Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Tin ngày 01/7/2013 - continue

Mọi thứ yên tâm tăng giá vì sức dân đã kiệt?

http://www.baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong-doanh-nghiep/201307/moi-thu-yen-tam-tang-gia-vi-suc-dan-da-kiet-2349706/
(ĐVO) – Tiếp sau giá xăng, từ 1/7 giá gas sẽ được điều chỉnh tăng thêm 1.083 đồng/kg, tức khoảng 13.000 đồng/bình 12kg.
Gas tăng vì hợp đồng và vì… xăng
Nguyên nhân theo thông báo của Saigon Petro, Pacific Petro… phát đi chiều ngày 30/6 là do giá gas hợp đồng (giá CP) giao tháng 7 tăng.
Ngoài ra theo các nhà buôn gas, chi phí vận chuyển, bảo hiểm… tăng, giá xăng tăng cũng là nguyên nhân để các công ty gas đầu mối quyết định tăng giá.
Gas tăng hơn một ngàn đồng  từ 1/7
Gas tăng hơn một ngàn đồng từ 1/7
 
Giá gas bán lẻ theo đó lên mức phổ biến từ 375.000 – 380.000 đồng/bình 12 kg. Trong khi đó, loại bình 45kg tăng 49.000 đồng, lên mức 1,41 triệu đồng/bình; bình 50kg lên 1,57 triệu đồng.
Cách đó chỉ 2 ngày, Bộ Tài chính đã chính thức cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tăng giá từ 20h ngày 28/6.
Theo đó, giá bán lẻ xăng dầu đã điều chỉnh tăng giá tối đa 360 -370 đồng/lít. Như vậy, giá xăng RON 92 cao nhất sẽ là 24.123 đồng/lít. Sau khi điều chỉnh, Petrolimex bán xăng RON 92 ở mức 24.110 đồng/lít.
Đây là lần tăng thứ hai của giá xăng trong vòng nửa tháng, sau đúng 2 tuần điều chỉnh tăng từ hôm 14/6 với mức tăng 426 đồng/lít.
Than xin tăng giá bán cho điện, điện tăng giá cho dân
Cũng như xăng, giá điện năm nay cũng đang có xu hướng điều chỉnh tăng từ 10-15%. Thời điểm thực hiện có thể chia làm 2 lần vào tháng 9 và tháng 11.
Trước đó, khi giá than bán cho điện tăng 40% kể từ ngày 20/4/2013, Bộ Công thương đã yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tính toán giá thành sản xuất để làm cơ sở xây dựng lộ trình điều chỉnh giá điện.
Hiện nay, giá bán lẻ điện bình quân ở mức 1.437 đồng mỗi kWh. Lần điều chỉnh giá điện gần đây nhất là vào ngày 22/12/2012 với mức tăng 5%.
Bên cạnh đó, ngay từ đầu năm thị trường nhu yếu phẩm cũng đua nhau nhiều lần lần tăng giá. Mặt hàng sữa bột và sữa nước từ đầu năm đã có tới 5 lần trong 6 tháng đầu năm.
Cùng với đó, nước sạch đòi tăng giá, khung giá dịch vụ nhà chung cư trên địa bàn Hà Nội cũng chính thức tăng giá hơn 4 lần từ 31/5/2013.
CPI kiềm chế tốt vì sức dân đã kiệt?
Trái ngược với những biến động của thị trường, Bộ Kế hoạch đầu tư cho biết, lạm phát không còn là mối lo ngại lớn. Năm 2013 phấn đấu giữ CPI ở mức 7% là hợp lý.
Nguyên nhân chủ yếu do tăng cường quản lý giá cả thị trường,… và nguồn cung lương thực dồi dào.
Nhờ đó, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) trong 6 tháng đầu năm là 4,9%.
Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu “Bức tranh nông thôn, nông dân Việt nam nhìn từ cuộc điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình” do Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông thôn Việt Nam (Ipsard) công bố thì cho thấy sức dân đã kiệt.
Báo cáo cũng cho biết, có 42% nông dân cho rằng họ không hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Một trong những nguyên nhân là do thu nhập không tương xứng với kết quả lao động mà họ bỏ ra.
Có tới 50% số hộ gia đình nông thôn chịu các cú sốc về thu nhập, bao gồm cú sốc tập thể, tức là khi xảy ra cả làng, cả huyện, cả tỉnh cùng bị như thiên tai, bão, lũ lụt, dịch bệnh, giá cả bất ổn…và cú sốc cá nhân, chỉ gia đình bị, xảy ra khi có người chết, người ốm, kinh doanh thua lỗ, thu hồi đất…
Cùng với đó, các loại cú sốc có xu hướng ngày càng tăng.
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm tư vấn chính sách cho biết, khả năng chống chịu chỉ có cách duy nhất là “thắt lưng buộc bụng”.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, các chính sách hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ thực tế không giúp được người dân bao nhiêu, họ phải nhờ nhiều hơn tới sự hỗ trợ của cộng đồng, vào nỗ lực bản thân, người thân và các kênh khác.
Ông Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn cho rằng “Nông dân, nông thôn bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”.
Ngoài phải chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của Chính phủ, hy sinh của nông nghiệp đã bù đắp cho nợ xấu ngân hàng, khó khăn của doanh nghiệp. Chịu sức ép về công nghiệp hoá: lấy đi tài nguyên đổ chất thải trở lại…
Trong khi đó nông dân phải đương đầu với giá cả biến động, không có bảo hiểm, không có thị trường giao sau, không có dự báo thị trường. Còn ốm đau thì đối mặt với tình trạng chăm sóc sức khoẻ ở nông thôn quá tệ.
Xuân Tùng

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Yếu tố địa lý của quyền lực Trung Quốc

Nghiên cứu Quốc tế

Nguồn: Robert D. Kaplan (2010). “The Geography of Chinese Power: How Far Can Beijing Reach on Land and at Sea”. Foreign Affairs, Vol. 89, No. 3 (May/June), pp. 22-41. >>PDF
Biên dịch: Nguyễn Thị Nhung | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Năm 1904, nhà địa lý người Anh, Sir Halford Mackinder đã kết thúc bài viết nổi tiếng “The Geographical Pivot of History” [“Trục địa lý của lịch sử”] của mình bằng một liên hệ đáng ngại về trường hợp Trung Quốc. Sau khi giải thích tại sao lục địa Á-Âu chính là trục địa chiến lược của quyền lực thế giới, ông đã cho rằng Trung Quốc, một khi mở rộng sức mạnh của mình vượt ra ngoài biên giới, “có thể tạo thành mối hiểm họa da vàng cho tự do của thế giới, đơn giản vì Trung Quốc sẽ có thêm một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà nước Nga không may mắn có được trong khu vực trụ cột này.” Tạm gác lại giọng điệu phân biệt chủng tộc, vốn khá phổ biến trong thời kỳ đó, và cũng chưa xét đến sự hoảng loạn thường thấy mỗi khi đụng chạm đến sự trỗi dậy của một cường quốc ngoài phương Tây, Mackinder đã nêu ra một lập luận hợp lý: Trong khi nước Nga, một người khổng lồ khác trên lục địa Á-Âu, xét về cơ bản đã, và vẫn đang, là một cường quốc trên đất liền với một mặt giáp đại dương bị băng đá Bắc Cực rào chặn, thì Trung Quốc với đường bờ biển ôn đới 9,000 dặm, nhiều cảng biển tự nhiên thuận lợi, lại là một cường quốc lục địa lẫn hải dương. (Thực ra, trong tác phẩm của mình, Mackinder đã lo ngại Trung Quốc một ngày nào đó sẽ thôn tính cả nước Nga). Tầm với của Trung Quốc trải dài từ vùng Trung Á giàu khoáng sản và khí đốt đến những tuyến đường hàng hải trên Thái Bình Dương. Sau này, trong cuốn “Democratic Ideals and Reality” [Các lý tưởng và thực tế dân chủ], Mackinder đã dự đoán cùng với Mỹ và Vương quốc Anh, Trung Quốc cuối cùng sẽ dẫn dắt thế giới bằng việc “xây dựng một nền văn minh mới cho một phần tư nhân loại, không thực sự phương Đông, cũng không giống phương Tây.” Vị trí đắc địa của Trung Quốc là một lợi thế rõ ràng và hiển nhiên đến nỗi nó thường bị bỏ qua trong những thảo luận về sự bùng nổ kinh tế hay cách hành xử quyết liệt của quốc gia này. Nhưng yếu tố này thực sự rất quan trọng: nó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ luôn án ngữ ở vị trí trục trung tâm địa chính trị ngay cả khi con đường tiến lên vị thế cường quốc toàn cầu của nước này không hoàn toàn suôn sẻ. (Chỉ số tăng trưởng GDP của Trung Quốc vẫn đều đặn ở mức hơn 10% mỗi năm trong suốt hơn 30 năm qua, nhưng mức tăng này chắc chắn khó có thể duy trì thêm trong 30 năm nữa.) Trung Quốc là sự pha trộn giữa tính hiện đại hết mực mang phong cách phương Tây với một “nền văn minh thủy lợi” (“hydraulic civilization” – một thuật ngữ do nhà sử học Karl Wittogel đề ra, dùng để mô tả những xã hội thực hiện việc quản lý tập trung nguồn nước tưới tiêu nông nghiệp)[1], gợi cho ta nhớ đến phương Đông cổ xưa, thời chế độ cai trị nhờ có trong tay quyền lực tập trung có thể tuyển mộ hàng vạn dân phu xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chính điều này đã tạo cho Trung Quốc khả năng tăng trưởng không ngừng nghỉ mà tất cả các nền dân chủ, với bản tính hay trì hoãn trong các quyết định, đều không thể làm được. Khi các nhà lãnh đạo mang danh nghĩa Cộng sản của Trung Quốc, những người kế tục di sản của 25 vương triều trong 4.000 năm lịch sử, tiếp thu công nghệ và thực tiễn phương Tây, họ đã đưa chúng vào một hệ thống văn hóa tinh vi và quy củ, vốn từng có nhiều kinh nghiệm độc đáo khác nhau, trong đó có việc thiết lập các mối quan hệ mẫu quốc-chư hầu với các quốc gia khác. Như lời của một quan chức Singapore từng nói với tôi hồi đầu năm: “Người Trung Quốc quyến rũ anh khi họ muốn, bóp nghẹt anh khi họ cần, và họ làm vậy một cách có hệ thống.”
Động lực trong nước của Trung Quốc làm nảy sinh những tham vọng với thế giới bên ngoài. Các đế quốc hiếm khi xuất hiện theo dự tính chủ quan mà thường từng bước phát triển một cách tự nhiên. Khi một quốc gia lớn mạnh, họ sẽ nảy sinh những nhu cầu và, nghe có vẻ phi lý, là cả những nỗi sợ hãi mới, những thứ sẽ khiến họ buộc phải bành trướng dưới nhiều hình thức. Ví dụ như nước Mỹ, ngay cả khi chịu sự lãnh đạo của những vị tổng thống kém cỏi nhất như Rutherford Hayes, James Garfield, Chester Arthur, Benjamin Harrison, thì nền kinh tế nước này những năm cuối thế kỷ XIX vẫn âm thầm tăng trưởng đều đặn. Khi có quan hệ thương mại ngày càng gắn kết với thế giới bên ngoài, Mỹ dần phát triển những lợi ích kinh tế và chiến lược phức tạp ở những vùng đất xa xôi. Và không ít lần, những lợi ích tại các khu vực như Nam Mỹ hay Thái Bình Dương đã trở thành cái cớ để triển khai các hành động quân sự. Trong giai đoạn này, Mỹ cũng bắt đầu tập trung ra thế giới bên ngoài khi các vấn đề trong nước đã được củng cố; trận đánh lớn cuối cùng trong các cuộc Chiến tranh với người da đỏ thực tế đã diễn ra năm 1890.
Trung Quốc ngày nay cũng đang củng cố các đường biên giới trên đất liền và bắt đầu chuyển hướng ra bên ngoài. Những tham vọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc quyết liệt không kém của Mỹ hơn một thế kỷ trước, nhưng lại có mục tiêu hoàn toàn khác. Trung Quốc không mang trên vai sứ mệnh truyền bá giá trị nào khi đến với thế giới, không tìm cách phổ cập bất kỳ hệ tư tưởng hay chế độ chính quyền nào. Thúc đẩy giá trị đạo đức trong các vấn đề quốc tế là mục tiêu của người Mỹ, không phải của Trung Quốc. Bánh lái cho những hoạt động của Trung Quốc ở nước ngoài chính là nhu cầu quốc gia về năng lượng, quặng kim loại, và những khoảng sản chiến lược giúp đảm bảo mức sống đang ngày một cao của một số dân khổng lồ, chiếm khoảng một phần năm tổng dân số toàn cầu của nước này.
Để hoàn thành trọng trách này, Trung Quốc đã thiết lập các mối quan hệ có lợi với các láng giềng xung quanh cũng như những vùng đất xa xôi, giàu tài nguyên cần thiết để tiếp năng lượng cho sức phát triển trong nước. Do luôn đặt lợi ích quốc gia cốt lõi – ở đây là sự tồn tại của nền kinh tế – làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động ở nước ngoài, Trung Quốc có thể được coi là một cường quốc thực dụng cực đoan. Người Trung Quốc tìm mọi cách tăng cường hiện diện trên khắp các khu vực tại Châu Phi – những nơi được thiên nhiên ban tặng nguồn dầu mỏ và khoáng sản trù phú; luôn muốn đảm bảo quyền tiếp cận các bến cảng trên khắp Ấn Độ Dương và Biển Đông – những vùng biển kết nối thế giới Ả rập giàu khí đốt với bờ biển Trung Quốc. Không quá kén chọn, Bắc Kinh cũng chẳng quan tâm đến chế độ mình đang tham gia hợp tác thuộc loại nào. Điều nước này cần là tính ổn định, không phải đạo đức như tiêu chuẩn của phương Tây. Và trong các chế độ đó, có một số nước – như Iran, Myanmar và Sudan – đang bị cô lập và cai trị bởi chế độ chuyên chế. Điều này đã khiến Trung Quốc, trong cuộc săn lùng tài nguyên trên toàn thế giới, vấp phải xung đột với nước Mỹ vốn có xu hướng truyền bá giá trị, cũng như với những quốc gia có vùng ảnh hưởng bị Trung Quốc vô tình đụng chạm như Ấn Độ và Nga.
Tất nhiên, Trung Quốc không phải là mối nguy hiểm cho sự sống còn của các quốc gia này. Khả năng bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn còn xa vời, và Trung Quốc chưa thể là mối đe dọa quân sự trực tiếp đối với Mỹ. Không kể đến những vấn đề như nợ, thương mại hay khí hậu ấm lên toàn cầu…, thách thức Trung Quốc đặt ra đối với Mỹ chủ yếu là về mặt địa lý. Vùng ảnh hưởng của Trung Quốc đang dần mở rộng ở lục địa Á – Âu và Châu Phi, dù không mang tính chất đế quốc thời thế kỷ XIX nhưng lại theo cách tinh vi hơn, phù hợp hơn với thời đại toàn cầu hóa. Đơn giản chỉ bằng cách bảo đảm nhu cầu kinh tế trong nước, Trung Quốc đang dần xoay chuyển cân bằng quyền lực trên Đông bán cầu, và điều này hẳn phải khiến Mỹ hết sức quan ngại. Sẵn có vị trí thuận lợi, Bắc Kinh đang mở rộng ảnh hưởng cả trên đất liền và trên biển, từ vùng Trung Á đến Biển Đông, từ vùng Viễn đông Nga xuống Ấn Độ Dương. Trung Quốc là một cường quốc lục địa đang vươn dậy, và, như câu nói nổi tiếng của Napoleon, các chính sách của các quốc gia như vậy bắt nguồn từ chính những đặc điểm địa lý của chúng.
Hội chứng biên giới nhạy cảm
Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực chính trong lãnh thổ Trung Quốc nơi cư dân bản địa luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Điều này khiến hai vùng đất này trở thành tài sản mang tính đế quốc của Bắc Kinh. Thêm vào đó, những căng thẳng sắc tộc tại những khu vực này đang làm phức tạp hóa quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước lân cận.
“Tân Cương”, tên của tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “biên cương mới”, dùng để chỉ vùng Turkestan rộng lớn với diện tích gấp đôi bang Texas (Mỹ) và nằm cách xa khu lục địa trung tâm của Trung Quốc qua Sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác từ hàng ngàn năm năm nay, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của nhà nước đó. Kể từ đó, lịch sử của tỉnh này đã “luôn chìm trong bất ổn” như lời mô tả của nhà ngoại giao người Anh Sir Fitzroy Maclean, với những cuộc nổi loạn và nhiều giai đoạn tự trị độc lập ngắt quãng cho tới những năm 1940. Đến năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân của Mao Trạch Đông đã tiến vào Tân Cương, dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng trong thời gian gần đây, điển hình vào năm 1990 và một lần nữa là vào năm 2009, tộc người Uighur (Duy Ngô Nhĩ), hậu duệ của người Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ VII-VIII, đã nổi dậy chống lại chính quyền Bắc Kinh.
Dân tộc Uighur có khoảng tám triệu người, chưa bằng 1% dân số Trung Quốc, nhưng chiếm tới 45% số dân tỉnh Tân Cương. Người Hán với số lượng áp đảo trên cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng đất thấp tại khu vực trung tâm và vùng duyên hải ven Thái Bình Dương, trong khi những cao nguyên khô cằn hơn ở phía Tây và Tây Nam là nơi trú ngụ lâu đời của dân tộc thiểu số Uighur và Tây Tạng. Sự phân bố dân cư này vẫn luôn là nguồn gốc cho những căng thẳng, bởi trong mắt Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc hiện nay cần phải áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên các khu vực cao nguyên này. Để giữ được những khu vực này, và cả nguồn dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất tại đây, trong nhiều thập kỷ Bắc Kinh đã đưa người Hán di cư từ khu trung tâm sang sống cùng người bản địa. Chính quyền cũng lôi kéo quyết liệt những nước cộng hòa độc lập của người Turk xung quanh trong khu vực Trung Á, một phần nhằm tách biệt người Uighur Tân Cương khỏi mọi nguồn hậu thuẫn khả dĩ.
Bắc Kinh còn lôi kéo các chính phủ Trung Á với mục đích mở rộng vùng ảnh hưởng của mình; dù biên giới Trung Quốc đã ăn sâu vào trong lục địa Á-Âu, nhưng vẫn chưa đủ so với cơn khát tài nguyên thiên nhiên của nước này. Thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở hai đường ống dẫn lớn sắp hoàn thiện nối đến Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống còn lại để chuyển khí đốt từ Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp những rủi ro lớn để bảo vệ chúng. Trung Quốc vẫn tiếp tục khai thác đồng ở Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa, và đang để mắt tới những mỏ sắt, vàng, uranium và những loại đá quý khác (khu vực này sở hữu một vài khu mỏ cuối cùng chưa được khai thác của thế giới). Bắc Kinh cũng có ý định xây dựng tuyến đường bộ và ống dẫn năng lượng xuyên Afghanistan và Pakistan, từ đó kết nối vùng ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng ở Trung Á với những cảng biển trên Ấn Độ Dương. Điều kiện địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được Afghanistan.
Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng trong nhận thức lãnh thổ của Trung Quốc, khu vực này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Vùng cao nguyên Tây Tạng, với địa hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn cảnh về một Tây Tạng tự trị, chưa nói đến độc lập, và cũng là lý do chính quyền vội vàng cho xây dựng đường sá và các tuyến đường sắt trên khắp khu vực. Nếu không sở hữu Tây Tạng, Trung Quốc sẽ chỉ còn là một quốc gia nhỏ bé với phần diện tích còn lại không đáng kể, còn Ấn Độ có thể bổ sung thêm một vùng phía bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.
Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào vững chắc, án ngữ một vùng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á. Điều này đã được chỉ rõ trong tấm bản đồ “Đại Trung Hoa” trong cuốn “The Grand Chessboard” [Bàn cờ lớn] của Zbigniew Brzezinski năm 1997. Ở một mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt Trung Quốc và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ: là láng giềng kề cận với dân số khổng lồ, cùng sở hữu nền văn hóa phong phú lâu đời, và đều có tranh chấp tuyên bố chủ quyền (điển hình như khu vực Arunachal Pradesh [Nam Tây Tạng] của Ấn Độ). Vấn đề Tây Tạng chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Ấn Độ đang cho phép chính quyền lưu vong của Đạt Lai Lạt Ma tị nạn từ năm 1957, và theo như Daniel Twining, ủy viên cấp cao của Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund), những căng thẳng biên giới Ấn-Trung gần đây có thể “liên quan đến những lo ngại của Bắc Kinh về vấn đề kế tục Đạt Lai Lạt Ma”. Vị Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo có khả năng đến từ vùng vành đai văn hóa Tây Tạng, khu vực trải dài từ miền Bắc Ấn Độ, Nepal đến Bhutan. Do đó ông có khả năng sẽ ủng hộ Ấn Độ và chống Trung Quốc (thân Ấn bài Trung) mạnh mẽ hơn. Trong tương lai, “cuộc chơi lớn” giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không chỉ diễn ra những khu vực này mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka. Vị trí địa lý của Tân Cương và Tây Tạng rơi vào trong đường biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng dựa trên mối quan hệ không mấy êm đẹp giữa chính quyền trung ương với người bản xứ ở hai tỉnh, có thể thấy Bắc Kinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi thái độ chống đối khi mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài phạm vi các khu vực nơi có người Hán chiếm đa số.

Kiểm soát từng bước
Ngay cả khi đã củng cố vùng biên cương, hình dáng của Trung Quốc vẫn mang nét chưa được hoàn thiện và dễ bị tổn thương, như thể ai đó đã cắt xén vài phần lãnh thổ của Đại Trung Hoa xưa kia. Đường biên giới phía bắc của Trung Quốc bao quanh Mông Cổ, một vùng đất đai khổng lồ như từng bị xé ra khỏi cái lưng của Trung Quốc. Mông Cổ là quốc gia có mật độ dân số thấp nhất thế giới và giờ đây đang bị nền văn minh đô thị của người láng giềng Trung Quốc đe dọa về mặt nhân khẩu. Từng một lần xâm chiếm thành công Ngoại Mông để dọn đường tiến vào vùng đất trù phú, Bắc Kinh hiện nay đã sẵn sàng chờ thời cơ để quay lại chinh phục Mông Cổ lần nữa, theo một cách khác, để thỏa cơn khát dầu mỏ, than đá, uranium và cả những đồng cỏ hoang vu và màu mỡ. Các công ty khai khoáng của Trung Quốc vẫn đang tìm kiếm cổ phần lớn trong những tài sản dưới lòng đất của Mông Cổ. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thiếu kiểm soát đã biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ lớn hàng đầu thế giới của các mặt hàng như aluminum, đồng, chì, niken, kẽm và quặng sắt, với mức tiêu thụ tăng từ 10% lên đến 25% thị phần kim loại thế giới kể từ cuối những năm 1990. Với Tây Tạng, Ma Cao và Hong Kong đã nằm trong tay chính quyền trung ương, những giao dịch của nước này với Mông Cổ sẽ trở thành thước đo để đánh giá mức độ của tham vọng đế quốc mà Bắc Kinh đang nung nấu.
Nằm ở phía bắc Mông Cổ và giáp ranh với ba tỉnh đông bắc Trung Quốc là khu vực Viễn Đông của Nga, vùng đất hoang vu, băng giá, có diện tích gấp đôi Châu Âu trong khi dân cư ngày một thưa thớt. Nước Nga mở rộng biên giới của mình đến khu vực này từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, giai đoạn Trung Quốc còn đang suy yếu. Nhưng giờ đây, Trung Quốc đã trở thành cường quốc, còn ở phía Nga, không đâu trên lãnh thổ quốc gia, quyền lực của chính quyền lại yếu như ở một phần ba lãnh thổ nằm ở phía đông này. Ở ngay bên kia biên giới của chưa đến 7 triệu người Nga vùng Viễn Đông (thậm chí đến năm 2015 có thể giảm xuống còn 4.5 triệu) là hơn 100 triệu dân của ba tỉnh tiếp giáp của Trung Quốc, nghĩa là mật độ dân số ở phía Trung Quốc cao gấp 62 lần so với phía Nga. Dòng di dân từ Trung Quốc vẫn đang đổ sang Nga, định cư đông đúc ở thành phố trung tâm Chita, phía Bắc Mông Cổ, và sống rải rác ở những nơi khác trong vùng. Tìm kiếm tài nguyên là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Trung Quốc khắp mọi nơi, trong khi đó vùng Viễn Đông thưa thớt của Nga lại đang sở hữu những mỏ khí đốt, dầu mỏ, gỗ, kim cương và vàng. David Blair, phóng viên thường trú cho tờ Daily Telegraph của London trong bài viết gần đây đã cho biết “Moscow đang hết sức cảnh giác với số lượng lớn những người di cư Trung Quốc đổ vào khu vực này, mang theo những công ty khai thác khoáng sản và gỗ”.
Cũng như với Mông Cổ, nỗi sợ của người Nga không phải là một ngày nào đó Trung Quốc sẽ đưa quân xâm lược hoặc chính thức thôn tính vùng Viễn Đông Nga, mà là quyền lực kiểm soát của Bắc Kinh về dân cư và doanh nghiệp đang từng bước lặng lẽ bao phủ khu vực này (trong lịch sử, Trung Quốc đã từng có thời gian ngắn nắm giữ quyền lực tại đây trong thời kỳ nhà Thanh). Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, do những tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc, hàng trăm ngàn binh lính đã được đưa đến vùng Siberi xa xôi này và đã có lúc cuộc đối đầu bị đẩy đến mức xung đột nóng. Đến cuối thập niên 1960, những căng thẳng này đã làm rạn vỡ quan hệ Xô-Trung. Yếu tố địa lý gần kề có thể gây chia rẽ Trung Quốc và Nga, bởi quan hệ đồng minh hiện nay giữa hai bên chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những tính toán sách lược. Điều này có thể có lợi cho Mỹ. Vào những năm 1970, chính quyền Nixon đã từng lợi dụng mối bất hòa giữa Bắc Kinh và Moscow để đặt quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Trong tương lai, khi Trung Quốc trở thành một cường quốc lớn hơn, sẽ không ngạc nhiên khi Mỹ bắt tay với Nga thành một khối đồng minh chiến lược nhằm tạo thế cân bằng với “Vương quốc trung tâm”.
Phương Nam hứa hẹn
Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang dần lan rộng xuống phía Đông Nam. Thực ra, do các quốc gia Đông Nam Á đều không mạnh nên đây là khu vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một Đại Trung Hoa. Về địa lý, Trung Quốc gần như không gặp cản trở nào với Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar. Trung tâm ảnh hưởng tự nhiên của vùng Sông Mekong, nơi kết nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông, là Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.
Quốc gia có diện tích lớn nhất trên vùng lục địa của Đông Nam Á là Myanmar. Nếu như Pakistan được ví là Balkans của Châu Á do luôn có nguy cơ bị chia cắt lãnh thổ, thì Myanmar lại giống như nước Bỉ thời đầu thế kỷ XX khi luôn đứng trước mối đe dọa xâm lược từ những nước láng giếng hùng mạnh hơn. Giống như Mông Cổ, miền Viễn Đông Nga và những vùng lãnh thổ giáp khu vực biên giới Trung Quốc, Myanmar cũng là một quốc gia yếu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Trung Quốc đang thèm khát. Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu ở Sittwe, nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar, với cùng một hy vọng trong tương lai sẽ có thể xây dựng đường ống dẫn ga nối vào từ các mỏ khai thác ngoài khơi vịnh Bengal.
Với cả khu vực nói chung, Bắc Kinh đang áp dụng chiến thuật “chia để trị” (divide-and-conquer) trong một số lĩnh vực. Trong quá khứ, Trung Quốc đã đàm phán riêng rẽ với từng thành viên trong ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) thay vì với tất cả các quốc gia theo tư cách một khối chung. Ngay cả hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại chính thức với ASEAN gần đây cũng cho thấy cách thức Trung Quốc sẽ tiếp tục áp dụng để phát triển những mối quan hệ có lợi với những người láng giềng phía nam. Quốc gia này sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những mặt hàng giá trị cao sản xuất trong nước đồng thời mua lại từ đây những sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều này đã mang về cho Trung Quốc thặng dư thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất bởi nhân công giá rẻ của Trung Quốc.
Thực tế này đang diễn ra trong tình cảnh quốc gia hùng mạnh một thời Thái Lan, sau những rung chuyển do biến cố chính trị nội bộ gần đây, đang ngày càng mờ nhạt trong vai trò mỏ neo của khu vực và đối trọng cố hữu của Trung Quốc tại đây. Hoàng gia Thái, với vị vua già yếu, đã không đủ sức đóng vai lực lượng duy trì ổn định như trước kia, trong khi giới quân sự Thái Lan đang bị tư tưởng bè phái thống trị. (Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương với Thái Lan đồng thời xây dựng những mối quan hệ tương tự với các nước Đông Nam Á khác, trong khi Mỹ ngày càng lơ là các cuộc tập trận trong khu vực để dồn sức cho các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq.) Ở phía nam Thái Lan, cả Malaysia và Singapore đều chuẩn bị bước vào thời kỳ chuyển đổi dân chủ đầy thách thức khi những nhà lãnh đạo khai quốc công thần đầy quyền lực trước đây, Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu, rời khỏi sân khấu chính trị. Malaysia ngày càng dấn sâu vào cái bóng kinh tế của Trung Quốc, cùng lúc dân số gốc Hoa tại đây cảm thấy bị đe dọa bởi người Malay Hồi giáo chiếm đa số. Singapore dù dân số hầu hết là người gốc Hoa nhưng chính phủ cũng đang lo ngại bị biến thành một nước chư hầu của Trung Quốc. Do đó, từ nhiều năm nay, đảo quốc này đã không ngừng chăm chút cho mối quan hệ về huấn luyện quân sự với Đài Loan. Lý Quang Diệu còn từng công khai thúc giục Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực cả về quân sự lẫn ngoại giao. Về phần mình, Indonesia cũng đang bị mắc kẹt trong tình thế giữa một bên vẫn cần sự hiện diện của hải quân Mỹ để cản chân Trung Quốc, nhưng mặt khác lại lo sợ sẽ khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo nổi giận khi nước này có biểu hiện là đồng minh của Mỹ. Trước tình cảnh quyền lực của Mỹ tại Đông Nam Á đã bước qua thời hoàng kim, còn Trung Quốc đang trỗi dậy ngày một mạnh mẽ, các thành viên trong khu vực đang cùng bắt tay hợp tác chặt chẽ hơn nhằm làm suy yếu chiến lược “chia để trị”. Điển hình như Indonesia, Malaysia và Singapore đã liên kết thành một nhóm chống cướp biển. Các quốc gia này càng tự lực cánh sinh bao nhiêu, mối đe dọa từ quyền lực nổi lên của Trung Quốc đối với họ sẽ càng ít bấy nhiêu.
Về lục quân
Trung Á, Mông Cổ, vùng Viễn Đông Nga và Đông Nam Á là những khu vực ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Nhưng những vùng biên giới chính trị ở đây lại không thể thay đổi. Trong khi đó, tình hình trên bán đảo Triều Tiên lại là một câu chuyện khác: về cơ bản, bản đồ Trung Quốc bị cắt cụt ngay tại khu vực này, và biên giới chính trị của bán đảo không quá khó để thay đổi.
Chế độ biệt lập của Bắc Triều Tiên vốn không ổn định từ trong gốc rễ, và sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực. Với địa thế vươn ra từ Mãn Châu, bán đảo Triều Tiên kiểm soát toàn bộ giao thông hàng hải ra vào đông bắc Trung Quốc. Tất nhiên không ai thực sự tin rằng Trung Quốc sẽ thôn tính bất cứ phần nào của bán đảo Triều Tiên, nhưng Bắc Kinh vẫn luôn cảm thấy bất tiện khi bị lãnh thổ của quốc gia khác nằm chắn lối ở đó, nhất là phía bắc. Và mặc dù ủng hộ chế độ Stalin của Kim Jong Il, Trung Quốc cũng lên sẵn những kế hoạch cho tương lai thời hậu cầm quyền của Kim. Bắc Kinh mong muốn cuối cùng có thể đưa hàng ngàn người đào ngũ đang cư ngụ tại Trung Quốc về lại Bắc Triều Tiên để xây dựng nền tảng chính trị thuận lợi cho công cuộc chiếm quyền kiểm soát kinh tế từng bước của Bắc Kinh đối với khu vực sông Tumen [Đồ Môn]. Đây là ngã ba tự nhiên giữa Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga, đồng thời cũng là nơi có các cảng biển tốt nối với Nhật Bản trên Thái Bình Dương.
Vì lẽ này, có lẽ Bắc Kinh sẽ muốn chứng kiến một Bắc Triều Tiên độc tài phát triển hiện đại hơn nữa, để từ đó tạo thành một vùng đệm an toàn ngăn cách Trung Quốc với nền dân chủ hưng thịnh và năng động của Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi bán đảo Triều Tiên tái thống nhất, Trung Quốc vẫn được lợi. Dù một Triều Tiên thống nhất sẽ trở nên dân tộc chủ nghĩa hơn và giữ thái độ thù địch đối với cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc, hai kẻ thù đã từng tìm cách xâm lược nước này trong quá khứ, nhưng thái độ thù địch của Triều Tiên với Nhật Bản nặng nề hơn rất nhiều so với phía Trung Quốc. (Nhật đã chiếm đóng bán đảo từ năm 1910 đến 1945, và đến nay Seoul và Tokyo vẫn còn tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Tokdo/Takeshima). Quan hệ kinh tế với Trung Quốc sẽ khăng khít hơn so với Nhật Bản bởi nếu thống nhất, Triều Tiên sẽ gần như chắc chắn nằm dưới quyền điều hành của Seoul, trong khi hiện nay Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc. Cuối cùng, khi đã xích lại gần hơn với Bắc Kinh và xa rời Nhật Bản, nước Triều Tiên thống nhất sẽ chẳng có lý do gì để tiếp tục giữ chân quân Mỹ trong lãnh thổ của mình. Hay nói cách khác, không khó để nhìn ra viễn cảnh một Triều Tiên trong vòng tay của Đại Trung Hoa và thời kỳ hiện diện của bộ binh Mỹ ở Đông Bắc Á sẽ dần đi đến hồi kết.
Ví dụ trên bán đảo Triều Tiên đã cho thấy biên giới đất liền của Trung Quốc mang lại nhiều cơ hội tiềm năng hơn là mối đe dọa. Như Mackinder đã kết luận, Trung Quốc có khả năng sẽ phát triển thành một cường quốc cả trên biển và đất liền, ít nhất sẽ đủ sức làm lu mờ Nga tại khu vực lục địa Á-Âu. Nhà khoa học chính trị John Mearsheimer từng viết trong cuốn “The Tragedy of Great Power Politics” [Bi kịch của chính trị cường quốc]: “Những quốc gia nguy hiểm nhất trong hệ thống quốc tế là những cường quốc lục địa có trong tay lực lượng quân đội khổng lồ.” Đây có thể là nguyên nhân chúng ta phải e ngại tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, bởi quốc gia này đang ngày càng trở thành một cường quốc lục địa. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ khớp với mô tả của Mearsheimer một phần, vì dù quân đội quốc gia sở hữu đến 1.6 triệu binh lính, lực lượng này vẫn khó có thể phát triển được khả năng viễn chinh trong những năm tới. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) từng ứng phó với trận động đất Tứ Xuyên 2008, giải quyết vụ bạo động sắc tộc gần đây ở Tây Tạng và Tân Cương và cả thách thức an ninh từ Olympic Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, theo Abraham Denmark, thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới [Center for a New American Security], những thành quả trên chỉ cho thấy PLA đủ khả năng di chuyển lực lượng trong phạm vi đại lục Trung Quốc, chứ vẫn chưa thể vận chuyển quân nhu và các loại vũ khí thiết bị hạng nặng ở một mức độ cần thiết cho các cuộc triển khai quân sự [ở nước ngoài]. Nhưng đạt được khả năng này hay không có lẽ cũng không quan trọng, vì dù sao việc PLA vượt qua biên giới Trung Quốc cũng khó có thể xảy ra trừ trường hợp có tính toán sai lầm (nếu có thêm một cuộc chiến tranh khác với Ấn Độ) hoặc khi cần lấp chỗ trống (nếu chế độ Bắc Triều Tiên sụp đổ). Trung Quốc vẫn có thể lấp đầy các khoảng trống quyền lực ở những vùng biên giới tiếp giáp bằng những biện pháp dân số và đầu tư doanh nghiệp mà không cần dùng đến một lực lượng bộ binh viễn chinh theo sau bảo vệ.
Sức mạnh chưa từng thấy trên đất liền của Trung Quốc phần nào nhờ công đóng góp của các nhà ngoại giao, những người những năm gần đây luôn phải làm việc không ngửng nghỉ để giải quyết hàng loạt tranh chấp biên giới với các nước cộng hòa Trung Á, Nga và những láng giềng khác (Ấn Độ là một ngoại lệ đáng chú ý). Tầm quan trọng của sự thay đổi này là rõ ràng. Đã không còn thời kỳ một quân đội hùng hậu luôn ngấp nghé Mãn Châu; trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, sự hiện diện đáng ngại này đã buộc Mao phải đổ dồn ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cho lực lượng bộ binh và sao lãng hải quân. Vạn Lý Trường Thành là một bằng chứng cho lịch sử luôn phải vật lộn với những cuộc xâm lược trên đất liền dưới nhiều hình thức của Trung Quốc từ thời xa xưa. Nhưng giờ đây tất cả đã là quá khứ.
Dần vững vàng trên biển
Nhờ tình hình thuận lợi trên đất liền, Trung Quốc giờ đây có thể tự do tập trung xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu. Nếu như với các quốc gia nhỏ ven biển và các đảo quốc theo đuổi phát triển sức mạnh trên biển là điều tất yếu thì làm như vậy lại là một điều xa xỉ đối với những cường quốc lục địa lâu năm như Trung Quốc. Riêng trường hợp Trung Quốc, xa xỉ phẩm này có thể không quá khó đạt được khi địa hình bờ biển cũng thuận lợi không kém so với đất liền. Phần lãnh thổ của nước này chiếm hầu hết đường bờ biển Đông Á trong cả vùng ôn đới và nhiệt đới của Thái Bình Dương và biên giới phía nam Trung Quốc cũng đủ gần với Ấn Độ Dương để có thể kết nối với nhau bằng những tuyến đường bộ và ống dẫn nhiên liệu trong tương lai. Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ mở rộng quyền lực cứng của mình ra thế giới bên ngoài chủ yếu bằng lực lượng hải quân.
Tuy nhiên, quốc gia này phải đối diện với một môi trường trên biển chông gai hơn nhiều so với trên đất liền. Hải quân Trung Quốc gần như không nhìn thấy được nhiều triển vọng nào khác ngoài những khó khăn trong khu vực mà nước này gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”, gồm bán đảo Triều Tiên, đảo Kuril, Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ryukyu), Đài Loan, Philippines, Indonesia, và Australia. Ngoại trừ Australia, tất cả những địa điểm còn lại đều có nguy cơ trở thành ngòi nổ xung đột. Đến nay, Trung Quốc đã bị vướng vào nhiều tranh chấp về chủ quyền ở những vùng đáy đại dương giàu năng lượng ở biển Hoa Đông và Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải), cụ thể là với Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư/Senkaku, với Philippines và Việt Nam ở Trường Sa. Những tranh chấp này tuy có thể giúp Bắc Kinh kích động chủ nghĩa dân tộc trong nước, nhưng với các nhà chiến lược hải quân, viễn cảnh trên biển này lại không mấy sáng sủa. Như mô tả của James Holmes và Toshi Yoshihara từ Học viện Hải chiến Hoa Kỳ [US Naval War College], chuỗi đảo thứ nhất là một dạng “Vạn Lý Trường Thành ngược”, tức là giống như một vòng vây hiệu quả của các đồng minh Mỹ, với mỗi bên đóng vai trò như một tháp canh giám sát và thậm chí có thể ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận với Thái Bình Dương.
Phản ứng của Trung Quốc trước cảm giác bị giam hãm này đôi khi rất quyết liệt. Sức mạnh trên biển thường ôn hòa hơn so với trên bộ, bởi hải quân không thể một mình xâm chiếm những vùng rộng lớn và nhiệm vụ phải đảm nhận không đơn thuần là chiến đấu (ví dụ như bảo vệ hoạt động giao thương). Do đó, người ta hẳn đã trông chờ Trung Quốc sẽ ôn hòa như những quốc gia biển trước đó, điển hình là Venice, Anh, hay Mỹ, và cũng như các nước này, sẽ tự quan tâm hàng đầu tới việc bảo vệ sự ổn định của hệ thống hàng hải, bao gồm cả lưu thông thương mại tự do. Nhưng Trung Quốc lại không tự tin đến như vậy. Do vẫn chưa là một cường quốc biển vững vàng, quốc gia này nhìn nhận đại dương dưới góc nhìn lãnh thổ, ngay từ cách gọi “chuỗi đảo thứ nhất” và “chuỗi đảo thứ hai” (gồm các vùng lãnh thổ Guam và quần đảo Bắc Mariana của Mỹ) đã cho thấy người Trung Quốc coi đây là những không gian đảo mở rộng của lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn. Với cách tính toán theo kiểu “tổng tất cả bằng không” như vậy với những vùng biển gần kề, các nhà chỉ huy hải quân Trung Quốc đang cho thấy dấu hiệu đi theo học thuyết hiếu chiến của chiến lược gia hải quân Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ XX Alfred Thayer Mahan về ủng hộ kiểm soát biển và các cuộc chiến mang tính quyết định. Tuy nhiên, họ vẫn chưa sở hữu lực lượng hải quân đủ mạnh để áp dụng học thuyết này, và hệ quả của sự chênh lệch giữa tham vọng và tiềm lực là một số sự cố vụng về trong vài năm gần đây. Vào tháng 10/2006, một tàu ngầm Trung Quốc bám theo tàu USS Kitty Hawk và sau đó nổi lên trong tầm bắn ngư lôi của tàu Mỹ. Vào tháng 11/2007, tàu Trung Quốc đã từ chối cho đội tàu sân bay Kitty Hawk tiến vào Cảng Victoria khi tàu này đang tìm nơi neo đậu tránh biển động và thời tiết xấu. (Dù vậy Kitty Hawk có ghé thăm Hong Kong năm 2010). Đến tháng 3/2009, một nhóm nhỏ tàu hải quân của PLA đã đe dọa tàu thăm dò của Mỹ USNS Impeccable khi tàu này đang hoạt động công khai bên ngoài ranh giới lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở Biển Đông, chặn đường tàu và làm động tác giả đâm tàu. Đây là những hành động không phải của một cường quốc chín chắn, mà mới chỉ của một cường quốc chưa trưởng thành.
Thái độ hung hăng trên biển của Trung Quốc cũng được thể hiện qua những hợp đồng mua vũ khí. Bắc Kinh đang phát triển khả năng bất đối xứng với mục tiêu ngăn chặn Hải quân Mỹ tiến vào Biển Hoa Đông và những vùng biển ven Trung Quốc. Trung Quốc đã hiện đại hóa hạm đội tàu khu trục của mình và có kế hoạch sở hữu một hoặc hai chiếc tàu sân bay nhưng sẽ chưa thể có được tất cả các loại tàu chiến. Thay vào đó, nước này đã tập trung vào xây dựng các chủng loại mới của tàu ngầm thông thường, tàu ngầm tấn công hạt nhân và thậm chí tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Theo Seth Cropsey, nguyên trợ lý thứ trưởng Hải quân Mỹ, và Ronald O’Rourke thuộc Bộ phận nghiên cứu thuộc Quốc hội, trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc có thể sở hữu một lực lượng tàu ngầm lớn hơn của Hải quân Hoa Kỳ, vốn hiện đang có 75 tàu ngầm đang được triển khai. Không những vậy, Cropsey cho rằng, hải quân Trung Quốc có kế hoạch sử dụng các loại radar tầm xa, vệ tinh, mạng lưới định vị sóng âm dưới đáy biển, và các hoạt động chiến tranh mạng nhằm phục vụ các tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM). Mục tiêu cuối cùng của những tiến bộ công nghệ này song song với sự phát triển nhanh chóng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc là nhằm ngăn chặn khả năng tiếp cận dễ dàng của Hải quân Hoa Kỳ vào những khu vực quan trọng phía Tây Thái Bình Dương.
Để thúc đẩy nỗ lực kiểm soát các vùng nước tại Eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông, Trung Quốc cũng đang cải thiện khả năng tác chiến mìn của mình, mua sắm các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của Nga, và triển khai khoảng 1.500 tên lửa đất đối không dọc bờ biển. Thêm vào đó, song song với việc đặt hệ thống cáp quang dưới lòng đất và dịch chuyển các lực lượng phòng thủ vào sâu trong lục địa phía Tây nhằm tránh tầm bắn tên lửa hải quân của những kẻ thù tiềm tàng, Trung Quốc còn đang phát triển một chiến lược tấn công nhằm tiêu diệt các tàu sân bay, biểu tượng sức mạnh của Mỹ.
Tất nhiên, Trung Quốc trong tương lai gần sẽ không tấn công tàu sân bay Mỹ, và nước này vẫn còn một con đường dài phía trước nếu muốn trực diện thách thức sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Nhưng mục tiêu của Trung Quốc là phát triển những năng lực này dọc đường bờ biển nhằm dập tắt ý định của Hải quân Hoa Kỳ tiếp cận theo ý muốn vào khu vực giữa chuỗi đảo thứ nhất và bờ biển Trung Quốc. Vì khả năng định hình hành vi của đối thủ là yêu cầu cốt lõi của quyền lực, đây sẽ là bằng chứng cho thấy một Đại Trung Hoa đang được hiện thực hóa trên biển giống như trên đất liền.
Yếu tố Đài Loan
Sự bất an trên biển
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Yeu to dia ly cua quyen luc TQ.pdf


[1] Theo Karl Wittogel, bất cứ một nền văn minh nào có hệ thống nông nghiệp đều dựa vào cấu trúc thủy lợi rộng lớn do chính quyền điều hành độc quyền. Việc cung cấp nước đầy đủ (cho tưới tiêu) và khả năng bảo vệ mùa màng (khỏi lũ lụt) mang lại quyền lực tuyệt đối cho chính quyền đối với nền kinh tế và từ đó là cả xã hội nông nghiệp). Cụm từ này dùng để nói về các nền văn minh như Ai Cập, Lương Hà, Trung Hoa…, để phân biệt với phương Tây – ND.

Kinh tế Trung Quốc sẽ có cú sụp đổ kinh hoàng?

Vì sao Trung Quốc quyết trừng phạt các ngân hàng? (CafeF)

http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/kinh-te-trung-quoc-se-co-cu-sup-do-kinh-hoang-201306301625085830ca32.chn
Kinh tế Trung Quốc sẽ có cú sụp đổ kinh hoàng?

Rất có thể những hệ quả mới chỉ bắt đầu. Nhiều chuyên gia nhận định rằng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có thể phải chịu những nỗi đau lớn hơn rất nhiều.

NHTW Trung Quốc đã khiến thị trường toàn cầu quay cuồng khi cố gắng thắt chặt tín dụng và hạn chế hệ thống ngân hàng trong bóng tối (shadow banking). Tuy nhiên, rất có thể những hệ quả mới chỉ bắt đầu. Nhiều chuyên gia nhận định rằng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có thể phải chịu những nỗi đau lớn hơn rất nhiều.
“Tín dụng đã được thắt chặt kể từ cuối năm ngoái”, Leland Miller – chủ tịch của China Beige Book International nhận định. 
Theo Leland, lãi suất cho vay liên ngân hàng tăng lên chính là một chỉ số thể hiện sự căng thẳng của hệ thống. Cơ chế chu chuyển tín dụng đã vỡ vụn và cho đến khi điều này được sửa chữa, Trung Quốc sẽ không thể có được kết cục tốt đẹp.
Trong thông báo được gửi đi tuần trước, NHTW Trung Quốc khẳng định nền kinh tế và hệ thống tài chính đang vận hành trơn tru và không hề có hiện tượng thiếu thanh khoản trên thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải chịu đựng những rắc rối từ tín dụng và tình trạng đầu tư quá mức trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm.
Bill Smead – CEO kiêm CIO của Smead Capital Management – cho rằng trong giai đoạn 2008 – 2011, Trung Quốc đã bơm vào nền kinh tế khoảng 2.500 tỷ USD. Phần lớn số tiền này đổ vào các công cụ đầu tư để xây dựng cầu cống, sân bay và chung cư. Rất nhiều dự án được xây dựng chỉ với mục đích thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội mà không tạo ra nhiều hiệu quả về mặt kinh tế.
Trong khi đó, Gordon Chang – tác giả của cuốn sách “The Coming Collapse of China,” (tạm dịch: Cú sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) cho rằng nước này chỉ có thể tăng trưởng 2 -3%. Thậm chí, nếu tất cả hoạt động xây dựng đổ vào các thành phố ma và “những con đường chẳng dẫn đến đâu”, nền kinh tế có thể không tăng trưởng.
Gordon Chang bổ sung nên nhìn vào sản lượng sử dụng điện để xem xét tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc thay vì các con số chính thức. Trả lời phỏng vấn CNBC hồi đầu tháng, ông nhận định Trung Quốc chỉ tăng trưởng 2,9% trong quý I thay vì 7,7% như báo cáo.
Và, rất nhiều khoản vay được sử dụng để tài trợ cho các thành phố ma và những tuyến đường sắt bỏ hoang. Các chủ nợ gần như không bao giờ có thể thu hồi những khoản nợ này. Thay vào đó, các ngân hàng tiếp tục đảo nợ.
Nếu các ngân hàng ngừng đảo nợ, hệ thống ngân hàng có thể xuất hiện một “lỗ hổng” về vốn. Trong trường hợp này, chính phủ buộc phải bỏ ra một số tiền khổng lồ để tái cấu trúc các ngân hàng.
Trung Quốc có thể làm hai điều để phòng chánh rủi ro: nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ.
David Riedel – chuyên gia đến từ Riedel Research Group – cho rằng trong khi nhà đầu tư phải lo lắng về sức khỏe của hệ thống ngân hàng,  tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 20% mà chính phủ đưa ra và kho dự trữ ngoại hối 3.000 tỷ USD là “hai trụ đỡ quan trọng”.
Tuy nhiên, sử dụng dự trữ ngoại hối để tái cấu trúc các ngân hàng có thể gây nên nhiều hậu quả không mong muốn: phá hoại đồng nhân dân tệ và gây nên lạm phát, dẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn.
Bi quan
Đối với một số nhà đầu tư quốc tế, sự bấp bênh của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với việc tránh đầu tư vào cổ phiếu Trung Quốc. Rajiv Jain – giám đốc của quỹ Virtus Foreign Opportunities Fund – nói với các nhà đầu tư tham dự hội thảo của Morningstar rằng ông “rất lo lắng về những rủi ro đến từ hệ thống ngân hàng trong bóng tối của Trung Quốc”.
Nhận định về đầu tư trong quý I vừa qua, ông cho rằng tốc độ tăng trưởng tín dụng của Trung Quốc là không bền vững. Jain bổ sung thê rằng các rủi ro mang tính chất hệ thống. Nếu kinh tế Trung Quốc suy giảm, chắc chắn là giá hàng hóa sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Giá hàng hóa thấp dẫn đến thu nhập cũng như đầu tư vào các nước xuất khẩu sụt giảm. Các nước này bao gồm Indonesia, Malaysia, Brazil, Canada và Australia.
Ông khuyến nghị nên đầu tư vào các công ty có phần lớn hoạt động ở trong nước (ví dụ như các ngân hàng Ấn Độ) và đánh giá rất thấp các công ty liên quan đến thị trường hàng hóa (vốn phụ thuộc vào Trung Quốc).
Cơ hội của Trung Quốc?
Tuy nhiên, không phải ai cũng bi quan về Trung Quốc. “Chúng tôi vẫn tin rằng Trung Quốc có thể xoay xở được”, Todd Henry – chuyên gia đến từ T.Rowe Price nhận định. Mặc dù nhận định Trung Quốc đã sai lầm trong phân bổ nguồn vốn và hệ thống tài chính ẩn chứa rủi ro, Henry vẫn cho rằng không có rủi ro hệ thống.
T. Rowe cho rằng không nên đầu tư vào mảng tài chính của Trung Quốc. Các cổ phiếu chưa đủ rẻ để chấp nhận rủi ro. T. Rowe ưa chuộng cổ phiếu của các công ty tiêu dùng, Internet và công ty hoạt động trong lĩnh vực môi trường.
Richard Gao, chuyên gia tại Matthews Asia, cho rằng Trung Quốc sẽ không đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Tuy nhiên, nhà đầu tư vẫn nên có cách tiếp cận thận trọng và giảm danh mục đầu tư vào lĩnh vực tài chính, đặc biệt là các ngân hàng.
Michael Kurtz, trưởng bộ phận đầu tư cổ phiếu của Nomura, cũng cho rằng nỗ lực thắt chặt tín dụng “rất hữu ích trong việc giúp nền kinh tế Trung Quốc bền vững hơn  trong trung và dài hạn. Thậm chí, đây là điều tích cực cho các định chế tài chính của Trung Quốc.
Còn Bill Stone của công ty quản lý tài sản PNC Asset Management thì cho rằng có vẻ như Trung Quốc không sụp đổ và những biến động gần đây có thể tạo ra cơ hội trong tương lai.
2007 hay 1979?
 
Chuyên gia đến từ HSBC Garry Evans so sánh bối cảnh hiện nay của Trung Quốc với nước Mỹ hồi năm 1979, khi Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Paul Volcker lên nhậm chức. Theo Evans, chính phủ Trung Quốc đang tập trung vào cải cách, thị trường sẽ chờ đợi liệu cải cách sẽ diễn ra như thế nào.
Trong khi đó, Henry cho rằng chuyển trọng tâm nền kinh tế từ đầu tư sang tiêu dùng nội địa sẽ là một quá trình  đòi hỏi nhiều sự khéo léo. Rủi ro nằm ở chỗ Trung Quốc có thể đi chệch hướng và mất kiểm soát. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tỏ ra khá xuất sắc trong nhiệm vụ điều hành nền kinh tế.
Trong khi đó, Smead có cái nhìn ảm đạm hơn khi cho rằng Trung Quốc năm 2013 giống với nước Mỹ thời kỳ 2007 – 08, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra. Trung Quốc là mối lo ngại lớn nhất của Smead và ông tránh đầu tư vào các công ty năng lượng, tài nguyên cũng như công nghiệp phụ thuộc vào Trung Quốc.
Smead dự báo Trung Quốc sẽ chịu đựng một cuộc suy thoái sâu kéo dài đến 4 năm.
Thu Hương
Theo Trí Thức Trẻ/CNBC

Ý nghĩa chuyến thăm TQ của Chủ tịch VN

BBC

Cập nhật: 09:40 GMT – chủ nhật, 30 tháng 6, 2013
Chủ tịch VN Trương Tấn Sang (phải)
Tác giả noi chuyến thăm của Chủ tịch Sang chưa giải tỏa được ‘mưu đồ’ của TQ
Mười chín ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc bài diễn văn Shangri-La xoay chuyển chính sách ngoại giao Việt Nam sang phía Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh hội đàm với Chủ tịch nước Tập Cận Bình về hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia.
Ngay sau đó, hai nhà lãnh đạo đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác, gồm có:
1. Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc.
2. Thoả thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng.
3. Thoả thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển.
4. Hiệp định khung giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi (cho Dự án hệ thống thông tin đường sắt) trị giá 320 triệu Nhân dân tệ.
5. Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hoá tại hai nước.
6. Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
7. Thoả thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu.
8. Kế hoạch hợp tác giữa giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2013-2017.
9. Hiệp định vay cụ thể tín dụng người mua ưu đãi cho Dự án Nhà máy Đạm than Ninh Bình trị giá 45 triệu đôla Mỹ.
10. Thoả thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thoả thuận thăm dò chung trong khu vực thoả thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.

‘Động cơ gặp gỡ’

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được biết là người chống chính sách bá quyền của Bắc Kinh. Khi nhậm chức vào tháng Bảy 2011, ông Sang đã tuyên bố trước Quốc hội là ông quyết tâm bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của đất nước
GS Lê Xuân Khoa
Chuyến đi được kết thúc bằng một bản tuyên bố chung 8 điểm dài khoảng 5.000 chữ. Điểm số 1 nói về mục đích cuộc hội đàm thượng đỉnh song phương là “làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung” đã được thảo luận và ký kết từ trước. Điểm 2 xác nhận “tiếp tục kiên trì phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” trong quan hệ phát triển lâu dài giữa hai nước.
Dựa trên cơ sở của hai điểm 1 và 2, điểm số 3 quan trọng nhất vì nó tóm lược 13 lĩnh vực hợp tác giữa các bộ, ngành của Chính phủ được ấn định trong “Chương trình hành động triển khai Quan hệđối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc”. Chương trình này được “khẩn trương bàn bạc” (bản tin TTXVN) trong phiên họp lần thứ 6 của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương tại Bắc Kinh ngày 11.5.2013, và bản dự thảo chương trình được chính thức ký kết thành Văn kiện số 1 trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Đây là văn kiện cơ bản thể hiện “tiếp tục phát triển hợp tác theo chiều sâu” nhằm “đẩy quan hệ Việt-Trung lên tầm cao mới” là mục tiêu chính của cuộc hội đàm giữa lãnh đạo của hai nước. Chín văn kiện còn lại là những thể hiện chi tiết về hợp tác giữa các bộ, ngành trên mọi lĩnh vực.
Cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có một số sự kiện cần được xem xét kỹ:
1. Mục tiêu “tiếp tục phát triển hợp tác theo chiều sâu” và “đẩy quan hệ Việt-Trung lên tầm cao mới” đều được Chủ tịch nhà nước Việt Nam và Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội nhấn mạnh trong hai cuộc phỏng vấn riêng biệt của báo chí Trung Quốc (với Chủ tịch Trương Tấn Sang) và báo chí Việt Nam (với Đại sứ Khổng Huyễn Hựu) ngay trước chuyến đi Trung Quốc của nhà lãnh đạo Việt Nam. Rõ ràng đây là một sự đáp trả mạnh mẽ đối với bước ngoặt về đối ngoại của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài diễn văn Shangri-La ngày 31.5. Các văn kiện được chuẩn bị từ trước ngày họp của Đối thoại Shangri-La đều là kết quả đúc kết mau chóng từ những thoả thuận đã có trong những phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương và Hội thảo lý luận giữa hai đảng trong nhiều năm qua. Văn kiện số 1 được “khẩn trương bàn bạc” trong phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo ngày 11.5 cho thấy Bắc Kinh đã được báo cáo mật về sự xoay trục sang Hoa Kỳ của ông Nguyễn Tấn Dũng nên họ quyết định phải sớm có hành động đối phó bằng cách liên kết với phe chống Nguyễn Tấn Dũng ở trong nước.
Cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có bề ngoài làm giảm căng thẳng và gia tằng hợp tác giữa hai nước, nhưng vẫn ngầm chứa ý đồ của Trung Quốc lấn chiếm Việt Nam
GS Lê Xuân Khoa
2. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được biết là người chống chính sách bá quyền của Bắc Kinh. Khi nhậm chức vào tháng Bảy 2011, ông Sang đã tuyên bố trước Quốc hội là ông quyết tâm bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của đất nước. Chuyến công du ngoại quốc đầu tiên của ông là đi Ấn Độ vào tháng Mười 2011 trong khi Tổng Bí thư lên đường sang Trung Quốc. Mới hai tháng trước, ông Sang ra thăm ngư dân đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi, giúp đỡ nạn nhân bị tàu Trung Quốc tấn công và khuyến khích ngư dân “yên tâm bám biển, đoàn kết tương trợ nhau để tránh thiên tai, địch hoạ”. Cho đến nay, hai năm sau ngày nhậm chức, ông mới có chuyến công du đầu tiên sang Trung Quốc. Sự kiện này có thể được hiểu là Tập Cận Bình, muốn ngăn chặn Nguyễn Tấn Dũng chuyển hướng đối ngoại sang phía Mỹ, cần phải trấn an Trương Tấn Sang và ủng hộ ông ta trong cuộc tranh giành quyền lực với Nguyễn Tấn Dũng. Tập Cận Bình không mời Nguyễn Phú Trọng vì ông này thân Trung Quốc quá lộ liễu và vì, trong trường hợp này, quan hệ Việt-Trung nên được giải quyết giữa hai Chủ tịch nước. Trong khi đó, dù không ưa Trung Quốc, Trương Tấn Sang vẫn cần phải dựa vào cường quốc này để bảo vệ Đảng và chế độ. Do đó, hai bên đã cố gắng giảm bớt căng thẳng, gia tăng hợp tác với kết quả là đôi bên cùng có lợi.
3. Một kịch bản khác là, trước nguy cơ Đảng suy sụp vì xung đột nội bộ và trước xu hướng chung của quốc tế là phải kiềm chế chính sách bành trướng ngang ngược của Trung Quốc, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có thể đã đạt được đồng thuận giữa các bên là cân bằng lại chính sách ngoại giao để không còn nghiêng về Trung Quốc. Bởi thế, trong khi tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác với Bắc Kinh, Hà Nội cũng gia tăng hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và môt số cường quốc khác. Chính sách đu dây này không có vấn đề gì đối với Hoa Kỳ vì nước này không có tham vọng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ hay lãnh hải của một nước nào trong khu vực, nhưng Trung Quốc từ mấy ngàn năm nay không bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính và Hán hoá Việt Nam. Vì vậy chính sách cân bằng đối ngoại của Việt Nam rất khó tồn tại lâu dài trước mối đe dọa thường trực của Trung Quốc, nếu không có sự đảm bảo của quốc tế hay của một đối tác hợp tác chiến lược quốc phòng như trường hợp Hoa Kỳ đối với Nhật bản hay Đài Loan. Ngoài ra, kịch bản đồng thuận này của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chỉ là một giả định, chưa có gì là chắc chắn.

‘Ý ngầm Trung Quốc’

Trở lại quan hệ Việt Nam-Trung Quốc sau cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang, sự phát triển hợp tác theo chiều sâu và đẩy lên một tầng cao mới được thể hiện trong bản Tuyên bố chung với 10 Văn kiện cụ thể của “Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngoài việc phân tích những yếu tố chính trị đưa đến cuộc hội đàm Bình – Sang, cần xem xét kỹ lưỡng 10 văn kiện đã ký để nhận ra những điểm lợi hại cho Việt Nam trên từng lãnh vực hợp tác. Vì chưa được đọc các văn kiện và vì giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể đưa ra một số nhận định tổng quát về cơ sở và kết quả của cuộc hội đàm thượng đỉnh song phương này:
Lãnh đạo cộng sản Việt Nam cần nhận biết rằng, thay vì theo sau Trung Quốc, nếu họ chọn con đường dân chủ hoá trước Trung Quốc thì, với sự ủng hộ của nhân dân và thế giới dân chủ, họ sẽ thành công trong sứ mệnh bảo vệ và phát triển đất nước
GS Lê Xuân Khoa
1. Cuộc hội đàm được diễn ra trên cơ sở của phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt là một cơ sở quá cũ đã được chứng tỏ là Việt Nam bị Trung Quốc lường gạt bằng những lời hoa mỹ. Thực tế là Trung Quốc đã sử dụng “sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền” đúng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ám chỉ trong bài diễn văn Shangri-La. Lẽ ra, mục đích cuộc hội đàm phải là cải thiện quan hệ hợp tác giữa hai nước bằng những cam kết ngưng tất cả mọi hành động áp đặt, đối xử bất bình đẳng, không tôn trọng nhân đạo và luật lệ quốc tế. Bản Tuyên bố không nhắc gì đến Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC) là một thiếu sót do cố ý, rất hại cho Việt Nam và các nước ASEAN.
2. Một số thoả thuận có tính tích cực như thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, hợp tác kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu, cho vay tín dụng người mua ưu đãi cho dự án nhà máy Đạm than Ninh Bình. Vấn đề là việc thi hành có được đảm bảo về hiệu quả hay không.
3. Thoả thuận có thể gây tranh cãi là mở rộng khu vực thăm dò chung về dầu khí trên Vịnh Bắc Bộ. Cần xem xét lợi hại thế nào cho Việt Nam.
4. Văn kiện số 4 nói về tín dụng ưu đãi cho Dự án hệ thống thông tin đường sắt. Thật ra thì đây là Dự án giao thông đường bộ cao tốc Bằng Tường – Lạng Sơn – Hà Nội. Đường cao tốc nối liền Bằng Tường (tỉnh Quảng Tây) với Hà Nội có lợi ích kinh tế nhưng cũng có thể nguy hiểm cho Việt Nam nếu chẳng may xảy ra xung đột quân sự giữa hai nước.
5. Văn kiện số 5 về giao lưu văn hoá Việt – Trung, với nhữngTrung tâm văn hoá nước này ở nước kia, có thể là con dao hai lưỡi nếu được Trung Quốc sử dụng như một phương tiện đồng hoá dân tộc Việt.
Tóm lại, kết quả cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có bề ngoài làm giảm căng thẳng và gia tăng hợp tác giữa hai nước, nhưng vẫn ngầm chứa ý đồ của Trung Quốc lấn chiếm Việt Nam. Trong khi đó, lãnh đạo Việt Nam cứ lúng túng giữa một bên là ý muốn bảo vệ đảng và chế độ và một bên là lòng bất mãn của nhân dân yêu nước và khát khao dân chủ đang lên cao.
Lãnh đạo cộng sản Việt Nam cần nhận biết rằng, thay vì theo sau Trung Quốc, nếu họ chọn con đường dân chủ hoá trước Trung Quốc thì, với sự ủng hộ của nhân dân và thế giới dân chủ, họ sẽ thành công trong sứ mệnh bảo vệ và phát triển đất nước. Hãy hoà giải với những người bất đồng chính kiến, hãy lắng nghe và hợp tác với trí thức. Trung Quốc, nếu cũng tự thay đổi chế độ từ độc tài sang dân chủ, sẽ không bị cô lập và được thế giới đón nhận như một siêu cường. Khi đó họ cũng sẽ được sự kính trọng và ủng hộ của các nước Á châu. Biển Đông sẽ êm lặng. Thế giới sẽ hoà bình. Đây là cái message cần được gửi đến lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc.
Bài viết nêu quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một học giả gốc Việt đang sinh sống ở Hoa Kỳ.

Quân đội của ai?

Đanchimviet


qdndTử Cống hỏi Khổng Tử về chính trị. Khổng Tử đáp:
- Đủ ăn, đủ binh và được dân tin cậy.
Tử Cống nói:
- Nếu phải bỏ đi một điều thì trong ba điều ấy điều nào có thể bỏ được?
Khổng Tử trả lời:
- Bỏ binh.
Tử Cống lại hỏi:
- Nếu còn phải bỏ đi điều nữa trong hai điều còn lại, điều nào có thể bỏ được?
Khổng Tử đáp:
- “Khứ thực, tự cổ nhân giai hữu tử, dân vô tín bất lập”, bỏ ăn, từ xưa ai cũng phải chết, nhưng nếu dân bất tín thì chính trị không đứng vững.
Đó là đoạn đối thoại giữa hai nhà minh triết Trung hoa về nghệ thuật chính trị, nghệ thuật lãnh đạo. Qua đó chúng ta thấy rằng lòng dân là một yếu tố căn bản trong một thể chế chính trị, có được sức mạnh quân sự- kinh tế chưa hẳn có được lòng dân, nhưng một thể chế chính trị có được lòng dân thì sẽ có được quân đội hùng mạnh và kinh tế phát triển
“Cái thực tế của chính trị là no đủ . Túc thực, túc binh. Nói rằng có thể bỏ binh bỏ thực là phủ nhận thực tế sao? Cái nghĩa không phải vậy. Bỏ binh đây có nghĩa là chớ đem binh đội biến thành móng vuốt của thống trị”.
 Đó là chính trị của Trung hoa, còn chính trị theo triết lý Việt thì sao?
Chính trị Việt thiên về văn tự, khi nói đến võ chỉ dùng hai chữ võ công. Võ để chống xâm lược, để thực thi quốc phòng chính sách, không để dùng làm qua nha. (Những quy luật trong chính trị Việt- Vũ tài Lục).
Vậy mà vừa qua trên BBC đưa tin:
“Đảng Cộng sản Việt Nam vừa chỉ đạo cho Quân đội phải nâng cao năng lực điều hành và chỉ huy nhằm “xử lý các tình huống về an ninh chính trị ở các địa phương đồng bộ và có hiệu quả hơn”.
Lãnh đạo ngành tuyên giáo của Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế Huynh đã phát biểu như vậy trong bối cảnh các địa phương tại Việt Nam tiếp tục bắt giữ những người viết bài phê phán chính quyền trên mạng Internet”.
Từ cổ chí kim quân đội của bất cứ quốc gia nào cũng từ nhân dân mà ra, được sự nuôi dưỡng của nhân dân và một lẽ tất nhiên là phục vụ nhân dân.
Thời đại ngày nay ở các nước dân chủ văn minh, quân đội phải đứng ngoài chính trị hay có thể gọi là “phi chính trị” .
Được đặt dưới sự lãnh đạo của một chính phủ dân sự do người dân bầu ra, quân đội không thiên về một đảng chính trị nào và tuyệt đối trung thành với quốc gia và dân tộc, phục vụ quốc gia và dân tộc.
Vậy mà dưới thời đại Hồ chí Minh quân đội trở thành công cụ của đảng CS, trung thành và phục vụ cho đảng CS, để một khi quyền lợi của đảng CS và quốc gia mâu thuẫn người dân bất phục tùng nổi lên chống lại cái đảng cầm quyền phản quốc hại dân thì quân đội lại được đảng sử dụng như một công cụ để đàn áp nhân dân, bảo vệ đảng.
Như vậy đảng CS đã biến quân đội thành gia nô của mình.
Nhưng ý đồ của đảng có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào quân đội, nếu quân đội ý thức được vị trí, giá trị và sứ mệnh cao quý của mình là bảo vệ tổ quốc và nhân dân thì họ sẽ biết phải làm gì.
Những vị lãnh đạo của quân đội cũng vậy nếu họ ý thức được họ là những người con của dân tộc Việt, trong con người họ còn lưu chuyển dòng máu anh hùng của Bà Trưng bà Triệu, của Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung thì tất họ sẽ biết phải làm gì, biết chọn cho mình chỗ đứng nào trong lòng dân tộc và lịch sử Việt nam.
Tôi luôn hy vọng rằng trong quân đội hiện nay vẫn còn nhiều người có tầm nhìn viễn đại, trong hàng ngũ bộ đội, sĩ quan và tướng lĩnh vẫn còn rất nhiều  người ý thức được họ là con em của dân từ nhân dân mà ra, phục vụ nhân dân và tổ quốc là sứ mệnh và lý tưởng thiêng liêng của quân đội.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội nhân dân VN, chúng ta đã từng thấy sự dấn thân của tướng Trần Độ và hiện nay là tướng Nguyễn trọng Vĩnh, hai vị tướng này đã chọn lựa đứng về phía dân tộc để hành xử tư cách làm tướng của mình.
Trong chế độ độc tài đảng trị hiện nay việc chọn lựa đứng về phía nhân dân không phải là một sự chọn lựa dễ dàng vì cho dù là tướng trong quân đội họ vẫn còn có gia đình vợ con, sự an nguy của những người thân của họ là một sự trói buộc phải cân nhắc.
Nhưng một khi thời cuộc biến động đặt ra những yêu cầu bức thiết thì những con người này sẽ có cơ hội để vùng thoát khỏi sự chi phối của đảng CS, họ sẽ đứng về phía nhân dân bằng cách hợp tác với những người đại diện của dân để tìm được sự chính danh trong hành động.
Đảng CSVN ngày hôm nay đang bế tắc với những tranh giành quyền lực nội bộ nên việc họ muốn kiểm soát và chi phối quân đội một cách toàn diện là điều kiện sinh tử để đảng CS ngăn ngừa những cuộc binh biến có thể xảy ra và sẵn sàng đàn áp và vô hiệu hóa sự nổi dậy của người dân cũng là những mục tiêu mà đảng CS nhắm tới.
Nhưng việc dùng quân đội như vũ khí và nanh vúôt của chế độ để đàn áp nhân dân là biểu hiện sự khốn cùng của đảng CS.
Quân đội nhân dân VN hãy so sánh mình với quân đội các nước trong khu vực và thế giới để biết thực trạng của mình chỉ là con tốt trong tay đảng CS.
- Quân đội Thái Lan sẵn sàng can thiệp vào chính trị mỗi khi họ nhận thấy một chính phủ dù là do dân bầu có xu hướng đi chệch với mục tiêu dân chủ và đi ngược lại với quyền lợi quốc gia, nhưng họ không lợi dụng sức mạnh và ưu thế của mình để biến thành quân phiệt như ta đã thấy.
Chỉ có một quân đội và một quốc gia luôn luôn vận động để trưởng thành về chính trị mới làm được như vậy.
- Còn quân đội Philippin đã có cách hành xử hoàn toàn khác với cách hành xử thụ động và nhu nhược của quân đội VN trong việc bảo vệ chủ quyền của đất nước trước tham vọng của Bắc kinh, mặc dù quân đội nước này đang phải chật vật đối đầu với một cuộc nội chiến gây ra từ những phần tử Hồi giáo và Cộng sản cực đoan.
Quân đội nhân dân VN không phải là bất tài và vô trách nhiệm, nhưng họ đang bị bịt mắt  để phục vụ cho chính sách nhu nhược của đảng CSVN trong quan hệ với Trung cộng, bằng chứng là hai cuộc chiến tranh với Trung cộng  (1979 trên biên giới Việt –Trung và 1988 tại quần đảo Trường sa) đã chứng minh điều đó.
Quân đội nhân dân VN đang bị đảng CS trói tay và biến thành công cụ đàn áp nhân dân, có nghĩa là quân đội đã bị đảng CS sĩ nhục.
Việc ông Trương tấn Sang công du Trung quốc lần này với những cam kết về một sự “hợp tác chiến lược toàn diện” trên tinh thần “đồng chí anh em” chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn vào hiểm họa lệ thuộc ngày càng nhiều hơn vào Trung cộng mà thôi.
Để bảo vệ đất nước chúng ta cần một chiến lược ngoại giao hợp thời và khôn khéo cộng với một quân đội hùng mạnh, độc lập và chuyên nghiệp.
Muốn làm được điều đó Việt nam phải “thoát xác” như Miến Điện để phá vỡ thế cô lập chính trị hiện nay và thoát khỏi quỹ đạo của Trung cộng.
-         Dân chủ hóa đất nước để tháo bỏ những rào cản hội nhập thế giới.
-         Nâng mối quan hệ Việt – Mỹ lên tầm “ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN” để làm đối trọng với Trung quốc.
Vai trò của quân đội VN ngày hôm nay là góp phần định hình cho tiến trình dân chủ hóa VN.
Tóm lại quân đội muốn giữ được vị trí tôn quý của mình trong dòng sinh mệnh dân tộc và thực hiện được sứ mệnh trọng đại của mình là phục vụ Tổ quốc và nhân dân thì quân đội phải độc lập.
Quân đội muốn được tôn quý và độc lập thì phải ủng hộ việc xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, để không phải lệ thuộc vào bất cứ một đảng cầm quyền nào.
Quân đội chỉ làm nhiệm vụ quốc phòng và là một động lực để cân bằng chính trị.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt

Thất nghiệp ở Việt Nam thấp hơn các nước là ‘hoàn toàn đúng’

“Không thể so sánh tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam với thế giới vì khái nhiệm thất nghiệp trong điều tra là khác nhau”, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê -Đỗ Thức nhận định.
Trao đổi xung quanh vấn đề lao động – việc làm tại lễ công bố số liệu 6 tháng, ngày 27/6, đại diện ngành thống kê cho biết khái niệm thất nghiệp ở Việt Nam được hiểu là những người hoàn toàn không làm việc trong 7 ngày, nếu làm việc một giờ cũng không thuộc dạng thất nghiệp. “Thử hỏi như vậy, có ai trong 1 tuần không làm việc một giờ hay không, do đó, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thấp là hoàn toàn đúng”, ông Đỗ Thức phát biểu.
do-thuc-JPG-1372356002_500x0.jpg
Ông Đỗ Thức – Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê. Ảnh: Huyền Thư
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,28%. Trước đó, năm 2012 tỷ lệ thất nghiệp chỉ ở 1,99%, giảm so với mức 2,8% và 2,2% của năm 2010 và 2011.
Giải thích cho việc tỷ lệ thất nghiệp năm nay lại tăng lên trong khi năm trước giảm, lãnh đạo Tổng cục Thống kê cho rằng những năm trước lao động chuyển từ khu vực chính thức sang phi chính thức với điều kiện kinh doanh rất bấp bênh, song đến năm 2013, những người lao động thấy khu vực này hiệu quả thấp nên họ chuyển sang không làm gì, khiến cho tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên.
Trước đó, những băn khoăn về số liệu thất nghiệp được nói tới nhiều khi đại biểu tỏ ý nghi ngờ về tính chính xác của con số này trên Quốc hội. Cụ thể, tại phiên thảo luận Hội trường ngày 30/5, đại biểu Nguyễn Văn Hiến cho rằng các con số như được cài đặt. Bởi với 50.000 doanh nghiệp phá sản hoặc ngừng hoạt động, nhiều doanh nghiệp giảm quy mô thì tỷ lệ thất nghiệp đáng ra phải tăng nhưng báo cáo cho thấy, tỷ lệ này lại giảm dần trong 3 năm qua, từ 2,8% năm 2010 xuống 1,99% năm 2012.
Lý giải cho vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội – Phạm Thị Hải Chuyền cho rằng phần lớn doanh nghiệp mới thành lập sử dụng lao động từ khu vực nông thôn chuyển sang, khi công ty giải thể, phá sản, số lao động này lại quay về làm nông nghiệp.
Mặt khác, những đơn vị giải thể thường có quy mô nhỏ, chỉ có vài chục đến vài trăm lao động, trong khi một số dự án lớn như Samsung có thể thu hút số lao động gấp nhiều lần ở đơn vị vừa phá sản, bà chia sẻ.
Huyền Thư
 tôi học sư phạm rồi 1 bằng đại học nữa ra bay giờ vẫn đang là người thất nghiệp này. riêng khóa tôi học cũng k biết bạn nào bỏ xứ đi đâu k biết…chúng tôi đi làm công nhân 1 tháng lương chỉ 2-3tr

LÁT CẮT GIỮA “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ ”

Buivanbong


Tiếp cận từ khía cạnh các tư liệu bản đồ, được tiến hành đo đạc, xác lập từ thế kỷ thứ XV (có thể lâu hơn nữa) đã cho thấy một lát cắt hoàn chỉnh về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Những chứng cứ này đã biến yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trở nên vô lý đối với các nước ven biển ASEAN và cộng đồng quốc tế yêu hòa bình, công lý.
Với khoảng hơn 1000 bản đồ lớn nhỏ, dài rộng khác nhau của các học giả trên khắp thế giới, kể cả các học giả người Trung Quốc, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu khẳng định, đây là những tài liệu rất quan trọng để Chính phủ sử dụng trong trường hợp một Tòa án quốc tế có thẩm quyền được lập để giải quyết vấn đề phức tạp tại Biển Đông hiện nay.
Chủ quyền biển đảo Việt Nam được xác lập từ thế kỷ XV
Trong kho tư liệu bản đồ mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cung cấp, có một bản đồ cổ hiếm hoi được ghi nhận ra đời từ thế kỷ thứ XV. “Thực ra có thể có nhiều tấm bản đồ cổ hơn nữa nhưng trải qua thời gian, chiến tranh và biến cố của thời cuộc nên hầu hết đã bị thất lạc” – ông Nguyễn Đình Đầu cho biết.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu giới thiệu
về kho tư liệu hơn 1000 bản đồ các loạikhẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ khi Việt Nam giành được quyền tự chủ vào năm 939, bản thân chính quyền và các học giả Trung Hoa khi đó đã bắt đầu vẽ bản đồ nước ta, song chủ yếu là phần đất liền. Phải đến các thế kỷ sau đó, Biển Đông và các hải đảo của Việt Nam mới bắt đầu được mô tả trên bản đồ. Theo các tài liệu thu thập được, hiện còn 3 tập bản đồ thể hiện khá rõ chủ quyền lãnh hải và đất liền của Việt Nam, gồm: Bản đồ Giao Chỉ Quốc – Giao Chỉ Dương (trích từ bản đồ Võ Bị Chí được vẽ từ khoảng thế kỷ XV); Bản đồ diên cách Việt Nam Đông Đô – Việt Nam Tây Đô với Đông Dương Đại Hải của Ngụy Nguyên (khoảng năm 1842) và Bản đồ An Nam Quốc với Đông Nam Hải.
Trong số các bản đồ này thì tập bản đồ Võ Bị Chí có thể hiện một bán đảo lớn, đề rõ Giao Chỉ Quốc, trong đó phía Đông là biển cả được ghi rõ Giao Chỉ Dương. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, vào giai đoạn này nước ta tự xưng tên gọi là Đại Việt, Trung Quốc gọi là An Nam Quốc. Tuy Võ Bị Chí vẫn gọi nước ta theo tên Giao Chỉ cổ đại nhưng cũng đã tỏ ra tôn trọng chủ quyền của nước ta ở trên lục địa lẫn Biển Đông.
Sau này, Ngụy Nguyên ghi vẽ lại bản đồ diên cách Việt Nam khá chính xác gồm: Việt Nam Đông Đô (tức Đàng Ngoài) và Việt Nam Tây Đô (tức Đàng Trong). Ở ngoài khơi Việt Nam Đông Đô là quần đảo Vạn Lý Trường Sa tức quần đảo Hoàng Sa ngày nay. Ngoài khơi thuộc Việt Nam Tây Đô là quần đảo Thiên Lý Thạch Đường, tức Trường Sa. Ngoài khơi biển cả được ghi rõ là Đông Dương Đại Hải.
Ngoài ra, trên bản đồ An Nam Quốc, Ngụy Nguyên cũng đã ghi lại nhiều địa danh các vương quốc phụ thuộc làm cho ranh giới chiếm phần lớn bên hữu ngạn sông Mê Kông, nay thuộc Thái Lan. Ngoài Biển Đông, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Nam Hải, chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên lục địa và biển cả là rộng lớn và được tôn trọng hiển nhiên.
Trong các văn bản chính thống, Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú đã chứng minh chủ quyền và quá trình khai thác và làm chủ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trong sách Phủ Biên Tạp Lục (1777), Lê Quý Đôn viết: “Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ở gần bãi biển. Về hướng đông bắc có nhiều đảo và nhiều núi linh tinh hơn 130 đỉnh… ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng, chiều dài ước chừng hơn 30 dặm… những thuyền lớn đi biển thường khi gặp gió bão đều đến nương đậu ở đảo này. Họ Nguyễn còn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh bổ sung… một đội Bắc Hải chèo thuyền ra cù lao Côn Lôn… hoặc đi đến các xứ Cồn Tự vùng Hà Tiên để tìm kiếm”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng lưu giữ được hai bản đồ quý từ thế kỷ XV – XVII, gồm An Nam Quốc (Hồng Đức 1490) và Vương quốc An Nam (Alexandre de Rhodes, 1650) cũng biểu hiện khá rõ thềm lục địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam đương thời. Sau này vào thời Gia Long, là thời kỳ đầu tiên thống nhất nước ta từ ngoại giao đến nội trị, từ quốc phòng đến hành chính, từ khai thác hầm mỏ đến bảo vệ hải đảo. Đây là giai đoạn mà các tài liệu được ghi chép hết sức tỉ mỉ về các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Riêng về ghi chép bản đồ, thời kỳ này có hai bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ (Taberd 1838) và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (1840) thể hiện khá đầy đủ tình hình thềm lục địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam.
  Một bản đồ được ghi chép bằng tiếng Hán
thể hiện chủ quyền biển đảo của Việt Nam
                   
Phương Tây xác định chủ quyền các quần đảo là của Việt Nam
Từ thế kỷ thứ XIX, song song với quá trình xâm chiếm các thuộc địa, nhiều nước Phương Tây tiến hành đo vẽ bản đồ thế giới gồm cả 5 châu lục, trong đó có thể hiện tên nước Giao Chỉ, với các cách phiên âm rất khác nhau, như: Cochi, Cauchi, Cauci, Quachym, Cochin… Do có kỹ thuật hiện đại về đo đạc nên có thể coi các tài liệu của Phương Tây về chủ quyền các đảo, quần đảo tại Biển Đông thời kỳ này là tương đối chính xác.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ thế kỷ thứ XVI, nước Đại Việt cùng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được Phương Tây trích dẫn trên hầu hết các bản đồ thế giới hoặc khu vực Đông Á. Riêng Alexandre de Rhodes 1650; Công ty Đông Ấn La Haye năm 1658 và Taberd năm 1838 đã vẽ riêng bản đồ Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Đình Đầu, trong số hàng trăm bản đồ do Phương Tây thực hiện, hầu hết đều ghi rõ đất nước Việt Nam với các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi tên chung là Paracel hay Pracel. Bờ biển Prasel là ở Trung Bộ Việt Nam. “Không một bản đồ nào ghi bờ biển Prasel ở Nam Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai. Thật hiển nhiên, khắp thế giới đều công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam” – nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhấn mạnh.
Với 50 bản đồ mô tả nước Việt Nam với thềm lục địa và Biển Đông ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần sự hiểu biết của thế giới về đất nước Việt Nam ngày một chính xác, cả về hình thể, lẫn địa danh (trong đó, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa).
Việt Nam có thềm lục địa trải rộng 28 tỉnh, thành ven biển
Ngoài các chứng cứ đo vẽ về chủ quyền trên các đảo và quần đảo của Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu khẳng định thêm, các bản đồ cổ thực hiện từ hàng trăm năm nay đều ghi nhận 28 tỉnh, thành nước ta có thềm lục địa giáp với Biển Đông, trong đó quần đảo Trường Sa thuộc quản lý hành chính của tỉnh Khánh Hòa và quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của thành phố Đà Nẵng (huyện đảo Hoàng Sa). Tổng cộng, nước ta có phần lãnh hải rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền.
Công lao lớn thuộc về người Pháp khi họ trao nhiệm vụ cho hải quân đo đạc và thực hiện vẽ bản đồ một cách chính xác từ bờ biển cho đến các hải đảo nổi trên mặt nước; đo chính xác độ sâu trung bình gần như khắp biển Đông. “Đó thực sự là một kỳ công của người Pháp” – ông Nguyễn Đình Đầu đánh giá.
Các bản đồ do người Pháp đo vẽ có rất nhiều kích cỡ, khu vực cụ thể, tuy nhiên có thể tạm chia làm 3 loại: Trường Sa, Hoàng Sa; Thềm lục địa và hải đảo; Thềm lục địa, hải đảo và Biển Đông. Trong số này, bản đồ quần đảo Hoàng Sa (52x66cm) do Nha Thủy bộ Hải quân Pháp đo vẽ năm 1885; bản đồ chi tiết các đảo Pattle (Hoàng Sa); Boisée (Phú Lâm); Robert (Hữu Nhật) thuộc quần đảo Hoàng Sa; các đảo Caye du S.W. (Song Tử Tây); Caye de I’Alerte (Song Tử Đông), Thi Tu (Thị Tứ), đảo Loai Ta (Loại Ta), Itu Aba (Ba Đình), Namvit (Nam Yết),…
Như vậy, tiếp cận từ khía cạnh các tư liệu bản đồ, được tiến hành đo đạc, xác lập từ thế kỷ thứ XV (có thể lâu hơn nữa) đã cho thấy một lát cắt hoàn chỉnh về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Những chứng cứ này đã cho thấy yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là vô lý đối với các nước ven biển ASEAN và cộng đồng quốc tế yêu hòa bình, công lý.
Nhóm PV Biển Đông

Giai cấp mới

Boxitvn.net

Milovan Djilas

Phạm Nguyên Trường dịch
Kỳ 9 – Khủng bố về mặt tinh thần
1.
Sau khi giành được chính quyền, những người cộng sản đã thực hiện việc khủng bố về mặt tinh thần với một sự khéo léo đến trơ trẽn. Chủ nghĩa duy vật cộng sản có thể là thế giới quan bất dung nhất từ trước tới nay, chỉ điều này cũng đủ để có thể buộc các tín đồ của nó tiến hành những cuộc khủng bố “những quan điểm không phù hợp”. Nhưng nếu thế giới quan ấy không liên kết với những hình thức quyền lực và sở hữu nhất định thì người ta cũng không thể nào dùng nó để biện hộ cho tính chất quái gở của việc đàn áp và tiêu diệt tư duy của con người như đã từng xảy ra.
Mọi hệ tư tưởng cũng như mọi quan điểm đều cố gắng làm ra vẻ như là quan điểm duy nhất đúng, duy nhất không có tì vết nào. Bản chất tư duy của con người là như thế.
Ý định của Marx và Engels trong việc coi học thuyết của mình là đặc biệt không chỉ được thể hiện trong tư tưởng của họ mà còn thể hiện rõ trong cách mà tư tưởng đó được khẳng định. Chính họ đã phủ nhận mọi đóng góp về mặt khoa học và giá trị “xã hội – tiến bộ” của những người cùng thời với mình. Thay vì thảo luận và phân tích thì họ gán cho ý kiến của những người đó cái nhãn “khoa học tư sản”.
Gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx, sự hẹp hòi của Marx và Engels (đây chính là môi trường sinh sống cho thái độ bất dung của chủ nghĩa cộng sản về sau) thể hiện rõ nhất trong việc họ không chịu tách thái độ chính trị của những nhà khoa học, nhà tư tưởng đương thời khỏi giá trị khoa học và đạo đức của những trước tác của họ. Họ đã áp dụng thái độ: “ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng” với các nhà tư tưởng đương thời.
“Bóng ma của chủ nghĩa cộng sản” đã gặp sự phản đối mạnh mẽ ngay từ đầu là vì thế.
Quan điểm bất dung thái quá của các “tổ sư” cộng sản xuất phát từ cội nguồn học thuyết của họ: tin rằng không có ngôi sao nào trên bầu trời triết học nữa, hơn nữa họ còn cho rằng nếu có điều gì đó đáng giá xuất hiện thì nó nhất định phải dựa trên cơ sở học thuyết của họ. Tinh thần thượng tôn khoa học của thời đại cũng như nhu cầu của phong trào xã hội chủ nghĩa lúc đó làm cho Marx và Engels coi mọi hiện tượng  ”không quan trọng” đối với họ (không thúc đẩy phong trào) đều là thiếu khách quan và ít ý nghĩa.
Quá quan tâm đến việc định rõ danh giới “có tính nguyên tắc” trong đội ngũ của mình, trên thực tế họ đã bỏ quên đóng góp của những nhà tư tưởng lớn đương thời.
Trong các trước tác của mình, họ không hề nhắc đến, thí dụ, nhà triết học lớn như Schopenhuaer, hay nhà mỹ học Tan hoặc các nhà văn và hoạ sĩ lớn cùng thời. Ngay những người say mê tư tưởng và tương lai do họ vẽ ra cũng ít được nói tới. Marx và Engels sử dụng một phương pháp đầy bất dung và tìm cách “thanh toán” những kẻ thù của phong trào xã hội chủ nghĩa, hệt như các nhà cách mạng trước đây đã từng dùng với những kẻ thù của mình. Có thể phản bác đóng góp của Proudhon cho khoa xã hội học, nhưng không ai có thể nghi ngờ giá trị những việc ông đã làm cho sự phát triển của phong trào xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh xã hội, nhất là ở Pháp. Ta có thể nói tương tự như vậy về Bakunin. Trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, Marx không chỉ tranh cãi với Proudhon mà còn coi ông này chẳng có tí giá trị gì. Marx và Engels cũng có hành động tương tự với Lassalle và những người đối lập khác trong phong trào của mình.
Mặt khác họ lại có khả năng đánh giá chính xác các sự kiện lớn của thời đại: thí dụ họ là những người đầu tiên đồng ý với Darwin, họ nắm vững các giá trị vĩnh hằng của quá khứ Cổ đại và Phục hưng vốn là cội nguồn của văn hoá châu Âu. Về mặt xã hội học, họ dựa vào kinh tế chính trị học (Smith, Ricardo), về triết học họ dựa vào triết học cổ điển Đức (Kant, Hegel), về lý thuyết phát triển xã hội họ dựa vào chủ nghĩa xã hội Pháp, đúng hơn là những xu hướng diễn ra sau cách mạng Pháp. Đấy đều là những đỉnh cao của tư tưởng khoa học, xã hội học của châu Âu dân chủ và tiến bộ và của cả loài người nói chung.
Nếu so sánh với Lenin thì ta thấy Marx là một nhà khoa học lớn, có thái độ khách quan hơn. Lenin trước hết là một nhà cách mạng vĩ đại, được tôi luyện trong chế độ chuyên chế, tư bản nửa thuộc địa của nước Nga và cuộc đấu tranh giành thị trường của các tập đoàn độc quyền thế giới.
Dựa vào tư tưởng của Marx, Lenin đã đi đến kết luận rằng chủ nghĩa duy vật, nếu nhìn qua lăng kính lịch sử thế giới, là tiến bộ, còn chủ nghĩa duy tâm là phản động. Phải nói rằng kết luận này không những là phiến diện, nghĩa là thiếu chính xác, mà còn làm cho lý thuyết của Marx vốn đã độc tôn còn độc tôn hơn. Cũng cần phải nói rằng nguyên nhân đầu tiên chính là sự thiếu hiểu biết về lịch sử triết học của chính Lenin. Vào năm 1908, khi viết cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lenin chưa thật sự hiểu các nhà triết học cổ đại cũng như đương đại. Muốn mau chóng đập tan các kẻ thù tư tưởng, những người cản trở sự phát triển của phong trào, ông đã bỏ qua một bên tất cả những gì không phù hợp với quan điểm cách mạng của Marx. Tất cả những gì trái ngược với chủ nghĩa Marx đều bị ông coi là sai, là vô nghĩa và vô giá trị.
Có thể coi các trước tác của Lenin là khuôn mẫu của giáo điều, rất lôgic và có sức thuyết phục.
Cảm thấy rằng trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật luôn luôn là hệ tư tưởng của các phong trào cách mạng, phong trào bạo loạn, Lenin rút ra kết luận phiến diện rằng về nguyên tắc (kể cả áp dụng cho việc nghiên cứu những qui luật phát triển của tư duy) chủ nghĩa duy vật là tiến bộ còn duy tâm là phản động. Đi xa hơn, Lenin đã trộn lẫn hình thức và phương pháp với nội dung và tính khoa học của mọi phát minh khoa học. Đối với Lenin chỉ cần một người có quan điểm duy tâm thì ngay lập tức những đóng góp thực tế cũng như vai trò của người đó trong khoa học đều là “đồ bỏ” hết. Ông đã mở rộng thái độ bất dung về chính trị đối với kẻ thù của mình thành thái độ bất dung đối với toàn bộ lịch sử tư tưởng thế giới.
Triết gia người Anh, ông Bertrand Russell, người có cảm tình với Cách mạng tháng Mười ngay từ năm 1920 đã phát hiện được bản chất của của chủ nghĩa giáo điều của Lenin, cũng có nghĩa là của cả chủ nghĩa cộng sản như sau:
“Tôi có những bất đồng về mặt nguyên tắc với một vài khía cạnh của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản, đấy không chỉ là một học thuyết chính trị, nó còn là một tôn giáo với một giáo lý hoàn chỉnh và những cuốn kinh thánh. Định chứng minh một điều gì đó, chỉ cần có cơ hội, là bao giờ Lenin cũng trích dẫn Marx và Engels. Người cộng sản chân chính không chỉ là người thừa nhận quan điểm rằng đất đai và tư bản phải là của chung mà còn phải công nhận rằng tất cả sản phẩm làm ra phải được chia một cách công bằng nhất. Đấy còn là người chấp nhận một số định đề giáo điều có sẵn (thí dụ như chủ nghĩa duy vật), những định đề có thể phù hợp với chân lý nhưng về mặt khoa học thì không thể chứng minh một cách không chối cãi được rằng đấy chính là chân lý… Tôi tin tưởng rằng phương pháp khoa học là đặc biệt quan trọng đối với nhân loại. Nếu một hệ thống kinh tế công bằng hơn nào đó có thể được xây dựng với cái giá phải trả là không được tự do nghiên cứu nữa và trở về với thời kỳ đen tối Trung cổ thì tôi cho rằng giá đó là quá cao. Nhưng cũng phải công nhận rằng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó chủ nghĩa giáo điều có thể có lợi cho cuộc đấu tranh”.
Thời Lenin đã là như thế.
Tuy không có kiến thức sâu sắc và chiều sâu tư tưởng như Lenin, Stalin tiếp tục “phát triển” lý luận của ông này.
Ta có thể thấy rằng con người cho đến nay vẫn được Khrushchev coi là “nhà lý luận mac-xit số một” thực ra chưa hề đọc Tư bản, tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Một người cực kỳ thực tế và giáo điều đã tự tạo ra “học thuyết về xây chủ nghĩa xã hội” mà không cần đọc những tác phẩm về kinh tế của Marx ! Ông cũng không nghiên cứu bất kỳ một nhà triết học nào, Hegel thì bị coi là “con chó già” và là “phản ứng của chủ nghĩa chuyên chế Phổ đối với cách mạng Pháp”.
Đồng thời ông lại hiểu rõ Lenin, thường trích dẫn Lenin hơn cả Lenin trích dẫn Marx. Các tác gia khác cũng được Stalin trích dẫn theo Lenin. Điều duy nhất mà ông nắm vững là lịch sử chính trị, đặc biệt là lịch sử Nga, phải nói thêm rằng ông có một trí nhớ siêu quần.
Để đóng vai của mình, Stalin chỉ cần có thế. Tất cả những gì không phù hợp với ước muốn và sự hiểu biết của ông đều bị ông coi là “thù địch” và cấm tiệt.
Ba người, Marx, Lenin, Stalin không chỉ khác nhau như những cá nhân mà khác nhau cả cách hành văn nữa.
Ở Marx, người ta thấy hình ảnh một nhà cách mạng, một giáo sư với văn phong sống động, tự do và cực kỳ sắc bén. Lenin là hiện thân của cách mạng, văn phong của ông có lửa, chặt chẽ và sắc sảo. Stalin tự coi mình là hiện thân của những khát vọng của nhân dân, còn tư tưởng của mình là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Văn phong của Stalin đơn điệu, thiếu sức sống; nhưng chính nhờ tính chất lôgic và giáo điều mà nó lại có tính thuyết phục đối với nhiều người. Sự đơn giản này rất giống với giọng văn cô đọng của các thầy tu, điều đó không chỉ là do thời trai trẻ Stalin đã từng theo học trong trường dòng và mà còn phản ánh chính xác tư duy giáo điều của những người cộng sản.
Không ai trong số những người kế tục Stalin có được sự hài hoà nội tại nghiêm khắc của “lãnh tụ vĩ đại”, niềm tin và sức cuốn hút giáo điều như ông. Là những người tầm thường trong mọi lĩnh vực nhưng họ lại là những người rất thực tế. Không có khả năng tạo dựng những hệ thống mới, không thể đưa ra được những ý tưởng hay ho nhưng họ lại có thể (nhờ khả năng nắm bắt được hiện thực) ngăn chặn được những cái mới hoặc bóp chết mọi sáng kiến từ trong trứng nước.
Chủ nghĩa giáo điều trong tư tưởng cộng sản đã phát triển như thế đấy. “Sự phát triển của chủ nghĩa Marx” cùng với việc củng cố giai cấp cầm quyền mới như vậy là đã dẫn tới không chỉ sự độc quyền của một sơ đồ tư tưởng duy nhất mà còn tạo ra sự bao cấp về tư tưởng của một người hoặc một nhóm người và như vậy kết quả nhất định sẽ là sự trì trệ về tinh thần và sự nghèo nàn của chính hệ tư tưởng kia. Đồng thời thái độ bất dung đối với mọi quan điểm khác, đối với tư duy nói chung lại ngày một tăng thêm. Lực tác động cũng như sức sống của hệ tư tưởng này tỉ lệ nghịch với “sức khoẻ” của những người đại diện cho nó.
Trở thành “một chiều” và bất dung hơn, chủ nghĩa cộng sản hiện đại càng ngày càng sản sinh ra thêm nhiều những “nửa” sự thật hoặc là dùng những nửa sự thật như thế để che đậy hành tung của mình. Mới nhìn thì một vài khía cạnh của nó có vẻ giống y như thật. Nhưng chính nó lại chứa đầy dối trá. Khi toàn bộ đời sống xã hội bị đặt dưới quyền kiểm soát của các lãnh tụ cộng sản thì những nửa sự thật kia, thậm chí cả lý thuyết cộng sản càng ngày càng mất khả năng vận động và chìm dần vào dối trá.
2.
Việc áp dụng luận điểm cho rằng chủ nghĩa Marx là phương pháp toàn năng mà người cộng sản phải luôn luôn sử dụng nhất định sẽ dẫn đến sự khủng bố đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần.
Nhà vật lý sẽ làm thế nào nếu các nguyên tử không chịu tuân theo nguyên lý thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của Hegel và Marx? Nhà thiên văn học sẽ làm thế nào nếu vũ trụ không tuân theo biện chứng pháp cộng sản? Nhà sinh vật học sẽ phải hành động ra sao nếu cây cối không chịu theo lý luận của Stalin và Lưshenko về sự hợp tác giữa các giai cấp trong “xã hội xã hội chủ nghĩa”? Không thế nói dối “một cách chân thành”, các nhà khoa học đành phải trả giá vì “tà thuyết” của mình. Những phát minh của họ chỉ có thể được công nhận nếu chúng “khẳng định” các công thức macxit- lêninit. Các nhà khoa học cứ phải thường xuyên tìm cách lái những kết quả hoặc phát minh của họ sao cho không trái ngược với giáo điều chính thống. Khoa học bị buộc phải trở thành cơ hội và thoả hiệp. Các lĩnh vực lao động trí óc khác cũng có số phận tương tự.
Sự bất dung của phong trào cộng sản hiện đại làm người ta nhớ đến các giáo phái thời Trung cổ.
Trong chủ nghĩa cộng sản hiện đại người ta có thể thấy sự bất dung giáo điều của những người Thanh giáo thời Cromwell và chính sách không khoan nhượng của phái Jacobin. Dù sao vẫn có một khác biệt, nhưng đấy không phải là vì những người Thanh giáo tin tưởng tuyệt đối vào Kinh thánh còn cộng sản thì tin vào khoa học hay quyền lực của cộng sản thì bao trùm hơn Jacobin. Sự khác biệt nằm trong khả năng: không một tôn giáo hay một nền chuyên chế nào từng có một sức mạnh vô giới hạn và toàn diện như chế độ cộng sản.
Vị trí của họ càng được củng cố thì các lãnh tụ cộng sản càng thêm tin rằng họ đã chọn được con đường duy nhất đúng để đi tới hạnh phúc và xã hội “lý tưởng”. Đã có một câu chuyện tiếu lâm rằng các lãnh tụ cộng sản xây dựng chủ nghĩa cộng sản cho chính mình. Nhưng các lãnh tụ đã không đùa khi đồng nhất mình với xã hội, đồng nhất mình với khát vọng của mọi người dân. Chế độ chuyên chế cực quyền song hành với niềm tin không lay chuyển vào hạnh phúc tối cao của nhân loại, còn sự vạn năng của phương pháp và bao trùm của thế giới quan thì song hành với sự bao trùm và vạn năng của áp bức.
Chính quá trình phát triển đã biến các ông trùm cộng sản thành những cai ngục của lương tâm con người, sự bao cấp về tư tưởng tăng lên theo đà phát triển của sức mạnh và “sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nam Tư cũng không tránh khỏi qui luật đó. Ở đây, các lãnh tụ thường xuyên nhấn mạnh “tính tự giác cao của nhân dân ta” trong thời kỳ cách mạng, nghĩa là khi nhân dân, đúng hơn là một bộ phận nhân dân đã tích cực ủng hộ họ. Ngày nay, cũng theo lời các lãnh tụ này, ý thức tự giác “của nhân dân” rất thấp cho nên không thể có dân chủ ngay được. Các lãnh tụ cộng sản Nam Tư tuyên bố công khai rằng khi tính tự giác xã hội chủ nghĩa phát triển cao, họ tin rằng ngày đó sẽ tới cùng với việc hoàn thành công nghiệp hoá, thì họ sẽ mở cánh cửa dân chủ. Khi ngày đó chưa tới thì họ lại tin tưởng tuyệt đối rằng họ có quyền, nhân danh tự do và hạnh phúc trong tương lai, dày xéo lên mọi mầm mống của những tư tưởng và quan điểm đối nghịch với họ.
Các lãnh tụ Xô Viết không cần phải dùng thủ đoạn giả dối như thế. Họ tin tưởng và tuyên bố rằng đất nước đã có dân chủ rồi. Nhưng phải nói rằng chính họ cũng thấy con thuyền đang chao đảo. Họ cũng thường xuyên phải “nâng cao” ý thức của nhân dân, nghĩa là bắt dân chúng phải học thuộc lòng các công thức Marx-Lenin và các chỉ thị của lãnh đạo. Tệ hơn nữa, họ còn bắt buộc dân chúng phải thề nguyền trung thành với chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc và tin vào sự lãnh đạo và những lời hứa suông của họ.
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Giống như thời Trung cổ khi người ta luôn luôn phải chứng tỏ rằng mình là người trung thành với nhà thờ.
Bắt đầu ngay từ nhà trường, với hệ thống giáo dục và sau đó là tất cả mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần cũng như đời sống xã hội đều nhằm mục đích đó. Đảng cầm quyền quan tâm đến tính tự giác, lương tâm và sự “phát triển” của con người từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết. Các nhà báo, các nhà tư tưởng, các văn nô, các trường học chuyên biệt, một hệ tư tưởng chủ đạo duy nhất, một khối lượng tài sản khổng lồ được chi ra cho công việc đó. Để cho bức tranh được toàn vẹn phải kể thêm số lượng khổng lồ các loại sách, loại báo, báo in, báo nói, báo hình và các loại tuyên truyền khác.
Mặc dù vậy, thành tích thu được thật là khiêm tốn và không tương xứng với chi phí cũng như biện pháp tiến hành (ngoại trừ đối với chính giai cấp mới, dĩ nhiên là họ luôn luôn tuân thủ đường lối do chính họ lựa chọn)
Nhưng họ chỉ giành được kết quả khi tiến hành đàn áp những sáng kiến không phù hợp với hệ tư tưởng chính thống cũng như cố tình tiêu diệt mọi tư tưởng đối nghịch.
Trong chế độ cộng sản người ta không thể tư duy mà không có hướng dẫn. Hơn nữa người ta lại thường suy nghĩ khác với chỉ đạo. Xuất hiện tư duy nước đôi: cách nghĩ ngầm, cho mình, và có một cách nữa là để trưng ra, theo tiêu chuẩn chung. Đánh giá các sự kiện cũng theo kiểu nước đôi như vậy.
Điều đó phản ánh, một mặt là kinh nghiệm của quần chúng và mặt khác là sức mạnh của những người cộng sản.
Con người dưới chế độ cộng sản không những bị ngu dân vì sự tuyên truyền mà còn đau khổ vì không thể nhận chân được sự thật, không vươn tới được những ý tưởng mới. Trong lĩnh vực này thì sự tha hoá, thối nát nhiều hơn là “thành tích”.
Các lãnh tụ cộng sản, những kẻ bao cấp về tinh thần, luôn luôn tiến hành theo dõi để tư tưởng của dân chúng không “đi lạc vào khu vực chống cộng”, họ chỉ chuyên cung cấp cho dân chúng hàng tiêu dùng loại hai (những tư tưởng cũ rích, đã hoá đá và không có khả năng thay đổi), chính họ đã đầu độc, giết chết đời sống tinh thần của dân tộc mình. Họ đã nghĩ ra một hình thức giết người vô tiền khoáng hậu – giết chết tư tưởng và hành xử với con người cũng như tư duy của con người không khác gì người ta hành xử với búi cỏ trên sa mạc. Khi giết chết tư tưởng của người khác, không cho tư tưởng người khác được tự do bay bổng thì chính họ cũng trở thành một bọn người nhạt nhẽo, trống rỗng, một bọn người không hề biết đến những phút giây hạnh phúc của tư duy trầm mặc thâm sâu. Cả xã hội giống như một nhà hát không khán giả. Họ tư duy theo kiểu nhai lại: khi có nhu cầu là đầu óc bắt đầu xào xáo những ý cũ rích. Công việc của những cố-đạo-cảnh-sát-viên, đồng thời là chủ nhân ông không những của những phương tiện hoạt động trong lĩnh vực tinh thần như nhà in, đài phát thanh,… mà còn là chủ nhân của những phương tiện vật chất liên quan đến đời sống của từng con người như nhà ở và bánh mì, là như thế đấy.
Như vậy thì chủ nghĩa cộng sản hiện đại có khác gì một giáo phái?
M.D.
Nguồn: Bản tiếng Nga, tại http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

Nguy cơ khi tăng chi tiêu công để đảm bảo tăng trưởng

Tình trạng lãng phí, nợ công và lạm phát có thể sẽ tăng cao nếu Chính phủ thực hiện đề nghị tăng cường đầu tư công nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% mà Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đề nghị hôm qua 28/6.


Đề nghị tăng chi tiêu công của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia có thể làm kinh tế tăng trưởng một cách thiên lệch. Ảnh: Lao động

Trong báo cáo kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2013 công bố hôm qua, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đánh giá khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% trong năm 2013 là thách thức lớn, do cầu nội địa còn yếu và chi phí sản xuất cao. Trong khi đó, lạm phát sẽ tăng thấp trong 6 tháng cuối năm và cả năm 2013 ở mức khoảng 5% nếu không có đột biến về chính sách kinh tế vĩ mô cũng như giá các mặt hàng cơ bản.
Với giả định lạm phát năm 2013 ở mức 6,5%, tín dụng tăng 12% và vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tương đương 2012, Ủy ban ước tính tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế trong năm nay còn thiếu khoảng 50-70 nghìn tỷ đồng. Vì vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5,5% cho năm 2013, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia kiến nghị trong 6 tháng cuối năm, cần đẩy mạnh hơn nữa chi tiêu đầu tư công, bằng các biện pháp như: phát hành trái phiếu chính phủ cho các dự án lớn đang thiếu vốn; sớm giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản 94.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp; tăng tốc độ chi đầu tư ngân sách nhà nước vào những công trình trọng điểm quy mô lớn, những dự án có kế hoạch sớm hoàn thành trong năm 2013 và có thể hoàn thành trong năm 2014.
Tăng chi tiêu của Chính phủ, một trong các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP, sẽ góp phần làm tăng GDP. Tuy nhiên, bản thân mục tiêu 5,5% là rất khó khăn, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận trong phiên họp thường kỳ cuối ngày 27/6, dù ông vẫn cho rằng nhưng “nếu nỗ lực thực hiện, tổ chức tốt hoàn toàn chúng ta có thể thực hiện được”. Muốn như thế, trong 6 tháng cuối năm, kinh tế sẽ phải tăng ở mức 6% để bù đắp cho tốc độ tăng 4,9% của nửa đầu năm.
Việc phát hành thêm trái phiếu sẽ dẫn đến nợ công tăng cao. Theo số liệu chính thức, nợ công năm 2012 là 55,4% GDP. Tuy nhiên, báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội trong kỳ họp thứ 5 vừa qua cho biết, nếu tính cả nợ trong hệ thống ngân hàng của doanh nghiệp nhà nước và khoản nợ bằng trái phiếu trong nước không được Chính phủ bảo lãnh khác, nợ công Việt Nam lên tới 95% GDP. Còn theo tính toán của các chuyên gia độc lập, con số này đã lên tới 106%.
Từ đầu năm đến nay, tiêu dùng cá nhân và đầu tư cho sản xuất đều giảm. Có nhiều biểu hiện. Đến hết tháng 5/2013, tổng vốn huy động bằng VND tăng 7,55%, còn tín dụng tăng 2,98% cho thấy một sự tắc nghẽn vốn trong hệ thống ngân hàng. Theo tính toán, số tiền huy động tăng nhiều hơn số tiền ngân hàng cho vay tới 130 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 6/2013 của cả nước chỉ tăng 0,05% so với tháng trước, sau vài tháng giảm liên tiếp. Tính chung 6 tháng đầu năm CPI mới tăng 2,4% so với tháng 12/2012. Thông thường, CPI phải tăng 4-5% mới có thể làm giảm tình trạng tồn kho hàng hóa kéo dài hơn một năm qua và giúp nhà sản xuất, kinh doanh sống sót.
Trong khi đó, tăng đầu tư công sẽ chủ yếu đổ thêm vốn vào lĩnh vực mà như các đại biểu Quốc hội phản ánh tại kỳ vừa qua, là “lãng phí vô tội vạ”. Đây chính là nguyên nhân làm hỏng ý nghĩa của việc làm đúng đắn là thúc đẩy chi tiêu để hỗ trợ tăng trưởng. Các doanh nghiệp nhà nước tạo ra hiệu quả rất thấp, trong khi dự án thường xuyên phải tăng tổng mức đầu tư. Lấy ví dụ về hai dự án bauxite Tân Rai và Nhân Cơ, tập đoàn TKV đã đổ vào đây trên 18.000 tỷ đồng. Cả hai dự án đều chậm tiến độ trên một năm và tổng mức đầu tư tăng hơn 30% so với phê duyệt năm 2009.
Như vậy, một công thức kinh tế đúng đắn của thế giới lại không phù hợp để đem giải bài toán của Việt Nam với những đặc thù chẳng giống ai. Xét một cách toàn diện, đề nghị của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia lúc này chẳng khác nào thổi thêm hơi vào bong bóng để mong đạt tới kích cỡ cần thiết.
Nguyên Phong
 

SỰ SUY THOÁI VĨ ĐẠI

Tamsuygiao

Hay là: HÓA RA ĐẢNG NHÂN DÂN CAMPUCHIA CỦA ÔNG HUN SEN KHÔNG THEO CHỦ NGHĨA NÀO CẢ!
Hôm nay 28-6-2013 là ngày kỷ niệm lần thứ 62 ngày thành lập Đảng Nhân dân Campuchia, có tiền thân là Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia. Tình cờ mình đọc một bức điện mừng nên mới biết điều này.
Tìm hiểu thông tin trên wikipedia, được biết thêm rằng Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia tách ra từ Đảng Cộng sản Đông dương năm 1951, sau các biến cố lịch sử và vài ba lần đổi tên, đến năm 1991 mới có tên như ngày nay.
Hiện tại, những người lãnh đạo cũ vốn là những người cộng sản thứ thiệt của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia vẫn tiếp tục lãnh đạo Đảng Nhân dân Campuchia từ năm 1991 và là các lãnh đạo tối cao của nhà nước . Đó là các ông Chea Sim – Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Thượng viện, Heng Samrin – Chủ tịch danh dự Đảng kiêm Chủ tịch Quốc hội, Hun Sen – Phó Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, ông Hun Sen được coi là người nắm quyền lực số 1 ở Campuchia.
Thực sự, Đảng Nhân dân Campuchia xứng đáng là một đảng cầm quyền, có uy tín ngày càng cao đối với người dân CPC. Trong tổng số 123 ghế của Quốc hội, Đảng Nhân dân CPC giành được 64 ghế trong tổng tuyển cử năm 1998, 73 ghế trong tổng tuyển cử năm 2003 và 90 ghế trong tổng tuyển cử năm 2008.
Đảng Nhân dân Campuchia lãnh đạo đất nước, đưa nền kinh tế từ chỗ hoang tàn bởi chế độ Pol Pot và bởi cuộc chiến tranh 78-88, đến một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng vào loại tốt nhất châu Á, từ 6% đến 14% mỗi năm. Theo tổ chức Tiền tệ Thế giới IMF, dự báo năm 2013 và 2014, kinh tế Campuchia sẽ đạt mức tăng trưởng lần lượt 6,7% và 7,4% (theo Wikipedia).
Ngày 28/7/2013 tới đây, Campuchia sẽ tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Các nhà phân tích cho rằng khả năng chiến thắng của Đảng Nhân dân Campuchia là chắc chắn, thậm chí còn vang dội hơn năm 2008. Và rồi ông Hun Sen sẽ tiếp tục làm Thủ tướng sau 28 năm cầm quyền.
Đối với người dân, uy tín của Đảng Nhân dân CPC cũng như của các ông Hun Sen, Chea Sim, Heng Samrin được khẳng định là điều dễ hiểu, tựa như là những “tất yếu khách quan” rất có tính”biện chứng”!
Điều đáng nói là cùng với việc Nhà nước CPC quay trở lại chế độ quân chủ, thì từ khi đổi tên năm 1991, Đảng Nhân dân CPC cũng từ bỏ luôn lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, bỏ luôn hệ tư tưởng Mác – Lênin. Bằng chứng là trong Điều lệ và Cươnglĩnh chính trị của Đảng, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của những cụm từ “xã hội chủ nghĩa”, “cộng sản chủ nghĩa”, “Mác – Lênin”, “chuyên chính vô sản”, “trung thành với lý tưởng của Đảng”, “diễn biến hòa bình”, “các thế lực thù địch”…
Có một số điểm rất đáng chú ý trong Cương lĩnh chính trị của Đảng Nhân dân Campuchia mà mình thấy cần ghi ra đây:
- Từ khi ra đời, Đảng NDCPC đã thực sự hy sinh vì lợi ích cao cả của dân tộc và của nhân dân, để xây dựng một nước Campuchia độc lập, hòa bình, tự do, dân chủ, trung lập và tiến bộ xã hội.
- Đảng đã làm nòng cốt trong quá trình hòa giải dân tộc và mang lại hòa bình cho đất nước và nhân dân, vì hòa giải dân tộc, đa nguyên dân chủ và sự phát triển là những nguyện vọng cao quí của nhân dân.
- Đảng NDCPC quyết tâm bảo vệ Hiến pháp, nhằm duy trì sự ổn định và hiệu quả của Chính phủ Hoàng gia, mở rộng tự do dân chủ đa nguyên và sự tôn trọng các quyền của con người, đề cao việc xây dựng một nhà nước pháp quyền.
- Đảng NDCPC chấp nhận hệ thống dân chủ đa đảng và tự do làm nền tảng cơ bản cho chính sách và hoạt động của Đảng.
- Đảng NDCPC ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bảo tồn và phát triển hệ thống chính trị đa đảng và tự do dân chủ, một hệ thống bảo đảm được việc thực thi quyền chủ sở hữu của người dân đối với đất nước, bảo đảm cho sự phát triển của dân chủ, tự do và công lý xã hội.
- Đảng NDCPC có nguyên tắc cơ bản về một nhà nước tiên tiến, là xây dựng Vương quốc Campuchia thành một Nhà nước pháp quyền trên tinh thần tam quyền phân lập, đó là lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Tất cả công dân Campuchia, đồng bào của tất cả các dân tộc, cho dù họ có bất kỳ khác  biệt nào trong quá khứ lịch sử hoặc trong vị trí xã hội, phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, được bình đẳng các lợi ích về xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác.
- Đảng NDCPC, đã hy sinh rất nhiều cho quá trình hòa bình của đất nước,sẽ tiếp tục chân thành thực hiện chính sách hòa giải dân tộc, đoàn kết với tất cả các lực lượng yêu nước, bất kể họ có sự khác biệt nào trong quá khứ, trong xu hướng chính trị và vị trí trong xã hội, nhằm đoàn kết tất cả để bảo vệ và xây dựng quê hương trong không khí hòa bình, anh em và hiểu biết lẫn nhau.
- Đảng NDCPC sẽ tiếp tục cải cách, xây dựng và củng cố Lực lượng vũ trang Hoàng gia là một quân đội quốc gia thống nhất, được trang bị kỹ thuật hiện đại và có đầy đủ khả năng hoàng thành nghĩa vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Vương quốc Campuchia, bảo vệ chính quyền và bảo vệ nhân dân theo qui định của Hiến pháp.
- Đảng NDCPC tiếp tục củng cố lực lượng cảnh sát có đầy đủ tinh thần yêu nước, lòng trung thành, trình độ chuyên môn cao và kỹ thuật hiện đại nhẳm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh và trật tự công cộng.








Bên trái: Logo của Đảng NDCPC, không còn chút dấu vết của Đảng Nhân dân cách mạng khi xưa.
Bên phải: Các Đại ca mắc trọng bệnh suy thoái đạo đức tư tưởng chính trị cao độ: Heng Samrin (79 tuổi), Chea Sim (81 tuổi), Hun Sen (62 tuổi). Ảnh: cppparty.blogspot.com


Ôi chao, còn nhiều lắm. Nhưng bấy nhiêu thôi cũng đủ để thấy rằng Đảng NDCPC đã không còn đi theo “lý tưởng cao đẹp” của ông Mác, ông Lenin nữa rồi. Điều mà mình “vô cùng đau khổ” là hiện thời cũng chưa thấy nói Đảng này theo chủ nghĩa gì.
Còn những ông Hun Sen, Chea Sim, Heng Samrin … cũng đã “nhắm mắt đưa chân”, trở thành những con người khác hẳn, không còn chút “phẩm chất khí tiết khí phách” nào của “người chiến sĩ năm xưa”.
Nếu ở nước khác thì hẳn là mấy ông này sẽ bị gán cho cái tội suy thoái về tư tưởng, về phẩm chất đạo đức chính trị. Và bị khai trừ khỏi chi bộ là cái chắc.
Nhưng nếu mấy ông suy thoái mà làm cho đất nước Campuchia ngày càng thịnh vượng và giàu đẹp, người dân CPC ngày càng hạnh phúc sung sướng trong không khí tự do dân chủ, thì cũng đáng để “suy thoái” lắm, mấy ông nhẩy?
“Suy thoái” mà như thế, xứng đáng được gọi là “sự suy thoái vĩ đại”!

CẦN NHẬN DIỆN, ĐÁNH GIÁ ĐÚNG THỰC TRẠNG

Trong tuần qua, giá vàng hạ, nhiều thời điểm hạ với tốc lực mạnh, nhưng đó không phải là tín hiệu đáng mừng cho người dân. Những điệu “lambađa của vàng” lâu nay vẫn không ai còn lạ gì. Chẳng qua (biết đâu) lại là cái mánh cài bẫy nhau giữa các nhà kinh doanh vàng, hay là sự đánh đu nào đấy của nhóm lợi ích? Trong khi đó, giá cả các mặt hàng thiết yéu cho đời sông nhân dân vẫn giữ nguyên và có một số mặt hàng vẫn tăng giá.

Điều trăn trở là tháng 5 và tháng 6 thu nhập của người lao động giảm nhiều. Thu nhập thấp, đồng tiền mất giá, đời sông của người dân còn gặp nhiều khó khăn, túng bấn. Tại một số chi nhánh ngân hàng, lương nhân viên trước đây 7-10 triệu, giảm xuống 4-5 triệu hồi đầu năm, và tháng rồi có những nơi nhân viên ngân hàng chỉ được nhận lương hơn 2 triệu đồng. Sự hạ thấp đồng lương, giảm thu nhập của người lao động khiến cho dư luận phải luận giải về hiện tượng “chiết khấu” bớt lương người lao động để bù vào, đối phó với các khoản nợ xấu, do lãnh đạo công ty, đơn  vị đã “lỡ tiêu lạm”! Nạn thất nghiệp vẫn phát sinh thêm, bởi nhiều doanh nghiệp đã cố sức ‘bơi chải’  nhưng vẫn không thoát khỏi sập tiệm.
Thế nhưng, báo cáo và nhận định của Chính phủ cũng như một số Bộ, ngành, địa phương vẫn rất khả quan, cho rằng; Trong 6 tháng qua nền kinh tế đất nước đã nhiều “khởi sắc’, đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho rằng: Ngay từ đầu năm 2013, Chính phủ đã khẩn trương, quyết liệt lãnh đạo chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm đã có nhiều chuyển biến tích cực, đúng hướng và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Theo đó, các nhận định, đánh giá đều cho rằng lạm phát được kiểm soát, giá tiêu dùng 6 tháng tăng 2,4%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ trong 10 năm qua. Mặt bằng lãi suất liên tục giảm, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện. Thị trường vàng từng bước được kiểm soát có hiệu quả. Xuất khẩu tăng trưởng khá cao,…
Các chuyên gia kinh tế không hiểu nằm ở đâu, thu thập thông tin chỗ nào mà vẫn đưa ra những con số và đánh giá rằng “tái cấu trúc” đang có hiệu quả, một số Tổng công ty, Tập đoàn Nhà nước đang làm ăn có lãi, không đến mức lo ngại về lạm phát (?!).  Thực chất chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 là 2,2% được coi là mức tăng lịch sử so với tháng 9 hằng năm. Nhưng thời điểm này, con số đó đã tăng gần gấp rưỡi, tức trên 3 %. Vậy, lý giai rthế nào mà nói đời ssống nhân dân, an sinh xã hội được “cải thiện” ? Con số này càng khiến các dự báo của chuyên gia đầu ngành, chuyên gia “tầm chiến lược” trở nên quá lạc hậu.
Lạm phát cao cho thấy điều hành giá đang có vấn đề cần xử lý. Đồng tiền Việt Nam càng về cuối năm càng bị mất giá liên tục. Hơn 1 năm qua, đã có nhiều thời điẻm (đợt) các nhà chỉ đạo, quản lý, điều hành bất ngờ nâng giá vàng cao chót vót, hy vọng hút được vàng trong dân. Mặc dù vậy, nay người dân cũng biết “thủ” cái lợi, không mấy ai vì hám lợi nhuận cao mà đem vàng đổi ra tiền. Đồng tiền mất giá đến mức khủng. Thử khảo sát thị trường một vòng, thấy những nơi bán hàng sang, đắt tiền, các mặt hàng gia dụng mẫu mã mới, chất lượng cao nay rất ít người mua sắm. Đồng tiền eo hẹp đến mức chỉ lo những mặt hàng thiết yếu cho bữa ăn, sinh hoạt cần thiết nhất còn bí, làm sao có tiền đi mua sắm.
Nơi vắng bóng người dân tại thời điểm này là ngân hàng, siêu thị, các cửa hiệu, trung tâm dịch vụ xài sang, các cửa tiệm giải khát, ăn uống. Người dân chỉ đông đúc ở chợ trời, mua nhiều rau, tương chao mắm muối và ngay cả gạo cũng chỉ dám mua loại rẻ tiền. Nhiều sinh viên đại học không đủ tiền thuê phòng trọ, học phí, chi tiêu hàng ngày đã phải bỏ học. Tình trạng này giống như năm 1984-1985, khi mà đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng. Nếu như vào kỳ này năm ngoái, nhiều người dân còn đến ngân hàng gửi tiền, vay tiền, đến siêu thị sắm đồ, thì nay những nới đó vắng đến mức nhân viên ngồi đọc báo, xem mạng. Người dân đang phải tự chèo chống, tự đắp điếm cho cuộc sống hàng ngày. Thật khổ và ai oán là thực trạng những nơi có dính đến tiền-hàng, quyền lợi, lo cho đời sống thì không có gì trong tay để đến giao dịch, trao đổi, mua sắm. Nhưng các trụ sở tiếp dân từ địa phương đến Trung ương thì ngày càng đông người đến khiếu kiện. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo vẫn đánh giá là ổn định xã hội và có tăng trưởng, và “lạm phát đã được kiểm soát”?
Sự nhầm lẫn của các chuyên gia là việc lựa chọn thời điểm điều chỉnh vào đúng lúc áp lực tăng giá (khai giảng năm học mới, áp dụng giá điện, nước mới, dịp Tết…) cũng cho thấy, các nhà điều hành vẫn chưa chú ý nhiều tới nhu cầu chống “sốc” cho thị trường. Thực ra không phải vậy, giá vàng tăng, giá xăng dầu, điện, nước, than, thuốc chữa bệnh và nhiều mặt hàng “làm nền” tăng lên thì tất nhiên giá cả thị trường tăng theo. Các công ty vận tải, xe khách, xe chở hàng tăng giá vé để bù vào tiền xăng dầu, vật tư nông nghiệp và giá các loại dịch vụ tăng, càng thúc đẩy giá bán lẻ, giá cả các mặt hàng thiết yếu đều tăng, móc cạn túi người tiêu dùng.
Giải pháp nhất thời đối phó tình thế là Nhà nước đã đưa ra các gói hỗ trợ bình ổn giá, những gói kích cầu nay cũng không có tác dụng gì, càng dễ dàng cho các nhà buôn thu lời và người dân phải gánh chịu hết. Có người định đề xuất tranh thủ đang giảm phát để tăng giá xăng dầu. Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế, việc kiềm chế lạm phát ở mức khoảng 7% thì rất khó, bởi hiện đã 5,13% cần tính đến kịch bản lạm phát ở mức trên 8% một khi CPI quý 2 năm nay tăng khó kiềm chế như đã nêu trên. Tăng giá xăng, điện, nước, tăng thu phí đường bộ dẫn tới cước phí tăng, đẩy giá bán lẻ tiêu dùng tăng theo, thực trạng này chỉ làm giàu thêm các hãng kinh doanh, còn thị trưởng chịu cảnh tăng vọt giá bán lẻ. Nơi vắng bóng người dân lao động là những nơi mà túi tiền eo hẹp của họ không dám rớ tới.
Một số chuyên gia tiếp tục khuyến nghị nới lỏng tín dụng để doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất dễ chịu và các chương trình kích cầu được thực hiện hiệu quả hơn. Xét về “cầu” thì rõ ràng là khỏi “kích” thì người ta vẫn có rất nhiều nhu cầu tiêu dùng, nhưng lương như vậy, giá cả như vậy, đồng tiền mất giá đến mức gần nửa triệu đồng một bình ga thì có “kích” đến mấy cũng chẳng đem lại gì. Nhà nước không thể quản lý được giá.  Cái phương châm “Nhà nước quản lý  bán buôn, chi phối bán lẻ” đã đi vào quá vãng từ lâu rồi. Vai trò quản lý nhà nước, nỗ lực của ngành  hữu quan, cơ quan chủ quản chuyên ngành chẳng ăn nhằm gì, chỉ còn biết ngồi xem “con tạo mặc sức xoay vần” theo quy luật tiền-hàng của kinh tế thị trường mà thôi.
Trong nhưng xnội dung chỉ đạo mới đây, Thủ tướng yêu cầu thực hiện các giải pháp giãn, hoãn, miễn, giảm thuế; đưa Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng vào hoạt động, tập trung xử lý nợ xấu và giảm hàng tồn kho; tạo mọi thuận lợi cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển được vay vốn. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, triển khai hiệu quả gói hỗ trợ tín dụng nhà ở xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là đơn giản hoá thủ tục về vay vốn tín dụng, thuế, hải quan, bất động sản… Phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước; tăng cường quản lý, ngăn chặn hiệu quả tình trạng chuyển giá, trốn lậu thuế, buôn lậu, làm hàng giả, hàng kém chất lượng.
Ngoài ra, Nhà nước còn quan tâm tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế đã được phê duyệt gắn với thực hiện 3 đột phá chiến lược, trong đó tập trung vào tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao, khẩn trương cụ thể hoá thành các chương trình hành động, các đề án với các giải pháp và lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện. 
 Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tăng cường và chủ động cung cấp thông tin về chỉ đạo điều hành, về cơ chế chính sách, về xử lý những vấn đề xã hội bức xúc và những vấn đề mới phát sinh cho các cơ quan báo chí để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho nhân dân nhằm tạo đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
Tuy vậy, nhìn vào thực chất nền kinh tế xã hội, nhìn thẳng vào giá trị đồng tiền, thị trường và đời sống người dân, những nhận định “khả quan” trên dây cần xem lại dung lượng và tầm mức, nếu không lại tiếp tục dựa vào những “con số trên mây”! Cái gì cũng thấy tăng hơn, tốt hơn, khả quan hơn cùng kỳ năm ngoái, nhưng dời sông người dân lại khó khăn hơn. Thành tích vẫn không ngừng đi lên nhưng dời sông người dân cứ đi xuống, thế mới lạ! Sẽ không khó với các con số thống kê tưởng thật mà vẫn ‘ảo’, không mấy trở ngại với các con số báo cáo vì thành tích, nhưng con số thực phản ánh đúng thực chất, thực tế nền kinh tế xã hội, đời sông người dân thì quả là ‘đừng có mơ’!
B.V.B
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét