Ngu dân hóa – Một chủ trương lớn của Đảng?
LTS: Sau bài "Nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm gây bất ngờ cho Phó thủ tướng"
đăng trên VNE, đã dấy lên nhiều phản ứng về sự kiện này. Một bạn đọc
trên báo của cộng đồng người Việt tại Séc cũng đã bày tỏ rõ ràng quan
điểm của mình về vấn đề này.
Nhàn rỗi, rách việc lướt mạng chơi. Báo Tây chán rồi thì mở báo Ta và chẳng may thế nào lại vớ trúng bài „Nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm gây bất ngờ cho Phó thủ tướng“ đăng tải trên trang mạng vnexpress.
Xin trích một số đoạn trong bài này "...Sáng
17/11, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân dự lễ kỉ niệm 30 năm ngày nhà
giáo Việt Nam tại trường phổ thông Đoàn Thị Điểm (khu đô thị Bắc Cổ Nhuế
- Chèm, Từ Liêm, Hà Nội). Phó thủ tướng gửi lời cảm ơn và chúc mừng đến
các thầy cô nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Những ngày này, lãnh đạo Đảng,
nhà nước và địa phương đều đến các trường để khẳng định rằng đất nước
Việt Nam 4.000 năm nay đều cần đến thầy cô, 90 triệu dân Việt Nam cần
một triệu thầy cô và các em học sinh cần các thầy cô", Phó thủ tướng
nói....“. Đọc xong vừa thấy buồn, vừa thấy tức anh ách!.
Buồn, vì sự dối trá càng ngày càng lũng
đoạn tòan xã hội Việt Nam. Ai chả biết ngành giáo dục Việt Nam xuống cấp
thế nào, ai chả biết người Thầy ngày nay không còn là người Thầy nữa mà
chỉ còn là kẻ "kiếm tiền bằng mọi phương cách“, ai chả biết cái câu
"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư – (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là Thầy)“
đã bị (tuyệt đại đa số) học sinh cho vào thùng rác. Ngày 20.11 – ngày
quốc tế các nhà giáo, học sinh (như chúng tôi trước đây) đến nhà các
thầy cô thăm hỏi để bày tỏ sự kính trọng và yêu quí thực sự, nay bị biến
thành ngày "kiếm chác của các thầy cô“.
Trò nào không đi, trò nào không "biếu“
sẽ bị nhớ mặt, sẽ bị "củ hành“, sẽ bị điểm kém, bị nhận xét xấu đi.
Những sự thật rành rành ra như thế mà ông Phó thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân, (chẳng hiểu ông này ngày xưa có đi thi đại học và đủ điểm để được
đi Tây không? Hay thuộc diện con em cán bộ tập kết được cử đi Tây du học
(không cần phải thi hay có trình độ) và cũng sở hữu tấm "Bằng lá
chuối“ giống như đồng chí X (Ếch) đang ngồi xổm và hay chém gió trong bộ tam, bộ tứ của Việt Nam, không biết?!!!.
Một điều xuẩn ngốc và dối trá trắng trợn lại đến ngay sau đó nếu các bạn chịu khó đọc tiếp …
“Bất ngờ đặt câu hỏi: "Đất nước Việt
Nam có ba điều gì làm em tự hào nhất?", Phó thủ tướng nhận được câu trả
lời của em Trịnh Mai Chi (lớp 9A2). Chi bày tỏ, ba điều mà em tự hào
nhất là truyền thống yêu nước của dân tộc, đạo hiếu - truyền thống uống
nước nhớ nguồn và sự phát triển của nền kinh tế đất nước....“.
Truyền thống yêu nước của dân tộc
– Ôi, yêu thế nhỉ? Nước sắp mất đến nơi rồi (rừng vàng, biển bạc đã
cống, đã bán cho nước lạ gần hết rồi, đất phèn chua cũng bị thu hồi làm
dự án gần hết rồi, dân (chỉ có một nhúm) đi biểu tình chống xâm lược,
chống bành trướng thì bị bắt, bị bỏ tù, bị "công an nhân dân dưới lốt
côn đồ“ hành hung – vậy mà còn xoen xóet, còn leo lẻo Truyền thống yêu
nước....
Thứ nữa đến Đạo hiếu –
Nếu ai biết đọc chữ thì đều biết cả 10 -20 năm nay, ở Việt Nam chỉ còn
một thứ đạo duy nhất, không phải đạo hiếu mà là "Đạo Tiền“! Bất cứ cái
gì cũng được cân, đong, đo, đếm bằng tiền hết. Mọi chức vụ, từ chủ tịch
phường/xã đến thứ trưởng, Bộ trưởng, từ bí thư chi bộ đến ủy viên ban
chấp hành trung ương đảng, cái gì cũng được nêu giá bán tất, nó giống
như ta đi chợ mua củ xu hào, mua cân thịt lợn mà thôi. Chuyện con cái
tống cổ bố mẹ, ông bà ra ngoài đường để chiếm đọat nhà cửa ngày nào
chẳng có, chuyện anh em xin nhau tí tiết chỉ vì tranh chấp nửa mét hàng
rào xảy ra như cơm bữa, vậy mà vẫn mặt mo …
Đến cái điều thứ ba
mà cô bé học sinh (chắc cũng thuộc nhóm được chỉ định từ trước, câu hỏi
và câu trả lời đã được soạn sẵn, nó cũng giống như anh Tiến sĩ NDN, khi
thi đại học được hẳn 13 điểm, sang Séc lấy bằng TS nhờ kiến thức biết
nhiều, hiểu rộng về "bún, phở, nem và phong bì!“, thường xuyên được phân
công tiếp đón các đòan ĐB VN sang Séc chơi, rồi trong các buổi đàm
thoại cũng giả vờ cho mọi người "tự do phỏng vấn“. Tòan mấy trò để lừa
tầng lớp "Mông ngó trời ngày 12 tiếng“.
Sự ngu xuẩn lên đến tột cùng
(của cả kẻ tung là ông Phó thủ tướng và người hứng – là đứa bé ngây thơ
Trần Hồng Huệ Chi kia) - xin bạn xem tiếp trích đoạn "Riêng về ý
kinh tế Việt Nam phát triển, Phó thủ tướng mời em Trần Hồng Huệ Chi (lớp
6A1) lấy ví dụ thể hiện rõ nhất. Chi cho rằng, xuất khẩu gạo đứng đầu
thế giới là ví dụ tốt nhất thể hiện nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát
triển. Phó thủ tướng phải thốt lên "Huệ Chi là bất ngờ lớn nhất của ngày
hôm nay".
Các bạn ở Séc hiện nay (và ở
châu Âu nói chung), có bao giờ ăn gạo VN không? hay tòan ăn gạo Thái?
Một sự thật đau lòng là tuy xuất khẩu được nhiều nhưng giá lại rẻ mạt và
nhiều lúc bị những nhà XK trung gian (như Thái Lan) bắt chẹt!. Nếu gạo
Thái có giá từ 800-1200 USD/tấn thì gạo VN may ra có giá bán bằng một
nửa. Thêm vào đó, ngày hôm nay mà còn đem phát triển nông nghiệp (sản
lượng gạo chỉ là một chỉ số mà thôi) ra làm thước đo phát triển thì thật
là "ngu hết chỗ nói".
Bạn thử nghĩ mà xem, nước
Séc "bé bằng con kiến“ mà cái gì cũng có, cái gì cũng làm được (hòan
chỉnh), từ sản xuất xe ô tô, đàu tàu hỏa, đến máy bay, vệ tinh, sản xuất
từ thuốc tây (chống ung thư, chống AIDS đến các loại vũ khí hiện đại –
Rađa phát hiện máy bay tàng hình – Đến Mỹ còn phải ngả mũ kính phục. Một
chiếc xe hơi của họ bán với giá trung bình là 15 000 đô/chiếc, (ngày
nay, mỗi năm Séc cho ra lò khoảng gần 1 triệu xe hơi) như vậy doanh
thu của ngành xe hơi Séc hàng năm đã vào khỏang 15 tỉ Mỹ kim, thử hỏi VN
xuất khẩu được mấy triệu tấn gạo/năm? Thu về được mấy trăm triệu mỹ
kim? Đọc những dòng cuối của bài này tôi lại càng thấy rùng mình...
"Cám ơn các thầy cô đã hết lòng vì
học sinh, chúc các thầy cô luôn tự hào về nghề nghiệp, không ngừng phấn
đấu để làm tấm gương cho học sinh về đạo đức, về tự học, về sự sáng
tạo".
Đáng tiếc, khi mà một quan
chức lớn trong chính phủ, đã từng làm Bộ trưởng giáo dục - thuộc hàng
ngũ được học hành tử tế, mà đi đâu vẫn nói dối xơi xơi, vẫn không dám
nhìn nhận vào các sự thật đau lòng, thì chúng ta còn mong gì đến sự thay
đổi trong hàng ngũ lãnh đạo, mong gì ở các thay đổi trong đội ngũ những
người "coi học sinh như món hàng hóa trao đổi kiếm chác“ kia.
Những sự hiểu biết lệch lạc,
phiến diện của học sinh VN ngày nay không biết có phải xuất phát từ chủ
trương lớn của ĐCS VN không nhỉ?
(Vietinfo.eu)
Mai Thái Lĩnh - Làm thế nào để Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Dân?
Bauxite Việt Nam: Trên RFA ngày 15-11-2012 (tức ngày 14-11-2012 theo
giờ Hoa Kỳ) có bài viết của Mặc Lâm: Tại sao Thủ tướng không thể từ
chức? trong đó có dẫn lời của PGS Tương Lai và ông Mai Thái Lĩnh, một
người không có chân trong Đảng CS nhưng đã từng đảm nhiệm chức Phó chủ
tịch HĐND TP Đà Lạt khóa 1989-1994. Điều đó dẫn đến lời bình trên trang
Ba Sàm, rằng người viết bài đã mượn lời hai vị thức giả uy tín để biện
minh khéo léo cho ông Thủ tướng. Đó là lý do khiến ông Mai Thái Lĩnh,
cộng tác viên quen thuộc của BVN, gửi đến bài viết này. Trân trọng mời
bạn đọc xa dần theo dõi ý kiến của ông.
*
Sáng ngày 14-11-2012, trong phiên chất vấn tại Quốc hội Việt Nam, đại
biểu Dương Trung Quốc đã đề nghị Thủ tướng nên từ chức để làm gương tốt,
mở đầu cho “một lộ trình là các quan chức của ta làm được cái điều mà
các quốc gia tiên tiến vẫn làm”.
Ông đặt hai câu hỏi: (1) Thủ tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã
nặng trách nhiệm với đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân? (2) Thủ tướng có
tán thành là sẽ khởi đầu cho một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một
văn hóa từ chức, để từng bước đoạn tuyệt với lời xin lỗi hay không?
Trong phần trả lời, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không đề cập gì đến việc
“hướng tới một văn hóa từ chức”, cũng không nói gì về “trách nhiệm với
dân”. Thay vào đó, ông nhắc đến quá trình “51 năm theo Đảng hoạt động
cách mạng” qua đó ông trần tình: “Và Đảng, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành
Trung ương đã hiểu rõ về tôi cả về ưu điểm, khuyết điểm, cả về phẩm chất
đạo đức, cả về năng lực, khả năng, cả về sức khỏe thương tật, cả về tâm
tư nguyện vọng của tôi”.
Về việc đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng, ông lập luận: “Đảng đã quyết định
phân công tôi ứng cử làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, tiếp tục làm
nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, Trung ương phân công. Và Quốc hội đã bỏ
phiếu bầu tôi làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ thì tôi sẵn sàng chấp
nhận, sẵn sàng chấp hành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, của Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất đối
với tôi. Tóm lại có thể nói là gần suốt cả cuộc đời tôi đi theo Đảng
hoạt động cách mạng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp quản lý của Đảng, tôi
cũng không có chạy, tôi cũng không có xin và tôi cũng không có thoái
thác, từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng, Nhà nước quyết định phân công,
giao phó cho tôi”.
Từ đó, ông khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục thực hiện và nghiêm túc thực hiện như tôi đã làm trong suốt 51 năm qua” (1)
Phản ứng chung của dư luận là không hài lòng với phong cách và nội dung
trả lời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhà báo Trương Duy Nhất bình luận
trên blog của ông: “Nghe Thủ tướng nói càng thấy đúng là ông chỉ nói về
trách nhiệm trước đảng, về sự tận tụy, lòng trung thành với đảng mà
không hề ý thức được trách nhiệm trước dân. Tôi có cảm giác dường như
Thủ tướng nhầm lẫn quốc hội với đảng. Quốc hội là đại diện của dân, trả
lời chất vấn trước quốc hội là trách nhiệm trước dân chứ không phải
trách nhiệm trước đảng” (2)
1) Tại sao Thủ tướng lại nặng trách nhiệm với Đảng mà nhẹ trách nhiệm với Dân?
Vấn đề đặt ra là: tại sao Thủ tướng lại có thể “nhầm lẫn Quốc hội với
Đảng”, đặt nặng trách nhiệm với Đảng mà xem nhẹ trách nhiệm với Dân?
Để có thể hiểu rõ điều này, có lẽ chúng ta phải trở lại với cuộc “chỉnh
đốn Đảng”, mà trọng tâm là Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (từ 1-10 đến 15-10-2012). Căn cứ vào Thông báo cuối hội nghị,
chúng ta được biết kết quả của “việc xem xét trách nhiệm tập thể và cá
nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư” trong đợt “chỉnh đốn Đảng” vừa qua là
như sau:
“Bộ Chính trị đã thống nhất cao tự nhận và đề nghị Ban Chấp hành Trung
ương xem xét có hình thức kỷ luật khiển trách về trách nhiệm chính trị
đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị”. Nhưng:
“Sau khi thảo luận, cân nhắc nhiều mặt, Ban Chấp hành Trung ương đã bỏ
phiếu quyết định không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ
Chính trị” (3)
Mặc dù trong thông báo chỉ nói đến “một đồng chí trong Bộ chính trị” và
trong cuộc tiếp xúc cử tri tại TP Hồ Chí Minh vào ngày 17-10-2012,
Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cũng không nêu đích danh mà chỉ gọi là
“đồng chí X”, hầu như mọi người dân trong nước – và ngay cả báo chí
nước ngoài, cũng có thể đoán ra “đồng chí X” đó chính là Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Như vậy, “cuộc chỉnh đốn Đảng” từng được quảng cáo rầm rộ đã dẫn đến kết
quả “Ban chấp hành Trung ương biểu quyết không kỷ luật Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng”. Bình luận về sự kiện này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh có nhận xét:
“Việc Bộ Chính trị không thuyết phục được Ban Chấp hành Trung ương là
điều khiến mọi người ngạc nhiên. Đây là điều mà tôi thấy hiện nay chưa
giải thích được, và chưa biết được rằng hệ quả sẽ như thế nào ? (…) Tôi
nghĩ rằng, đây là một điều rất không bình thường, và không biết rằng là
sắp tới đây Bộ Chính trị sẽ thực hiện sự lãnh đạo của mình như thế nào,
nếu như mà việc Bộ Chính trị quyết định 100% đồng ý rồi, mà ra đến Trung
ương lại không thuyết phục được. Đây là điều mà cá nhân tôi, đã từng
phục vụ cho một số đồng chí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
một thời gian tương đối dài, hết sức lấy làm chú ý. Và hiện nay tôi chưa
có thể giải thích được điều này” (4)
Việc Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam biểu quyết “không
kỷ luật Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Tấn Dũng” đã dẫn đến hệ quả “Quốc
hội không thể tiến hành biểu quyết bất tín nhiệm Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng”. Đó chính là nguyên nhân khiến nhiều người đặt lòng tin vào cuộc
“chỉnh đốn Đảng” cảm thấy hụt hẫng.
Xét về mặt hình thức, nếu căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp 1992 (bản sửa
đổi, bổ sung năm 2001), chúng ta thấy Quốc hội có quyền “bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm” một số chức vụ – trong đó có chức vụ Thủ tướng Chính
phủ; đồng thời cũng có quyền “ bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người
giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn" (trong số đó có chức vụ
Thủ tướng). Thế nhưng, mặc dù quy định về thủ tục “bỏ phiếu tín nhiệm”
đã được ghi trong Luật Tổ chức Quốc hội 2002 và cả trong bản sửa đổi năm
2007, Quốc hội lại không thể tự mình thực hiện quyền này. Thực tế cho
thấy chế độ “đảng trị” đã vô hiệu hóa công cụ hữu hiệu nhất của Quốc hội
để kiểm soát quyền lực của bộ máy hành pháp.
Cách đây hai năm, vào ngày 1-11-2010, tại Quốc hội khóa trước (khóa
XII), đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã từng đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm
Chính phủ nhưng bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bác bỏ[i]. Giải thích sự
khó khăn của việc tiến hành thủ tục này, đại biểu Lê Văn Cuông đã có
nhận xét: “Điều này đúng với pháp luật Việt Nam và điều lệ của Đảng Cộng
sản Việt Nam, hiện nay thiết chế ở Việt Nam là một đảng duy nhất lãnh
đạo toàn xã hội trong đó có Quốc hội, cho nên Quốc hội muốn “quyết” thì
cũng phải xin ý kiến cấp có thẩm quyền là Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp
hành Trung ương, những nơi này cân nhắc vấn đề sau đó có chủ trương để
cho Đảng đoàn Quốc hội và lãnh đạo Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ theo
qui định pháp luật và điều lệ đảng cộng sản Việt Nam” (5)
Có thế nói nhận định hết sức thẳng thắn và trung thực của vị cựu đại
biểu Quốc hội này đã nói lên thực chất của Quốc hội Việt Nam: đó chỉ là
một cơ quan “đóng dấu” (rubber stamp) nhằm hợp pháp hóa các quyết định
của Đảng Cộng sản. Vì thế cho dù Hiến pháp và Luật có quy định, việc “bỏ
phiếu tín nhiệm” cũng chỉ có thể tiến hành một khi có lệnh của Bộ Chính
trị hoặc Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Điều này giúp chúng ta hiểu được thái độ “tự tin” (mà những người không
hài lòng có thể coi là “ngạo mạn”) của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại
diễn đàn Quốc hội. Là người theo Đảng lâu năm, ông hiểu rất rõ một điều:
nếu Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định không kỷ luật ông thì
không bao giờ Quốc hội có thể tiến hành bất cứ thủ tục pháp lý nào để
buộc ông phải từ chức. Thái độ xem thường Quốc hội (đồng nghĩa với xem
thường Dân) bắt nguồn từ nhận thức đó.
2) Làm thế nào để buộc Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Dân?
Trái với suy nghĩ của một số người, tập quán từ chức (tức là cái mà ở
nước ta những người sính chữ nghĩa hay gọi là “văn hóa từ chức”) không
chỉ là kết quả của một nền giáo dục, mà chủ yếu là kết quả của việc áp
dụng các nguyên tắc dân chủ trong một thời gian dài. Không phải người
nắm quyền lực nào cũng sẵn sàng tự nguyện từ chức, nhất là người đứng
đầu một chính phủ. Sau vụ bê bối Watergate, Tổng thống Richard Nixon từ
chức vào ngày 9-8-1974 là nhằm để tránh nguy cơ bị Quốc hội Hoa Kỳ xét
xử, nhất là sau khi Ủy ban Tư pháp của Hạ viện đã bắt đầu tiến hành thủ
tục luận tội Tổng thống. Tại các quốc gia theo chế độ đại nghị, có lúc
chính phủ chưa bị Nghị viện “biểu quyết bất tín nhiệm” nhưng Thủ tướng
vẫn từ chức, nhường chức vụ đó cho một người khác trong đảng cầm quyền
để tránh cho đảng không bị mất phiếu trong kỳ tổng tuyển cử sắp tới.
Nói cách khác, tập quán từ chức – một đặc điểm của “văn hóa chính trị”
(political culture) tại các quốc gia dân chủ, chịu ảnh hưởng của quy
trình “bỏ phiếu bất tín nhiệm” (vote of non-confidence) hay thủ tục
“luận tội” (impeachment) đối với các quan chức cao cấp trong bộ máy hành
pháp. Vì thế, thay vì “kêu gọi” hay “van xin” các quan chức cao cấp từ
chức, cách tốt nhất là khởi động các biện pháp chế tài để khi cần thiết,
có thể bãi nhiệm, cách chức hay luận tội bất cứ nhân vật nào trong
chính phủ, để không ai có thể đứng trên pháp luật hoặc ngoài pháp luật.
Xét về nguyên tắc, dưới chế độ đại nghị, người dân không trực tiếp bầu
người đứng đầu chính phủ mà chỉ bầu các thành viên của cơ quan lập pháp
(Nghị viện hay Quốc hội). Chính Nghị viện (hay Quốc hội) – với tư cách
là cơ quan được nhân dân giao quyền lực, mới là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền chọn bộ máy hành pháp (Thủ tướng và Nội các) để điều hành các
công việc của đất nước. Vì lẽ đó, Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước
Nghị viện (hay Quốc hội) và bất cứ lúc nào, Nghị viện (hay Quốc hội)
cũng có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm để buộc Thủ tướng từ chức nếu xét
thấy Thủ tướng không hoàn thành nhiệm vụ. Tất nhiên, để bảo đảm sự công
bằng giữa hai bên, Thủ tướng có quyền đề nghị với nguyên thủ quốc gia
(Vua, Nữ hoàng hay Tổng thống) một giải pháp khác: giải tán cơ quan lập
pháp để bầu lại một Nghị viện (hay Quốc hội) khác. Trong trường hợp này,
quyền lực được giao trả lại cho nhân dân và cử tri cả nước sẽ trở thành
trọng tài phân xử: một Nghị viện (hay Quốc hội) mới sẽ hình thành để
làm nhiệm vụ bầu chọn Thủ tướng và Chính phủ mới.
Kiến nghị về một cuộc “bỏ phiếu bất tín nhiệm” có thể xuất phát từ hai
phía. Nếu xuất phát từ Nghị viện nhằm chứng minh sự bất tín nhiệm của
Nghị viện (hay Quốc hội) đối với Thủ tướng hay một Bộ trưởng nào đó,
kiến nghị này được gọi là kiến nghị bất tín nhiệm (motion of
non-confidence) hoặc kiến nghị khiển trách (motion of censure). Nếu xuất
phát từ phía ủng hộ chính phủ nhằm hỗ trợ cho một dự án hay một dự luật
được đánh giá là cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng đến uy tín của chính
phủ, kiến nghị này được gọi là kiến nghị tín nhiệm (motion of
confidence). Để tạo điều kiện cho mỗi nghị sĩ hay dân biểu có thể tự
mình đề xuất việc bỏ phiếu tín nhiệm, tại nhiều quốc gia có quy định một
“ngưỡng tối thiểu” về số chữ ký ủng hộ để kiến nghị có thể được Nghị
viện hay Quốc hội xem xét. Vd: tại Thụy Điển, điều 4 chương 12 của “Văn
kiện về chính quyền” (Instrument of Government) – một trong bốn luật cơ
bản hợp thành Hiến pháp Thụy Điển, quy định: “Một kiến nghị làm căn cứ
cho một tuyên bố bất tín nhiệm chỉ được xem xét khi nó được đề xuất bởi
ít nhất 10% số thành viên của Nghị viện”.
Có thể nói “bỏ phiếu bất tín nhiệm” chính là cơ chế vận hành then chốt
của các chế độ đại nghị trên thế giới. Không thực hiện được điều này,
Nghị viện hay Quốc hội không thể bãi nhiệm chính những người mình đã
giao trách nhiệm điều hành bộ máy hành pháp.
Cũng cần lưu ý một điều: “bỏ phiếu bất tín nhiệm” ở các quốc gia theo
đại nghị chế trên thế giới hoàn toàn khác với kiểu “lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm” mà Quốc hội Việt Nam sắp thực hiện – sau khi đã
thông qua đề án trong kỳ họp cuối năm này. Sự khác nhau căn bản nằm ở
chỗ: biểu quyết bất tín nhiệm dưới chế độ đại nghị là một quy trình do
Nghị viện tự định đoạt, nhằm mục đích kiểm soát Thủ tướng và Nội các –
những người được Nghị viện giao trách nhiệm điều hành bộ máy hành pháp.
Không có cá nhân, tổ chức nào đứng trên Nghị viện, kiểm soát Nghị viện
trong việc thực hiện quy trình này. Còn quy trình “lấy phiếu tín nhiệm –
bỏ phiếu tín nhiệm” ở Việt Nam hiện nay – với thủ tục cực kỳ rườm rà,
lại là một quy trình chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Đảng Cộng sản (nhất
là của Bộ chính trị). Quy trình này sẽ có tác dụng như thế nào trong
việc răn đe, ngăn chặn nạn lạm quyền, tham nhũng? Về điều này, ngay cả
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết – một người ít nhiều vẫn còn tin vào sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, cũng tỏ ý hoài nghi. Theo đài BBC: “Giáo sư
Thuyết cũng nói ông nghi ngờ khả năng nghị quyết về bỏ phiếu tín nhiệm
các chức danh trong đó có cả Thủ tướng và Chủ tịch nước mà Quốc hội đang
bàn luận sẽ thay đổi được tình hình hiện nay” (6)
Mặt khác, cũng cần phải phân biệt giữa “bất tín nhiệm” và “luận tội”:
khi Nghị viện hay Quốc hội bất tín nhiệm Thủ tướng thì điều đó chỉ có
nghĩa là Thủ tướng không hoàn thành nhiệm vụ, không đủ năng lực, đánh
mất sự tin cậy của cơ quan đại diện nhân dân, chứ không có nghĩa là Thủ
tướng “phạm tội”. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp của Tổng thống
trong các chế độ tổng thống hay nửa-tổng thống. Ở Hoa Kỳ, Quốc hội không
thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Tổng thống vì Tổng thống do toàn dân bầu,
chỉ có cử tri mới có quyền thay đổi Tổng thống trong các cuộc bầu cử
theo định kỳ. Nhưng Quốc hội (cả hai viện) lại có quyền luận tội Tổng
thống nếu xét thấy Tổng thống “phạm tội”. Dựa theo thủ tục luận tội
(impeachment) tại Hoa Kỳ, Hạ viện được quyền luận tội (nghĩa là lập cáo
trạng, indictment) và Thượng viện được quyền xét xử. Hình phạt được áp
dụng là bãi nhiệm Tổng thống, và có thể cấm đương sự giữ chức vụ đó
trong tương lai.
Các chế độ cộng sản (vd: Việt Nam và Trung Quốc) mặc dù xét về mặt hình
thức khá giống với mô hình đại nghị chế nhưng trong thực tế quyền hành
lại không nằm trong tay Quốc hội mà nằm trong tay Đảng.
Theo định kỳ, cứ 5 năm một lần, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành một kỳ
Đại hội Đảng toàn quốc; đại hội này bầu ra Ban chấp hành Trung ương và
Bộ chính trị. Và trong suốt thời gian giữa hai kỳ Đại hội, Ban chấp hành
Trung ương trở thành một thứ “Quốc hội” của Đảng, trong khi “Bộ chính
trị” trở thành một cơ quan hành pháp của Đảng. Chính hai cơ quan này
điều khiển tất cả các công việc của Đảng và thông qua bộ máy Nhà nước
điều khiển tất cả các công việc của đất nước.
Có thể nói ở các quốc gia cộng sản, các Đại hội Đảng thay thế cho các
cuộc tổng tuyển cử. Sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, vấn đề nhân sự có thể coi
như đã được giải quyết xong – nhất là những chức vụ then chốt trong bộ
máy Nhà nước. Vì thế, Đại hội Đảng mới thực sự là “tổng tuyển cử”, còn
Bầu cử Quốc hội chẳng qua cũng chỉ là một màn kịch mà hồi kết là phiên
họp đầu tiên của Quốc hội nhằm “đóng dấu” hợp thức hóa các chức vụ đã
được Đảng chọn trước. Chỉ cần nhìn sang Trung Quốc – một đất nước với
một hệ thống chính trị giống với nước ta “như một cặp song sinh”: mặc dù
đến năm 2013, Đại hội Đại biểu Toàn quốc (tức Quốc hội) khóa XII mới
được thành lập, ngay từ bây giờ người ta cũng có thể đoán trước chức vụ
Chủ tịch Nước sẽ do Tổng bí thư Tập Cận Bình đảm nhiệm và ông Lý Khắc
Cường sẽ là người nắm giữ chức vụ Thủ tướng.
Chính việc Đảng Cộng sản giành quyền chọn lựa Quốc hội, giành quyền bố
trí các nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước là nguyên nhân sâu xa khiến
cho Quốc hội trở thành “Quốc hội của Đảng”, chỉ biết làm theo lệnh Đảng
chứ không thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói
việc các nhà lãnh đạo không phục tùng Quốc hội hay không tôn trọng nhân
dân bắt nguồn từ chỗ: nhân dân không có quyền chọn lựa một Quốc hội xứng
đáng và có đủ uy quyền để thực hành quyền lực do nhân dân trao cho.
Vì thế, chỉ có một Quốc hội của Dân (chứ không phải là một Quốc hội của
Đảng) mới có thể lựa chọn một Thủ tướng và một Chính phủ đáng tin cậy và
đủ năng lực để điều hành các công việc của đất nước – dưới sự kiểm tra,
giám sát của Quốc hội (chứ không phải của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Chỉ có một Quốc hội của Dân mới có thể buộc Thủ tướng và Chính phủ phải
chịu trách nhiệm trước Quốc hội (chứ không phải trước Đảng). Và một khi
Thủ tướng hay bất cứ thành viên nào trong Chính phủ tỏ ra không đủ khả
năng hoàn thành nhiệm vụ hoặc phạm sai lầm trong công tác, Quốc hội có
thể tự mình tiến hành “bỏ phiếu bất tín nhiệm” để bãi nhiệm thành viên
ấy, thậm chí bãi nhiệm cả Thủ tướng (có nghĩa là bãi nhiệm toàn bộ Chính
phủ). Trong trường hợp cần thiết, nguyên thủ quốc gia có thể tuyên bố
giải tán Quốc hội nhằm giao lại quyền lực cho nhân dân và bằng một cuộc
tổng tuyển cử mới, nhân dân sẽ bầu ra một Quốc hội mới, từ đó hình thành
nên một Chính phủ mới.
Đó chính là cách tốt nhất để buộc Thủ tướng phải xem trọng “trách nhiệm
với Dân”, đặt quyền lợi của nhân dân lên trên quyền lợi của gia đình và
quyền lợi của đảng phái. Đó cũng là cách tốt nhất để buộc Thủ tướng phải
tôn trọng Quốc hội – cơ quan đại diện nhân dân đã tín nhiệm mình. Một
Quốc hội của Dân sẽ là một Quốc hội có thực quyền, có đủ khả năng kiểm
tra, giám sát Chính phủ do mình bầu chọn và khi cần thiết, “đuổi Chính
phủ” một cách nhẹ nhàng, đúng theo Hiến pháp và pháp luật, không cần lựa
chọn giải pháp cách mạng, không cần dựa vào bạo lực.
Không có được một Quốc hội của Dân, người dân chỉ còn là những kẻ mất
quyền làm chủ ngay trên quê hương mình. Không có được một Quốc hội của
Dân, chúng ta “sống một đời sống chính trị trung cổ” ngay trong một thế
giới văn minh, để “việc nước” rơi vào tay những kẻ đầu cơ chính trị, lạm
quyền và tham nhũng. Không có một Quốc hội của Dân, dân oan chỉ có thể
khóc thầm hay chết một cách oan khuất vì không thể trông cậy vào bất kỳ
một vị “đại biểu nhân dân” nào. Không có một Quốc hội của Dân, những
người tù chịu những bản án bất công sẽ không thể lên tiếng đòi lại sự
công bằng. Không có một Quốc hội của Dân, chúng ta không thể biểu tình
một cách ôn hòa cho dù “tên láng giềng đê tiện” ngang nhiên xây công sở,
lập nhà máy, thậm chí tổ chức đi du lịch trên những hòn đảo bị hắn
chiếm đóng bằng vũ lực ngay trước cửa nhà mình.
Không có Quốc hội của Dân, chúng ta sẽ không bao giờ có được người đứng
đầu chính phủ biết chịu trách nhiệm trước Dân, hết lòng bảo vệ Tổ quốc!
Đà Lạt ngày 19-11-2012Mai Thái Lĩnh
-----------------------
Ghi chú:
(1) “Đại biểu Dương Trung Quốc chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Ba Sàm 14-11-2012:
http://anhbasam.wordpress.com/2012/11/14/1383-dai-bieu-duong-trung-quoc-chat-van-thu-tuong-nguyen-tan-dung/
(2) Trương Duy Nhất, “Dân- đảng”, Blog Trương Duy Nhất 15-11-2012:
http://www.truongduynhat.vn/dan-dang-2/
(3) Thông báo hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng, VNExpress 15-10-2012:
http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/10/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-6-ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
(4) “Trung ương Đảng không theo Bộ Chính trị, điều chưa từng xẩy ra”
(Trọng Thành phỏng vấn Tiến sĩ Lê Đăng Doanh), RFI 16-10-2012:
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20121016-viet-nam-trung-uong-dang-khong-theo-lenh-bo-chinh-tri-mot-dieu-chua-co-tien-le
(5) Người đứng đầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội lúc đó chính là ông Nguyễn Phú Trọng, nay trở thành Tổng bí thư của ĐCSVN.
(6) Nam Nguyên - phóng viên RFA, “Không thể bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng”, RFA 12-11-2010:
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/chinh-tri/national-assembly-standing-committee-says-no-about-suggestion-to-vote-of-confidence-to-prime-minister-nn-11122010170410.html
(7) Thủ tướng 'nên tự kỷ luật', BBC tiếng Việt 14-11-2012:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/11/121114_giao_su_thuyet_nhan_dinh_ve_chat_van_thu_tuong.shtml
(BVN) “GÁC TRANH CHẤP, CÙNG KHAI THÁC” LÀ CHIÊU BÀI ‘SÓI GỬI CHÂN’
* Bùi Văn Bồng
Đề cập đến những âm mưu, ý đồ của Trung Quốc trên Biển Đông,
nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự VN tại Quảng Châu
(Trung Quốc), viết: “Tất cả những động thái, thủ đoạn từng bước xâm
chiếm Biển Đông đều nằm trong ý đồ chiến lược của Trung Quốc và họ sẽ
còn đưa ra nhiều mưu sâu kế hiểm.
Từ việc thành lập thành phố Tam Sa, tuyên bố mời thầu 9 lô dầu
khí trong vùng biển chủ quyền VN, rồi đề xuất vũ trang cho tàu cá, ngư
dân của họ…, tất cả đều là đường đi nước bước đã được họ tính toán kỹ
lưỡng. Trước đây, có nhiều ý kiến cho rằng về chiến lược tại Biển Đông,
Trung Quốc coi như đã “hết bài”. Theo tôi, đó là ý kiến rất chủ quan.
Đến năm nay vừa đúng 50 năm tôi nghiên cứu về Trung Quốc, trong đó có 34
năm sống và làm việc ở nước họ nên tôi rất hiểu người Trung Quốc. Họ đủ
khôn ngoan để xoay xở, giở nhiều ngón nghề để kiếm cớ khiêu khích ta.
Chắc chắn khi chưa đạt được mục đích thì Trung Quốc chưa dừng lại!”.
Gần đây, chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” được Trung
Quốc khuyếch trương, nhấn mạnh nhiều lần như một sáng kiến mang tính xây
dựng trong bối cảnh tranh chấp trên Biển Đông vẫn đang căng thẳng. Qua
những tuyên bố của Trung Quốc tưởng chừng như có ý thức xây dựng cho ổn
định trên Biển Đông, nếu nhìn từ trong bản chất âm mưu, động cơ, ý định
chiến lược trong các vụ tranh chấp Biển Đông đừng mất công nói đến cái ý
thức ”xây dựng”, những nhã ý “tốt bụng”, nhằm hướng tới sự “công bằng”
với các nước trong khu vực, cả với nhiều nước khác trên thế giới… Cái
miếng bánh tẩm đường phèn này thì cả thế giới đều biết từ lâu rồi. Chẳng
qua là kinh nghiệm đế quốc Đại Hán và binh pháp Tôn Tử mà thôi.
Trong bài viết, tác giả đã dẫn liệu, phân tích: Tại hội thảo quốc
tế với chủ đề “Biển Đông: tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển
trong khu vực” ở Hà Nội ngày 26-27/11/2009, GS Ji Guoxing của Đại học
Jiaotong, Thượng Hải, nguyên giám đốc bộ môn Châu Á – Thái Bình Dương
của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Thượng Hải, nhắc lại chủ trương
“gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc. GS Ji Guoxing cụ thể
hoá bằng cách đề nghị Việt Nam và Trung Quốc bàn về khả năng cùng khai
thác bãi Tư Chính, một khu vực nằm hoàn toàn bên trong vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam, không
thuộc quần đảo Trường Sa vốn đang trong tình trạng tranh chấp chủ quyền.
Tại buổi họp báo ở Hà Nội ngày 6/1/2010, Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc
Tường cũng đề nghị chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Rằng:
“Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã nêu ra một sáng kiến mang tính xây dựng,
đó là gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”, và đề nghị rằng Việt
Nam và Trung Quốc nên tạm gác lại tranh chấp, đợi điều kiện chín muồi.
Đừng dại mà nghe phía Trung Quốc ‘dụ khị”, bởi cái gọi là “điều kiện
chín muồi” mà Trung Quốc đưa ra chính là thời điểm thuận lợi nhất để
Trung Quốc chiếm gọn toàn bộ khu vực đang tranh chấp, làm bàn đạp chiếm
những vùng khác. Khi sói đã dùng nhiều gian kế vào được hang thỏ thì lập
tức thỏ bị đuổi khỏi hang, căn nhà của mình!
Thực ra, chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” được Trung
Quốc chính thức đề nghị lần đầu tiên tại chuyến thăm Nhật, ngày
25/10/1978, Thủ Tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với Thủ Tướng Nhật
Takeo Fukuda trong văn cảnh tranh chấp chủ quyền quần đảo Shenkaku (tên
Nhật) /Điếu Ngư Đài (tên Trung Quốc) giữa Nhật và Trung Quốc. Điều đáng
lưu ý là Shenkaku/Điếu Ngư Đài và vùng biển lân cận nằm dưới sự kiểm
soát của Nhật, và vùng biển này gần Nhật và Đài Loan hơn Trung Quốc, cho
nên Nhật có nhiều khả năng để đơn phương khai thác vùng biển này hơn
Trung Quốc. Vì vậy, đề nghị của Trung Quốc để khai thác chung vùng biển
này là một đề nghị nằm trong chủ đích lấn chiếm Biển Đông, có lợi cho
Trung Quốc hơn là có tính xây dựng cho cả Trung Quốc và Nhật. Cho tới
nay, Nhật luôn luôn khước từ tất cả các đề nghị của Trung Quốc để khai
thác vùng biển lân cận đảo này.
Cũng với con bài “cây gậy và củ cà rốt” này, hồi tháng 6/1986, Đặng
Tiểu Bình đề nghị với Phó Tổng Thống Philippines Salvador Laurel rằng
Trung Quốc và Philippines nên gác tranh chấp Trường Sa, “không nên để
vấn đề này cản trở tình hữu nghị của Trung Quốc với Philippines và các
nước khác”. Tiếp đến, tháng 4/1988, Đặng Tiểu Bình lại đề nghị với Tổng
thống Philippines Corazon Aquino, “Xét quan hệ hữu nghị giữa hai nước
chúng ta, chúng ta có thể tạm gác vấn đề này và tiếp cận theo hướng khai
thác chung”. Cũng vì Đặng Tiên sinh có những sáng kiến vĩ đại như vậy,
nên Đại hội 18 Đảng CSTQ mới rồi mới nâng kế sách Đặng Tiểu Bình thành
phương châm đổi mới.
Thế giới vẫn chưa quên sự kiện cồn sóng Biển Đông, vào đầu năm 1988
Trung Quốc chiếm đóng những bãi đá cạn Chữ Thập, Châu Viên, Gaven, Huy
Gơ và Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa và vào tháng 4/1988 máu của các
chiến sĩ Việt Nam còn chưa tan hết trên biển Trường Sa sau khi Trung
Quốc tấn công Việt Nam để chiếm Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao ngày 14/3/1988
và chiếm được Gạc Ma. Đây là một thí dụ cho thấy rõ sự từng bước lấn
sân bằng đánh, đàm, dụ dỗ không có giới hạn của Trung Quốc. Vùng
biển-đảo thuộc chủ quyền các nước trong khu vực đang yên lành, Trung
Quốc gây ra tranh chấp rồi đưa ra cái gọi là “gác tranh chấp, cùng khai
thác”. Biết rõ mưu đồ ấy, không ai dại “cho sói gửi chân” để rồi bị mất
cả nhà bất kỳ lúc nào!
Như vậy, cái gọi là sáng kiến “gác tranh chấp, cùng khai thác” của
chính phủ Đặng Tiểu Bình cho tranh chấp Trường Sa không phải do “có tính
xây dựng” mà là để phục vụ mục đích đối trọng với các nước để từng bước
chiếm đoạt hẳn. Chiến lược “3 bước lấn tới” của Trung Quốc là xông vào
vùng chủ quyền lãnh hải của nước láng giềng, nước tiếp cận, gây tranh
chấp, rồi đàm phán song phương ”gác lại tranh chấp, cùng khai thác”,
cuối cùng là độc chiếm luôn.
Dựa theo cái ‘đường lưỡi bò” tự vẽ, tự đơn phương công bố chính
thức lần đầu tiên ra thế giới ngày 7-5-2009, không có ý kiến chấp nhận
nào của bên thứ 2 hoặc thứ 3, Trung Quốc muốn biến vùng biển thuộc vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các nước liên quan vốn
đang yên lành thành vùng tranh chấp, thành trận địa hải chiến phúc tạp
rồi từng bước thực hiện chiến lược “3 bước lấn tới”.
Về thực chất, Bắc Kinh đưa ra chiêu bài “gác lại tranh chấp, cùng
khai thác” chỉ là cái cớ, là một bước đệm, tạm thời né vấn đề nhạy cảm
“chủ quyền của nước khác, không phải của Trung Quốc” dễ gây “sốc” bất
lợi cho dư luận khu vực và thế giới. Nghĩa là dù đi ăn cướp nhưng phải
khéo, đi dần từ lừa đảo đến chiếm đoạt, cố giữ chút thể diện. Thế nhưng,
điều chắc chắn là khi “sói đã gửi cái chân” thì có đủ điêu kiện lấn sâu
hơn, đến khi Trung Quốc đủ mạnh, không cần phải né tránh nữa, cũng dá
phắt luôn cái “cùng khai thác” mà chiếm “trọn gói”. Quả nhiên, với chiêu
thức thâm độc nhưng khá lộ liễu này của chiến lược “3 bước lấn
tới”, Trung Quốc lăm le Khu vực 9 lô dầu khí từ lâu, nay nhân sự kiện QH
Việt Nam thông qua Luật biển, TQ đã lấy cớ “trừng phạt VN”, kêu gọi mời
thầu thăm dò khai thác hòng cố tình gây ra tranh chấp để rồi đi đến
bước tiếp theo yêu cầu Việt Nam “gác tranh chấp, cùng khai thác”, làm
cái nền, cái cớ để tiến tớii dùng “lưỡi bò” liếm hết luôn.
Khu vực này nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa 200 hải lý của Việt Nam. Bản đồ công bố trên website của Tổng Công
ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) cho thấy cả 9 lô mỏ dầu mà Trung
Quốc đang mời chào thăm dò, khai thác đều nằm trong vùng biển thuộc
“đường lưỡi bò” nằm trong mưu đồ tính toán đầy tham vọng có tính chiến
lược của Trung Quốc. Các lô mỏ dầu này nằm ngoài khơi bờ biển miền Trung
của Việt Nam, trải rộng hơn 160.000 km 2. Rìa phía tây của một số lô mỏ
dầu nằm cách bờ biển Việt Nam không đầy 80 hải lý, nằm sâu trong vùng
đặc quyền kinh tế, có nơi chỉ cách đất liền 30-50 hải lý, nằm trong
vùng nội thủy và thềm lục địa của Việt Nam.
Việc tuyên bố mời thầu cho thấy một bước đi mới trong nỗ lực của
Trung Quốc nhằm củng cố quyền chủ quyền tại vùng biển này. Thâm hiểm,
gian dối, phản trắc, dễ nuốt lời, lấy “Hữu hảo để chen ngang hứa hão”
vẫn là bản chất có từ trong máu Đại Hán từ xa xưa. “Gác tranh chấp, cùng
khai thác” rất phi lý lại là con bài đưa dần các nước vào tròng, bằng
hung hăng đe dọa kết hợp với dụ dỗ, lấn dần. Bắc Kinh đang tìm mọi cách
lật lọng để đạt cho kỳ được mục đích của tuyên bố: “Trung Quốc có chủ
quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong biển Đông và các vùng
biển lân cận; có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển
liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của những vùng biển này” (?!).
Rõ ràng, từ việc đẩy vấn đề theo hướng tranh chấp, để làm đà đi đến
“gác tranh chấp, cùng khai thác”, nhưng vẫn nhằm đích cuối cùng là xâm
chiếm. Đó chỉ là các nấc thang mà Trung Quốc đang leo dần. Với mưu đồ
tham vọng bá quyền từ lâu đời của Trung Quốc, lúc nào cũng lăm le bành
trướng xuống phương Nam, lấn chiếm Biển Đông, sẽ không bao giờ có “sáng
kiến mang tính xây dựng”, và cái gọi là “công bằng” với các nước ASEAN
có lãnh hải Biển Đông. Việt Nam và các nước ‘cùng cảnh’ trong khu vực
đừng mất cảnh giác mắc mưu Trung Quốc để sau này khỏi phải gánh hậu họa
do hám ngọt, do sự thiếu kiên quyết, do những bước đi, sự nhu nhược nhân
nhượng do mềm yếu thiếu bản lĩnh để rồi bị bất ngờ không gì có thể cứu
vãn nổi.
B.V.B
Được đăng bởi Bùi Văn Bồng
Ủy ban Kiểm tra Trung ương: Kỷ luật hai Bí thư Tỉnh Ủy
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định kỷ luật cảnh cáo, đề nghị thôi
chức Chủ tịch tỉnh Bình Phước đối với ông Trương Tấn Thiệu; đề nghị giữ
mức kỷ luật cảnh cáo với ông Lữ Ngọc Cư, Chủ tịch tỉnh Đăk Lăk. Bí thư
tỉnh Hải Dương phải tự phê bình nghiêm túc.
Ngày 12-19/11, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI đã họp kỳ thứ 16 tại
Hà Nội và xem xét, thống nhất kết luận, giải quyết nội dung: Xem xét các
báo cáo và thảo luận kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với
tổ chức đảng và đảng viên sau đây:
Đối với Ban cán sự đảng UBND tỉnh và ông Trương Tấn Thiệu, Phó Bí thư
Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước: Ban cán
sự đảng UBND tỉnh Bình Phước trong lãnh đạo thiếu kiểm tra, giám sát để
một số thành viên Ban cán sự là Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND tỉnh vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc của Tỉnh ủy, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy; làm trái các quy định của pháp luật trong việc giao
đất đối với một số các dự án, thay đổi chủ đầu tư, phương thức đầu tư,
cùng một số sai phạm khác gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thu nhiều
tỷ đồng của ngân sách, gây dư luận bất bình trong cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân.
Ông Trương Tấn Thiệu, với cương vị Phó bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán
sự, Chủ tịch UBND tỉnh trong quá trình lãnh đạo, quản lý, điều hành đã
nhiều lần vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Quy chế làm việc
của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Quy chế Ban của cán sự đảng và Quy
định của UBND tỉnh; thiếu trách nhiệm kiểm tra, giám sát trong quá trình
lãnh đạo, quản lý; ký một số quyết định có nội dung trái quy định của
pháp luật, trong đó có một số vụ việc làm thất thu ngân sách, gây hậu
quả nghiêm trọng, phải chuyển cho cơ quan pháp luật xem xét, xử lý theo
quy định của pháp luật.
Trong quá trình kiểm điểm, ông Trương Tấn Thiệu đã tự nhận thấy những
khuyết điểm, sai phạm của mình. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã biểu quyết
đề nghị thi hành kỷ luật đối với tập thể Ban cán sự đảng UBND tỉnh Bình
Phước bằng hình thức khiển trách; quyết định thi hành kỷ luật bằng hình
thức cảnh cáo đối với ông Trương Tấn Thiệu, đồng thời đề nghị các cơ
quan có thẩm quyền thi hành kỷ luật cảnh cáo về chính quyền và cho thôi
chức Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước.
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Trương Tấn Thiệu. Ảnh: Binhphuoc.gov.vn |
Đối với ông Bùi Thanh Quyến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hải
Dương, Đoàn kiểm tra đã xác minh 4.152 m2 đất và một số công trình xây
dựng trên đất trong khu vực dự án thôn Đông Tân, xã Ninh Thành, huyện
Ninh Giang, tỉnh Hải Dương làm rõ đây là đất và công trình xây dựng của
ông Bùi Thanh Tùng (con trai ông Bùi Thanh Quyến) đứng tên mua và sử
dụng.
Tại thời điểm kiểm tra, ông Tùng đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng để nhận chuyển
nhượng và xây dựng các công trình. Các cơ quan chức năng đã xác định các
loại đá, cây trồng, cây cảnh, non bộ trong khuôn viên không thuộc loại
đá quý, bán quý; không có loại cây thuộc danh mục cây rừng nguy cấp,
quý, hiếm theo quy định của Chính phủ. UBND huyện Ninh Giang đã cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tùng. Việc chuyển nhượng và nhận
quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy
nhiên, việc chuyển 500 m2 đất nuôi trồng thủy sản sang sử dụng vào mục
đích đất ở khi chưa được có cấp thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất là không đúng quy định; việc dùng 550 m2 làm hồ nước và non
bộ là không hoàn toàn đúng mục đích sử dụng.
Qua xem xét, không có căn cứ để kết luận ông Bùi Thanh Quyến can thiệp
hoặc có ý kiến chỉ đạo các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc giải
quyết các thủ tục nhận chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất
cho ông Bùi Thanh Tùng; chưa có cơ sở kết luận ông Bùi Thanh Quyến vi
phạm Điều 11, Quy định của Ban Chấp hành Trung ương, về những điều đảng
viên không được làm.
Tuy nhiên, ông Bùi Thanh Quyến cần rút kinh nghiệm và tự phê bình nghiêm
túc việc chưa thường xuyên, khuyên bảo, giáo dục con trai tự giác,
gương mẫu chấp hành đầy đủ các quy định của Luật đất đai; chưa dứt khoát
trong việc để con trai mua và sử dụng đất ở Ninh Thành, Ninh Giang,
trong đó có một số khâu chưa đảm bảo đầy đủ các quy định, thủ tục gây dư
luận không tốt, ảnh hưởng đến uy tín cá nhân và Đảng bộ.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương lãnh
đạo, chỉ đạo việc kiểm điểm nghiêm túc đối với các tổ chức, cá nhân đã
không thực hiện đầy đủ một số khâu theo quy định Luật Đất đai khi giải
quyết chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất,
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Bùi Thanh Tùng; UBND tỉnh
cần kịp thời chấn chỉnh việc quản lý và sử dụng đất đai trên toàn tỉnh
theo quy định của luật pháp.
Đối với Ban cán sự đảng Bảo hiểm xã hội Việt Nam và một số lãnh đạo Bảo
hiểm xã hội Việt Nam, sau khi nghe báo cáo kết quả kiểm tra, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương nhận thấy Ban cán sự đảng Bảo hiểm xã hội Việt Nam và
một số lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam có khuyết điểm, vi phạm đến mức
phải xem xét trách nhiệm và thống nhất giao cho Đoàn kiểm thực hiện quy
trình xem xét, xử lý kỷ luật đối với tập thể Ban cán sự đảng và cá nhân
một số lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Bảo hiểm Xã hội Việt Nam theo từng
thời kỳ; tiếp tục xem xét, kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với một số tổ
chức đảng có liên quan, báo cáo Ủy ban xem xét tại kỳ họp sau.
Đối với tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy và cá nhân Ủy viên Ban Thường vụ,
Tổng giám đốc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam có khuyết điểm, vi phạm đến
mức phải xử lý trách nhiệm và thống nhất giao cho Đoàn kiểm tra thực
hiện quy trình xem xét, xử lý kỷ luật đối với tập thể Ban Thường vụ Đảng
ủy và cá nhân đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Tổng giám đốc Tổng công
ty Hàng hải Việt Nam, báo cáo Ủy ban xem xét tại kỳ họp sau.
Xem xét kết quả thẩm tra, xác minh giải quyết tố cáo đối với 3 cán bộ.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thảo luận và thống nhất kết luận: Đối với
một Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh và Phó
Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa.
Qua kiểm tra, xem xét Ủy ban Kiểm tra kết luận các nội dung tố cáo là
không đúng và không có cơ sở
Đối với một cán bộ diện Ban Bí thư quản lý Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Đoàn kiểm tra đã làm rõ 5 nội dung tố cáo, trong đó có 4 nội
dung tố cáo có cơ sở. Ủy ban Kiểm tra Trung ương thống nhất giao Đoàn
kiểm tra thực hiện quy trình xem xét, xử lý kỷ luật đối với trường hợp
này để báo cáo Uỷ ban xem xét tại kỳ họp sau.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thảo luận, thống nhất với báo cáo kết quả
kiểm tra của Đoàn giải quyết khiếu nại của Bộ Chính trị đối với tập thể
Ban cán sự đảng UBND tỉnh Đắk Lắk; các Đoàn giải quyết khiếu nại của Ban
Bí thư đối với ông Lữ Ngọc Cư, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự
đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk và ông Nguyễn Văn Thể khu phố 5, phường
Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh và biểu quyết
thống nhất đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư giữ nguyên hình thức kỷ luật
khiển trách đối với Ban cán sự đảng UBND tỉnh Đắk Lắk, cảnh cáo đối với
ông Lữ Ngọc Cư, khai trừ đảng đối với ông Nguyễn Văn Thể.
Đối với ông Nông Thị Niệm, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng, Ủy ban đã biểu quyết chuẩn y với hình thức kỷ luật
do Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cao Bằng đã quyết định.
Ủy ban đã xem xét quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách
đối với ông Cao Hồng Vân, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND
huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, do thiếu kiểm tra, đôn đốc để chính
quyền các xã, ngành có liên quan ở địa phương buông lỏng quản lý; chưa
kịp thời chỉ đạo, tổ chức phối hợp các lực lượng ngăn chặn việc phá
rừng, khai thác, vận chuyển, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép; để
một số cán bộ và con của lãnh đạo chủ chốt ở huyện vi phạm pháp luật về
quản lý, bảo vệ rừng, vi phạm quy định của Đảng, gây dư luận bức xúc
trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín
đảng bộ.
Ủy ban đã nghe báo cáo và thảo luận kết quả kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đối với ban
thường vụ và ủy ban kiểm tra các tỉnh: Lạng Sơn, Ninh Bình, Hà Nam,
Quảng Bình, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Đảng ủy Khối các cơ quan
Trung ương; kết quả kiểm tra tài chính đảng đối với Ban Thường vụ, Tỉnh
ủy Quảng Ngãi và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ủy ban đã thảo luận và thống nhất kết luận: Ban Thường vụ các tỉnh ủy,
thành ủy được kiểm tra đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tốt việc nghiên
cứu, quán triệt các chỉ thị, quyết định, quy chế, quy định, hướng dẫn
của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng. Nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu, đảng viên, tổ chức đảng về
công tác kiểm tra, giám sát được nâng cao; ủy ban kiểm tra đã làm tốt
công tác tham mưu với cấp ủy, đồng thời triển khai, thực hiện toàn diện
các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Quy định Điều lệ Đảng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khuyết điểm, thiếu sót cần khắc phục, đó là
việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan
tham mưu của tỉnh ủy, ban cán sự đảng và Đảng đoàn còn nhiều hạn chế;
việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính cấp ủy cùng cấp còn ít; chất
lượng một số cuộc kiểm tra, giám sát chưa cao; việc chỉ đạo, đôn đốc
thực hiện kết luận sau kiểm tra, kết quả sau giám sát chưa thường xuyên,
kịp thời…
Ủy ban Kiểm tra Trung ương yêu cầu ban thường vụ, ủy ban kiểm tra các
tỉnh ủy, thành ủy nói trên sớm có biện pháp, giải pháp khắc phục những
hạn chế, thiếu sót trên, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng bộ, góp phần xây dựng
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Cũng trong kỳ họp này, Ủy ban đã xem xét quyết định việc đề xuất Chương
trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2013; việc sửa đổi, bổ
sung Quy định 94/QĐ-TW của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi
phạm; xây dựng dự thảo Quy trình sửa đổi, bổ sung các quy trình kiểm
tra, giám sát của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; việc đăng ký thực hiện các
đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm
2013.
(TTXVN) Luật pháp có trị được tham nhũng?
Cứ hô hào tiết chế lòng tham đi, nhưng khi có điều kiện, lòng tham vẫn sẽ bùng dậy mạnh mẽ.
Gần đây, tờ báo New York Times đăng tin, một quan chức cao cấp nọ của
nước “láng giềng” sở hữu khối tài sản 2,7 tỷ đô-la. Dư luận trong và
ngoài nước trở nên ầm ĩ trước thông tin ấy. Để bảo vệ sự trong sạch của
mình, quan chức đó gửi đơn đề nghị điều tra cáo buộc này, vì luật sư của
ông ta cho rằng, ông “không bao giờ tham gia vào các hoạt động kinh
doanh của gia đình”.
Nhờ những bài học căn bản làm người
Trở lại chuyện chống tham nhũng ở xã hội ta. Phải trị vấn nạn này như
thế nào, khi công cụ pháp luật “đánh” vào chỗ này thì tham nhũng né một
cách tài tình sang chỗ khác. Ngày xưa người ta “đo” giá trị của thời đại
bằng việc “người dân đi ngủ không cần phải đóng cửa”. Và thấm thía ở
cái chỗ nhận ra “miếng cao lương phong lưu nhưng lợm”.
Thế nên nói cho cùng, chẳng có cách “đánh” nào hiệu quả hơn việc giáo dục những bài học cơ bản làm người.
Đạo Nho có năm điều thường xuyên phải thực hành trong đời đó là: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đạo Phật cũng có năm điều đạo đức căn bản: Không
sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Sau đó, để hòa hợp tư tưởng, người ta lý giải, có nhân thì không sát
sinh, có nghĩa thì không trộm cắp, có lễ thì không tà dâm, có tín thì
không nói dối, có trí thì không uống rượu.
Phải trị vấn nạn tham nhũng như thế nào? Ảnh minh họa |
Lòng tham luôn thường trực nơi mỗi con người. Nhưng nhờ có GD, những bài học căn bản để làm người ấy, mà người ta hiểu được, người hiền không phải là người không tham, mà người hiền là người có điều kiện để tham nhưng không tham. Và chỉ khi cái “có điều kiện” ấy xuất hiện thì người ta mới đo được độ thấm của những bài học đạo lý căn bản kia thôi.
Hôm rồi, trong chuyến bay từ Vinh vào Tp. Hồ Chí Minh, máy bay chuẩn bị
cất cánh thì nhân viên báo rằng, có một vị khách đã “cầm nhầm” chiếc ví
tiền của vị khách khác trong lúc qua cửa an ninh, đề nghị ai cầm cái ví
ấy thì trả lại cho khổ chủ.
Lúc đó có một người đàn ông cầm ví tiền đó đi lên và nói, tôi có cầm một
cái ví “định bụng” sẽ báo cho quý vị… Nếu nhân viên hàng không không
thông báo, thì mọi chuyện sẽ như thế nào? Có thể người đàn ông kia cầm
nhầm và quên thật, cũng có thể suy luận theo chiều hướng khác…
Cũng may không xảy ra một cuộc khám xét, máy bay không phải tạm dừng
theo yêu cầu của người mất ví tiền, và mọi người không phải nhìn nhau
nghi ngờ…
Dù hô hào tiết chế, lòng tham vẫn trỗi dậy
Rõ ràng lòng tham luôn luôn được “cân đong đo đếm” ở những tình huống,
những điều kiện dễ dàng đánh thức nó. Cho nên, chỉ khi bê một cục tiền
lớn tới trước mặt con người, mới hé lộ ra có tham hay không. Còn không,
cứ hô hào tiết chế lòng tham đi, nhưng khi có điều kiện… lòng tham vẫn
sẽ bùng dậy mạnh mẽ.
Người ta bảo “đói ăn vụng, túng làm liều”. Nhưng cái đói, cái túng ấy
thường rơi vào những kẻ ăn cắp vặt, những kẻ cùng đường… Còn những kẻ
tham nhũng, cuộc sống của họ có đến mức “đói” và “túng” không. Ai chẳng
biết, có chức có quyền là có điều kiện tối ưu nhất để tham. Tham bằng
nhiều cách, từ quà biếu, cây cảnh, thú cưng, cho đến tiền, vàng, đô la…
Pháp luật có trị được tham nhũng không? Ôi, đã bao lần sửa đi đổi lại
rồi mà vẫn chỉ như thứ thuốc… bôi ngoài da. Nếu muốn trị phải bắt tận
tay, day tận mặt. Nhưng muốn kiếm ra cái chứng cứ ấy có dễ không? Hay
những kẻ tham nhũng ấy, sẽ giăng ra đủ thứ thiên la địa võng để thoát
tội, chối tội. Người tố cáo không có đủ bằng chứng thì rước họa vào
thân, bị đe dọa, trù dập, trả thù, có khi còn phải đánh đổi bằng cả mạng
sống.
Cụ Nguyễn Trãi biết rất rõ nên từng thốt lên: “Pháp luật không bằng nhân
nghĩa cũng rõ lắm rồi!”. Nói đến nhân nghĩa là nói đến bài học cơ bản
làm người. Thiếu cái bài học cơ bản làm người thì có tội ác gì mà con
người không dám làm?
Trong Hội thề đền Đồng Cổ xưa, nhà vua và quần thần theo định kỳ phải
đứng trước đền thiêng thề rằng: “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch,
ai trái thề này, thần minh giết chết“. Thần minh là ai mà đáng sợ vậy?
Thần minh có thể là lương tâm. Thần minh có thể là niềm tin và lòng sùng
kính thiêng liêng của nhân dân.
Pháp luật có trị được tham lam không? Ôi, đã bao lần sửa đi đổi lại rồi
mà vẫn chỉ như thứ thuốc… bôi ngoài da. Nếu muốn trị phải bắt tận tay,
day tận mặt. Nhưng muốn kiếm ra cái chứng cứ ấy có dễ không? Hay những
kẻ tham nhũng ấy, sẽ giăng ra đủ thứ thiên la địa võng để thoát tội,
chối tội. Người tố cáo không có đủ bằng chứng thì rước họa vào thân, bị
đe dọa, trù dập, trả thù, có khi còn phải đánh đổi bằng cả mạng sống.
Và họ sẵn sàng chết nếu trái lời thề ấy! Cho nên ở nhiều vùng, người dân
mới lập đền, lập miếu giữa làng, giữa chợ, giữa những nơi mà người ta
dễ rời rào, xê giậu, cân non bán thiếu, gian lận. Để mỗi khi có chuyện,
người ta dắt nhau ra đó và thề. Lời thề sẽ đánh vào tận cùng lương tâm,
trước sự chứng kiến của thần minh, của luật nhân- quả báo ứng.
Có thế, các bậc tiền nhân xưa mới vừa giữ được đạo đức của làng xã, vừa giữ được phên giậu của Tổ quốc.
Nhưng chúng ta phòng chống tham nhũng thế nào? Người dân có vũ khí nào
để chống tham nhũng đây? Sẽ chẳng khác gì tay không tấc sắt đi “đánh
nhau” với xe bọc thép?
Còn phản biện xã hội để chống tham nhũng, chúng ta chống bằng “lời nói”
thì ai chẳng chống được? Chỉ riêng chủ trương kê khai, minh bạch tài
sản, tiêu chí đầu tiên để hạn chế và kiểm soát tham nhũng, Nhà nước và
toàn dân có quyết liệt làm được không?
Ở góc độ khác, tham nhũng còn là bạn đồng hành của hối lộ. Vì thế, trước
khi chống lòng tham của kẻ khác, nên chăng mỗi người dân cũng phải biết
chống lòng tham của… chính mình, trở về với những bài học cơ bản để làm
người. Có khó không? Rất khó. Nếu biết rằng GD cũng là lĩnh vực còn
đang loay hoay để ra khỏi “vùng trũng” của việc dạy người.
Không cần phải có con mắt tinh đời nhìn suốt sáu cõi như cụ Nguyễn Du.
Cũng chẳng cần phải dài dòng với những chuyện kê khai tài sản, bởi có kê
khai thì sẽ có… khai man. Chỉ nhìn vào đồng lương và nhìn vào nhà cao
cửa rộng, xe đắt tiền, con cái đi du học, tiêu xài hoang phí là có thể
hiểu…
Trước quốc nạn tham nhũng, ai có thể vượt qua giới hạn nguy hiểm, để đòi quyền lực đích thực chống tham nhũng cho người dân?
Câu hỏi cũng đã là câu trả lời!
(TuanVietnam) Ý kiến trái chiều từ luật Xe không chính chủ
Ý kiến bênh bác Đinh La Thăng
Lâu lắm mình không bàn luận chính trị, nhưng hôm nay mình xin phép chửi cái: - TỔ CHA CÁC BẠN CHỬI BÁC THĂNG.
Thứ nhất, các bạn có biết cái luật phạt xe máy không sang tên đổi chủ nó có từ cái thời nào không mà đi chửi bác ấy. Làm ơn đọc cho kỹ một chút, người ta chỉ "NÂNG MỨC PHẠT LÊN SO VỚI HIỆN TẠI ĐỂ THỂ HIỆN TÍNH RĂN ĐE" chứ không phải "RA MỘT CÁI STUPID LUẬT MỚI NHƯ CÁI ĐẦU STUPID CỦA CÁC BẠN VẪN NGHĨ".
Thứ 2, luật đã có từ trước đến giờ, các bạn hay bố mẹ, anh chị, bà con các bạn mua xe của người khác mà không chịu sang tên thì đó là lỗi của các bạn, không phải lỗi của bác Thăng, nên đừng có mở mồm sủa nữa, phản damn thối lắm.
Thứ 3, luật không cấm việc mượn xe của nhau đi, các bạn có thể đi xe mượn thoải mái, chỉ cần khi người ta hỏi, bạn vui lòng gọi điện cho chủ xe để người ta xác minh, còn nếu bạn lí do lí trấu là không liên lạc được với chủ xe thì cho mình nói thẳng, bạn với thằng ăn trộm cũng có khác gì nhau đâu.. Cái này mình xin lỗi các bạn vì đã viết thiếu ý. Mình xin bổ sung thế này ch nó tổng quan. Khi bạn đã mượn xe để tham gia giao thông, thì trong người bạn cần có bằng chứng để xác nhận xe bạn là xe mượn, nếu không có, việc công an mời bạn về đồn để xác minh thông tin xe là hoàn toàn bình thường, lúc này, thay vì chửi hay đút lót cho công an thì bạn nên liên lạc với chủ xe để xác minh.
Thứ 4, về việc chủ xe, ví dụ ở đây là bố bạn đã chết, thì lấy gì xác mình? Rất đơn giản, khi bố bạn mất thì tài sản theo luật thừa kế thuộc về ai, nếu thuộc về bạn thì vui lòng đi lên cơ quan chức năng chuyển quyền sở hữu liền.
Vầng, em xin hết, buổi chiều ngồi nhà rỗi rãi quá nên muốn thử cảm giác làm anh hùng bàn phím cái, cũng sướng phết.
Những câu mình đã trả lời rồi thì mình sẽ không trả lời lại, nhưng chú bị trùng câu hỏi vui lòng lội page để nắm rõ, còn với thể loại auto chửi mình không chấp, mình nằm vùng ở cái voz này hơn 3 năm nay nên tai mình cũng đủ chức năng lọc những thể loại này rồi
Thôi, chương trình hôm nay xin được kết thúc tại đây, ai ủng hộ cứ ủng hộ, ai chửi rủa cứ chửi rủa, mình cũng nói hết hét nước hết cái, sùi cả bọt mép rồi, chào thân ái và quyết thắng
Ý kiến phản biện ý kiến trên
Vậy cho mình hỏi một chút:
1) Lấy căn cứ gì để ra mức phạt đó?
2) Dù có diễn giải bằng bất kì lời lẽ hoa mỹ nào thì chính Đại biểu Quốc Hội cũng đã phải khẳng định tại Việt Nam người dân đang phải đóng nhiều loại thuế và phí thuộc hàng nhất thế giới. Hỏi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thứ mấy thế giới?
3) Nhà nước này là của dân, do dân và vì dân. Vậy khi tăng mức phạt thế có hỏi dân không? đã thông qua cơ quan đại diện cho dân là Quốc hội chưa? Sao ở Việt Nam mấy cái thông tư nghị định lại cứ to hơn Luật và Hiến pháp vậy?
4) Một cái xe máy khi nhà sản xuất (tức nhà tư bản) bán cho người tiêu dùng (tức dân) đã phải nộp thuế VAT, khi đi đăng ký xe lại đóng thuế, đến khi bán lại cho người khác tiếp tục đóng thuế để sang nhượng, vậy hỏi có 1 sản phẩm mà đánh thuế nhiều thế thì đã thông qua dân chưa? đã hợp lòng dân chưa? Cái này có giống với giá trị thặng dư không? hay là ý khác mong được chỉ giáo?
5) Lương tối thiểu Nhà nước chi là 1.050.000đ, phạt 1 lần 1.000.000đ? Lộ trình tăng lương bị hoãn lại, đưa ra QH bàn tới bàn lui, vậy tăng mức phạt gấp 10 lần sao không hoãn? sao không bàn? Hoãn tăng lương vì lạm phát, vì ngân sách quốc gia thiếu --> vì đâu mà thiếu? vì đâu thì dân cũng thiệt. Tăng mức phát để tăng ngân sách quốc gia? --> cuối cùng dân vẫn thiệt.
Nhân dân ơi nhân dân nghe thế có được không?
1) Lấy căn cứ gì để ra mức phạt đó?
2) Dù có diễn giải bằng bất kì lời lẽ hoa mỹ nào thì chính Đại biểu Quốc Hội cũng đã phải khẳng định tại Việt Nam người dân đang phải đóng nhiều loại thuế và phí thuộc hàng nhất thế giới. Hỏi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thứ mấy thế giới?
3) Nhà nước này là của dân, do dân và vì dân. Vậy khi tăng mức phạt thế có hỏi dân không? đã thông qua cơ quan đại diện cho dân là Quốc hội chưa? Sao ở Việt Nam mấy cái thông tư nghị định lại cứ to hơn Luật và Hiến pháp vậy?
4) Một cái xe máy khi nhà sản xuất (tức nhà tư bản) bán cho người tiêu dùng (tức dân) đã phải nộp thuế VAT, khi đi đăng ký xe lại đóng thuế, đến khi bán lại cho người khác tiếp tục đóng thuế để sang nhượng, vậy hỏi có 1 sản phẩm mà đánh thuế nhiều thế thì đã thông qua dân chưa? đã hợp lòng dân chưa? Cái này có giống với giá trị thặng dư không? hay là ý khác mong được chỉ giáo?
5) Lương tối thiểu Nhà nước chi là 1.050.000đ, phạt 1 lần 1.000.000đ? Lộ trình tăng lương bị hoãn lại, đưa ra QH bàn tới bàn lui, vậy tăng mức phạt gấp 10 lần sao không hoãn? sao không bàn? Hoãn tăng lương vì lạm phát, vì ngân sách quốc gia thiếu --> vì đâu mà thiếu? vì đâu thì dân cũng thiệt. Tăng mức phát để tăng ngân sách quốc gia? --> cuối cùng dân vẫn thiệt.
Nhân dân ơi nhân dân nghe thế có được không?
(Blog TLB)
Công quyền và chiếc áo ngụy trang của cảnh sát
Thông tư 65/2012 do bộ Công an ban hành thay thế thông tư 27 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát của cảnh
sát giao thông đường bộ đang thu hút sự quan tâm của dư luận với điều 10
về “tuần tra, kiểm soát công khai kết hợp với hoá trang”.
Quy định này không mới, nó mang tính kế thừa, chi tiết hoá những gì đã
có trước đây, có nhiều điểm còn thể hiện sự quy chuẩn, quy trình hoá
thuận tiện cho quá trình thực hiện, kiểm tra, giám sát nhưng người dân
lại “lo tội phạm lợi dụng”, “sợ cướp giả dạng”, theo những phát biểu
được chuyển tải trên báo chí. Lo sợ này không phải là không có căn cứ,
khi mà ranh giới xác định một người có phải cảnh sát giao thông (CSGT)
hay không chỉ là một tấm thẻ chứng nhận cảnh sát nhân dân. Nói như luật
sư Nguyễn Văn Hậu thì “giấy tờ có thể làm giả được, đêm tối nhập nhoạng
làm sao biết ai là CSGT hoá trang, ai là kẻ cướp giả dạng khi bất ngờ có
người xưng là công an, yêu cầu dừng xe kiểm tra vì nghi có biểu hiện vi
phạm”. Trên thực tế, cũng vì ranh giới mong manh này có người đã bị đẩy
vào tình huống chống người thừa hành công vụ, cũng là một loại rủi ro
đáng lo sợ khác.
Lời giải cho thái độ của dư luận có thể còn nằm ở chính điểm được cho là
tiến bộ hơn so với trước đây, rằng “nghiêm cấm lạm dụng việc tuần tra,
kiểm soát công khai kết hợp với hoá trang trái quy định của pháp luật để
sách nhiễu, phiền hà, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức. Nghiêm cấm việc lạm dụng
từ chính đội ngũ CSGT đồng nghĩa với việc thừa nhận nguy cơ này, và
điều mà người dân lo sợ là khả năng kiểm soát nguy cơ. Hiện nay, riêng
với phương thức hoạt động công khai, với bao tai vách mạch rừng từ quần
chúng và chính lực lượng thanh kiểm tra của ngành, mà hình ảnh của một
bộ phận không nhỏ CSGT đã xấu xí với vết nhơ “làm luật” – nhận tiền hối
lộ của người vi phạm luật giao thông. Trao đổi với phóng viên Sài Gòn
Tiếp Thị, thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, cục trưởng cục Cảnh sát giao
thông đường bộ – đường sắt trấn an CSGT hoá trang “được chặn xe nhưng
không được phép xử phạt” (mà phải thông báo với lực lượng công khai hay
đưa về trụ sở giải quyết). Nhưng, đặc điểm của việc “làm luật” là có vi
phạm và CSGT không phạt thu ngân sách mà thu vào túi riêng, cũng vì vậy
càng bí mật như thân phận CSGT hoá trang thì càng tốt.
Lực lượng CSGT tuần tra kiểm soát công khai được kết hợp hóa trang mặc thường phục, dùng các phương tiện, nghiệp vụ trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn được phân công. |
Một trong những lý lẽ để biện minh cho hoạt động, nghiệp vụ của ngành
cảnh sát nói chung và CSGT nói riêng là tính chính danh, từ sự được trao
quyền để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn xã hội;
đến phương cách thực hiện chúng, bao gồm cả yêu cầu công khai, minh
bạch, trừ những lĩnh vực đặc biệt thường liên quan đến yếu tố hình sự,
nhưng sự bí mật cũng chỉ được diễn ra trong giai đoạn điều tra. Câu hỏi
đặt ra là với tính chất của các vi phạm mang tính hành chính về giao
thông như hiện nay, có cần thiết phải loại bỏ yêu cầu kiểm tra, xử lý
công khai, minh bạch hay không. Vi phạm công khai, xử lý công khai không
chỉ là nguyên tắc được ghi trong luật Xử lý vi phạm hành chính mà còn
là giải pháp mang tính phòng ngừa, răn đe người khác.
Thông tư 65 cụ thể hơn thông tư 27 ở chỗ khoanh vùng hai trường hợp được
tuần tra kiểm soát công khai kết hợp với hoá trang. Trong đó, “đấu
tranh phòng chống tội phạm; khi tình hình an ninh, trật tự hoặc trật tự,
an toàn giao thông phức tạp” là trường hợp được quy định mới. Nếu tình
hình đã xấu đến mức ấy thì có lẽ bản thân lực lượng CSGT không giải
quyết được, mà cần kết hợp với các lực lượng cảnh sát chuyên trách khác
chứ không phải kết hợp giữa đội công khai với đội hoá trang trong nội bộ
mình. Một trường hợp áp dụng khác, không mới, là khi cần “bí mật sử
dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông”. Thời gian qua, quá trình
triển khai thực hiện việc này đã phát sinh nhiều tình huống dở khóc dở
cười. Mới đây, các trang mạng phổ biến một video clip được cho là quay
cảnh CSGT đang hoá trang để tác nghiệp bắn tốc độ tại Quảng Ninh. Theo
đó, một người đàn ông đã leo lên đỉnh cổng chào, trùm chiếu kín mít chỉ
ló ra mỗi khuôn mặt, ngọ nguậy, loay hoay... giữa quang cảnh xe cộ đang
chạy qua lại bên dưới. Không rõ về tính xác thực của video clip này
nhưng trong thực tế, có 1.001 cảnh tác nghiệp lén lút của CSGT mà người
dân thấy hay chụp hình, quay lại được. Một mặt, nó cho thấy sự vất vả
của các CSGT không mặc đồng phục nhưng mặt khác, nó cho thấy một hình
ảnh nhếch nhác, hài hước về lực lượng đáng ra phải thể hiện được sự uy
nghiêm của công quyền trong mắt công chúng.
Trước đây, dư luận đã phản ứng gay gắt về chuyện CSGT “núp lùm” rình bắt
vi phạm vì sự không công khai, minh bạch như đáng ra nó phải thế. Sau
đó, thực hiện kế hoạch số 20 của Công an Hà Nội về tổ chức thực hiện
cuộc vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp
sống văn hoá vì nhân dân phục vụ” trong lực lượng CSGT, phòng CSGT
đường bộ – đường sắt Hà Nội đã quy định CSGT không được rình nấp sau gốc
cây. Thiết nghĩ, “nếp sống văn hoá” này cần được phát huy. Thế nhưng,
không hiểu sao, thông tư 27, rồi thông tư 65 lại chính thức hoá, mở rộng
những dạng thức “núp lùm” khác là cho phép CSGT được hoá trang và nâng
nó lên một tầm cao mới về mặt pháp lý: được áp dụng trong phạm vi cả
nước.
Nguyên Lê(SGTT)
Quý I/2013, cấp giấy phép lái xe mẫu mới trên cả nước
Mẫu giấy phép lái xe mới |
Trao đổi với phóng viên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ về việc triển
khai cấp giấy phép lái xe mẫu mới, ông Nguyễn Văn Quyền - Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho biết dự kiến đến quý I/2013 công
tác cấp giấy phép lái xe mẫu mới sẽ được triển khai trên cả nước.
Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET theo mẫu quy định tại Thông tư số
35/2010/TT-BGTVT ngày 15/11/2010 được đưa vào sử dụng từ ngày 1/7/2012
và áp dụng cho các trường hợp: cấp mới, cấp đổi cho người có giấy phép
lái xe hết thời hạn sử dụng; cấp lại cho người có giấy phép lái xe bị
mất, hỏng. Giấy phép lái xe đã cấp được tiếp tục sử dụng theo quy định.
Từ 1/7/2012 đến nay, đã thực hiện cấp giấy phép lái xe mới tại Tổng cục
Đường bộ Việt Nam và 25 tỉnh, thành phố là: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa,
Đà Nẵng, Kon Tum, Lâm Đồng, An Giang, Bến Tre, Long An, Quảng Ninh,
Quảng Ngãi, Quảng Bình, Bình Định, Đồng Nai, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Hưng
Yên, Tây Ninh, Cần Thơ.
Hiện nay, các tỉnh, thành phố khác như Quảng Trị, Bình Thuận, Phú Thọ,
Đắk Lắk, Bạc Liêu, Hải Phòng, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Nghệ An,
Ninh Bình, Quảng Nam, Lào Cai, Hà Nam, Hà Giang, Yên Bái,... cũng đang
tích cực để triển khai cấp giấy phép lái xe mới
Ông Quyền cho biết, trước đó theo kế hoạch, tiến độ cấp giấy phép lái xe
theo mẫu mới sẽ hoàn thành trên phạm vi toàn quốc vào ngày 1/7/2013.
Tuy nhiên, qua quá trình triển khai trên cả nước, Tổng cục Đường bộ Việt
Nam nhận định rằng việc cấp giấy phép lái xe mẫu mới có thể hoàn thành
sớm hơn, cơ bản trong quý I/2013.
Hiện một trong những khó khăn lớn nhất là việc đầu tư trang thiết bị
phục vụ in giấy phép lái xe theo công nghệ mới và quản lý hệ cơ sở dữ
liệu giấy phép lái xe. Ngoài số thiết bị đã được Tổng cục Đường bộ Việt
Nam cung cấp, mỗi tỉnh phải đầu tư một khoản kinh phí khoảng 1 tỉ đồng
cho công tác này. Riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cần đầu tư từ 3 – 4 tỉ
đồng. Tuy nhiên, ông Quyền cho biết, khó khăn này đã được các địa phương
quan tâm giải quyết.
Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước đã cấp 105.768 giấy phép lái xe
bằng vật liệu PET, trong đó 70.195 giấy phép lái xe cấp mới và 35.568
giấy phép lái xe cấp đổi.
Thành Chung – Thanh Hoài thực hiện
(Chinhphu.vn)
Bình Dương: Bị công an đánh gãy tay vì không đội mũ bảo hiểm?
Anh Phạm Văn Thành (27 tuổi, quê Nghệ An, công nhân KCN Sóng Thần) có
đơn tố giác bị Công an phường An Bình (Dĩ An, Bình Dương) và dân phòng
đánh đến gãy tay, chấn thương phần mềm mặt, cổ và ngực.
Theo anh Thành, tối 15.10, anh chạy xe từ khu trung tâm hành chính thị
xã Dĩ An về phòng trọ nhưng không đội mũ bảo hiểm. Chạy xe đến khu phố
Bình Đường 1, anh bị công an và dân phòng dừng xe, yêu cầu xuất trình
giấy tờ và về Công an phường An Bình lập biên bản. Anh Thành liền cãi:
“Tôi vi phạm giao thông thì các anh lập biên bản, sao lại phải mời tôi
về phường?”.
Anh Thành lúc được cấp cứu trong bệnh viện với nhiều vết bầm trên cằm, cổ. |
“Ngay lúc đó, một người đã dùng gậy đánh, mấy người khác xông vào đánh,
đá tôi túi bụi. Sau đó họ đè tôi xuống đường rồi dùng thắt lưng trói,
đưa tôi lên xe máy chở về Công an phường. Trong lúc đánh, một người còn
nói: “Tao là Lê Anh Tuấn, Công an phường An Bình, đánh mày đấy, mày muốn
gì(?)”. Tại Công an phường, họ tiếp tục đánh. Tôi phải quỳ xin họ mới
thôi. Sau đó, họ lập biên bản vi phạm hành chính là cản trở, không chấp
hành khi vi phạm. Đến gần 12 giờ đêm, họ cho tôi về sau khi giữ điện
thoại, giấy xe. Khi tôi về đến phòng trọ, bạn cùng phòng đã chở tôi đến
bệnh viện cấp cứu” - anh Thành nói.
Tại bệnh viện, anh Thành được chẩn đoán: Gãy kín xương bàn tay, chấn
thương phần mềm, cổ, ngực. Sáng hôm sau, người nhà anh Thành đến Công an
phường An Bình hỏi sự việc và Công an phường đã xin lỗi gia đình, hứa
lo một phần thuốc men cho anh Thành.
Chiều 16.11, đại diện Công an phường cùng ông Lê Anh Tuấn đã đến phòng
trọ của anh Thành để xin lỗi và hỗ trợ 2 triệu đồng tiền thuốc men.
Trao đổi với chúng tôi, trung tá Vũ Hoàng Long - Trưởng Công an phường
An Bình - nói: “Sự việc đánh người là có và chúng tôi đã nhận được phản
ánh của người dân. Tuy nhiên, chúng tôi đang trong quá trình xác minh,
xem sự việc diễn ra như thế nào nên chưa thể trả lời được…”.
(PLTPHCM)
Trung Quốc: Bước Đại nhảy vọt và Nạn đói 1958-1961
Nạn đói tại Trung Quốc 1958-1961 |
Ba
mươi sáu triệu người chết vì nạn đói hay bị bạo hành tại Trung Quốc
trong suốt 4 năm (1958-1961) là kết quả của một cuộc điều tra tỉ mỉ, do
nhà báo Dương Kế Thằng – phó tổng biên tập tờ Trung Hoa thường niên thực
hiện.
Nhân dịp tác
phẩm của ông mang tựa đề «Những tấm bia. Nạn đói lớn tại Trung Quốc,
1958-1961 », do nhà xuất bản Seuil, tại Pháp phát hành, tuần san Le
Nouvel Observateur đã có buổi nói chuyện với tác giả để hiểu rõ mức độ
tàn khốc của thảm kịch đó.
Theo tác giả bài viết, vào thời điểm Mao
Trạch Đông lên cầm quyền vào năm 1949, đâu đâu cũng thấy những lời
tuyên truyền tốt đẹp, đến mức mà tác giả cũng như bao thế hệ thanh niên
lúc ấy đều tin rằng : Mao Chủ tịch là một vị thần ; chủ nghĩa cộng sản
là thiên đường và phần còn lại của thế giới chỉ là địa ngục. Người ta
tin vào huyền thoại đến nỗi mà ông xem cái chết của cha mình chỉ là một
nỗi bất hạnh cá nhân. Không ai nghĩ rằng đó là hậu quả của chủ trương
tập thể hóa và « Bước Đại nhảy vọt lên phía trước ». Thậm chí, cả bộ máy
chính quyền lúc bấy giờ cũng tin tưởng một cách mù quáng vào chính
huyền thoại do Mao đề ra, đến mức phải mất một thời gian rất lâu sau để
mà đánh giá hết tai biến đó.
Tác giả cho biết, sau này khi đã trở
thành nhà báo, ông mới có điều kiện tiếp xúc với các nguồn tài liệu quý
và sự kiện Thiên An Môn 1989 xảy ra đã làm sáng tỏ những mối nghi ngờ
của ông về Bước Đại nhảy vọt, vốn đã hình thành từ thời Cách Mạnh Văn
Hóa về những năm tháng đầy ghê rợn của thảm kịch đó. Theo ông, lẽ ra
người ta có tránh được thảm kịch, bởi vì nó xảy ra không phải là vì do
chiến tranh, cũng không phải do thảm họa thiên nhiên, nhưng mà là do cả
một hệ thống đã dựng lên bằng mọi giá.
Minh Anh/ RFI
Ly kỳ vụ "yêu râu xanh" dùng ớt cay hại đời sơn nữ
Hình minh họa |
Khi phát hiện một bóng người lạ mặt cậy cửa, lẻn vào lán nương nhà mình,
2 cô gái sợ không dám lên tiếng. Biết trong lán chỉ có hai sơn nữ trẻ,
gã đàn ông bịt mặt chẳng tỏ ra sợ sệt, ngồi ở cuối giường gạ gẫm quan hệ
tình dục.
“Quỷ râu xanh” bịt mặt
Trong cuộc đời gần 10 năm làm nghề luật sư, ông Lê Quang Vinh (Văn phòng
luật sư Yến Đức- Đoàn luật sư TP. Hà Nội) đã tham gia rất nhiều vụ án
hình sự đặc biệt nghiêm trọng có nhiều tình tiết ly kỳ. Luật sư Vinh cho
biết, vụ án hiếp dâm trẻ em ở bản Từ Ngài, xã Mường Báng, huyện Tủa
Chùa, tỉnh Điện Biên xảy ra cách đây 6 năm nhưng vẫn còn ám ảnh ông cho
đến bây giờ. Nạn nhân trong vụ án này bị xâm hại tình dục một cách hết
sức dã man, suýt nữa phải bỏ mạng khi tuổi đời đang ở độ trăng rằm (14
tuổi).
Theo lời kể của luật sư Vinh, vào một đêm tháng 6/2006, khi phát hiện
một bóng người lạ mặt cậy cửa, lẻn vào lán nương nhà mình, cháu Thào Thị
Sen và cô bạn Ly A Ly sợ không dám lên tiếng. Biết trong lán chỉ có hai
sơn nữ trẻ, gã đàn ông bịt mặt không mời mà tự đến chẳng tỏ ra sợ sệt,
ngồi ở cuối giường buông lời tán tỉnh, gạ gẫm quan hệ tình dục.
Qua giọng nói, hai cô gái biết được gã bịt mặt là người dân tộc Mông
giống mình, do vậy họ bớt lo sợ, mạnh dạn đối đáp vài câu nhát gừng với
hắn. Hai cô hỏi tên tuổi nhưng tên này không dám xưng tên thật, nói dối
là người ở nơi khác đến, đang đi tìm bạn tình trăm năm để lấy làm vợ.
Trong lúc chuyện trò, gã trai lơ bịt mặt thỉnh thoảng lại bật đèn pin
sáng soi vào vách lán, rồi lại tắt ngay.
Qua ánh đèn hắt lại, hai cô gái phát hiện gã này quấn khăn che kín mặt
(sợ bị nhận diện - PV), chỉ để lộ 2 đôi mắt trắng dã đang nhìn hau háu
vào thân thể tràn đầy nhựa sống của hai cô. Thào Thị Sen hỏi mượn đèn
pin nhưng hắn không cho và lải nhải điệp khúc rủ rê hai cô cho quan hệ
tình dục. Linh tính của người con gái cho thấy đây là một kẻ đốn mạt,
vốn là cô gái to khỏe, có cá tính mạnh mẽ, Ly A Ly đứng dậy, đi ra chỗ
bếp định thổi lửa cho sáng lán trại để phòng vệ. Ai ngờ hắn như con chim
cắt, lao nhanh đến ôm chặt lấy Ly, hai tay khùa khoạng thực hiện hành
vi bỉ ổi.
Bị tấn công bất ngờ, Ly hoảng sợ kêu cứu, vùng vẫy một hồi mới thoát
khỏi tay con quỷ râu xanh. Cô chạy thục mạng ra khỏi lán như bị ma đuổi.
Không thực hiện được hành vi thú tính với Ly, kẻ bịt mặt quay sang tấn
công Sen. Hắn dùng một sợi dây mang theo siết cổ cô, lấy một nắm bông
tẩm ớt cay chà xát vào mắt nhằm làm tê liệt khả năng kháng cự và nhận
diện của nạn nhân. Vì bị siết cổ chặt, Thào Thị Sen ngất lịm đi, không
biết gì nữa. Sau khi thực hiện xong hành vi hiếp dâm, con quỷ râu xanh
biến mất dạng vào rừng đêm yên tĩnh.
Khoảng 3h sáng ngày hôm sau, Thào Thị Sen tỉnh dậy thấy mình nằm ở ngoài
trời, cách lán nương chừng 30m, toàn thân đau ê ẩm. Cô cố gắng lết từng
bước chân về nhà, nước mắt giàn giụa kể lại toàn bộ sự việc đau buồn
đêm qua cho bố mẹ nghe. Nghe lời con nói, bố mẹ Sen đau đớn như đứt từng
khúc ruột.
Truy tìm hung thủ
Luật sư Vinh kể: Sáng sớm hôm sau, người nhà bị hại Sen kéo nhau đến
hiện trường xảy ra vụ án. Họ phát hiện có nhiều dấu chân người lạ, nắm
bông tẩm ớt và sợi dây hung thủ gây án. Trong lòng mọi người đều tức
giận, chỉ muốn tóm ngay được hung thủ để bắt hắn đền tội.
Đơn trình báo của gia đình nạn nhân được gửi ngay đến công an huyện Tủa
Chùa. Cơ quan điều tra nhanh chóng vào cuộc và khoanh vùng đối tượng.
Mặc dù địa bàn khá rộng, nhưng người sống thưa thớt nên chẳng mấy khó
khăn cơ quan điều tra đã xác định được nghi phạm là Chang A Sứa. Lý do
vì Sứa có lán nương ở gần hiện trường xảy ra vụ án.
Tại cơ quan điều tra, mới đầu Sứa không thừa nhận thực hiện hành vi hiếp
dâm cháu Sen. Nhưng sau quá trình điều tra, Chang A Sứa đã cúi đầu nhận
tội. Mặc dù nhà Sứa quá nghèo khổ, vợ con sống nheo nhóc như cây cỏ
trên rừng, nhưng vì chồng vướng vào vòng lao lý, vợ hắn đành cắn răng
bán con trâu (là tài sản giá trị nhất của gia đình) lấy tiền lo cho
chồng. Và thế là luật sư Lê Quang Vinh được mời làm luật sư bào chữa cho
bị cáo Chang A Sứa.
Luật sư Lê Quang Vinh kể lại vụ án với tâm trạng còn nhiều day dứt. (Ảnh Thành Long). |
Và những tình tiết gây sốc
Luật sư Lê Quang Vinh tâm sự: "Lần đầu tiên gặp Sứa, tôi thấy ở con
người này vẫn còn sự hiền lành, thật thà chất phác của người miền núi
vốn ít va chạm với người miền xuôi. Sứa kể với tôi rằng, hôm đó là ngày
Chủ nhật, Sứa đi chợ huyện cách nhà 5km. Tới chợ, Sứa mua 1 đôi dép và 1
túi gạo, rồi đi về nhà ở bản Tường Ngài. Sau khi cho lợn gà, chim cảnh
ăn xong, khoảng 18h chiều, trời nhập nhoạng tối, Sứa đi về bản với một
tốp người địa phương. Dưới ánh trăng lấp ló trên mỏm núi, Sứa vừa đi vừa
thổi khèn. Chính vì cái tài thổi khèn nức tiếng gần xa mà Sứa lấy được
một cô vợ đẹp nhất làng.
Tối hôm đó, cả gia đình ăn bữa cơm đạm bạc chỉ có ít muối ớt với rau
cải, Sứa rơm rớm nước mắt vì sự nghèo khổ của gia đình mình. Đến khoảng
3h sáng, trời đổ mưa rất to, sấm chớp đùng đùng khiến Sứa tỉnh giấc. Sứa
lấy kéo cắt một dúm tóc con trai mình, vứt ra ngoài sân để trừ sấm sét
(phong tục của người Mông). Sau đó, Sứa lại đi ngủ tiếp. Sáng hôm sau
tỉnh dậy anh ta mới biết cháu Sen bị hiếp dâm trong đêm. Đấy chỉ là lời
khai một phía, chưa có sự thẩm định chính xác nên cơ quan điều tra không
xem xét".
Bắt tay vào nghiên cứu hồ sơ vụ án, luật sư Vinh đọc rất kỹ từng bút lục
và phát hiện ra nhiều tình tiết quan trọng liên quan đến việc định tội
đối với Chang A Sứa. Luật sư Vinh kể: "Khi đọc đến nội dung cơ quan công
an đưa nạn nhân Thào Thị Sen đi lấy mẫu dịch trong âm đạo và cơ quan
pháp y đã lấy được mẫu nước dịch, nhưng sau đó lại tiêu hủy mẫu vật giám
định vì bị can đã nhận tội. Tôi thấy choáng váng đầu óc, bởi vì mẫu vật
giám định (nước dịch trong bộ phận kín của nạn nhân) là một chứng cứ vô
cùng quan trọng để xác định chính xác kẻ hiếp dâm. Đây là một chứng cứ
trực tiếp để truy nguyên tội phạm. Nay tiêu hủy đi là một vi phạm nghiêm
trọng trong tố tụng của những người có trách nhiệm bảo vệ chứng cứ".
Luật sư Vinh nhấn mạnh: "Còn nữa, tại cơ quan điều tra, Chang A Sứa khai
trước khi quan hệ tình dục, hắn đã tự tay cởi quần lót của nạn nhân và
dùng một sợi dây thừng thắt cổ nạn nhân. Nhưng trong lời tường trình của
cháu Sen lại khẳng định đêm hôm xảy ra vụ hiếp dâm, cháu mặc váy nhưng
không mặc quần lót".
Nghiên cứu kỹ vụ án dưới nhiều góc độ, luật sư Vinh còn phát hiện ra một
tình tiết chưa được làm rõ tại cơ quan điều tra. Đó là mối quan hệ họ
hàng giữa hung thủ và nạn nhân. Cụ thể Chang A Sứa là cậu của nạn nhân
Thào Thị Sen. Luật sư Vinh đặt câu hỏi: "Chẳng lẽ cậu lại manh động đến
mức hãm hiếp cả cháu gái của mình. Hơn nữa, trước khi hãm hiếp còn nói
chuyện một lúc, chẳng lẽ không sợ nạn nhân nhận ra giọng nói của mình
hay sao".
Chính vì những tình tiết chưa được làm rõ kể trên đã nổ ra cuộc tranh
cãi kịch liệt giữa luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Điện
Biên. Theo đó, vụ án hiếp dâm trẻ em này kéo dài qua 4 cấp tòa xét xử (2
lần TAND tỉnh Điện Biên, 2 lần TAND tối cao tại Hà Nội). Tuy nhiên tại
hồ sơ đã thể hiện rõ lời nhận tội của Chang A Sứa khẳng định đã hiếp dâm
Thào Thị Sen như kể trên. Dù tại tòa bị cáo này có nói gì đi chăng nữa,
cũng không thể làm thay đổi được nội dung của các bản cung đã khai tại
cơ quan điều tra. "Án tại hồ sơ, tòa cứ theo đó mà xét xử" - Luật sư
Vinh buồn bã.
Cuối cùng, bị cáo trang A Sứa bị kết án 7 năm tù về tội hiếp dâm trẻ em.
Ngay sau khi tòa tuyên án, vợ bị cáo Sứa đã khóc hết nước mắt nơi công
đường, nhìn chồng mình bị dẫn giải vào nhà tù trong nỗi buồn vô
vọng.
*Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi.
Thiên Long
(Nguoiduatin.vn)
Bất động sản “chết” vì mù quáng!
Chừng nào chưa đẩy đi được “đống” khách sạn, nhà hàng, chung cư cao cấp
đang tồn đọng thì lúc đó lượng vốn cơ bản của nền kinh tế mới giải
thoát, TS Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia kinh tế của Viên nghiên cứu
Kinh tế - Xã hội Hà Nội chia sẻ khi nói về vấn đề nợ xấu.
Theo đó, TS Nguyễn Minh Phong chia sẻ: Nợ và nợ xấu giờ như một căn bệnh
mãn tính, là bạn đồng hành và đã bao phủ tất cả các nước trên thế giới,
kể cả những nước giàu và phát triển nhất như Mỹ, Nhật hay các nước EU
cho đến những nước nghèo, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nợ và nợ xấu
của Việt Nam có mấy điểm đáng lưu sau:
Thứ nhất, tổng số nợ đang tăng dần và vẫn chưa có con số chính xác bởi
vẫn chưa có một cơ quan nào đủ uy tín, đủ công phu cũng như thẩm quyền
để có thể tập hợp đầy đủ số nợ lại để đưa ra một con số cụ thể. Chính vì
vậy, nợ xấu là bao nhiêu lại càng tù mù bởi cái tổng nợ còn chưa rõ thì
nợ xấu càng chưa rõ, càng khó xác định. Có thể sẽ chỉ có một vài con số
tuyệt đối ở những doanh nghiệp, những trường hợp cụ thể nhưng tổng đánh
giá của nền kinh tế lại chưa có.
Thứ hai, đa số nợ, nợ đọng, nợ xấu của nền kinh tế lại rơi vào lĩnh vực
BĐS. Trong khi đó, thị trường BĐS lại đang có đặc điểm: Giá hiện đang
rất tù mù, không có giá đồng loạt và có dấu hiệu giảm giá rất nhanh;
không có cơ chế đánh giá lúc thị trường trầm lắng; thậm chí, có thể nợ
xấu BĐS sẽ bị che giấu bởi “nghệ thuật” tài chính, kế toán như chấp BĐS,
mà lại được thế chấp đi thế chấp lại nhiều lần khiến giá BĐS được tính
vống lên, còn trong vấn đề kế toán thì việc phân chia nợ, phân chia đầu
tư cũng được thực hiện để tạo nên một cơ cấu che giấu nợ;...
Chính vì vậy, có thể nói, nợ xấu trong lĩnh vực BĐS là một trong những
con số tù mù, khó xác định nhất. Điều này thể hiện rõ trong một phát
biểu gần đây khi mà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, trong
số 2 triệu tỉ đồng dư nợ trong hệ thống NH thì đã có tới 1 triệu tỉ đồng
dư nợ nằm trong BĐS nhưng ngay sau đó, Phó Thống đốc NHNN lại cho rằng
con số đó chỉ là 5%. Thế có nghĩa là con số nợ xấu BĐS sẽ lệch nhau từ 5
đến 50%.
Lý giải cho tình trạng trên, TS Nguyễn Minh Phong đã thẳng thắn chỉ ra
rằng, các doanh nghiệp BĐS đã đầu tư một cách quá mù quáng theo hướng
không cân nhắc thị trường. Đầu tư vào những lĩnh vực, cơ cấu sản phẩm
rất to, rất hoành tráng và rất nhiều tiền với hy vọng là trên tổng số
vốn như vậy sẽ kiếm được lợi nhuận lớn mà không tính tới chuyện bán được
hàng hay không. Vì vậy mới xảy ra tình trạng tất cả đổ dồn vào BĐS cao
cấp, tất cả phải đổ dồn vào phân khúc căn hộ diện tích hàng trăm m2, còn
loại căn hộ 20 hay 30 m2 thì lại chẳng ai làm vì chi phí lớn mà lợi
nhuận thì thấp.
“Ngoài ra, tầng lớp trung gian và sức thanh toán thực tế của thị trường
không lớn như người ta tưởng hoặc đã bị đánh giá nhầm. Trước đây, NH cho
vay xong lại thế chấp rồi lại cho vay thế chấp tạo ra cái giống như dư
nợ của Mỹ là những sản phẩm thế chấp quay vòng, cùng với những khoản vay
dưới chuẩn đã tạo ra nợ xấu”, TS Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh.
Thanh Ngọc (Petrotimes)
TQ xây nhà máy xử lý nước ở Tam Sa
Tân Hoa Xã đưa tin việc xây cất nhà máy xử lý nước biển cho cộng đồng dân cư Tam Sa bắt đầu hôm thứ Bảy 10/11.
Nhà máy này, cũng như các cơ sở sản xuất khác, được đặt trên đảo Phú Lâm, đảo chính trong các đảo Hoàng Sa mà nay hoàn toàn nằm trong tay Trung Quốc.
Việt Nam nói Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974.
Mới đây, chính quyền thành phố Tam Sa cũng tổ chức ăn mừng 100 ngày thành lập, gây phản đối từ phía Việt Nam.
Trong các quốc gia có chủ quyền chồng lấn tại Biển Đông, chỉ có Việt Nam là tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Hoàng Sa.
Kỷ niệm ngày thành lập
'Thành phố Tam Sa' được chính thức thành lập trong một buổi lễ long trọng trên đảo Phú Lâm, mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng, hôm 24/7.Lúc đó Việt Nam đã lên tiếng phản đối và tuyên bố: "Việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” và triển khai các hoạt động nói trên đã vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và là vô giá trị".
Trung Quốc cũng quyết định thành lập bộ chỉ huy quân sự thành phố Tam Sa và đã tổ chức bầu cử đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I tại đây.
(BBC)
Đào Tuấn - Chỉ welcome thôi thì chưa đủ
Các nhà giáo, ngoài nỗi khổ bị buộc phải “thanh bạch và cao quý” với
đồng lương chết đói, còn bị làm nhục khi bị “bắt quả tang như bắt
trộm”, bị “cúi mặt ký biên bản như gái bán dâm ngay trước mắt học sinh
của mình”.
Rất nhiều lời lẽ tốt đẹp đã được dành tặng cho các nhà giáo vùng sâu trog một lễ tuyên dương hoành tráng được tổ chức hôm qua tại Thủ đô Hà Nội. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân gọi họ là “những người hy sinh thầm lặng”, là “một tấm gương tiêu biểu”, “một bông hoa không bao giờ tàn”, là “không có các cô thì không có nền giáo dục”.
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận bổ sung thêm “mỗi thầy cô là một chiến sĩ của Đảng”. 128 chiếc…bằng khen sau đó đã được trao. Thậm chí, câu chuyện “tôn vinh cái ghế trống” hôm qua cũng đã xuất hiện khi Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã gửi lời cảm ơn và chúc mừng tốt đẹp nhất tới cô giáo Bùi Thị Nhung, giáo viên đang dạy lớp ghép từ lớp 1 đến lớp 5 tại đảo huyện đảo Trường Sa – tỉnh Khánh Hòa, do khó khăn trong điều kiện đi lại, đã không thể có mặt tại Lễ tuyên dương.
Tất nhiên, theo website Chính phủ, sau đó, “Phó Thủ tướng khẳng định trong thời gian tới Chính phủ sẽ dành những nguồn lực tốt nhất để chia sẻ những khó khăn, dành những quan tâm tốt hơn với các thầy, các cô giáo ở vùng khó khăn nói riêng và quan tâm tới sự nghiệp giáo dục của đất nước nói chung”.
Còn nhớ, ngày 17.11.2006, trước 13 nhà giáo nhân dân và 44 giáo sư, Phó Thủ tướng, bấy giờ kiêm Bộ trưởng Bộ GDĐT đã trân trọng hứa: “Đến năm 2010, nhà giáo có thể sống được bằng đồng lương của mình”. So với lời hứa cụ thể, và không bao giờ thực hiện nổi đó, những “nguồn lực tốt nhất”, trong “thời gian tới”, rõ ràng là một bước thụt lùi rất xa. Và không phải bởi các nhà giáo đã có thể “sống được bằng đồng lương của mình”.
Bởi cũng trong ngày hôm qua, “nguyện vọng được sống bằng lương” đã được nguyên phó trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy TPHCM, nguyên GĐ Sở GD-ĐT TP.HCM TS Hồ Thiệu Hùng nhắc lại trong một hội thảo về giáo dục. Một so sánh đã được đưa ra: “Hệ số lương của giáo viên mầm non bậc thấp hơn cả mức lương của người làm công tác đánh máy, lái xe cơ quan”, trong một thực trạng mà nguyên thứ trưởng Bộ GD-ĐT, PGS-TS Nguyễn Tất Phát lắc đầu thừa nhận: “Mức lương vẫn là yếu tố nan giải nhất trong các vấn đề của giáo dục”. Báo chí đã mô tả TS Hùng thậm chí cực kỳ gay gắt khi cho rằng: “Danh dự nhà giáo đang bị xúc phạm”, khi họ bị buộc phải “đứng giữa hai ranh giới mong manh là phẩm chất và tiêu cực nếu coi dạy thêm là hành vi tiêu cực”.
Cũng trong ngày hôm qua, Bộ GD và ĐT chính thức phát đi thông điệp “Không tổ chức tiếp khách, không nhận hoa chúc mừng tại trụ sở cơ quan Bộ nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 năm nay”. Quy định này có lẽ ngoài ý nghĩa để “thực hành tiết kiệm chống lãng phí”, theo Thứ trưởng Trần Quang Quý, có lẽ còn là một hình thức nêu gương về sự “thanh bạch cao quý” của ngành giáo dục.
Nhưng người ta không thể sống chỉ bằng “thanh bạch cao quý”. Bởi ngoài thực tế, sau khi Bộ GD-ĐT ban hành thông tư 17 quy định về dạy thêm học thêm, nước mắt nhà giáo tiếp tục tuôn rơi khi ngoài chuyện “cấm tiệt” tất cả hình thức dạy thêm học thêm, phong trào “bắt dạy thêm” được rầm rộ tổ chức ở khắp nơi. Các nhà giáo, ngoài nỗi khổ bị buộc phải “thanh bạch và cao quý” với đồng lương chết đói, còn bị làm nhục khi bị “bắt quả tang như bắt trộm”, bị “cúi mặt ký biên bản như gái bán dâm ngay trước mắt học sinh của mình”.
Những mỹ từ đẹp đẽ, những tấm bằng khen, những lời động viên là cần thiết. Nhưng điều cần thiết tối thiểu nhất mà các nhà giáo đang cần chính là họ có thể sống được bằng lương. Bởi chẳng có sự tôn vinh, chẳng có sự khẳng định “quốc sách hàng đầu” nào thiết thực hơn nhu cầu giản dị đôi khi chỉ đồng nghĩa với chuyện áo cơm đó.
Theo Đào Tuấn
Rất nhiều lời lẽ tốt đẹp đã được dành tặng cho các nhà giáo vùng sâu trog một lễ tuyên dương hoành tráng được tổ chức hôm qua tại Thủ đô Hà Nội. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân gọi họ là “những người hy sinh thầm lặng”, là “một tấm gương tiêu biểu”, “một bông hoa không bao giờ tàn”, là “không có các cô thì không có nền giáo dục”.
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận bổ sung thêm “mỗi thầy cô là một chiến sĩ của Đảng”. 128 chiếc…bằng khen sau đó đã được trao. Thậm chí, câu chuyện “tôn vinh cái ghế trống” hôm qua cũng đã xuất hiện khi Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã gửi lời cảm ơn và chúc mừng tốt đẹp nhất tới cô giáo Bùi Thị Nhung, giáo viên đang dạy lớp ghép từ lớp 1 đến lớp 5 tại đảo huyện đảo Trường Sa – tỉnh Khánh Hòa, do khó khăn trong điều kiện đi lại, đã không thể có mặt tại Lễ tuyên dương.
Tất nhiên, theo website Chính phủ, sau đó, “Phó Thủ tướng khẳng định trong thời gian tới Chính phủ sẽ dành những nguồn lực tốt nhất để chia sẻ những khó khăn, dành những quan tâm tốt hơn với các thầy, các cô giáo ở vùng khó khăn nói riêng và quan tâm tới sự nghiệp giáo dục của đất nước nói chung”.
Còn nhớ, ngày 17.11.2006, trước 13 nhà giáo nhân dân và 44 giáo sư, Phó Thủ tướng, bấy giờ kiêm Bộ trưởng Bộ GDĐT đã trân trọng hứa: “Đến năm 2010, nhà giáo có thể sống được bằng đồng lương của mình”. So với lời hứa cụ thể, và không bao giờ thực hiện nổi đó, những “nguồn lực tốt nhất”, trong “thời gian tới”, rõ ràng là một bước thụt lùi rất xa. Và không phải bởi các nhà giáo đã có thể “sống được bằng đồng lương của mình”.
Bởi cũng trong ngày hôm qua, “nguyện vọng được sống bằng lương” đã được nguyên phó trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy TPHCM, nguyên GĐ Sở GD-ĐT TP.HCM TS Hồ Thiệu Hùng nhắc lại trong một hội thảo về giáo dục. Một so sánh đã được đưa ra: “Hệ số lương của giáo viên mầm non bậc thấp hơn cả mức lương của người làm công tác đánh máy, lái xe cơ quan”, trong một thực trạng mà nguyên thứ trưởng Bộ GD-ĐT, PGS-TS Nguyễn Tất Phát lắc đầu thừa nhận: “Mức lương vẫn là yếu tố nan giải nhất trong các vấn đề của giáo dục”. Báo chí đã mô tả TS Hùng thậm chí cực kỳ gay gắt khi cho rằng: “Danh dự nhà giáo đang bị xúc phạm”, khi họ bị buộc phải “đứng giữa hai ranh giới mong manh là phẩm chất và tiêu cực nếu coi dạy thêm là hành vi tiêu cực”.
Cũng trong ngày hôm qua, Bộ GD và ĐT chính thức phát đi thông điệp “Không tổ chức tiếp khách, không nhận hoa chúc mừng tại trụ sở cơ quan Bộ nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 năm nay”. Quy định này có lẽ ngoài ý nghĩa để “thực hành tiết kiệm chống lãng phí”, theo Thứ trưởng Trần Quang Quý, có lẽ còn là một hình thức nêu gương về sự “thanh bạch cao quý” của ngành giáo dục.
Nhưng người ta không thể sống chỉ bằng “thanh bạch cao quý”. Bởi ngoài thực tế, sau khi Bộ GD-ĐT ban hành thông tư 17 quy định về dạy thêm học thêm, nước mắt nhà giáo tiếp tục tuôn rơi khi ngoài chuyện “cấm tiệt” tất cả hình thức dạy thêm học thêm, phong trào “bắt dạy thêm” được rầm rộ tổ chức ở khắp nơi. Các nhà giáo, ngoài nỗi khổ bị buộc phải “thanh bạch và cao quý” với đồng lương chết đói, còn bị làm nhục khi bị “bắt quả tang như bắt trộm”, bị “cúi mặt ký biên bản như gái bán dâm ngay trước mắt học sinh của mình”.
Những mỹ từ đẹp đẽ, những tấm bằng khen, những lời động viên là cần thiết. Nhưng điều cần thiết tối thiểu nhất mà các nhà giáo đang cần chính là họ có thể sống được bằng lương. Bởi chẳng có sự tôn vinh, chẳng có sự khẳng định “quốc sách hàng đầu” nào thiết thực hơn nhu cầu giản dị đôi khi chỉ đồng nghĩa với chuyện áo cơm đó.
Theo Đào Tuấn
Đào Tuấn - Phiếu tín nhiệm và thắc mắc của chị hàng thịt
Dường như, mỗi quan tâm của người dân, chị hàng thịt chẳng hạn, vẫn bị bỏ ngoài thị trường.
Trong buổi sáng mà Quốc hội thảo luận việc lấy phiếu tín nhiệm với xủng xoảng 49 chức danh cao nhất, tầm cỡ “lãnh đạo đất nước”, có một câu hỏi cắc cớ đã được đặt ra: Thế em có được lấy phiếu tín nhiệm với ông Chủ tịch phường không? Vì sao? Vì ông Chủ tịch phường vẫn thu tiền thuế, trong khi vẫn cho công an đuổi.
Đây là câu chuyện phổ biến, với một ông Chủ tịch X, ở một phường Y nào đó. Và người đặt câu hỏi là một “chị hàng thịt” vô tình nghe các dân biểu thảo luận trực tiếp qua truyền hình. Bỏ ngoài chuyện đúng sai của câu chuyện, thực ra, những người bình dân- thực tế đang chiếm số đông trong phạm trù nhân dân- chỉ quan tâm đến những quan chức bình thường nhất. Đó là ông Chủ tịch phường “vẫn chỉ đạo thu thuế, trong khi vẫn cho công an đuổi”. Đó là những vị trưởng phòng, giám đốc sở- đáng lẽ phải chịu trách nhiệm về thái độ, hành xử của viên chức dưới quyền trong việc đối xử hàng ngày với dân.
Nhớ hôm QH thảo luận ở tổ, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Nguyễn Phước Lộc đã đề nghị bổ sung đối tượng cần lấy tín nhiệm là các cấp là giám đốc các sở ban, ngành vì theo ông “Đó là những người kiêm nhiệm, trực tiếp điều hành”. Sáng nay, vấn đề này lại được lặp lại khi ĐBQH Phạm Văn Tam cho rằng chúng ta đã bỏ ngoài hàng loạt các “Giám đốc các sở ngành cấp tỉnh, trưởng phòng ban cấp huyện cấp xã”, dù đây là những trực danh “liên quan trực tiếp đến nhân dân”. Ông Tam đề xuất: “Cứ để HĐND lấy tín nhiệm”. Bởi nếu không, họ sẽ không chịu trách nhiệm gì trước nhân dân”.
Sáng nay, mối quan tâm của người dân đã được ĐBQH Nguyễn Bắc Việt nói tại nghị trường: “Đối tượng họ nói cũng rất rõ “liên quan đến quyền và tiền”. Chỉ gọn thế thôi”. Và nếu trong phạm trù “quyền và tiền”, thì bộ mày chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã chính là lực lượng “quyền và tiền” đông nhất, va chạm nhiều nhất với người dân. Và, nếu dân chúng có bức xúc với chính quyền, thì đây cũng là những địa chỉ gây bức xúc.
Ấy thế mà việc lấy tín nhiệm đối với các đối tượng ngoài “49 chức danh chủ chốt” này được các vị ĐBQH liên tục sử dụng từ bình luận: “quá rộng”, “quá loãng”, “quá tản mạn” hay “tràn lan”, “không hợp lý”, “sợ hình thức” để lắc đầu với việc mở rộng hơn, đối với các chức danh “trực tiếp tiếp xúc với người dân, hàng ngày, ở cơ sở”.
Không phải là không có ý kiến, dù chỉ thiểu số, đề xuất rằng “Việc lấy phiếu tín nhiệm cần phải để người dân tham gia, vì thực ra, đó là chính là việc của dân mà các ĐBQH chỉ là người gián tiếp thực hiện sự tín nhiệm”. Nhưng dường như, mỗi quan tâm của người dân, chị hàng thịt chẳng hạn, vẫn bị bỏ ngoài thị trường.
Có một ý kiến tuyệt hay đã được phát biểu tại nghị trường sáng nay. “Việc lấy phiếu và bỏ phiếu cần qua hình thức “điều tra dư luận xã hội”. Cụ thể hơn, việc điều tra nên giao Ban tuyên giáo TƯ tiến hành trước khi QH lấy phiếu. Cái hay là ở chỗ việc “điều tra dư luận xã hội” sẽ là kết quả chính xác nhất phản ánh tâm nguyện, và cũng là sự tín nhiệm của người dân. Người dân không có quyền “bấm nút” tại nghị trường, đương nhiên, nhưng việc “điều tra dư luận xã hội” sẽ khiến việc ấn nút của các vị đại biểu dân cử, chí ít cũng có đối sánh, rằng nó có trùng với đông đảo ý kiến cử tri mà họ đại diện hay không.
Theo Đào Tuấn
Trong buổi sáng mà Quốc hội thảo luận việc lấy phiếu tín nhiệm với xủng xoảng 49 chức danh cao nhất, tầm cỡ “lãnh đạo đất nước”, có một câu hỏi cắc cớ đã được đặt ra: Thế em có được lấy phiếu tín nhiệm với ông Chủ tịch phường không? Vì sao? Vì ông Chủ tịch phường vẫn thu tiền thuế, trong khi vẫn cho công an đuổi.
Đây là câu chuyện phổ biến, với một ông Chủ tịch X, ở một phường Y nào đó. Và người đặt câu hỏi là một “chị hàng thịt” vô tình nghe các dân biểu thảo luận trực tiếp qua truyền hình. Bỏ ngoài chuyện đúng sai của câu chuyện, thực ra, những người bình dân- thực tế đang chiếm số đông trong phạm trù nhân dân- chỉ quan tâm đến những quan chức bình thường nhất. Đó là ông Chủ tịch phường “vẫn chỉ đạo thu thuế, trong khi vẫn cho công an đuổi”. Đó là những vị trưởng phòng, giám đốc sở- đáng lẽ phải chịu trách nhiệm về thái độ, hành xử của viên chức dưới quyền trong việc đối xử hàng ngày với dân.
Nhớ hôm QH thảo luận ở tổ, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Nguyễn Phước Lộc đã đề nghị bổ sung đối tượng cần lấy tín nhiệm là các cấp là giám đốc các sở ban, ngành vì theo ông “Đó là những người kiêm nhiệm, trực tiếp điều hành”. Sáng nay, vấn đề này lại được lặp lại khi ĐBQH Phạm Văn Tam cho rằng chúng ta đã bỏ ngoài hàng loạt các “Giám đốc các sở ngành cấp tỉnh, trưởng phòng ban cấp huyện cấp xã”, dù đây là những trực danh “liên quan trực tiếp đến nhân dân”. Ông Tam đề xuất: “Cứ để HĐND lấy tín nhiệm”. Bởi nếu không, họ sẽ không chịu trách nhiệm gì trước nhân dân”.
Sáng nay, mối quan tâm của người dân đã được ĐBQH Nguyễn Bắc Việt nói tại nghị trường: “Đối tượng họ nói cũng rất rõ “liên quan đến quyền và tiền”. Chỉ gọn thế thôi”. Và nếu trong phạm trù “quyền và tiền”, thì bộ mày chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã chính là lực lượng “quyền và tiền” đông nhất, va chạm nhiều nhất với người dân. Và, nếu dân chúng có bức xúc với chính quyền, thì đây cũng là những địa chỉ gây bức xúc.
Ấy thế mà việc lấy tín nhiệm đối với các đối tượng ngoài “49 chức danh chủ chốt” này được các vị ĐBQH liên tục sử dụng từ bình luận: “quá rộng”, “quá loãng”, “quá tản mạn” hay “tràn lan”, “không hợp lý”, “sợ hình thức” để lắc đầu với việc mở rộng hơn, đối với các chức danh “trực tiếp tiếp xúc với người dân, hàng ngày, ở cơ sở”.
Không phải là không có ý kiến, dù chỉ thiểu số, đề xuất rằng “Việc lấy phiếu tín nhiệm cần phải để người dân tham gia, vì thực ra, đó là chính là việc của dân mà các ĐBQH chỉ là người gián tiếp thực hiện sự tín nhiệm”. Nhưng dường như, mỗi quan tâm của người dân, chị hàng thịt chẳng hạn, vẫn bị bỏ ngoài thị trường.
Có một ý kiến tuyệt hay đã được phát biểu tại nghị trường sáng nay. “Việc lấy phiếu và bỏ phiếu cần qua hình thức “điều tra dư luận xã hội”. Cụ thể hơn, việc điều tra nên giao Ban tuyên giáo TƯ tiến hành trước khi QH lấy phiếu. Cái hay là ở chỗ việc “điều tra dư luận xã hội” sẽ là kết quả chính xác nhất phản ánh tâm nguyện, và cũng là sự tín nhiệm của người dân. Người dân không có quyền “bấm nút” tại nghị trường, đương nhiên, nhưng việc “điều tra dư luận xã hội” sẽ khiến việc ấn nút của các vị đại biểu dân cử, chí ít cũng có đối sánh, rằng nó có trùng với đông đảo ý kiến cử tri mà họ đại diện hay không.
Theo Đào Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét