Một sự im lặng khó hiểu
Dư luận Việt Nam đang đi bên lề thực tế
Một tuần sau Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc ngày 21/06/2013, không
thấy một bình luận nào được đưa ra để phân tích nội dung của bản tuyên
bố này.
Về phía chính quyền, chỉ vài người trong cuộc như ông Trương Tấn Sang,
chủ tịch nước, và ông Phạm Bình Minh, bộ trưởng ngoại giao, đã phải nhờ
báo chí nhà nước tổ chức phỏng vấn để biện hộ những gì đã thỏa thuận và
những văn bản đã ký; không một đại biểu quốc hội hay ủy viên trung ương
đảng nào thắc mắc hay yêu cầu giải thích. Về phía đối lập, không một
bình luận hay phân tích nào được đưa về bản tuyên bố. Một sự im lặng khó
hiểu!
Không lẽ người Việt Nam chỉ quan tâm đến những gì xảy ra trong hiện tai
và không cần biết những gì liên quan đến tương lai đất nước?
Nếu theo dõi kỹ những gì báo chí nhà nước đăng tải, người ta chỉ thấy
toàn những loại tin tức mang tính giới thiệu những quan chức lớn trong
guồng máy đảng và chính quyền, hay những tin tức về kinh tế, tai nạn
giao thông và hình sự mang tính giật gân để câu đọc giả.
Phía đối lập lại càng bết bát hơn, ưu tư chính của những người đấu
tranh, những blogger và tổ chức đối lập là biểu tình chống Trung Quốc và
bênh vực những người bị bắt và tố cáo chính quyền cộng sản Việt Nam vi
phạm nhân quyền, khuynh hướng chung là muốn anh hùng hóa những người bị
bắt vì dám chống đối chế độ. Không một tổ chức nào, hay một người nào có
thể đưa ra một chương trình tranh đấu và xây dựng đất nước mang tính
thuyết phục. Chỉ riêng thái độ anh hùng của Nguyễn Phương Uyên và Đinh
Vũ Kha trước tòa án cũng đã có hàng trăm bài ca ngợi. Cuộc tuyệt thực
của ông Cù Huy Hà Vũ trở thành đề tài chính của giới truyền thông trong
nhiều tuần.
Dư luận Việt Nam đang đi bên lề thực tế, và đây cũng chính là mong muốn
của chính quyền cộng sản Việt Nam để có thể rộng đường tự tung tự tác.
Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc ngày 21/06 vừa qua là một bằng chứng.
Không ai chú ý tới một quyết định quan trọng có thể ảnh hưởng lâu dài
tới tương lai Việt Nam và cũng rất khó thay đổi.
Cách đây 55 năm, ngày 14/09/1958, ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ký một công hàm "ghi nhận và tán thành
bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận, của Trung Quốc. Chính phủ nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
trên mặt bể". Không ai biết quyết định về hải phận của Trung Quốc gồm
những gì, nhưng chỉ vài dòng chữ thô thiển đó mà ngày nay chính quyền
cộng sản Việt Nam bị ngọng trong những đòi hỏi chủ quyển trên các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó chỉ là một công hàm đơn phương từ phía
Việt Nam, do một cấp lãnh đạo hành pháp ký, chứ chưa phải là một bản
Tuyên bố chung chính thức ký giữa hai cấp lãnh đạo tối cao của hai nước.
Lần này, những thỏa thuận quan trọng đã được công khai viết lên giấy
trắng mực đen, do đó khó có thể chối cãi nếu có một bên thay đổi ý kiến.
Hơn nữa, đây là một văn kiện mang tầm vóc quốc gia nên hậu quả của nó
ảnh hưởng đến 90 triệu người Việt Nam.
Nếu chịu khó đọc kỹ nội dung bản Tuyên bố chung ngày 21/06 vừa qua, chắc
chắn mọi người sẽ bàng hoàng trước những ký kết liên quan đến tương lai
của đất nước và để lại những hậu quả lâu dài cho nhiều thế hệ mai sau.
Trong nội dung Tuyên bố chung gồm 8 điểm, hai bên đã nhắc đi nhắc lại từ
"nhất trí" gần 30 lần về nhiều vấn đề nhằm làm sâu sắc thêm hợp tác
chiến lược toàn diện với Trung Quốc. Trả lời phỏng vấn ngày 23/06, ông
Phạm Bình Minh nói rằng chuyến đi Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang tái
khẳng định chính sách ngoại giao của Việt Nam độc lập, tự chủ và hợp
tác, nếu đọc kỹ nội dung bản Tuyên bố chung này không ai tin Việt Nam có
thể độc lập với Trung Quốc. Phía Việt Nam đã hoàn toàn nhất trí với nội
dung bản tuyên bố do Bắc Kinh soạn, trong đó chỉ đề cập đến những vấn
đề mà Bắc Kinh muốn tuyên bố.
Cho dù ông Trương Tấn Sang và ông Phạm Bình Minh có biện hộ là đã bảo vệ
không nhân nhượng chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông, nhưng Tuyên bố
chung không nhắc gì đến Hoàng Sa và Trường Sa. Thêm vào đó, bản Tuyên bố
chung chỉ đề cập tới "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông"
(DOC) mà Trung Quốc muốn duy trì và không nhắc nhở gìđến Bộ Quy tắc ứng
xử Biển Đông (COC) và tinh thần tôn trọng Công ước Liên hiệp quốc về
Luật biển (UNCLOS) 1982 mà Việt Nam vẫn thường nhắc tới trong các hội
thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông cũng như trong các lời tuyên bố của
Bộ Ngoại giao Việt Nam mỗi khi phản đối các hành động lấn lướt của Bắc
Kinh tại vùng biển giàu tài nguyên này. Điều này cho thấy hai ông Trương
Tấn Sang và Phạm Bình cố tình che giấu một sự thật: đó là chính quyền
cộng sản Việt Nam đang chuyển giao dần quyền lãnh đạo đất nước cho phía
Trung Quốc trên mọi lãnh vực.
Nội dung Tuyên bố chung 21/06/2013
Trước khi đi sâu vào phần nhận xét, tưởng cũng nên biết qua về nội dung 8 điểm của bản Tuyên bố chung. Sau đây là phần tóm lược.
Điểm 1 nhắc lại bối cảnh của chuyến viếng thăm, điểm 2 đi thẳng vào nội dung sự hợp tác.
Điểm 2, hai bên nhìn lại quá trình phát triển quan hệ Việt-Trung và nhất
trí duy trì tình hữu nghị Việt-Trung theo đúng phương châm 16 chữ vàng
và 4 tốt (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai" và "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác
tốt"), nghĩa là vẫn y như trước, không có gì thay đổi cho dù phía Việt
Nam có bị chèn ép trong các thương lượng về biên giới và lãnh hải.
Điểm 3, hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện
trong 13 lãnh vực trọng tâm sau đây. Các lãnh vực từ 1 đến 4 mang tính
chính trị và ngoại giao. Những lãnh vực sau đó liên quan đến toàn bộ
sinh hoạt bình thường của một quốc gia, trong đó phía Trung Quốc được
quyền tham gia trực tiếp, nghĩa là Việt Nam không có gì bí mật với Trung
Quốc.
- Duy trì tiếp xúc cấp cao giữa hai nước bằng mọi hình thức và phương tiện (thăm song phương, điện đàm, gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương...).
- Hai bên nhất trí tiếp tục sử dụng tốt "Phiên họp lần 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc" và thực hiện tốt "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" được ký kết trong chuyến thăm này.
- Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo, Tuyên truyền của hai Đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ, cùng nhau tổ chức tốt Hội thảo lý luận hai Đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng và quản lý đất nước, thúc đẩy xây dựng Đảng và đất nước ở mỗi nước.
- Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì trao đổi thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ Ngoại giao, tổ chức tham vấn ngoại giao thường niên và tăng cường giao lưu cấp Cục, Vụ giữa hai Bộ Ngoại giao.
- Hai bên nhất trí duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước (Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng Bộ Quốc phòng), trao đổi kinh nghiệm công tác Đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ; thực hiện tốt "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam-Trung Quốc" (sửa đổi) ký kết trong chuyến thăm này, tiếp tục triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền; làm sâu sắc thêm hợp tác biên phòng trên đất liền và trên biển, trong năm nay triển khai hai đợt tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ; tăng cường trao đổi và điều phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực; trao đổi nghiên cứu hình thức mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước.
- Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, giữ gìn trật tự trị an xã hội cũng như xây dựng năng lực thực thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực thi pháp luật chung trên các lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên giới hai nước. Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ quan cảnh sát biển hai nước.
- Hai bên nhất trí tăng cường điều phối chiến lược về phát triển kinh tế, thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, khoáng sản, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp tác khu vực "Hai hành lang, một vành đai"; thúc đẩy xây dựng các dự án hợp tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, khu công nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, khuyến khích doanh nghiệp nước mình sang nước kia đầu tư, tạo điều kiện an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư.
- Hai bên nhất trí tiếp tục làm sâu sắc thêm hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, tăng cường giao lưu khoa học kỹ thuật nông nghiệp và nâng cao năng lực trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Hai bên nhất trí tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, tổ chức tốt các hoạt động gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việ -Trung, diễn đàn nhân dân Việt-Trung…, tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị Việt-Trung để gia tăng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
- Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, khuyến khích và ủng hộ giới nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ hai nước triển khai hợp tác với nhiều hình thức như cùng nghiên cứu và phát triển, cùng xây dựng phòng thí nghiệm chung, chuyển giao công nghệ… trong các lĩnh vực hai bên quan tâm như nông nghiệp, công nghệ thông tin, năng lượng mới, bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước…
- Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế-thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển.
- Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước; thành lập Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới; thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cửa khẩu biên giới giữa hai nước; tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng của các cửa khẩu biên giới, cải thiện điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hóa, phương tiện qua cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hai bên nhất trí tổ chức vòng đàm phán mới "Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa sông Bắc Luân" và "Hiệp định về hợp tác và khai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc". Hai bên sẽ tăng cường trao đổi và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý sông suối biên giới, phòng chống thiên tai lũ lụt, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên sông suối xuyên biên giới.
- Hai bên tiếp tục thực hiện tốt "Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ"; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ.
Điểm 4. Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên
biển, nhất trí việc Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối
thoại thường xuyên về vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, chỉ đạo và
thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến
lược và đại cục quan hệ hai nước.
Hai bên nhất trí dựa trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm
tiến, gia tăng cường độ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới
Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh
Bắc Bộ. Hai bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng
quản lý. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình
và ổn định ở Biển Đông.
Điểm 5. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước
Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập"
dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức
nào với Đài Loan.
Điểm 6. Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn
đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, Diễn
đàn khu vực ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị cấp
cao ASEAN và Trung - Nhật - Hàn, Hội nghị cấp cao Đông Á..., cùng nhau
duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Điểm 7. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký 10 văn kiện chiến lược hợp btác toàn diện:
- "Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc",
- "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Trung Quốc" (sửa đổi),
- "Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển",
- "Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu",
- "Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc",
- "Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hóa tại hai nước",
- "Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2013-2017 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc",
- "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ",
- và nhiều văn kiện hợp tác kinh tế khác (từ 8 đến 10).
Điểm 8. Hai bên nhất trí cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.
(Làm tại Bắc Kinh, ngày 21 tháng 6 năm 2013)
Thấy gì qua bản Tuyên bố chung ngày 21/06/2013?
Theo bản Tuyên bố chung, "các cuộc thảo luận đã diễn ra trong không khí
thẳng thắn, hữu nghị, lãnh đạo hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt
nhận thức chung rộng rãi về việc, làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược
toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế
và khu vực cùng quan tâm". Xác nhận này không thuyết phục vì thời gian
thảo luận những vấn đề hệ trọng liên quan đến tương lai đất nước trong
vài ngày chắc chắn là không đủ. Chắc chắn nội dung của những thỏa thuận
đã được hai bên trao đổi và thảo luận từ lâu, chuyến viếng thăm này chỉ
là để ký kết những gì đã đồng ý từ trước.
Nhiều câu hỏi đặt ra là:
- Ông Trương Tấn Sang được ai, hay định chế nào cho phép, hay ủy quyền ký những văn bản hệ trông liên quan đến tương lai Việt Nam?
- Bộ Chính trị (tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), Quốc hội (chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng) và Chính phủ (thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) đã có những nhận xét nào về nội dung bản Tuyên bố chung?
- Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp và thảo luận về nội dung bản Tuyên bố chung này bao nhiêu lần? Nếu có, tại sao không công bố trước quốc dân?
- Tại sao không công bố nội dung những văn kiện vừa ký với Trung Quốc?
- Có bao nhiêu người trong đảng và chính quyền cộng sản, đúng ra là có bao nhiêu trung ương ủy viên (175 chính thức và 25 dự khuyết) được tham khảo nội dung những văn kiện thỏa thuận vừa ký này?
- Về phía "đại diện dân", tức những đại biểu quốc hội, có bao nhiêu người được hỏi ý kiến về những văn kiện vửa được ký kết?
Trong 8 điểm của bản Tuyên bố chung, trừ điểm 1, nội dung 7 điểm còn lại
đề cập đến sự hợp tác trong mọi lãnh vực từ sự hợp tác giữa hai Đảng,
giữa Bộ Ngoại giao hai nước, giữa quân đội hai nước đến chiến lược hợp
tác trong các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, văn hóa, khoa học công
nghệ.
Riêng trong điểm 3, nội dung hai lãnh vực 5, 6 và 7, và từ 11 đến 13 rất đáng lo ngại.
- Trong lãnh vực 5: "Hai bên nhất trí duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước (Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng Bộ Quốc phòng), trao đổi kinh nghiệm công tác Đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ; thực hiện tốt "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam-Trung Quốc" (sửa đổi) ký kết trong chuyến thăm này, tiếp tục triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền; làm sâu sắc thêm hợp tác biên phòng trên đất liền và trên biển, trong năm nay triển khai hai đợt tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ; tăng cường trao đổi và điều phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực; trao đổi nghiên cứu hình thức mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước". Làm sao bảo vệ bí mật và khả năng chiến đấu khi quân nhân Trung Quốc biết rõ và nắm vững cách đối phó của quân đội Việt Nam khi hữu sự? Đó là chưa kể khả năng Trung Quốc uỷ thác Việt Nam mua những loại vũ khí hiện đại của các quốc gia phương Tây, vì Trung Quốc vẫn còn bị cấm vận, để sau đó chuyển giao lại cho Trung Quốc.
- Trong lãnh vực 6: "Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, giữ gìn trật tự trị an xã hội cũng như xây dựng năng lực thực thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực thi pháp luật chung trên các lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên giới hai nước. Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ quan cảnh sát biển hai nước". Trên nguyên tắc, quyền tự quyết của một quốc gia thể hiện qua hệ thống pháp luật và pháp lý riêng, không thể có hợp tác để thực thi pháp luật và an ninh chung của quốc gia này trên quốc gia kia. Rõ ràng đây là một can thiệp trắng trợn vào nội tình của quốc gia khác, hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam. Điều này thể hiện qua những vụ bắt bớ và truy tố những người xuống đường biểu tình chống Trung Quốc với những bản án năng nề về tội danh "chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Tại Việt Nam hiện nay, chống Trung Quốc là chống nhà nước Việt Nam.
- Trong lãnh vực 7: "Hai bên thúc đẩy thúc đẩy xây dựng các dự án hợp tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, khu công nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, khuyến khích doanh nghiệp nước mình sang nước kia đầu tư, tạo điều kiện an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư". Những thỏa thuận này chỉ có lợi cho Trung Quốc chứ không mang lại lợi ích nào cho kinh tế Việt Nam, vì doanh nhân Việt Nam không có vốn đểsang Trung Quốc đầu tư. Hơn nữa trong lãnh vực này, Trung Quốc có quyền đến khai thác năng lượng ngoài khơi Việt Nam vì đó là hợp tác năng lượng, và khi đã vào rồi thì sẽ không chịu ra và còn cố ý ở lại để chiếm giữ luôn, như họ đã làm trên đất liền tại những nơi đã được cấp nhượng khai thác, như trồng cây ở những vùng đầu nguồn Việt Bắc và bauxite Tây Nguyên.
- Trong lãnh vực 11: "Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh) với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế-thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển". Ai hay cơ chế nào trong chính quyền cộng sản Việt Nam hiện nay đã thảo luận về sự thành lập khu biên giới tự trị này? Hậu ý lâu dài của sự hình thành khu vực này có nhằm khuyến khích 7 tỉnh biên giới của Việt Nam thành một khu tự trị thoát khỏi sự chỉ đạo của Hà Nội? Kinh nghiệm đau thương của những khu tự trị Thái Mèo (1956-1959), Việt Bắc (1956-1959) hay Cao Bắc Lạng cũ và Lào Hạ Yên (1957-1959) vẫn còn đó, ngay sau khi được hưởng qui chế tự trị những cấp lãnh đạo địa phương đã mang toàn bộ lãnh thổ dưới quyền cai trị của mình xin gia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Nếu lãnh đạo 7 tỉnh biên giới Việt Nam xin hội nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, Hà Nội dám đưa quân lên chiếm lại hay không?
Trong những lãnh vực 12 và 13, gồm các mục hợp tác dọc vùng biên giới
đất liền, hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ. Rõ ràng đây là cuộc xâm
lược không gây ra chiến tranh. Trong hai lãnh vực này, phía Việt Nam vừa
thiếu vốn vừa thiếu phưong tiện thì làm sao có thể cạnh tranh với những
công ty, xí nghiệp Trung Quốc dọc vùng biên giới và khai thác nghề cá
trong Vịnh Bắc Bộ?
Riêng Điểm 5 thì khó có thể khẳng định chính sách ngoại giao độc lập của
Việt Nam như ông Phạm Bình Minh xác nhận. Nếu là một nền ngoại giao đỗc
lập thì không thể có những khẳng định chắc nịch về một chính sách nội
bộ của Trung Quốc, như "khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một
nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa
bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc", và cũng không thể "kiên
quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức".
Nếu là một quốc gia độc lập, chính quyền Việt Nam không thể tuyên bố
"không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan", vì không
đúng với sự thực: hiện nay doanh nhân Đài Loan tự do đến Việt Nam đầu
tư, cô dâu Việt Nam được tự do lấy chồng Đài Loan và hiện nay có hàng
trăm ngàn người Việt Nam được đưa sang Đài Loan lao động. Hơn nữa nếu là
một quốc gia độc lập, bản Tuyên chung chung không thể có câu "Phía
Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam", vì đây rõ ràng là
lời khen của một kẻ cả.
Nói tóm lại, qua Tuyên bố chung này, khó có thể biện bạch Việt Nam là
một quốc gia độc lập với Trung Quốc, nếu không muốn nói chính quyền cộng
sản Việt Nam đang chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước sang tay người
Trung Quốc. Theo nội dung của bản Truyên bố chung, Trung Quốc có quyền
tham gia vào tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt chính trị và kinh tế của Việt
Nam, trong khi đó phía Việt Nam không thể và cũng không đủ điều kiện để
tham gia ngược lại.
Những người tranh đấu vì tự do và dân chủ cho Việt Nam, hãy vượt lên
trên những ưu tư hạn hẹp về nhân thân của mình để lên tiếng tố cáo ban
lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đang chuyển giao chủ quyền đất nước cho
ngoại bang. Phải lên tiếng và mạnh dạn lên tiếng
Nguyễn Văn Huy
(Thông luận)
Cảnh giác với những khoản vay từ Trung Quốc
Chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 19/6 đến 21/6 vừa qua của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận trong bối cảnh
tình hình khu vực đang nóng lên trước một Trung Quốc không ngừng trỗi
dậy mạnh mẽ và ngày càng bộc lộ cuồng vọng bá quyền khiến cả thế giới
phải dè chừng.
Một trong những “món quà” của Trung Quốc mà phái đoàn Việt Nam mang về
nước là khoản vay ưu đãi 320 triệu nhân dân tệ cho dự án hệ thống thông
tin đường sắt và một hiệp định cho vay khác dành cho dự án nhà máy đạm
than Ninh Bình trị giá 45 triệu USD.
Việc các quốc gia phát triển cao hơn dành những khoản viện trợ phát
triển hay tín dụng ưu đãi cho những quốc gia có trình độ phát triển thấp
hơn là một điều bình thường xưa nay. Kể từ khi bắt đầu “đổi mới”, mở
cửa đến nay, cộng đồng quốc tế vẫn thường dành cho Việt Nam sự hỗ trợ
như thế, đặc biệt là các khoản vay ưu đãi.
Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, kèm theo những khoản vay đó là những
điều kiện mà bên cho vay đặt ra. Có những điều kiện có lợi cho Việt Nam,
chẳng hạn như yêu cầu về sự công khai, minh bạch trong quá trình thực
hiện dự án liên quan; có những điều kiện có lợi cho quốc gia cho vay: ưu
tiên nhập máy móc thiết bị từ nước họ hoặc trao các gói thầu cho nhà
thầu của họ. Những khoản vay đến từ các quốc gia phát triển thường đem
lại hiệu quả thiết thực cho Việt Nam, bởi ngay cả điều kiện có lợi cho
bên cho vay thì nhìn chung cũng chấp nhận được nếu xét đến trình độ khoa
học – công nghệ và quản lý hàng đầu thế giới của họ.
Và những hệ luỵ khó lường
Đáng tiếc là thực tế trên đây lại không đúng với với người láng giềng “4
tốt, 16 chữ vàng” của Việt Nam. Người ta thường nói: “Chẳng ai cho
không ai cái gì”. Câu châm ngôn này xem ra rất đúng với Trung Quốc, và
càng đặc biệt đúng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc kể từ
khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1950.
Ngược dòng thời gian, ngay từ những năm 1950, khi mà mối quan hệ “vừa là
đồng chí, vừa là anh em” của hai quốc gia cộng sản đang ở thời kỳ
“trăng mật”, Trung Quốc đã lợi dụng danh nghĩa “giúp” Việt Nam để lấn
chiếm lãnh thổ với đủ mọi thủ đoạn khác nhau.
Với những toan tính chiến lược thể hiện đúng “bản sắc” của mình, Trung
Quốc luôn quan tâm đến các dự án hạ tầng quan trọng ở Việt Nam. Và họ
hiện là nhà thầu thống trị các dự án trọng điểm quốc gia của Việt Nam;
đồng thời, họ cũng rất “nổi tiếng” về chất lượng và tiến độ thực hiện
các dự án đó. Thủ thuật thông thường của họ là đưa ra giá đấu thầu thật
thấp để trúng thầu rồi sau đó sẽ tìm đủ mọi cách hòng kiếm chác, để lại
những thiệt hại không thể đong đếm cho phía Việt Nam, cả về kinh tế lẫn
an ninh – quốc phòng. Ngoài ra, một lá bài rất hữu hiệu khác mà họ hay
sử dụng là “cho vay ưu đãi” hoặc “thu xếp vốn” để được giao thực hiện dự
án, đặc biệt là những dự án nhạy cảm về an ninh – quốc phòng.
Ví dụ điển hình ở đây là dự án đường sắt đô thị của Tp Hà Nội, tuyến Cát
Linh – Hà Đông. Tuyến đường sắt trên cao này được khởi công ngày
10/10/2011, với tổng mức đầu tư 533 triệu USD, trong đó nguồn vốn vay
của Trung Quốc là 419 triệu USD. Không chỉ tổng thầu EPC của dự án là
công ty Trung Quốc (Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc)
được chỉ định thầu mà nhà thầu tư vấn giám sát thi công và lắp đặt
thiết bị cũng là một công ty Trung Quốc nốt (Công ty TNHH Giám sát Xây
dựng Viện Nghiên cứu Thiết kế Công trình Đường sắt Bắc Kinh). Với một dự
án rất nhạy cảm về an ninh – quốc phòng như vậy thì đây quả là điều hết
sức khó chấp nhận, nhất là khi chúng ta biết rằng công nghệ đường sắt
của Trung Quốc còn kém xa thế giới, mà vụ tai nạn tàu cao tốc thảm khốc
ngày 23/7/2011 tại Ôn Châu (Triết Giang, TQ) là một minh chứng rõ ràng.
Dự án hệ thống thông tin đường sắt nói trên hầu như chắc chắn sẽ lọt vào
tay nhà thầu Trung Quốc. Họ sẽ kéo theo một lô một lốc những công nghệ,
thiết bị và cả con người sang Việt Nam để thực công trình biểu tượng
cho “tình hữu nghị thắm thiết” này.
Và rồi chúng ta không chỉ phải đối mặt với một khả năng rất lớn là chất
lượng hệ thống thông tin đường sắt không đảm bảo như ý muốn mà cả những
mối đe doạ tiềm ẩn liên quan đến an ninh quốc gia. Bởi một khi xung đột
giữa hai nước nổ ra – điều xem ra không dễ tránh khỏi trước cuồng vọng
bành trướng không hề che dấu của Trung Quốc trên Biển Đông – thì với
“biệt tài” của mình, người “bạn tốt” của chúng ta hoàn toàn đủ khả năng
làm tê liệt toàn bộ hệ thống đường sắt của Việt Nam. Thiết tưởng vụ mất
điện toàn miền Nam chiều ngày 22.5 vừa qua là một lời cảnh tỉnh cho
những ai còn mơ hồ về một mối đe doạ khủng khiếp khi mà Việt Nam gần như
đã dâng cả ngành điện lực cho Trung Quốc suốt nhiều năm qua.
L.A.H.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
***
Vị đắng khi lệ thuộc vốn vay Trung Quốc
Tác giả: PHẠM HUYỀN | 10/01/2011 |
(VEF) – Nhiều dự án của Việt Nam phải thuê nhà thầu Trung Quốc bởi một
lý do “bất khả kháng”: nguồn vốn vay từ chính Trung Quốc. Và khi dự án
có vấn đề về chất lượng thì các chủ đầu tư Việt Nam chỉ còn nước “ngậm
bồ hòn làm ngọt”
Cái khó xử khi nhận vốn của Trung Quốc
Trung Quốc không phải là nước thuộc nhóm cung cấp vốn hỗ trợ phát triển
ODA lớn cho Việt Nam, cũng không phải là nước bỏ vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) thuộc TOP 10 ở Việt Nam.
Nếu tính theo số các dự án FDI còn hiệu lực, hơn 20 năm qua, FDI từ
Trung Quốc chỉ có 3,184 tỷ USD, đứng thứ 14 và chiếm 4% tổng vốn FDI
của 92 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đến Việt Nam. Riêng năm 2010, Trung
Quốc đứng thứ 11 với tổng vốn 364,6 triệu USD, chỉ chiếm hơn 1% tổng
vốn FDI cả năm của Việt Nam.
Thế nhưng, thực chất, dòng vốn Trung Quốc chảy vào Việt Nam lại không hề nhỏ.
Cho tới nay, chưa có bộ ngành nào thống kê cụ thể, Việt Nam đã vay bao
nhiêu tiền của Trung Quốc. Chỉ thấy rằng, ở hầu khắp các ngành công
nghiệp, năng lượng của Việt Nam, vốn vay ưu đãi lãi suất thấp từ Trung
Quốc đang đóng vai trò rất quan trọng, chủ yếu là từ đầu mối Ngân hàng
Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).
Đơn cử như ở ngành điện, trong tổng số 9 dự án nhiệt điện do Tập đoàn
Than – Khoáng sản làm chủ đầu tư, hiện có 4 dự án vay vốn tín dụng xuất
khẩu hoặc ODA của Trung Quốc.
Đó là các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ
yếu vay tín dụng xuất khẩu của ngân hàng China Eximbank. Dự án có tổng
vốn đầu tư ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng. Các dự án điện của Tập đoàn
Điện lực Việt Nam (EVN) cũng vay từ ngân hàng này không hề ít, ví dụ như
dự án nhiệt điện Quảng Ninh 1 và 2, dự án Hải Phòng 1 và 2, dự án nhiệt
điện Uông Bí mở rộng…
Mới đây nhất, 18/12/2010, Bộ Tài chính cũng đã ký hiệp định vay 300
triệu USD với China Eximbank cho dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (2 x600MW).
Trung bình mỗi dự án điện công suất 300MW trở lên của Việt Nam có tổng
vốn đầu tư trên 500 triệu USD. Nếu dự án vay từ China Eximbank thì nguồn
vốn này thường chiếm khoảng 85% tổng vốn đầu tư.
Như vậy, ước tính, tổng vốn vay của Trung Quốc chỉ riêng cho ngành điện Việt Nam đã là con số hàng tỷ USD.
Không chỉ là ngành điện, nguồn tín dụng ưu đãi của Eximbank còn có mặt ở
nhiều dự án trọng điểm của các ngành công nghiệp khác. Ví dụ như ngành
hóa chất với dự án đạm từ than cám Ninh Bình do Tổng công ty Hóa chất
Việt Nam làm chủ đầu tư, cũng sử dụng nguồn vốn 500 triệu USD theo hiệp
định tín dụng xuất khẩu ký với Trung Quốc. Dự án sản xuất khuôn mẫu và
trục in nhựa của Tổng công ty Nhựa Việt Nam cũng vay tín dụng ưu đãi của
Chính phủ Trung Quốc trị giá 50 triệu Nhân dân tệ.
Trao đổi với PV. VEF, một lãnh đạo ở Bộ Công Thương từng chia sẻ, khi
các nhà thầu Trung Quốc vào Việt Nam, nhận thấy điểm yếu là thiếu vốn,
họ nhanh chóng đặt vấn đề: nếu phía Trung Quốc lo thu xếp vốn được cho
dự án thì bù lại, hãy giao dự án đó để họ làm.
Với một lời đề nghị hấp dẫn như vậy thì quả thực, các chủ đầu tư Việt
Nam khó lòng từ chối. Theo thông lệ quốc tế, khi đã nhận vốn vay của một
nước, chủ đầu tư sẽ phải tổ chức đấu thầu hạn chế, chỉ mở thầu cho các
nhà thầu nước cho vay tham gia. Đó là lý do bất khả kháng để các dự án
lớn trên của Việt Nam phải chọn nhà thầu Trung Quốc và nhập khẩu lớn
thiết bị, máy móc của nước này.
Trở đi mắc núi, trở lại mắc sông
Nhưng lẽ thường, sự hấp dẫn của một chính sách về vốn như vậy bao giờ
cũng có tính hai mặt. Chính sách vay vốn của Trung Quốc có thể rất
thông thoáng, nhưng đôi khi, cũng có vị đắng mà các chủ đầu tư Việt Nam
chỉ còn nước “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Một chuyên gia trong ngành cắt nghĩa với VEF rằng, ngân hàng của Trung
Quốc – với tư cách là người thẩm định hồ sơ vay vốn, có quyền kiểm duyệt
các điều kiện kỹ thuật trong dự án. Điều kiện đó liệu thích hợp với các
nhà thầu của nước họ không? Từ đó, họ có quyền đòi hỏi phải hạ thấp một
số tiêu chí để các nhà thầu Trung Quốc có cơ hội tham gia thì mới cho
vay vốn.
Với kinh nghiệm 30 năm trong ngành điện, vị chuyên gia này phân tích,
giả dụ hiệu suất lò hơi nhiệt điện trong hồ sơ mời thầu một dự án nhiệt
điện than, nếu chỉ nâng lên 1% để đảm bảo chất lượng, thì ngay lập tức,
hàng loạt các nhà thầu Trung Quốc sẽ bị rớt vì không đạt yêu cầu. Nhưng,
chỉ cần hạ 1% hiệu suất lò hơi theo đề nghị của Ngân hàng Trung Quốc,
giá thành máy móc, thiết bị đã giảm tới 20-30% . Vì yếu tố kinh tế đó,
thông thường, cả bên đi vay và bên cho vay đều chấp nhận.
Một đặc điểm khác, theo vị chuyên gia này quan sát, trong hồ sơ mời thầu
các dự án nhiệt điện, nếu chú trọng chất lượng, bao giờ cũng có
câu,“yêu cầu thiết bị G7 hoặc chất lượng tương đương”. Nhưng với nhiều
dự án nhiệt điện mà vay vốn Trung Quốc thì thường, những dòng chữ ghi
điều kiện như vậy sẽ bị gạch bỏ. Đến khi dự án đi vào triển khai, chủ
đầu tư Việt Nam sẽ vô cùng khó xử khi rơi vào tình huống phải chấp nhận
các thiết bị kém chất lượng một cách miễn cưỡng.
Vị chuyên gia giám sát kỹ thuật tại một dự án nhiệt điện chia sẻ, căn cứ
để giám sát chất lượng thiết bị nhập cho dự án chỉ có duy nhất 1 tờ
giấy do nhà thầu cung cấp với tiêu đề “QUALITY CERTIFICATE”, gọi là
phiếu chất lượng. Nhưng, hình thức trình bày và nội dung thông tin lại
rất sơ sài.
Ở tờ phiếu chất lượng này, chỉ có tên thiết bị, nhà máy sản xuất, mã số
đóng gói, mã số đặt hàng và dòng chữ đề thiết bị đã đạt chuẩn của nhà
máy…, không có thông tin căn cứ theo một tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia
nào. Phần ký xác nhận phiếu, lúc là giám đốc nhà máy ở Trung Quốc, lúc
là một cán bộ thay mặt giám đốc ký.
Vị kỹ sư tại dự án này nhận định, các phiếu này giống như phiếu xuất
xưởng. Nó đơn giản tới mức chẳng cần in phiếu ở Trung Quốc mà có thể in
ra ngay tại công trường Việt Nam như một loại văn bản thông thường.
Trong khi đó, hợp đồng ký với nhà thầu Trung Quốc thường chỉ ghi, thiết
bị đến công trường phải có “phiếu chất lượng”, nhưng không mô tả rõ,
phiếu chất lượng ấy như thế nào. Rốt cục, khi các tài liệu chứng nhận
chất lượng chỉ vỏn vẹn có thế, chính những người gác cửa về chất lượng
dự án trở nên tù mù, bó tay để thẩm định thiết bị, và chỉ khi nhà máy
vận hành, phát sinh trục trặc mới biết thiết bị … kém cỡ nào.
Ban đầu, các giám sát viên có thể từ chối không nghiệm thu thiết bị kém
chất lượng, nhưng rồi xảy ra tranh luận với nhà thầu và những áp lực từ
nhiều phía… cộng với việc nhà máy lại vay vốn của chính Trung Quốc, các
giám sát kỹ thuật của Việt Nam sẽ buộc “phải” nghiệm thu công trình dù
chưa đạt yêu cầu. Bởi theo vị chuyên gia này, nếu không nghiệm thu thiết
bị, vấn đề giải ngân vốn của dự án cũng gặp khó khăn.
Thực tế này cũng đã xảy ra với nhiệt điện Cao Ngạn cách đây 3 năm. Mặc
dù nghiệm thu bàn giao cho chủ đầu tư rồi, nhưng nhà máy này đã phải
hoạt động trong tình trạng vừa chạy, vừa sửa chữa, cải tiến tiếp.
Từng trả lời trên VEF, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho
rằng, phải tăng cường khâu giám sát thiết bị của Trung Quốc đến công
trường, nhưng những câu chuyện trên đã cho thấy, khi chủ đầu tư lại là
người đi vay của phía nước nhà thầu thì mọi sự thật khó. Việc nhận bàn
giao nhà máy điện hay không đã biến thành câu chuyện trở đi mắc núi, trở
lại mắc sông.
Nguồn: VEF
Nguyễn Văn Tuấn - Sự chênh lệch của những bản án
Thế là cô hoa hậu Võ Mỹ Xuân, người bị tội bán dâm và môi giới bán dâm,
bị phạt 30 tháng tù. Đọc tường trình của giới báo chí và nhìn qua những
bức hình trong phiên toà, tôi thấy phiên toà của Mỹ Xuân rất khác với
các phiên toà liên quan đến Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, và Phương
Uyên. Những phiên toà liên quan đến chống Tàu, thì cảnh sát dày đặt,
sóng điện thoại bị mất một cách huyền bí, loa bị rè một cách khó giải
thích, hay khi bị cáo lên tiếng nói thì loa có khi bị mất tiếng, v.v.
Nhưng phiên toà liên quan đến sex thì tất cả những “yếu tố nhiễu” trên
đều không có. Phóng viên chụp hình thoải mái. Những phiên toà liên quan
đến chống Tàu thì báo chí chỉ đưa tin sau khi tuyên án, còn phiên toà
liên quan đến sex thì báo chí đưa tin rầm rộ trước và sau khi tuyên án.
Những khác biệt rất thú vị này cho thấy Nhà nước VN vẫn còn rất “tế nhị”
với những vụ án chống Tàu và rất thoải mái với sex, có lẽ sex vui hơn
chống Tàu.
Tôi tò mò làm một bảng so sánh về thời gian ngồi tù của những người được báo chí nhắc đến nhiều trong thời gian qua thì thấy như sau:
Võ Mỹ Xuân (bán dâm): 2.5 năm tù.
Nguyễn Thanh Thuý (bán dâm): 2.5 năm tù
Nguyễn Thuý Hằng (bán dâm): 3 năm tù
Sầm Đức Sương (mua dâm): 9 năm tù
Nguyễn Trường Tô (mua dâm): 0 năm tù – thật ra ông này không ra toà.
Ngô Tuấn Dũng (hiếp dân): 2 năm tù
Trần Huỳnh Duy Thức (chính trị): 16 năm tù
Nguyễn Tiến Trung (chính trị): 7 năm tù
Cù Huy Hà Vũ (chính trị, chống Tàu): 7 năm tù
Nguyễn Phương Uyên (chống Tàu): 6 năm tù
Đinh Nguyên Kha (chống Tàu) 10 năm tù
Phạm Thanh Bình (kinh tế): 20 năm tù giam
Huỳnh Ngọc Sĩ (kinh tế): 20 năm tù giam
Trương Ngọc Quyền (trộm vịt): 5 năm tù
Vy Hoàng Bảo Hưng (trộm vịt): 4 năm tù
Vy Kim Long (trộm vịt): 4 năm tù
Thân Văn Vĩnh (trộm trâu): 14 năm tù
Lê Văn Quyền (trộm trâu): 14 năm tù
Bùi Xuân Hương (trộm trâu): 12 năm tù
Bảng trên cho thấy một vài xu hướng thú vị. Tội kinh tế hình như bị phạt nặng nhất. Người mang tội bán dâm có thời gian ngồi tù ngắn hơn những người mang tội chính trị và kinh tế. Đặc biệt là chống Tàu cũng là một tội, và hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị phạt tổng cộng 16 năm tù! Chống Tàu có án phạt nặng hơn tội bán dâm.
Nhưng ngạc nhiên là ăn cắp vịt (để nhậu) mà tội còn nặng hơn cả tội bán dâm. Đó trường hợp của 3 người tên Quyền, Bảo và Long, bị phạt tổng cộng 13 năm tù. Do đó, báo chí có lần kêu lên rằng “một con vịt đổi 132 tháng tù giam”. Ăn cắp trâu tội thậm chí còn nặng hơn ăn cắp vịt, có người bị phạt đến 14 năm tù!
Dĩ nhiên, những con số trên đây không nói lên hết tình tiết và hoàn cảnh đằng sau mỗi vụ án và những qui định của luật pháp. Nhưng những con số trên đây cho thấy mức độ án phạt của toà án Việt Nam có vấn đề, vì khoảng cách quá lớn giữa các hình phạt, đặc biệt là tội trộm cắp. Ở nước ngoài, những khác biệt về án phạt được gọi là sentencing disparity, và là một đề tài nghiên cứu của giới khoa học xã hội.
Ở Mĩ, ngay cả cùng một ông chánh án và cùng một tội danh và tình tiết mà mức độ án phạt cũng khác nhau từ 6-12 tháng! Mức độ khác biệt giữa các chánh án thì còn lớn hơn nữa. Có người thốt lên rằng khi phạm nhân ra toà thì mức độ phạt cũng chịu tác động bởi yếu tố ngẫu nhiên. Yếu tố ngẫu nhiên có thể là do tâm tính, suy nghĩ, quan điểm, v.v. của người xử án ngay thời điểm xử hay đơn giản là con người “nhân vô thập toàn”. Ở Mĩ mà còn như thế thì ở VN, nơi mà các chánh án và luật sư chưa được đào tạo bài bản và toàn là người của đảng, thì các “yếu tố ngẫu nhiên” chắc còn có tác động kinh hơn nữa, và hệ quả là phạm nhân phải chịu bất công. Chưa thấy ai làm nghiên cứu (như ở ngoài này) về mối tương quan giữa mức độ phạt tù và tội phạm, và tính reproducibility (độ tin cậy, tái lập) của các chánh án. Tôi nghĩ một phân tích như thế rất cần thiết và có thể cung cấp những dữ liệu dẫn đến cải cách.
Nguyễn Văn Tuấn
29.06.2013
(Blog Nguyễn Văn Tuấn)
Tôi tò mò làm một bảng so sánh về thời gian ngồi tù của những người được báo chí nhắc đến nhiều trong thời gian qua thì thấy như sau:
Võ Mỹ Xuân (bán dâm): 2.5 năm tù.
Nguyễn Thanh Thuý (bán dâm): 2.5 năm tù
Nguyễn Thuý Hằng (bán dâm): 3 năm tù
Sầm Đức Sương (mua dâm): 9 năm tù
Nguyễn Trường Tô (mua dâm): 0 năm tù – thật ra ông này không ra toà.
Ngô Tuấn Dũng (hiếp dân): 2 năm tù
Trần Huỳnh Duy Thức (chính trị): 16 năm tù
Nguyễn Tiến Trung (chính trị): 7 năm tù
Cù Huy Hà Vũ (chính trị, chống Tàu): 7 năm tù
Nguyễn Phương Uyên (chống Tàu): 6 năm tù
Đinh Nguyên Kha (chống Tàu) 10 năm tù
Phạm Thanh Bình (kinh tế): 20 năm tù giam
Huỳnh Ngọc Sĩ (kinh tế): 20 năm tù giam
Trương Ngọc Quyền (trộm vịt): 5 năm tù
Vy Hoàng Bảo Hưng (trộm vịt): 4 năm tù
Vy Kim Long (trộm vịt): 4 năm tù
Thân Văn Vĩnh (trộm trâu): 14 năm tù
Lê Văn Quyền (trộm trâu): 14 năm tù
Bùi Xuân Hương (trộm trâu): 12 năm tù
Bảng trên cho thấy một vài xu hướng thú vị. Tội kinh tế hình như bị phạt nặng nhất. Người mang tội bán dâm có thời gian ngồi tù ngắn hơn những người mang tội chính trị và kinh tế. Đặc biệt là chống Tàu cũng là một tội, và hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị phạt tổng cộng 16 năm tù! Chống Tàu có án phạt nặng hơn tội bán dâm.
Nhưng ngạc nhiên là ăn cắp vịt (để nhậu) mà tội còn nặng hơn cả tội bán dâm. Đó trường hợp của 3 người tên Quyền, Bảo và Long, bị phạt tổng cộng 13 năm tù. Do đó, báo chí có lần kêu lên rằng “một con vịt đổi 132 tháng tù giam”. Ăn cắp trâu tội thậm chí còn nặng hơn ăn cắp vịt, có người bị phạt đến 14 năm tù!
Dĩ nhiên, những con số trên đây không nói lên hết tình tiết và hoàn cảnh đằng sau mỗi vụ án và những qui định của luật pháp. Nhưng những con số trên đây cho thấy mức độ án phạt của toà án Việt Nam có vấn đề, vì khoảng cách quá lớn giữa các hình phạt, đặc biệt là tội trộm cắp. Ở nước ngoài, những khác biệt về án phạt được gọi là sentencing disparity, và là một đề tài nghiên cứu của giới khoa học xã hội.
Ở Mĩ, ngay cả cùng một ông chánh án và cùng một tội danh và tình tiết mà mức độ án phạt cũng khác nhau từ 6-12 tháng! Mức độ khác biệt giữa các chánh án thì còn lớn hơn nữa. Có người thốt lên rằng khi phạm nhân ra toà thì mức độ phạt cũng chịu tác động bởi yếu tố ngẫu nhiên. Yếu tố ngẫu nhiên có thể là do tâm tính, suy nghĩ, quan điểm, v.v. của người xử án ngay thời điểm xử hay đơn giản là con người “nhân vô thập toàn”. Ở Mĩ mà còn như thế thì ở VN, nơi mà các chánh án và luật sư chưa được đào tạo bài bản và toàn là người của đảng, thì các “yếu tố ngẫu nhiên” chắc còn có tác động kinh hơn nữa, và hệ quả là phạm nhân phải chịu bất công. Chưa thấy ai làm nghiên cứu (như ở ngoài này) về mối tương quan giữa mức độ phạt tù và tội phạm, và tính reproducibility (độ tin cậy, tái lập) của các chánh án. Tôi nghĩ một phân tích như thế rất cần thiết và có thể cung cấp những dữ liệu dẫn đến cải cách.
Nguyễn Văn Tuấn
29.06.2013
(Blog Nguyễn Văn Tuấn)
Vụ Đoàn Văn Vươn: Tòa không cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN KHIẾU NẠI
“V/v Toà phúc thẩm Toà án Tối cao không cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa”
Kính gửi ông: Chánh toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao.
Chúng tôi là: Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Báu( tức Hiền)
Địa chỉ: Thuý Nẻo - Bắc Hưng – Tiên Lãng - Hải Phòng, là bị cáo trong vụ
án “giết người, chống người thi hành công vụ” vừa bị Toà án nhân dân
Hải Phòng xét xử ngày 5/4/2013 cùng làm đơn khiếu nại về công văn số
1436, 1437 ngày 25/06/2013 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao
(V/v từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa ) . Đồng thời kính đề
nghị ông ban hành Quyết định bãi bỏ hai công văn trên, cấp giấy chứng
nhận bào chữa cho ông Vũ Văn Luân để ông Luân thực hiện việc bào chữa
cho chúng tôi, bồi thường thiệt hại cho chị em tôi, xem xét xử lí kỷ
luật với tất cả tập thể, cá nhân liên quan đến viếc ban hành văn bản
trái pháp luật trên theo quy định của Nhà nước vì lý do sau đây.
Lý do thứ nhất:
Vi phạm Điểm e Khoản 2 Điều 50 Luật Tố tụng hình sự
Tại Điểm e Khoản 2 Luật tố tụng hình sự Nhà nước quy định như sau
2 - Bị cáo có quyền:
e - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Như vậy, việc chị em tôi có đơn nhờ ông Vũ Văn Luân là người bào
chữa cho chúng tôi và chồng chúng tôi với tư cách người đại diện hợp
pháp là hoàn toàn chính đáng, quyền đó của chúng tôi được Nhà nước thừa
nhận tại Điểm e Khoản 2 Điều 50 Luật Tố tụng hình sự là điều không phải
tranh cãi như chị em tôi đã biện dẫn ở trên. Do đó, tại công văn số
1436, 1437 có căn cứ vào Điều 50 Luật Tố tụng Hình sự từ chối không cấp
giấy chứng nhận bào chữa cho ông Vũ Văn Luân mà chị em tôi đã lựa chọn
là việc làm hoàn toàn trái pháp luật, tước đi quyền được mời người bào
chữa mà Nhà nước và pháp luật cho phép.
Lí do thứ hai
Vi phạm Điều 56 Luật Tố tụng hình sự.
Điều 56 Luật Tố tụng Hình sự có ghi: “Điều 56: Người bào chữa:
1- Người bào chữa có thể là:
a- Luật sư.
b- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
c- Bào chữa viên nhân dân.
2, Những người sau đây không được bào chữa:
a- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
b- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, giám định hoặc người phiên dịch.
Như vậy, tại đơn mời người bào chữa cho chị em tôi. Chúng tôi mời
ông Vũ Văn Luân có địa chỉ: Xóm 9 – Hùng Thắng – Tiên Lãng - Hải Phòng
bào chữa cho chị em tôi với tư cách người đại diện hợp pháp theo điểm b
khoản 1 Điều 56 Luật tố tụng Hình sự là hoàn toàn hợp pháp . Đồng thời
với điều kiện Tại khoản 2 Điều 56 Luật Tố tụng Hình sự như chị em tôi
trích dẫn ở trên thì ông Vũ Văn Luân không rơi vào một trong 2 điều kiện
quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật tố tụng Hình sự. Do đó, ông Vũ Văn
Luân hoàn toàn có đủ tư cách là người bào chữa cho chị em tôi theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 56 Luật Tố tụng Hình sự mà chị em tôi lựa
chọn.
Việc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao trong công văn số 1436,
1437 căn cứ vào Điều 56 Luật Tố tụng Hình sự không cấp giấy chứng nhận
bào chữa cho ông Vũ Văn Luân để bào chữa cho chị em tôi là hoàn toàn bất
hợp pháp như tôi đã chứng minh ở trên.
Lí do thứ ba
Vi phạm Nghị Quyết số 03/2004 ngày 02/10/2004, Nghị quyết số 05/ 2005 ngày 08/12/2005 của HĐTPTANDTC:
a- Vi phạm nghị quyết số 03/2004 của HĐTPTANDTC
Tại Điểm b Tiết 2 phần II Về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo có ghi
b - Đối với bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi trở lên, không có nhược
điểm về tâm thần hoăc thể chất, thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn
người bào chữa: do đó, trong trường hợp người thân thích của họ hoặc
người khác lựa chọn (nhờ) người bào chữa cho họ, thì cần phân biệt như
sau:
b.1- Nếu việc lựa chọn (nhờ) người bào chữa đã có sự đồng ý (hoặc sự uỷ
quyền) của bị can, bị cáo thì Toà án xem xét, cấp giấy chứng nhận người
bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa.
Như vậy, căn cứ vào quy định này của HĐTPTANDTC thì chị em tôi
đã trên 18 tuổi không có nhược điểm tâm thần, thể chất do đó chị em tôi
có quyền lựa chọn người bào chữa cho chị em tôi và chồng chúng tôi là
hoàn toàn chính đáng được pháp luật cho phép.
Căn cứ vào điểm b.1 việc chúng tôi lựa chọn ông Vũ Văn Luân cho
chúng tôi và chồng chúng tôi nhưng không được Toà phúc thẩm Toà án tối
cao chấp nhận là hoàn toàn bất hợp pháp vi phạm nghiêm trọng Nghị quyết
số 03/2004 của HĐTPTANTC mà tôi đã trích dẫn ở trên. Do đó việc Toà phúc
thẩm Toà án tối cao căn cứ vào Nghị quyết số 03/2004 không cấp giấy
chứng nhận báo chữa cho ông Vũ văn Luân để ông Luân bào chữa cho chúng
tôi và chồng chúng tôi là hoàn trái pháp luật.
b- Vi phạm Nghị quyết số 05 ngày 08/12/2005 của HĐTPTANDTC:
1 - Về điều 231 của BLTTHS ( có ghi)
Chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác định như sau:
1.1 Bị cáo, người đại diện hợp pháp(đại diện theo pháp luật)cuả bị cáo
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
1.2 - Người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo để bảo
vệ lợi ích cho bị cáo.
Như vậy với các trích dẫn trên đây, HĐTPTANDTC quy định rất rõ về
quyền kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị cáo là người chưa
thành niên, người có nhược điểm tâm thần hoặc thể chất, chứ không phải
như công văn số 1436, 1437 cho rằng (chỉ có các trường hợp bị cáo là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần
mới có người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) tham gia tố
tụng là hoàn toàn bất hợp pháp tiếp tục tước đi quyền được mời người bào
chữa của chị em tôi mà Nhà nước đã quy định.
Tại Nghị quyết này tôi khẳng định không có bất kỳ điều nào quy
định trường hợp chị em tôi không được mời người đại diện hợp pháp để bào
chữa cho chị em tôi . Do đó việc Toà phúc thẩm Toà án Tối cao căn cứ
Nghị quyết số 03/2004, Nghị quyết số 05/2005 của HĐTPTANDTC từ chối
không cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho ông Vũ Văn Luân bào chữa
cho chị em tôi và chồng chúng tôi là Đoàn Văn Vươn , Đoàn Văn Quý là
hoàn toàn bất hợp pháp, cố tình tước đi quyền được mời người bào chữa
cho gia đình chúng tôi, việc làm đó theo tôi là hoàn toàn trái pháp luật
vi phạm đạo đức xã hội và pháp luật một cách nghiêm trọng.
Như vậy với tất cấ các lý do trên, so chiếu với căn cứ mà Toà
phúc thẩm Toà án tối cao đưa ra thì: Tại Điều 50, 56 Luật Tố tụng hình
sự, Nghị quyết số 03/2004, số 05/2005 của HĐTPTANDTC không có bất kỳ
điểm nào cho phép Toà phúc thẩm, Toà án Tối cao từ chối ông Vũ Văn Luân
không được quyền bào chữa cho chị em tôi và chồng chúng tôi . Do đó căn
cứ vào Luật Khiếu nại, chị em tôi làm đơn này kính đề nghị ông:
1 - Thụ lý đơn khiếu nại của chị em tôi, ra Quyết định thu hồi
bãi bỏ công văn số 1436, 1437 ngày 25/06/2013 của Toà phúc thẩm Toà án
Nhân dân Tối cao.
2- Cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông Vũ Văn Luân để ông Vũ Văn
Luân được quyền bào chữa cho chị em tôi và chồng chúng tôi trong phiên
toà tới đây.
3 – Xem xét, xử lý kỷ luật với tất cả các tổ chức, cá nhân liên
quan đến việc ban hành công văn trái pháp luật trên theo quy định của
pháp luật và yêu cầu họ phải chịu trách nhiệm về việc không cấp giấy
chứng nhận bào chữa cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa cho
chị em tôi và chồng chúng tôi trong phiên toà tới đây!
4 – Bồi thường toàn bộ thiệt hại cho chị em tôi và ông Vũ Văn
Luân mà Toà phúc thẩm đã gây ra cho chúng tôi theo quy định của Nhà
nước.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!
Nơi nhận: Bắc Hưng, ngày 28/6/2013
- Như kính gửi.
- Các cơ quan báo chí. Người làm đơn
- Lưu. Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Hiền
Philippines tố cáo Trung Quốc đe dọa hòa bình trên Biển Đông
Thông cáo của chính quyền Philippines nói rõ : « Ông Del Rosario hôm nay
(30/06/2013) đã bày tỏ thái độ quan ngại sâu sắc về tình trạng quân sự
hóa ngày càng gia tăng trên Biển Đông ». Theo ông Del Rosario, đã có sự
hiện diện « ồ ạt của tàu quân sự và bán quân sự Trung Quốc » tại hai
nhóm đảo thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines là bãi Scarborough
Shoal và bãi đá ngầm Second Thomas Shoal.
Ngoại trưởng Philippines cho rằng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc
tại các nhóm đảo này là « những đe dọa đối với nỗ lực duy trì hòa bình
và ổn định trên biển trong khu vực ».
Các Ngoại trưởng ASEAN nắm tay nhau thể hiện sự đoàn kết tại cuộc họp ở Brunei ngày 30/06/2013. Reuters |
Ông Del Rosario không đi sâu vào chi tiết về các hành động quá đáng của
Trung Quốc tại Biển Đông, nhưng nhấn mạnh rằng các hành động đó đã vi
phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002, theo đó
các bên tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này đã cam kết không thực hiện
bất kỳ hành động nào có thể làm tình hình thêm căng thẳng.
Cáo buộc mạnh mẽ của Ngoại trưởng Philippines được đưa ra đúng một hôm
sau khi báo chí Trung Quốc lớn tiếng đe dọa các nước Đông Nam Á có thái
độ kiên quyết nhất chống lại các hành vi bá quyền của Bắc Kinh tại Biển
Đông.
Vào hôm qua, truyền thông nhà nước Trung Quốc – cụ thể là Nhân dân Nhật
báo - đã không ngần ngại cảnh cáo rằng « nếu Philippines tiếp tục thách
thức Trung Quốc…, một đòn phản công (từ phía Trung Quốc) sẽ khó có thể
tránh khỏi ».
Vào hôm nay, Ngoại trưởng Del Rosario đã lên tiếng cảnh báo về các luận
điệu như vậy. Ông nói : « Những tuyên bố đề cập đến biện pháp phản công
là vô trách nhiệm. Chúng tôi lên án mọi đe dọa sử dụng vũ lực. Chúng tôi
lên án hành vi đó. Và chúng tôi tiếp tục theo đuổi biện pháp giải quyết
tranh chấp một cách hòa bình. »
(RFI)
Các blogger nói về chuyện ‘nhập kho”
Dư luận trên các trang mạng trong tuần qua vẫn tiếp tục bàn tán về danh
sách một số blogger có thể sẽ bị ‘nhập kho’. Nguồn tin về bản danh sách
này từ nhà văn Nguyễn Trọng Tạo khi ông nhận được thông báo qua điện
thoại của một người trong đoàn tháp tùng chủ tịch Trương Tấn Sang tới
Bắc Kinh.
Viết mà không biết lách là một nghề hết sức nguy hiểm ở Việt Nam. Ý thức
rõ ràng về mối nguy đó, nhưng niềm đam mê và sự thôi thúc phải nói lên
sự thật đã khiến giới blogger người nọ tiếp nối người kia tiếp tục dấn
thân. Đã có những người phải vào tù, với những bản án hết sức nặng nề,
nhưng rồi lại xuất hiện thêm các cây bút mới.
Sau vụ bắt giữ 2 blogger có tiếng là nhà báo Trương Duy Nhất và nhà văn
Phạm Viết Đào, sự hiểm nguy với giới blogger dường như càng đến gần hơn.
Chúng tôi vừa có cuộc phỏng vấn với 3 blogger tiêu biểu, với cùng những câu hỏi như nhau:
1. Dư luận cho rằng, có một danh sách 20 blogger đang nằm trong tầm ngắm của cơ quan an ninh, anh/ chị nghĩ sao về việc này?
2. Cơ quan an ninh đã từng cảnh báo, đe dọa hay yêu cầu anh/ chị ngưng viết chưa?
3. Viết blog là việc khá mạo hiểm ở VN, rất nhiều người đã bị bắt, bị xử
tù, anh/ chị có chuẩn bị sẵn sàng tinh thần cho mình không?
Và dưới đây là câu trả lời của các blogger:
Bà Đặng Phương Bích |
Bà Đặng Phương Bích
1. Mình nghĩ điều này hoàn toàn có thể có. Nhưng chưa chắc họ đã thực
hiện ngay. Họ sẽ thăm dò phản ứng của dư luận, và cũng chờ kết quả đấu
đá phe nhóm đến đâu.
2. Với riêng mình thì chưa có ai gặp mình để cảnh báo hay đe dọa về việc
viết blog. Chỉ có trước đây, họ có tìm gặp mẹ mình, ca thán về việc
mình viết rất “khó nghe”
3. Mình nghĩ, nếu chỉ phản ánh hiện thực xã hội, và bày tỏ quan điểm như mình mà cũng đi tù, thì mình chấp nhận đối mặt với nó.
Blogger, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh |
Ông Huỳnh Ngọc Chênh
1. Tôi tin rằng có người trong đoàn tháp tùng với CT TTSang từ bắc Kinh
điện về nói chuyện với nhà văn Nguyễn Trọng Tạo về danh sách 20 người là
có thật. Nhưng danh sách ấy có thật hay không là một chuyện khác. Trước
đó ít lâu tôi cũng đọc được trên mạng hoặc nghe tin đồn về danh sách 4
người rồi 5 người rồi 10 người cũng rất nhiều. Tôi không tin rằng những
danh sách ấy là có thật. Tuy nhiên tôi tin rằng có một danh sách rất dài
có khi đến hàng trăm người bị thuộc diện phải giám sát hoặc theo dõi là
chắc chắn có. Đó là công việc của an ninh làm thường xuyên. Như chị Bùi
Hằng, cô Nguyễn Hoàng Vi, gia đình Huỳnh Thục Vy… thì lúc nào cũng có
người theo dõi. Bản thân tôi, tôi biết luôn luôn có người nghe lén qua
điện thoại. Tôi có bằng chứng về việc này. Một lần Ngài Tổng lãnh sự
Pháp tại TP HCM gọi điện xin tôi một cuộc hẹn để gặp nhau ăn tối. Tôi
chưa hề nói chuyện nầy với ai, phía bên ngài tổng lãnh sự cũng vậy thế
nhưng qua ngày hôm sau vài người biết cuộc hẹn của tôi gợi ý tôi không
nên đi.
Cũng có thể danh sách 20 người ấy được vờ tung ra để hăm dọa mọi người,
hoặc nếu có thì cũng chỉ là để quản lý, giám sát chặt hơn chứ không phải
là danh sách để bắt.
Tuy nhiên cũng chẳng biết trước được việc gì, ai viết blog trong tình
hình này lại không bị quy, chí ít cũng vào điều 258. Và bất cứ ai cũng
có thể bị bắt như các anh Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy.
2. Trước đây khi tôi còn làm báo thanh niên, thì có gián tiếp qua ban
biên tập báo hoặc trực tiếp gặp tôi để khuyên can tôi nên dừng viết.
Sau này khi tôi đã về hưu thì chỉ thấy có áp lực gián tiếp từ bạn bè và
các người thân trong gia đình. Chưa trực tiếp có nhân viên an ninh nào
đến gặp tôi để đề nghị tôi ngừng viết.
Tôi cũng có chựng lại vì áp lực từ người thân. Các con tôi, nhất là con
gái út rất sợ hãi, luôn ngăn cản tôi viết blog. Tôi hứa với cháu là sẽ
giảm đi và không viết về chuyện quốc sự nữa.
3).Khi viết blog là tôi đã bị đặt vào chỗ nào rồi. Những gương Cù Huy Hà
Vũ, rồi Điếu Cày còn sờ sờ ra đó. Tôi biết mình cũng có thể sẽ bị bắt
bất cứ vào lúc nào. Do vậy cũng chuẩn bị sẵn tinh thần và mọi việc. Tuy
nhiên vẫn chưa chuẩn bị được tinh cho con cái. Nhưng hy vọng rồi con cái
tôi cũng quen dần và có thể chấp nhận được. Ở tù, nhất là nhà tù CS thì
không phải là chuyện đùa. Nhưng biết sao được, chẳng lẽ vì quá sợ hãi
mà câm nín tất cả hết hay sao. Mình không dám lên tiếng chống đối lại
bất công tham nhũng ngoại xâm, không dám phản biện lại những điều sai
trái thì còn ai dám nữa.
Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh |
Ông JB Nguyễn Hữu Vinh
1. Tôi có đọc thấy trên mạng rằng sau khi ông Trương Tấn Sang đến Trung
Quốc, thì đã có danh sách 20 Blogger có thể bị bắt trong thời gian tới.
Tôi đón nhận thông tin này cũng bình thường.
Những người có tinh thần dân tộc, yêu nước, những người đã biểu thị lòng
yêu nước của mình qua những cuộc xuống đường và những người cất tiếng
nói của mình vì lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc từ trước đến nay, nhất
là trong giai đoạn vừa qua đã chịu nhiều vấn đề với bộ máy công quyền.
Đa số những vấn đề họ chịu đựng là những việc làm bất chấp pháp luật,
lương tâm như bắt bớ, đánh đập, giam giữ… Do vậy, khi có thông tin về
việc có thể bắt giữ thêm 20 Blogger trong danh sách có thể bị bắt vì
tinh thần chống Trung Quốc xâm lược thì không ai ngạc nhiên lắm. Người
ta chỉ ngạc nhiên về thái độ của nhà nước đối với giặc và đối với dân mà
thôi.
Điều thú vị là nếu như trước đây, có một lời đồn rằng có một tên phản
động, thì hầu hết mọi người đều không tự nhận là mình, và sẽ đồn thổi và
tìm kiếm một ai đó ngoài mình. Nhưng khi nhận được thông tin này, những
người yêu nước đều tự nhận là mình và nếu vậy thì con số sẽ không còn
là 20 người nữa mà đã là hàng trăm, thậm chí cả ngàn người. Đa số nhận
thông tin đó bình tĩnh và thậm chí còn… háo hức. Tôi hiểu rằng họ coi đó
như là sự hi sinh cho đất nước, cho Tổ Quốc.
2- Tôi chỉ là một người viết một số vấn đề bằng tiếng nói của mình, với
tiêu chí là Sự thật – Công lý – Hòa bình. Nội dung viết về các vấn đề
như Tự do tôn giáo, quyền của người dân, lòng yêu nước chống xâm lược
với mục đích là xây dựng một nhà nước pháp quyền. Tất cả những điều tôi
viết là sự thật và mang tính xây dựng, lên án những cái xấu, cái tha
hóa, cổ vũ cho nhân quyền, dân quyền và xã hội tốt đẹp.
Trong quá trình đó, tôi đã rất nhiều lần phải làm việc với cơ quan an
ninh điều tra, khoảng hơn ba chục lần gì đó tôi không nhớ rõ cụ thể, mỗi
lần vài ba ngày. Trong khi làm việc, có lần cơ quan an ninh đã yêu cầu
tôi không viết lên Blog và mạng internet. Tôi có trả lời họ rằng đó là
quyền tự do của tôi được pháp luật quy định. Tất cả những điều tôi viết
là sự thật và vì thế, nếu cần cấm, thì cần có một văn bản luật của Quốc
hội hoặc một cơ quan nhà nước đủ thẩm quyền, trong đó chỉ cần có nội
dung “Cấm viết sự thật” thì tôi sẽ ngưng. Nhưng đến nay, theo tôi được
biết thì trong hệ thống văn bản pháp luật chưa có văn bản đó.
3- Không chỉ viết Blog, mà tất cả những ai không hành động đúng ý muốn
của nhà nước độc đảng hiện nay, đều là mạo hiểm. Tuy nhiên muôn ngàn
người dân Việt Nam khát khao tự do, dân chủ thực chất, họ không có tội
gì nếu được xét xử công minh theo pháp luật.
Phần tôi, tự xét thấy mình không làm điều gì vi phạm luật pháp đã được
công bố. Tôi hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và luật pháp cho phép
cũng như những văn bản quốc tế mà VN đã ký kết và có nghĩa vụ thực hiện.
Tôi thực hiện theo lời Đức Giáo Hoàng đã dạy: “Giáo dân tốt cũng là
công dân tốt” mà nhà nước VN hiện nay cũng đang phát động mọi người làm
theo tinh thần đó. Người công dân tốt có nghĩa vụ bảo vệ đất nước, lãnh
thổ và xây dựng xã hội tốt đẹp, không chấp nhận sự tha hóa và suy đồi
của bất cứ ai. Người giáo dân tốt có một vai trò là “Ngôn sứ” của Thiên
Chúa là nói lên sự thật, lên án tội ác. Vì vậy, khi thực hiện đúng những
tiêu chí đó, tôi thấy mình không có lý do gì phải bị bắt bớ, tù đày.
Tuy nhiên, trong thực tế VN hiện nay, những điều không bình thường đã
trở thành bình thường, thì chúng tôi như cá trong chậu và chim trong
lồng, mọi điều có thể xảy ra.
Cũng như những người yêu chuộng sự thật, công lý, hòa bình, tôi phó thác tất cả trong tay Chúa quan phòng, gìn giữ.
© Đàn Chim Việt
Giải tiếp bài toán thu hút hiền tài
Mới đây, HĐND TP Hà Nội đã đưa ra nhiều chế độ đãi ngộ đặc biệt trong dự
thảo nghị quyết ban hành chính sách trọng dụng nhân tài nhằm thu hút
người có thành tích đặc biệt xuất sắc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng,
phát triển thủ đô. Trước Hà Nội, nhiều tỉnh, thành khác cũng đã “trải
thảm đỏ” đón nhân tài về phục vụ cho địa phương. Vấn đề ở đây là cần
phải tổ chức thực hiện chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” này thế nào để đạt
hiệu quả như nó cần hướng tới.
Đây là “phản xạ” cần thiết của các địa phương trước đòi hỏi của thực
tiễn phát triển. Nhất là trước thực trạng “chảy máu chất xám” trong khu
vực Nhà nước diễn ra ngày càng mạnh. Trong khi đó, xã hội hiện đại đang
đặt ra nhiều bài toán hóc búa mà hệ thống cán bộ hiện tại có thể gặp
nhiều khó khăn để giải quyết hoặc không đáp ứng được. Tuy nhiên, đây chỉ
là những khâu đầu tiên của công cuộc chiêu hiền đãi sĩ” - TS Hồ Bá
Thâm, Ủy viên Thường vụ Hội khoa học phát triển nhân lực, nhân tài
TP.HCM, nhận định .
Cần xóa bỏ môi trường đố kỵ tài năng
. Phóng viên: Vậy những khâu quan trọng tiếp theo trong chính sách thu hút nhân tài là gì, thưa ông?
+ TS Hồ Bá Thâm: Việc đưa ra chế độ đãi ngộ để mời gọi nhân tài về “đầu
quân” cho mình, mới chỉ phần nổi của vấn đề. Còn cái gốc của chính sách
“chiêu hiền đãi sĩ” nằm ở việc nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển người
tài như thế nào? Có thể nói những chính sách ban đầu như tiền lương,
điều kiện nhà cửa… để thu hút người tài về làm việc là đúng, cần nhưng
chưa đủ. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải hình thành môi trường để
nhân tài được sống như bản thân của họ. Môi trường ấy không chỉ là tiền
bạc, điều kiện làm việc (dĩ nhiên là rất cần thiết) mà quan trọng hơn cả
là văn hóa ứng xử, cơ chế sử dụng người tài: Từ việc tôn trọng, đánh
giá đúng mức thành quả lao động của họ đến cả chuyện lãnh đạo phải đủ
bản lĩnh để bảo vệ người tài trước những cản lực.
. Vậy theo ông thì cần hướng tới việc hình thành môi trường như thế nào để nhân tài phát triển?
+ Cần hình thành một môi trường cởi mở, dân chủ, khuyến khích và coi
trọng sáng tạo, khuyến khích tính vượt trội, độc đáo chứ không phải môi
trường đố kỵ tài năng, thiếu bao dung và thiển cận. Cùng đó là xây dựng
tiêu chuẩn để kiểm chứng tài năng, dựa vào những thực chứng có thể đo
đếm được. Hiện nay ta đánh giá tài năng bằng cảm nhận mang tính mơ hồ,
dựa vào tình cảm, quen biết. Trong khi đó, tiêu chuẩn để đánh giá thực
chứng đối với nhân tài thì mù mờ, không minh bạch.
. Theo nhìn nhận của ông, với cách thức tuyển dụng và sử dụng cán bộ
truyền thống của ta bấy lâu nay sẽ gây khó khăn gì để thu hút tài năng
về phục vụ?
+ Cơ chế tuyển dụng, đánh giá tài năng của nước ta cũ và đóng khép quá.
Cách thức tìm kiếm cán bộ của ta có khi vẫn dựa vào quan hệ tình cảm;
nặng về lý lịch. Có trường hợp khi xem hồ sơ là nhìn xem thử đây là con
cháu ông nào, có bà con với cấp to không. Thậm chí còn có tình trạng
đáng lên án và xấu hổ hơn khi tuyển cán bộ theo “sức nặng của phong bì”
mà ta hay nói là chạy chức… Mặt khác, ta hiện nay cũng quá coi trọng
bằng cấp mà thiếu kiểm chứng năng lực thực tiễn khi tuyển cán bộ. Chính
hai cái này - chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa bằng cấp - đè nặng lên
công tác tuyển nhân sự của ta từ trước tới giờ. Nếu cứ tiếp tục như vậy
là rất khó thu hút tài năng.
Cần một “môi trường sống” cho nhân tài
. Theo ông, chúng ta cần phải thay đổi từ đâu và thay đổi như thế nào
để hình thành môi trường cho nhân tài, trước khi thu hút họ về?
+ Thiết nghĩ chúng ta nên hình thành một “môi trường sống” để cho nhân
tài phát triển trước khi kêu gọi họ về làm việc cho mình. Sẽ là không ổn
nếu anh bỏ ra rất nhiều ưu đãi lớn để thu hút một tài năng về làm việc.
Sau đó thì thả lỏng họ hoặc đưa họ vào một môi trường làm họ chết yểu.
Vậy mà điều đáng buồn này xảy ra không ít ở các địa phương. Để tránh
được tình trạng này, cái đầu tiên phải thay đổi ở đây chính là cách nhận
diện cũng như nhận thức của người lãnh đạo đối với người tài năng. Xa
hơn nữa là phải hướng đến sự đổi mới cơ chế để tạo điều kiện tốt nhất
trong việc tuyển chọn, trọng dụng và bảo vệ người tài.
Người tài luôn có năng lực sáng tạo đặc biệt, họ không muốn làm việc
theo thói quen, lối mòn. Đồng thời, họ có một năng lực vượt lên trên,
vượt tới trước, vượt khó hơn người thường để đạt được hiệu quả công việc
theo mong muốn của mình... Chính vì vậy nên họ luôn có tinh thần đấu
tranh, phê phán. Từ đây mà dễ bị người khác ganh ghét, xách mé, hãm hại…
Người lãnh đạo ở đây cần dành cho họ một cái nhìn sâu rộng khi họ quyết
làm một điều gì đó nhằm giải quyết bài toán khó cho cơ quan, đơn vị;
cũng như đủ độ bao dung khi họ chưa thành công và đủ bản lĩnh để bảo vệ
họ trước sự “tấn công” của nếp tư duy và lối ứng xử của hệ thống quan
niệm cũ…
Mặt khác, thang giá trị cần được tiêu chuẩn hóa với các công cụ kiểm
chứng thực tài. Thường để đánh giá người tài không nên chỉ đặt ở bằng
cấp mà nó chính là sản phẩm, cách thức họ làm ra sản phẩm và hàm lượng
giá trị của sản phẩm. Người tài thật sự cũng muốn người ta nhìn vào
những gì mình làm ra, muốn ghi nhận, tôn vinh những gì mình cống hiến,
hơn là những danh hiệu mình đang có. Nếu không có thang giá trị đánh giá
công bằng và bảo vệ người tài thì dù có thu hút về thì họ cũng bỏ đi
thôi.
Hình thành "công nghệ" tuyển dụng nhân tài
. Người ta lo ngại rằng chính sách chiêu mộ nhân tài thì có đó nhưng
nếu quy trình xét chọn, tìm kiếm nhân tài không được minh bạch, công
khai ngay từ đầu, tiêu chuẩn thẩm định người tài không rõ ràng, thì
“rượu trong bình vẫn như cũ” thưa ông?
+ Manh nha nhiều nơi đã bắt đầu có những chuyển động trong chính sách
tìm kiếm, chiêu mộ và sử dụng nhân tài. Chẳng hạn như việc tổ chức thi
tuyển các chức danh cấp giám đốc sở ở Đà Nẵng, hay phó giám đốc sở ở
Quảng Ninh và nhiều nơi thi tuyển chức danh trưởng, phó phòng các sở,
ngành… Tuy nhiên, nhìn ở bình diện quốc gia, ta vẫn còn dè dặt với điều
này.
Ta phải học cách tìm kiếm, sử dụng nhân tài của bạn bè thế giới. Vì sao
người ta quy tụ được người tài về hoặc người tài thấy môi trường của họ
mà tự tìm đến “đầu quân”? Đã đến lúc chúng ta không thể chậm trễ hơn nữa
trong việc hình thành một “công nghệ” tuyển chọn và đánh giá nhân tài.
Tức phải thay đổi một cách có hệ thống các cách thức cũ bấy lâu nay để
tìm kiếm, giữ chân, thu hút và phát triển nguồn trí tuệ của người Việt
Nam về phục vụ cho sự phát triển của nước nhà. Việc thay đổi ấy có thể
bắt đầu xuất phát từ những vị lãnh đạo sáng suốt nhưng căn cơ hơn vẫn
phải hình thành nên một môi trường thể chế đầy đủ để đẩy chiến lược nhân
tài quốc gia lên một sự đổi về chất. Chúng ta cần phải chuyển động và
hành động một cách quyết liệt hơn vì “hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
. Xin cảm ơn ông!
(PLTP)
"Vụ án Lê Quốc Quân là một vụ án chính trị"
Vụ án “Lê Quốc Quân” tuy mang danh nghĩa “Trốn thuế” (theo cáo buộc
của Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát căn cứ Điều 161 BLHS)
nhưng trên thực tế có tính chất chính trị, bởi những lý do sau đây:
1. Khi chính quyền không thể giam cầm anh Lê Quốc Quân một cách công khai vì lý do chính trị hay “an ninh quốc gia”, thì từ một năm trước đó “vụ án trốn thuế” đã được đạo diễn nhằm mục đích tìm và tạo dựng chứng cứ cáo buộc và bắt giam anh Lê Quốc Quân. Hồ sơ thể hiện rõ vụ án này đã được CA TP Hà Nội chuẩn bị từ cuối năm 2011, lúc Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) yêu cầu Cục thuế Hà Nội thanh tra thuế của 2 doanh nghiệp có liên quan đến anh Lê Quốc Quân là Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp và Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam (xem Công văn số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 do Phòng An ninh Kinh tế gửi Cục thuế Hà Nội tại Bút lục số 0186).
2. Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội đã hiểu vụ án này do Cơ quan an ninh, chứ không phải Cơ quan cảnh sát, chịu trách nhiệm điều tra, nên trong Quyết định số 73/QĐ-VKS(P1) ngày 25/2/2013 về việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự, Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội đã ghi “nhầm” rằng Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT ngày 25/12/2012 là của “Cơ quan an ninh điều tra” (xem Bút lục 0008). Đây là bằng chứng cho thấy trong suy nghĩ của nhà cầm quyền bản chất của vụ án này là chính trị, chứ không phải kinh tế thuần túy.
3. Mặt khác, các điều tra viên tham gia vụ án hầu hết từ Cơ quan an ninh điều tra, chứ không phải Cơ quan cảnh sát điều tra (xem 3 quyết định điều động cán bộ của Giám đốc CA TP Hà Nội ngày 18/10/2012 tại các Bút lục 0004, 0005 và 0006). Tội trốn thuế theo Điều 161 BLHS thuộc nhóm “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” quy định tại Chương XVI của BLHS, thông thường do Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành điều tra. Việc điều động nhân viên an ninh tham gia điều tra cho thấy tính chất “chính trị” rõ ràng của vụ án này.
Ở đây, có sự sai sót đến mức khôi hài trong 3 quyết định điều động cán bộ của Giám đốc CA TP Hà Nội đề ngày 18/10/2012 nêu trên, vì cơ sở của việc điều động điều tra viên lại dựa trên một quyết định khác được ban hành sau đó đến … 6 ngày (!?), đó là Quyết định số 572/QĐ-CAHN đề ngày 24/10/2012 về việc thành lập Ban chỉ đạo điều tra vụ án.
4. Vụ án này được Ban Giám đốc CA TP Hà Nội đặc biệt quan tâm đến mức thành lập hẳn một “Ban chỉ đạo điều tra vụ án” theo Quyết định số 572/QĐ-CAHN ngày 24/10/2012. Đây là điều bất thường đối với bất kỳ vụ án trốn thuế mang bản chất “kinh tế” thuần túy nào.
Vào ngày 25/12/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra (PC46) thuộc CA TP Hà Nội chính thức có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT (xem Bút lục 0007), tức về mặt pháp lý kể từ ngày 25/12/2012 vụ án mới được bắt đầu. Nói cách khác, trong khi chưa có vụ án chính thức về phương diện tố tụng hình sự, CA TP Hà Nội đã chuẩn bị sẵn một “vụ án” với những “chứng cứ” được tạo dựng theo hướng cáo buộc anh Lê Quốc Quân vào tội “trốn thuế”.
5. Mặc dù anh Lê Quốc Quân luôn yêu cầu sự tham gia của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can, nhưng hầu như toàn bộ quá trình điều tra xét hỏi đã diễn ra không có sự tham gia của luật sư. Theo Điều 58 của BLTTHS, chỉ trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bào chữa mới tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Việc cản trở và gây khó khăn cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra xét hỏi vụ án “Lê Quốc Quân” cho thấy cơ quan điều tra luôn xem vụ án này có tính chất chính trị và liên quan đến “an ninh quốc gia”, hơn là mang bản chất kinh tế như luật định.
6. Trong Quyết định phê chuẩn lệnh khám xét số 02/QĐ-VKS(P1) ngày 26/12/2012, Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội chỉ nhắc đến “Lệnh khám xét số 05 ngày 25/12/2012”, chứ không đề cập cụ thể và chính xác Lệnh khám xét số 06/CQCSĐT(PC46) ngày 25/12/2012 mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi làm việc của anh Lê Quốc Quân trên thực tế (xem Bút lục 0021).
Do đó, có thể nói Lệnh khám xét số 06/CQCSĐT(PC46) của Cơ quan cảnh sát điều tra không hề có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội theo yêu cầu tại Điều 141 Bộ luật TTHS. Tức là, việc khám xét mà Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành tại nơi làm việc của anh Lê Quốc Quân đã vi phạm thủ tục tố tụng.
Đó là chưa nói đến việc anh Lê Quốc Quân liên tục phản đối và đề nghị điều tra hành vi của một số người mặc cảnh phục và thường phục đột nhập nơi làm việc của anh nhiều tháng trước đó để lấy đi một cách bất hợp pháp các tài liệu và chứng từ kế toán của Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam (xem các Bút lục số 0183 và 0216), nhưng cơ quan điều tra vẫn cố tình làm ngơ, không xử lý.
7. Tại buổi khám xét nơi ở của anh Lê Quốc Quân, cơ quan điều tra đã tịch thu một số sách và tài liệu riêng của anh và gia đình. Theo Điều 145 BLTTHS, khi khám xét điều tra viên chỉ tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Trong Bảng thống kê tài liệu thu giữ (xem Bút lục số 0046), hầu hết sách và tài liệu bị tạm giữ đều có nội dung “nhạy cảm” về chính trị đối với nhà cầm quyền mặc dù không liên quan đến vụ án “trốn thuế”. Thay vì hoàn trả lại cho anh Lê Quốc Quân và gia đình, cơ quan điều tra khi mở niêm phong đồ vật vào ngày 20/3/2013 đã tiếp tục giữ lại.
Trong Biên bản mở niêm phong lập cùng ngày, có đoạn ghi: “xét thấy một số đồ vật, tài liệu cần phải điều tra, xác minh làm rõ, nên CQĐT-Công an TP Hà Nội tiến hành thu giữ”. Như vậy, bên cạnh vấn đề “thuế”, dường như cơ quan điều tra rất quan tâm khía cạnh chính trị của vụ án này.
8. Quá trình điều tra xét hỏi vụ án đặt ra nhiều nghi vấn về cách thức thu thập chứng cứ. Toàn bộ cáo buộc của cơ quan điều tra đều dựa trên sự suy đoán theo hướng “có tội”, thay vì “vô tội”, và dựa trên lời khai của những người có liên quan.
Thật vậy, đọc hồ sơ vụ án “Lê Quốc Quân”, người ta dễ dàng nhận ra rằng việc cáo buộc phạm tội của Cơ quan cảnh sát điều tra không dựa trên chứng cứ cụ thể và rõ ràng. Tất cả đều được dàn dựng một cách có chủ đích từ ban đầu như thể nhằm thực hiện một “đơn đặt hàng” buộc tội anh Quân. Bởi lẽ quá trình “phạm tội” của luật sư Lê Quốc Quân hầu như chỉ dựa vào sự suy đoán “có tội” từ các lời khai của những nhân viên Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam tại các buổi làm việc không có sự chứng kiến của luật sư, không có sự đối chất giữa họ và anh Quân, và chưa nói đến việc không loại trừ khả năng họ chịu áp lực từ chính Cơ quan cảnh sát điều tra.
Khoản 1 Điều 138 BLTTHS quy định rằng khi có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều tra viên tiến hành đối chất. Việc những người có liên quan khai nhận rằng anh Lê Quốc Quân “lập hồ sơ khống và chỉ đạo về việc dùng hoá đơn thuế GTGT khống” nhằm trốn thuế, mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã cáo buộc anh Lê Quốc Quân phạm tội, rõ ràng mâu thuẫn với các tuyên bố của anh Quân trong quá trình xét hỏi. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã không tiến hành đối chất và làm ngơ trước mọi yêu cầu của anh Quân. Việc anh Quân không nhận tội cũng đương nhiên mâu thuẫn với tất cả lời khai của những người có liên quan nêu trên. Dù vậy, hồ sơ vụ án đã không đề cập gì đến bất kỳ buổi đối chất nào trong quá trình điều tra xét hỏi. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Một Luật Sư
Theo VRNs.
1. Khi chính quyền không thể giam cầm anh Lê Quốc Quân một cách công khai vì lý do chính trị hay “an ninh quốc gia”, thì từ một năm trước đó “vụ án trốn thuế” đã được đạo diễn nhằm mục đích tìm và tạo dựng chứng cứ cáo buộc và bắt giam anh Lê Quốc Quân. Hồ sơ thể hiện rõ vụ án này đã được CA TP Hà Nội chuẩn bị từ cuối năm 2011, lúc Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) yêu cầu Cục thuế Hà Nội thanh tra thuế của 2 doanh nghiệp có liên quan đến anh Lê Quốc Quân là Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp và Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam (xem Công văn số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 do Phòng An ninh Kinh tế gửi Cục thuế Hà Nội tại Bút lục số 0186).
2. Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội đã hiểu vụ án này do Cơ quan an ninh, chứ không phải Cơ quan cảnh sát, chịu trách nhiệm điều tra, nên trong Quyết định số 73/QĐ-VKS(P1) ngày 25/2/2013 về việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự, Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội đã ghi “nhầm” rằng Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT ngày 25/12/2012 là của “Cơ quan an ninh điều tra” (xem Bút lục 0008). Đây là bằng chứng cho thấy trong suy nghĩ của nhà cầm quyền bản chất của vụ án này là chính trị, chứ không phải kinh tế thuần túy.
3. Mặt khác, các điều tra viên tham gia vụ án hầu hết từ Cơ quan an ninh điều tra, chứ không phải Cơ quan cảnh sát điều tra (xem 3 quyết định điều động cán bộ của Giám đốc CA TP Hà Nội ngày 18/10/2012 tại các Bút lục 0004, 0005 và 0006). Tội trốn thuế theo Điều 161 BLHS thuộc nhóm “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” quy định tại Chương XVI của BLHS, thông thường do Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành điều tra. Việc điều động nhân viên an ninh tham gia điều tra cho thấy tính chất “chính trị” rõ ràng của vụ án này.
Ở đây, có sự sai sót đến mức khôi hài trong 3 quyết định điều động cán bộ của Giám đốc CA TP Hà Nội đề ngày 18/10/2012 nêu trên, vì cơ sở của việc điều động điều tra viên lại dựa trên một quyết định khác được ban hành sau đó đến … 6 ngày (!?), đó là Quyết định số 572/QĐ-CAHN đề ngày 24/10/2012 về việc thành lập Ban chỉ đạo điều tra vụ án.
4. Vụ án này được Ban Giám đốc CA TP Hà Nội đặc biệt quan tâm đến mức thành lập hẳn một “Ban chỉ đạo điều tra vụ án” theo Quyết định số 572/QĐ-CAHN ngày 24/10/2012. Đây là điều bất thường đối với bất kỳ vụ án trốn thuế mang bản chất “kinh tế” thuần túy nào.
Vào ngày 25/12/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra (PC46) thuộc CA TP Hà Nội chính thức có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT (xem Bút lục 0007), tức về mặt pháp lý kể từ ngày 25/12/2012 vụ án mới được bắt đầu. Nói cách khác, trong khi chưa có vụ án chính thức về phương diện tố tụng hình sự, CA TP Hà Nội đã chuẩn bị sẵn một “vụ án” với những “chứng cứ” được tạo dựng theo hướng cáo buộc anh Lê Quốc Quân vào tội “trốn thuế”.
5. Mặc dù anh Lê Quốc Quân luôn yêu cầu sự tham gia của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can, nhưng hầu như toàn bộ quá trình điều tra xét hỏi đã diễn ra không có sự tham gia của luật sư. Theo Điều 58 của BLTTHS, chỉ trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bào chữa mới tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Việc cản trở và gây khó khăn cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra xét hỏi vụ án “Lê Quốc Quân” cho thấy cơ quan điều tra luôn xem vụ án này có tính chất chính trị và liên quan đến “an ninh quốc gia”, hơn là mang bản chất kinh tế như luật định.
6. Trong Quyết định phê chuẩn lệnh khám xét số 02/QĐ-VKS(P1) ngày 26/12/2012, Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội chỉ nhắc đến “Lệnh khám xét số 05 ngày 25/12/2012”, chứ không đề cập cụ thể và chính xác Lệnh khám xét số 06/CQCSĐT(PC46) ngày 25/12/2012 mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi làm việc của anh Lê Quốc Quân trên thực tế (xem Bút lục 0021).
Do đó, có thể nói Lệnh khám xét số 06/CQCSĐT(PC46) của Cơ quan cảnh sát điều tra không hề có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội theo yêu cầu tại Điều 141 Bộ luật TTHS. Tức là, việc khám xét mà Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành tại nơi làm việc của anh Lê Quốc Quân đã vi phạm thủ tục tố tụng.
Đó là chưa nói đến việc anh Lê Quốc Quân liên tục phản đối và đề nghị điều tra hành vi của một số người mặc cảnh phục và thường phục đột nhập nơi làm việc của anh nhiều tháng trước đó để lấy đi một cách bất hợp pháp các tài liệu và chứng từ kế toán của Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam (xem các Bút lục số 0183 và 0216), nhưng cơ quan điều tra vẫn cố tình làm ngơ, không xử lý.
7. Tại buổi khám xét nơi ở của anh Lê Quốc Quân, cơ quan điều tra đã tịch thu một số sách và tài liệu riêng của anh và gia đình. Theo Điều 145 BLTTHS, khi khám xét điều tra viên chỉ tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Trong Bảng thống kê tài liệu thu giữ (xem Bút lục số 0046), hầu hết sách và tài liệu bị tạm giữ đều có nội dung “nhạy cảm” về chính trị đối với nhà cầm quyền mặc dù không liên quan đến vụ án “trốn thuế”. Thay vì hoàn trả lại cho anh Lê Quốc Quân và gia đình, cơ quan điều tra khi mở niêm phong đồ vật vào ngày 20/3/2013 đã tiếp tục giữ lại.
Trong Biên bản mở niêm phong lập cùng ngày, có đoạn ghi: “xét thấy một số đồ vật, tài liệu cần phải điều tra, xác minh làm rõ, nên CQĐT-Công an TP Hà Nội tiến hành thu giữ”. Như vậy, bên cạnh vấn đề “thuế”, dường như cơ quan điều tra rất quan tâm khía cạnh chính trị của vụ án này.
8. Quá trình điều tra xét hỏi vụ án đặt ra nhiều nghi vấn về cách thức thu thập chứng cứ. Toàn bộ cáo buộc của cơ quan điều tra đều dựa trên sự suy đoán theo hướng “có tội”, thay vì “vô tội”, và dựa trên lời khai của những người có liên quan.
Thật vậy, đọc hồ sơ vụ án “Lê Quốc Quân”, người ta dễ dàng nhận ra rằng việc cáo buộc phạm tội của Cơ quan cảnh sát điều tra không dựa trên chứng cứ cụ thể và rõ ràng. Tất cả đều được dàn dựng một cách có chủ đích từ ban đầu như thể nhằm thực hiện một “đơn đặt hàng” buộc tội anh Quân. Bởi lẽ quá trình “phạm tội” của luật sư Lê Quốc Quân hầu như chỉ dựa vào sự suy đoán “có tội” từ các lời khai của những nhân viên Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam tại các buổi làm việc không có sự chứng kiến của luật sư, không có sự đối chất giữa họ và anh Quân, và chưa nói đến việc không loại trừ khả năng họ chịu áp lực từ chính Cơ quan cảnh sát điều tra.
Khoản 1 Điều 138 BLTTHS quy định rằng khi có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều tra viên tiến hành đối chất. Việc những người có liên quan khai nhận rằng anh Lê Quốc Quân “lập hồ sơ khống và chỉ đạo về việc dùng hoá đơn thuế GTGT khống” nhằm trốn thuế, mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã cáo buộc anh Lê Quốc Quân phạm tội, rõ ràng mâu thuẫn với các tuyên bố của anh Quân trong quá trình xét hỏi. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã không tiến hành đối chất và làm ngơ trước mọi yêu cầu của anh Quân. Việc anh Quân không nhận tội cũng đương nhiên mâu thuẫn với tất cả lời khai của những người có liên quan nêu trên. Dù vậy, hồ sơ vụ án đã không đề cập gì đến bất kỳ buổi đối chất nào trong quá trình điều tra xét hỏi. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Một Luật Sư
Theo VRNs.
Sự thật vụ gây rối tại Trại giam Xuân Lộc
(Vụ phân tích bản tuyên bố chung thì chả thấy báo chí nào phân tích "sự thật", còn mấy vụ này đưa sự thật nhanh thế, hề hề)
Trại giam Xuân Lộc, nơi xảy ra vụ phạm nhân gây rối - Ảnh: K.C |
Chiều qua 30.6, lực lượng Công an H.Xuân Lộc, Công an Đồng Nai và Bộ
Công an... đã ngăn chặn kịp thời vụ gây rối trật tự tại Trại giam Xuân
Lộc (Z30A) thuộc Tổng cục VIII - Bộ Công an, đóng tại H.Xuân Lộc (Đồng
Nai).
Theo thông tin ban đầu, khoảng 8 giờ 30 hôm qua, tại Phân trại số 1, khi
cán bộ quản giáo tổ chức cho phạm nhân (PN) đá bóng ở sân trong khu vực
giam giữ thì Phạm Văn Trí (đội 17) và Phạm Ngọc Hưởng (đội 15) dùng đá
4 x 6 cm ném về khu vực cổng trại, nơi có một số cán bộ chiến sĩ đang
làm nhiệm vụ và la hét. Thấy tình hình mất trật tự, cán bộ trại giam tổ
chức đưa các PN về khu giam giữ. Trên đường đi, PN Nguyễn Văn Tân (đội
8) dùng đá và dùi tự chế tấn công trung úy Nguyễn Văn Tuấn khiến anh này
bị thương nhẹ.
Sau khi sự việc xảy ra, Ban giám thị đã cử cán bộ xuống giải quyết. Tuy
nhiên, có khoảng 50 người đã kích động PN trong các buồng giam kéo ra
khu vực gần cổng trại la hét. Cán bộ ban giám thị đến thuyết phục nhưng
bất thành. Các PN này đưa ra yêu sách, đòi tất cả cán bộ trại giam phải
ra khỏi và chỉ để đại tá Hồ Phi Thắng, Giám thị Trại giam Xuân Lộc ở lại
trong khu giam giữ. Khi cán bộ chiến sĩ rút khỏi khu giam giữ, các PN
quá khích đã phá cửa, giải thoát cho 19 người ra khỏi nhà kỷ luật và khu
giam riêng, sau đó kéo nhau vào căng tin, nhà ăn để lấy nước uống và
dụng cụ nhà bếp làm hung khí. Một số PN sử dụng gậy gỗ và các dụng cụ
khác chốt bên trong cửa chính và 2 cửa phụ của phân trại gây rối. Một số
PN khác giữ đại tá Thắng và khóa cổng phân trại không cho người bên
ngoài vào.
Trước diễn biến của vụ việc, Ban giám thị đã xin chỉ đạo của Tổng cục
VIII. Tổng cục VIII đã điều động cán bộ chiến sĩ thuộc Trại giam Thủ
Đức, Trại Huy Khiêm, Tiểu đoàn Cảnh sát cơ động (Công an Đồng Nai), Sở
Cảnh sát PCCC; Công an H.Xuân Lộc... đến tăng cường để ổn định tình hình
trật tự, ngăn chặn không cho PN trốn trại.
Thiếu tướng Hồ Thanh Đình, Phó tổng cục trưởng Tổng cục VIII cũng đã
trực tiếp vào khu giam giữ để chỉ đạo xử lý và yêu cầu PN chấp hành pháp
luật; đồng thời lắng nghe PN trình bày tâm tư nguyện vọng. Đến cuối
ngày tình hình đã được ổn định, đại tá Thắng ra khỏi phân trại an toàn.
Gây rối để yêu sách
Trao đổi với PV Thanh Niên, thiếu tướng Hồ Thanh Đình cho biết nguyên
nhân các PN gây rối chủ yếu là do đòi được chuyển trại, đòi chế độ ăn...
Trong số PN đang cải tạo tại đây, chỉ có khoảng 30-40 người quá khích,
phản đối, số còn lại chủ yếu la hét, đứng xem. “Chúng tôi đã tách ra
được khoảng 40 PN để tiếp tục điều tra. Sau khi xác định rõ mức độ sai
phạm sẽ xử lý theo quy định của pháp luật”, thiếu tướng Đình nói.
Đại tá Hồ Phi Thắng xác nhận, trong thời gian ông ở lại khu giam giữ
theo yêu cầu của các PN để giải quyết yêu sách, ông không bị ai đe dọa
tính mạng, xâm phạm thân thể. “Sau khi tôi vận động, giải thích cho các
PN hiểu, họ đã ổn định trật tự khu vực phân trại. Còn vụ việc thì đang
được các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra”, đại tá Thắng nói.
Kim Cương
(Thanh niên)
Định hướng Trung Quốc?
Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ hai, ngày 01 tháng bảy năm 2013
Đồng Đăng đây, nọ Bình Tường
Song song đôi mặt như gương với hình
Bên ni biên giới là mình
Bên kia biên giới cũng tình quê hương…(Thơ Tố Hữu)
Song song đôi mặt như gương với hình
Bên ni biên giới là mình
Bên kia biên giới cũng tình quê hương…(Thơ Tố Hữu)
Trong cuộc phỏng vấn ngày 19/6/2013 với RFI, và trong cuộc điều trần tại
Quốc Hội Mỹ trước đó, G/S Carl Thayer đã phân tích và kết luận là Việt
Nam đã chọn Trung Quốc làm đối tác chiến lược căn bản, nhất là trong các
vấn đề chính trị và kinh tế; do đó, vai trò của Âu Mỹ sẽ mờ nhạt tại
Việt Nam trong tương lai. Các diễn biến gần đây cho thấy GS Thayer khá
chính xác trong việc chuần mạch.
Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tuyên bố là quan hệ Việt-Trung đã đi
vào một bước ngoặt mới rất tích cực sau chuyến viếng thăm của Chủ Tịch
nước Việt qua Trung Quốc. Dù là viên tướng Bắc Việt đầu tiên thăm Ngũ
Giác Đài, Tổng Tham Mưu Trưởng Đỗ Bá Tỵ đã minh định rõ quan điểm của
mình trước đó,” Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền
núi, sông liền sông. Mối tình hữu nghị Việt-Trung, tài sản vô giá do chủ
tịch Hồ Chí Minh và chủ tịch Mao Trạch Đông sáng lập và dày công vun
đắp đã ngày càng phát triển mạnh mẽ và được nâng lên thành quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện.”
Nhiều bạn BCA hỏi thăm về hệ quả của bước ngoặt này trong nền kinh tế
tài chánh sắp đến. Nếu Hiệp Định Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
sẽ không xẩy ra, liệu kinh tế Việt Nam có phục hồi vào 2015 như dự đoán?
Những ngành nghề và phân khúc thị trường nào sẽ phát triển, và ngược
lại? Thành phần nào sẽ hưởng lợi, và ngược lại? Liệu môi trường vĩ mô có
giúp cho các doanh nghiệp tư nhân hay ngược lại? Chúng ta nên đầu tư
tiền nhàn rỗi vào đâu?
Con đường mới
Trước hết, xin thưa rõ là tôi sẽ không bình luận gì về ảnh hưởng của sự
lựa chọn này trên địa chính trị hay các uẩn khúc phía sau. Đây là vùng
cấm kỵ và tôi cũng không có thông tin ngoài luồng nào. Nếu thuần túy
nhìn về khía cạnh kinh tế thì tôi cho rằng đây là một quyết định tích
cực. Tôi luôn than phiền về “con thuyền không bến” của một nền kinh tế
“dở dở ương ương”, nửa thị trường nửa xã hội nửa tả pín lù. Ít nhất, các
nhà lãnh đạo xứ này đã không còn dặm chân tại chỗ và quyết định lái
chiếc xe ra khỏi bùn lầy và đi về hướng …Trung Quốc. Đi đâu thì đi,
nhưng chúng ta sẽ được …chuyển dịch.
Đây là một con đường mới, vì Trung Quốc không theo nền kinh tế thị
trường của toàn cầu hay có định hướng XHCN như Việt Nam ta. Nền kinh tế
chính trị Trung Quốc được mô tả như là một mô hình…có tính chất Trung
Quốc…nói nôm na là…chủ nghĩa Đại Hán đại đồng (không khác gì lắm với
chiêu bài Đại Đông Á của phát xít Nhật vào thế chiến thứ 2). Thực ra,
kinh tế Trung Quốc rất tư bản (kiểu hoang dã và bè nhóm), không có định
hướng xã hội dù vẫn trưng cờ CS và cũng không là kinh tế do thị trường
quyết định mà là do sự vận hành tùy tiện của quan chức Trung Ương và địa
phương.
Ảnh hưởng của Trung Quốc
Vì chúng ta đi theo con đường Trung Quốc thì viễn cảnh của mọi ngành và
mọi người sẽ không khác xa với Trung Quốc bao nhiêu. Bức tranh tổng thể
của một Việt Nam đi sau Trung Quốc 15 năm sẽ được sao chép giống một
tỉnh trung bình của Trung Quốc vào 2000, với nhiều tiến bộ hơn về IT và
mậu dịch, nhưng cũng nhiều tổn hại hơn về môi trường và an toàn thực
phẩm.
Cái lợi lớn nhất khi hai kinh tế Việt-Trung hội nhập là sự ổn định của
chánh sách. Dường như mọi doanh nhân đều hiểu các quy trình hành chánh
và liên hệ chánh trị cần có cho những phi vụ, từ doanh nghiệp nhà nước
đến công ty tư nhân. Như cái bánh khi hoàn tất (hay chưa hoàn tất), các
phần chia chác cho khách ẩm thực đã được quyết định từ trước. Không gì
bất ngờ.
Cái hại lớn nhất là hàng hóa và đầu tư Trung Quốc sẽ tràn ngập, tỷ lệ
mậu dịch và gia công sản xuất sẽ lớn hơn con số 80% hiện nay. Doanh nhân
Việt nam sẽ giữ vai trò lép vế và phần bánh lớn nhất sẽ thuộc về doanh
nhân Trung Quốc. Quan trọng hơn, Trung Quốc có thể xuất khẩu “ô nhiễm
môi trường” qua Việt Nam, trước hết bằng những công nghệ lạc hậu và sử
dụng nhiều năng lượng.
Tệ hại hơn nữa là sự “rút ruột” những tài nguyên như lâm sản, khoáng sản
và nông hải phẩm. Trong khi đó, các thương hiệu của thực phẩm Việt Nam
có thể bị hoen ố như Trung Quốc trong các thị trường xuất khẩu Âu Mỹ.
Phân khúc và thành phần hưởng lợi
Giống như Trung Quốc, những ngành nghề thăng hoa trong nền kinh tế này
sẽ gồm các doanh nghiệp nhà nước, các dự án khủng có chánh phủ bảo kê,
các ngân hàng và định chế tài chánh, các công ty BDS, các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản, lâm sản, các hãng cung cấp dịch vụ viễn thông, các
nhà sản xuất công nghiệp có ưu tiên về độc quyền hay liên hệ…
Với sự tiếp tay của các tập đoàn lớn Trung Quốc, nhiều doanh nhân Việt
trong các ngành nghề nói trên sẽ kiếm tiền nhiều hơn (Forbes sẽ đăng cai
thêm vài ông bà tỷ phú đô la). Nhập siêu vẫn cao vì phần lớn kỹ nghệ
Việt có bản chất là gia công, tuy nhiên thị trường lớn của Trung Quốc
cũng sẽ hấp thụ thêm rất nhiều hàng Việt.
Ngành du lịch cũng sẽ hưởng lợi vì doanh nhân Trung Quốc sẽ tự tay khai
thác thị trường này qua các tours dành cho du khách Trung Quốc. Bù lại,
du khách Âu Mỹ sẽ rút lui vì họ thường “kỵ đụng độ” với du khách Tàu.
Tóm lại, số lượng khách sẽ đông hơn nhiều nhưng chất lượng khách sẽ giảm
mạnh.
Những ngành nghề bị thử thách
Trong một nền kinh tế mà DNNN và các nhóm lợi ích chi phối, những doanh
nghiệp nhỏ lẻ tư nhân (SME) sẽ không cạnh tranh nổi để thu hút các nguồn
lực như tài chánh, thị trường, nhân sự, giấy phép…và sẽ nắm một vai vế
thứ yếu. Ngoài những doanh nghiệp làm việc trực tiếp cho chánh phủ và
Trung Quốc, các ngành nghề sản xuất cũng như dịch vụ sẽ không phát triển
nổi. Số người khởi nghiệp kinh doanh sẽ ít dần và môi trường nuôi dưỡng
sáng tạo trên thương trường sẽ bị bào mòn.
Nền kinh tế Việt sẽ tiếp tục xếp hạng cuối tại ASEAN về thu nhập cá
nhân, về khả năng cạnh tranh, về thị phần quốc tế, về hiệu quả đầu tư…so
với các nước láng giềng. Vời Trung Quốc, chúng ta sẽ giữ khoảng cách 15
năm sau họ.
Nông nghiệp có thể phát triển mạnh hơn nhờ đầu tư Trung Quốc; tuy nhiên,
tỷ lệ lợi nhuận cho nông dân có thể giảm khi các thương lái Trung Quốc
kiểm soát thị trường. Vả lại, nông nghiệp không phải là điểm mạnh của
nền kinh tế Trung Quốc.
Môi trường sống
Mối quan tâm mà các chuyên gia kinh tế phải cảnh báo là vấn đế an toàn
thực phẩm và nạn ô nhiễm toàn diện trên không khí và các nguồn nước. Đây
là vấn nạn lớn nhất của Trung Quốc vì chánh phủ Tàu không cách nào giải
quyết được. Việc tạm ngưng các giấy phép kinh doanh cho những doanh
nghiệp Trung Quốc gây ô nhiễm nặng sẽ đẩy họ đi tìm những quốc gia “dung
thứ” cho những lạm dụng này. Việt Nam, Kampuchia và Lào là 3 nơi gần
nhất.
Trong khi đó, có thể nói “thế lực thù địch” lớn nhất của chế độ và xã
hội Trung Quốc không phải là Mỹ hay các nhà đối lập. Đó là sự an toàn
thực phẩm. Các cha mẹ có con trẻ phải bay qua các nước Nhật, Hàn, Thái
Lan hay Hong Kong, Macau…để khuân sữa bột về. Các tầng lớp có tiền than
phiền hàng ngày trên những blogs cá nhân là họ không còn thưởng thức
hương vị của bất cứ món ăn gì…vì sợ. Sự bất an do hóa chất, nguyên liệu
đểu, cách pha nấu, vi phạm luật nhờ “lại quả”…gây ra trên thực phẩm là
một sự bất an chia đều trên mọi thành phần dân chúng (già trẻ lớn bé,
nam nữ giàu nghèo). Cái stress hiện diện 3, 4 lần mỗi ngảy sẽ hủy hoại
tinh thần những con người mạnh mẽ nhất.
Trên hết là sự hiện diện liên tục của nền văn hóa tham lam, vô cảm và
giả dối trên mọi hành vi xử thế; cũng như tư duy lợi ích cá nhân luôn
đặt lên trên luật pháp và xã hội. Một xã hội như vậy sẽ kéo dài đến bao
lâu? 92 năm đă qua tử ngày Mao sáng lập đảng CS Trung Quốc. Liệu các
lãnh đạo hiện tại có thể kéo dài tuổi thọ thêm 92 năm nữa? Nếu được, đó
sẽ là một phép lạ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại…
Alan Phan(Blog Góc nhìn Alan)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét