm hiện nay.
Đầu năm 2013, lần đầu tiên Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thừa nhận có đến 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản. Con số này chiếm khoảng 18-20% tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Kể từ năm 1990 đến nay, đây là con số ngừng hoạt động lớn nhất, cho thấy tình trạng nền kinh tế đã ở vào thế bĩ cực. Hậu quả này xuất phát từ chính sách siết tín dụng cực đoan và treo cao mặt bằng lãi suất cho vay của Ngân hàng nhà nước và nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần lớn, dẫn đến hệ lụy có đến ít nhất 60% doanh nghiệp không đủ vốn giá rẻ để hoạt động. Thiếu vốn lại dẫn đến đình trệ sản xuất và kéo theo thất nghiệp tràn lan.
Cho đến gần đây, bất chấp những đánh giá tô hồng của các cơ quan quản lý nhà nước về “kinh tế đã thoát đáy” hay “kinh tế có triển vọng phục hồi”, số doanh nghiệp ngừng hoạt động vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm. Động lực tiếp tục treo khá cao mặt bằng lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng đang khiến cho không chỉ doanh nghiệp mà nhiều nhà băng chìm trong nguy ngập ứ vốn.
Trong khi đó, nợ và nợ xấu vẫn chưa có tín hiệu nào khả quan hơn độ trũng chưa đến đáy của chúng. Chỉ vào tháng 7/2013, một báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia mới lần đầu tiên thừa nhận tỷ lệ nợ xấu bất động sản tại các ngân hàng thương mại cổ phần đã lên tới 33-35%. Con số này rất trái ngược so với báo cáo của Ngân hàng nhà nước vào tháng 5/2013 và của Bộ Xây dựng vào tháng 7/2013, trong đó cho biết tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản chỉ còn 5,68% và 6,5%.
Tức con số của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cao gần gấp 6 lần con số báo cáo của các cơ quan khác, tạo nên độ phân hóa dữ dội ngay trong hệ thống nội bộ về nhận thức tư tưởng và quan trọng hơn là thái độ “mở miệng”.
Hậu quả của gần ba năm suy thoái qua là gần như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình cảnh kiệt quệ, với vòng quay vốn chỉ còn 0,8 lần so với hơn 2 lần vào những năm 2007-2008. Sức mua của xã hội giảm sút đột ngột và đẩy nhanh nguồn cầu vào tình thế bán phá giá.
Nếu không giải quyết được nợ và nợ xấu, trong đó chủ yếu là nợ xấu bất động sản, một phản ứng sụp đổ dây chuyền giữa các doanh nghiệp bất động sản với nhau và doanh nghiệp bất động sản với các ngân hàng chủ nợ, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ không trường vốn, là hoàn toàn có thể xảy ra. Khi đó, những vụ vỡ nợ của ngành bất động sản rất có thể sẽ kéo theo sự sụp đổ của ngân hàng và của cả nền kinh tế trong thời gian tới.
Hiểm họa từ cuộc “hạ cánh cứng” của Trung Quốc:
Những điều kiện tốt nhất cho sự phục hồi kinh tế đang dần trôi qua. Đó là sự phục hồi chậm chạp nhưng khá ổn của nền kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ cuối năm 2011 cho đến nay, trong đó có cả thị trường chứng khoán và đặc biệt  là thị trường nhà ở của Mỹ. Sự phục hồi này còn được các tổ chức IMF, WB và một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn trên thế giới như Fitch Ratings, S&P, Moody’s dự báo có thể kéo dài đến hết năm 2014.
Tuy nhiên, mọi hình ảnh phục hồi sẽ không thể tồn tại vĩnh viễn, nhất là trong bối cảnh mà một Nobel kinh tế như Paul Krugman hay những tác giả khác như “chuyên gia tận thế” Nouriel Roubini và doanh nhân có tiếng như Marc Faber vẫn liên tục cảnh báo về những mối họa không tránh khỏi trong những năm tới. Nguy cơ từ các nền kinh tế Hy Lạp, Síp và kể cả Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào nha vẫn còn gần như nguyên vẹn.
Nhưng một trong những mối họa không còn ẩn giấu là nền kinh tế Trung Quốc.
Nợ xấu bất động sản và những dấu hiệu đầu tiên của cơn chao đảo tài chính khiến Trung Quốc có thể đang tiến vào lộ trình của một cuộc hạ cánh không thể mềm, hay nói cách khác là có thể phát sinh một đợt hạ cánh cứng. Hình ảnh “nước giàu dân nghèo” hay “Voi cưỡi xe đạp” của nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới này bắt đầu lộ diện rõ nét. Bất chấp lượng dự trữ khổng lồ về ngoại tệ lên đến 3.400 tỷ USD và được xem là lớn nhất thế giới, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với bong bóng nhà đất phình quá lớn và hàng ngàn tỷ USD nợ của chính quyền địa phương không có khả năng thanh toán. Tất cả những hậu quả đó đều có thể ảnh hưởng khá nặng nề đến khối Cộng đồng châu Âu và kể cả Mỹ – những địa chỉ liên đới với các ngân hàng và quan hệ ngoại thương của Trung Quốc.
Nếu các nền kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ, Đức và đặc biệt Trung Quốc không thể cầm cự được, kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ phải chịu hệ lụy trực tiếp – một hệ lụy xảy ra song ánh mà không cần chờ đợi một độ trễ nào như đối với cơn khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 2008. Một trong những ảnh hưởng nặng nề nhất đối với kinh tế Việt Nam có lẽ thông qua con đường buôn bán tiểu ngạch truyền thống với Trung Quốc.
Một khả năng đang đến gần là nền kinh tế Trung Quốc không thể cầm cự đến hết năm 2015, thậm chí sẽ suy thoái sớm hơn. Nếu khả năng này xảy ra, cộng hưởng với những khó khăn của kinh tế Mỹ, Tây Âu và đặc biệt là mầm mống khủng hoảng tại khu vực Nam Âu như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, nền kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng hầu như trực tiếp.
Vốn đang nằm trong chu kỳ suy thoái nghiêm trọng kéo dài cùng nội lực gần như suy kiệt, nền kinh tế Việt Nam sẽ khó có khả năng chống đỡ được các cuộc tấn công suy thoái đến từ bên ngoài. Một cuộc suy thoái kép, hoặc lớn hơn là khủng hoảng kinh tế, sẽ đến với Việt Nam, phá tan những cầm cự cuối cùng và đẩy xã hội vào tâm thế hỗn loạn.
Lộ diện những mầm mống khủng hoảng xã hội:
Trong bối cảnh suy thoái trầm kha về kinh tế, nạn tham nhũng, vô cảm quan chức và phân hóa xã hội lại đóng vai trò rất quan yếu trong việc phá nát những rường cột cuối cùng về an sinh xã hội.
Gần như trái ngược với sự thừa nhận thiếu dũng cảm của Đảng và Chính phủ từ “một bộ phận nhỏ” đến “một bộ phận không nhỏ”, tham nhũng đã trở thành một quốc nạn từ chính quyền cấp trung ương đến toàn bộ các chính quyền địa phương, tác động mạnh mẽ nhất đến tình trạng từ suy giảm đến suy kiệt niềm tin vào chế độ của công dân. Cho đến nay và sau quá nhiều lần thất vọng với cơ chế phòng chống tham nhũng của Đảng, người dân đã hầu như không còn hy vọng nào cho một tương lai được nhận ra vẻ sạch sẽ trên khuôn mặt chính thể.
Trong gần ba năm suy thoái kinh tế qua, chỉ có nhóm lợi ích ngân hàng, nhóm lợi ích vàng và những nhóm lợi ích có tên “Dân sinh” như điện và xăng dầu là còn trụ được. Với nhiều chính sách cố tình làm lợi cho các nhóm lợi ích này, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã biến các doanh nghiệp và người dân trở thành một thứ con tin không có tương lai.
Hệ lụy kinh tế lại dẫn đến hệ lụy xã hội. Trong khi Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố tỷ lệ thất nghiệp vào cuối năm 2012 chỉ là 1,99%, tỷ lệ thất nghiệp thực tế ở Việt Nam đang có thể vượt trên 20%, thậm chí sánh ngang với tỷ lệ thất nghiệp 26% ở Tây Ban Nha hoặc gần 30% ở Hy Lạp.
Trong thực tế, chỉ cần nhìn vào con số 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản như một công bố của Ủy ban thường vụ Quốc hội vào đầu năm 2013, đã có thể thấy rằng con số này chiếm đến 18-20% tổng doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Như vậy tỷ lệ thất nghiệp cũng có thể tương đương với 18-20%, tức gấp 10 lần con số báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Vốn đã quá thờ ơ trước thực trạng xuống dốc của dân sinh trong những năm vừa qua, nhiều bộ ngành ở Việt Nam còn trở nên bàng quan hơn nữa trong không khí thực dụng đang phổ cập khắp nơi, từ thủ phủ đến từng làng xã. Người ta có thể nhìn thấy tình trạng tham nhũng quá phổ biến ở nhiều địa phương và các thành phố trung tâm, và tình trạng lộng quyền và lộng hành của không ít nhân viên công an…
Thất nghiệp và hoàn cảnh quá đỗi khó khăn lại càng làm cho người dân rơi vào tâm thế cùng quẫn. Sau một thời gian buộc phải im lặng, báo chí đã dồn dập đưa tin về những cái chết tự vẫn của người nghèo.
Chuyện chết chóc đã trở thành cơm bữa ở Việt Nam. Cùng với thái độ vô cảm của nhiều chính quyền địa phương là nạn bạo hành của công an ở nhiều tỉnh. Không ít cái chết trong trụ sở công an đã xảy ra, nhưng chưa một lần những người mặc sắc phục thừa nhận hành vi vi luật nghiêm trọng của họ.
Trong khi đó, làn sóng trưng thu đất đai và cưỡng chế dân oan khiếu kiện vẫn liên tục diễn ra ở nhiều địa phương với tính chất côn đồ hóa về sau này.
Vào năm 2012 và 2013, những dấu hiệu khủng hoảng kinh tế đã kéo theo những hiện tượng hỗn loạn xã hội. Dư luận đã chứng kiến về hành vi “chống người thi hành công vụ” của gia đình Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng vào đầu năm 2012 như một ngòi nổ, mô phỏng cho phong trào nông dân chống trưng thu ruộng đất một cách vô lối từ các nhóm lợi ích, và có một nét gì đó gần tương tự với trường hợp “rào làng” của làng Ô Khảm ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Cho đến gần đây, người ta liên tục chứng kiến việc một số nhóm lợi ích đã sử dụng côn đồ như một thủ đoạn để giải tỏa đất đai và “giải quyết” nông dân. Ở Ninh Bình hay Bắc Giang, người ta đang chứng kiến hàng trăm nông dân bất mãn đoàn kết với nhau để chống nạn côn đồ lộng hành, cùng hiện tượng dựng chiến lũy trong làng để chống những kẻ mà nông dân coi là “giặc”… Hoặc như hiện tượng  “biểu tình quan tài” ở Hưng Yên…
Tất cả những hình ảnh đó cho thấy điều gì, nếu không phải là sự bất lực, vô cảm của khá nhiều chính quyền địa phương mà đã đẩy người dân vào tư thế phản ứng tự phát không đáng có. Và hiện tượng tự phát như thế lại là tiền đề rất thường cho một hiện tượng rộng lớn và quy mô hơn hẳn: làn sóng bạo động và có thể cả bạo loạn có thể xảy ra, đẩy nhanh tình hình vào thế mất kiểm soát…
Buổi giao thời sắp đến
Hầu như không thể hoài nghi, xã hội và có lẽ cả nền chính trị Việt Nam đang dợm bước vào một buổi giao thời mang tính xoay chuyển trong lịch sử đương đại của chế độ, nếu lấy mốc thời gian từ năm 1975.
Còn nếu tính từ thời mở cửa đầu thập niên 1990 và sau các cuộc chính biến mà đã thay đổi căn bản về mối quan hệ xã hội nhà nước – công dân ở Liên Xô và Đông Âu cho đến nay, chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào một chu kỳ suy sụp kinh tế và kéo theo hàng loạt mầm mống phản ứng và biến loạn xã hội như hiện thời.
Tất cả những dấu hiệu như thế, cộng hưởng với bầu không khí cô đặc trì trệ về não trạng chính trị, nạn tham nhũng thâm căn và di căn, cùng những rạn nứt không thể phủ nhận trong nội bộ, đang biểu tả tính xu thế cho những biến động và thay đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và có thể cả về tính tư tưởng ý thức hệ trong một tương lai không quá xa.
THEO VOA

Việt Nam: các kịch bản thời sự sắp tới

Một “triển vọng” đang ngày càng rõ dần là bối cảnh xã hội Việt Nam đang gần hoàn tất giai đoạn vận động thứ hai của nó, nếu lấy mốc từ thời điểm mở cửa kinh tế những năm 1990.


Trước đó, giai đoạn vận hành đầu tiên kéo dài từ năm 1975 đến hậu khủng hoảng giá – lương – tiền.

Nhưng cho tới giờ, ở Việt Nam hầu như chưa hình thành một lực lượng đối lập, chưa mang tính đối trọng đủ lớn đối với chính quyền để ít nhất có thể tác động nhằm điều chỉnh một số chính sách và hoạt động thực hành chính sách.
Những tiền đề đối trọng ở Việt Nam cho tới nay vẫn chỉ là phong trào phản biện xã hội đa dạng và đa tầng, thể hiện chủ yếu qua ý kiến chứ không phải bằng những hành động sâu xa hơn.
Ngoài nhóm “Kiến nghị 72” và vài nhóm blogger, đa phần còn lại là những cá nhân phân tán và hoạt động manh mún.
Tác động của hoạt động bất đồng chính kiến đối với chế độ chỉ có ý nghĩa như một xúc tác phụ.
Nếu không được tác động sâu sắc bởi hành động của lực lượng đối trọng, hoặc không có một số tác động vừa thuyết phục vừa áp lực về chính sách kinh tế, quân sự và chính trị, ngoại giao từ Mỹ và phương Tây, nền chính trị Việt Nam sẽ do chính nội bộ trong lòng nó quyết định.
Mọi chuyện ở Việt Nam đang diễn ra theo một quy luật: vô cảm quan chức tỷ lệ thuận với tham nhũng và quyền lợi của nhóm lợi ích.
Thời gian suy thoái kinh tế từ đầu năm 2011 đến nay đã cho thấy một hiện tượng xã hội rất đặc trưng: bất chấp sự phản ứng và tâm trạng phẫn uất của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu vẫn liên kết đầy se sắt, hòa quyện vào nhau với độ kết dính như thể bám víu vào sự tồn tại cuối cùng.


“Những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng là biểu hiện của các tác động vào chính sách”

Người ta có thể nhìn ra rất nhiều minh chứng cho thái độ bất chấp đó từ những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng, kể cả những nhóm lợi ích có quyền lợi can dự như điện lực và xăng dầu.
Song song với trào lưu lợi ích ấy, cũng có nhiều bằng chứng về hoạt động chạy chính sách vì đặc quyền đặc lợi cho “tư sản đỏ”.
Tác động ở tầm mức mạnh mẽ nhất của người dân và xã hội đối với thể chế cầm quyền ở Việt Nam nhiều khả năng sẽ được quyết định bằng việc có hay không mối cộng hưởng của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính đất nước này.
Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương – tiền 1985-1986.

Những kịch bản kinh tế – chính trị

Kịch bản 1: Trong trường hợp cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới chưa nổ ra vào những năm tới, và do vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có thể trì kéo tấm thân băng hoại rệu rã của nó, tình thế vẫn chưa diễn ra một sự thay đổi đủ lớn.
Những phản ứng tự phát của dân hiện không mang tính hệ thống và hình thành các liên kết sâu rộng và thường thể hiện bằng biểu tình, thậm chí bạo động cục bộ vẫn có thể bị chính quyền phong tỏa và đàn áp.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác mà không thể hiện tính dẫn dắt cho một phong trào đối lập nhằm thay đổi thể chế.
Kịch bản 2: Trong trường hợp xảy ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể bị tàn phá cùng nhiều hệ lụy trực tiếp.
Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội lực trong nước mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó mà khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.

  Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác

Nếu hệ lụy khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng của kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, một do động loạn từ Trung Quốc.
Trong cả hai yếu tố hiệu ứng tác động đó, xã hội Việt Nam đều có thể rơi vào vòng bế tắc. Nền kinh tế vốn đã què quặt, cộng thêm nhân tố rối loạn xã hội, sẽ khiến cho chính thể cầm quyền hết sức khó khăn trong việc duy trì quyền lực của mình để kiểm soát xã hội.
Phản ứng của nông dân về đất đai, của công nhân về nạn thất nghiệp và điều kiện làm việc, của tiểu thương về buôn bán, của công chức và giới về hưu về an sinh xã hội… sẽ liên tiếp xảy ra với quy mô ngày càng rộng.
Phản ứng của người dân đối với nhân viên công quyền cũng sẽ diễn ra dày đặc và mang tính tự phát với tính đối đầu nhiều hơn, ban đầu tản mạn và tự phát, sau đó sẽ có xu hướng liên đới để hình thành những phong trào, kể cả tổ chức phản kháng, của nông dân, công nhân, trí thức và với cả một số tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa hảo thuần túy, Tin Lành.
Kịch bản về không gian phản ứng và phản kháng sẽ có thể bắt nguồn từ nông thôn miền Bắc với nông dân, thậm chí ngay tại Hà Nội với thành phần trí thức, sau đó lan rộng ra các khu vực khác của đất nước như miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra.
Đó là chưa kể đến những hoạt động phản ứng riêng rẽ và có tổ chức chặt chẽ hơn nhiều của các tôn giáo có xu hướng ly khai với nhà nước, trong đó có một phần Công giáo, Tin lành, Phật giáo Việt Nam thống nhất và Phật giáo Hòa hảo thuần túy.
Gần như trái ngược với Kịch bản 1, xác suất suy thoái kép hoặc khủng hoảng của kinh tế Việt Nam trong Kịch bản 2 có thể lên đến ít nhất 70% trong những năm tới. Và dĩ nhiên, sự đổi khác chính trị cũng phải liền mạch và trực tiếp với các biến động kinh tế.

Lối thoát từ TPP?

Cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, nếu xảy ra với xuất phát điểm từ Trung Quốc, có thể rơi vào thời gian hai năm 2016-2017. Đó cũng là thời gian chứng nghiệm những nỗ lực cuối cùng và mang tính quyết định cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.
  Cú hội nhập TPP có thể đem lại một lối thoát cho kinh tế và cả chính trị Việt Nam

Nếu không tự thay đổi, và hơn nữa phải cải cách một cách gấp rút theo hướng hạn chế quyền lợi của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, đồng thời gia tăng mối quan tâm thực tế cho các tầng lớp dân sinh, trong đó đặc biệt là nông dân và công nhân, cũng như thực thi quyền tự do dân chủ về ngôn luận, báo chí và tôn giáo một cách đúng nghĩa…, đảng cầm quyền sẽ vấp phải một thử thách mà có thể xác quyết sự tồn vong của chính nó.
Một trong rất ít lối thoát để thoát khỏi vòng xoáy kinh tế – chính trị là TPP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thế nhưng, điều quá rõ ràng là trong hiện tình, TPP chỉ có thể được sinh sôi ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền.
Cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ về an ninh Biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ.
Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền sẽ có được cơ hội tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh, trong khi nhận được sự hậu thuẫn của Washington và Cộng đồng châu Âu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Nếu thành công trong cơ chế “xoay trục” sang phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một chế độ cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha tại đất nước này, kể cả việc phải chấp nhận một lực lượng đối lập ôn hòa…, vẫn có thể duy trì được quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo thêm một thời gian nào đó.
THEO BBC

NGẬP MIỆNG VÀ NGẬP LỤT

Báo chí mấy hôm nay đưa tin với thái độ phản ứng gay gắt lương của giám đốc công ty thoát nước đô thị tp Hồ Chí Minh( 2,6 tỉ đồng/ năm), lương của giám đốc công ty chiếu sáng công cộng tp Hồ Chí Minh ( 2,2 tỉ đồng/ năm) và nhiều mức lương khủng khác của các thành viên Hội đồng quản trị công ty Nhà nước này. Trong khi đó, công nhân lao động với cường độ làm việc cay cực, lương chỉ vài triệu bạc tháng. Đây như là điển hình cao độ về cái lũ quan lại ” ngồi mát ăn bát vàng”, bòn rút của công, đặc quyền đặc lợi…
Này chúng mày, ăn như vậy là ăn ngập miệng quá, ăn không thèm chùi mép, ăn không thèm giấu diếm, ăn trơ, ăn cướp, mà cướp công khai, ký nhận trong sổ đàng hoàng, cướp như thế gọi là cướp tởm.
Này chúng mày, chúng mày đã biến một công ty độc quyền của Nhà nước thành công ti đặc quyền chia chác của chúng mày, chia chác bằng tiền thuế của nhân dân, chia chác trên mồ hôi nước mắt của công nhân, chia như thế gọi là chia bẩn.
Này chúng mày, chúng mày ăn công khai mà như thế thì ăn vụng, ăn trộm, ăn bớt, ăn xén nó là bao nhiêu, chắc chắn là hơn nhiều nhỉ? Nhỉ?
Chỉ cần nhìn vào cách chia lương, cướp tiền ngân sách như vậy đã đủ yếu tố để khởi tố một vụ án tham nhũng, chứng cứ sờ sờ ra thế còn ở đâu nữa, sao tới giờ, phát hiện ra rồi, thành phố Hồ Chí Minh còn không đình chỉ công tác các chức danh, còn không chỉ đạo khởi tố vụ án Lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tiền Nhà nước?
Còn chờ gì nữa?
Chúng mày ăn tiền dân như thế, ngập miệng ngập mồm, lòi má trợn mắt như thế thì hiển nhiên là nhà nước rót tiền mãi có khắc phục được tình trạng ngập lụt đâu, khắc phục sao được, khi hàng chục cái miệng vểu ra hớp tiền dân hàng ngày, hàng tháng, hàng năm như vậy.
Hả?
THEO NGUYỄN QUANG VINH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét