Cũng theo ông Bình, thời gian qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam phát
triển mạnh về quy mô, loại hình, số lượng…, đòi hỏi đi kèm điều kiện về
tăng cường quản lý, thanh tra giám sát. Công tác thanh tra giám sát tuy
đã được cải thiện, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, chưa theo kịp tốc
độ phát triển của khu vực ngân hàng; hoạt động thanh tra giám sát chưa
đúng trọng tâm, trọng điểm và chất lượng chưa cao. Các thông lệ quốc tế
về chuẩn mực giám sát ngân hàng chưa được nghiên cứu, áp dụng đầy đủ,
dẫn đến nhìn nhận chưa đầy đủ tình hình, thực trạng. Thanh tra tại chỗ,
thanh tra tuân thủ vẫn là chủ yếu, khả năng giám sát toàn bộ thị trường
để phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro cho hệ thống NH còn yếu,
thanh tra hoạt động còn thụ động, xử lý các vụ việc phát sinh là chủ
yếu.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra, giám sát, phó Thống đốc
NHNN cho rằng, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện chính khung chính sách
phù hợp với sự phát triển mới. Đồng thời, phải có cơ sở hạ tầng công
cộng và công cụ thị trường đủ mạnh. Đi kèm đó phải nâng cao năng lực đội
ngũ nhân lực thực hiện công việc này.
“Chủ nghĩa xét lại” ở Việt Nam DCCH: Bằng chứng mới từ kho tư liệu Đông Đức
Tài liệu này phân tích các cuộc tranh luận nội bộ
trong ban lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Nam DCCH) vốn lên đến
đỉnh điểm trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 9
gây nhiều tranh cãi của Đảng Lao Động. Chiến dịch sau đó chống lại “chủ
nghĩa xét lại” được xem là một bước đi quyết định của phe Lê Duẩn nhằm
loại bỏ những thành phần bị coi là chống Đảng và chuẩn bị kế hoạch tăng
cường đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Tài liệu cũng đưa ra những
thảo luận về ảnh hưởng mà chiến dịch chống chủ nghĩa xét lại gây ra cho
mối quan hệ (của Bắc Việt Nam) với Cộng hòa Dân chủ Đức (CHDC Đức). Tài
liệu được hoàn thành dựa vào các nguồn chưa được khai thác như các bản
báo cáo của đại sứ quán Đông Đức trước đây tại Hà Nội, của các nhà báo
Đức ở miền Bắc, hay các hồ sơ từ kho lưu trữ của Bộ An ninh Nhà nước
(Stasi).
Giới thiệu
Cuối năm 1961, Klaus Pommerening, phóng viên của Thông tấn xã Đông
Đức ở Việt Nam DCCH đã gửi một bản báo cáo về Berlin, phân tích quan
điểm của các nhà lãnh đạo Việt Nam đối với mâu thuẫn Xô – Trung.
[1]
Ông cho rằng Đảng Lao Động vẫn giữ vị trí trung lập giữa Liên Xô và
Trung Quốc và không muốn phê phán cả chủ nghĩa sùng bái cá nhân lẫn chủ
nghĩa giáo điều. Theo Pommerening, có điều này là bởi bản thân Đảng Lao
động cũng đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chủ nghĩa giáo điều và việc sùng
bái cá nhân. Dương Bạch Mai, một trong những người cung cấp tin tức
chính cho ông, đã xác nhận luận điểm này.
[2]
Trong một cuộc nói chuyện với vị nhà báo người Đông Đức, ông Mai, một
Ủy viên Trung ương Đảng và là thành viên của Chủ tịch đoàn Mặt trận Tổ
quốc cũng như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kiêm Phó Chủ tịch Hội hữu nghị
Việt- Xô, đã phàn nàn về tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng Lao động
Việt Nam. Ông nói với Pommerening rằng nếu các nhà lãnh đạo đảng quyết
định đi theo đường lối “chống Liên Xô” thì chính ông sẽ là người bảo vệ
các nguyên tắc của chủ nghĩa Lênin đến cùng.
[3]
Những khẳng định năm 1961 của Dương Bạch Mai càng trở nên đáng lo
ngại khi chúng ta theo dõi diễn biến của các sự kiện vào năm 1963, 1964.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của Đảng Lao động vào tháng 12 năm
1963, ông đã đưa ra cảnh báo mạnh mẽ chống lại quan điểm ngày càng “thân
Trung Quốc”, và trở nên bất đồng với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và một số
người khác vốn cùng có ý định khởi xướng một chiến dịch chống “chủ nghĩa
xét lại hiện đại” ở Việt Nam DCCH. Một vài tháng sau đó, Dương Bạch Mai
qua đời. Ông trở thành thành viên của một liên minh chặt chẽ cùng với
các đảng viên khác như Hoàng Minh Chính và Bùi Công Trừng - những nhân
vật sau này bị vướng vào một vụ án với tên gọi “vụ án xét lại chống
Đảng”. Sứ quán Đông Đức nắm rõ những tình tiết trong việc Dương Bạch Mai
và một số cán bộ cấp trung khác giữ những quan điểm đối nghịch (với
Đảng).
Khi xem xét các tài liệu cũ của CHDC Đức được giữ trong các kho lưu trữ Đức,
[4]
một điều rất đáng chú ý chính là việc các nhà ngoại giao và các thông
tín viên Đông Đức ở Hà Nội và Bộ Ngoại giao ở Berlin đã theo rất sát
những diễn tiến chính trị trong nội bộ Việt Nam DCCH. Với vị trí là đồng
minh thân thiết của Liên Xô, một trong những nhiệm vụ quan trọng của sứ
quán Đông Đức tại Hà Nội trong những năm đó chính là quan sát phản ứng
của Đảng Lao động trước mâu thuẫn Trung Quốc – Liên Xô, đồng thời hỗ trợ
lực lượng thiên về khuynh hướng “thân Kremlin” ở miền Bắc Việt Nam. Một
số nhà chính trị như Dương Bạch Mai đã gặp gỡ thường xuyên với các nhà
ngoại giao CHDC Đức và Pommerening, một thông tín viên Đông Đức tại Hà
Nội, thông báo với họ về những bất đồng tư tưởng cũng như những tranh
chấp bè phái ngay trong nội bộ Đảng Lao động.
Mâu thuẫn giữa nhóm do Lê Duẩn đứng đầu và nhóm đối nghịch lên đến
đỉnh điểm tại Hội nghị Trung ương 9 và sau đó dẫn tới một cuộc thanh
trừng trong nội bộ Đảng, thường được biết đến như là “vụ án xét lại –
chống Đảng”. Các nghiên cứu trước đây về vụ án này chủ yếu dựa vào các
tự truyện của các nhân vật có liên quan.
[5]
Do đó, bằng chứng mới từ kho lưu trữ Đông Đức có thể đóng góp vào việc
hiểu rõ hơn toàn bộ vụ án cũng như khơi dậy các tranh luận về chủ nghĩa
xét lại cũng như bất đồng chính kiến ở Việt Nam.
Tài liệu này tập trung vào những diễn biến ở Việt Nam những năm 1963
và 1964. Những biến động đó phải được đặt trong bối cảnh trong nước của
Việt Nam DCCH vào đầu những năm 1960 khi mà các nhà lãnh đạo của Đảng
Lao động đang tăng cường công tác chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh ở
miền Nam, từ đó dẫn tới việc nhìn nhận chủ trương “chung sống hòa bình”
theo tư tưởng của Khrushchev trở nên ngày càng kém hấp dẫn hơn.
[6]
Sau Hội nghị lần thứ 15 của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động vào tháng
1 năm 1959 và sự thành lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam
Việt Nam vào tháng 12 năm 1960, cuộc chiến ở miền Nam ngày càng quyết
liệt. Quyết định của Đảng Lao động quay lại chính sách chiến tranh cách
mạng nhằm tái thống nhất đất nước đã dẫn đến mối bất hòa lên cao giữa Hà
Nội và Matxcơva. Dựa trên học thuyết “chung sống hòa bình”, các nhà
lãnh đạo Liên Xô đã không ủng hộ việc tăng cường đấu tranh vũ trang ở
miền Nam Việt Nam đồng thời thúc giục Hà Nội phải kiềm chế hơn.
[7]
Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Xô nỗ lực tránh mọi
tình huống có thể dẫn đến đối đầu trực tiếp với Mỹ. Trong bối cảnh đó,
Liên Xô đi theo chính sách dần giảm can dự vào Việt Nam trong khi ảnh
hưởng của Trung Quốc lại tăng theo một cách tương ứng.
Bài nghiên cứu cũng chỉ ra những phương cách mà tập thể lãnh đạo Đảng
Lao động, trong đó có Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đã từng bước một tiến
gần hơn đến lập trường “thân Trung Quốc” và cuối cùng đã triển khai một
chiến dịch chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại” cũng như ảnh hưởng của chủ
nghĩa này trong nội bộ Đảng. Nghiên cứu sẽ chứng minh rằng tâm lý chống
“chủ nghĩa xét lại” mạnh mẽ của ban lãnh đạo Đảng Lao động không chỉ
sản sinh ra những hệ quả tiêu cực về nhân sự trong hàng ngũ của Đảng mà
còn ảnh hưởng không tốt tới mối quan hệ với Cộng hòa Dân chủ Đức. Minh
chứng điển hình cho những hệ quả này chính là sự gia tăng giám sát đối
với sứ quán Đức tại Hà Nội và số phận của những sinh viên Việt Nam học
tập tại Đông Đức.
Những diễn tiến nội bộ ở Việt Nam DCCH năm 1963: Bất đồng ý thức hệ tại Hội nghị Trung ương 9 của Đảng Lao Động
Tháng 1 năm 1963, Chủ tịch Tiệp Khắc Novotny sang thăm chính thức
Việt Nam DCCH. Tuyên bố chung cuối cùng được đưa ra trong chuyến thăm
nhìn chung đã thể hiện quan điểm của Liên Xô, ca ngợi chung sống hòa
bình là “chính sách đúng đắn nhất” tại thời điểm đó.
[8]
Tuy nhiên, ông Herold, đại sứ Tiệp Khắc tại Hà Nội lại cảnh báo vị đại
biện của CHDC Đức tại Việt Nam không nên đặt nhiều hy vọng vào kết quả
của chuyến thăm.
[9]
Pommerening, phóng viên thông tấn xã Đức ADN tại Việt Nam đã cho rằng
bản tuyên bố chính là một dấu hiệu cho việc Đảng Lao Động đã chấp thuận
học thuyết chung sống hòa bình một cách rộng rãi. Tuy nhiên, cũng trong
bản báo cáo đó, Pommerening đã nhấn mạnh đến tình trạng căng thẳng trong
nội bộ các đảng viên, họ không được phép thảo luận “các vấn đề trong
phong trào công nhân quốc tế”, vốn là những vấn đề đằng sau mâu thuẫn Xô
– Trung. Theo những người Việt Nam cung cấp tin tức cho ông, Tố Hữu,
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, giữ quan điểm rằng nếu Đảng Lao Động
muốn bảo vệ sự “trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin” thì cần phải tấn
công trực diện vào các khuynh hướng “xét lại”.
[10]
Sau chuyến thăm của Novotny, mâu thuẫn giữa các thành phần “thân
Trung Quốc” và “thân Liên Xô” trong nội bộ Đảng Lao Động ngày càng dâng
lên mạnh mẽ:
[11]
Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm về bản tuyên bố chung “thân Liên Xô”
trong chuyến thăm của Novotny và bị thay thế bởi Xuân Thủy.
[12]
Pommerening cũng báo cáo rằng nhiều cán bộ có lập trường “thân Liên
Xô”, đặc biệt là những cán bộ công tác trong ngành báo chí và có viết về
các vấn đề về chính sách đối ngoại, cũng đều bị thay thế.
[13]
Đại sứ quán Đông Đức cũng thu thập được nhiều thông tin khẳng định rằng
tất cả các vị trí chủ chốt phụ trách báo chí của Ủy ban Trung ương Đảng
và Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam vv… đều
nằm trong tay các cán bộ “theo sát đường lối của Trung Quốc”.
[14]
Rõ ràng Việt Nam đã có một bước chuẩn bị có tính toán cho chuyến thăm
của Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ diễn ra vào tháng 5 năm 1963.
[15]
Chuyến thăm này đã góp phần đưa Việt Nam đến gần hơn với Trung Quốc.
Điểm mấu chốt chung gắn kết Hà Nội với Bắc Kinh chính là sự đồng phản
đối tư tưởng chung sống hòa bình. Bản tuyên bố chung lên án “chủ nghĩa
xét lại” và “chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh” là những nhân tố chính đe dọa
sự phát triển của phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời nhấn mạnh rằng
Việt Nam DCCH nên dựa vào sức mạnh của mình trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và tiến hành cách mạng ở miền Nam.
[16]
Đảng Lao Động ngày càng tuyên truyền rộng rãi mô hình kinh tế tự cung
tự cấp ở miền Bắc, đồng thời hạ thấp vai trò của viện trợ nước ngoài mà
chủ yếu đến từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đây chính là
vấn đề nóng gây tranh cãi giữa một bên là Lê Duẩn cùng các nhân vật có
xu hướng thân Trung Quốc và bên còn lại là những cán bộ cấp trung, những
người sau này bị gán cho là “bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa xét lại hiện
đại”. Một minh chứng cụ thể là vào tháng 5 năm 1963, trong bài phát biểu
trước Quốc hội của mình, Dương Bạch Mai đã đề xuất Việt Nam DCCH nên
tham gia vào Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON). Trong khi không ít
đại biểu ủng hộ ý kiến đó thì Trường Chinh và chủ tịch Hồ Chí Minh lại
chỉ trích ông một cách gay gắt.
[17]
Mùa hè năm 1963, không khí chính trị ở miền Bắc Việt Nam ngày càng
trở nên căng thẳng. Ngay sau chuyến thăm của Lưu Thiếu Kỳ, Lê Đức Thọ,
Ủy viên Bộ Chính trị và là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng đầy quyền
lực đã lên án Nam Tư chính là một “điển hình tập trung và xấu xa nhất
nhưng không phải là duy nhất của chủ nghĩa xét lại hiện đại”, điều này
tạo nên một sự công kích tương đối trực tiếp vào Liên Xô.
[18]
Áp lực phải hoàn toàn chấp nhận lập trường “thân Trung Quốc” ngày
càng đè nặng lên vai của các đảng viên Đảng Lao Động. Tháng 6 năm 1963,
một phóng viên Việt Nam đã thông báo với sứ quán Đông Đức rằng đặc biệt
là các cán bộ, đảng viên cấp trung không còn dám bày tỏ chính kiến của
bản thân nữa.
[19]
Điều này hoàn toàn trùng khớp với những thông tin được cung cấp bởi vị
đại biện Đông Đức cùng các vị đại sứ của Liên Xô, Hungari và Tiệp Khắc
tại Việt Nam. Ông Tovmasyan, đại sứ Liên Xô, đề cập rằng báo chí Việt
Nam ngày càng phản ánh tư tưởng “thân Trung Quốc”, và rằng các tài liệu
tuyên truyền bằng tiếng Việt từ Trung Quốc còn được bày bán ở Hà Nội.
Các “phần tử thân Trung Quốc” trong đội ngũ Đảng Lao Động cũng gây áp
lực rất lớn lên “những đồng chí bác bỏ lập trường của Trung Quốc”.
[20]
Tovmasyan cũng bổ sung rằng một lượng lớn các cán bộ bị ảnh hưởng bởi
các dư luận “chống Liên Xô” và “chủ nghĩa dân tộc”, và do đó hành động
theo hướng “chống châu Âu”.
[21]
Cùng thời điểm đó, Pommergening cũng báo cáo rằng “một nhóm các nhà
văn đã viết thư cho Ủy ban Trung ương Đảng lên tiếng phản đối những phát
ngôn ngày càng mang tính chất chống Liên Xô”.
[22]
Tháng 7 năm 1963, Việt Nam DCCH đã có thêm một bước đi tách xa khỏi
Liên Xô. Đồng quan điểm với Bắc Kinh, báo chí Hà Nội đua nhau lên án
Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân được kí bởi Liên Xô, Anh, Mỹ,
cho rằng đó chỉ là một “trò xảo quyệt nhằm chia rẽ thế giới cộng sản”.
[23] Không những chỉ trích hiệp ước này, báo chí miền Bắc còn tăng cường tấn công vào “chủ nghĩa xét lại Nam Tư”.
[24]
Một bài báo trên tờ Học Tập số ra tháng 7 đã kêu gọi mỗi người cộng sản
phải mạnh mẽ đấu tranh chống lại “chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Bài báo
cũng thẳng thắn phản đối các tư tưởng từ bỏ sử dụng bạo lực và giành độc
lập dân tộc bằng con đường hòa bình.
[25]
Tháng 8 năm 1963, “các phần tử thân Trung Quốc” trong nội bộ Đảng Lao
Động ngày càng tỏ rõ thế công kích. Trong một bản báo cáo dài, sứ quán
Đông Đức kết luận “các phần tử thân Liên Xô” trong Đảng Lao Động đã bị
cô lập một cách có hệ thống.
[26]
Điều này được đặc biệt áp dụng với Võ Nguyên Giáp, thậm chí theo một
vài nguồn tin, ông còn phải chịu quản thúc tại gia từ khoảng giữa năm
1963.
[27]
Sứ quán Đông Đức cùng phóng viên Pommerening của ADN cũng đề cập đến
một tin đồn lan truyền trong nội bộ Đảng Lao Động rằng thư ký riêng của
Phạm Văn Đồng bị bắt giữ vì đã chuyển các thông tin mật cho sứ quán Liên
Xô và việc cựu Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm sẽ sớm mất ghế trong Ủy ban
Trung ương Đảng. Những nguồn tin tương tự cũng đề cập đến việc Lê Duẩn
buộc Hồ Chí Minh phải lựa chọn “hoặc theo Bộ Chính trị hoặc đứng ngoài”.
[28]
Theo ông Bibow, đại biện của đại sứ quán Đông Đức, cái gọi là “thuyết
hai sai lầm” đã được lan truyền mạnh mẽ trong nội bộ đảng viên Đảng Lao
Động. Theo thuyết này, Hồ Chí Minh đã phạm phải hai sai lầm chết người.
Năm 1945, ông đã thỏa hiệp với Pháp, để người Pháp trở lại Đông Dương.
Năm 1954, tại hội nghị Giơ-ne-vơ, ông lại một lần nữa thỏa hiệp, buộc
đất nước lâm vào cảnh chia cắt, chuyển giao miền Nam Việt Nam cho Mỹ.
[29]
Trong khi thuyết này một phần nào đó có vẻ khó tin và cường điệu thì Lê
Duẩn và “các thành phần đi theo đường lối cứng rắn” lại sử dụng nó làm
công cụ truyền bá tiện dụng nhằm lên án tất cả các chiến lược mang tính
chất phòng thủ với phương Tây như là một sự từ bỏ cách mạng, đồng thời
loại bỏ bất cứ nỗ lực nào nhằm giành độc lập bằng con đường đàm phán
hoặc bằng cách vượt qua miền Nam về kinh tế. Bên cạnh làm suy yếu uy tín
của Hồ Chí Minh, thuyết này còn nhắm vào những “cộng sự thân cận nhất”
của ông trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, những người giờ đây đa
phần đều phản đối việc xích lại gần Trung Quốc.
Những đảng viên lão thành như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng hay Vũ
Đình Huỳnh, vốn giữ quan điểm rằng vẫn còn nhiều con đường khác để giành
độc lập dân tộc chứ không chỉ có bạo lực cách mạng, giờ ngày càng phải
lui vào thế phòng thủ và đứng trước nguy cơ bị tố cáo là những kẻ theo
tư tưởng chủ bại.
[30]
Ngày 2 tháng 9 năm 1963, một bài báo có chủ đích của Lê Đức Thọ được đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng.
[31]
Trong đó, ông lập luận rằng toàn bộ đảng viên phải đồng lòng nhất trí
đi theo đường lối của Đảng. Ông cho rằng, nhìn chung, các cán bộ, đảng
viên đều giữ một lập trường vững chắc về mặt ý thức hệ. Tuy nhiên, đã có
một số đảng viên bị ảnh hưởng bởi “tư tưởng hữu khuynh” và “chủ nghĩa
xét lại”, từ đó có những hoài nghi về chiến lược của Đảng trong công
cuộc tái thống nhất đất nước. Những đối tượng “lầm đường lạc lối” này
cũng phản đối tiến độ chiến dịch tập thể hóa trong nông nghiệp, đồng
thời truyền bá mô hình hợp tác kinh tế quốc tế thay vì nền kinh tế tự
cung tự cấp mà ban lãnh đạo Đảng ưu ái ở miền Bắc. Theo Lê Đức Thọ,
trong nội bộ Đảng đang tồn tại một số đảng viên thiếu tính kỷ luật,
tuyên truyền những quan điểm không phù hợp với các nghị quyết của Đảng
làm hủy hoại sức mạnh và tính thống nhất của Đảng. Ông cũng nhấn mạnh
rằng Đảng Lao Động phải kiên quyết chống lại ảnh hưởng của các khuynh
hướng phi vô sản, tư tưởng hữu khuynh, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xét
lại hiện đại trong nội bộ đảng viên và đề xuất rằng những đảng viên
không theo đúng đường lối của Đảng cần phải chịu sự phê bình, giáo dục,
hoặc chịu thi hành kỷ luật thích đáng tùy thuộc vào mức độ phá hoại đối
với những công tác của Đảng và sự nghiệp cách mạng.
[32]
Những lời lẽ của người giám sát về tư tưởng của Đảng và cũng là cộng sự
thân thiết của Lê Duẩn này dường như đã dấy lên một điềm báo không mấy
tốt đẹp.
Đó cũng là cách nhìn nhận của sứ quán Đông Đức, Bộ Ngoại giao ở
Berlin và nhà báo Thông tấn xã Đức Pommerening. Họ cùng kết luận rằng
bài báo của Lê Đức Thọ đã tạo nên một “cuộc công kích mở vào những đồng
chí chia sẻ lập trường thân Liên Xô”.
[33]
Nó một lần nữa phản ánh tình trạng căng thẳng leo thang giữa những bè
phái khác nhau trong nội bộ Đảng Lao Động, đồng thời cũng là một bước cơ
bản chuẩn bị về tư tưởng cho hội nghị tiếp theo của Ủy ban Trung ương
và cho cả một chiến dịch chỉnh huấn chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại và
những thành phần xét lại” vốn đã tồn tại trong một thời gian dài.
Cùng thời điểm đó, “các thế lực giáo điều thân Trung Quốc” đã mở ra
một mặt trận thứ hai trên lĩnh vực văn chương và khởi động cuộc công
kích trực diện của họ vào “những ảnh hưởng tư sản” lên giới văn – nghệ
sĩ ở Việt Nam DCCH.
[34]
Trên số ra tháng 8 của tờ Học Tập – diễn đàn tư tưởng của Đảng – Hồng
Chương đã chĩa ngòi bút vào tiểu thuyết “Vào Đời” của nhà văn Hà Minh
Tuấn. Ông kết tội tác giả là đi theo chủ nghĩa “bi quan”, chỉ tập trung
miêu tả mảng ảm đạm, đen tối của xã hội miền Bắc Việt Nam, chế nhạo
nguyên tắc của nền chuyên chính vô sản và cổ vũ lối sống hưởng lạc. Hồng
Chương cũng cho rằng Hà Minh Tuấn đã không theo đúng khuôn mẫu bắt buộc
của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mà thay vào đó lại chịu ảnh
hưởng nặng nề từ tư tưởng của giai cấp địa chủ và tư sản phản động.
[35]
Trái ngược với những bài viết khác được đăng trên tờ Học Tập sau đó
vào năm 1964, bài báo này của Hồng Chương lại không liên hệ những khuyết
điểm của Hà Minh Tuấn với chủ nghĩa xét lại. Mặc dù vậy, kết luận mạnh
mẽ của ông đã phản ánh được tình hình căng thẳng dâng cao trong nội bộ
VNDCCH: không chỉ các thành phần của tầng lớp sở hữu ruộng đất cũ chưa
được cải tạo, mà nhân dân thuộc tầng lớp lao động, thậm chí nhiều đảng
viên cũng bị “đầu độc” bởi “lối suy nghĩ tư sản”.
[36]
Trong một cuộc gặp gỡ với tùy viên văn hóa CHDC Đức Klaus Matzke vào
tháng 8 năm 1963, các cán bộ cấp cao của Bộ Văn hóa Việt Nam đã trình
bày tỉ mỉ về nguồn gốc của “những ảnh hưởng tư sản” lên giới văn nghệ sĩ
miền Bắc Việt Nam. Khi được hỏi bởi Matzke là liệu rằng Thái Lan hay
Miền Nam Việt Nam là nơi bắt nguồn của “lối suy nghĩ tư sản nguy hiểm
này”, họ đã lắc đầu và nói với vị khách Đông Đức đang kinh ngạc rằng
Liên Xô mới là chính là thủ phạm chính và rằng trong tương lai việc nhập
khẩu phim ảnh hay văn chương Xô Viết sẽ bị hạn chế.
[37]
Tháng 9 năm 1963, thông tín viên Đông Đức Pommerening đã tường thuật
về bầu không khí sợ hãi mới ở thủ đô Hà Nội: một cán bộ làm việc trong
một nhà xuất bản nhà nước mà ông gặp đã trích lời của một thành viên
trong bộ máy an ninh nhà nước của Việt Nam DCCH, người đã nói về vấn đề
đề cao cảnh giác rằng: với sự giúp sức của nhân dân, chúng ta sẽ tìm ra
những nhân vật cuối cùng “làm việc” cho Liên Xô.
[38]
Một minh chứng cụ thể hơn nữa là khi Pommerening trích lại một cuộc trò
chuyện kỳ lạ với Dương Bạch Mai và Tôn Thất Tùng, giám đốc Bệnh viện
Việt Đức tại Hà Nội: khi đề cập đến chủ đề bia, ông Tùng đột nhiên lên
giọng: “Vâng, bia của Đức rất ngon, nhưng chính sách của các bạn lại rất
tồi”.
[39]
Rõ ràng, ngay đến một người như Tôn Thất Tùng vốn nổi tiếng là “một
người bạn thân thiết của Đông Đức”, cũng buộc phải thể hiện “thái độ
đúng đắn” của mình nơi công cộng. Sự giao tiếp, liên lạc giữa người Việt
Nam với người nước ngoài cũng bị hạn chế. Nếu không có sự cho phép của
chính quyền, phần lớn người dân Việt Nam không được đến thăm các cơ
quan, đại sứ quán nước ngoài vv…
[40]
Trong khi hoàn toàn công nhận rằng tình hình chính trị ở miền Bắc
Việt Nam đang trở nên căng thẳng hơn, và rằng các thành phần “thân Trung
Quốc” đang chiếm thế thượng phong, thì các nhà ngoại giao Đông Đức vẫn
tin rằng những lực lượng ủng hộ “chủ nghĩa Mác- Lênin chân chính” vẫn
chiếm giữ những vị trí quan trọng trong Đảng Lao Động. Sứ quán Đông Đức
vẫn biết rõ sức mạnh của các phe phái khác nhau trong nội bộ Đảng nhờ
vào nguồn thông tin mật từ Dương Bạch Mai về những người vốn cùng ông cự
tuyệt đường lối “thân Trung Quốc” mới.
[41]
Danh sách bao gồm 19 người. Một số nhân vật trong đó sau này trở
thành những người trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan tới “vụ án xét
lại – chống Đảng”: Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, nguyên Bộ trưởng
Ngoại giao; Vũ Đình Huỳnh, nguyên là thư ký riêng của chủ tịch Hồ Chí
Minh và là Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao; Bùi Công Trừng, Ủy viên
Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Giám
đốc Viện Kinh tế học; Lê Liêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ
Văn hóa, nguyên Chính ủy trong trận Điện Biên Phủ, và Võ Nguyên Giáp, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng.
[42] Điều đáng lưu ý ở đây là danh sách lại vắng mặt Hoàng Minh Chính, người đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ vụ án.
Trong thời gian chuẩn bị cho hội nghị trung ương sắp tới, Đảng Lao
Động đã không ngừng đẩy mạnh chiến dịch tư tưởng. Trên số ra tháng 10
của tờ Học Tập, ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Chí Thanh đã xuất bản một
bài báo tố cáo trực tiếp những ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại hiện
đại” trong nội bộ Đảng Lao Động. Ông nhấn mạnh rằng hầu hết các đảng
viên đã theo sát đường lối của Đảng, nhưng vẫn còn một số ít thành phần
ủng hộ tư tưởng “hữu khuynh”. Những lời tố cáo của ông nhằm cụ thể vào
những đảng viên phản đối mô hình kinh tế tự cung tự cấp ở miền Bắc và
thay vào đó mong muốn hợp tác gần gũi hơn với các nước xã hội chủ nghĩa
khác.
[43]
Ông cũng đặc biệt phê phán những đảng viên theo “chủ nghĩa cá nhân”,
“bi quan yếm thế”, có “lối sống hưởng thụ” mà thiếu đi những hiểu biết
sâu sắc về sự cần thiết của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam DCCH, những
người sợ những hy sinh, gian khổ mà một cuộc đấu tranh vũ trang nhằm tái
thống nhất đất nước đòi hỏi. Cũng theo ông Thanh, những tư tưởng tư sản
như trên đều chịu ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại”, chúng không chỉ có
những tác động xấu tới xã hội miền Bắc Việt Nam nói chung, mà còn hủy
hoại tinh thần chiến đấu của nhân dân. Ông kết luận rằng Đảng Lao Động
phải kiên quyết đấu tranh chống “chủ nghĩa xét lại” và “tư tưởng hữu
khuynh” trong nội bộ. Để đánh bại những “quan điểm sai trái”, đấu tranh
tư tưởng trong nội bộ Đảng cần phải được tăng cường, toàn bộ đảng viên
nên thực hiện “phê và tự phê”.
[44]
Chẳng bao lâu sau, cơ hội cho việc tự phê bình và phơi bày các khuynh
hướng “xét lại” trong nội bộ đảng viên đã xuất hiện. Cuối năm 1963, Ủy
ban Trung ương Đảng Lao Động tổ chức hội nghị lần thứ 9, một sự kiện có
tầm quan trọng quyết định. Ban đầu, hội nghị dự kiến tổ chức trước đó 2
tháng. Nhưng sau cùng, hội nghị đã bắt đầu vào ngày 22 tháng 11 và kết
thúc vào đầu tháng 1 năm 1964 sau nhiều lần gián đoạn.
[45]
Hội nghị đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình tiến gần
hơn với Bắc Kinh và đưa đến một cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai nhóm
“thân Trung Quốc” và “thân Liên Xô”. Cuối cùng, nhóm do Bí thư thứ nhất
Lê Duẩn đứng đầu đã chiếm ưu thế và triển khai ngay một chiến dịch chỉnh
đốn trong nội bộ Đảng nhằm đấu tranh chống lại những ảnh hưởng của chủ
nghĩa xét lại.
[46]
Thông tín viên Thông tấn xã Đức Pommerening cho rằng hội nghị chính
là một “minh chứng rõ ràng nhất cho sự bất đồng trong nội bộ Đảng ”.
[47]
Khoảng 50 cán bộ đảng viên cấp trung đã gửi thư lên Ủy ban Trung ương
Đảng, yêu cầu Đảng nên giữ vị trí trung lập giữa Trung Quốc và Liên Xô,
không nên ngả về phía Trung Quốc. Theo thông tin mà sứ quán Đông Đức và
Pommerening thu nhận được, những yêu cầu trên bắt nguồn từ các cán bộ
như Đặng Thai Mai, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam,
Tạ Quang Bửu và Bùi Công Trừng, hai Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và
Công nghệ Nhà nước, Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học Mác-
Lênin, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm và một trợ lý chưa rõ
tên của Phạm Văn Đồng.
[48]
Trong bài diễn văn của mình tại hội nghị, chuyên gia kinh tế Bùi Công
Trừng đã giải thích rằng tình hình kinh tế Việt Nam DCCH là cực kỳ căng
thẳng. Ông đề xuất một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với Liên Xô và
bác bỏ quan điểm phi thực tế nhằm tạo lập mô hình kinh tế tự cung tự cấp
ở miền Bắc Việt Nam. Tạ Quang Bửu cũng cảnh báo rằng ông sẽ từ bỏ mọi
chức vụ của mình và làm việc như một giảng viên đại học bình thường nếu
lãnh đạo Đảng quyết định nghiêng hẳn về phía Trung Quốc và cắt đứt quan
hệ với Liên Xô. Lê Liêm và Ung Văn Khiêm dường như là những người phản
đối thẳng thắn và gay gắt nhất đường lối “thân Trung Quốc” mới trong Ủy
ban Trung ương. Ung Văn Khiêm đã phát biểu trong ba giờ liền và Lê Liêm
đã nói suốt bốn giờ tại hội nghị.
[49]
Hồ Chí Minh, người vẫn luôn ủng hộ việc cân bằng mối quan hệ với
Trung Quốc và Liên Xô, cũng từng khuyến khích Lê Liêm phát biểu chống
lại chiều hướng “thân Trung Quốc”, thế nhưng khi hội nghị biến thành một
cuộc tranh cãi nảy lửa thì ông lại không lên tiếng ủng hộ Lê Liêm. Liệu
rằng “chủ tịch Hồ Chí Minh có phải đã chịu sự đe dọa từ ban lãnh đạo
mới hay không”
[50]
vẫn chỉ là một sự phỏng đoán. Theo một nguồn tin khác, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần cố gắng can thiệp vào cuộc tranh luận nhưng đều gặp phải sự
cản trở từ Lê Đức Thọ.
[51]
Tóm lại, rõ ràng trong thời kỳ này một nhóm xoay quanh lãnh đạo Đảng Lê
Duẩn và người trợ thủ thân cận nhất của ông là Lê Đức Thọ là những
người đã lèo lái đường lối của Đảng.
Thật đáng tiếc là không có bất cứ một văn bản ghi chép nào ghi lại
những tranh luận tại hội nghị. Tuy nhiên, hai tài liệu quan trọng vẫn
còn tồn tại, một trong số đó là nghị quyết của Hội nghị bàn về bối cảnh
quốc tế.
[52]
Tài liệu này chỉ ra một cách rõ ràng rằng vào thời điểm đó, về mặt tư
tưởng Đảng Lao Động đã chủ yếu đi theo đường lối “thân Trung Quốc”. Nghị
quyết cho rằng tư tưởng “xét lại” đã phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin,
truyền bá chủ trương chung sống hòa bình thay vì ủng hộ đấu tranh cách
mạng chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc của người dân các xứ
thuộc địa và quốc gia lệ thuộc.
[53]
Tài liệu cũng quả quyết rằng “đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc không
thể tách rời khỏi đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội
hữu khuynh”.
[54]
Hội nghị Trung ương lần thứ 9 đã chính thức xác nhận đấu tranh vũ
trang đóng vai trò cốt yếu trong quá trình cách mạng. Ủy ban Trung ương
Đảng đã cố gắng hạn chế việc gửi quân chiến đấu từ Bắc vào Nam nhưng vẫn
quyết định tăng trợ giúp về vũ trang từ miền Bắc và ủng hộ phong trào
cách mạng ở miền Nam.
Nghị quyết được thông qua tại hội nghị cũng phản ánh những tranh cãi
chưa dừng lại trong nội bộ Đảng Lao Động. Ủy ban Trung ương Đảng chỉ
trích những đảng viên đi theo đường lối của “chủ nghĩa xét lại”.
[55]
“Ủy ban nhận thấy rằng chính những quan điểm đó đã khiến các cán bộ
đảng viên không ủng hộ các phương pháp nhằm xã hội hóa ở Miền Bắc cũng
như các nỗ lực cần thiết để tái thống nhất hai miền”
[56]
và khuyến nghị cần “theo đuổi việc giáo dục một cách có hệ thống về chủ
nghĩa Mác – Lênin cho các cán bộ đảng viên để họ có thể hiểu một cách
đầy đủ lập trường của Đảng”.
[57]
Chiến dịch chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại” và “các phần tử xét lại” trong nội bộ Đảng Lao Động năm 1964
Vào tháng 1 năm 1964, Bergold, đại sứ CHDC Đức tại Bắc Việt Nam đã
viết một bản báo cáo tương đối tích cực về kết qủa của Hội nghị Trung
ương lần thứ 9. Theo phân tích của ông, các phần tử “thân Trung Quốc” đã
đánh giá quá cao ảnh hưởng của họ và vẫn chưa tìm cách để loại bỏ các
đối thủ của mình.
[58]
Thông tín viên Đông Đức Pommerening cũng đồng tình, chia sẻ quan điểm
này: ban đầu, nhóm của Lê Duẩn đã lên một kế hoạch thanh trừng và thực
hiện việc chuyển hướng hoàn toàn sang lập trường “thân Trung Quốc”,
nhưng đã không làm được như vậy.
[59]
Bộ Ngoại giao tại Berlin đã ca ngợi sự “kháng cự dũng cảm của các lực
lượng tích cực” trong suốt hội nghị, điều buộc nhóm Lê Duẩn phải nhượng
bộ.
[60]
Đồng thời, Bộ cũng thừa nhận rằng nghị quyết được thông qua tại Hội
nghị cũng là một bệ phóng để triển khai một chiến dịch chống chủ nghĩa
xét lại và cô lập “các lực lượng Mácxít – Lêninnít” trong nội bộ Đảng.
Bản báo cáo kết luận rằng CHDC Đức nên tiếp tục phát triển mối quan hệ
hai chiều nhằm “hỗ trợ các lực lượng tiến bộ trong Đảng Lao Động và hạn
chế những tác động không tốt từ bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung
Quốc tới Đảng Lao Động Việt Nam”.
[61]
Tuy nhiên, mục tiêu đó ngày càng trở nên khó khăn. Ngay sau Hội nghị
Trung ương 9, lãnh đạo Đảng Lao Động đã khởi động một “cuộc công kích về
tư tưởng nhằm đe dọa lực lượng Mácxít – Lêninnít và đàn áp sự kháng cự
của họ”.
[62]
Lại chính là Lê Đức Thọ, người đứng đầu Ban Tổ chức Trung ương Đảng, đã
gia tăng sức ép tư tưởng lên những thành phần đối lập trong nội bộ
Đảng. Trong một loạt bài trên báo Nhân Dân, ông đã tuyên bố một chiến
dịch chỉnh huấn Đảng.
[63]
Ông cho rằng trong khi Việt Nam DCCH đang phải đối mặt với những nhiệm
vụ khó khăn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội lẫn đấu tranh tái thống nhất
đất nước thì tinh thần tự giác tuân theo kỷ luật Đảng là thực sự cần
thiết ở tất cả các đảng viên. Lê Đức Thọ đã tấn công những đảng viên bị
ảnh hưởng bởi “chủ nghĩa xét lại” và “lối suy nghĩ tư sản”. Ông chỉ
trích họ có tư tưởng “bi quan”, thiếu cảnh giác cách mạng và không hiểu
đúng nguyên tắc của chuyên chính vô sản, có xu hướng quá phụ thuộc vào
các nguồn viện trợ nước ngoài thay vì ủng hộ quan điểm mô hình kinh tế
tự cung tự cấp, và giữ thái độ thờ ơ, không ý thức được trách nhiệm của
bản thân trong cuộc đấu tranh tái thống nhất đất nước. Đó là những lí lẽ
mà Lê Đức Thọ và những nhân vật khác như Nguyễn Chí Thanh đã từng sử
dụng trước đó, thế nhưng giọng điệu của bài báo này thậm chí còn mạnh mẽ
hơn nhiều, cho thấy sẽ có những biện pháp cụ thể nhằm chống lại “chủ
nghĩa xét lại” và “khuynh hướng hữu khuynh” trong nội bộ Đảng. Tuy
nhiên, quan trọng nhất, Lê Đức Thọ đã trực tiếp khẳng định sự tồn tại
của một nhóm nhỏ trong Đảng Lao Động đã không theo đúng đường lối của
Đảng. Tuy không đề cập đến tên tuổi cụ thể nhưng rõ ràng ông đã nhắm tới
những đảng viên như: Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Hoàng Minh Chính,
Lê Liêm, Ung Văn Khiêm và những nhân vật khác vốn đã lên tiếng phản đối
Lê Duẩn và bè phái của mình trong Hội nghị Trung ương 9.
Theo Lê Đức Thọ, “một số cán bộ, đảng viên đã tự tách rời tổ chức
Đảng. Liên quan tới các chính sách và đường lối của Đảng, họ đã không
trực tiếp bày tỏ ý kiến tại các hội nghị, nhưng sau khi các hội nghị kết
thúc, họ lại tụ tập thành các nhóm nhỏ và phát biểu theo hướng phản đối
nghị quyết đã được thông qua”.
[64] Ông cũng bổ sung rằng “những hành động bè phái, chia rẽ phải được ngăn chặn càng sớm càng tốt”.
[65]
Lê Đức Thọ đã ra một thông báo yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên
phải tham gia lớp học để học tập và chỉnh huấn theo các nghị quyết đã
được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai công tác
tự phê bình.
[66]
Cả sứ quán Đông Đức và thông tín viên Thông tấn xã Đức Pommerening đều
được thông báo về nội dung của các khóa học chỉnh huấn này. Sứ quán Đức
thậm chí còn tìm cách để giữ được một bản sao đề cương khóa học mặc dù
Đảng Lao Động đã phân loại tài liệu này vào mục tuyệt mật, đồng thời
nghiêm cấm tất cả các cán bộ đảng viên tiết lộ với người khác về nội
dung khóa học.
[67]
Theo đề cương khóa học này, tất cả đảng viên phải “thấm nhuần” các nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 9 để hiểu một cách toàn diện điểm
khác nhau giữa đường lối chính trị theo “chủ nghĩa Mác- Lênin chân
chính” và “chủ nghĩa xét lại hiện đại” liên quan đến bối cảnh quốc tế và
chiến lược cách mạng trong nước. Cuối khóa học, tất cả đảng viên đều
phải nộp một bản thu hoạch cá nhân viết tay và giải thích tất cả những
gì đã học được.
Sứ quán Đông Đức cho rằng chiến dịch học tập, chỉnh huấn đã gạt ra lề
những phần tử “chống đối” trong nội bộ Đảng Lao Động. Tháng 5 năm 1964,
Bibow, bí thư thứ 2 (sứ quán Đông Đức) đã tuyên bố rằng một số “đồng
chí đã phát biểu thẳng thắn tại Hội nghị Trung ương 9 đã đột nhiên biến
mất”.
[68]
Ông báo cáo rằng các nhà chính trị hàng đầu như Ung Văn Khiêm hay Tạ
Quang Bửu vốn đã lên tiếng phê phán tư tưởng chống Liên Xô của phe Lê
Duẩn rất hiếm khi được xuất hiện công khai.
…….
Du học sinh Việt Nam tại CHDC Đức và chiến dịch chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại”
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây:
Chu nghia xet lai o Viet Nam DCCH.pdf
[1]
Tài liệu này là một phần nằm trong một một dự án nghiên cứu lớn hơn về
“những diễn biến trong nước của Việt Nam DCCH liên quan tới quan hệ với
CHDC Đức: Bất đồng chính kiến ở miền Bắc Việt Nam”. Tôi muốn gửi lời
cảm ơn tới người cộng sự của mình, Heinz Schutte, ở Paris, vì đã chia sẻ
với tôi một số nguồn tài liệu lưu trữ.
[2]
SAMPO, BArch, DC 900/54, AND- Auslandsstelle Hanoi, Betrifft:
Information über die vietnamesische Haltung zu Albanien, Hà Nội, tháng
12 năm 1961.
[5]
Nghiên cứu tốt nhất hiện có là Stowe, ‘Revisionnisme au Vietnam’. Heng,
‘Of the State, for the State, Yet Against the State’ cũng mang đến
những cái nhìn toàn diện về vụ án và những tác động của nó lên Việt Nam
DCCH. Tôi muốn cảm ơn tác giả đã cung cấp bản luận văn chưa được xuất
bản. Hai trong số những tự truyện được trích dẫn nhiều nhất là
Tử tù tự xử lý nội bộ của Trần Thư và
Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên. Cũng xem thêm Bùi Tín với
Theo chân Hồ Chí Minh và Duiker,
Hồ Chí Minh: A Life, 534-539, Brocheux
Hồ Chí Minh, 245-246 và Boudarel và Nguyễn Văn Ký
Hà Nội 1936-1996, 144-148.
[6] Về bối cảnh tư tưởng trong nước xem Heng ‘Of the State, for the State, Yet Against the State’ , 117-120.
[7] Về những diễn biến trong mối quan hệ Việt Nam- Liên Xô đầu những năm 1960 đọc Gaiduk,
Confronting Vietnam 181-204
[8] Smyser,
The Independent Vietnamese, 61.
[9]
MfAA/A 8705, 179–180, 1. AEA, 23 tháng 2 1963, Schneidewind,
Information u¨ber die Haltung der PWV anla¨ßlich der Besuche einer
Delegation des Obersten Sowjets der UdSSR und des Pra¨sidenten der CSSR,
Genossen A. Novotny in der DRV.
[10] SAPMO, BArch, DC 900/54, 2, ADN Hanoi, Zum VI. Parteitag der SED, 21 tháng 2 năm 1963, Pommerening.
[11] SAPMO, BArch, DC 900/54, Situation nach Politbu¨roerkla¨rung, tháng 3 năm 1963, Pommerening. Cũng tham khảo thêm Smyser,
The Independent Vietnamese, 61–63.
[12]
Đề xuất của Dương Bạch Mai tại Quốc hội nhằm hoãn việc thay thế Ung Văn
Khiêm cho tới tháng 9 năm 1963 đã bị bác bỏ. Xem SAPMO, BArch, DC
900/54, 1, AND Hanoi, Zum Besuch von Liou Chao chi, Pommerening, 28
tháng 5 năm 1963.
[13] SAPMO, BArch, DC 900/54, 1, Informationsbericht des ADN-Korrespondenten in Hanoi, 24 Tháng 4 năm 1963.
[14] MfAA/A 8705, 68, 1. AEA, 3 May 1963, Information u¨ber die Auswertung des VI. Parteitages der SED in der DRV, Schneidewind.
[15]
MfAA/G-A 324, 2, Botschaft der DDR Hanoi, 28 May 1963, Bibow,
Einscha¨tzung des Besuches der chinesischen Partei- und
Regierungsdelegation unter der Leitung des Pra¨sidenten der VR China Liu
Schao Tschi und des stellv. Ministerpra¨sidenten Tschen-Yu, vom 10. bis
15.05.1963 in der DRV.
[16]Xem
Như trên., 8–9, SAPMO, BArch, DY 30/IVA2/20/441, ADN Hanoi, Gemeinsame
Erkla¨rung des Pra¨sidenten HCM und des Pra¨sidenten Liou Chao Chi, 16
May 1963, MfAA/A 8749, 8–9, 1. AEA, Entwurf, Einflußnahme der KP Chinas
auf die Partei der Wertkta¨tigen Vietnams, Berlin, 4 June 1963. Về bản
phân tích chuyến thăm của Lưu Thiếu Kỳ xem Smyser,
The Independent Vietnamese, 63–65, và Qiang Zhai,
China and the Vietnam Wars 1950–1975, 124.
[17] Xem SAPMO, BArch, DC 900/54, 1, ADN Hanoi, Zum Besuch von Liou Chao chi, Pommerening, 28 tháng 5 năm 1963, 4.
[18]Tiền Phong, 19 tháng 6 năm 1963, trích trong Smyser,
The Independent Vietnamese, 65.
[20]
MfAA/G-A 324, 20, Botschaft der DDR Hanoi, Mehlig, 17 June 1963,
Aktenvermerk u¨ber ein Gespra¨ch mit den Botschaftern der Sowjetunion,
der CSSR und Ungarn anla¨ßlich eines Filmabends der Botschaft am
14.6.1963 von 21.30 – 02.00 Uhr.
[22] SAPMO, BArch, DC 900/296, 3, ADN Auslandsstelle Hanoi/Vietnam, Pommerening, 24 June 1963.
[23] Smyser,
The Independent Vietnamese,
66. về bản phân tích về lập trường của Việt Nam xem: SAPMO,BArch, DC
900/54, 1, Zur politischen Situation in der DRV, 31 August 1963,
Pommerening, Và SAPMO, BArch, DY 30/IV A2/20/441, 1. AEA, Sektion
Vietnam, 21 tháng 8 năm 1963, Strauss, Die Haltung der DRV zum Abkommen
u¨ber teilweisen Kernteststopp.
[24]
Xem MfAA/A 8705, 198–206, Botschaft der DDR, Guhl, Bericht u¨ber die
Berichterstattung der Presse der DRV zu den Meinungsverschiedenheiten
zwischen der internationalen kommunistischen Arbeiterbewegung und der KP
Chinas sowie den damit zusammenha¨ngenden Problemen, 7 tháng 8 năm
1963.
[25]
Tên phản bội Ti-Tô lại phun ra nọc độc của chủ nghĩa xét lại’ (The
Traitor Tito again Spreads the Poison of Revisionism), Hoc Tap, no. 7
(July 1963): 9–17. Về bản phân tích xem tại MfAA/G-A 324, 31, Botschaft
der DDR Hanoi, Bibow, 19 tháng 8 năm 1963. Einscha¨tzung der
derzeitigen Haltung der Partei werktatigen Vietnams in den ideologish-
politischen Meinungs-verschiedenheiten.
[26] Như trên, MfAA/G-A 324, 28–44.
[27]
Việc ông Giáp bị quản thúc tại gia được đề cập lần đầu tiên bởi đại sứ
Liên Xô vào tháng 6 năm 1963. MfAA/G-A 324, 19. Để có nhiều nguồn thông
tin hơn xem MfAA/G-A 324, 32, SAPMO, BArch, DC 900/54, 2, Zur
politischen Situation in der DRV, 31 August 1963, Pommerening.
[28]
Xem MfAA/G-A 324, 32-33, and SAPMO, BArch, DC 900/54, 2, Zur
politischen Situation in der DRV, 31 tháng 8 năm 1963, Pommerening.
[29]
MfAA/G-A 324, 37–38, and MfAA/A G-A 331, 61–62, 1. AEA, Information
u¨ber die derzeitige Haltung der Partei der Werkta¨tigen Vietnams (PWV)
zu den ideologischpolitischen Meinungsverschiedenheiten, 11 October
1963, Lo¨bel, Sektionsleiter.
[30]Xem
MfAA/A G-A 331, 61. Về cuộc tranh luận giữa những đảng viên lão thành
“thân Liên Xô” như đã được đề cập ở trên và “thế hệ mới” của Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ, xem Vũ Thư Hiên,
Đêm giữa ban ngày, 225–226.
[31] Lê Đức Thọ, ‘Phát huy truyền thống cách mạng’, trang 2, 4.
[33]
SAPMO, BArch, DC 900/54, 1–2, ADN Außenstelle Hanoi/Vietnam, Zur
politischen Situation in der DRV, Pommerening, 18 September 1963. Cũng
xem từ: MfAA/A G-A 331, 56–57, and MfAA/G-A 326, 45, 71–72, Botschaft
der DDR Hanoi, Einscha¨tzung der Haltung der Fu¨hrung der PWV und der
Regierung der DRV zu den ideologischen Meinungsverschiedenheiten in der
internationalen kommunistischen Arbeiterbewegung sowie zu innen- und
außenpolitischen Problemen, 14 November 1963, Bibow, 2. Sekr.
[34] Xem Heng, ‘
Of the State, for the State, Yet Against the State’, 126–135.
[35] Hồng Chương, ‘
Đó là vấn đề tư tưởng hoặc là vấn đề nghệ thuật?’, trang 50. Để có nhiều chi tiết cụ thể hơn về vụ Hà Minh Tuấn, đọc Trần Thư,
Tử tù tự xử lý nội bộ
(hồi ký), trang 120–124, và Heng, ‘Of the State, for the State, Yet
Against the State’, trang 131–132. Để biết một nghiên cứu có nhiều
thông tin mới về chiến dịch chống lại Hà Minh Tuấn và những nhà văn
khác mang tư tưởng “xét lại” được xuất bản trong thời gian đầu “thời kỳ
đổi mới”, xem Mai Ngữ, ‘Về một thời kỳ đã qua’, trang 106–107. Cũng xem
thêm bản báo cáo của tùy viên văn hóa Đông Đức trong MfAA/A 8701,
Botschaft DDR Hanoi, 3 tháng 8 năm 1963, Mehlig, 115–123. Bericht u¨ber
den 3. Schriftstellerkongreß der DRV (10.–12.1.1963) und einige Fragen
der Entwicklung der vietnamesischen Literatur.
[36] Hồng Chương, ‘Đó là vấn đề tư tưởng hoặc là vấn đề nghệ thuậtt?’, trang 50.
[37]
SAPMO, BArch, DY 30/ IV 2/907/100, 1, Botschaft der DDR, 7 September
1963, Matzke Aktenvermerk Nr. 117/63, Vermerk u¨ber eine gegenseitige
Information im Min. fu¨r Kulturder DRV, 23 tháng 8 năm 1963.
[38]
SAPMO, BArch, DC 900/54, 2, ADN Außenstelle Hanoi/Vietnam, Zur
politischen Situation in der DRV, Pommerening, 18 tháng 9 năm 1963.
[39] Xem Vũ Thư Hiên,
Đêm giữa ban ngày,
trang 260–261, trước Hội nghị lần thứ 9, Tôn Thất Tùng đã viết một lá
thư cho Ủy ban Trung ương và cảnh báo Đảng về việc qúa theo sát đường
lối “thân Trung Quốc”. Tôn Thất Tùng là một nhân vật nòng cốt, có vị trí
quan trọng trong lĩnh vực hợp tác y học với Đông Đức.
[40]
SAPMO, BArch, DC 900/54, 2, ADN Außenstelle Hanoi/Vietnam, Zur
politischen Situation in der DRV, Pommerening, 18 September 1963. Để có
những ví dụ cụ thể hơn, đọc bản báo cáo của HansIsrael, giảng viên người
Đức tại Hà Nội năm 1963, 1964: SAPMO, BArch, DR 3, 1. Schicht,
2843,Berichte u¨ber die Lektorenta¨tigkeit in der VR China und in der
DRV, Hans Israel, Hanoi/Vietnam an das Staatssekretariat fu¨r das Hoch-
und Fachschulwesen, Sektor Sozialistisches Ausland, Hanoi, 15 October
1963, 3; and Hans Israel, Leipzig, an das Staatssekretariat fu¨r das
Hoch- und Fachschulwesen, Bericht u¨ber meine Ta¨tigkeit in Vietnam im
Studienjahr 1962/63, 6.
[42] Về những thông tin lý lịch của các nhân vật này , xem phụ lục tiểu sử trong
Ho Chi Minh của
Quinn-Judge, trang 308–345. Thú vị hơn, cuốn Từ điển các nhân vật lịch
sử Việt Nam được xuất bản tại Việt Nam cũng bao gồm lí lịch ngắn gọn của
Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai và Ung Văn Khiêm nhưng gần như không có
một chi tiết nào về giai đoạn “nhạy cảm” sau năm 1954 này được đề cập.
Xem Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế,
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, 95–96, 1101–1102,và 1358–1359.
[43] Nguyễn Chí Thanh, ‘Nâng cao lập trường, tư tưởng vô sản’, 6-7.
[45]
MfAA/G-A 324, 060, Botschaft der DDR Hanoi, Bergold, Information Nr. 2
u¨ber das Novemberplenum der PWV und die Entwicklung innerhalb der
Partei (Nach Informationen
aus Gespra¨chen mit Botschaftern und vietnamesischen Genossen), 15 tháng 1 năm 1964.
[46] Về bản phân tích của Hội nghị lần 9, xem Smyser,
The Independent Vietnamese, trang67-70, Duiker,
Ho Chi Minh: A Life, trang 534–538, Boudarel & Nguyễn Văn Ký,
Hanoi 1936–1996, 144–146, Boudarel,
Cent Fleurs Ecloses dans la Nui du Vietnam, 256–259. Để xem dạng hồi ký, đọc Vũ Thư Hiên,
Đêm giữa ban ngày, trang 273–275.
[47]
MfAA/A 8749, 065, Informationsbericht des ADN-Korrespondenten in Hanoi,
Information u¨ber das 9. Plenum des ZK der PWV, Eingang 1. AEA, tháng 1
(?)năm 1964.
[48]
Đọc MfAA/A 8749, 065, MfAA/G-A 324, 060-61, MfAA/G-A 324, 0126,
Botschaft der DDR Hanoi, 10 December 1963, Vermerk vom 10.12.1963 u¨ber
das Novemberplenum der PWV und die Entwicklung innerhalb der Partei.
Duong Bach Mai là người cung cấp tin tức chính.
[50] Xem Duiker,
Ho Chi Minh. A Life, trang 537, và những nhân vật xuất hiện trong
‘Đêm giữa ban ngày’ của Vũ Thư Hiên, trang 359–360.
[51] Xem
‘ Viết cho mẹ và quốc hội’, Nguyen Van Tran, trang 326-328, và Brocheux,
Ho Chi Minh, trang 246.
[52]Tài liệu thu được bởi quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam năm 1967. Đọc
The Central Committee 9th Plenum Resolution Discussing the International Situation, tháng12 năm 1963, VVA, Record 104141 (Item Number: 2320109006).
[53] Như trên, 36. Về bản phân tích nghị quyết đọc Smyser,
The Independent Vietnamese, trang 68–69.
[54] Xem nghị quyết, trang 39.
[55] Xem nghị quyết , 47- 49.
[56]Smyser,
The Independent Vietnamese, 69.
[57] Xem nghị quyết, trang 59.
[58]
MfAA/G-A 324, 061–064. Trong một hội nghị tại đại sứ quán Liên Xô vào
tháng 1 năm 1964, đại sứ Liên Xô đã tán thành bản phân tích của người
đồng nghiệp Đông Đức, đọc MfAA/G-A 324, 070, Botschaft der DDR Hanoi,
Bergold, 15 tháng 1 năm 1964, Aktenvermerk u¨ber Aussprachen des
Genossen Bergold mit dem sowjetischen Botschafter in der DRV, Gen.
Tovmassian [Tovmasyan], am 11 January 1964 in der sowjetischen
Botschaft.
[60]
SAPMO, BArch, DY 30/IV A2/20/439, 1–2, 1. AEA, Sektion Vietnam, 13
February 1964, Schneidewind, Jahresplan fu¨r die Entwicklung der
Beziehungen zwischen der DDR und der DRV im Jahre 1964
[61] SAPMO, BArch, DY 30/IV A2/20/439, 2.
[62]
MfAA/G-A 324, 073, Botschaft der DDR Hanoi, Bibow, Einscha¨tzung der
Entwicklung der politischen Situation in der DRV nach dem 9. Plenum des
ZK der PWV im Dez. 1963/Januar 1964, 27 May 1964.
[63]
Lê Đức Thọ, ‘Tăng Cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng’, 2. Bibow,
bí thư thứ 2 của đại sứ quán Đông Đức tại Hà Nội đã nhấn mạnh ý nghĩa
quyết định của loạt bài này. Đọc bài phân tích của ông tại MfAA/G-A
324, 073–074. Đọc thêm Latimer,
Hanoi’s Leaders and the Policies of War, 20, VVA, ghi chép 69694 (tin mục số: 0720118002), và Smyser,
The Independent Vietnamese, trang 72, có trích dẫn từ một bài báo tương tự của Lê Đức Thọ được xuất bản trên số báo tháng 3 tạp chí Tuyên Huấn.
[64] Lê Đức Thọ, ‘ Tăng cường’, 5/ 2/1964, trang 2.
[66]
Chi tiêt về lớp học chỉnh huấn, xem MfAA/G-A 324, 073, và đặc biệt
MfAA/A8749, 089–090, Abschrift, Informationsbericht des
ADN-Korrespondenten. in HN u¨ber eine ideologische Kampagne der Partei
der Werkta¨tigen Vietnams, Pommerening, Eingang Abt. Information, 23
tháng 4 năm 1964.
[67]
MfAA/A 8725, 074–076, Botschaft Hanoi, Studium der Resolution des IX.
Plenums des Zentralkomitees der Partei der Werkta¨tigen Vietnams u¨ber
die internationalen Probleme, 27 April 1964, Bibow. Cũng xem từ MfAA/A
8749, 089–090, Abschrift, Informationsbericht des ADN-K. in HN u¨ber
eine ideologische Kampagne der Partei der Werkta¨tigen Vietnams, Eingang
Abt. Information, 23 April 1964, and MfAA/G-A 324, 073–075. Về sơ yếu
lí lịch của những thành phần tham gia khóa học chỉnh huấn và không khí
căng thẳng tại Hà Nội, đọc Vũ Thư Hiên,
Đêm giữa ban ngày, trang 129–132, và Lê Xuân Tạ, Hồi ức về cuộc khủng bố chống chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam’, 288.
[68] MfAA/G-A 324, 074
Nguồn: Martin Grossheim (2005). “Revisionism’ in the Democratic Republic of Vietnam: New Evidence from the East German Archives”,
Cold War History, 5:4, 451-477.
THEO NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ
Báo cáo mật của N.S. Khrushop tại Đại hội ĐCS Liên Xô lần thứ 20 lên án Stalin như thế nào?
Tháng 2 năm 1956 đã xảy ra 1 sự kiện lịch sử quốc tế vô cùng
quan trọng trong phong trào cộng sản thế giới. Đó là “Bản báo cáo Mật“
của N.S Khrushop, bí thư thứ nhất BCHTU Đảng CS Liên Xô đọc trong Đại
hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô.
Gọi là báo cáo mật vì chỉ những đại biểu Liên Xô mới được dự phiên
họp kín này. Không ai, kể cả các đại biểu của các Đoàn đại biểu ĐCS “anh
em“ được mời dự Đại hội cũng không được dự. Sau đó, mỗi trưởng đoàn đại
biểu ĐCS dự Đại hội được phát riêng một bản báo cáo, trong đó có Chu
Đức là trưởng đoàn của Đảng cộng sản Trung quốc, Trường Chinh là trưởng
đoàn của Đảng lao động Việt Nam.
Sợ dứt dây sẽ động rừng, khi về nước, không trưởng đoàn nào dám báo
cáo lại nội dung bản báo cáo mật này của Khrushop với các đảng viên.
Riêng một thành viên trong đoàn BaLan là Đambrốpski đã cho phát hành bản
báo cáo mật của Khrushop trong nội bộ Đảng. Một trong những bản này đã
được đăng trên tờ New York Time tại Hoa Kỳ số ra ngày 16/3/1956. Tiếp
theo là đăng trên tờ Le Monde của Pháp. Sau đó, chỉ trong 2 tháng, hầu
hết các báo trên thế giới đã đăng lại. Bản báo cáo mật của Khrushop đã
được Đỗ Tịnh dịch nguyên văn từ bản tiếng Pháp sang tiếng Việt và phát
hành ở Paris, thuộc Tủ sách nghiên cứu Boite Postale 246. 75224 Paris
cedex 11 France.
Đây là bản cáo trạng, xoá bỏ mọi huyền thuyết tốt đẹp mà bộ máy tuyên
truyền của ĐCS Liên Xô và của ĐCS các nước đã tô vẽ cho Stalin và để lộ
nguyên hình của Stalin là 1 nhà độc tài toàn trị khét tiếng tàn bạo, đã
đàn áp dã man các phong trào của nhân dân Liên Xô đòi quyền dân chủ xã
hội và thanh trừng nội bộ khốc liệt tất cả những ai bất đồng chính kiến
với ông ta.
Mao Trạch Đông kịch liệt chống lại bản báo cáo này của Khrutsov vì ông ta chính là Stalin của ĐCSTQ.
Theo báo cáo mật của Khrushop, để thực hiện những tội ác đó, một mặt
Stalin tạo ra quan niệm “kẻ thù của nhân dân“ để loại trừ tất cả những
người bất đồng chính kiến với ông ta, không cần đến việc vận dụng các
chuẩn mực đạo lý và các chuẩn mực pháp luật, cũng không cần phải đấu
tranh tư tưởng. Mặt khác, Stalin dựa vào các cơ quan hình sự trung thành
với riêng ông ta, dùng các phương pháp bạo lực hành chính, đàn áp và
khủng bố, dùng nhục hình cưỡng bức các bị cáo phải “thú tội“ với những
tội mà họ không hề có. Nhiều vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người. Nhiều
vụ hành quyết không cần đưa ra xét xử tại Toà án, đã tạo ra không khí lo
sợ khủng bố trong xã hội Liên Xô một thời gian dài. Ở thời kỳ đó, nhiều
“ Bệnh viện tâm thần “ đã được thành lập ở Liên Xô để giam giữ những
người có ý kiến bất đồng với các chính sách của Stalin, kể cả những ý
kiến thuộc về những vấn đề thực tiễn, không liên quan gì đến lý luận.
Stalin viện cớ “càng tiến lên chủ nghĩa xã hội càng có nhiều kẻ thù và
cuộc đấu tranh giai cấp càng trở nên quyết liệt nên càng phải tăng cường
các biện pháp trấn áp và thanh trừng những người bất đồng chính kiến
trong nội bộ“. Trong rất nhiều trường hợp, các vụ án được nguỵ tạo để
đàn áp những người có ý kiến bất đồng với Stalin, với những lời buộc tội
xảo trá, làm cho nhiều người vô tội bị giết hại. Nhiều người bị vu
khống và do không chịu nổi tra tấn dã man, đã phải tự gán cho mình những
tội tày đình và cực kỳ vô lý.
Chỉ riêng trong 2 năm 1937 và 1938, Stalin đã duyệt 385 danh sách do
Êdốp đứng đầu Toà án quân sự đệ trình lên, trong đó buộc tội hàng ngàn
người với tội “kẻ thù của nhân dân“.
Trong số 1,7 triệu hồ sơ đã được giải mật, có đến 700.000 người (bảy
trăm ngàn) đã bị giết oan vào những năm 1937 và 1938 với tội bị gán cho
là “Phản cách mạng“. Chỉ riêng trong nhà tù của Uỷ ban an ninh quốc gia
(KGB), từ tháng 8/1937 đến tháng 10/1938, Stalin đã cho bắn bỏ 20.760
người (hai mươi ngàn bảy trăm sáu mươi). 98 (chín mươi tám) trong số 139
uỷ viên BCHTU ĐCSLX được bầu trong Đại hội lần thứ 17 (chiếm 70%) phần
lớn xuất thân từ công nhân, đã bị bắt và bị kết tội là “kẻ thù của nhân
dân“. 1108 (một ngàn một trăm lẻ tám) người trong số 1956 đại biểu đã dự
Đại hội ĐCSLX lần thứ 17 (chiếm 57%) đã bị bắt và bị kết tội “Phản cách
mạng“ do bất đồng với đường lối chính sách của Stalin.
Tháng 6 năm 1937, Thứ trưởng quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng Hồng
quân, Nguyên soái Tukhachepsky và 7 đại tướng đã bị gán tội làm gián
điệp cho nước ngoài và tất cả đều đã bị xử bắn (về sau đã được minh
oan).
Các vụ án đã được thẩm tra lại. 3 (ba) trong số những vụ án đó đã
được đọc trong báo cáo mật của Khrushop là 3 vụ án của Ây-khê, Rútduxtắc
và Rođenblum.
Ây-khê là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị, bị bắt ngày 29/4/1938 mà
không có lệnh bắt của công tố viên. Ây-khê bị tra tấn và bị buộc ký vào
biên bản làm sẵn, thú tội “đã hoạt động chống lại chính quyền Xô Viết“.
Ngày 01/12/1939 Ây-khê viết thư cho Stalin. Trong thư Ây-khê viết: ”Tôi
không phạm tội gì trong tất cả những tội người ta đã gán cho tôi. Sự
thật là tôi không chịu nổi sự hành hạ của Ushakốp và Nhicôlaép (người
của Bộ Nội vụ). Ushakốp biết tôi bị gãy xương sườn chưa lành hẳn nên hắn
gây cho tôi đau đớn khủng khiếp khi hắn thẩm cung và bức tôi phải thú
tội những tội do Ushakốp đọc cho tôi viết“. Phiên toà xử Ây-khê vào ngày
02/2/1940. Trước Toà, Ây-khê không nhận bất kỳ tội nào và tuyên bố:
”Tất cả cái gọi là lời thú tội của tôi không có 1 từ nào là sự thật. Tôi
tuyên bố trước Toà là tôi vô tội“. Nhưng Ây-khê vẫn bị hành quyết vào
ngày 04/2/1940.
Rútduxtắc là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị, chủ tịch uỷ ban kiểm tra
trung ương. Rúduxtắc có ý kiến bất đồng với Stalin. Stalin thành kiến
đến mức không muốn nói chuyện với Rútduxtắc và Rutduxtắc đã trở thành
nạn nhân của sự độc đoán của Stalin. Rutduxtac bị bắt. Trước Toà án quân
sự, Rútduxtắc tuyên bố: ”Trong Bộ nội vụ có một trung tâm chuyên bịa
đặt ra các vụ án buộc những người vô tội phải nhận những tội mà họ không
bao giờ vi phạm. Những phương pháp điều tra của trung tâm này đã cưỡng
ép người ta phải dối trá vu khống cho những người hoàn toàn vô tội, chưa
kể đến chuyện vu khống cho những người đã bị buộc tội“. Phiên Toà chỉ
xử Rutduxtắc trong 20 phút. Rútduxtắc bị kết án tử hình và đã bị xử bắn.
Theo Khrushop, vụ án Ây-khê và Rútduxtắc đã được thẩm tra lại và 2 ông đã được phục hồi danh dự.
Vụ án Rodenblum còn bỉ ổi hơn nhiều. Rodenblum bị bắt và bị gọi vào
Văn phòng của Dukốpski (người của Bộ nội vụ). Dukốpski hứa sẽ trả tự do
cho Rodenblum với điều kiện khi ra trước Toà, Rodenblum thú nhận có tội
“hoạt động phá hoại, gián điệp và gây rối do 1 trung tâm khủng bố ở
Leningrad tổ chức vào năm 1937”. Dukốpski nói Bộ nội vụ sẽ biên soạn sẵn
cho Rodenblum một sơ đồ các chi nhánh của trung tâm khủng bố đó.
Rodenblum phải thuộc để trả lời các câu hỏi của Toà án sẽ đưa ra. Nếu
Rodenblum khai báo với Toà đúng như Bộ nội vụ đã biên soạn sẵn thì họ sẽ
chu cấp cho Rogenblum suốt đời. Ngược lại thì Rodenblum sẽ mất mạng.
Cũng theo báo cáo mật của Khrushop, Stalin không chỉ đàn áp, tước bỏ
quyền dân chủ xã hội của người dân nước cộng hoà liên bang xô viết.
Stalin còn đày đoạ nhiều dân tộc trong liên bang xô viết. Năm 1943,
Stalin đã ra quyết định buộc toàn bộ dân tộc Karachai và dân nước cộng
hoà tự trị Kan-mức phải bị đuổi đi khỏi lãnh thổ họ đang sinh sống vì họ
bất đồng với chính sách của Stalin. Năm 1944, toàn dân nước cộng hoà tự
trị Banca cũng chịu chung số phận như dân tộc Karachai và dân tộc
Kan-mức.
Bản báo cáo mật này của Khrushop có tên là “Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó“.
Vì Khrushop quan niệm “không được giặt quần áo bẩn trước mắt kẻ thù“,
nên khi đó nguyên nhân đích thực của vấn đề này vẫn chưa được giải
thích rõ. Sau khi Đại hội ĐCS Liên Xô lần thứ 20 kết thúc, một câu hỏi
được tiếp tục tranh luận trong nhiều Đảng cộng sản ở Phương Tây là: ”Tại
sao cách mạng vô sản đã được thực hiện ở Liên Xô. Ở đó giai cấp tư sản
đã bị xoá bỏ. Giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp duy nhất lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa mà ở đó lại tồn tại chế độ độc tài toàn trị
tàn bạo như vậy?”.
Để tìm câu trả lời đích thực, các nhà sử học đã tìm ở thực trạng xã
hội Liên Xô vào thời điểm đó, khi Lênin mất vào năm 1924 và Stalin trở
thành người kế tục. Như Lênin đã viết trong bài “Thà ít mà tốt“ (Lênin
toàn tập, tập 45) rằng: ”Chúng ta chưa đủ văn minh để có thể trực tiếp
chuyển lên chủ nghĩa xã hội“ (theo lý tưởng nhân đạo nguyên thuỷ của
Marx) thì Stalin chính là 1 trong những con người chưa đủ văn minh như
vậy.
Mặt khác, chế độ chính trị toàn trị độc tài dựa trên chuyên chính vô
sản đã đem lại rất nhiều đặc quyền đặc lợi cho 1 giai tầng mới hình
thành ở Liên Xô là giai tầng của những quan chức quan liêu xuất thân từ
các đảng viên cộng sản trong bộ máy Đảng và Nhà nước Liên Xô, đang độc
quyền lãnh đạo và cầm quyền, mà theo Lênin viết trong phần 3, bài:
”Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết“, khi ông đã thức tỉnh
thì đó là những kẻ bịp bợm, những kẻ bất tài, những kẻ lười biếng ăn
bám, những kẻ vô lương tâm trong số các Thủ trưởng đang bám vào Chính
quyền xô viết để mong trở thành các “ngôi sao“ trong nghề ăn cắp của
công.
Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của họ, họ phải ra sức bảo vệ chế độ
chính trị đó. Họ phải vun đắp uy danh cho người đứng đầu là Stalin. Họ
đã dùng mọi cách tô vẽ để biến Stalin thành con người nhân hậu, thông
hiểu mọi thứ trên đời như một vị thánh sống, đủ trí tuệ suy nghĩ thay
cho mọi người, có thể làm bất kỳ việc gì mà không bao giờ mắc sai lầm
trong thực tiễn, rồi núp bóng của Stalin để duy trì các đặc quyền, chống
lại những đòi hỏi của nhân dân về dân chủ xã hội và chủ nghĩa Mác
nguyên thuỷ đã bị biến dạng.
Trong xã hội Liên Xô thời điểm đó, ai phê bình Stalin là chống lại
Lãnh tụ, chống lại Lãnh tụ là chống Đảng mà chống Đảng tức là chống chủ
nghĩa xã hội, phải chuyên chính vô sản, phải bị tiêu diệt. Quyền lực của
Stalin không bị kiểm soát dẫn đến ngày càng lạm quyền. Khi uy thế và
quyền lực của Stalin đã vượt quá giới hạn mà những kẻ xu nịnh và tâng
bốc mong muốn thì chính họ cũng bị trở thành nạn nhân của những trò hề
do chính họ tạo ra, rồi bất kỳ ai bất đồng ý kiến với Stalin đều bị kết
tội là “kẻ thù của nhân dân“ và bị Stalin trừng phạt.
Theo Thủ tướng Nga Putin thì “những người bị thảm sát là những người
con ưu tú nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó“. Vì thế, như Khrushop đã
đọc trong báo cáo mật: sự phát triển của mọi ngành hoạt động, từ kinh
tế – xã hội đến hoạt động văn hoá trong xã hội Liên xô khi đó đều bị tê
liệt. Hệ thống lãnh đạo được áp dụng ở Liên Xô trong những năm cuối đời
của Stalin đã trở thành vật chướng ngại đối với con đường phát triển của
xã hội Liên Xô.
Trong ngày kỷ niệm 65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga
Metvedep nói “Stalin đã phạm nhiều tội ác chống lại nhân dân và không
thể tha thứ. Dù từng cá nhân có quyền đánh giá khác nhau về Stalin thì
quan điểm của Nhà nước Nga hiện nay là Chủ nghĩa Stalin không thể quay
lại trên nước Nga nữa“.
Bản báo cáo mật của Khrushop đã mở đầu cho trào lưu đấu tranh chống
lại chế độ toàn trị độc tài trong các quốc gia thuộc phe xã hội chủ
nghĩa và cuối cùng đã làm thay đổi bộ mặt chính trị trên hành tinh như
ngày nay chúng ta đang sống.
Trong suốt 30 năm ở thời kỳ chiến tranh lạnh, nhiều Lãnh tụ cộng sản
đã sùng bái Stalin và tỏ ra trung thành với chủ nghĩa Stalinít. Ở Việt
Nam, Tố Hữu, uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN đã làm thơ tâng bốc Stalin: ”Yêu
biết mấy nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin. Thương cha,
thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông Stalin
thương mười”. Đến năm 1958, khi bản báo cáo mật của Khrushop được tiết
lộ rộng rãi, dân chúng các nước Balan, Hungarie, Tiệp khắc đã đập phá
các tượng đài của Stalin. Nhiều Đảng Cộng sản Châu Âu như Pháp, Italia,
Tây Ban Nha một thời tôn sùng chủ nghĩa Stalinít, nhưng từ sau Đại hội
ĐCS Liên Xô lần thứ 20, không còn ai muốn nhắc đến cụm từ “Stalinít“
nữa. Từ tháng 2 năm 2013, Đảng cộng sản Pháp đã bỏ biểu tượng búa liềm
trên thẻ Đảng tượng trưng cho nền chuyên chính vô sản. Đến nay hầu hết
các Đảng Cộng sản Châu Âu và Đảng cộng sản Nhật đã từ bỏ chủ nghĩa cộng
sản Mácxít-Leninít, chuyển sang Chủ nghĩa cộng sản Châu Âu, có tên gọi
là Eurocommunism, gần gụi với Chủ nghĩa Xã hội dân chủ.
Nguồn tư liệu: Lược trích báo cáo mật của N.S. Khrushop đọc
tại Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ 20, tiêu đề “Về tệ sùng bái cá
nhân và những hậu quả của nó“, bản tiếng Việt của Việt Nam thư quán
(http://vnthuquan.net).
THEO Phan Vĩnh Hựu
Đảng và nhà nước Việt Nam lại làm chuyện tréo ngoe: Vay tiền xây Viện Kỹ thuật Hạt nhân trị giá 10 ngàn tỷ
Trong thời gian qua và nhất là chỉ mới
cách đây vài tuần lễ, vào đầu tháng 08, trên khắp các tờ báo giấy và
báo mạng của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trong lúc tường trình về
kế hoạch “trình báo cáo khả thi dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận cuối
năm nay” cho biết rằng Nga sẽ tài trợ Việt Nam để tập đoàn Rosatom xây
cất một Viện Kỹ Thuật Hạt nhân tân tiến đầu tiên với trị giá khoảng 500
triệu USD, tương đương khoảng 10 ngàn tỷ đồng Việt Nam. Đại diện Rosatom
còn cho hay viện này là một viện Hạt nhân đầu tiên do Rosatom Nga xây
dựng tại nước ngoài.
Người đọc tin này cứ ngở rằng Nga và Rosatom đứng ra tài trợ
toàn bộ dự án xây cất viện hạt nhân này, và phía Việt Nam không phải tốn
tiền, theo đúng nghĩa của hai chữ “tài trợ = cho không”. Thôi, dù cho
nước mình nghèo, các em nhỏ ở những vùng quê phải lội sông vượt suối đến
trường đề tìm ba cái chữ – chòi thì đúng hơn mái trường – được một tập
đoàn Nga nó hảo ý chung chi đến cả vạn tỷ đồng xây “chùa/free” viện này
viện nọ mình cứ nhận đi trước cái đã, dầu sao đó cũng là tiền mồ hôi
nước mắt của 90 triệu dân mình nằm trong món tiền hơn chục tỷ USD chung
chi cho dự án nhà máy điện hạt nhân, coi như tiền “khuyến mải” hay “lại
quả”, sau này có gì còn tháo bán sắt vụn gở gạt. Nếu mình làm anh hùng
rơm, thanh liêm không thèm tham nhũng, không nhận số tiền “lại quả” tính
trong số tiền phải trả Rosatom cho một món hàng hời trên dưới 20 tỷ USD
(400 ngàn tỷ đồng) thì chỉ toi bị thiệt thòi.
Đùng một cái, ngày 17/08/2013 trên trang báo Tuổi Trẻ, phiên bản tiếng Anh, đăng tin:
“Vietnam
to build 500 mln nuclear centre in late 2015” - Việt Nam xây trung
tâm hạt nhân trị giá 500 triệu USD vào cuối năm 2015. Điểm đặc
biệt của bản tin này là nó lại trái ngoe với những tin tức mà báo chí và
các cơ quan truyền thông của đảng và nhà nước đã đăng từ trước đến nay,
chí phí cho dự án xây cất trung tâm nghiên cứu hạt nhân này thực ra là
tiền vay 500 triệu USD với lãi suất cắt cổ 5%/năm từ chính phủ Nga chứ
không phải là do tập đoàn Rosatom bảo trợ
.
Thật hởi ôi! Việt Nam đã từng bị bọn tập đoàn bán máy điện hạt nhân
dõm Rosatom lừa một vố vĩ đại giá hơn chục tỷ USD cho một nhà máy điện
“địa ngục” hạt nhân với nguy cơ sẽ đẩy toàn dân Việt vào hố đen của nạn
diệt chủng một khi có thảm họa hạt nhân tương tự như Chernobyl hay
Fukushima, nay lại còn bị bồi thêm một đòn lừa 500 triệu USD xây Viện
hạt nhân “hiện đại” để nghiên cứu (?).
Đất nước Việt Nam nghèo muốn rớt mồng tơi, cái học của các cháu, cái
ăn cái mặc căn bản của dân lo chưa xong, trường học các nơi thôn quê xa
thành phố là những cái chòi tranh vách phên vách nứa bốn phía trống
trơn, các em phải đu dây, lội sông vượt suối đánh đổi mạng sống để tìm 3
cái chữ, cơ xưởng công kỹ nghệ thì thấp kém đến nổi bồ lon ốc vít chưa
làm được nên thân nên hình mà lại đua đòi làm viện nghiên cứu nguyên tử
hạt nhân trị giá hằng vạn tỷ đồng tiền đi vay rồi tốn nhiều tỷ mỗi năm
để bảo quản. Đây là một việc làm theo phong cách nghèo chơi sang, dốt
chơi chữ, nhà tranh vách đất mà trong nhà chưng một dàn tủ chứa đầy đủ
bộ sách tự điển bách khoa toàn thư mạ vàng.
Có lẽ đây là phong cách của đảng cộng sản, chơi nổ để chứng minh sư
“ưu việt” của chế độ cộng sản Việt Nam so với chế độ tư bản đang dãy
chết, như trường hợp bay một lèo lên vũ trụ của “phi hành gia” Phạm Tuân
năm 1960, xây Trung tâm vũ trụ hiện đại hàng đầu ĐNA ngốn khoảng 700
triệu USD (15 ngàn tỳ đồng), v.v.
Đây là việc làm rất sai trái và cần phải bị quyết liệt phê phán và
lên án trước công luận. Đảng cộng sản và nhà nước cần thiết phải ngưng
ngay việc làm thật sự quá phung phí này, không được phép đem tương lai
của đất nước và sinh mạng của dân chúng ra làm trò đùa để bôi son trét
phấn, để thỏa mãn tham vọng của đảng và các nhóm lợi ích.
Để có thể chận đứng kịp thời được việc này thật qúa lố lăng này, đất
nước Việt Nam cần thiết phải có các tổ chức đối lập với nhà nước cộng
sản Việt Nam làm đối trọng để người dân có quyền kiểm tra, kiểm soát
những việc làm của chính quyền mà dưới một chế độ độc đảng toàn trì mọi
tần lớp người dân không thể nào có được.
Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam
===
A researcher is seen standing in the laboratory at a nuclear research
center in the Central Highlands city of Da Lat in this April 12, 2013
photo illustration.
Tuoi Tre
Vietnam will start the construction of a nuclear technology
center, possibly in the Central Highlands, which will cost half a
billion dollars in two years, an atomic energy official told Tuoi Tre on Thursday.
The Ministry of Science and Technology has been assigned to steer a
project to build the Nuclear Science and Technology Center with
consultation from Russian experts, Tran Chi Thanh, director of the
Vietnam Atomic Energy Institute, said at a conference on nuclear
technology in the southern province of Ba Ria-Vung Tau.
Funding will come from loans worth US$500 million provided by the
Russian government, Thanh said, adding that feasibility studies and site
selection are under way.
“Work on the project will probably begin in late 2015, under
favorable conditions, and we have proposed building it in the Central
Highlands city of Da Lat,” Thanh said.
Thanh lamented that Vietnam has not paid proper attention to the
training of skilled workers for the nuclear power sector even though it
aims to develop nuclear power plants in the central region.
There are no nuclear power experts, nor is there a specific strategy
for training personnel for this industry at the moment, he pointed out,
suggesting that the government should invest more in science and
technology in order for the vision of nuclear power to be realized.
The Vietnamese government has approved a plan to put five nuclear
power plants into operation in the central region between 2020 and 2030,
given forecasts that the country will face a serious shortage of power
by 2020.
Construction of the first two plants is expected to begin late next
year and be completed by 2022, with power starting to be generated in
late 2020.
Vietnam has decided to use Russian technology for the first facility and Japanese expertise for the other.
Báo cáo đại tá Trần Sơn Hà!
Đại tá Phó Cục trưởng cục CSGT (C67) Bộ công an Trần Sơn Hà
ký văn bản 1042 nói về nội dung cấm giả danh nhà báo quay phim, chụp ảnh
cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, trong đó đoạn:
“Luôn luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm rõ với những đối tượng có lời nói đe
dọa, lăng mạ hoặc có hành vi chống đối CSGT đang thực thi công vụ hoặc
quay phim chụp ảnh hoạt động tuần tra kiểm soát (TTKS), xử lý vi phạm
(XLVP) khi chưa được sự đồng ý của CSGT đang làm nhiệm vụ.”
Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản, nếu
giả danh nhà báo thì tạm giữ, lập hồ sơ chuyển cơ quan chức năng xử lý
theo quy định của pháp luật”, làm dậy sóng dư luận, tựu trung là được
hiểu như cấm nhà báo, và công dân quay phim chụp ảnh các hoạt động của
CSGT trên đường.
Sau khi các báo chất vấn, đại tá Hà, sau đó là đại tá Tuấn ( cũng cục
phó C67) đều trả lời không cấm nhà báo quay phim chụp ảnh, và không cấm
người dân quay phim chụp ảnh: “Theo tinh thần văn bản này có thể hiểu,
người dân hoàn toàn được tự do ghi âm ghi hình CSGT ở những địa điểm
không có biển cấm quay phim chụp ảnh. CSGT đang thực thi công vụ chứ
không phải riêng tư nên người dân không cần phải xin phép”..
Tóm lại là nhà cháu đầu óc sáng suốt lắm nhưng không hiểu nội dung văn bản cấm rồi trả lời thì không cấm là như thế nào.
Báo cáo các đại tá:
1. Việc mạo danh nhà báo thì đã có pháp luật trừng trị. Còn việc công
dân quay phim chụp ảnh để vì động cơ tiêu cực, động cơ bôi nhọ, động cơ
bóp méo sự thật, động cơ xuyên tạc sự thật thì khi có chứng cứ, chẳng
cần văn bản này thì pháp luật cũng sẽ trừng trị. Cho nên nói phát hành
văn bản này để cấm mạo danh nhà báo hay cấm những hành vi công dân cố
tình bôi nhọ, làm xấu hình ảnh cảnh sát giao thông là thừa.
2.Nếu nói, chỉ được quay phim chụp ảnh ở những địa điểm không có biển
cấm quay phim chụp ảnh thì quá đúng, pháp luật đã quy định rất rõ tại
Quyết định 160 từ năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định, khu vực
cấm quay phim chụp ảnh phải đảm bảo 2 điều kiện. Đó phải là khu vực cụ
thể bị cấm theo quy định và phải có biển cấm.
Các khu vực cụ thể bị cấm như là: các khu quân sự, khu công an, doanh
trại quân đội nhân dân, doanh trại công an nhân dân, kho vũ khí của
quân đội nhân dân, công an nhân dân; Các kho dự trữ chiến lược quốc
gia;…
Khi có tình huống đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội và trong trường hợp có thảm họa do thiên nhiên, con
người, có dịch bệnh nguy hiểm lây lan trên quy mô lớn, đe dọa nghiêm
trọng, tính mạng, sức khoẻ, tài sản của nhân dân, Nhà nước, mà Nhà nước
chưa ban bố tình trạng khẩn cấp thì Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc TW được quyền xác định khu vực cấm, địa điểm
cấm tạm thời đối với công dân Việt Nam và người nước ngoài”.
Cho nên tất cả những chốt, những vị trí làm việc suốt tuyến đường của
cảnh sát giao thông chắc chắn không nằm trong quy định cấm quay phim
chụp ảnh, nói rõ ra thế để tránh trường hợp, chốt cảnh sát giao thông ở
đâu thì tùy tiện đặt biển cấm quay phim chụp ảnh là không có được đâu
thưa đại tá.
3.Đại tá ở một cơ quan thực thi pháp luật, điều tối thiêu đại tá cần
biết là bất cứ một văn bản nào phát hành cũng không và không thể “qua
mặt” các bộ luật đã quy định. Đại tá có thể ra văn bản trong khuôn khổ
cán bộ chiến sĩ do Cục của Đại tá quản lý, khi đụng đến công dân, nhà
báo là nhảy vọt quá xa quyền được phép đấy đại tá ạ.
4.Và nói hết ra thế, để nói câu cuối, văn bản này không có ý nghĩa gì
nữa. Vì như thế thì nhà báo hay công dân có quyền( như vốn là thế) giám
sát mọi hoạt động của cảnh sát giao thông cả việc quan sát, quay phim,
chụp ảnh, ghi âm.
Và việc cần làm lúc này là gì? Thu hồi văn bản. Thế thôi.
Đúng không ạ?
Báo cáo đại tá, hết.
Theo Nguyễn Quang Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét