Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Tin ngày 20/8/2013 - “Cấm” công dân và nhà báo ghi hình CSGT làm nhiệm vụ?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

YÊU NƯỚC LÀ NGU NGỐC HAY DŨNG CẢM?

Ngày 20/5/2013, tôi có tham gia buổi tọa đàm để đóng góp ý kiến xây dựng Báo cáo chung của các bên liên quan gửi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc cho kiểm điểm định kỳ toàn cầu của Việt Nam năm 2014.
Đây là một buổi tọa đàm “vô cùng nhạy cảm”. Nhạy cảm ngay từ cái tên gọi chứ chưa cần phải đề cập tới thành phần tham gia, mục đích và các nội dung được mang ra thảo luận.
Ngay sau khi kết thúc tọa đàm, tôi có tường thuật lại một vài suy nghĩ trong bài viết “PR CẤP QUỐC GIA, VÌ SAO CHƯA TỐT?” (http://on.fb.me/13zx3jm) bằng việc phân tích một số thông tin “đáng chú ý” trong ngày hôm đấy.
Nhưng một chi tiết cũng “hót hòn họt” không kém là ngay trong buổi sáng, bỗng đâu xuất hiện một vị khách không mời là một đồng chí trong Bộ LĐ-TB-XH, đứng lên đưa ý kiến về khái niệm “các tổ chức xã hội dân sự” gây tranh cãi căng thẳng nghị trường và rối loạn đội hình.
Chi tiết này tôi không đưa vào trong bài viết vì nó hoàn toàn không liên quan đến nội dung chính cần đề cập. Cũng như câu chuyện riêng của cá nhân tôi với một vị phụ trách văn phòng Cao ủy nhân quyền của Liên hiệp Quốc cũng đã được “tự động censor” với cùng một lý do tương tự.
Bà ấy đã gọi tôi ra nói chuyện riêng và giải thích bà chú ý đến tôi vì tôi là blogger có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Bà ấy nói còn ở lại Việt Nam vài bữa, và mong muốn được kết nối với một số blogger giống như tôi để giúp họ nêu ý kiến về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Với vai trò đại diện cho Văn phòng cao ủy nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, bà cam kết sẽ lắng nghe và chia sẻ.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại, việc làm này – theo bà – là “legal” hay “illegal” vậy? Suy nghĩ và trầm ngâm một lúc, bà ấy trả lời tôi rằng theo quan điểm của bà thì không có gì là “illegal” cả. Nhưng với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam, tôi có thể gặp một số “vấn đề”. Tôi hỏi theo kinh nghiệm của bà, thì đó có thể là những vấn đề gì?
Bà ấy nói tôi “có thể bị chính quyền để ý, gây khó dễ hay sách nhiễu”. Bà ấy còn nói cuộc gặp của chúng tôi (tôi và các blogger khác với bà ấy) có thể bị ghi âm, quay film, chụp hình… nhưng không có gì là quá nghiêm trọng.
Lời trấn an ấy cùng với bản tính dám nghĩ dám làm dám chịu của mình, lẽ ra tôi đã đồng ý thực hiện một việc “hơi nhạy cảm” như vậy. Nhưng sau 2 tiếng suy nghĩ mãi mà chưa thông suốt, tôi gọi cho người bạn luật sư của mình để xin ý kiến thì bạn đó hỏi lại tôi “Bà ấy tổ chức (host) cuộc gặp gỡ đó rồi nhờ Long mời bạn bè tới (invite) trao đổi, hay bà ấy muốn Long tổ chức cuộc gặp và bà ấy tới với tư cách khách mời? (guest)”. Tôi bảo tôi không rõ nữa và cần hỏi lại.
Khi được hỏi, bà ấy đã ngay lập tức trả lời tôi rằng, tất nhiên tôi sẽ là “host”, có thể thoải mái “invite” các bạn bè blogger tham dự, bà sẽ “join” với tư cách “guest” và sẵn sàng “sponsor” (tài trợ tiền) cho tôi thực hiện việc này.
Khi được thông báo lại, bạn luật sư của tôi nói rằng như vậy thì “vô cùng nguy hiểm”. Và tất nhiên sau đó, cuộc gặp đã không bao giờ được diễn ra. Bà ấy không hiểu nguyên nhân, còn tôi thì rút ra cho mình một bài học vô cùng sâu sắc.
Đó là, chính trị không phải cuộc chơi của những kẻ tay ngang.
Nếu như ngày hôm đó, tôi quá tự phụ vào kiến thức và trải nghiệm của bản thân để rồi không cẩn thận hỏi lại ý kiến luật sư; nếu như tôi không có đủ mối quan hệ xã hội cần-là-có ngay như vậy, thì tôi chưa hìinh dung được hậu quả sẽ thế nào?
Tôi lại nhớ đến một vài “người bạn” còn đang ở độ tuổi sinh viên của tôi trên facebook. Họ vô tư viết bài rủ rê nhau đi “biểu tình thể hiện lòng yêu nước” mà không biết rằng luật pháp không cấm bạn biểu tình nhưng việc lôi kéo và kích động kiểu tình thì lại là một vấn đề hoàn toàn khác!
Tôi cũng nhớ đến cái lần mình “xuống đường” trong “ngày lịch sử” tháng 6/2011 ở Sài Gòn với hơn 3000 người, rầm rộ bao vây đại sứ quán Trung Quốc ở đối diện Nhà văn hóa Thanh Niên. Chúng tôi – là tôi và hàng ngàn bạn trẻ cùng tầm tuổi – đã gào thét, giằng co trước hàng rào thép gai được dựng lên bởi những người công an cùng dòng máu với mình.
Có nhiều người đã chửi bới và xỉ nhục “tụi công an chó chết, làm nô lệ cho trung quốc, ngăn chặn người dân yêu nước”. Họ kêu gọi tràn lên, hẩy đổ hàng rào để “vào bên trong [đại sứ quán] nói chuyện đúng sai”.
Tôi cũng có chung ý nghĩ và mong muốn y như họ vậy.
Chỉ bởi vì khi ấy tôi chưa từng được nghe bất cứ ai nói với mình rằng đại sứ quán không phải là lãnh thổ của Việt Nam. Nếu chúng tôi vào, người ta có quyền bắn chết ngay lập tức!
May mà có “tụi công an chó chết làm nô lệ cho trung quốc” đã ngăn chặn chúng tôi bằng mọi giá. Nếu không, sự thể sẽ thế nào?
Kết thúc buổi tọa đàm ngày 20/5, tôi ngồi lại và tự hỏi còn bao nhiêu việc “nhỏ xíu xìu xiu” nhưng nguy hiểm bội phần như vậy mà tôi chưa được biết? Còn bao nhiêu lần tôi có thể vô tình may mắn “vượt vòng nguy hiểm” trong gang tấc? Và có bao nhiêu bạn trẻ có thể có được may mắn như tôi?
Tôi viết bài này không chỉ như một câu chuyện vu vơ trong ngày 19/8, mà còn vì tôi đọc được những lời lẽ tung hoa múa lụa của nhiều bạn sinh viên khi quan sát trên facebook Đặng Mai Hương (con bố Tuấn) về việc sinh viên Phương Uyên được thả.
Tôi thấy lo sợ khi các bạn trẻ coi Phương Uyên như một vị anh hùng, bày tỏ lòng ngưỡng mộ và thề bồi học tập.
Lý tưởng thì ai cũng có. Lòng yêu nước thì ai cũng có. Khi sống trong một xã hội tự do, chúng ta có quyền tự do thể hiện lý tưởng và lòng yêu nước của mình dưới bất cứ hình thức nào phù hợp và bản thân cho là đúng đắn.
Chỉ mong các bạn lưu ý giúp một điều. Nếu bạn biết rõ hậu quả của việc bạn sẽ làm và chấp nhận trả giá cho việc đó thì chúng ta sẽ gọi là dũng cảm, người có hoài bão và lý tưởng. Còn nếu nhắm mắt nhắm mũi làm bừa, không hề biết rõ những nguy hiểm ở phía sau, vô tình vi phạm pháp luật và bị bắt trong ngơ ngác thì đó không phải là dũng cảm.
Đó là ngu ngốc, hay nhân văn thì gọi là “hành động xốc nổi đáng thương”. Lựa chọn thế nào, hoàn toàn do các bạn.
>>> Hãy share bài viết này về wall của bạn nếu thấy nó thực sự hữu ích cho không chỉ bản thân bạn mà còn như một lời nhắn gửi chân thành nhất đến tất cả bạn bè.
THEO FB Nguyễn Ngọc Long Blackmoon

Cú trảm ở Đà Nẵng, bát mì ở Nội Bài

Chẳng bao giờ có một quán cóc mọc lên bên vỉa hè sân bay. Nhưng nếu có, có lẽ, chẳng cần phải bộ trưởng ra nghiêm lệnh về một chất lượng dịch vụ đáng lẽ chỉ có trong viện bảo tàng để những người hoài cổ nhớ về thời bao cấp.
Tháng 10.2011, dư luận lên cơn sốt trước cú “trảm tướng” của Bộ trưởng Đinh La Thăng ở sân bay Đà Nẵng. “Các ông đùa à”- Lời Bộ trưởng. Và ngay sau đó, ông gọi điện thoại điều một “viên tướng” khác về Đà Nẵng.
Ngay lập tức, dư luận nhớ lại lời tuyên bố trong ngày đầu nhậm chức của Bộ trưởng xung quanh mấy chữ “vị tướng ra trận” để ca ngợi ông là “Bộ trưởng của hành động”.
18 tháng sau cú “trảm tướng” ở sân bay Đà Nẵng, PV báo Lao Động từng xin lỗi để thẳng thắn đặt câu hỏi với Bộ trưởng là ông đã trảm được bao nhiêu? “Nhiều chứ. Hàng chục nhà thầu, Ban quản lý”- Bộ trưởng nói, dù ông thay từ “trảm” bằng chữ “thay thế”.
Đằng sau mỗi nhà thầu là một thế lực kinh tế. Đằng sau mỗi “Ban quản lý” là lằng nhằng những quan hệ. Và trong vô số những cái khó của công tác quản lý, có lẽ, quản lý con người, nhất là liên quan đến những cái ghế, những lợi ích, không hề đơn giản, không thể vô tình chỉ là “rút dao chém xuống nước”.
Bộ trưởng Thăng đã không đùa. Và ít nhất “hàng chục nhà thầu”, và ít nhất “cả ngành GTVT” biết chắc như thế.
Bởi vậy, chỉ vài ngày sau khi bị Bộ trưởng đích thân phê bình, đề nghị chấn chỉnh, thậm chí “lập đường dây nóng” xung quanh những tồn tại trong khâu dịch vụ tại Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài, giá mì tôm đã giảm từ 40-50 ngàn xuống còn 20 ngàn.
Xung quanh những cái tệ ở Nội Bài, có người đã nói về nạn “cơm tù giữa chốn văn minh” khi người ta “mài dao thật sắc, chém thật ngọt”.
Có người đã tổng hợp thái độ của nhân viên ở đây trong mấy chữ “Mặt thì lạnh như tiền. Ăn nói thì thiếu nhân xưng. Thái độ thì khệnh khà khệnh khạng”. Nơi đó, một chai nước đắt gấp 6 lần thị trường. Một cốc trà đá cho những người nghèo khát và dám hỏi được hét với một cái giá “ngất xỉu”: 35 ngàn. Nhân viên an ninh hỏi khách hàng bằng ánh mắt và lời nói “như hỏi cung”. Và, “Nụ cười ở Nội Bài, có lẽ chỉ có trên những poster hình cô tiếp viên mà thôi”.
Nói thêm, không phải chỉ những khách hàng thường dân phải chịu sự đối xử đó. Hồi đầu tháng 4, trong công văn yêu cầu Vietnam Airlines chấn chỉnh thái độ và chất lượng phục vụ, Bộ GTVT cho biết sự phản ánh đến “kể cả (từ) một số khách hàng là khách ưu tiên và cán bộ cấp cao Nhà nước”.
Trở lại với bát mì tôm. Với giá bát “mì tôm sân bay” 40-50 ngàn, người dân có sự lựa chọn nào?
Họ chỉ có thể “giơ cổ” để ăn một bát mì, có lẽ là đắng ngắt. Hoặc nhịn đói.
Nhưng nếu đó là một bát mì bán ngoài phố, trong một khách sạn, hay tóm lại, điều gì sẽ xảy ra nếu đó là một bát mì bán ngoài khu vực sân bay?
Tất nhiên, người dân lập tức tẩy chay, sẽ một đi không trở lại, sẽ gọi công an vì cho rằng bị chặt chém, bị “cơm tù”. Họ thậm chí sẽ chửi thề. Và người bán, chỉ có nước mang về nhà mà ăn.
Câu trả lời là hết sức rõ ràng. Nguyên do một bát mì được chém với giá 50 ngàn bởi vì chỉ có một người bán mì.
Bởi vậy, việc có một đường dây nóng, ngay lập tức phản ánh đến Bộ trưởng về giá một bát mì tôm, dù hôm nay nhận được sự phản hồi tích cực từ phía người dân, xem ra vẫn chưa phải là cách thức căn cơ cho câu chuyện “bát mì Nội Bài”.
Chẳng bao giờ có một quán cóc mọc lên bên vỉa hè sân bay. Nhưng nếu có, có lẽ, chẳng cần phải bộ trưởng ra nghiêm lệnh về một chất lượng dịch vụ đáng lẽ chỉ có trong viện bảo tàng để những người hoài cổ nhớ về thời bao cấp.
THEO ĐÀO TUẤN

Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa nhận: Bức xúc của người dân là có thật

Khẳng định không có chuyện tham nhũng, lợi ích nhóm trong xây dựng văn bản pháp luật, nhưng tại phiên chất vấn sáng 20/8, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cũng cho rằng, có thể có những nghị định thiếu kiểm soát.
Đại biểu (ĐB) Trần Thị Quốc Khánh (Đoàn Hà Nội) chất vấn: Có bao nhiêu dự thảo pháp luật của Chính phủ không qua Bộ Tư pháp thẩm định? Không ít các văn bản ban hành vừa qua gây bức xúc trong dư luận, Bộ sẽ làm gì để khắc phục tình trạng này?
ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Đoàn Lâm Đồng) thì tỏ ra quan ngại liệu có lợi ích nhóm, tham nhũng về chính sách trong việc ra văn bản quy phạm pháp luật không?
Trước thực trạng các dự án luật hết đưa vào lại đưa ra, ĐB Chu Sơn Hà (Đoàn Hà Nội) cho rằng: Lợi ích nhóm trong xây dựng văn bản pháp luật hiện nay tương đối nhiều. Bộ trưởng có giải pháp gì để ngăn chặn lợi ích nhóm trong xây dựng văn bản pháp luật sắp tới?


Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường

ĐB Hà cũng chất vấn: Việc xử phạt hành chính áp dụng đối với người không chuyển quyền sở hữu hay chủ phương tiện không chuyển quyền sở hữu? Việc xử phạt thuộc Cơ quan Công an hay Cơ quan Thuế? Nhiều ý kiến cho rằng, các văn bản đang chuyển toàn bộ khó khăn cho người dân, thuận lợi cho cơ quan quản lý Nhà nước, ý kiến của Bộ thế nào?
ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Đoàn Lâm Đồng) tỏ ra quan ngại và hỏi Bộ trưởng liệu có lợi ích nhóm, tham nhũng về chính sách trong việc ra văn bản quy phạm pháp luật không?
Trước đó, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang Trần Văn Tấn nêu về công tác kiểm tra văn bản còn tồn tại, hạn chế có nguyên nhân do đâu và những giải pháp khắc phục của Bộ trong thời gian tới?
Trước câu hỏi của ĐB Khánh, Bộ trưởng Cường cho biết, trong báo cáo đã nói rõ, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, chỉ riêng Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Chính phủ, Bộ đã thẩm định 426 văn bản, mỗi văn bản khoảng 50 nội dung. Như vậy tổng cộng có khoảng trên 20 vạn nội dung. Bức xúc từ người dân có nhưng không nhiều so với 20 vạn nội dung đó.
Tuy nhiên, những bức xúc của người dân cũng có những nội dung Chính phủ tiếp thu, ví dụ quy định CMTND có ghi họ tên bố, mẹ, việc này Bộ Tư pháp đã nhận trách nhiệm, và hiện đang làm thủ tục cuối cùng để sửa. Bộ trưởng Cường khẳng định, qua thẩm định của Bộ Tư pháp có để lọt văn bản, thông tư.
Liệu các Bộ trưởng có khoán trắng cho Thứ trưởng, Vụ trưởng không? Theo Bộ trưởng cái này đã có quy định rõ trách nhiệm về thể chế thuộc về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Đối với chất vấn về có hay không vấn đề lợi ích nhóm, hay tham nhũng về chính sách mà các ĐB nêu, Bộ trưởng khẳng định quy trình xây dựng văn bản pháp luật rất chặt chẽ, qua nhiều khâu. Tuy nhiên cũng có thể có những vấn đề không phát hiện được. Ví dụ, Nghị định về kinh doanh vàng, xăng dầu, hay giá than, điện… chủ trương thì rất rõ để tiến tới cơ chế thị trường, nhưng gần đây chúng ta đang thực hiện kiềm chế lạm phát nên bước đi phải chặt chẽ. Khẳng định không có chuyện tham nhũng như ĐB nêu, nhưng Bộ trưởng Cường cũng cho rằng, có thể có những nghị định thiếu kiểm soát.
Liệu văn bản pháp luật có đẩy khó cho dân? Bộ trưởng Hà Hùng Cường khẳng định, Chính phủ bao giờ cũng đề cập quan điểm phải chỉ đạo thế nào? Việc sửa Nghị định 34 có quy định xử phạt người không chuyển quyền sở hữu phương tiện. Ôtô và môtô có thể là phương tiện gây tai nạn, thậm chí buôn lậu, hay làm việc khác… Việc đăng ký chuyển đổi để duy trì trật tự quản lý. Lĩnh vực này thuộc về đăng ký nên tạm thời đưa vào nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Chính phủ đã hướng dẫn rõ trường hợp nào bị xử phạt, trường hợp nào không.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường thừa nhận, thực trạng có một số dự án trình chưa đúng tiến độ, nội dung một số dự án còn hạn chế.
Điều này có nguyên nhân chủ quan, do những dự án luật đi vào chuyên sâu nên rất khó. Bên cạnh đó, nhiều đề nghị sửa đổi bổ sung còn phải chờ tổng kết, ví dụ như Luật Hợp tác xã. Cũng có dự án luật đề nghị phải xây dựng sửa đổi bổ sung một số điều, Ban Soạn thảo đồng ý phải xây dựng luật sửa đổi nên đòi hỏi có thời gian, ví dụ Luật Khoa học và Công nghệ.
Nguyên nhân khách quan do kinh tế – xã hội thời gian qua còn nhiều khó khăn. Chúng ta phải tập trung cao cho việc đạt mục tiêu tổng quát. Nhiều Bộ, ngành phải tập trung cao hàng ngày nên thời gian tập trung cho thể chế có hạn chế nhất định.
THEO PETROTIMES

Chuyện lạ – “Cấm” công dân và nhà báo ghi hình CSGT làm nhiệm vụ?

Cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an) đã ra văn bản gửi Trưởng phòng CSGT các tỉnh, TP chỉ đạo về việc “Giả danh nhà báo ghi hình CSGT”. Nội dung văn bản này đang khiến bất kỳ ai đọc cũng có thể hiểu là từ sau khi có chỉ đạo này thì công dân, nhà báo sẽ không được ghi hình CSGT đang làm nhiệm vụ?
Ngày 26/4, Đại tá Trần Sơn Hà, Phó Cục trưởng Cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an) đã ký văn bản số 1042/C67-P3 gửi Trưởng phòng CSGT công an các tỉnh, TP trực thuộc trung ương về việc “Giả danh nhà báo ghi hình CSGT”. Trong văn bản này có đoạn: “Luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm rõ với những đối tượng có lời nói đe dọa, lăng mạ hoặc có hành vi chống đối CSGT đang thực thi công vụ hoặc quay phim chụp ảnh hoạt động TTKS, XLVP khi chưa được sự đồng ý của CSGT đang làm nhiệm vụ. Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản, nếu giả danh nhà báo thì tạm giữ, lập hồ sơ chuyển cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật”.
Văn bản nêu trên mục đích nhằm “xử lý” hành vi giả danh nhà báo tuy nhiên, ngôn ngữ trong văn bản thiếu rõ ràng gây khó hiểu. Theo đó, quy định “đối tượng”, “quay phim chụp ảnh hoạt động TTKS, XLVP khi chưa được sự đồng ý của CSGT đang làm nhiệm vụ” cần phải làm rõ. Theo đó, “đối tượng” được nêu ở đây là ai? Là những người “có lời nói đe dọa, lăng mạ hoặc có hành vi chống đối CSGT đang thực thi công vụ” hay bất kỳ người dân nào chứng kiến và ghi nhận lại sự việc?
Theo tham khảo của PV Báo GĐ&XH, công ty TNHH Luật YouMe khẳng định: “Về nguyên tắc, công dân được làm những điều mà pháp luật không cấm. Cán bộ, công chức, chiến sỹ công an trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao chỉ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Ở đây, cần xác định rõ việc công dân thực hiện “quay phim, chụp ảnh hoạt động TTKS” của CSGT có bị pháp luật cấm? Hoặc được thực hiện trong phạm vi khu vực cấm hoặc hạn chế quay phim, chụp ảnh hay không? Nếu không thuộc các trường hợp này mà CSGT cấm người dân hoặc phóng viên quay phim, chụp ảnh là đã thực hiện những việc ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc quay phim, chụp ảnh CSGT khi đang thi hành công vụ không thể hiểu ghi hình ảnh riêng tư của một hay một vài cá nhân cụ thể, mà là ghi hình ảnh thi hành công vụ của cơ quan, cá nhân đại diện cho Nhà nước tại nơi công cộng (công khai) nên không cần phải được CSGT (hay bất cứ cá nhân nào) ở có mặt ở nơi công cộng này “đồng ý”, hoặc “không đồng ý”.
Cùng đó, với quy định: “Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản…” cũng là khái niệm khó hiểu. Phải chăng trong trường hợp nhà báo (có thẻ nhà báo được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp) thực hiện nghiệp vụ ghi hình, chụp ảnh CSGT làm nhiệm vụ thì phải được “sự đồng ý” của CSGT thì mới có quyền tác nghiệp? Động thái yêu cầu “tập hợp, thông báo cho cơ quan chủ quản” do Đại tá Hà đưa ra là nhằm mục đích gì? Phải chăng, trong trường hợp này, nhà báo vừa phải được sự đồng ý của CSGT, được lực lượng này tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản xong thì mới được tiếp tục tác nghiệp?
Luật sư Phạm Ngọc Minh, Công ty TNHH Luật YouMe cho rằng, theo quy định của Luật báo chí, thì nhà báo: “Được đến các cơ quan, tổ chức, thư viện, bảo tàng, triển lãm để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan nhà nước không được từ chối cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước” (khoản 1 Điều 8 Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/04/2002 hướng dẫn thi hành chi tiết Luật Báo chí). Như vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin không thuộc bí mật Nhà nước là trách nhiệm (bắt buộc) của cơ quan, tố chức. Do đó, hướng dẫn của Cục CSGT Đường bộ, đường sắt tại công văn số 1042/C67-P3 yêu cầu chỉ khi CSGT “cho phép”, “đồng ý” thì nhà báo mới được quay phim, chụp ảnh là trái quy định của pháp luật”.
Ông Hà Minh Huệ, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam khẳng định, nhà báo hoạt động theo Luật Báo chí và khi nhà báo tác nghiệp đúng Luật Báo chí thì không ai có quyền ngăn cản. Ngày 20/8, ông Hà Minh Huệ sẽ có trả lời cụ thể PV Báo Gia đình và Xã hội trước nội dung ông văn số 1042 của Cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an)
THEO GIA ĐÌNH

Tiết lộ động trời: Xét nghiệm nước tiểu cũng bị “nhân bản”


Sau khi sự việc “nhân bản” các xét nghiệm của BV Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) bị phát hiện gây chấn động dư luận, một vị GS nghỉ hưu từng giữ chức vụ trưởng khoa xét nghiệm của một BV đầu ngành TƯ (xin không nêu tên) đã tiết lộ với phóng viên LĐ&ĐS những điều “mắt thấy, tai nghe” xoay quanh câu chuyện xét nghiệm ở BV.
Vị GS khi nghỉ hưu được mời làm thêm tại một BV tư nhân Hà Nội. Sau một thời gian ngắn làm việc tại đây, ông đã vội xin nghỉ vì chứng kiến những việc trắng trợn “ăn bớt” xét nghiệm của người bệnh. Ông kể:
“Có một công ty tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ nhân viên. Sau khi kết quả khám sức khỏe được gửi về công ty, lãnh đạo công ty đó đã ‘nổi giận’ vì có 7 nhân viên nữ trong một phòng cùng có thai đúng thời điểm công ty đang có nhiều đơn hàng. Ông giám đốc này đã truy hỏi 7 cô nhân viên thì có 6 cô “ngã ngồi” khi nghe tin mình có thai, chỉ có 1 cô thừa nhận mình đang mang bầu.
Thấy có điều bất thường, công ty này đã yêu cầu BV làm rõ. Khi bị bại lộ, BV vội vã làm lại xét nghiệm cho 7 cô nhân viên thì kết quả chỉ có 1 cô đang mang thai tháng thứ hai.
Chuyện vỡ lở mới hay, mấy nhân viên ở khoa xét nghiệm đó có ý đồ kiếm chác nên đã dùng kết quả xét nghiệm nước tiểu của 1 cô rồi ”nhân bản” cho cả 7 cô. Không may nước tiểu của người được xét nghiệm lại chính của cô đang có bầu. 6 cô nhân viên ”bỗng dưng” mang bầu đã được minh oan và ông sếp đó tuyên bố ”cạch mặt” BV đó.”
Những khuất tất trong việc làm xét nghiệm tại các BV mà thường là các BV ở các huyện ngoại thành, BV tư nhân, phòng khám tư… rất khó phát hiện, chỉ những người “trong chăn” mới tỏ tường.
Vị GS này cho biết: Việc khám sức khỏe định kỳ, khám sức khỏe để đi lao động xuất khẩu… thường bị “ăn bớt” rất tinh vi.
Do cạnh tranh giữa với nhau nên các BV đưa ra giá tiền cho mỗi gói khám khác nhau. Những người đại diện của các đơn vị đi tìm BV để tổ chức khám sức khỏe cho nhân viên luôn chọn BV nào có giá rẻ nhất hoặc có tỉ lệ hoa hồng cao nhất. Để được chọn, không ít BV đã hạ giá xuống mức thấp.
Chấp nhận mức giá thấp đó nhưng vẫn phải có lãi lớn nên BV tìm mọi cách để giảm chi phí như mua lại máy xét nghiệm đã qua sử dụng, mua các loại hóa chất, vật tư xét nghiệm rẻ tiền, mỗi que thử chẻ làm đôi để dùng cho 2 người và thậm chí “nhân bản” xét nghiệm.
“Chứng kiến những việc làm đó, tôi đã vài lần lên tiếng góp ý, nhưng họ nói rằng đây là lệnh của lãnh đạo, chúng em chỉ biết thực hiện. Có người lại nói, khám sức khỏe định kỳ đâu có gì nghiêm trọng… Vì đồng lương mà không ai dám tố cáo. Với lương tâm của người thầy thuốc, tôi đã từ chối làm việc tại đây…”
Những chuyện mà vị GS này kể, vì lý do tế nhị nên không có bằng chứng cụ thể, không rõ tên BV nào, nhưng điều này chắc chắn là đang tồn tại. Phóng viên xin dẫn chứng về việc khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ nhân viên của một cơ quan tại một phòng khám tư ở Hà Nội (xin không nêu tên). Một số người bỗng nhiên được “khoác” thêm nhiều bệnh.
Chị N.T.H sau khi nhận được kết quả xét nghiệm đã tá hỏa khi thấy bác sĩ kết luận bị viêm gan B. Lo lắng bệnh tật, chị đã đến xét nghiệm lại tại BV Bạch Mai thì kết quả ngược lại: Không mắc viêm gan B. Chỉ bởi kết quả “giời ơi” đó mà chị H. đã mất ăn, mất ngủ cả tuần. Sau khi nhận được thông báo không có bệnh, chị mới thở phào nhẹ nhõm và loan tin cho tất cả mọi người tẩy chay phòng khám tư đó.
THEO LAO ĐỘNG

Hãy nhìn vào túi tiền của người dân!


Tuần trước Bộ Tài chính đã gửi Công văn số 10397 đến các tỉnh, thành phố để đốc thúc tăng cường các biện pháp quản lý, bình ổn thị trường giá cả, kiềm chế lạm phát trong những tháng cuối năm. Nhưng trong bối cảnh doanh nghiệp vẫn đang chật vật đối phó với tình trạng sức mua yếu của thị trường, phải giảm giá hoặc kiềm chế tăng giá bán để giải quyết hàng tồn kho; người nông dân đang bế tắc trước nỗi lo nông sản, sản phẩm chăn nuôi bị rớt giá… thì vấn đề Công văn 10397 đặt ra hơi lạc điệu.
Tuy nhiên, việc Bộ Tài chính ban hành công văn này chỉ một tuần sau quyết định điều chỉnh tăng giá điện lại cho thấy một vấn đề khác. Đó là nguy cơ gây bất ổn về giá cả, trong điều kiện thực tế hiện nay, không hẳn do quan hệ cung – cầu, mà chủ yếu đến từ quyết định điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu. Nguy cơ tiềm ẩn này đã được chỉ rõ trong Công văn 10397 như sau: “Giá một số mặt hàng tiếp tục được điều chỉnh theo lộ trình thị trường như giá điện; giá than cho sản xuất điện; giá xăng dầu thế giới diễn biến thất thường tác động đến giá xăng dầu trong nước; giá dịch vụ khám chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước; giá dịch vụ giáo dục (học phí)”.
Vấn đề là ở chỗ, khả năng kiểm soát các nguy cơ tiềm ẩn trên lại không nằm trong tay các địa phương, mà thuộc quyền quyết định của các bộ ở trung ương, như Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Y tế…
Đến hết tháng 7-2013, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước chỉ tăng 2,68% so với tháng 12 năm ngoái. Đây là con số thấp. Nhưng nếu nhìn sâu hơn vào vào rổ hàng hóa để tính giá, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những nhân tố tác động mạnh nhất đến CPI bảy tháng qua chính là các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu. Ví dụ như chỉ số giá dịch vụ y tế tăng tới 58,43% so với tháng 12-2012. Hoặc chỉ với hai quyết định tăng giá xăng, dầu vào tháng 6-2013, lập tức đẩy chỉ số giá dịch vụ vận tải tăng 1,34% ngay trong tháng 7.
Nhìn lại chính sách điều hành giá cả những sản phẩm và dịch vụ quan trọng từ cuối năm ngoái đến nay, đặc biệt là nhóm hàng năng lượng như xăng dầu, điện, than, có thể nhận ra các cơ quan quản lý nhà nước đã tỏ ra quyết đoán và mạnh dạn hơn trong việc ra quyết định cho tăng giá.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, do chỉ số lạm phát những tháng đầu năm nay quá thấp, các bộ Tài chính và Công Thương đã có thể yên tâm với mục tiêu CPI của năm nay nên không còn phải lo đến lạm phát khi quyết định điều chỉnh giá các mặt hàng năng lượng.
Nhưng không chỉ có thế, các chính sách điều hành giá cả còn cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước đang lo cho “túi tiền” của ngân sách, của một số tập đoàn nhà nước hơn là túi tiền của người dân, của cộng đồng doanh nghiệp nói chung. Chẳng hạn như, thay vì giảm giá xăng, dầu để giảm khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, thì Bộ Tài chính lại quyết định tăng thuế nhập khẩu và tăng giá xăng dầu. Các quyết định tăng giá than bán cho điện, tăng giá điện cũng mang mục đích như vậy.
Rõ ràng, chính sách điều hành giá cả như vậy, trong bối cảnh rất khó khăn như hiện nay, là chưa phù hợp. Nó không giải quyết được cái gốc của vấn đề, mà chỉ xử lý được phần ngọn. Thế nên, thay vì chỉ nhìn vào CPI, hay con số thu ngân sách và túi tiền của các tập đoàn Điện lực, Công nghiệp than và khoáng sản, Xăng dầu, các bộ nên nhìn vào túi tiền của người dân, của doanh nghiệp trước khi ban hành các chính sách về giá cả. Vì suy cho cùng, dân giàu thì nước mới mạnh. Túi của người dân, của doanh nghiệp có “rủng rỉnh” thì túi của ngân sách mới đầy. Doanh nghiệp có sống được thì ngành điện, ngành than mới sống được.
THEO thesaigontimes

10 dấu hiệu cho biết chúng ta đang ở trong nền kinh tế giả tạo

(Mượn góc nhìn về thực trạng nền Kinh tế Mỹ để cùng suy ngẫm về kinh tế Việt Nam)

Đã tới lúc phải thừa nhận rằng chúng ta đang sống trong một nền kinh tế giả tạo. Truyền thông được sử dụng để làm cho chúng ta tưởng rằng mình đang có một nền kinh tế khỏe mạnh.

Cùng lúc với việc các nhà chính trị gia vỗ về nhân dân bằng những dự đoán chắc như đinh đóng cột về sự khởi sắc của nền kinh tế, chúng ta phải liên tiếp đón nhận những tin không vui từ các thống kê tài chính và về sự kém cỏi của các tập đoàn trọng điểm quốc gia đang đứng trên bờ vực phá sản vì nợ nần chồng chất. Đáng buồn tức hơn nữa là chính phủ lại muốn dùng những đồng tiền thuế từ mồ hôi và nước mắt của người dân để cứu chính những tập đoàn mà đã đưa nền kinh tế đến với sự khủng hoảng
Hàng ngày, chúng ta nghe thấy người người vẫn đang vất vả với hi vọng mong manh tìm kiếm việc làm, dù cho phải làm những công việc trái với ngành được đào tạo. Các chính trị gia vẫn với giọng điệu chắc nịch hứa hẹn sẽ có việc, nhưng chính trị gia thì không thể nào tạo ra được việc làm. Nhìn thấy cả dòng người xếp hàng hay dựng trại ở bên ngoài những siêu thị lớn vào các ngày có chương trình khuyến mãi như thứ Sáu ngày mười 13, hay trong các khung giờ vàng làm cho chúng ta tưởng rằng mình vẫn đang sống trong một nền kinh tế cường thịnh. Nhưng đau buồn thay hóa ra tất cả sản phẩm không được mua bằng tiền thật mà bởi thẻ tín dụng – mua nợ.
Các tin tức trên mạng, trên truyền hình, trên báo hay trên đài đều có chung một mục đích đó là làm mờ đi đôi mắt của chúng ta. Một người như Kim Kardashian – bắt đầu nổi tiếng vào năm 2007 khi kiện Vivid Entertainment vì đã phát hành video cô làm tình với rapper Ray J bốn năm trước đó, đã chiếm được sự ưu ái của trang báo điện từ Huffington Post khi cô được lên trang nhất của tờ báo này chỉ vì con mèo cưng của cô bị chết. Có lẽ chẳng cần phải bàn luận thêm
Trong khi đó, những bản tin tài chính luôn làm cho chúng ta cảm thấy nền kinh tế thật phức tạp và không một ai được phép nói sự thật về tình hình kinh tế đất nước hiện nay trong các bản tin đó
Liệu bạn có đang bực bội hay phân vân một chút nào đó về nền kinh tế của chúng ta
Vậy thì hi vọng những dấu hiệu về một nền kinh tế giả tạo sau đây sẽ giúp bạn làm sáng tỏ được những phân vân mà bạn đang có.
Việc giả: Không chỉ những con số thống kê tỉ lệ thất nghiệp là giả, mà các công việc hiện hành cũng là giả nốt. Trong số hàng ngàn công việc chúng ta đang làm, liệu bao nhiêu thực sự mang lại giá trị cho cuộc sống của loài người trên trái đất? Một con số nghiên cứu cho thấy 80% loại việc hiện hành có thể biến mất vào ngày mai mà không ảnh hưởng chút nào tới sự tồn tại hay hạnh phúc của con chúng ta. Do phương thức quản lý yếu kém, nhiều khi hàng hóa từ nhà sản xuất tới tay người tiêu dùng phải trải qua một hệ thống phấn phối trung gian cồng kềnh và nặng nề, làm cho giá cả bị đội lên rất nhiều so với giá xuất xưởng của chúng. Nhiều công việc trong hệ thống đó chẳng hề mang lại chút lợi ích gì cho xã hội loài người. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về điểm này ở ý tiếp theo.
Vấn đề – chứ không phải giải pháp, tạo ra việc làm: Chúng ta không thể giải quyết những vấn đề thực sự bởi vì điều đó sẽ lại làm giảm công ăn việc làm trong xã hội. Không thể chấm dứt chiến tranh và mang những người lính đang trên chiến trường trở về nhà khi mà tỉ lệ thất nghiệp đã tương đối cao. Chúng ta cũng không thể chấm dứt cuộc chiến tranh chống buôn lậu ma túy và các hàng thuốc cấm vì điều đó sẽ làm cho hàng ngàn nhân viên DEA [Drug Enforcement Administration], giám ngục nhà tù của hệ thống luật pháp, nhân viên cảnh sát đi tuần, và toàn bộ những ai đang làm việc để giúp đỡ họ. Chúng ta cũng không thể đơn giản hóa hệ thống thuế má vì sẽ làm cho những nhân viên trông coi sổ sách, giáo viên dạy kế toán, luật sư ngành thuế và nhiều người có nghề liên quan bị thất nghiệp. Chúng ta cũng không thể đơn giản hóa bộ máy quản lý nhà nước hay hệ thống y tế quốc gia vì những nhân viên văn phòng đang phục vụ cho các hệ thống này hiện tại không có những kỹ năng đáng kể nào khác mà có thể mang lại lợi ích cho xã hội. Chúng ta không thể dừng lại việc giám sát người dân vì điều đó có thể làm cho hàng triệu người khác nữa thất nghiệp. Sau cùng, điều gì sẽ xảy ra đối với các trường đại học khi mà sinh viên nhân ra rằng những tấm bằng tốt nghiệp của họ không xứng đáng với cái giá mà họ đã bỏ ra, hoặc là khi mà chính các sinh viên nhận ra rằng họ có thể học được kiến thức tương tự như học ở đại học mà không mất một đồng nào từ Internet. Nói một cách khác, chúng ta đang sống trong một xã hội tự tạo ra vấn đề để mà sinh ra những việc làm – những công việc chẳng mang lại lợi ích thực sự gì cho xã hội.
Đồng tiền không có giá trị: Đồng tiền chính là thứ ảo tưởng nhất mọi thời đại. Tiền mà chúng ta đang dùng là được vay từ các tập đoàn độc quyền tư nhân với lãi suất một cách ngẫu nhiên do họ tự đặt ra. Chúng ta vay họ để dùng và chúng ta mang nợ. Đã có nợ thì phải trả trừ khi luật pháp có sự thay đổi nào đó. Những đồng tiền này có giá trị chính bởi vì luật pháp quy định như thế, và giá trị của đồng tiên thì lên xuống theo lượng sản phẩm được cung ứng bởi những tập đoàn độc quyền trên. Giá trị thực sự của tiền chỉ là con số không vì nó chỉ là một tờ giấy với những hoa văn mỹ miều được in lên. Những thứ mang lại giá trị thực sự cho con người đó là sức lao động, công cụ, tài nguyên, thực phẩm, nước và năng lượng chứ không phải tiền.
Cục Dữ trữ Liên bang nay đã mua tới 90% nợ quốc gia: Cục Dự trữ Liên bang đã cho chính phủ vay tiền thông qua việc mua trái phiếu nhà nước. Chính phủ Mỹ đã phát hành trái phiếu trên thị trường tự do thông qua hình thức đấu giá. Những ai tin tưởng và khả năng phát triển kinh tế của chính phủ thì sẽ bỏ tiền ra mua những trái phiếu trên và hưởng lãi theo kỳ hạn. Rõ ràng hiện nay chẳng còn mấy người muốn đầu tư cho bộ máy của Obama khi nhìn vào kết quả đấu giá là 90% số trái phiếu được phát ra được mua lại bởi chính Cục Dữ trữ Liên bang. Cách thức làm này của chính phủ Mỹ chẳng khác gì cách làm của chùm lừa gạt đầu tư Madoff. Bằng cách này, lãi suất có thể bị giữ ở mức thấp và rồi được đẩy lên để thu hút các nhà đầu tư bên ngoài. Theo như thuật ngữ phổ thông thì toàn bộ hệ thống tài chính của chúng ta chỉ như một con hổ giấy, một con cá gỗ hay bất cứ từ nào khác bạn muốn dùng để ám chỉ một thứ giả tạo.
Làm thế nào để xác định được giá trị của một đồ vật? Quá trình xác định giá trị của một mặt hàng nào đó trên thị trường đã trở nên rất phức tạp và việc định giá chính xác cho một vật phẩm nào đó đã trở nên gần như không thể. Giữa vòng vây của: sản phẩm được chính phủ trợ giá như thực phẩm, xăng dầu, giáo dục, nhà đất, bảo hiểm và thậm chí cả xe hơi; thuế, quy định và pháp luật; lợi dụng đồng tiền và tỉ lệ lãi suất; việc Wall Street đánh bạc với đồng tiền của các nhà đầu tư; thì liệu chúng ta còn có thể biết được giá trị thật của các vật phẩm nữa hay không? Ví dụ, tại sau một lạng marijuana (cần sa – một loại cỏ có thể mọc ở bất cứ đâu) lại có thể có giá lên tới 1.700 USD? Liệu đó có phải là giá trị thực sự của nó dựa trên công sức lao động bỏ ra và dựa trên quy luật cung cầu? Tất nhiên là không phải, giá trị của nó đã bị lạm phát lên bởi vì pháp luật và các quy định hiện hành.
Thất bại thì được tưởng thưởng: Chúng ta đang sống trong một nền kinh tế giả tạo mà ở đó sự thất bại lại được khen thưởng còn thành công thì bị xử phạt. Công dân ở trên toàn đất nước đều được khích lệ tiết kiệm và chăm chỉ làm việc để rồi bỏ tiền ra cứu vớt những chính phủ hủ bại, các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và thậm chí là những công ty sản xuất ô tô kém cỏi. Và khi chúng ta chịu khó làm việc hơn và đạt được những thành công nhất định thì chính phủ đánh thuế nặng nề để trả tiền cho bộ máy chính quyền vô dụng. Tuy nhiên cách thu thuế vô biên này còn xa mới có thể giải quyết được vấn đề tận gốc. Thực tế là những phương án của các ngân hàng đưa ra mới chính là vấn đề, nó chỉ giúp làm giàu cho những nhà đầu tư của các ngân hàng bằng công sức của giai cấp trung lưu. Các tập đoàn ngân hàng toàn cầu đang chơi đùa ở các sòng bạc hoàng gia với những đồng thuế của người dân, cả những đồng tiền của rất nhiều thế hệ tương lai nữa. Và một sự thật đáng buồn là những sòng bạc này được tạo ra để họ luôn thất bại và rồi do đó họ có thể tiếp tục lấy tài sản của người dân. Mỗi ván chơi là được ăn cả ngã về không, nhưng mà tiền của họ thì là giả còn tài sản của chúng ta thì là thật.
Các tập đoàn có cùng quyền lợi như người dân nhưng hình phạt thì khác: Khi Tòa án tối cao ban hành luật cho phép các tập đoàn có quyền lợi được tự do ngôn luận như con người, đó chính là một trong những cái đinh cuối cùng đóng vào quan tài của nền cộng hòa. Các tập đoàn giờ đây có thể tài trợ cho các cuộc bầu cử và mua chuộc những pháp chế cần thiết để họ có thể hoạt động mà không bị xử phạt. Tập đoàn có thể được cấu thành từ con người, nhưng nó không có cùng chuẩn nhân đạo như con người. Vấn đề này đã được lên án quyết liệt trong bài báo “Nếu BP là một con người thì thế nào?”. Theo như những gì được viết, nếu xét theo chuẩn mực đạo đức hiện nay và những định nghĩa hiện hành về tội ác thì BP đáng lẽ ra phải bị xử như một tên giết người biến thái và…bất tử. Và khi mà những tập đoàn này đều có mối quan hệ chặt chẽ với chính phủ, chúng ta có cần nên xem lại bộ máy lãnh đạo của chính mình? Bằng việc thay đổi định nghĩa, họ đang cố gắng đổi trắng thay đen. Nhưng cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra và sự thật thì luôn tìm cách lộ diện.
Người dân đang mua những thứ họ không cần bằng những đồng tiền họ không có: Sự chi tiêu thái quá của chính phủ đã có một phiên bản sao chép y hệt trong hành vi của người tiêu dùng Mỹ. Mặc cho lạm phát, mặc cho tỉ lệ thất nghiệp đang tăng và mặc cho sự sụp đổ của thị trường nhà đất, người dân Mỹ vẫn đang tiêu tiền mà họ không hề có từ những chiếc thẻ tín dụng điện tử. The Associated Press vừa đưa ra báo cáo cho biết trong tháng 10 năm 2012, người dân đã quét thẻ thường xuyên hơn và vay tiền nhiều hơn cho việc đi học và mua xe hơi. Sự lạm dụng này đã làm cho nợ của người tiêu dùng Mỹ trở nên cao nhất mọi thời đại. Cục Dự trữ Liên bang cho biết từ tháng 9 tới tháng 10, người dân Mỹ đã vay thêm tới 14.2 tỷ USD và hiện nay đã chạm mức 2.75 nghìn tỷ USD.
Việc vay tiền mua xe hơi hay đi học thực sự đáng lo ngại vì đây là những khoản đầu tư chỉ có lỗ.
Các nhà kinh doanh bị gán tội: Để có một cuộc sống đơn giản bằng chính đôi chân của bạn giờ đã trở nên gần như không thể. Nước Mỹ giờ đây là đất nước của nạn quan liêu, luôn muốn bóp ngạt những mô hình kinh doanh nhỏ và xử phạt sự tự cung tự cấp. Có lẽ không có ví dụ nào tốt hơn vì dụ về sự tấn công một mô hình trang trại tự cung ứng. Bằng cách viện lý lẽ từ Agenda 21, chính phủ đã đóng cửa những trang trại hộ gia đình bấy lâu nay hoạt động tốt đẹp và treo biển “khu vực được bảo vệ” lên đó. Trong trường hợp gần đây nhất, một trang trại nuôi trai lấy ngọc đã bị đóng cửa dựa trên những nghiên cứu khoa học và kết luận sai lầm. Điều này làm cho một mô hình kinh doanh đã 80 năm với 50.000 nghin khách du lịch mỗi năm và 30 công nhân làm việc full-time ở đây bị lâm vào cảnh bơ vơ. Trong nhiều trường hợp tương tự, một điều đau buồn đó là những khu trang trại do chính phủ cướp của người dân đã bị rơi vào tay những kẻ chẳng hề quan tâm gì tới nền kinh tế địa phương ở đó. Một trong những tính chất cố hữu của nền kinh tế giả tạo đó là tạo ra sự phụ thuộc trong khi đáng lẽ ra thì không nên có một chút nào.
Công nghiệp hóa nô lệ: Bạn nghĩ rằng nô lệ đã biến mất từ thế kỷ 19? Hãy nghĩ lại. Những tài phiệt đã thành công trong việc nô dịch hóa bằng nợ từ quốc gia này tới quốc gia khác, trong mọi lĩnh vực ngành nghề, các chính phủ bang cũng như địa phương và gần như tất cả mọi người dân trên thế giới. Họ đã mua chúng ta và biến chúng ta thành người hầu bởi những đồng tiền mà họ không hề có – họ chỉ đơn thuần hô “biến” và thế là tự nhiên họ có tiền để nô dịch chúng ta. Thậm chỉ một người không hề có liên quan hay dính lứu gì tới ngân hàng, không có thẻ tín dụng, thì họ cũng vẫn phải trả tiền cho Cục Dự trữ Liên bang thông qua lạm phát và thuế thu nhập. Tác giả của cuốn “Confessions of an Enonomic Hit Man”, John Perkins nhắc đi nhắc lại: Đã tới lúc những ngân hàng bóc lột tầng lớp trung lưu bằng cách tăng thuế, giảm dịch vụ công ích, và lấy đồng lương của bạn. Một ví dụ nữa rõ ràng hơn đó là việc bóc lột sức lao động của tù nhân. Luật pháp và quy định hiện hành được tạo ra là để lợi dụng sức lao động của tù nhân mà làm giàu cho những tập đoàn sở hữu các nhà tù đó, trong khi đó thì những cộng đồng địa phương thì trở nên ngèo hơn và nhiều nguy hiểm hơn.
George Carlin đã nói “Chúng ta gọi ‘Giấc mơ Mỹ’ là vì chỉ có mơ thì mới tin vào điều đó”. Có lẽ nếu như chúng ta chỉ sống trong một đất nước duy nhất thì sự tồi tệ đã dừng lại ở đó, nhưng chúng ta đang trải nghiệm một giấc mơ chung của toàn cầu về một chính phủ mà có thể xử lý mọi việc chỉ trong tích tắc. Tuy nhiên, trong thế giới thực chúng ta đang sống, sự sụp đổ đã thực sự bắt đầu. Từ nay tới lúc chúng ta quyết tâm không làm nô lệ nữa và xem xét 10 dấu hiệu đã nói ở trên, thì chúng ta sẽ mãi đắm chìm trong sự ảo tưởng mà thôi. May thay, đã có những dấu hiệu khả quan từ những cuộc biểu tình trên toàn cầu, những phong trào thay thế tiền tệ, và rất nhiều giải pháp sáng tạo tại những đất nước bị ảnh hưởng lớn nhất như Iceland, Greece, và Spain. Ở các nước này, người dân đã dần dần tỉnh giấc và soi vào gương để nhận ra rằng nền kinh tế mơ ước mà họ đã biết đã tạo ra nhằm làm cho họ lạc lối khi đi tìm giải pháp.
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2013

Cục trưởng Cục báo chí “lên tiếng“ trước đề xuất gây khó nhà báo

Trước thông tin PLVN phản ánh về những bất hợp lý xung quanh quy định tại hai Dự thảo Pháp lệnh liên quan đến việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của TAND, như quy định buộc nhà báo, phóng viên trước khi ghi âm, ghi hình tại phiên tòa phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án…, ông Hoàng Hữu Lượng, Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã tỏ thái độ không đồng tình.

c
Ông Hoàng Hữu Lượng – Cục trưởng Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông)

Khẳng định về quyền tác nghiệp của báo chí tại Tòa, ông Lượng nhấn mạnh, về nguyên tắc, nếu phiên tòa xét xử công khai thì các nhà báo, phóng viên được quyền vào dự để tác nghiệp. “Theo tôi, phóng viên muốn đưa tin một cách chuẩn xác thì họ phải có quyền ghi âm, ghi hình theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Hiện nay, các văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực hoạt động của báo chí đều tạo điều kiện để nhà báo, phóng viên tác nghiệp, trong đó có quyền tác nghiệp tại tòa án. Ngay khoản 3 Điều 8 Nghị định 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí cũng nêu rất cụ thể về quyền hạn của nhà báo:
“Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai, được dành chỗ ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các thẩm phán, luật sư để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật”.
Tinh thần chung của pháp luật là như thế, tại sao Dự thảo Pháp lệnh xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của TAND (gọi là dự thảo Pháp lệnh 1-PV) lại quy định việc ghi âm, ghi hình phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chánh án tòa án nơi xét xử vụ án?. Tôi không đồng ý với quy định này.
Vì sao? Vì quy định trên không thống nhất với các quy định hiện hành và gây khó khăn cho hoạt động tác nghiệp của báo chí. Nếu phóng viên muốn ghi âm, ghi hình tại phiên tòa phải được sự “đồng ý bằng văn bản…” là tạo thêm một thủ tục, một giấy phép nữa, ngoài giấy giới thiệu của Tòa soạn”, ông Lượng thẳng thắn.
Theo phân tích của Cục trưởng Cục Báo chí thì không nên yêu cầu phải xin phép việc ghi âm, ghi hình tại tòa mà phóng viên, nhà báo nói riêng và những người tham dự phiên tòa nói chung khi ghi âm, ghi hình chỉ cần thực hiện đúng các quy định tại nội quy phiên tòa là đủ.
Bởi vậy, để đảm bảo quyền tác nghiệp đúng pháp luật của báo chí mà không ảnh hưởng đến trật tự phiên tòa thì Dự thảo Pháp lệnh nên bỏ quy định “ghi âm, ghi hình tại phiên tòa mà không được sự cho phép bằng văn bản của chánh án nơi giải quyết vụ án” và thay vào đó là quy định cấm hành vi: “Ghi âm, ghi hình tại phiên tòa không đúng theo hướng dẫn và sự sắp xếp vị trí của tòa án nơi giải quyết vụ án”.
Trong đó, phóng viên khi tác nghiệp tại phòng xử án cũng cần tuân thủ quy định này, không được làm ảnh hưởng đến việc xét xử.
“Tuy nhiên, tòa án cần sắp xếp vị trí để nhà báo, phóng viên tác nghiệp một cách thuận lợi. Nếu phiên tòa xét xử vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm mà hội trường xét xử không đủ chỗ cho các nhà báo, phóng viên tác nghiệp thì Tòa án có thể bố trí một phòng riêng có màn hình truyền hình trực tiếp diễn biến của phiên tòa để báo chí đưa tin một cách toàn diện về việc xét xử của tòa án”, ông Lượng đề nghị.
THEO PHÁP LUẬT TP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét