Năm 1904, nhà
địa lý người Anh, Sir Halford Mackinder đã kết thúc bài viết nổi tiếng
“The Geographical Pivot of History” [“Trục địa lý của lịch sử”] của mình
bằng một liên hệ đáng ngại về trường hợp Trung Quốc. Sau khi giải thích
tại sao lục địa Á-Âu chính là trục địa chiến lược của quyền lực thế
giới, ông đã cho rằng Trung Quốc, một khi mở rộng sức mạnh của mình vượt
ra ngoài biên giới, “có thể tạo thành mối hiểm họa da vàng cho tự do
của thế giới, đơn giản vì Trung Quốc sẽ có thêm một vùng đại dương bổ
sung cho nguồn tài nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà nước Nga
không may mắn có được trong khu vực trụ cột này.” Tạm
gác lại giọng điệu phân biệt chủng tộc, vốn khá phổ biến trong thời kỳ
đó, và cũng chưa xét đến sự hoảng loạn thường thấy mỗi khi đụng chạm đến
sự trỗi dậy của một cường quốc ngoài phương Tây, Mackinder đã nêu ra
một lập luận hợp lý: Trong khi nước Nga, một người khổng lồ khác trên
lục địa Á-Âu, xét về cơ bản đã, và vẫn đang, là một cường quốc trên đất
liền với một mặt giáp đại dương bị băng đá Bắc Cực rào chặn, thì Trung
Quốc với đường bờ biển ôn đới 9,000 dặm, nhiều cảng biển tự nhiên thuận
lợi, lại là một cường quốc lục địa lẫn hải dương. (Thực ra, trong tác
phẩm của mình, Mackinder đã lo ngại Trung Quốc một ngày nào đó sẽ thôn
tính cả nước Nga). Tầm với của Trung Quốc trải dài từ vùng Trung Á giàu
khoáng sản và khí đốt đến những tuyến đường hàng hải trên Thái Bình
Dương. Sau này, trong cuốn “Democratic Ideals and Reality”
[Các lý tưởng và thực tế dân chủ], Mackinder đã dự đoán cùng với Mỹ và
Vương quốc Anh, Trung Quốc cuối cùng sẽ dẫn dắt thế giới bằng việc “xây
dựng một nền văn minh mới cho một phần tư nhân loại, không thực sự
phương Đông, cũng không giống phương Tây.”
Vị trí đắc địa của Trung Quốc là một lợi thế rõ ràng và hiển nhiên
đến nỗi nó thường bị bỏ qua trong những thảo luận về sự bùng nổ kinh tế
hay cách hành xử quyết liệt của quốc gia này. Nhưng yếu tố này thực sự
rất quan trọng: nó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ luôn án ngữ ở vị
trí trục trung tâm địa chính trị ngay cả khi con đường tiến lên vị thế
cường quốc toàn cầu của nước này không hoàn toàn suôn sẻ. (Chỉ số tăng
trưởng GDP của Trung Quốc vẫn đều đặn ở mức hơn 10% mỗi năm trong suốt
hơn 30 năm qua, nhưng mức tăng này chắc chắn khó có thể duy trì thêm
trong 30 năm nữa.) Trung Quốc là sự pha trộn giữa tính hiện đại hết mực
mang phong cách phương Tây với một “nền văn minh thủy lợi” (“hydraulic
civilization” – một thuật ngữ do nhà sử học Karl Wittogel đề ra, dùng để
mô tả những xã hội thực hiện việc quản lý tập trung nguồn nước tưới
tiêu nông nghiệp)
[1],
gợi cho ta nhớ đến phương Đông cổ xưa, thời chế độ cai trị nhờ có trong
tay quyền lực tập trung có thể tuyển mộ hàng vạn dân phu xây dựng các
cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chính điều này đã tạo cho Trung Quốc khả năng
tăng trưởng không ngừng nghỉ mà tất cả các nền dân chủ, với bản tính hay
trì hoãn trong các quyết định, đều không thể làm được. Khi các nhà lãnh
đạo mang danh nghĩa Cộng sản của Trung Quốc, những người kế tục di sản
của 25 vương triều trong 4.000 năm lịch sử, tiếp thu công nghệ và thực
tiễn phương Tây, họ đã đưa chúng vào một hệ thống văn hóa tinh vi và quy
củ, vốn từng có nhiều kinh nghiệm độc đáo khác nhau, trong đó có việc
thiết lập các mối quan hệ mẫu quốc-chư hầu với các quốc gia khác. Như
lời của một quan chức Singapore từng nói với tôi hồi đầu năm: “Người
Trung Quốc quyến rũ anh khi họ muốn, bóp nghẹt anh khi họ cần, và họ làm
vậy một cách có hệ thống.”
Động lực trong nước của Trung Quốc làm nảy sinh những tham vọng với
thế giới bên ngoài. Các đế quốc hiếm khi xuất hiện theo dự tính chủ quan
mà thường từng bước phát triển một cách tự nhiên. Khi một quốc gia lớn
mạnh, họ sẽ nảy sinh những nhu cầu và, nghe có vẻ phi lý, là cả những
nỗi sợ hãi mới, những thứ sẽ khiến họ buộc phải bành trướng dưới nhiều
hình thức. Ví dụ như nước Mỹ, ngay cả khi chịu sự lãnh đạo của những vị
tổng thống kém cỏi nhất như Rutherford Hayes, James Garfield, Chester
Arthur, Benjamin Harrison, thì nền kinh tế nước này những năm cuối thế
kỷ XIX vẫn âm thầm tăng trưởng đều đặn. Khi có quan hệ thương mại ngày
càng gắn kết với thế giới bên ngoài, Mỹ dần phát triển những lợi ích
kinh tế và chiến lược phức tạp ở những vùng đất xa xôi. Và không ít lần,
những lợi ích tại các khu vực như Nam Mỹ hay Thái Bình Dương đã trở
thành cái cớ để triển khai các hành động quân sự. Trong giai đoạn này,
Mỹ cũng bắt đầu tập trung ra thế giới bên ngoài khi các vấn đề trong
nước đã được củng cố; trận đánh lớn cuối cùng trong các cuộc Chiến tranh
với người da đỏ thực tế đã diễn ra năm 1890.
Trung Quốc ngày nay cũng đang củng cố các đường biên giới trên đất
liền và bắt đầu chuyển hướng ra bên ngoài. Những tham vọng trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc quyết liệt không kém của Mỹ hơn một thế kỷ
trước, nhưng lại có mục tiêu hoàn toàn khác. Trung Quốc không mang trên
vai sứ mệnh truyền bá giá trị nào khi đến với thế giới, không tìm cách
phổ cập bất kỳ hệ tư tưởng hay chế độ chính quyền nào. Thúc đẩy giá trị
đạo đức trong các vấn đề quốc tế là mục tiêu của người Mỹ, không phải
của Trung Quốc. Bánh lái cho những hoạt động của Trung Quốc ở nước ngoài
chính là nhu cầu quốc gia về năng lượng, quặng kim loại, và những
khoảng sản chiến lược giúp đảm bảo mức sống đang ngày một cao của một số
dân khổng lồ, chiếm khoảng một phần năm tổng dân số toàn cầu của nước
này.
Để hoàn thành trọng trách này, Trung Quốc đã thiết lập các mối quan
hệ có lợi với các láng giềng xung quanh cũng như những vùng đất xa xôi,
giàu tài nguyên cần thiết để tiếp năng lượng cho sức phát triển trong
nước. Do luôn đặt lợi ích quốc gia cốt lõi – ở đây là sự tồn tại của nền
kinh tế – làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động ở nước ngoài, Trung Quốc có
thể được coi là một cường quốc thực dụng cực đoan. Người Trung Quốc tìm
mọi cách tăng cường hiện diện trên khắp các khu vực tại Châu Phi –
những nơi được thiên nhiên ban tặng nguồn dầu mỏ và khoáng sản trù phú;
luôn muốn đảm bảo quyền tiếp cận các bến cảng trên khắp Ấn Độ Dương và
Biển Đông – những vùng biển kết nối thế giới Ả rập giàu khí đốt với bờ
biển Trung Quốc. Không quá kén chọn, Bắc Kinh cũng chẳng quan tâm đến
chế độ mình đang tham gia hợp tác thuộc loại nào. Điều nước này cần là
tính ổn định, không phải đạo đức như tiêu chuẩn của phương Tây. Và trong
các chế độ đó, có một số nước – như Iran, Myanmar và Sudan – đang bị cô
lập và cai trị bởi chế độ chuyên chế. Điều này đã khiến Trung Quốc,
trong cuộc săn lùng tài nguyên trên toàn thế giới, vấp phải xung đột với
nước Mỹ vốn có xu hướng truyền bá giá trị, cũng như với những quốc gia
có vùng ảnh hưởng bị Trung Quốc vô tình đụng chạm như Ấn Độ và Nga.
Tất nhiên, Trung Quốc không phải là mối nguy hiểm cho sự sống còn của
các quốc gia này. Khả năng bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ
vẫn còn xa vời, và Trung Quốc chưa thể là mối đe dọa quân sự trực tiếp
đối với Mỹ. Không kể đến những vấn đề như nợ, thương mại hay khí hậu ấm
lên toàn cầu…, thách thức Trung Quốc đặt ra đối với Mỹ chủ yếu là về mặt
địa lý. Vùng ảnh hưởng của Trung Quốc đang dần mở rộng ở lục địa Á – Âu
và Châu Phi, dù không mang tính chất đế quốc thời thế kỷ XIX nhưng lại
theo cách tinh vi hơn, phù hợp hơn với thời đại toàn cầu hóa. Đơn giản
chỉ bằng cách bảo đảm nhu cầu kinh tế trong nước, Trung Quốc đang dần
xoay chuyển cân bằng quyền lực trên Đông bán cầu, và điều này hẳn phải
khiến Mỹ hết sức quan ngại. Sẵn có vị trí thuận lợi, Bắc Kinh đang mở
rộng ảnh hưởng cả trên đất liền và trên biển, từ vùng Trung Á đến Biển
Đông, từ vùng Viễn đông Nga xuống Ấn Độ Dương. Trung Quốc là một cường
quốc lục địa đang vươn dậy, và, như câu nói nổi tiếng của Napoleon, các
chính sách của các quốc gia như vậy bắt nguồn từ chính những đặc điểm
địa lý của chúng.
Hội chứng biên giới nhạy cảm
Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực chính trong lãnh thổ Trung Quốc
nơi cư dân bản địa luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Điều này khiến hai vùng đất này trở thành tài sản mang tính đế quốc của
Bắc Kinh. Thêm vào đó, những căng thẳng sắc tộc tại những khu vực này
đang làm phức tạp hóa quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước lân cận.
“Tân Cương”, tên của tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “biên
cương mới”, dùng để chỉ vùng Turkestan rộng lớn với diện tích gấp đôi
bang Texas (Mỹ) và nằm cách xa khu lục địa trung tâm của Trung Quốc qua
Sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một nhà nước dưới hình thức này hay hình
thức khác từ hàng ngàn năm năm nay, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì
Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của nhà nước đó. Kể từ đó,
lịch sử của tỉnh này đã “luôn chìm trong bất ổn” như lời mô tả của nhà
ngoại giao người Anh Sir Fitzroy Maclean, với những cuộc nổi loạn và
nhiều giai đoạn tự trị độc lập ngắt quãng cho tới những năm 1940. Đến
năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân của Mao Trạch Đông đã tiến vào
Tân Cương, dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này với phần còn lại của Trung
Quốc. Nhưng trong thời gian gần đây, điển hình vào năm 1990 và một lần
nữa là vào năm 2009, tộc người Uighur (Duy Ngô Nhĩ), hậu duệ của người
Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ VII-VIII, đã nổi dậy chống lại
chính quyền Bắc Kinh.
Dân tộc Uighur có khoảng tám triệu người, chưa bằng 1% dân số Trung
Quốc, nhưng chiếm tới 45% số dân tỉnh Tân Cương. Người Hán với số lượng
áp đảo trên cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng đất thấp tại
khu vực trung tâm và vùng duyên hải ven Thái Bình Dương, trong khi
những cao nguyên khô cằn hơn ở phía Tây và Tây Nam là nơi trú ngụ lâu
đời của dân tộc thiểu số Uighur và Tây Tạng. Sự phân bố dân cư này vẫn
luôn là nguồn gốc cho những căng thẳng, bởi trong mắt Bắc Kinh, chính
quyền Trung Quốc hiện nay cần phải áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên
các khu vực cao nguyên này. Để giữ được những khu vực này, và cả nguồn
dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất tại đây, trong nhiều
thập kỷ Bắc Kinh đã đưa người Hán di cư từ khu trung tâm sang sống cùng
người bản địa. Chính quyền cũng lôi kéo quyết liệt những nước cộng hòa
độc lập của người Turk xung quanh trong khu vực Trung Á, một phần nhằm
tách biệt người Uighur Tân Cương khỏi mọi nguồn hậu thuẫn khả dĩ.
Bắc Kinh còn lôi kéo các chính phủ Trung Á với mục đích mở rộng vùng
ảnh hưởng của mình; dù biên giới Trung Quốc đã ăn sâu vào trong lục địa
Á-Âu, nhưng vẫn chưa đủ so với cơn khát tài nguyên thiên nhiên của nước
này. Thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở hai đường ống dẫn lớn
sắp hoàn thiện nối đến Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển
Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống còn lại để chuyển khí đốt từ
Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát các nguồn tài
nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp
những rủi ro lớn để bảo vệ chúng. Trung Quốc vẫn tiếp tục khai thác đồng
ở Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa, và đang để
mắt tới những mỏ sắt, vàng, uranium và những loại đá quý khác (khu vực
này sở hữu một vài khu mỏ cuối cùng chưa được khai thác của thế giới).
Bắc Kinh cũng có ý định xây dựng tuyến đường bộ và ống dẫn năng lượng
xuyên Afghanistan và Pakistan, từ đó kết nối vùng ảnh hưởng đang ngày
càng mở rộng ở Trung Á với những cảng biển trên Ấn Độ Dương. Điều kiện
địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được
Afghanistan.
Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng trong nhận
thức lãnh thổ của Trung Quốc, khu vực này cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Vùng cao nguyên Tây Tạng, với địa
hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ
Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn
cảnh về một Tây Tạng tự trị, chưa nói đến độc lập, và cũng là lý do
chính quyền vội vàng cho xây dựng đường sá và các tuyến đường sắt trên
khắp khu vực. Nếu không sở hữu Tây Tạng, Trung Quốc sẽ chỉ còn là một
quốc gia nhỏ bé với phần diện tích còn lại không đáng kể, còn Ấn Độ có
thể bổ sung thêm một vùng phía bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.
Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào vững chắc, án ngữ một vùng
ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á. Điều này đã được chỉ rõ trong tấm
bản đồ “Đại Trung Hoa” trong cuốn “
The Grand Chessboard” [Bàn cờ lớn] của
Zbigniew
Brzezinski năm 1997. Ở một mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt
Trung Quốc và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ: là láng giềng kề cận
với dân số khổng lồ, cùng sở hữu nền văn hóa phong phú lâu đời, và đều
có tranh chấp tuyên bố chủ quyền (điển hình như khu vực Arunachal
Pradesh [Nam Tây Tạng] của Ấn Độ). Vấn đề Tây Tạng chỉ như đổ thêm dầu
vào lửa. Ấn Độ đang cho phép chính quyền lưu vong của Đạt Lai Lạt Ma tị
nạn từ năm 1957, và theo như Daniel Twining, ủy viên cấp cao của Quỹ
Marshall Đức (German Marshall Fund), những căng thẳng biên giới Ấn-Trung
gần đây có thể “liên quan đến những lo ngại của Bắc Kinh về vấn đề kế
tục Đạt Lai Lạt Ma”. Vị Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo có khả năng đến từ vùng
vành đai văn hóa Tây Tạng, khu vực trải dài từ miền Bắc Ấn Độ, Nepal
đến Bhutan. Do đó ông có khả năng sẽ ủng hộ Ấn Độ và chống Trung Quốc
(thân Ấn bài Trung) mạnh mẽ hơn. Trong tương lai, “cuộc chơi lớn” giữa
Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không chỉ diễn ra những khu vực này mà còn ở
Bangladesh và Sri Lanka. Vị trí địa lý của Tân Cương và Tây Tạng rơi vào
trong đường biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng dựa trên mối quan
hệ không mấy êm đẹp giữa chính quyền trung ương với người bản xứ ở hai
tỉnh, có thể thấy Bắc Kinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi thái độ chống
đối khi mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài phạm vi các khu vực nơi có
người Hán chiếm đa số.
Kiểm soát từng bước
Ngay cả khi đã củng cố vùng biên cương, hình dáng của Trung Quốc vẫn
mang nét chưa được hoàn thiện và dễ bị tổn thương, như thể ai đó đã cắt
xén vài phần lãnh thổ của Đại Trung Hoa xưa kia. Đường biên giới phía
bắc của Trung Quốc bao quanh Mông Cổ, một vùng đất đai khổng lồ như từng
bị xé ra khỏi cái lưng của Trung Quốc. Mông Cổ là quốc gia có mật độ
dân số thấp nhất thế giới và giờ đây đang bị nền văn minh đô thị của
người láng giềng Trung Quốc đe dọa về mặt nhân khẩu. Từng một lần xâm
chiếm thành công Ngoại Mông để dọn đường tiến vào vùng đất trù phú, Bắc
Kinh hiện nay đã sẵn sàng chờ thời cơ để quay lại chinh phục Mông Cổ lần
nữa, theo một cách khác, để thỏa cơn khát dầu mỏ, than đá, uranium và
cả những đồng cỏ hoang vu và màu mỡ. Các công ty khai khoáng của Trung
Quốc vẫn đang tìm kiếm cổ phần lớn trong những tài sản dưới lòng đất của
Mông Cổ. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thiếu kiểm soát đã
biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ lớn hàng đầu thế giới của các
mặt hàng như aluminum, đồng, chì, niken, kẽm và quặng sắt, với mức tiêu
thụ tăng từ 10% lên đến 25% thị phần kim loại thế giới kể từ cuối những
năm 1990. Với Tây Tạng, Ma Cao và Hong Kong đã nằm trong tay chính quyền
trung ương, những giao dịch của nước này với Mông Cổ sẽ trở thành thước
đo để đánh giá mức độ của tham vọng đế quốc mà Bắc Kinh đang nung nấu.
Nằm ở phía bắc Mông Cổ và giáp ranh với ba tỉnh đông bắc Trung Quốc
là khu vực Viễn Đông của Nga, vùng đất hoang vu, băng giá, có diện tích
gấp đôi Châu Âu trong khi dân cư ngày một thưa thớt. Nước Nga mở rộng
biên giới của mình đến khu vực này từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, giai
đoạn Trung Quốc còn đang suy yếu. Nhưng giờ đây, Trung Quốc đã trở
thành cường quốc, còn ở phía Nga, không đâu trên lãnh thổ quốc gia,
quyền lực của chính quyền lại yếu như ở một phần ba lãnh thổ nằm ở phía
đông này. Ở ngay bên kia biên giới của chưa đến 7 triệu người Nga vùng
Viễn Đông (thậm chí đến năm 2015 có thể giảm xuống còn 4.5 triệu) là hơn
100 triệu dân của ba tỉnh tiếp giáp của Trung Quốc, nghĩa là mật độ dân
số ở phía Trung Quốc cao gấp 62 lần so với phía Nga. Dòng di dân từ
Trung Quốc vẫn đang đổ sang Nga, định cư đông đúc ở thành phố trung tâm
Chita, phía Bắc Mông Cổ, và sống rải rác ở những nơi khác trong vùng.
Tìm kiếm tài nguyên là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Trung
Quốc khắp mọi nơi, trong khi đó vùng Viễn Đông thưa thớt của Nga lại
đang sở hữu những mỏ khí đốt, dầu mỏ, gỗ, kim cương và vàng. David
Blair, phóng viên thường trú cho tờ
Daily Telegraph của London
trong bài viết gần đây đã cho biết “Moscow đang hết sức cảnh giác với số
lượng lớn những người di cư Trung Quốc đổ vào khu vực này, mang theo
những công ty khai thác khoáng sản và gỗ”.
Cũng như với Mông Cổ, nỗi sợ của người Nga không phải là một ngày nào
đó Trung Quốc sẽ đưa quân xâm lược hoặc chính thức thôn tính vùng Viễn
Đông Nga, mà là quyền lực kiểm soát của Bắc Kinh về dân cư và doanh
nghiệp đang từng bước lặng lẽ bao phủ khu vực này (trong lịch sử, Trung
Quốc đã từng có thời gian ngắn nắm giữ quyền lực tại đây trong thời kỳ
nhà Thanh). Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, do những tranh chấp biên
giới giữa Liên Xô và Trung Quốc, hàng trăm ngàn binh lính đã được đưa
đến vùng Siberi xa xôi này và đã có lúc cuộc đối đầu bị đẩy đến mức xung
đột nóng. Đến cuối thập niên 1960, những căng thẳng này đã làm rạn vỡ
quan hệ Xô-Trung. Yếu tố địa lý gần kề có thể gây chia rẽ Trung Quốc và
Nga, bởi quan hệ đồng minh hiện nay giữa hai bên chỉ đơn thuần bắt nguồn
từ những tính toán sách lược. Điều này có thể có lợi cho Mỹ. Vào những
năm 1970, chính quyền Nixon đã từng lợi dụng mối bất hòa giữa Bắc Kinh
và Moscow để đặt quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Trong tương lai, khi
Trung Quốc trở thành một cường quốc lớn hơn, sẽ không ngạc nhiên khi Mỹ
bắt tay với Nga thành một khối đồng minh chiến lược nhằm tạo thế cân
bằng với “Vương quốc trung tâm”.
Phương Nam hứa hẹn
Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang dần lan rộng xuống phía Đông
Nam. Thực ra, do các quốc gia Đông Nam Á đều không mạnh nên đây là khu
vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một Đại Trung Hoa. Về địa
lý, Trung Quốc gần như không gặp cản trở nào với Việt Nam, Lào, Thái Lan
và Myanmar. Trung tâm ảnh hưởng tự nhiên của vùng Sông Mekong, nơi kết
nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông, là Côn Minh,
thủ phủ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.
Quốc gia có diện tích lớn nhất trên vùng lục địa của Đông Nam Á là
Myanmar. Nếu như Pakistan được ví là Balkans của Châu Á do luôn có nguy
cơ bị chia cắt lãnh thổ, thì Myanmar lại giống như nước Bỉ thời đầu thế
kỷ XX khi luôn đứng trước mối đe dọa xâm lược từ những nước láng giếng
hùng mạnh hơn. Giống như Mông Cổ, miền Viễn Đông Nga và những vùng lãnh
thổ giáp khu vực biên giới Trung Quốc, Myanmar cũng là một quốc gia yếu
với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Trung Quốc đang thèm khát.
Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu ở Sittwe,
nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar, với cùng một hy vọng trong
tương lai sẽ có thể xây dựng đường ống dẫn ga nối vào từ các mỏ khai
thác ngoài khơi vịnh Bengal.
Với cả khu vực nói chung, Bắc Kinh đang áp dụng chiến thuật “chia để
trị” (divide-and-conquer) trong một số lĩnh vực. Trong quá khứ, Trung
Quốc đã đàm phán riêng rẽ với từng thành viên trong ASEAN (Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á) thay vì với tất cả các quốc gia theo tư cách một
khối chung. Ngay cả hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại chính
thức với ASEAN gần đây cũng cho thấy cách thức Trung Quốc sẽ tiếp tục áp
dụng để phát triển những mối quan hệ có lợi với những người láng giềng
phía nam. Quốc gia này sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những
mặt hàng giá trị cao sản xuất trong nước đồng thời mua lại từ đây những
sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều này đã mang về cho Trung Quốc thặng dư
thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải
cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất bởi nhân công giá rẻ của Trung
Quốc.
Thực tế này đang diễn ra trong tình cảnh quốc gia hùng mạnh một thời
Thái Lan, sau những rung chuyển do biến cố chính trị nội bộ gần đây,
đang ngày càng mờ nhạt trong vai trò mỏ neo của khu vực và đối trọng cố
hữu của Trung Quốc tại đây. Hoàng gia Thái, với vị vua già yếu, đã không
đủ sức đóng vai lực lượng duy trì ổn định như trước kia, trong khi giới
quân sự Thái Lan đang bị tư tưởng bè phái thống trị. (Trung Quốc đang
đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương với Thái Lan đồng thời xây dựng
những mối quan hệ tương tự với các nước Đông Nam Á khác, trong khi Mỹ
ngày càng lơ là các cuộc tập trận trong khu vực để dồn sức cho các cuộc
chiến ở Afghanistan và Iraq.) Ở phía nam Thái Lan, cả Malaysia và
Singapore đều chuẩn bị bước vào thời kỳ chuyển đổi dân chủ đầy thách
thức khi những nhà lãnh đạo khai quốc công thần đầy quyền lực trước đây,
Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu, rời khỏi sân khấu chính trị.
Malaysia ngày càng dấn sâu vào cái bóng kinh tế của Trung Quốc, cùng lúc
dân số gốc Hoa tại đây cảm thấy bị đe dọa bởi người Malay Hồi giáo
chiếm đa số. Singapore dù dân số hầu hết là người gốc Hoa nhưng chính
phủ cũng đang lo ngại bị biến thành một nước chư hầu của Trung Quốc. Do
đó, từ nhiều năm nay, đảo quốc này đã không ngừng chăm chút cho mối quan
hệ về huấn luyện quân sự với Đài Loan. Lý Quang Diệu còn từng công khai
thúc giục Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực cả về quân sự lẫn ngoại giao.
Về phần mình, Indonesia cũng đang bị mắc kẹt trong tình thế giữa một bên
vẫn cần sự hiện diện của hải quân Mỹ để cản chân Trung Quốc, nhưng mặt
khác lại lo sợ sẽ khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo nổi giận khi
nước này có biểu hiện là đồng minh của Mỹ. Trước tình cảnh quyền lực của
Mỹ tại Đông Nam Á đã bước qua thời hoàng kim, còn Trung Quốc đang trỗi
dậy ngày một mạnh mẽ, các thành viên trong khu vực đang cùng bắt tay hợp
tác chặt chẽ hơn nhằm làm suy yếu chiến lược “chia để trị”. Điển hình
như Indonesia, Malaysia và Singapore đã liên kết thành một nhóm chống
cướp biển. Các quốc gia này càng tự lực cánh sinh bao nhiêu, mối đe dọa
từ quyền lực nổi lên của Trung Quốc đối với họ sẽ càng ít bấy nhiêu.
Về lục quân
Trung Á, Mông Cổ, vùng Viễn Đông Nga và Đông Nam Á là những khu vực
ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Nhưng những vùng biên giới chính trị ở
đây lại không thể thay đổi. Trong khi đó, tình hình trên bán đảo Triều
Tiên lại là một câu chuyện khác: về cơ bản, bản đồ Trung Quốc bị cắt cụt
ngay tại khu vực này, và biên giới chính trị của bán đảo không quá khó
để thay đổi.
Chế độ biệt lập của Bắc Triều Tiên vốn không ổn định từ trong gốc rễ,
và sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực. Với địa thế
vươn ra từ Mãn Châu, bán đảo Triều Tiên kiểm soát toàn bộ giao thông
hàng hải ra vào đông bắc Trung Quốc. Tất nhiên không ai thực sự tin rằng
Trung Quốc sẽ thôn tính bất cứ phần nào của bán đảo Triều Tiên, nhưng
Bắc Kinh vẫn luôn cảm thấy bất tiện khi bị lãnh thổ của quốc gia khác
nằm chắn lối ở đó, nhất là phía bắc. Và mặc dù ủng hộ chế độ Stalin của
Kim Jong Il, Trung Quốc cũng lên sẵn những kế hoạch cho tương lai thời
hậu cầm quyền của Kim. Bắc Kinh mong muốn cuối cùng có thể đưa hàng ngàn
người đào ngũ đang cư ngụ tại Trung Quốc về lại Bắc Triều Tiên để xây
dựng nền tảng chính trị thuận lợi cho công cuộc chiếm quyền kiểm soát
kinh tế từng bước của Bắc Kinh đối với khu vực sông Tumen [Đồ Môn]. Đây
là ngã ba tự nhiên giữa Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga, đồng thời
cũng là nơi có các cảng biển tốt nối với Nhật Bản trên Thái Bình Dương.
Vì lẽ này, có lẽ Bắc Kinh sẽ muốn chứng kiến một Bắc Triều Tiên độc
tài phát triển hiện đại hơn nữa, để từ đó tạo thành một vùng đệm an toàn
ngăn cách Trung Quốc với nền dân chủ hưng thịnh và năng động của Hàn
Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi bán đảo Triều Tiên tái thống nhất, Trung
Quốc vẫn được lợi. Dù một Triều Tiên thống nhất sẽ trở nên dân tộc chủ
nghĩa hơn và giữ thái độ thù địch đối với cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc,
hai kẻ thù đã từng tìm cách xâm lược nước này trong quá khứ, nhưng thái
độ thù địch của Triều Tiên với Nhật Bản nặng nề hơn rất nhiều so với
phía Trung Quốc. (Nhật đã chiếm đóng bán đảo từ năm 1910 đến 1945, và
đến nay Seoul và Tokyo vẫn còn tranh chấp chủ quyền trên quần đảo
Tokdo/Takeshima). Quan hệ kinh tế với Trung Quốc sẽ khăng khít hơn so
với Nhật Bản bởi nếu thống nhất, Triều Tiên sẽ gần như chắc chắn nằm
dưới quyền điều hành của Seoul, trong khi hiện nay Trung Quốc đã là đối
tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc. Cuối cùng, khi đã xích lại gần hơn
với Bắc Kinh và xa rời Nhật Bản, nước Triều Tiên thống nhất sẽ chẳng có
lý do gì để tiếp tục giữ chân quân Mỹ trong lãnh thổ của mình. Hay nói
cách khác, không khó để nhìn ra viễn cảnh một Triều Tiên trong vòng tay
của Đại Trung Hoa và thời kỳ hiện diện của bộ binh Mỹ ở Đông Bắc Á sẽ
dần đi đến hồi kết.
Ví dụ trên bán đảo Triều Tiên đã cho thấy biên giới đất liền của
Trung Quốc mang lại nhiều cơ hội tiềm năng hơn là mối đe dọa. Như
Mackinder đã kết luận, Trung Quốc có khả năng sẽ phát triển thành một
cường quốc cả trên biển và đất liền, ít nhất sẽ đủ sức làm lu mờ Nga tại
khu vực lục địa Á-Âu. Nhà khoa học chính trị John Mearsheimer từng viết
trong cuốn “
The Tragedy of Great Power Politics” [Bi kịch của
chính trị cường quốc]: “Những quốc gia nguy hiểm nhất trong hệ thống
quốc tế là những cường quốc lục địa có trong tay lực lượng quân đội
khổng lồ.” Đây có thể là nguyên nhân chúng ta phải e ngại tầm ảnh hưởng
của Trung Quốc, bởi quốc gia này đang ngày càng trở thành một cường quốc
lục địa. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ khớp với mô tả của Mearsheimer một
phần, vì dù quân đội quốc gia sở hữu đến 1.6 triệu binh lính, lực lượng
này vẫn khó có thể phát triển được khả năng viễn chinh trong những năm
tới. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) từng ứng phó với trận động đất
Tứ Xuyên 2008, giải quyết vụ bạo động sắc tộc gần đây ở Tây Tạng và Tân
Cương và cả thách thức an ninh từ Olympic Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, theo
Abraham Denmark, thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới [Center for a New
American Security], những thành quả trên chỉ cho thấy PLA đủ khả năng di
chuyển lực lượng trong phạm vi đại lục Trung Quốc, chứ vẫn chưa thể vận
chuyển quân nhu và các loại vũ khí thiết bị hạng nặng ở một mức độ cần
thiết cho các cuộc triển khai quân sự [ở nước ngoài]. Nhưng đạt được khả
năng này hay không có lẽ cũng không quan trọng, vì dù sao việc PLA vượt
qua biên giới Trung Quốc cũng khó có thể xảy ra trừ trường hợp có tính
toán sai lầm (nếu có thêm một cuộc chiến tranh khác với Ấn Độ) hoặc khi
cần lấp chỗ trống (nếu chế độ Bắc Triều Tiên sụp đổ). Trung Quốc vẫn có
thể lấp đầy các khoảng trống quyền lực ở những vùng biên giới tiếp giáp
bằng những biện pháp dân số và đầu tư doanh nghiệp mà không cần dùng đến
một lực lượng bộ binh viễn chinh theo sau bảo vệ.
Sức mạnh chưa từng thấy trên đất liền của Trung Quốc phần nào nhờ
công đóng góp của các nhà ngoại giao, những người những năm gần đây luôn
phải làm việc không ngửng nghỉ để giải quyết hàng loạt tranh chấp biên
giới với các nước cộng hòa Trung Á, Nga và những láng giềng khác (Ấn Độ
là một ngoại lệ đáng chú ý). Tầm quan trọng của sự thay đổi này là rõ
ràng. Đã không còn thời kỳ một quân đội hùng hậu luôn ngấp nghé Mãn
Châu; trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, sự hiện diện đáng ngại này đã buộc
Mao phải đổ dồn ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cho lực lượng bộ
binh và sao lãng hải quân. Vạn Lý Trường Thành là một bằng chứng cho
lịch sử luôn phải vật lộn với những cuộc xâm lược trên đất liền dưới
nhiều hình thức của Trung Quốc từ thời xa xưa. Nhưng giờ đây tất cả đã
là quá khứ.
Dần vững vàng trên biển
Nhờ tình hình thuận lợi trên đất liền, Trung Quốc giờ đây có thể tự
do tập trung xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu. Nếu như với các
quốc gia nhỏ ven biển và các đảo quốc theo đuổi phát triển sức mạnh trên
biển là điều tất yếu thì làm như vậy lại là một điều xa xỉ đối với
những cường quốc lục địa lâu năm như Trung Quốc. Riêng trường hợp Trung
Quốc, xa xỉ phẩm này có thể không quá khó đạt được khi địa hình bờ biển
cũng thuận lợi không kém so với đất liền. Phần lãnh thổ của nước này
chiếm hầu hết đường bờ biển Đông Á trong cả vùng ôn đới và nhiệt đới của
Thái Bình Dương và biên giới phía nam Trung Quốc cũng đủ gần với Ấn Độ
Dương để có thể kết nối với nhau bằng những tuyến đường bộ và ống dẫn
nhiên liệu trong tương lai. Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ mở rộng
quyền lực cứng của mình ra thế giới bên ngoài chủ yếu bằng lực lượng hải
quân.
Tuy nhiên, quốc gia này phải đối diện với một môi trường trên biển
chông gai hơn nhiều so với trên đất liền. Hải quân Trung Quốc gần như
không nhìn thấy được nhiều triển vọng nào khác ngoài những khó khăn
trong khu vực mà nước này gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”, gồm bán đảo Triều
Tiên, đảo Kuril, Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ryukyu), Đài Loan,
Philippines, Indonesia, và Australia. Ngoại trừ Australia, tất cả những
địa điểm còn lại đều có nguy cơ trở thành ngòi nổ xung đột. Đến nay,
Trung Quốc đã bị vướng vào nhiều tranh chấp về chủ quyền ở những vùng
đáy đại dương giàu năng lượng ở biển Hoa Đông và Biển Đông (Trung Quốc
gọi là Nam Hải), cụ thể là với Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư/Senkaku, với
Philippines và Việt Nam ở Trường Sa. Những tranh chấp này tuy có thể
giúp Bắc Kinh kích động chủ nghĩa dân tộc trong nước, nhưng với các nhà
chiến lược hải quân, viễn cảnh trên biển này lại không mấy sáng sủa. Như
mô tả của James Holmes và Toshi Yoshihara từ Học viện Hải chiến Hoa Kỳ
[US Naval War College], chuỗi đảo thứ nhất là một dạng “Vạn Lý Trường
Thành ngược”, tức là giống như một vòng vây hiệu quả của các đồng minh
Mỹ, với mỗi bên đóng vai trò như một tháp canh giám sát và thậm chí có
thể ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận với Thái Bình Dương.
Phản ứng của Trung Quốc trước cảm giác bị giam hãm này đôi khi rất
quyết liệt. Sức mạnh trên biển thường ôn hòa hơn so với trên bộ, bởi hải
quân không thể một mình xâm chiếm những vùng rộng lớn và nhiệm vụ phải
đảm nhận không đơn thuần là chiến đấu (ví dụ như bảo vệ hoạt động giao
thương). Do đó, người ta hẳn đã trông chờ Trung Quốc sẽ ôn hòa như những
quốc gia biển trước đó, điển hình là Venice, Anh, hay Mỹ, và cũng như
các nước này, sẽ tự quan tâm hàng đầu tới việc bảo vệ sự ổn định của hệ
thống hàng hải, bao gồm cả lưu thông thương mại tự do. Nhưng Trung Quốc
lại không tự tin đến như vậy. Do vẫn chưa là một cường quốc biển vững
vàng, quốc gia này nhìn nhận đại dương dưới góc nhìn lãnh thổ, ngay từ
cách gọi “chuỗi đảo thứ nhất” và “chuỗi đảo thứ hai” (gồm các vùng lãnh
thổ Guam và quần đảo Bắc Mariana của Mỹ) đã cho thấy người Trung Quốc
coi đây là những không gian đảo mở rộng của lãnh thổ Trung Quốc rộng
lớn. Với cách tính toán theo kiểu “tổng tất cả bằng không” như vậy với
những vùng biển gần kề, các nhà chỉ huy hải quân Trung Quốc đang cho
thấy dấu hiệu đi theo học thuyết hiếu chiến của chiến lược gia hải quân
Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ XX Alfred Thayer Mahan về ủng hộ kiểm soát biển và
các cuộc chiến mang tính quyết định. Tuy nhiên, họ vẫn chưa sở hữu lực
lượng hải quân đủ mạnh để áp dụng học thuyết này, và hệ quả của sự chênh
lệch giữa tham vọng và tiềm lực là một số sự cố vụng về trong vài năm
gần đây. Vào tháng 10/2006, một tàu ngầm Trung Quốc bám theo tàu USS
Kitty Hawk và sau đó nổi lên trong tầm bắn ngư lôi của tàu Mỹ. Vào tháng 11/2007, tàu Trung Quốc đã từ chối cho đội tàu sân bay
Kitty Hawk tiến vào Cảng Victoria khi tàu này đang tìm nơi neo đậu tránh biển động và thời tiết xấu. (Dù vậy
Kitty Hawk có ghé thăm Hong Kong năm 2010). Đến tháng 3/2009, một nhóm nhỏ tàu hải quân của PLA đã đe dọa tàu thăm dò của Mỹ USNS
Impeccable
khi tàu này đang hoạt động công khai bên ngoài ranh giới lãnh hải 12
hải lý của Trung Quốc ở Biển Đông, chặn đường tàu và làm động tác giả
đâm tàu. Đây là những hành động không phải của một cường quốc chín chắn,
mà mới chỉ của một cường quốc chưa trưởng thành.
Thái độ hung hăng trên biển của Trung Quốc cũng được thể hiện qua
những hợp đồng mua vũ khí. Bắc Kinh đang phát triển khả năng bất đối
xứng với mục tiêu ngăn chặn Hải quân Mỹ tiến vào Biển Hoa Đông và những
vùng biển ven Trung Quốc. Trung Quốc đã hiện đại hóa hạm đội tàu khu
trục của mình và có kế hoạch sở hữu một hoặc hai chiếc tàu sân bay nhưng
sẽ chưa thể có được tất cả các loại tàu chiến. Thay vào đó, nước này đã
tập trung vào xây dựng các chủng loại mới của tàu ngầm thông thường,
tàu ngầm tấn công hạt nhân và thậm chí tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Theo
Seth Cropsey, nguyên trợ lý thứ trưởng Hải quân Mỹ, và Ronald O’Rourke
thuộc Bộ phận nghiên cứu thuộc Quốc hội, trong vòng 15 năm tới, Trung
Quốc có thể sở hữu một lực lượng tàu ngầm lớn hơn của Hải quân Hoa Kỳ,
vốn hiện đang có 75 tàu ngầm đang được triển khai. Không những vậy,
Cropsey cho rằng, hải quân Trung Quốc có kế hoạch sử dụng các loại radar
tầm xa, vệ tinh, mạng lưới định vị sóng âm dưới đáy biển, và các hoạt
động chiến tranh mạng nhằm phục vụ các tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM).
Mục tiêu cuối cùng của những tiến bộ công nghệ này song song với sự
phát triển nhanh chóng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc là nhằm ngăn chặn
khả năng tiếp cận dễ dàng của Hải quân Hoa Kỳ vào những khu vực quan
trọng phía Tây Thái Bình Dương.
Để thúc đẩy nỗ lực kiểm soát các vùng nước tại Eo biển Đài Loan và
biển Hoa Đông, Trung Quốc cũng đang cải thiện khả năng tác chiến mìn của
mình, mua sắm các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của Nga, và triển
khai khoảng 1.500 tên lửa đất đối không dọc bờ biển. Thêm vào đó, song
song với việc đặt hệ thống cáp quang dưới lòng đất và dịch chuyển các
lực lượng phòng thủ vào sâu trong lục địa phía Tây nhằm tránh tầm bắn
tên lửa hải quân của những kẻ thù tiềm tàng, Trung Quốc còn đang phát
triển một chiến lược tấn công nhằm tiêu diệt các tàu sân bay, biểu tượng
sức mạnh của Mỹ.
Tất nhiên, Trung Quốc trong tương lai gần sẽ không tấn công tàu sân
bay Mỹ, và nước này vẫn còn một con đường dài phía trước nếu muốn trực
diện thách thức sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Nhưng mục tiêu của Trung Quốc
là phát triển những năng lực này dọc đường bờ biển nhằm dập tắt ý định
của Hải quân Hoa Kỳ tiếp cận theo ý muốn vào khu vực giữa chuỗi đảo thứ
nhất và bờ biển Trung Quốc. Vì khả năng định hình hành vi của đối thủ là
yêu cầu cốt lõi của quyền lực, đây sẽ là bằng chứng cho thấy một Đại
Trung Hoa đang được hiện thực hóa trên biển giống như trên đất liền.
Yếu tố Đài Loan
Sự bất an trên biển
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Yeu to dia ly cua quyen luc TQ.pdf
[1]
Theo Karl Wittogel, bất cứ một nền văn minh nào có hệ thống nông nghiệp
đều dựa vào cấu trúc thủy lợi rộng lớn do chính quyền điều hành độc
quyền. Việc cung cấp nước đầy đủ (cho tưới tiêu) và khả năng bảo vệ mùa
màng (khỏi lũ lụt) mang lại quyền lực tuyệt đối cho chính quyền đối với
nền kinh tế và từ đó là cả xã hội nông nghiệp). Cụm từ này dùng để nói
về các nền văn minh như Ai Cập, Lương Hà, Trung Hoa…, để phân biệt với
phương Tây – ND.
Kinh tế Trung Quốc sẽ có cú sụp đổ kinh hoàng?
http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/kinh-te-trung-quoc-se-co-cu-sup-do-kinh-hoang-201306301625085830ca32.chn
Rất có thể những hệ quả mới chỉ bắt đầu. Nhiều chuyên
gia nhận định rằng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có thể phải chịu những
nỗi đau lớn hơn rất nhiều.
NHTW Trung Quốc đã khiến thị trường toàn cầu quay cuồng khi cố gắng
thắt chặt tín dụng và hạn chế hệ thống ngân hàng trong bóng tối (shadow
banking). Tuy nhiên, rất có thể những hệ quả mới chỉ bắt đầu. Nhiều
chuyên gia nhận định rằng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có thể phải
chịu những nỗi đau lớn hơn rất nhiều.
“Tín dụng đã được thắt chặt kể từ cuối năm ngoái”, Leland Miller – chủ tịch của China Beige Book International nhận định.
Theo Leland, lãi suất cho vay liên ngân hàng tăng lên chính là một
chỉ số thể hiện sự căng thẳng của hệ thống. Cơ chế chu chuyển tín dụng
đã vỡ vụn và cho đến khi điều này được sửa chữa, Trung Quốc sẽ không thể
có được kết cục tốt đẹp.
Trong thông báo được gửi đi tuần trước, NHTW Trung Quốc khẳng định
nền kinh tế và hệ thống tài chính đang vận hành trơn tru và không hề có
hiện tượng thiếu thanh khoản trên thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế
Trung Quốc vẫn phải chịu đựng những rắc rối từ tín dụng và tình trạng
đầu tư quá mức trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm.
Bill Smead – CEO kiêm CIO của Smead Capital Management – cho rằng
trong giai đoạn 2008 – 2011, Trung Quốc đã bơm vào nền kinh tế khoảng
2.500 tỷ USD. Phần lớn số tiền này đổ vào các công cụ đầu tư để xây dựng
cầu cống, sân bay và chung cư. Rất nhiều dự án được xây dựng chỉ với
mục đích thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội mà không tạo ra
nhiều hiệu quả về mặt kinh tế.
Trong khi đó, Gordon Chang – tác giả của cuốn sách “The Coming
Collapse of China,” (tạm dịch: Cú sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) cho
rằng nước này chỉ có thể tăng trưởng 2 -3%. Thậm chí, nếu tất cả hoạt
động xây dựng đổ vào các thành phố ma và “những con đường chẳng dẫn đến
đâu”, nền kinh tế có thể không tăng trưởng.
Gordon Chang bổ sung nên nhìn vào sản lượng sử dụng điện để xem xét
tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc thay vì các con số chính
thức. Trả lời phỏng vấn CNBC hồi đầu tháng, ông nhận định Trung Quốc chỉ
tăng trưởng 2,9% trong quý I thay vì 7,7% như báo cáo.
Và, rất nhiều khoản vay được sử dụng để tài trợ cho các thành phố
ma và những tuyến đường sắt bỏ hoang. Các chủ nợ gần như không bao giờ
có thể thu hồi những khoản nợ này. Thay vào đó, các ngân hàng tiếp tục
đảo nợ.
Nếu các ngân hàng ngừng đảo nợ, hệ thống ngân hàng có thể xuất hiện
một “lỗ hổng” về vốn. Trong trường hợp này, chính phủ buộc phải bỏ ra
một số tiền khổng lồ để tái cấu trúc các ngân hàng.
Trung Quốc có thể làm hai điều để phòng chánh rủi ro: nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc và sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ.
David Riedel – chuyên gia đến từ Riedel Research Group – cho rằng
trong khi nhà đầu tư phải lo lắng về sức khỏe của hệ thống ngân hàng,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 20% mà chính phủ đưa ra và kho dự trữ ngoại
hối 3.000 tỷ USD là “hai trụ đỡ quan trọng”.
Tuy nhiên, sử dụng dự trữ ngoại hối để tái cấu trúc các ngân hàng
có thể gây nên nhiều hậu quả không mong muốn: phá hoại đồng nhân dân tệ
và gây nên lạm phát, dẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn.
Bi quan
Đối với một số nhà đầu tư quốc tế, sự bấp bênh của Trung Quốc cũng
đồng nghĩa với việc tránh đầu tư vào cổ phiếu Trung Quốc. Rajiv Jain –
giám đốc của quỹ Virtus Foreign Opportunities Fund – nói với các nhà đầu
tư tham dự hội thảo của Morningstar rằng ông “rất lo lắng về những rủi
ro đến từ hệ thống ngân hàng trong bóng tối của Trung Quốc”.
Nhận định về đầu tư trong quý I vừa qua, ông cho rằng tốc độ tăng
trưởng tín dụng của Trung Quốc là không bền vững. Jain bổ sung thê rằng
các rủi ro mang tính chất hệ thống. Nếu kinh tế Trung Quốc suy giảm,
chắc chắn là giá hàng hóa sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Giá hàng hóa thấp
dẫn đến thu nhập cũng như đầu tư vào các nước xuất khẩu sụt giảm. Các
nước này bao gồm Indonesia, Malaysia, Brazil, Canada và Australia.
Ông khuyến nghị nên đầu tư vào các công ty có phần lớn hoạt động ở
trong nước (ví dụ như các ngân hàng Ấn Độ) và đánh giá rất thấp các công
ty liên quan đến thị trường hàng hóa (vốn phụ thuộc vào Trung Quốc).
Cơ hội của Trung Quốc?
Tuy nhiên, không phải ai cũng bi quan về Trung Quốc. “Chúng tôi vẫn
tin rằng Trung Quốc có thể xoay xở được”, Todd Henry – chuyên gia đến
từ T.Rowe Price nhận định. Mặc dù nhận định Trung Quốc đã sai lầm trong
phân bổ nguồn vốn và hệ thống tài chính ẩn chứa rủi ro, Henry vẫn cho
rằng không có rủi ro hệ thống.
T. Rowe cho rằng không nên đầu tư vào mảng tài chính của Trung
Quốc. Các cổ phiếu chưa đủ rẻ để chấp nhận rủi ro. T. Rowe ưa chuộng cổ
phiếu của các công ty tiêu dùng, Internet và công ty hoạt động trong
lĩnh vực môi trường.
Richard Gao, chuyên gia tại Matthews Asia, cho rằng Trung Quốc sẽ
không đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Tuy
nhiên, nhà đầu tư vẫn nên có cách tiếp cận thận trọng và giảm danh mục
đầu tư vào lĩnh vực tài chính, đặc biệt là các ngân hàng.
Michael Kurtz, trưởng bộ phận đầu tư cổ phiếu của Nomura, cũng cho
rằng nỗ lực thắt chặt tín dụng “rất hữu ích trong việc giúp nền kinh tế
Trung Quốc bền vững hơn trong trung và dài hạn. Thậm chí, đây là điều
tích cực cho các định chế tài chính của Trung Quốc.
Còn Bill Stone của công ty quản lý tài sản PNC Asset Management thì
cho rằng có vẻ như Trung Quốc không sụp đổ và những biến động gần đây
có thể tạo ra cơ hội trong tương lai.
2007 hay 1979?
Chuyên gia đến từ HSBC Garry Evans so sánh bối cảnh hiện nay của
Trung Quốc với nước Mỹ hồi năm 1979, khi Chủ tịch Cục dự trữ liên bang
Paul Volcker lên nhậm chức. Theo Evans, chính phủ Trung Quốc đang tập
trung vào cải cách, thị trường sẽ chờ đợi liệu cải cách sẽ diễn ra như
thế nào.
Trong khi đó, Henry cho rằng chuyển trọng tâm nền kinh tế từ đầu tư
sang tiêu dùng nội địa sẽ là một quá trình đòi hỏi nhiều sự khéo léo.
Rủi ro nằm ở chỗ Trung Quốc có thể đi chệch hướng và mất kiểm soát. Tuy
nhiên, Trung Quốc vẫn tỏ ra khá xuất sắc trong nhiệm vụ điều hành nền
kinh tế.
Trong khi đó, Smead có cái nhìn ảm đạm hơn khi cho rằng Trung Quốc
năm 2013 giống với nước Mỹ thời kỳ 2007 – 08, khi khủng hoảng tài chính
toàn cầu xảy ra. Trung Quốc là mối lo ngại lớn nhất của Smead và ông
tránh đầu tư vào các công ty năng lượng, tài nguyên cũng như công nghiệp
phụ thuộc vào Trung Quốc.
Smead dự báo Trung Quốc sẽ chịu đựng một cuộc suy thoái sâu kéo dài đến 4 năm.
Thu Hương
Theo Trí Thức Trẻ/CNBC
Ý nghĩa chuyến thăm TQ của Chủ tịch VN
GS Lê Xuân Khoa
Viết từ California, Hoa Kỳ
Cập nhật: 09:40 GMT – chủ nhật, 30 tháng 6, 2013
Tác giả noi chuyến thăm của Chủ tịch Sang chưa giải tỏa được ‘mưu đồ’ của TQ
Mười chín ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc
bài diễn văn Shangri-La xoay chuyển chính sách ngoại giao Việt Nam sang
phía Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh hội đàm với Chủ
tịch nước Tập Cận Bình về hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc
gia.
Ngay sau đó, hai nhà lãnh đạo đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác, gồm có:
1. Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung
Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện
Việt Nam – Trung Quốc.
2. Thoả thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng.
3. Thoả thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và
Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ
việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển.
4. Hiệp định khung giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về
việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi (cho Dự án
hệ thống thông tin đường sắt) trị giá 320 triệu Nhân dân tệ.
5. Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hoá tại hai nước.
6. Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
7. Thoả thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và
Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp
tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu.
8. Kế hoạch hợp tác giữa giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2013-2017.
9. Hiệp định vay cụ thể tín dụng người mua ưu đãi cho Dự án Nhà máy Đạm than Ninh Bình trị giá 45 triệu đôla Mỹ.
10. Thoả thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam và Tổng công ty Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới
Thoả thuận thăm dò chung trong khu vực thoả thuận ngoài khơi trong Vịnh
Bắc Bộ.
‘Động cơ gặp gỡ’
“Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang được biết là người chống chính sách bá quyền
của Bắc Kinh. Khi nhậm chức vào tháng Bảy 2011, ông Sang đã tuyên bố
trước Quốc hội là ông quyết tâm bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của
đất nước“
Chuyến đi được kết thúc bằng một bản tuyên bố chung 8 điểm dài khoảng
5.000 chữ. Điểm số 1 nói về mục đích cuộc hội đàm thượng đỉnh song
phương là “làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung” đã
được thảo luận và ký kết từ trước. Điểm 2 xác nhận “tiếp tục kiên trì
phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt” trong quan hệ phát triển lâu dài
giữa hai nước.
Dựa trên cơ sở của hai điểm 1 và 2, điểm số 3 quan trọng nhất vì nó
tóm lược 13 lĩnh vực hợp tác giữa các bộ, ngành của Chính phủ được ấn
định trong “Chương trình hành động triển khai Quan hệđối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc”. Chương trình này được “khẩn
trương bàn bạc” (bản tin TTXVN) trong phiên họp lần thứ 6 của Ủy ban
Chỉ đạo hợp tác song phương tại Bắc Kinh ngày 11.5.2013, và bản dự thảo
chương trình được chính thức ký kết thành Văn kiện số 1 trong chuyến
thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Đây là văn kiện cơ
bản thể hiện “tiếp tục phát triển hợp tác theo chiều sâu” nhằm “đẩy quan
hệ Việt-Trung lên tầm cao mới” là mục tiêu chính của cuộc hội đàm giữa
lãnh đạo của hai nước. Chín văn kiện còn lại là những thể hiện chi tiết
về hợp tác giữa các bộ, ngành trên mọi lĩnh vực.
Cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có một số sự kiện cần được xem xét kỹ:
1. Mục tiêu “tiếp tục phát triển hợp tác theo chiều sâu” và “đẩy quan
hệ Việt-Trung lên tầm cao mới” đều được Chủ tịch nhà nước Việt Nam và
Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội nhấn mạnh trong hai cuộc phỏng vấn riêng biệt
của báo chí Trung Quốc (với Chủ tịch Trương Tấn Sang) và báo chí Việt
Nam (với Đại sứ Khổng Huyễn Hựu) ngay trước chuyến đi Trung Quốc của nhà
lãnh đạo Việt Nam. Rõ ràng đây là một sự đáp trả mạnh mẽ đối với bước
ngoặt về đối ngoại của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài diễn văn
Shangri-La ngày 31.5. Các văn kiện được chuẩn bị từ trước ngày họp của
Đối thoại Shangri-La đều là kết quả đúc kết mau chóng từ những thoả
thuận đã có trong những phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương
và Hội thảo lý luận giữa hai đảng trong nhiều năm qua. Văn kiện số 1
được “khẩn trương bàn bạc” trong phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo ngày 11.5
cho thấy Bắc Kinh đã được báo cáo mật về sự xoay trục sang Hoa Kỳ của
ông Nguyễn Tấn Dũng nên họ quyết định phải sớm có hành động đối phó bằng
cách liên kết với phe chống Nguyễn Tấn Dũng ở trong nước.
“Cuộc
hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có bề ngoài làm giảm căng thẳng
và gia tằng hợp tác giữa hai nước, nhưng vẫn ngầm chứa ý đồ của Trung
Quốc lấn chiếm Việt Nam“
2. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được biết là người chống chính sách
bá quyền của Bắc Kinh. Khi nhậm chức vào tháng Bảy 2011, ông Sang đã
tuyên bố trước Quốc hội là ông quyết tâm bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ
quyền của đất nước. Chuyến công du ngoại quốc đầu tiên của ông là đi Ấn
Độ vào tháng Mười 2011 trong khi Tổng Bí thư lên đường sang Trung Quốc.
Mới hai tháng trước, ông Sang ra thăm ngư dân đảo Lý Sơn tỉnh Quảng
Ngãi, giúp đỡ nạn nhân bị tàu Trung Quốc tấn công và khuyến khích ngư
dân “yên tâm bám biển, đoàn kết tương trợ nhau để tránh thiên tai, địch
hoạ”. Cho đến nay, hai năm sau ngày nhậm chức, ông mới có chuyến công du
đầu tiên sang Trung Quốc. Sự kiện này có thể được hiểu là Tập Cận Bình,
muốn ngăn chặn Nguyễn Tấn Dũng chuyển hướng đối ngoại sang phía Mỹ, cần
phải trấn an Trương Tấn Sang và ủng hộ ông ta trong cuộc tranh giành
quyền lực với Nguyễn Tấn Dũng. Tập Cận Bình không mời Nguyễn Phú Trọng
vì ông này thân Trung Quốc quá lộ liễu và vì, trong trường hợp này, quan
hệ Việt-Trung nên được giải quyết giữa hai Chủ tịch nước. Trong khi đó,
dù không ưa Trung Quốc, Trương Tấn Sang vẫn cần phải dựa vào cường quốc
này để bảo vệ Đảng và chế độ. Do đó, hai bên đã cố gắng giảm bớt căng
thẳng, gia tăng hợp tác với kết quả là đôi bên cùng có lợi.
3. Một kịch bản khác là, trước nguy cơ Đảng suy sụp vì xung đột nội
bộ và trước xu hướng chung của quốc tế là phải kiềm chế chính sách bành
trướng ngang ngược của Trung Quốc, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có
thể đã đạt được đồng thuận giữa các bên là cân bằng lại chính sách
ngoại giao để không còn nghiêng về Trung Quốc. Bởi thế, trong khi tiếp
tục phát triển quan hệ hợp tác với Bắc Kinh, Hà Nội cũng gia tăng hợp
tác chiến lược với Hoa Kỳ và môt số cường quốc khác. Chính sách đu dây
này không có vấn đề gì đối với Hoa Kỳ vì nước này không có tham vọng xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ hay lãnh hải của một nước nào trong khu vực,
nhưng Trung Quốc từ mấy ngàn năm nay không bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính
và Hán hoá Việt Nam. Vì vậy chính sách cân bằng đối ngoại của Việt Nam
rất khó tồn tại lâu dài trước mối đe dọa thường trực của Trung Quốc, nếu
không có sự đảm bảo của quốc tế hay của một đối tác hợp tác chiến lược
quốc phòng như trường hợp Hoa Kỳ đối với Nhật bản hay Đài Loan. Ngoài
ra, kịch bản đồng thuận này của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chỉ
là một giả định, chưa có gì là chắc chắn.
‘Ý ngầm Trung Quốc’
Trở lại quan hệ Việt Nam-Trung Quốc sau cuộc hội đàm Tập Cận Bình –
Trương Tấn Sang, sự phát triển hợp tác theo chiều sâu và đẩy lên một
tầng cao mới được thể hiện trong bản Tuyên bố chung với 10 Văn kiện cụ
thể của “Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngoài việc phân tích những yếu tố chính trị đưa đến cuộc hội đàm Bình
– Sang, cần xem xét kỹ lưỡng 10 văn kiện đã ký để nhận ra những điểm
lợi hại cho Việt Nam trên từng lãnh vực hợp tác. Vì chưa được đọc các
văn kiện và vì giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể đưa ra một
số nhận định tổng quát về cơ sở và kết quả của cuộc hội đàm thượng đỉnh
song phương này:
“Lãnh
đạo cộng sản Việt Nam cần nhận biết rằng, thay vì theo sau Trung Quốc,
nếu họ chọn con đường dân chủ hoá trước Trung Quốc thì, với sự ủng hộ
của nhân dân và thế giới dân chủ, họ sẽ thành công trong sứ mệnh bảo vệ
và phát triển đất nước“
1. Cuộc hội đàm được diễn ra trên cơ sở của phương châm 16 chữ và
tinh thần 4 tốt là một cơ sở quá cũ đã được chứng tỏ là Việt Nam bị
Trung Quốc lường gạt bằng những lời hoa mỹ. Thực tế là Trung Quốc đã sử
dụng “sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái
với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền” đúng
như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ám chỉ trong bài diễn văn Shangri-La.
Lẽ ra, mục đích cuộc hội đàm phải là cải thiện quan hệ hợp tác giữa hai
nước bằng những cam kết ngưng tất cả mọi hành động áp đặt, đối xử bất
bình đẳng, không tôn trọng nhân đạo và luật lệ quốc tế. Bản Tuyên bố
không nhắc gì đến Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC) là một thiếu sót
do cố ý, rất hại cho Việt Nam và các nước ASEAN.
2. Một số thoả thuận có tính tích cực như thiết lập đường dây nóng về
các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, hợp tác
kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu, cho vay tín dụng
người mua ưu đãi cho dự án nhà máy Đạm than Ninh Bình. Vấn đề là việc
thi hành có được đảm bảo về hiệu quả hay không.
3. Thoả thuận có thể gây tranh cãi là mở rộng khu vực thăm dò chung
về dầu khí trên Vịnh Bắc Bộ. Cần xem xét lợi hại thế nào cho Việt Nam.
4. Văn kiện số 4 nói về tín dụng ưu đãi cho Dự án hệ thống thông tin
đường sắt. Thật ra thì đây là Dự án giao thông đường bộ cao tốc Bằng
Tường – Lạng Sơn – Hà Nội. Đường cao tốc nối liền Bằng Tường (tỉnh Quảng
Tây) với Hà Nội có lợi ích kinh tế nhưng cũng có thể nguy hiểm cho Việt
Nam nếu chẳng may xảy ra xung đột quân sự giữa hai nước.
5. Văn kiện số 5 về giao lưu văn hoá Việt – Trung, với nhữngTrung tâm
văn hoá nước này ở nước kia, có thể là con dao hai lưỡi nếu được Trung
Quốc sử dụng như một phương tiện đồng hoá dân tộc Việt.
Tóm lại, kết quả cuộc hội đàm Tập Cận Bình – Trương Tấn Sang có bề
ngoài làm giảm căng thẳng và gia tăng hợp tác giữa hai nước, nhưng vẫn
ngầm chứa ý đồ của Trung Quốc lấn chiếm Việt Nam. Trong khi đó, lãnh đạo
Việt Nam cứ lúng túng giữa một bên là ý muốn bảo vệ đảng và chế độ và
một bên là lòng bất mãn của nhân dân yêu nước và khát khao dân chủ đang
lên cao.
Lãnh đạo cộng sản Việt Nam cần nhận biết rằng, thay vì theo sau Trung
Quốc, nếu họ chọn con đường dân chủ hoá trước Trung Quốc thì, với sự
ủng hộ của nhân dân và thế giới dân chủ, họ sẽ thành công trong sứ mệnh
bảo vệ và phát triển đất nước. Hãy hoà giải với những người bất đồng
chính kiến, hãy lắng nghe và hợp tác với trí thức. Trung Quốc, nếu cũng
tự thay đổi chế độ từ độc tài sang dân chủ, sẽ không bị cô lập và được
thế giới đón nhận như một siêu cường. Khi đó họ cũng sẽ được sự kính
trọng và ủng hộ của các nước Á châu. Biển Đông sẽ êm lặng. Thế giới sẽ
hoà bình. Đây là cái message cần được gửi đến lãnh đạo và nhân dân Trung
Quốc.
Bài viết nêu quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một học giả gốc Việt đang sinh sống ở Hoa Kỳ.
Quân đội của ai?
Tác giả: Huỳnh Ngọc Tuấn
Tử Cống hỏi Khổng Tử về chính trị. Khổng Tử đáp:
- Đủ ăn, đủ binh và được dân tin cậy.
Tử Cống nói:
- Nếu phải bỏ đi một điều thì trong ba điều ấy điều nào có thể bỏ được?
Khổng Tử trả lời:
- Bỏ binh.
Tử Cống lại hỏi:
- Nếu còn phải bỏ đi điều nữa trong hai điều còn lại, điều nào có thể bỏ được?
Khổng Tử đáp:
- “Khứ thực, tự cổ nhân giai hữu tử, dân vô tín bất lập”, bỏ ăn, từ
xưa ai cũng phải chết, nhưng nếu dân bất tín thì chính trị không đứng
vững.
Đó là đoạn đối thoại giữa hai nhà minh triết Trung hoa về nghệ thuật
chính trị, nghệ thuật lãnh đạo. Qua đó chúng ta thấy rằng lòng dân là
một yếu tố căn bản trong một thể chế chính trị, có được sức mạnh quân
sự- kinh tế chưa hẳn có được lòng dân, nhưng một thể chế chính trị có
được lòng dân thì sẽ có được quân đội hùng mạnh và kinh tế phát triển
“Cái thực tế của chính trị là no đủ . Túc thực, túc binh. Nói rằng có
thể bỏ binh bỏ thực là phủ nhận thực tế sao? Cái nghĩa không phải vậy.
Bỏ binh đây có nghĩa là chớ đem binh đội biến thành móng vuốt của thống
trị”.
Đó là chính trị của Trung hoa, còn chính trị theo triết lý Việt thì sao?
Chính trị Việt thiên về văn tự, khi nói đến võ chỉ dùng hai chữ võ
công. Võ để chống xâm lược, để thực thi quốc phòng chính sách, không để
dùng làm qua nha. (Những quy luật trong chính trị Việt- Vũ tài Lục).
Vậy mà vừa qua trên BBC đưa tin:
“Đảng Cộng sản Việt Nam vừa chỉ đạo cho Quân đội phải nâng cao năng
lực điều hành và chỉ huy nhằm “xử lý các tình huống về an ninh chính trị
ở các địa phương đồng bộ và có hiệu quả hơn”.
Lãnh đạo ngành tuyên giáo của Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế
Huynh đã phát biểu như vậy trong bối cảnh các địa phương tại Việt Nam
tiếp tục bắt giữ những người viết bài phê phán chính quyền trên mạng
Internet”.
Từ cổ chí kim quân đội của bất cứ quốc gia nào cũng từ nhân dân mà
ra, được sự nuôi dưỡng của nhân dân và một lẽ tất nhiên là phục vụ nhân
dân.
Thời đại ngày nay ở các nước dân chủ văn minh, quân đội phải đứng ngoài chính trị hay có thể gọi là “phi chính trị” .
Được đặt dưới sự lãnh đạo của một chính phủ dân sự do người dân bầu
ra, quân đội không thiên về một đảng chính trị nào và tuyệt đối trung
thành với quốc gia và dân tộc, phục vụ quốc gia và dân tộc.
Vậy mà dưới thời đại Hồ chí Minh quân đội trở thành công cụ của đảng
CS, trung thành và phục vụ cho đảng CS, để một khi quyền lợi của đảng CS
và quốc gia mâu thuẫn người dân bất phục tùng nổi lên chống lại cái
đảng cầm quyền phản quốc hại dân thì quân đội lại được đảng sử dụng như
một công cụ để đàn áp nhân dân, bảo vệ đảng.
Như vậy đảng CS đã biến quân đội thành gia nô của mình.
Nhưng ý đồ của đảng có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào
quân đội, nếu quân đội ý thức được vị trí, giá trị và sứ mệnh cao quý
của mình là bảo vệ tổ quốc và nhân dân thì họ sẽ biết phải làm gì.
Những vị lãnh đạo của quân đội cũng vậy nếu họ ý thức được họ là
những người con của dân tộc Việt, trong con người họ còn lưu chuyển dòng
máu anh hùng của Bà Trưng bà Triệu, của Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Quang Trung thì tất họ sẽ biết phải làm gì, biết chọn cho
mình chỗ đứng nào trong lòng dân tộc và lịch sử Việt nam.
Tôi luôn hy vọng rằng trong quân đội hiện nay vẫn còn nhiều người có
tầm nhìn viễn đại, trong hàng ngũ bộ đội, sĩ quan và tướng lĩnh vẫn còn
rất nhiều người ý thức được họ là con em của dân từ nhân dân mà ra,
phục vụ nhân dân và tổ quốc là sứ mệnh và lý tưởng thiêng liêng của quân
đội.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội nhân dân VN, chúng ta đã từng thấy
sự dấn thân của tướng Trần Độ và hiện nay là tướng Nguyễn trọng Vĩnh,
hai vị tướng này đã chọn lựa đứng về phía dân tộc để hành xử tư cách làm
tướng của mình.
Trong chế độ độc tài đảng trị hiện nay việc chọn lựa đứng về phía
nhân dân không phải là một sự chọn lựa dễ dàng vì cho dù là tướng trong
quân đội họ vẫn còn có gia đình vợ con, sự an nguy của những người thân
của họ là một sự trói buộc phải cân nhắc.
Nhưng một khi thời cuộc biến động đặt ra những yêu cầu bức thiết thì
những con người này sẽ có cơ hội để vùng thoát khỏi sự chi phối của đảng
CS, họ sẽ đứng về phía nhân dân bằng cách hợp tác với những người đại
diện của dân để tìm được sự chính danh trong hành động.
Đảng CSVN ngày hôm nay đang bế tắc với những tranh giành quyền lực
nội bộ nên việc họ muốn kiểm soát và chi phối quân đội một cách toàn
diện là điều kiện sinh tử để đảng CS ngăn ngừa những cuộc binh biến có
thể xảy ra và sẵn sàng đàn áp và vô hiệu hóa sự nổi dậy của người dân
cũng là những mục tiêu mà đảng CS nhắm tới.
Nhưng việc dùng quân đội như vũ khí và nanh vúôt của chế độ để đàn áp nhân dân là biểu hiện sự khốn cùng của đảng CS.
Quân đội nhân dân VN hãy so sánh mình với quân đội các nước trong khu
vực và thế giới để biết thực trạng của mình chỉ là con tốt trong tay
đảng CS.
- Quân đội Thái Lan sẵn sàng can thiệp vào chính trị mỗi khi họ nhận
thấy một chính phủ dù là do dân bầu có xu hướng đi chệch với mục tiêu
dân chủ và đi ngược lại với quyền lợi quốc gia, nhưng họ không lợi dụng
sức mạnh và ưu thế của mình để biến thành quân phiệt như ta đã thấy.
Chỉ có một quân đội và một quốc gia luôn luôn vận động để trưởng thành về chính trị mới làm được như vậy.
- Còn quân đội Philippin đã có cách hành xử hoàn toàn khác với cách
hành xử thụ động và nhu nhược của quân đội VN trong việc bảo vệ chủ
quyền của đất nước trước tham vọng của Bắc kinh, mặc dù quân đội nước
này đang phải chật vật đối đầu với một cuộc nội chiến gây ra từ những
phần tử Hồi giáo và Cộng sản cực đoan.
Quân đội nhân dân VN không phải là bất tài và vô trách nhiệm, nhưng
họ đang bị bịt mắt để phục vụ cho chính sách nhu nhược của đảng CSVN
trong quan hệ với Trung cộng, bằng chứng là hai cuộc chiến tranh với
Trung cộng (1979 trên biên giới Việt –Trung và 1988 tại quần đảo Trường
sa) đã chứng minh điều đó.
Quân đội nhân dân VN đang bị đảng CS trói tay và biến thành công cụ đàn áp nhân dân, có nghĩa là quân đội đã bị đảng CS sĩ nhục.
Việc ông Trương tấn Sang công du Trung quốc lần này với những cam kết
về một sự “hợp tác chiến lược toàn diện” trên tinh thần “đồng chí anh
em” chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn vào hiểm họa lệ thuộc ngày càng nhiều
hơn vào Trung cộng mà thôi.
Để bảo vệ đất nước chúng ta cần một chiến lược ngoại giao hợp thời và
khôn khéo cộng với một quân đội hùng mạnh, độc lập và chuyên nghiệp.
Muốn làm được điều đó Việt nam phải “thoát xác” như Miến Điện để phá
vỡ thế cô lập chính trị hiện nay và thoát khỏi quỹ đạo của Trung cộng.
- Dân chủ hóa đất nước để tháo bỏ những rào cản hội nhập thế giới.
- Nâng mối quan hệ Việt – Mỹ lên tầm “ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN” để làm đối trọng với Trung quốc.
Vai trò của quân đội VN ngày hôm nay là góp phần định hình cho tiến trình dân chủ hóa VN.
Tóm lại quân đội muốn giữ được vị trí tôn quý của mình trong dòng
sinh mệnh dân tộc và thực hiện được sứ mệnh trọng đại của mình là phục
vụ Tổ quốc và nhân dân thì quân đội phải độc lập.
Quân đội muốn được tôn quý và độc lập thì phải ủng hộ việc xây dựng
một chế độ dân chủ đa đảng, để không phải lệ thuộc vào bất cứ một đảng
cầm quyền nào.
Quân đội chỉ làm nhiệm vụ quốc phòng và là một động lực để cân bằng chính trị.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt
Thất nghiệp ở Việt Nam thấp hơn các nước là ‘hoàn toàn đúng’
“Không thể so sánh tỷ lệ thất nghiệp
của Việt Nam với thế giới vì khái nhiệm thất nghiệp trong điều tra là
khác nhau”, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê -Đỗ Thức nhận định.
Trao đổi xung quanh vấn đề lao động – việc làm tại lễ
công bố số liệu 6 tháng, ngày 27/6, đại diện ngành thống kê cho biết
khái niệm thất nghiệp ở Việt Nam được hiểu là những người hoàn toàn
không làm việc trong 7 ngày, nếu làm việc một giờ cũng không thuộc dạng
thất nghiệp. “Thử hỏi như vậy, có ai trong 1 tuần không làm việc một giờ
hay không, do đó, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thấp là hoàn toàn
đúng”, ông Đỗ Thức phát biểu.
|
Ông Đỗ Thức – Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê. Ảnh: Huyền Thư |
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm
2013, tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,28%. Trước đó, năm 2012
tỷ lệ thất nghiệp chỉ ở 1,99%, giảm so với mức 2,8% và 2,2% của năm 2010
và 2011.
Giải thích cho việc tỷ lệ thất nghiệp năm nay lại tăng
lên trong khi năm trước giảm, lãnh đạo Tổng cục Thống kê cho rằng những
năm trước lao động chuyển từ khu vực chính thức sang phi chính thức với
điều kiện kinh doanh rất bấp bênh, song đến năm 2013, những người lao
động thấy khu vực này hiệu quả thấp nên họ chuyển sang không làm gì,
khiến cho tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên.
Trước đó, những băn khoăn về số liệu thất nghiệp được nói tới nhiều
khi đại biểu tỏ ý nghi ngờ về tính chính xác của con số này trên Quốc
hội. Cụ thể, tại phiên thảo luận Hội trường ngày 30/5, đại biểu Nguyễn
Văn Hiến cho rằng các con số như được cài đặt. Bởi với 50.000 doanh
nghiệp phá sản hoặc ngừng hoạt động, nhiều doanh nghiệp giảm quy mô thì
tỷ lệ thất nghiệp đáng ra phải tăng nhưng báo cáo cho thấy, tỷ lệ này
lại giảm dần trong 3 năm qua, từ 2,8% năm 2010 xuống 1,99% năm 2012.
Lý giải cho vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội – Phạm Thị Hải Chuyền cho rằng phần lớn doanh nghiệp mới
thành lập sử dụng lao động từ khu vực nông thôn chuyển sang, khi công ty
giải thể, phá sản, số lao động này lại quay về làm nông nghiệp.
Mặt khác, những đơn vị giải thể thường có quy mô nhỏ, chỉ có vài chục
đến vài trăm lao động, trong khi một số dự án lớn như Samsung có thể
thu hút số lao động gấp nhiều lần ở đơn vị vừa phá sản, bà chia sẻ.
Huyền Thư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét