Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

Phân định quan hệ Việt-Trung và chiến lược “bảo quốc” cần phải có

Phân định quan hệ Việt-Trung và chiến lược “bảo quốc” cần phải có (1)


Biển Đông như đang dịu xuống sau khi Ngoại trưởng các quốc gia trong khối ASEAN và Trung Cộng đã chính thức thông qua bản tuyên bố ứng xử  biển Đông (DOC). Nhưng giá trị của loại văn kiện thiếu sự ràng buộc này đã khiến cho giới quan sát chính trị nghiệm sâu hơn cái câu:
- “Xây thành đắp lũy thật cao để chiếm. Ký kết hiệp ước thật nhanh để vi phạm”..!
Và có lẽ, câu nói này thật khá phù hợp cho cách ứng xử của Trung Cộng. Bởi, biển Đông cuộn sóng hay bình yên cũng đều do quốc gia có thái độ ngạo ngược này! Do thế, hội nghị của các nngoại trưởng ASEAN tại Bali-Indonesia vẫn không làm nguội được mặt phẳng truyền thông Việt ngữ đang tràn ngập các câu hỏi mà chủ yếu xoáy sâu vào một điểm lớn là:
- Vì sao Trung Cộng gây hấn Việt Nam vào lúc này?
- Liệu có giải pháp khả thi nào để bảo vệ Việt Nam trước sự gia tăng gây hấn của Trung Cộng?…vv..vv…
Vậy trả lời cho các câu hỏi này sẽ ra sao?
Thật không dễ một chút nào, vì muốn tìm hiểu hết lòng dạ của một con người thì cũng đã là chuyện khó! Huống hồ chi; giải đoán dã tâm tham vọng hải hà của một quốc gia mà vốn dĩ muôn đời không từ  bỏ mộng bá quyền về phương Nam, thì e là, việc lý giải về đại sự này lại càng khó hơn…!
Tuy nhiên, phàm là chính trị thì phải có căn cơ lý thuyết của nó, có như vậy người ta mới dựa vào đó để đề ra chính sách rồi thực thi, trong trường hợp Trung Cộng cố tình gây hấn Việt Cộng lần này cũng thế,  ắt phải có nguyên nhân cần tìm hiểu!
Riêng với người viết đối với sự kiện này thì không có gì ngạc nhiên! Vì, gần 1 năm trước, khi lượng định về mối quan hệ Việt-Trung, tác giả Nguyễn Duy Thành đã đưa ra một tiên đoán gần như khẳng định trong bài báo: LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN VÀ PHÁT SÚNG NGUYỄN VĂN THIỆU.. ..PẰNG.. ..! mà nguyên văn đoạn nhận định đó như sau:
“… Căn cứ vào một số sự kiện từng xảy ra trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia từng chịu sự chi phối của Trung Cộng, có thể đưa ra một tiên đoán cũng là sự cảnh báo với các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng. Khi vào thời điểm khả dĩ làm chủ được tình hình, thì Trung Cộng không cần thiết đến chế độ cộng sản Việt Nam tồn tại nữa hay không! (…). Đặc biệt, khi chiến lược của Trung cộng bị phản kháng bằng những cuộc xuống đường biểu tình, thì Bắc Kinh càng gây rối loạn an ninh, tạo ra khủng hoảng xã hội càng nhiều theo Kế: SẤN HỎA ĐẢ KIẾP, nghĩa là (đốt lửa rồi theo lửa mà hành động) thì họ càng có lợi nhanh hơn trong kết quả khống chế Việt Nam …” ( ngưng trích)!
Nhận định này nằm ở 1 trong 2 bài viết dưới dạng khảo cứu, nên sẽ mãi có giá trị bởi tính định hình chiến lược của Trung Cộng, mà tất cả mọi phân tích và lập luận đưa ra đều dựa trên nhiều tham khảo và so sánh từ Học Thuyết Monroe mà gần 200 năm trước đã thành công góp phần minh tạo ra một quốc gia Hoa Kỳ vĩ đại như ngày nay. Đồng thời, Binh Pháp Tôn Tử  là bộ binh học truyền thống từng một thời phong vũ cũng đã góp phần kiến tạo nên Trung Hoa hùng cứ một phương!
Cả 2 yếu tố chính trị ngoại giao và chiến lược quân sự  nói trên đều đang được Trung Cộng áp dụng để chi phối Việt Nam và Châu Á – Thái Bình Dương. Nhằm hiểu sâu hơn về bài viết mà bạn đang đọc, rất trân trọng mời độc giả vào Google để tìm đọc thêm 2 bài viết nói trên có tựa là:
1) LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN VÀ PHÁT SÚNG NGUYỄN VĂN THIỆU.. ..PẰNG.. ..!
2) VIỆT CỘNG SẼ BỊ CHIẾU TƯỚNG TRÊN BÀN CỜ TAM QUỐC.
Tuy nhiên, để có được trả lời cho các câu hỏi nêu trên thì xin khái quát chung hoàn cảnh và động cơ của phía quốc gia chủ động thực hiện hành động khiêu khích, đó là:
TẠI SAO TRUNG CỘNG CỐ TÌNH GÂY HẤN VIỆT NAM VÀO THỜI ĐIỂM NÀY???
Muốn thấy điều đó thì phải cụ thể hóa từng chi tiết mà trước hết là:
ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG CỘNG:
Quan sát trên diện rộng quốc tế thì Bắc Kinh đang ở thế thượng phong vì lắm tiền nhiều của. Những điểm lợi bất ngờ mà có thể trong tương lai Trung Cộng sẽ gặt hái được nhiều thành quả hơn đối thủ của mình là Hoa Kỳ, đó là: Một loạt “đồng minh cà chớn” của Hoa Kỳ tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi bị sụp đổ. Trung Cộng từng trải qua giai đoạn vung tiền ném bạc để thu phục đàn em, nhưng đã cô đơn trước sự  “ chung thủy vì Cà rốt” với Hoa Kỳ của các nhà lãnh đạo tại khu vực này…!
Nay, sự sụp đổ các thể chế độc tài và mức độ xáo trộn xã hội ngày một trầm trọng tại đây đang hối thúc các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ soạn gấp một chiến lược mới để phù hợp với tình hình mới, nếu không muốn nói trên mặt căn bản cơ sở thượng tầng của đồng minh thì Washington phải làm lại từ đầu. Sự bất lợi này của Hoa Kỳ đang mở ra cho Trung Cộng một cơ hội tranh giành tìm kiếm đàn em về phe của mình mà “ trò chơi chính trị” đang đặt ra theo luật giang hồ là ai nhiều tiền thì ( có lẽ) thắng, và thí điểm cho cuộc chơi đang bắt đầu từ Ai Cập – Một đàn em, một cánh tay phải của Hoa Kỳ vừa bị gãy thì lập tức Trung Cộng xách Vali đến thăm xã giao ngay, trong khi phe Tổng Thống Obama đang bị phái Cộng hòa giành chiếm được cái Búa giữ kho tiền..!
Ngay vào lúc Hoa Kỳ đang gải đầu tính toán… thì Bin Laden chết…! Tuy kịch bản tiêu diệt trùm khủng bố do đội đội đặc nhiệm Team Six thủ vai chính đã diễn.. diệt ..hết sức ..chớp nhoáng ..và.. “hay cực kỳ” hơn … bất cứ bộ phim hành động nào của Hollywood. Nhưng quốc hội Mỹ cũng “cực kỳ” thất vọng khi  cảnh màn cuối hạ xuống thì để lộ  bộ mặt vàng khè của giới cầm quyền Pakistan ham ăn nhiều… cà rốt nhưng không chịu leo núi bắt khủng bố…!
Mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và quốc gia Hồi giáo này càng nóng và cay lên như nồi Cà ri dê..!
Trung Cộng lại có thêm một cơ hội nữa! Và dịp may lại tới..!
Vì muốn tiếp tục kéo bài nước đôi để giữ nguyên củ Cà rốt, Thủ tướng Pakistan hậm hực la hét lên để  muốn Washington nghe cho rõ ràng là:
-“Ăn Cà rốt của Mỹ nhiều rồi ..chán quá..! Bây giờ thử Cà rốt của Tàu ..xem sao!”.
Cũng là “dân chơi” vừa đu dây vừa xào bài ba lá nhưng bản lĩnh  thì hơn Việt Cộng rất nhiều..! Giới cầm quyền Pakistan nói ngày trước là hành động ngay..như ..một ”đại ca” thứ  thiệt..! Ngày 17 tháng 5 năm 2011, Tổng Thống quốc gia Hồi giáo này là Yu Suf Raza Gilari  chính thức sãi bước trên thảm đỏ của Bắc Kinh.
Nhanh như chớp, lập tức Trung Cộng lợi dụng ngay và ra lệnh cho truyền thông mở hết công suất để  đánh bóng chuyến đi, nhằm chuyển tải thông điệp mạnh đến với các quốc gia Hồi giáo mà đại loại là: Hình ảnh ông Mao Xếnh Xáng trên đồng bạc Nhân Dân Tệ cũng đẹp trai đâu thua gì ông Washington trên tờ Dollar! Vậy ai cần  bao nhiêu thì cho mượn không tính tiền lời, thái độ  này của Trung Cộng như một cú “trợn mắt cắn môi” để làm le với Mỹ!
Hiện cảnh chính trị thế giới vừa tóm lược lại theo kiểu… vui tai là như  vậy! Nhưng điểm quan trọng nhất đáng chú ý để xác quyết  vấn đề là: Các nhà hoạch định chính sách của Trung Cộng đã nhận ra thế thuận lợi (về thời điểm) của mình trên chính trường quốc tế qua 2  mặt:
1) Hoa Kỳ phải mất thời gian thu vén chiến trường và định hình bố trí lại chiến lược trên thế giới, và Trung Cộng cũng nhận ra mũi nhọn lớn nhất của Hoa Kỳ đang hướng về Châu Á-Thái Bình Dương, nhưng phải mất thời gian xây dựng lại nền móng sau nhiều năm ngưng trệ quan hệ!
2) Trung Cộng không còn sợ Nhật Bản ganh tranh ngôi vị siêu cường số 2 của mình vì “ông trời đã bị lé mắt” nên giúp họ bằng một cơn sóng thần..!
Các lợi ích hiếm hoi này của Trung Cộng không chỉ  rơi vào thời điểm xảy ra vụ gây hấn tàu Bình Minh 02, mà có thể, còn kéo dài đến cuối nhiệm kỳ 1 của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama! Cũng chính vì thế, Trung Cộng cố tình dùng lực lượng quân sự đội lốt tàu dân sự để quấy phá toàn bộ khu vực, và trường hợp gây hấn Việt Nam cũng nằm trong xâu chuỗi diêu phô sức mạnh này! Và cường độ gây hấn của Trung Cộng sẽ tăng hay giảm thì tùy thuộc vào phản ứng tự vệ của từng quốc gia bị gây hấn; nếu cứng rắn “liều mạng” thì Trung Cộng sẽ lùi, còn nếu “an phận” thì “cái lưỡi bò liếm sạch”..!
Riêng trường hợp của Việt Nam thì khác, có thể mạnh dạn đưa ra nhận định rằng: Trung Cộng sẽ tiếp tục phá rối nhằm hướng  dư luận ra biển Đông để trên đất liền họ tiếp tục bành trướng theo kế hoạch kinh tế “Trung Béo Việt Teo” của họ..!
Tuy nhiên, trên chính trường quốc tế thì Trung Cộng thuận lợi như thế, nhưng nội tình quốc gia của họ như thế nào, và phải chăng, đây là điểm chủ yếu để tạo nên sự gây hấn Việt Nam?! Vậy cũng nên tìm hiểu phần tiếp theo là:
ĐỐI NỘI CỦA TRUNG CỘNG:
Đã có nhiều học giả trong và ngoài nước phân tích nhiều về các mặt khó khăn tại quốc nội Trung Cộng, thiển kiến không cần bàn lại, mà chỉ nêu ra một vài điểm mới cần nhấn mạnh qua tai nghe mắt thấy tại quốc gia của họ, đó là:
1) Áp lực to như  ông trời mà giới đương quyền Bắc Kinh phải cấp tốc giải quyết là tính hung hăng hiếu chiến của giới quân đội giải ngũ phục viên, mà đa số họ thuộc vào lứa tuổi 55-65 từng tham chiến hay thân nhân  đồng chí của họ đã can dự  và thiệt mạng trong trận chiến biên giới Việt-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979, mà họ gọi cuộc chiến đó với danh nghĩa là: Đối Việt Tự Vệ Hoàn Kích Chiến (Hãy cẩn thận với thành phần này bởi họ có cái nhìn hằn học hết sức với người Việt Nam khi du lịch hay làm việc mà gặp họ, phần lớn thành phần này tập trung di dời đến đảo Hải Nam thuộc vùng Hải yến-Hải Khấu theo một chính sách ưu tiên mời gọi của nhà nước Trung Cộng, rất khó tìm hiểu về chính sách này qua truyền thông!)
Cũng từ sự hiếu chiến như đang nói của giới cựu chiến binh. Thế nên, họ luôn luôn dùng 2 chữ “thu hồi” Nam Sa và Tây Sa đã bị mất..! Đặc biệt hơn, các tư tưởng mang tính chủ nghĩa dân tộc cực đoan này rất phù hợp với bản chất hung tàn của người đứng đầu giới quân nhân là Bộ trưởng Bộ quốc phòng Lương Quang Liệt, chính y là tác giả của thảm kịch Thiên An Môn và cũng là nhân vật chính chỉ đạo cuộc tàn sát này!
Tìm hiểu trong dân gian Trung Hoa hiện nay thì đa số giới hồng binh phục viên đều hối thúc và mong đợi “các đồng chí trên trung ương” hạ lệnh để .. “thu giang san về một mối”..! Đây chính là nan đề làm cho giới hành pháp Trung Cộng kể cả các nhân vật chóp bu của Bộ chính trị cũng phải lúng túng!
Vì rằng, trải dài qua quá trình kinh tế quốc doanh mà chủ yếu là giới quân đội làm chủ đầu tư  nuôi đảng. Cho nên, nếu đo tính từ cơm gạo áo tiền đến quyền lực thì giới quân nhân chiếm thế thượng phong hơn giới công quyền, mà đại loại dân giả xứ họ hiện nay đồn miệng với nhau là: “Kaki quyền hơn Cà vạt”..!
Chính từ điểm khó này cộng với tính hung hãn nóng nảy như Trương Phi-Tào Tháo của phe quân nhân, thì giới hành pháp rất dễ bị ép chế hay thuyết phục cho một cuộc thử súng đạn và gan hùng! Mà khả dĩ, hoàn cảnh đối ngoại hiện tại của Trung Cộng rất thuận lợi cho phép họ tìm chốn sa trường để bày biện cuộc chơi; và không có nơi nào hợp lý như Việt Nam. Vì,  phía Tây, Đông và Bắc của Trung Cộng đã bị bịt kín bởi các quốc gia Aán Độ-Nga-Bắc Hàn – Pakistan, điểm đặc biệt ở các quốc gia này là họ đều có “đồ chơi thứ thiệt” nên Trung Cộng phải sợ, chỉ tội nghiệp cho hướng Nam là Việt Nam không có thứ “đồ chơi” Nguyên tử  nên thường hay sinh ra …“sự cố”!
Các yếu tố căn bản vừa nêu thường là “ triệu chứng” của căn bệnh “ gây gổ khiêu khích” mà các quốc gia mạnh thường hay vô cớ “ trút giận” lên các nước nhỏ lân bang, và đặc tính này gần như trở thành các lý do chủ yếu để đúc kết thành quy luật căn bản trong lý thuyết chính trị học, nhằm giúp các phân tích gia, chiến lược gia hay hay chính trị gia dựa vào đó mà uyển chuyển linh động giải quyết hiện cảnh quốc gia, nếu bị tác động!
2) Sâu xa hơn; việc Trung Cộng tự vẽ ra hình Lưỡi Bò trên biển Đông không phải vẽ bóng họa hình… để mà chơi..! Mà sự phác họa đó là một kế hoạch, là một chiến lược lâu dài theo kế sách: VÔ TRUNG SINH HỮU, nghĩa là: Không biến thành có, và để thực hiện chiến lược này thì Trung Cộng cậy ỷ nước lớn nên sẽ dùng 2 chiến thuật duy nhất là: Đồng Tiền và Hù Dọa, để rồi cuối cùng không được cái Lưỡi Bò thì cũng có được cái Lưỡi Heo..! Nghĩa là, cuộc chơi trong canh bạc bịp biển Đông thì Trung Cộng sẽ không bao giờ thua lỗ vì vốn liếng họ bỏ ra chỉ là cái: Lưỡi Miệng, tạm thời hiểu một cách nôm na là như vậy..!
Nhưng nếu nhìn theo phương pháp chính trị học thì tạm thời hiểu rằng: Trung Cộng đang “học lóm” để tái lặp lại Học Thuyết Monroe mà vị Tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ là Jame Monroe đã từng áp dụng và thành công trong việc trục đổ đế quốc Châu Âu ra khỏi Châu Mỹ để mở ra một khuynh hướng: Bá Quyền, mà nước Mỹ đã tích lũy được rồi thành sự vĩ đại như hôm nay!
(Tác giả sẽ phân tích và lý giải sâu rộng hơn về Học thuyết này trong bài viết kế tiếp. Bạn đọc có thể đón đọc bài báo: TRUNG CÔNG ĐANG LẶP LẠI “CHÍNH SÁCH CỦA HOA KỲ ” TẠI CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ VIỆT NAM)!
TẠM KẾT
Có lẽ, từ  thực tế của 2 mặt khách quan và chủ quan mà tác giả đã phân tích được một phần nào về  hiện tình chính trị của Trung Cộng đang gặp nhiều bất ổn, tạo thành sức ép lên giới đương quyền Bắc Kinh. Tuy các dấu hiệu xấu này không làm sụp đổ chế độ, nhưng ắt hẳn, sẽ tạo ra nhiều hỗn loạn mà vốn dĩ đặc tính hình thành của quốc gia này được kết hợp lại từ các bộ tộc có truyền thống hung tợn như Hán-Hồi-Mông-Tạng! Vì thế, tìm một phương pháp khai thông để giải quyết mọi tình trạng bất ổn dẫn đến bế tắc, nhằm ngăn chặn ý đồ tự trị mà mỗi sắc tộc hiện nay đang có chỉ dấu khơi mào!
Và thông thường, trong hoàn cảnh như Trung Cộng hiện thời thì không gì tốt hơn là các nhà lãnh đạo thường áp dụng đến chiêu bài: Đoàn Kết Dân Tộc, để phân tán mỏng toàn bộ mọi bất an hay hỗn loạn hiện có nhằm đẩy hướng dư luận vào một chủ đề chung!
Cũng từ đó có thể đưa tới kết luận tạm thời là: Trong hoàn cảnh kinh tế đang trỗi dậy thì Trung Cộng không dại gì chủ động mở một cuộc chiến tranh dù giới hạn, nhưng đẩy mạnh sự diêu phô, khiêu khích và hù dọa sẽ là chiến thuật được áp dụng lâu dài, và sự kiện gây hấn tàu Bình minh 02 đang báo hiệu quan hệ Việt-Trung sẽ xấu và rạn nứt hơn nữa; không “hữu nghị” như các nhà lãnh đạo Việt Cộng cố bám víu và ca ngợi!
Tuy vậy, bản chất của giới cầm quyền Bắc Kinh là như thế, còn phía lãnh đạo Hà Nội sẽ tìm được lợi ích gì qua sự vụ này, cũng nên lạm bàn phần tiếp theo:
HÀ NỘI NHẬP VAI BẤT ĐẮC DĨ VÀ HẬU QUẢ…
Đa số dư luận cho rằng Hà Nội đồng thuận cùng Bắc Kinh  soạn diễn vở tuồng “sự cố tàu Bình Minh 02”..!
Nhưng xét khách quan từ  nhiều mặt có thể suy luận: Việt Cộng rất bất ngờ trước cú gây hấn này của Trung Cộng! Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng đã nhanh nhạy “luồn gió bẻ măng” để tìm lợi ích cho phe đảng của mình  ngay từ khi kịch bản vừa mở màn!
Đánh giá về thái độ của giới cầm quyền Hà Nội thì đã có quá nhiều ý kiến đưa ra nên cũng không cần trùng lặp, mà tác giả chỉ phân tích một sự kiện  nhằm ngõ hầu nhắn gởi đến ai có lòng ái quốc thì nên quan tâm, đó là:
Lắm người bảo rằng, Trung Cộng gây hấn tàu Bình Minh để thăm dò thái độ của Hoa Kỳ. Nhưng luận điểm này thiếu thuyết phục vì sự vụ xảy ra thuộc lãnh hải của Việt Nam mà quan hệ Việt–Mỹ không thuộc đồng minh trên văn bản cam kết trách nhiệm. Vì thế, có thể xem rằng, đó là đòn thử của Trung Cộng đối với đàn em Việt Nam theo nghĩa “ném đá dò lòng cuội” vì những náo hoạt ngoại giao mang tính “xàng xê-đu dây”, mà lộ liễu nhất là giai đoạn sau đợt tháng 7 năm 2010 được Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton bơm cho Hà Nội vài ống thuốc …“cường dương”..!
Và Bắc Kinh đã có câu trả lời khi Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn quên thân phận mình là nạn nhân để vẫn “vác mặt” qua Tàu như một hình thức giaĩ bày xin lỗi hòng tiếp tục kiếm ăn..! Và đó cũng là dấu hiệu Việt Cộng sẽ ngấm ngầm dâng nhường thêm các hợp đồng kinh tế mang tính chiến lược lâu dài có lợi cho Trung Cộng. Mà bằng chứng là: Sau chuyến đi của Hồ Xuân Sơn thì báo chí Việt Nam đã đưa vấn đề đặt ống dẫn dầu từ Trung Cộng qua Việt Nam như đòn thăm dò dư luận, trong khi năng lượng- chất đốt của Trung Cộng hoàn toàn phụ thuộc vào các nước Trung Đông–Bắc Phi, trầm trọng nhất là hợp đồng trị giá 1.200 Tỷ Mỹ Kim để mua lại xăng dầu của Nga bị đình hoãn trong chuyến thăm vừa rối của chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào giữa tháng 6 năm 2011 vừa qua, vì vấn đề giá cả!

Với nền kinh tế năng động đang lên như Việt Nam, nhưng nguồn cung cấp nhiệt-điện phụ thuộc vào Trung Cộng qua các “đường ống”, thì khác nào giam nhốt dân tộc vào cái ống cống của họ! Tính toán thất sách này đang là chỉ dấu cho một sự  tàn phá ghê gớm sẽ xảy đến trong tương lai!
Tuy nhiên, đây chưa phải là điểm quan trọng mà sự nguy hiểm cần  lưu tâm đến là vấn đề: Đường ống dẫn dầu!
Rất tiếc! Bài viết sẽ phải dài nên tác giả chỉ gói gọn một phần phân tích quan yếu dưới đây, hầu mong gởi đến quý anh chị em trí thức ái quốc khả kính bên quê nhà, là quý vị từng quan tâm đến sự nguy hại của sự vụ Bauxite-Tây Nguyên là 1, thì nay, nên phản đối mãnh liệt về việc Trung Cộng đặt ống dẫn dầu và xây đường hỏa xa xuyên Đông Dương là 10. Vì rằng:
Có thể nói, một lần nữa các nhà lãnh đạo Việt Cộng lại sập vào bẫy của Trung Cộng! Bởi, ai là người chuyên sâu nghiên cứu về các chiến lược của Trung Cộng thì thấy rõ việc xây dựng đường ống nối vòng  qua các nước có cùng biên giới với Trung Cộng, mà đa số, họ chọn những quốc gia có giới cầm quyền dễ mua chuộc, và thông thường Trung Cộng luôn luôn “hào hoa chơi đẹp” chi tiền để xây đường ống, nhưng sau khi mọi việc hoàn thành thì họ lấy lý do này nọ để bảo vệ đường ống. Nói khác đi, đường ống dẫn dầu là một khí cụ chiến lược quan trọng nên cần phải có “giải phóng quân Trung Quốc” canh giữ, hoặc ít ra là thành phần an ninh đặc biệt có trang bị vũ khí của họ mà đa số các nước Trung-Nam Á đang bị vấn đề này!
Riêng với Việt Nam có thể giải đoán từ một số chứng liệu được phổ biến từ năm 2005 là: Bộ chính trị Bắc Kinh từng nhận định việc tranh chấp biển Đông (có thể ) gây ra cuộc khủng hoảng trầm trọng giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng, và nếu điều đó xảy ra thì 80% nguồn cung ứng nhiên liệu phải đi qua eo biển Malacca bị trục trặc. Do vậy, Trung Cộng muốn “đa dạng hóa” đường ống dẫn dầu trên đất liền, riêng các mặt Tây-Bắc- Đông thuộc biên giơí Trung Cộng thì gần như họ thành công trong việc nối kết đường ống hay tái tạo Hải cảng nước sâu với các quốc gia lân bang! Nhưng về hướng Đông Nam Á  thì vùng đất Kra của Thái Lan đã và đang được các nhà hoạch định chính sách Bắc Kinh chú trọng!
Trong ý định xây kênh dọc theo eo đất Kra như một phần thuộc chiến lược “chuỗi ngọc trai” của họ, và Thủ tướng Thái Lan lúc đó là ông Thaksin Shinawatra gốc người Hẹ thân Trung Cộng đã đồng ý, nhưng gặp sự chống đối mạnh mẽ của quốc hội vì chi phí hợp tác quá cao!
Tuy nhiên, sau đó một đề án khác được trình bày là xây dưng đường ống ngầm dài 150 dặm xuyên qua phía Nam Thái Lan mà ước tính phí tổn khoảng 600-800 Triệu USD, và nếu thành công thì dầu sẽ chảy từ Vịnh Bengal đến Vịnh Thái Lan. Như thế, các bể chứa dầu tạm thời của Trung Cộng tránh được sự đông đúc hay mối de dọa ở khu vực Malacca, và hành trình chuyển nhiên liệu đến các cảng chính tại Trung Cộng cũng được rút ngắn!
Nhưng “muôn sự tại thiên” vì ngày 19 tháng 9 năm 2006, quân đội đảo chánh khiến Thủ tướng Thaksin lưu vong, và kế hoạch đường ống bị vỡ!
Nay, em gái của Thaksin là YingLuck Shinawatra đắc cử  Thủ tướng, mà theo nhiều tờ báo “lá cải” của Thái Lan cho rằng cũng nhờ các tập đoàn người Thái gốc Hoa đứng đằng sau để vận động tầng lớp nông dân ủng hộ cho vị nữ lưu này! Điều khá trùng lặp là sau khi ông Hà Xuân Sơn qua Tàu xong thì cũng là lúc vấn đề ống dẫn dầu được đưa ra ngay vào thời điểm này!?
Từ đó, có thể tạm hiểu hợp đồng ống dẫn dầu 200Km bắt đầu từ nhà máy lọc Khâm Châu-Quảng Tây băng sâu qua Móng Cái để đến Quảng Ninh chỉ là một bước khởi đầu cho hệ thống ráp nối tại khu vực Đông Dương trong chiến lược bành trướng của Trung Cộng.
Tất cả từ thực tế mà dẫn đến phân tích như đã nêu, cho thấy rằng: Dù nhân sự của đảng cộng sản Việt Nam thay đổi sau tháng 7 năm 2011, sẽ quyết định đường hướng ra sao thì đều bị Trung Cộng lấn át; và khả thể của sự  bí mật nhượng bộ lãnh hải lãnh thổ sẽ tiếp tục xảy ra, và đưa đến xung đột nội bộ càng lớn  rồi các biến động chính trị sẽ nảy sinh!
Tuy nhiên, dù tình trạng quốc gia nằm dưới hoàn cảnh nào thì việc bảo quốc trường tồn trước nạn ngoại xâm vẫn là một yêu cầu cấp bách! Do vậy, thử đưa ra một số biện pháp tạm thời có thể áp dụng để bảo vệ tổ quốc trước chiến lược bá quyền của Trung Cộng! Các biện pháp đó là:
CHIẾN LƯỢC “BẢO QUỐC” CẦN PHẢI CÓ.
(Còn tiếp)
© Nguyễn Duy Thành
© Đàn Chim Việt
http://www.danchimviet.info/archives/41459

Phân định quan hệ Việt-Trung và chiến lược “bảo quốc” cần phải có (2)
Phân định quan hệ Việt-Trung và chiến lược “bảo quốc” cần phải có (3)
 

 

Dân Tàu Sẽ Nổi Dậy Sớm Hơn Người Ta Dự Đoán

TS Lưu Nguyễn Đạt, C/N 2011/09/08

I. Bong Bóng Tín Dụng Sẵn Sàng Nổ Tung
Trong suốt thập niên qua, TC đã đẩy mạnh hiện tượng phát triển bằng cách giảm lãi suất và ghìm giá đồng nhân dân tệmột cách ức đoán. Hậu quả đưa tới hiệu suất quá mức, gây lạm phát và ứ đọng trong nhiều lãnh hạt kinh tế.
1. Về vật liệu xây cất
TC đã sử dụng 65 % tổng số xi măng sản xuất tử 5 năm qua. Quốc gia này đã đúc hơn 200 triệu tấn sắt thặng dư, chưa tiêu thụ hết, phần nào vì chất lượng kém.
2. Xây Cất Địa Ốc
Hiện giờ, trên toàn lãnh thổ, TC đã ứ đọng gần 4 tỷ thước vuông địa ốc đủ loại và hằng năm vẫn nhắm mắt xây cất thêm hơn 200 triệu thước vuông thặng dư, gây tình trạng hãi hùng của những thành phố ma, với những khu gia cư không dân ở ; những trung tâm thương mại, chợ búa không có khách vãng lai ; những đường xá không xe cộ, chuyên chở công cộng, mà đã bắt đầu hư hại, phế thải.
Ngoài ra, muốn có đất xây cất, các doanh nhân cường hào còn toa dập với nhà cầm quyền địa phương để trục xuất dân cư khỏi khu vực tân tạo, với một ngân khoản bù đắp tượng trưng, do đó gây căm phẫn nơi quần chúng trước cảnh đột phá nhà cửa họ cư ngụ từ nhiều năm qua.
3. Giá cả Địa Ốc :
Tại TC, đảng cộng sản độc quyền đã tự cải biến thành tư bản đỏ thân tộc,[1] thao túng bè phái, thân thuộc trong mọi sinh hoạt làm ăn, lớn cũng như nhỏ. Do đó các công ty bè phái và cơ sở quốc doanh đã đổ xô đầu tư hay đầu cơ vào lãnh vực địa ốc. Chỉ sau vài n ăm, chính sách làm ăn này đã gây ra tình trạng ứ đọng bất thường như đã trình bày, với lý do chính là giá cả mua bán và cho thuê địa ốc qua cao, 40 lần hơn mãi lực và khả năng tiêu thụ của đa số người dân trong nước.
4. Ngân Hàng Đầu Tư
Ngân hàng đầu tư ở cấp địa phương lạm dụng tình trạng cho vay phóng túng với lãi suất thấp cố định của Chính phủ Trung Ương, nên đã thả lỏng theo hạ tầng cơ sở của hiện tượng tín dụng địa ốc bong bóng dây chuyền.
Vì tuyệt nhiên không tạo được mức độ tiêu thụ cần thiết trong lãnh vực mua bán địa ốc, nên đa số những món nợ xấu không khả năng trả lại vốn vay mượn đã tận dụng tới 98 phần trăm tổng số giá trị tài sản cầm cố [bank equity] của các ngân hàng địa ốc, gây tình trạng kiệt quệ cùng cực.
Trong khi đó, số nợ công của TC đã lên tới khoảng 200 phần trăm [2] tổng lượng sản phẩm và dịch vụ toàn quốc (Gross Domestic Product -GDP), mà TC hạ bớt xuống còn có 19.12 % để giữ “sĩ diện quốc thể” và cũng để lừa dân, lừa thiên hạ.[3] Như vậy trên thực tế, Trung Quộc chỉ trình toàn cầu một hiện tượng phát triển giả định, kiểu đầu voi đuôi chuột … nhúng thuốc nổ.
5. Mua Bán Đất Giá Rẻ, Phá Huỷ Nhà Cửa, Di tản cưỡng bách
Tất cả những hành vi tham nhũng, phá làng phá xóm để khởi công xây cất các khu tân tạo là những nguyên nhân chính yều gây bất mãn lớn nơi người dân bị nhà nước và tư bản đỏ ngược đãi, bóc lột, bị đẩy đi xa sinh sống, sau khi nhận một số tiền hoàn bù rất thấp so với giá thị trường về những bất động sản bị mất mát, cưỡng đoạt.
Những hành vi bất công trên còn có tính cách phạm pháp, khi các nhà kinh doanh dưới trướng nhà cầm quyền địa phương đã dùng mọi thủ đoạn doạ nạt, lừa đảo, lạm dụng quyền thế để trục xuất các sở hữu chủ. Do đó người dân không được luật pháp và công lý bảo vệ chỉ còn cách nổi loạn để giành lại quyền lợi xương máu của họ. Vấn nạn này không khác gì cảnh cướp đất, cướp ruộng, phá nhà, hà hiếp bóc lột dân oan tại Việt Nam – dưới cùng tai ách cộng sản mafia đỏ.
II. Chính Sách Ghìm Giá Đồng Nhân Dân Tệ
1. Chính phủ TC muốn duy trì đồng nhân dân tệ ở mức thấp hơn giá trị thật của nó, từ 15 tới 40 %, cốt để hỗ trợ xuất khẩu. Biện pháp này sẽ giúp các mặt hàng xuất khẩu của TC có mặt giá rẻ hơn, và nhờ đó, có lợi thế cạnh tranh tại thị trường toàn cầu.
2. Mánh khoé ghìm giá đồng nhân dân tệ dù có lợi về mặt xuất khẩu, nhưng vẫn gây một số hậu quả bất lợi :
  • Giá tiêu thụ trong nước tăng khi dân chúng và các cơ sở sản xuất phải mua những sản phẩm hay phụ tùng cần thiết nhập cảng từ ngoại quốc với ngoại tệ quá cao.
  • Vì đồng nhân dân tệ quá thấp, Chính phủ TC phải tung thêm tiền để cập nhật với nhu cầu đầu tư và chi phí công cộng nên đã gây ra nạn lạm phát trầm trọng, khiến người dân dù kiếm ra tiền nhưng vẫn không đủ sức tiêu thụ một cách tương xứng.
  • Và với tỷ giá hối đoái quá chênh lệch, một đồng nhân dân tệ chỉ còn giá trị khoảng 60 % trị giá trị thực sự của nó, vì chính phủ TC đã giữ lấy 40 % số tiền trao đổi, trao tay. Và khi quá chán ngán với đồng tiền “lèo lá” này, người dân sẽ nổi dậy để thực hiện một cuộc “cách mạng kinh tế” bằng cách lật đổ chính thể cộng sản sai quấy đã miệt mài lừa đảo họ.
3. Trong “chiến tranh tiền tệ”, mánh khoé ghìm giá đồng nhân dân tệ đã trực tiếp gây bất lợi cho ngành xuất khẩu của các nước khác, nên đang phát sinh tại và từ nơi đó một số hệ quả tiêu cực như sau :
  • Các quốc gia bị thiệt hại trong hệ thống mậu địch chênh lệch trên sẽ mất đà sản xuất và nền kinh tế của họ sẽ suy thoái, kiệt quệ.
  • Hậu quả gián tiếp là sản phẩm của TC sẽ bị ứ đọng ở thương trường quốc tế, vì tại đó người dân không còn mãi lực để tiêu thụ như trước.
  • Hệ quả tối hậu là TC chưa gây dựng nổi môi trường tiêu thụ khả quan trong nước, nếu còn gặp thêm khó khăn trên thị trường quốc tế thì ắt sẽ lâm cảnh bế tắc trầm trọng.
4. Ngoài ra, với hậu quả của mậu dịch bất chính, hàng hoá làm tại TC [với cái nhãn hiệu “made in China” mỗi lúc mỗi gây bất mãn trong giới tiêu thụ] tự động tắc nghẽn trên thị trường quốc tế, phần lớn do chính chủ sách ăn xổi ở thì, dối trá, coi rẻ đạo đức sĩ nghiệp của nhà kinh doanh và nhà cầm quyền TC.
Sản phẩm “made in China” đã bị trả lại mỗi lúc mỗi nhiều. Riêng hãng Mattel đã phải thu hồi hơn 18 triệu đồ chơi bị nhiễm độc, bất trắc, bất toàn. Rất nhiều hãng kinh doanh quốc tế đã lâm cảnh kiệt quệ vì sát cánh đầu tư với TC. Đến độ ngày nay một số nhà buôn Hoa Kỳ, Gia Na Đại đã tự động cho ghi cạnh nhãn hiệu sản phẩm dòng bảo đảm “China free” [hàng hoá “Phi TC”] để chấn an khách hàng tiêu thụ. Mấy chữ “China free” chắc được dập theo thuật ngữ “drug free” – ngăn cấm, giải toả loại thuốc ma tuý, độc dược nơi công cộng, trong xã hội tự trọng, lành mạnh. Thế giới đã bắt đầu “cai độc”, bợt nghiện hàng hoá rẻ tiền, nguỵ tạo và nguy hại xuất cảng từ TC vậy.
May thay cho nhân loại, nhưng cũng thêm khốn đốn cho nền kinh tế vọng ngoại của TC vậy.
  • Song song với chiến tranh tiền tệ, còn có “chiến tranh chính trị” đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ bảo vệ nhân công địa phương và sản phẩm nội hoá. Do đó chế độ hay khuynh hướng bảo vệ công nghiệp trong nước [protectionism] của Hoa Kỳ và các quốc gia kỹ nghệ khác trên thế giới cũng tăng trưởng, một mặt cải tiến sản lượng quốc nội, mặt khác nâng cao tiêu chuẩn kiểm soát về mọi thủ tục nhập cảng hàng hoá TC. Hậu quả gián tiếp là nền kinh tế vọng ngoại của TC sẽ bị thiệt hại nặng nề hơn thế nữa.
 
III. Chính Sách Nhân Công Rẻ
Hiện tượng phát triển kinh tế của TC còn thêm nhiều tính cách giả tạo, vừa bất cách, vừa bất chính :
1. Trước hết, mẫu mực sản xuất của TC nằm trên nền tảng trục lợi nhân công rẻ, thiếu kiến thức và khả năng chuyên môn, nên giá trị sản phẩm thấp và khi xuất khẩu chỉ đem lại lợi suất hạn hẹp.
2. Kế tiếp, mẫu mực sản xuất này chỉ hữu hiệu khi dân chúng các nước Âu Mỹ và Châu Á gia tăng hay tiếp tục tiêu thụ hàng hoá nhập cảng. Thị trường hỗn hợp này có khuynh hướng giảm sút hoặc vì dân tiêu thụ thiếu mãi lực, hoặc sản phẩm xuất khẩu thiếu tiêu chuẩn khả chấp.
3. Sau đó, mẫu mực lệ thuộc nhân công rẻ có khuynh hướng thu hẹp từ lượng tới phẩm. Nhân công già có tay nghề dần dà về hưu, giải nghệ, trong khi lớp nhân công trẻ chưa kịp thuận nghề hay lại di chuyển tới khu thành thị để kiếm sống cách khác, đòi hỏi thêm lương lậu, an sinh xã hội, quyền lợi nghiệp đoàn. Do đó, mẫu mực nhân công rẻ chỉ còn là một huyền thoại bong bóng, lỗi thời.
4. Cuối cùng, với tình trạng ngược đãi nhân công, [4] với hơn một tỷ người sống với mức lợi tức gia đình hằng năm dưới 2,000 Mỹ Kim và 6 trăm triệu người dân chỉ thu nhập hằng năm dưới 1,000 Mỹ Kim, thì mẫu mực nhân công rẻ là thảm cảnh bất cách và bất chính đẩy xã hội túng thiếu đó tới bề sa sút tận cùng để từ đó sẵn sàng nổi dậy lật đổ chế độ đảng phiệt cộng sản độc quyền thao túng, trục lợi, tham nhũng, bất nhân. Đảng cộng sản đã trở thành nguyên nhân của tội ác, của mọi bất công xã hội, cái gốc thối nát của bệnh hoạn và tai ương đang huỷ hoại cơ thể và sức sống của dân tộc Trung Hoa.
Muốn sinh tồn, toàn dân Trung Hoa phải gạt bỏ tội ác và căn bệnh cộng sản vậy. Đó là suy nghĩ và lập trường của giới lao động, trí thức, của đa số dân chúng trong nước. Của biết bao trăm triệu đảng viên thi nhau bỏ đảng cộng sản tới giờ.[5]
IV. Phong Trào Khởi Nghĩa Đòi Dân Chủ
 
Trước làn sóng dân chủ đang lan tràn trong khối Ả rập, những người bất đồng chính kiến trong thời hậu Thiên An Môn đã dọn đường cho các cuộc biểu tình chống nhà cầm quyền gần đây. Trong số trí thức trẻ tranh đấu đòi dân chủ có Luật sư Cao Trí Thịnh đã từng giúp người dân chống sự lạm quyền của quan chức địa phương và đàn áp tôn giáo. Hiện tại, ông đang bị nhà cầm quyền TC giam cầm, tra tấn, mọi tin tức liên quan đến ông đều bị bưng bít. Phản ánh sự kiện này, tuần báo Le Nouvel Observateur có bài viết : “Luật sư can đảm của TC” [6].
LS Cao Trí Thịnh
Ngoại Trưởng Hillary Rodham Clinton đả kích thành tích nhân quyền “đáng kinh tởm” của TC hành động đàn áp của TC hiện nay là “hành động vô bổ của một kẻ ngu xuẩn”. Những phát biểu của nữ Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đã được các nhân vật tranh đấu dân chủ TC tỏ ý hoan nghênh, nhưng họ cũng nói rằng tiến trình dân chủ TC sẽ tuỳ thuộc rất nhiều vào nỗ lực tranh đấu của chính người dân nước họ.[7]
V. Phong Trào Nổi Dậy Của Các Dân Tộc Thiểu Số
1. Biểu tình ở Tây Tạng
Tây Tạng bị sát nhập vào TC kể từ năm 1951. Trong các thập niên 1960 đến thập niên 1980, đã có vào khoảng hơn một triệu người Tây Tạng bị đưa vào các trại cải tạo. Hiện giờ có sự hiện diện của khoảng 8 triệu dân và một chính quyền Tây Tạng lưu vong trên thế giới tự do.
Gần đây gần 10 ngàn học sinh, sinh viên người Tây Tạng ở Đồng Nhân, tỉnh Thanh Hải, đã biểu tình phản đối chính quyền TC vì họ cho là ngôn ngữ và văn hóa của người Tây Tạng bị đe dọa khi nền giáo dục Trung Quốc buộc họ dùng sách giáo khoa và nghe bài giảng bằng tiếng Quan thoại.[8]
Lobsang Sangay, vị tân Thủ tướng Chính phủ lưu vong của người Tây Tạng tại Ấn Độ [9] đã tuyên bố ủng hộ người dân Tây Tạng trong nước đứng lên chống lại sự thống trị của TC trên vùng đất của họ.
 
Lobsang Sangay – Ảnh : AP/ Ashwini Bhatia
Theo Lobsang Sangay, người dân Tây Tạng nổi dậy là vì quyền tự do ngôn luận của người dân thiểu số không được thừa nhận và 60 năm đã qua mà đất nước họ vẫn bị đô hộ trong cảnh điêu linh, cùng cực, trong khi công nhân TC đến nước họ khai thác và lấy đi các kim loại trị giá hàng tỷ đô la.
2. Biểu tình chống nhà cầm quyền Tại Tân Cương
Trong năm 2009, tại Tân Cương đã xây ra nhiều cuộc đụng độ giữa người Duy Ngô Nhĩ [Uighur, gốc Thổ theo đạo Hồi, một số theo đạo Phật] và người Hán, làm hơn 150 người chết. Sau đó vài ngàn người Duy Ngô Nhĩ bị bắt và giải toà. Những cuộc đụng độ đẫm máu giữa người Duy Ngô Nhĩ và người Hán đã xẩy ra vì tranh chấp quyền lợi, kỳ thị sắc tôc.[10]
3. Nội Mông rơi vào bạo loạn
Cuộc nổi dậy bắt đầu phát khởi khi những người chăn nuôi gia súc gốc Mông Cổ tổ chức biểu tình phản đối nhà cầm quyền địa phương cho khai thác than và đất hiếm bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường tác hại cho ngành chăn nuôi của người Mông Cổ. Các đoàn xe vận tải chuyên chở quặng làm phá hỏng môi trường chăn thả gia súc của người Nội Mông. Sau khi người khởi xướng phong trào bị xe tải cán chết, nhiều người chăn nuôi biểu tình, kêu gọi bảo vệ đất đai và quyền sống của người Mông cổ.
Nhà cầm quyền TC lo ngại, tìm cách phong toả khu vực Nội Mông để cố dẹp tắt bạo loạn. Số đông sinh viên học sinh Mông Cổ bị tịch thu điện thoại di động, internet của họ bị cắt.
Theo Báo Le Figaro, sự phẫn nộ của cộng đồng Nội Mông và người Tây Tạng xuất phát từ mối lo ngại mất bản sắc và văn hoá dân tộc, cũng như mất môi trường sinh sống trước nỗ lực khai thác và tận dụng thổ sản và mỏ quặng bởi Hán tộc.[11]
Tạm kết
Ngay trong hiện tượng phát triển giả tạo tại TC, đầu năm 2011, Vụ Thông Tin của chính phủ Bắc Kinh đã ra lệnh cấm các mạng lưới không được phép phổ biến tin “94 % dân Trung Hoa không cao hứng vì tài sản được tập trung vào nhóm người ngồi ở trên cùng của xã hội.” Bản tin trên là do một cuộc nghiên cứu dư luận của Gallup, cho biết 82 % dân Ðan Mạch nói họ thấy hạnh phúc, đứng hàng đầu, trong khi chỉ có 6 % dân Trung Hoa nghĩ họ có hạnh phúc, khiến TC đứng hàng thứ 125 trên toàn cầu.[12]
Thật vậy, sự thịnh vượng giả tạo chỉ nằm trong tầm tay nhóm tư bản đỏ thân tộc [plutocratic capitalism], khi khoảng 585,000 “đại gia” có khả năng vơ vét và chuyển ngân khỏi TC hơn 2,180 tỷ đô la Mỹ trong vòng vài năm gần đây, ngang với 2 phần 3 tổng số dự trữ ngoại tệ của Ngân Hàng Nhân Dân TC. Sự thịnh vượng đó không cánh mà bay ra khỏi TC, như mùa màng gặt hái lại đổ vào kho nhà hàng xóm, con cái trong nhà vẫn vô sản, vẫn đói meo.
Như vậy, số dân còn lại, non 1 tỷ 300 triệu người trên toàn quốc [13] đều bất hạnh, bất mãn vì [a] về mặt kinh tế : họ tùng thiếu, vô sản, chịu đựng đời sống đắt đỏ vì nạn lạm phát dây chuyền ; [b] về mặt xã hội : họ vô gia cư, mất nhà mất đất, cưỡng bách di dân, lệ thuộc quản lý hộ khẩu ; [c] về diện đầu tư nhân sự : họ là thứ lao động rẻ rúng, mạt kiếp, bị ngược đãi, hà hiếp tập thể ; [d] về mặt chính trị, tư tưởng : ngoài lề bè phái nhà cầm quyền đảng phiệt, mọi công dân là vật thí thân, là công cụ phát triển đảng cộng sản tiểu nhân đắc chí, và nếu bất tuân, bất đồng chính kiến, lập tức bị liệt kê là phản động, phản loạn, phản quốc, tức tù đầy mọt gông ; [e] về mặt dân tộc chủ nghĩa, ngoài “Hán tộc” họ là chủng tộc bị đô hộ, là loại thứ dân đệ nhị, đệ tam cấp, sẵn sàng bị bóc lột, kỳ thị, mất văn hoá cổ truyền, bị tướt đoạt quyền nghĩ, quyền nói, quyền sống, dù ngoài lề xã hội đỏ.
Trong một cộng đồng “tạp chủng năm sao”,[14] nhưng thấp kém, thiệt thòi, lép vế, bó buộc-kìm hãm như vậy, lẽ sống còn lại là hy vọng bùng nổ để thoát khỏi áp bức, thoát khỏi bất hạnh, thoát khỏi tai ương. Thoát khỏi địa ngục đỏ.
Đối với 94 % dân Trung Hoa tạp chủng kia, tiến hoá, cải thiện đời sống chỉ là những hứa hẹn giả dối, gian lận. Không còn thời gian để xét lại. Cơ hội sinh tồn độc nhất của 94 % dân Trung Hoa khốn đốn là ở ngay quyết định tổng nổi dậy lật đổ chế độ cổng sản độc tài, tham nhũng, bất lực, thất đức.
Dân Trung Hoa Sẽ Nổi Dậy Sớm Hơn Người Ta Dự Đoán. Và Dân Việt sẽ noi theo. Mong chưa muộn. Chưa tàn lực.
Lưu Nguyễn Đạt LS/TS, VietThucOrg 2011/09/03
Ghi Chú :
[1] chuyển ngữ từ “plutocratic capitalism :CSTC là thứtư bản đỏ thân tộc, thao túng bè phái, thân thuộc trong mọi sinh hoạt đầu tư và đầu cơ cốt gây vốn làm giầu cho bè đảng.
[2] TC chỉ công bố số nợ công là 19.12 % GDP, bằng một phần mười [10 %] số nợ thực sự là gần 200 % GDP. Như vậy, trên thực tế, TC nợ gấp đôi Hoa Kỳ [96 % GDP-2011] và gần bằng Nhật Bản [225 % GDP-2010]. Xem bản so sánh dưới đây :
Rank
Country
 % of GDP
(CIA and Eurostat)
Date
Date
Continent
1
225.8
2010 est.
225.8
2010
Asia
37
58.9
2010 est.
92.7
2010
North America
111
17.5
2010 est.
19.1
2010
Asia
[3] Gross domestic product (GDP) refers to the market value of all final goods and services produced in a country in a given period.
[4] Ngô Nhân Dụng, “Người TC bất mãn”, www.vietthuc.org, July 2, 2011. Nguồn : Gordon Chang, The Coming Collapse of China.
[5] Matthew Robertson, “The Tuidang Movement : 100 Million Chinese Hearts Changed – Movement to renounce the Chinese Communist Party reaches major milestone”, www.vietthuc.org. August 27, 2011
[6] “TC đàn áp người biểu tình đòi dân chủ” & ”TC và Cách Mạng Hoa Nhài”, VOA, Feb 2, 2011 ; “Chân dung luật sư Cao Trí Thịnh, bảo vệ người dân, không sợ cường quyền”, RFI, Jan 25, 2011.
[7] “Ngoại Trưởng Mỹ đả kích TC với lời lẽ cứng rắn một cách bất thường”, VOA, May 15, 2011 ; “Hillary Clinton Says Chinese Government Is Doomed,” John Ellis ; “Hillary Clinton : Chinese System Is Doomed, Leaders on a ‘Fool’s Errand’”, Jeffrey Goldberg.
[8] “Biểu tình ở Tây Tạng phản đối giáo dục Hán”, BBC, Oct. 20, 2011.
[9] “Ách đô hộ của Bắc Kinh ở Tây Tạng là điều không chấp nhận được”, Lobsang Sangay, Phan Thành Đạt dịch theo Le Monde 17.8.2011
[10] RFI, “Tại Tân Cương, đến lượt người Hán biểu tình chống nhà cầm quyền”, 04/09/2009
[11] RFI, “Dân chúng Nội Mông biểu tình chống chính quyền TC”. Thêm, Figaro, Reuters.
[12] “94 % dân Trung Hoa không cao hứng … ” — Ngô Nhân Dụng, “Người TC bất mãn”, www.vietthuc.org, July 2, 2011. Nguồn : Gordon Chang, The Coming Collapse of China. Đọc thêm : “Nhân quyền tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
[13] TC gồm 22 Tỉnh
Tỉnh
Tên tiếng Hoa
Tỉnh
Tên tiếng Hoa
Tỉnh
Tên tiếng Hoa
Tỉnh
Tên tiếng Hoa
Tỉnh
Tên tiếng Hoa
(安徽)
(江苏)
(黑龙江)
(福建)
(山西)
(甘肃)
(河北)
(湖北)
(广东)
(青海)
(吉林)
(河南)
(湖南)
(贵州)
(陕西)
(江西)
(辽宁)
(山东)
(四川)
Triết Giang
(浙江)
(云南)

Khu tự trị (5)

  • Ninh Hạ (宁夏), khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ (宁夏回族自治区)
  • Nội Mông Cổ (内蒙古), khu tự trị Nội Mông Cổ (内蒙古自治区)
  • Quảng Tây (广西), khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (广西壮族自治区)
  • Tân Cương (新疆), khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương (新疆维吾尔族自治区)
  • Tây Tạng (西藏), khu tự trị Tây Tạng (西藏自治区)

Thành phố trực thuộc trung ương (4)

[14] Phải chăng lá cờ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là mảnh vải máu với 5 sao tượng trưng cho 5 sắc tộc chính ơ TC — ngôi sao lớn nhất : Hán tộc ; và 4 ngôi sao nhỏ : Mãn, Hồi, Mông, Tạng (Tây Tạng).

 

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 14) – Ai làm cho Huế đau thương?

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Trong một dịp đến Huế, tôi đã được gặp và nói chuyện với một anh bạn hơn tôi gần 10 tuổi. Anh ấy là con của một nữ chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam và anh ấy vừa xin ra khỏi đảng. Tôi vô tình gặp anh và anh đề nghị tôi giữ kín danh tính cho anh đến ngày đất nước có tự do, dân chủ thực sự anh ấy sẽ công khai tất cả những sự thật đau thương của Huế năm 1968 mà mẹ của anh chính là một nhân vật trong cái gọi là “phe chiến thắng” ấy.
Mẹ của anh là trung đội phó một trung đội chuyên đi chặt đầu, treo cổ và chôn sống đồng bào tại Huế. Khi bà thức tỉnh thì bà đã bị chết một cách kỳ quái không rõ nguyên nhân và đến nay mặc dù bà mẹ của anh chết trong chiến tranh nhưng vẫn không được công nhận là liệt sỹ. Cũng bởi vì cuốn nhật ký ghi lại tội ác của bà và những nhận xét có phần ăn năn của bà đã khiến nó bị bộ chỉ huy quân sự tỉnh thừa thiên Huế tịch thu mất.
Trong khuôn khổ bài này tôi xin không bình luận về anh ấy và cũng bình luận về câu chuyện của bà mẹ anh ấy. Nhưng đó là mở đầu thay cho lời tựa của bài viết về một sự thật đau thương cho gần 5000 người dân vô tội tại Huế đã bị bác Hồ và đảng của bác giết hại oan khuất.
Tôi viết bài này để cầu mong cho gần 5000 nghìn linh hồn oan khuất ấy được siêu thoát như một tấm lòng chân thành của một người đáng tuổi con cháu đối với những người bị cộng sản tàn ác giết chết. Sự thật là trước tôi có rất nhiều người viết về sự kiện này nhưng đa phần chỉ nói đến vai trò của ông Hồ một cách mơ hồ hoặc không có bằng chứng rõ nét. Bài viết này của tôi sẽ chứng minh cho bạn đọc thấy sự thật về vai trò cầm đầu trong cuộc thảm sát tại Huế năm 1968 của ông Hồ.
A. Huế tang tóc:  Sự thật lịch sử luôn công bằng và chính xác dù có bị che khuất bởi mưu toan chính trị nào cũng sẽ dần bị phanh phui. Đảng cộng sản là một đảng có truyền thống làm việc này. Trong khuôn khổ phần này tôi xin chứng minh ai là người giết hại đồng bào Huế vô tội một cách dã man nhất. Tôi xin không nhắc lại diễn tiến của những trận đánh gây tan hoang miền Nam của cộng sản. Tôi xin đi sâu vào hậu quả và những kẻ chủ mưu của tội ác đó.
1. Những con số khủng khiếp:  Trên thực tế con số của nhân dân Huế bị cộng sản giết hại được thống kê từ nhiều nguồn khác nhau. Tôi xin minh chứng ra sau đây một số nguồn để thấy rõ sự thật về những con số khủng khiếp mà nó là kết quả của chính sách bạo tàn của đảng cộng sản.
Đầu tiên, Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970 trong cuốn sách “Vietcong Strategy of Terror”:
“Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau: 

Tổng số dân sự tử vong: 7.600 – chết lẫn mất tích

Chiến trường:  1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc

Nạn nhân của những vụ giết tập thể:

1.173 – số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
809 – số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
428 – số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) – tháng 9 năm 1969
300 – số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
100 – số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
      – mất tích (tính đến năm 1970)”. Qua đó có thể thấy được tính chất dã man của cộng sản với nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh con số của D.Pikes cũng cần phải phân tích sự xuất hiện của hai ý kiến khác thuộc về phía những người Mỹ. Theo wiki (links : http://vi.wikipedia.org/wiki/Thảm_sát_Huế_Tết_Mậu_Thân) có viết :
Theo Gareth Porter(“The 1968 ‘Hue Massacre”. Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974.), một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người[5], chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra[6]. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)
Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter[4] viết:
“…tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa.”.
Cũng theo Gareth Porter, Alje Vennema[7], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức.
Nếu để lấy các con số của G.Porter và Vennema đề bào chữa cho tội ác của cộng sản thì cũng phải nhận thấy rằng : Thực tế Porter và Vennema chỉ nói đến con số của 1 địa điểm là trường Trung học Gia Hội và bệnh Viện Huế. Cứ tạm coi con số đó là đúng đi chăng nữa thì với hàng chục điểm nhân dân bị chôn sống, chặt đầu đi thì con số lên tới hàng nghìn có đúng không ?Có là tội ác không. Hơn thế nữa nhưng quan điểm của Porter và Vennema dựa trên những gì họ nhìn thấy ngay sau tết nên thống kê con số của họ không thể chính xác bằng Pikes khi anh này nắm những con số của chính phủ Mỹ và được thống kê tận cho đến năm 1970.
Thứ hai, Phóng viên Thiện Giao của đài RFA qua bài “Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước” thì theo ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại:
“Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4.000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6.000 người. Có nhà báo ước tính 5.000 người. Chúng tôi cho con số 5.000 đến 6.000 là không sai lệch lắm đâu…..”

“Đỉnh điểm là Khe Đá Mài, thuộc núi Đình Môn Kim Ngọc, tại đây khoảng 400 bộ hài cốt đã được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên .”

“Cộng Sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15-16 tuổi đến ông già 60-70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói”.
Như vậy con số gần 5000 nghìn người chết oan đã được nói tới cũng như thêm khẳng định một tội ác của đảng cộng sản.
Thứ ba, Theo ông Nguyễn Phúc Liên Thành khi trả lời phỏng vấn của RFA tháng 1-2008, thời điểm mậu thân 1968 tại Huế ông đang giữ cương vị Phó trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên thì : “Những báo cáo của các cuộc Cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5.300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên”…
Và qua đây con số xoay quanh 5000 nạn nhân lại được đề cập đến như một sự khảng định về tội ác của cộng sản.
Thứ tư, Theo phúc trình của chính phủ Hoa Kỳ tại cuốn sách có nội dung mật “The Pentagons papers” trang 128 có viết: “Sự thật ước tính có khoảng từ 4600 đến 5200 người bị chặt đầu hoặc chôn sống trong thảm sát ở Huế năm 1968. Đa phần họ là nhân viên hành chính và dân thường…”. Lại thêm một tài liệu khẳng định số người lên đến hàng 4000-5000 người chết oan bởi bàn tay sắt máu của cộng sản độc tài.
Tuy nhiên nếu với chỉ 4 dẫn chứng trên thì chưa đủ sức nặng để khẳng định tội ác tày đình của đảng cộng sản. Họ sẽ cho rằng bài viết của tôi chỉ đưa ra những con số của phe “Chống cộng”. Vậy xin nêu ra đây những con số khủng khiếp mà “phe của họ” đã nói để thấy sự thật kinh khủng thế nào.
Thứ năm, Trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy – một nhà hoạt động xã hội người Pháp. Ông ta cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp. Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác. Cuốn sách có dẫn chững về cuộc chiến Việt Nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 237 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung: “Việc coi đối thủ về ý thức chính trị là kẻ thù đôi khi bị đẩy đi quá xa. Cuộc chiến ở Việt Nam là một minh chứng. Nói riêng về cuộc sự kiện thảm sát ở Huế – thành phố miền Trung Việt Nam năm 1968 là một nỗi đau lớn. Có khoảng 5000 nghìn người bị chết oan uổng dù họ chỉ là dân thường đi làm công ăn lương cho chính quyền cộng hòa. Người Miền Bắc coi những người cùng dòng máu này là những kẻ thù địch. Thật oan cho họ khi họ không phải là những người cầm súng hoặc tham gia gián tiếp vào các hành động quân sự…”.
Vậy ngươi Pháp cộng sản này nói gì? Ông ta đã nói đến con só khoảng 5000 người chết oan do cộng sản gây ra. Sự thật thật khủng khiếp.
Thứ 6, Các bạn quay ngược lại phần 9 khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 202 nói về chiến Tranh Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như sau: “Với khoảng 4.900 người bị chết oan trong cuộc tổng tiến công vào Huế mùa xuân năm 1968, uy tín của đảng cộng sản và mặt trận giải phóng Miền Nam bị ảnh hưởng rất nặng nề. Việc đổ tội cho cấp dưới không đem lại hiệu quả cao…”.
Lại một cuốn sách của người cộng sản Trung Quốc thân tín với đảng cộng sản Việt Nam vạch mặt chính những đồng chí của mình. Thật là khủng khiếp.
Thứ 7, Trên tờ tạp chí Quân Đội – báo của quân đội cộng sản số 21- năm 1968 trang 03 có bài viết của tác giả Văn Bình ca ngợi chiến thắng của cộng sản trong tết Mậu Thân: “Chúng ta đã đánh nhanh, thắng nhanh tiêu diệt được hàng nghìn tên địch để giải phóng Huế, Sài Gòn. Tại mặt trận Huế, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đưa ra xét xử công khai hàng nghìn tên có tội ác với nhân dân…”
Chúng ta thấy gì ở bài viết? Tác giả của đảng không dám viết thẳng về số người bị giết oan là bao nhiêu nhưng với con số hàng nghìn thì những nghi vấn và những con số khách quan trên kia là hoàn toàn có cơ sở vì cộng sản luôn giấu nhẹm tội ác của mình.
Kết Luận: Qua 7 dẫn chứng của các bên liên quan cho thấy con số từ 4000 – 5000 là con số người chết oan trong tết mậu thân 1968 ở Huế mà tôi cho là có thể chấp nhận được.
Vấn đề con số chính xác đến từng người không phải là vấn đề quá quan trọng. Ở đây là dù với con số hàng nghìn, 4000 hay 5000 nghìn cũng cho thấy tội ác mà cộng sản đã gây ra cho nhân dân Huế vô tội. Đó là tội ác giết người cần phải được lên án.
2. Đảng cộng sản đã giết hại đồng bào vô tội: Cần phải làm rõ hai việc ở đây đó là: Ai đã giết hại đồng bào Huế và giết bằng cách nào. Điều này phản bác lại luận điệu của cộng sản là đa phần nhân dân chết do đạn pháo, máy bay trực thăng bắn và lính của mặt trận GPMNVN được chôn cất chung với nhân dân.Tôi xin khẳng định tội ác trong tết Mậu Thân tại Huế hoàn toàn là do những người cộng sản gây nên. Những người chết do tên bay đạn lạc không phải là không có. Nhưng xin đi sâu vào sự việc hàng nghìn người bị chôn sống và chặt đầu oan tại Huế.
Cho đến nay nhiều nhân chứng và người thân của những nạn nhân tại Huế còn sống để khẳng định điều này. Nhưng trong khuôn khổ bài này tôi xin dùng nhiều tài liệu để chứng minh sự dã man của đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân Huế.
Thứ nhất, đọc hồi ký của Lê Minh, trong vai trò tư lệnh chiến trường Huế Tết Mậu Thân – Nguyên Bí thư Thừa Thiên Huế đã tâm sự trong Hồi Ký của mình trang 137:
“ Tôi thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. Về sự tang tóc trong biến cố Mậu Thân (…) còn lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với nhân dân đã nổi dậy. (…) Rốt cuộc là đã có những người bị xử oan trong chiến tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi. (…)”
Chúng ta thấy vị tư lệnh chiến trường của cộng sản này nói gì? Đó là những người bị xử oan mà ông ta đã thừa nhận. Cùng đó ông ta cũng nói đến những người bị cho là tội ác với nhân dân. Xin nhớ rằng những người đó chỉ là những người làm hành chính và cộng sản lại đổ thừa cho sự “nổi dậy” của nhân dân giống như họ từng đổ tội cho bần nông trong CCRĐ. Vậy xin hỏi những ủy ban mà người cộng sản lập ra để lam gì? Họ luôn tuyên truyền là lực lượng cách mạng đại diện cho nhân dân vậy sao lại để nhân dân làm bừa? Đó chỉ là một hành động đổ thừa tội ác cho nhân dân của đảng cộng sản.
Thứ hai, xin quay lại nội dung cuộc phỏng vấn của Thụy Khuê với Hoàng Phủ Ngọc Tường khi ông này đến Pháp (Xem toàn bộ bài phỏng vấn ở đây : http://nghianhan.multiply.com/notes/item/53). Bài phỏng vấn có đoạn : TK: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.

Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.”
Như vậy ta có thể thấy gì ở đoan trích này. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thừa nhận chính những người cộng sản gây ra với nhân dân là oan sai cho nhiều người dân. Bỏ qua sự biện hộ đây chỉ là một sai lầm cục bộ vì kẻ giết người luôn tìm cách biện hộ cho mình bằng một lý do mơ hồ mà nhất là đảng cộng sản. Chúng ta thấy một sự thật là thêm một người phe đảng công nhận họ có giết người oan sai.
Thứ ba, theo hồi ký của Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì: “trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận”.
Chúng ta thây ở đây người cộng sản đã thừa nhận chính họ đã giết những người vô tội không tham gia chiến đấu hoặc viên chức chính trị. Đây là một bằng chứng cho thấy tội ác của đảng cộng sản với những người vô tội.
Thứ tư, tác giả Young (Marilyn B. Young) trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial, 1991) ghi lại:
“Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ… khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh – với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài Gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế…”.
Lại thêm một bằng chứng cho thấy sự tà ác của đảng cộng sản dù cho họ có cho rằng con số ít thế nào .Nhưng tội ác giết tù binh là không thể châp nhận được. Ngoài ra là những vụ xử công khai những người chỉ làm hành chính.
Thứ năm, theo Theo Pike (Douglas Pike, “Vietcong Strategy of Terror”) thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử. “Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án công cộng kéo dài khoảng 5 – 10 phút do giới chức trong quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án “có tội với nhân dân”. 

Giai đoạn nhì, khi họ cho rằng họ sẽ giữ được Huế lâu dài, quân Mặt trận Giải phóng bắt đầu tiến hành công tác giáo dục tư tưởng yêu nước cho quần chúng. Những ai bị tình nghi có thái độ chống cách mạng từ từ bị truy lùng trong giai đoạn này. Người theo đạo Công giáo, các nhà trí thức, thương gia, và đám người bị tội làm ‘tay sai Đế quốc’ bị chiếu cố để “tạo dựng xã hội mới”. Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng – bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác.”
Rõ ràng đây là một hành động tàn bạo của đảng cộng sản với cánh tay nối dài của mình là lực lượng MTDTGPMN đã gây ra với nhân dân vô tội tại Huế.
Thứ sáu, như trên tôi đã giới thiệu cuốn sách của “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy thì ngoài việc ông ta khẳng định về số người chết oan trong sự kiện thảm sát tết Mậu Thân thì trong trang 240 ông cũng viêt tiếp: “Mấu chốt ở vấn đề của mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam thi hành lệnh của ai trong vụ thảm sát. Họ nghe ai khi bản thân họ có chỉ huy là người của đảng cộng sản cử vào, số quân tham chiến từ miền bắc gửi vào cho đến năm 1970 chiếm hơn 80% mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam…”. 
Vậy thì rõ ràng đảng cộng sản Việt Nam chính là kẻ gây nên tội ác với nhân dân Huế năm 1968. Các bạn cũng cần nhớ lại trong phần 13 tôi đã chứng minh ở luận điểm: Sau khi phân chia đất nước theo hiệp định Genever thì đảng cộng sản liền ém quân và cán bộ đầu não lại chỉ đạo chống phá miền Nam từ những năm 1960 (Khi Mỹ chưa đổ quân tham chiến vào Việt Nam ). Vậy thì cuộc thảm sát mậu thân chính là do chính sách của đảng cộng sản gây nên.
Thứ bảy, Tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 31-10-1969, trong bài “The massacre of Hue” (Cuộc thảm sát ở Huế) đã đặt câu hỏi: “Điều gì đã khiến Cộng Sản tàn sát?” Rồi tạp chí này trả lời: “Nhiều người dân Huế tin rằng lệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuống. Tuy nhiên, có lẽ chắc chắn hơn, đơn giản là Cộng Sản đã mất tinh thần. Họ đã bị nhồi sọ để tin tưởng rằng nhiều người dân miền Nam sẽ xuống đường tranh đấu cùng với họ trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và khi trận chiến ở Huế bắt đầu nghiêng về phía quân đồng minh, Cộng Sản đã hoảng sợ và giết sạch các tù nhân.”.
Như chúng ta đã biết tờ tạp chí Time được người cộng sản hết sức coi trọng và họ cho rằng đây là một tạp chí có thể “chấp nhận” được theo ý họ. Nhưng bài viết cho thấy sự thật là cộng sản rất tàn ác với nhân dân.
Thứ tám, ngày 24-1-2008, ông Bùi Tín cũng đã đưa ra luận điệu tương tự khi trả lời phỏng vấn: “Khi quân Mỹ đổ bộ lại từ Phủ Bài trở ra để lấy lại Huế thì anh em họ trói, di chuyển đi hàng mấy trăm tới hàng nghìn người. Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội cho nên do phần lớn do tự động các chỉ huy trung đội tới trung đoàn đồng lõa với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết”.
Bỏ qua luận điệu về sự tự phát theo cách nói của cộng sản thì hành động giết người với nhân dân là có thật và tội ác này chính là của các cán bộ đảng viên cộng sản gây nên (Cán bộ chỉ huy trung đội tới trung đoàn đều là đảng viên cộng sản cao cấp). Tại sao khi họ tự phát gây ra sau này không bị kỷ luật nếu đảng cộng sản thực tâm không muốn giết dân? Đó chính là điểm mâu thuẫn của những lời bao biện cho tội ác của cộng sản. Với những hành vi giết người vô tội không theo chủ trương của đảng thì nếu ở Mỹ hay các nước dân chủ khác, các vị chỉ huy đó chắc hẳn ra toàn án binh thậm chí tử hình. Nhưng ở đây họ vô sự, thăng quan tiến chức. Chỉ có thể là : Đó là sự chủ trương của đảng cộng sản.
Kết Luận: Bằng 8 dẫn chứng, chúng ta đã thấy chính những người cộng sản và những người trung lập đã thừa nhận cuộc thảm sát là do đảng cộng sản với cánh tay nối dài của họ là MTGPMN gây ra. Những bao biện do bị tên bay đạn lạc không thể chấp nhận khi họ công khai thừa nhận những vụ việc xử tù nhân cả công khai lẫn thủ tiêu.
Như vậy tội ác của đảng cộng sản là hết sức rõ ràng. Nhưng ai là kẻ đứng đầu chỉ huy cuộc thảm sát ấy. Xin được trình bầy sau đây.
B. Ai làm cho Huế đau thương: Từ lâu vài trò của đảng cộng sản là rõ rệt trong cuộc thảm sát mậu thân ở Huế. Nhưng ông Hồ thì sao? Tôi xin trình bày sau đây một sự thật đó là chính ông ta là kẻ chủ mưu trong cuộc thảm sát này. Hẳn chúng ta còn nhớ những sự kiện NVGP hay CCRĐ mà tôi đã chứng minh ông ta là kẻ chủ mưu. Sự việc thảm sát mậu thân Huế cũng nằm trong tầm tay của kẻ sát nhân này cũng không có gì là lạ. Xin được đưa ra bằng chứng cụ thể dưới đây.
Thứ nhất, các bạn quay lại phần 2 tôi đã chứng minh đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức mà ông Hồ nắm quyền toàn bộ. Như vậy về cơ bản ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm chính về vụ việc này.
Cũng cần nói thêm, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ và sắt máu của cộng sản, không có một người nào dưới quyền đảng Cộng Sản mà không bị kiểm soát, không có một người nào dưới quyền cộng sản mà có thể tự ý làm bất cứ điều gì họ nghĩ. Nhất nhất họ đều phải theo chỉ thị của đảng bộ và của cấp trên. Do đó, việc tàn sát trong cuộc chiến Tết Mậu Thân hoàn toàn là chủ trương chính sách của đảng CSVN.
Đảng Cộng Sản là một đảng chính trị tổ chức chặt chẽ, rất có kỷ luật. Bất cứ đơn vị quân đội cộng sản nào cũng có một chính uỷ (uỷ viên chính trị) để điều khiển công việc, đứng trên và quyền hành hơn cả đơn vị trưởng. Do đó, không thể đổ lỗi cho các cán binh cộng sản rút lui nên mới tàn sát bừa bãi, và cũng không thể đổ lỗi cho các đơn vị địa phương hay tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế đã phạm sai lầm hoặc giết người để tự vệ.
Chắc chắn phải có kế hoạch chính sách do trung ương hoặc do các đảng uỷ cộng sản quyết định, khi tiến thì làm gì, khi rút lui thì làm gì, các đơn vị thừa hành hoặc các cán binh mới dám tàn sát dân chúng một cách vô nhân đạo, tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam và cả lịch sử thế giới. Hiếu sát, giết người bừa bãi là một đặc tính căn bản của cán bộ cộng sản học được từ các lãnh tụ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Như thế, đảng CSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về việc tàn sát trong cuộc chiến tết Mậu Thân năm 1968.Và người đứng đầu không ai khác chính là ông Hồ.
Thứ hai, tại “Nghị quyết của hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng”, in trong Văn kiện đảng toàn tập, Tập 24, 1963, (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003) có viết : “Tháng Mười hai năm 1963, chỉ một tháng sau khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Hà Nội để bàn luận và thông qua Nghị quyết hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành. Nghị quyết này nhận định rằng “tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng”.Trung ương Đảng dự tính khả năng chiến thắng cuộc chiến một cách nhanh chóng, trước khi Mỹ quyết định có nên điều các đội quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng hòa hay không. Vẫn duy trì đường hướng chung về việc tiến hành một cuộc “chiến đấu lâu dài” ở miền Nam, Nghị quyết 9 kêu gọi một nỗ lực đến mức tối đa nhằm “tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”.
Như vậy chúng ta có thể thấy được điều gì? Đó là cuộc tấn công vào Huế mà đỉnh điểm vụ thảm sát nêu trên đã được vạch kế hoach ra từ thời điểm năm 1963. Thời điểm đó ông Hồ con chưa bị ông Lê Duẩn lấn át và cô lập. Vậy thì ông Hồ chính là kẻ vạch ra chủ trương tổng công kích và nổi dậy đẫm máu đó trong vai trò kẻ đứng đầu đảng cộng sản.
Thứ 3, như trong phần trước tôi đã chứng minh ông Hồ chính là kẻ lầm tay sai bán nước cho Trung cộng, làm chư hầu và âm mưu làm suy yếu nội lực dân tộc. Và trước cuộc tổng công kích đẫm máu ông ta đã có liên hệ với Trung cộng.
Ngày 04/07/1967, Võ Nguyên Giáp và Phạm văn Đồng đã sang Trung Cộng để tường trình Bắc Kinh tình hình và chiến lược quân sự, bao gồm cuộc tổng tấn công này.
Phạm Văn Đồng đã báo cáo Chu Ân Lai như sau : “Một số chiến lược đang được áp dụng trên chiến trường miền Nam theo lời đề nghị khi trước của các đồng chí”. Chiến tranh nhân dân là chiến lược đã được áp dụng trên chiến trường miền Nam. Chiến lược này do Mao Trạch Đông đề xướng, chủ yếu là “lấy nông thôn bao vây thành thị” và “vũ trang tổng tấn công và nổi dậy”. Chiến lược này được xử dụng như kim chỉ nam cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968.
Trong buổi họp, Chu Ân Lai than thở, ông và các đồng chí của ông đều đã trên dưới bẩy mươi, và nhấn mạnh : “Mặc dù tôi đã già, tham vọng vẫn còn đó. Nếu chiến tranh ở miền Nam không chấm dứt vào năm tới, tôi sẽ thăm các đồng chí và tham quan”. Năm tới mà Chu Ân Lai muốn nhấn mạnh là Mậu Thân 1968.
Những câu nói trên được trích trong cuốn “Biên niên sử đảng cộng sản Việt Nam” – MXB Quân đội năm 1983. Điều mà chúng ta cần đặt câu hỏi là khi ông Đồng nói đã áp dụng chiến lược của các đồng chí. Đó là chiến lược gì? Đó chính là việc thực hiện tổng công kích đẫm máu mà tôi đã chứng minh Trung cộng muốn Việt Nam đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng.
Thứ tư, bản chất hiếu chiến giết người của ông Hồ còn được chính bản thân ông ta thể hiện qua bài thơ chúc têt trước cuộc tàn sát kinh hoàng mậu thân năm 1968. Bài thơ của ông ta như sau:
“…..Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.”
(trích links :http://nguoicaotuoi.org.vn/Story.aspx?lang=vn&zoneparent=0&zone=3&ID=153 của báo Người cao tuổi đảng cộng sản Việt Nam).
Bài thơ như một lời cổ động đánh nhau trong thời điểm mà người dân Việt Nam phải ăn tết cổ truyền. Đây là bằng chứng cho thấy tính hiếu chiến của ông Hồ. Các cụ có câu “Trời đánh tránh miếng ăn”. Nói rộng ra là tết cổ truyền là ngày ăn chơi của nhân dân dù Nam, dù Bắc. Nhưng ông Hồ lại thúc giục đánh nhau cho thấy âm muu chủ đạo của ông ta bằng bài thơ cổ vũ giết chóc.
Thứ năm, như đã giới thiệu về tác giả Hà Cẩn ở trên. Trong trang 208 cuốn “Mao chủ tịch của tôi” có viết được tạm dịch như sau: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cần phải thanh trừ bọn chống đối nhân dân khi các thành phố được giải phóng trong cuộc tổng nội dậy tết 1968, chúng không có lợi cho lực lượng cách mạng vào tiếp quản thành phố. Hồ Chù tịch đã học theo cách làm của Mao Chủ Tịch khi Trung quốc tiến hành Vạn lý Trường Chinh….”.
Qua đây chúng ta thấy chính ông Hồ học theo sách lược của Mao để “thanh trừ “ cái gọi là bọn chống đối nhân dân. Họ là những người làm hành chính, nhân dân vô tội như tôi đã chứng minh ở phần trên. Vậy mà ông Hồ đã học theo thầy ông ta là Mao để đem lại kết quả bi thương cho xấp sỉ 5000 người dân vô tội ở Huế.
Thứ sáu, trong cuốn “Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy”, đăng trên Văn Nghệ số Tết Mậu Dần 1998, tr. 4 do Vũ Kỳ là thư ký riêng thân tín và lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố có đoạn : “Sáng 25 tháng 12 năm 1967, thứ hai, 7 giờ 15 phút, Bác sang hội trường Ba đình, chủ toạ cuộc gặp mặt chúc mừng năm mới của Đoàn Ngoại giao ở Hà Nội. Bác rất vui, chúc năm mới Đoàn Ngoại giao. Tiếng Bác sang sảng và như trẻ ra.
Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà Bác Hồ, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và nhiều tướng lĩnh đến báo cáo.
Từ sự phân tích và nhận định tình hình, Bộ Chính trị đề ra: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa đề giành thắng lợi quyết định”.
Như vậy đã rõ ràng ông Hồ là người tham gia cuộc họp vào giờ chót để chi đạo cuộc tổng công kích đẫm máu gây ra cho nhân dân Huế. Thậm chí ông Vũ Kỳ còn miêu tả ông Hồ như “trẻ ra”. Vậy thì ông ta hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo ra những quyết định chết người với nhân dân. Khác hẳn với những luận điệu cho rằng lúc đó ông Hồ ốm yếu, không tham gia chỉ đạo từ đầu để bao che cho ông Hồ về tội ác mậu thân năm 1968.
Ngoài ra, trong bài viết của mình ông Vũ Kỳ cũng nói thêm: “Chiều 29 tháng 12, Bác Hồ mời Bác Tôn đến cùng ăn cơm. Ngắm hai cụ già thân mật đi bên nhau, thanh thản, ung dung, nói cười vui vẻ, ta cảm thấy cuộc đời đẹp biết bao, tưởng như đất nước thanh bình.
Ngày 30 tháng 12 thứ bảy, buổi sáng từ 7 giờ 15 đến 9 giờ 30 Bác lại dự họp Bộ Chính trị, nghe đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tổng tham mưu trưởng, báo cáo thêm những diễn biến mới nhất của tình hình chiến sự miền Nam. Bác ngồi nghe, một tay giữ lấy kính, chăm chú nhìn vào bản đổ khổ lớn treo trên tường.
Buổi chiều từ 17 giờ đến 18 giờ, Bác tham dự phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ. Bác tặng mỗi người, từ Bộ trưởng đến nhân viên phục vụ một quả cam hái từ vườn Bác và một thiếp hồng chúc mừng năm mới. Nói chuyện trong phiên họp, Bác biểu dương những thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Nam Bắc, khen ngợi sự cố gắng của các Ngành, các Bộ…”.
Như vậy càng có bằng chứng sự cầm đầu chỉ đạo của ông Hồ trong thảm sát mậu thân. Cuối cùng ông Kỳ mô tả: “Ngày chủ nhật 31-12-1967, ngày cuối cùng của một năm chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang trên khắp hai miền đất nước. Bảy giờ 30 sáng, Bác Hồ ung dung ra Phủ Chủ tịch để thu thanh chúc mừng năm mới Mậu Thân mà có lẽ Bác đã ngẫm nghĩ và trao đổi có lẽ đến 3 tháng ròng. Bài thơ “Toàn thắng ắt về ta” như bài hịch đã đi vào lịch sử… 2 giờ 30 phút chiều, Bộ Chính trị đến làm việc, Bác căn dặn công việc trước khi Bác lên đường tiếp tục đi nghỉ ở Trung quốc. Đó là quyết định của Bộ Chính trị và Hội đồng bác sĩ. 
Thế trận đã dàn xong. Ba quân đã sẵn sàng. Lời hịch đã phát. Bác Hồ ra đi chuyến này an tâm hơn.

Ngoài liên lạc hàng ngày, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước vẫn thay nhau đến Bắc Kinh, trực tiếp báo cáo và xin ý kiến Bác”.
Như vậy có thể thấy ở đây hai điều. Điều đầu tiên là việc ông Hồ hàng ngày được báo cáo về tình hình từ liên lạc và từ chính các đệ tử của ông sang Bắc Kinh. Vậy thì không có lý do gì ông ta không biết và không chỉ đạo cuộc tổng công kích đẫm máu. Nhất là sau này hành động không xử những kẻ bị vu cáo là tự ý giết nhân dân cho thấy ông Hồ đã đồng tình hay nói cách khác là kẻ chỉ đạo giết người. Điểu thứ hai đó là như ông Vũ Kỳ miêu tả ông Hồ đâu có yếu đến mức phải lánh sang Bắc Kinh chữa bệnh giữa lúc đang xảy ra cuộc tổng công kích. Vậy tại sao ông Hồ phải đi Bắc Kinh? Chữa bệnh chỉ là cai cớ. Cái chính yếu là ông ta muốn tránh tiếng cuộc thảm sát mà ông ta biết trước như cách ông ta làm ở cải cách ruộng đất. Một kịch bản vũ như cẫn được lặp lại để tránh né tội ác.
Thứ bảy, cuốn sách của J.Leroy được tôi giới thiệu ở trên cũng có đoạn viết như sau tại trang 240 về cuộc tấn công vào Huế năm 1968: “Quân đội của MTGPMN Việt Nam dưới sự chỉ đạo của chính quyền VNDCH đã gây được cú sốc với chính quyền VNCH.Người có vai trò quyết định là ông Hồ Chí Minh với tư tưởng của Stalin và Mao Trạch Đông. Họ đã thành công trong cả chiến thuật, chiến lược và đấu tranh giai cấp…”
Ở đây ta thấy ông Hồ đã thực hiện chỉ đạo của Mao và Stalin trong việc đánh Huế và đấu tranh giai câp. Vậy đấu tranh giai cấp là gì? Đó chính là thủ tiêu người dân vô tội mà ta đã thấy trong CCRĐ hay NVGP. Vậy thì ai là kẻ chỉ đạo thảm sát dân lành? Không ông Hồ thì còn là ai được.
Thứ tám, Trên website của tỉnh Thanh Hóa có bài viết của Tác Giả Đinh Phong nói về cuốn sách “Mãi mãi theo con đường của Bác” của ông Hoàng Tùng – cán bộ lão thành cộng sản nhiều năm đi theo ông Hồ (Links: http://www.baothanhhoa.vn/vn/bht/n93301/Mai-mai-theo-con-duong-cua-Bac).
Bài viết có đoạn: “Tháng 2-1968, từ mặt trận Sài Gòn, chúng tôi trở về cơ quan, lòng nặng trĩu! Ta đã không thắng ngay trận đầu. Khi nói về quyết tâm của ta, một đồng chí lãnh đạo phổ biến: “Bác Hồ nóng lòng muốn về Nam để trực tiếp chỉ đạo trận đánh cuối cùng này. Bác đã tập đeo đá, đi bộ để chuẩn bị sức khỏe. Bộ Chính trị xin Bác yên lòng, sẽ quyết tâm chỉ đạo cách mạng miền Nam giành thắng lợi”.
Thêm một minh chứng ông Hồ hoàn toàn khỏe mạnh và ông ta muốn về Nam trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến năm 1968. Như vậy dù có đi Bắc Kinh nhưng ông Hồ rất quan tâm đến trận đánh nhằm giành thắng lợi trong công cuộc “đấu tranh giai cấp” như dẫn chứng thứ 7 ngay trên. Và với quyết tâm chỉ đạo như vậy không có lý do gì ông Hồ không phải là kẻ chỉ đạo sự kiện thảm sát mà đàn em của ông vô can.
Thứ chín, trên website : http://hosotulieu.wordpress.com/tag/tau-khong-số/. Website này của đội ngũ hồng vệ binh đảng cộng sản có ca ngợi tướng Nguyễn Chí Thanh mang tên “Nguyễn Chí Thanh anh bộ đội cụ Hồ tiêu biểu” có viết: “Bài viết “Năm bài học phản công chiến lược mùa khô” mang bút danh Trường Sơn của anh đã ngay lập tức trở thành tác phẩm có giá trị. Nó là vũ khí tư tưởng cho toàn đảng, toàn quân và toàn dân quyết đánh và quyết thắng quân Mỹ xâm lược. Nó gây ấn tượng mạnh mẽ và niềm tin cho bè bạn năm châu. Nó làm cho quân thù sửng sốt và lúng túng hoang mang. Và nó đã góp phần cùng Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương hạ quyết tâm chiến lược chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Mậu Thân – 1968 để thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Hồ Chủ tịch “Đánh cho Mỹ cút” một cách tin cậy.”.
Phần được tôi cho tô đậm chính là minh chứng cho sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong một chuỗi tội ác mà ông ta gây ra cho nhân dân Huế năm 1968.
C. Kết Luận Chung:  Qua các phần trên chúng ta thấy được đảng cộng sản là kẻ chủ mưu gây ra khoảng 5000 người dân vô tội năm 1968 ở Huế. Họ coi tính mạng người dân cùng chung dòng máu với họ thật là rẻ mạt. Dù biện hộ với lý do nào thì những tội ác của đảng cộng sản gây cho nhân dân Huế là không thể chối bỏ.
Và cũng đồng thời là chúng ta thấy vai trò của ông Hồ trong sự kiện thảm sát này là rất rõ nét và là chủ mưu. Không thể nào đổ thừa cho những người dưới quyền dù họ không phải vô tội. Ông Hồ sẽ phải chịu trách nhiệm về những tội ác này trước nhân dân Việt Nam nói chung và thân nhân các nạn nhân bị giết oan vô tội trong năm 1968.
Chỉnh sửa và hoàn thiện: 18/08/2012
 

Lý Do Thực Sự Cốc Khai Lai Ám Sát Doanh Nhân Anh Quốc Neil Heywood

Tác giả: Wang Yiru    - Đaikynguyen
Tiết lộ tội ác thu hoạch nội tạng của Cốc và Bạc Hy Lai dẫn đến việc Heywood bị ám sát

Gu Kailai (L), wife of the ousted Bo Xilai (R). The Epoch Times recently learned that Gu killed British businessman Neil Heywood because he had revealed information about organ harvesting in which he, Gu, and Bo were all involved. (New Epoch Weekly Photo Archive)
Cốc Khai Lai (trái), vợ chính trị gia thất thế Bạc Hy Lai (phải). Đại Kỷ Nguyên gần đây đã biết được lý do Cốc giết doanh nhân Neil Heywood là vì ông ta biết việc thu hoạch nội tạng của Bạc và Cốc . (New Epoch Weekly Photo Archive)Doanh nhân người Anh bị ám sát Neil Heywood đã biết quá nhiều – và dường như ông ta đã nói ra [gì đó] về điều mình biết. Việc đó, theo một nguồn tin thân thuộc với vấn đề này, đã chính là động cơ cho việc ông ta bị giết.
Sự liên đới của Heywood với cựu quan chức nặng ký của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Bạc Hy Lai (Bo xilai), cùng với vợ của ông ta là rộng lớn hơn những gì đã được đưa tin. Nó dường như còn bao gồm cả việc kiếm lợi nhuận từ tội ác thu hoạch nội tạng sống bằng vũ lực, và từ các thương vụ liên quan đến tử thi.Heywood còn dính líu đến việc trợ giúp vợ chồng Bạc trong các mưu đồ táo bạo.
Heywood được tìm thấy bị đầu độc chết trong khách sạn Lucky Holiday tại đô thị trung tâm vùng phía tây của Trùng Khánh vào ngày 14 tháng Mười một, 2011. Vào ngày 10 tháng Tư, Cốc Khai Lai (Gu Kailai) và người làm thuê Trương Hiểu Quân (Zhang Xiaojun) được đưa tin là đã bị bắt giữ vì là nghi phạm trong vụ mưu sát.
Ban đầu truyền thông nhà nước mô tả Cốc là giết Heywood do các bất đồng về vấn đề tài chính. Vào ngày 25 tháng Bảy, trong bình luận đầu tiên về vấn đề này từ tháng Tư, cơ quan ngôn luận của chế độ Tân Hoa Xã đã mô tả tỉ mỉ về động cơ này : do kết quả của những bất đồng về vấn đề thương mại, người ta nói rằng Cốc lo sợ Heywood có thể làm hại con trai bà, Bạc Qua Qua (Bo Guagua), và thế là bà ta quyết định ám sát doanh nhân người Anh này.
Heywood tất nhiên là dính líu đến các thương vụ gia đình Bạc – ông ta đã giúp họ di chuyển ra ngoài Trung Quốc hàng tỉ đô la mà Bạc và Cốc đã thu gom được qua nhiều phi vụ trong Trung Quốc.
Thế nhưng sự dính líu của Heywood đã di xa hơn cả việc di chuyển tiền bạc ra nước ngoài.

Buôn bán Nội tạng

Sự dính líu của Heywood với Bạc và Cốc diễn ra vào thời gian họ ở thành phố Đại Liên (Dalian City) ở đông bắc tỉnh Liêu Ninh (Liaoning). Bạc là thị trưởng thành phố Đại Liên khi cuộc bức hại môn tập luyện tinh thần Pháp Luân Công bắt đầu diễn ra năm 1999, và y đã thăng tiến sự nghiệp của mình bằng việc sớm và nhiệt tình hăng hái ủng hộ cho chiến dịch này.
Neil Heywood. (Screenshot from NTDTV.com)Đầu tiên là thành phố Đại Liên, và rồi đến cả tỉnh Liêu Ninh, đã trở thành nơi địa ngục đối với học viên Pháp Luân Công sau khi Bạc trở thành người đứng đầu năm 2000.

Neil Heywood. (Screenshot from NTDTV.com) Theo các báo cáo biên soạn từ website Minh Huệ của Pháp Luân Công, tỉnh Liêu Ninh trong giai đoạn Bạc cai trị đã đứng thứ 4 về con số học viên Pháp Luân Công bị chết do  tra tấn và ngược đãi, trong số 33 tỉnh thành và thành phố cấp tỉnh.
Vào tháng Tư 2006, Đại Kỷ Nguyên đã đưa tin đầu tiên về tội ác thu hoạch nội tạng sống bằng cưỡng đoạt ở Trung Quốc với các câu chuyện chi tiết về một bệnh viện ở Tô Gia Đồn (Sujiatun), một vùng ngoại ô của thủ đô tỉnh Liêu Ninh – thành phố Thẩm Dương (Shanyang City).
Tại thời điểm việc cưỡng đoạt thu hoạch nội tạng sống được lần đầu khám phá, có 5 website khác nhau ở tỉnh Liêu Ninh quảng cáo các cơ quan nội tạng cho việc cấy ghép, với các giá niêm yết – một quả tim giá 180.000 USD, một giác mạc giá 3000 USD. Một công ty lớn nhất kiểu này là ở thành phố Thẩm Dương.
Việc thu hoạch nội tạng từ học viên Pháp Luân Công đã khởi động ngay sau khi cuộc bức hại bắt đầu.
Cựu Bộ trưởng nội các (châu Á – Thái Bình Dương) của Canada, ông David Kilgour và là Công tố viên hoàng gia, cùng với ông David Matas, một luật sư nhân quyền quốc tế, họ đã điều tra các luận chứng về thu hoạch cơ quan nội tạng và đăng một báo cáo tên “Thu hoạch đẫm máu” (Bloody Harvest) sau đó xuất bản thành sách vào tháng Bảy 2006. Họ khẳng định rằng trong các năm từ 2000-2005, 41.500 vụ cấy ghép đã được diễn ra ở Trung Quốc mà hầu hết nguồn cấp cơ quan nội tạng là từ học viên Pháp Luân Công.
Heywood bị cho là có dính líu với Bạc và Cốc trong việc kinh doanh thu hoạch nội tạng ở Liêu Ninh, theo nguồn tin của Đại Kỷ Nguyên, và điều này chính là thứ chứng thực cho lý do xác đáng về cái chết của y. Heywood đã bắt đầu làm rò rỉ các thông tin về sự liên đới của nhóm trong tội ác ghê tởm này.

Buôn bán tử thi

Heywood cũng bị cho là có dính líu đến việc buôn bán tử thi.
Bắt đầu năm 2000, 2 nhà máy mở ra ở Đại Liên để bảo quản xác người cho các mục đích trưng bày.
Năm 2003, “Tạp chí Cái nhìn Đông phương” (The Oriental Outlook Magazine), một nhánh của cơ quan ngôn luận nhà nước Tân Hoa Xã, đưa tin rằng năm 2003 Trung Quốc đã trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất về các thi hài, và rằng một trong các công ty ở thành phố Đại Liên là công xưởng làm ướp xác lớn nhất trên thế giới.
Đầu năm nay, Đại Kỷ Nguyên đã nhận được thông tin đáng tin cậy từ thành phố Đại Liên rằng một số lượng cực lớn thi thể được dùng cho các công xưởng ướp xác chính là các học viên Pháp Luân Công bị ám hại.
Luật của Trung Quốc ngăn cấm buôn bán tử thi ngoại trừ trong một số tình huống, và Bạc và Cốc đã ở trong một vị trí chức vụ để bảo đảm cho các công ty có thể nhận được các giấy tờ hành chính cần thiết nhằm kiếm lợi nhuận từ các thi thể này.
Thông đồng với các quan chức cao cấp trong Ủy ban Chính trị và Lập pháp (Political and Legislative Affairs Committee-PLAC), như là cựu Chủ tịch PLAC La Cán (Luo Gan), Bạc và Cốc đã lợi dụng các lỗ hổng trong luật Trung Quốc, và ngăn chặn thành viên gia đình của học viên Pháp Luân Công mà bị tra tấn đến chết đòi lại thi thể (thông tin nhận được bởi Đại Kỷ Nguyên đã không cho biết các công ty có nhận thấy được về nguồn gốc của các tử thi)
Thay vào đó, cục an ninh công cộng và tòa án đã thu gom những tử thi và bán chúng với giá cao cho các công xưởng ướp xác. Từ đó các thi hài này được chuyên chở đến các bảo tàng trên khắp thế giới để trưng bày, sinh ra hàng tỉ đô la mỗi năm.
Cốc Khai Lai là người vạch kế hoạch và chỉ đạo về việc quản lý tài chính, tiếp thị trực tuyến trong nước và quốc tế, và mở ra các kênh xuất khẩu dành cho việc thương mại cơ quan nội tạng và thi thể.
Theo nguồn tin của Đại Kỷ Nguyên, Heywood đã hỗ trợ Cốc.

Mưu đồ táo bạo

Thời báo Đại Kỷ Nguyên đã viết các bài tin độc quyền liên quan đến việc làm thế nào Bạc Hy Lai, trùm an ninh quốc nội Chu Vĩnh Khang, và các thành viên khác trong phe Giang Trạch Dân thiết lập nên trung tâm quyền lực thứ hai trong ĐCSTQ dựa trên PLAC, mà từ đó ý định sẽ để Bạc nắm lấy quyền kiểm soát tại Đại hội Đảng lần thứ 18 trong tháng 10 này.
Khi thời cơ chín muồi, Bạc sẽ hất cẳng Tập Cận Bình (Xi Jinping), người được cho rằng sẽ đứng đầu ĐCSTQ trong hội nghị tới, và nắm quyền lực cai trị Trung Quốc.
Tuy nhiên, những kẻ mưu đồ đã không lường được chuyến bay của vị cựu tay sai của Bạc, Vương Lập Quân đến Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô (Chengdu) vào ngày 6 tháng Hai, mà từ đó phơi bày và hủy diệt toàn bộ kế hoạch.
Theo nguồn tin của Đại Kỷ Nguyên, Cốc đã đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch. Sau khi Cốc bị bắt giam, để thoát tội chết bà ta đã tiết lộ các kế hoạch của Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang nhằm lật đổ Tập Cận Bình. Bà ta cũng thừa nhận chính bà là người liên lạc giữa Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang.
Cốc quả quyết rằng dưới các mệnh lệnh của Bạc và Chu, bà ta đã chỉ đạo các chiến dịch ở nước ngoài nhằm hối lộ các cơ quan truyền thông ngoại quốc và sử dụng họ để đăng các thông cáo nhằm đánh bóng cho thân phận chính trị của Bạc và Chu, đồng thời tấn công và bôi nhọ Tập Cận Bình.
Cốc đã nhìn nhận Heywood là phụ tá thân cận đáng tin, và ông ta đã giúp các hoạt động bên ngoài Trung Quốc và cũng đã biết về các kế hoạch của Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai.
Cốc bị đưa ra tòa về cái chết của Heywood ngày 9 tháng Tám tại thành phố Hợp Phì (Hefei City), tỉnh An Huy (Anhui). Các nhà phân tích không trông đợi bất kỳ tin tức gì mới về vụ ám sát Heywood có thể đưa ra ngoài sự kiện đó.
Đọc bản Tiếng Anh
Bài Liên Quan :
 

Gần 100.000 DN “chết chưa được chôn”

Khủng hoảng gây ra khó khăn và phá sản hàng loạt. Nhưng ở khía cạnh khác đó là sự “phá hủy để sáng tạo”. DN này chết đi nhưng là cơ hội sinh sôi và sáng tạo cho hàng ngàn nhà nhiều DN khác. Nhưng một khi DN không được chết, có nghĩa cơ hội tái sinh và sự sáng tạo đang bị hạn chế.
Chết không được khai tử
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay có khoảng 86.000 DN không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể phá sản theo quy định. Trong số đó nhiều DN muốn được giải thể, phá sản theo thủ tục thì không thực hiện được, ngược lại, nhiều DN không thực hiện theo các quy định, cứ âm thầm biến mất cũng chẳng sao.
Trong Hội thảo: “Những giải pháp pháp lý cần xây dựng và hoàn thiện nhằm đảm bảo DN rút khỏi thị trường” do Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội ngày 17/8/2012, câu chuyện mà các chuyên gia luât đưa ra là về siêu thị điện máy WonderBuy ở tp Hồ Chí Minh, kinh doanh thua lỗ tới 52 tỷ đồng và tuyên bố phá sản hồi giữa năm 2011. Tuy nhiên, cho đến nay DN này vẫn chưa hoàn tất thủ tục phá sản. Dù chủ DN rất muốn giải quyết vấn đề này theo quy định pháp luật.
Ngược lại, cũng tại TP Hồ Chí Minh, có một cá nhân thành lập tới 42 DN và trên 30 DN trong số đó không còn hoạt động mà không cần thực hiện theo quy định về giải thể hay phá sản, chủ DN vẫn bình yên vô sự.
Theo ông Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp, dẫn đến tình trạng hàng chục nghìn DN phải “tùy nghi di tản” như hiện nay, vấn đề chính là thể chế của chúng ta đã không cho phép các DN được án tử. Luật thì rất hay nhưng không thực hiện được. Luật Phá sản chưa phải là câu trả lời đúng, các quy định về sáp nhập, giải thể trong luật DN cũng chưa đáp ứng được.


Theo ông Đỗ Tiến Thịnh,Trưởng phòng nghiệp vụ Cục quản lý đăng ký kinh doanh Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì hệ thống pháp luật quy định về giải thể, phá sản DN còn nhiều điều chưa phù hợp.
Lấy ví dụ về thủ tục phá sản, ông Thịnh cho biết, luật Phá sản quy định, các ông chủ của DN bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập DN, không được làm người quản lý DN, trong thời hạn từ 1 – 3 năm, kể từ ngày bị tuyên bố phá sản. Vì vậy, chẳng ông chủ nào muốn ra tòa để bị tước quyền kinh doanh, quản lý.
Tương tự, người giữ chức vụ quản lý, điều hành công ty 100% vốn nhà nước, người được giao đại diện phần vốn góp của nhà nước ở DN khác bị tuyên bố phá sản cũng sẽ không được đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ DN nhà nước cũng như DN có vốn nhà nước. Trong khi nếu “âm thầm chết” vẫn có thể mở DN khác, xin làm quản lý ở đơn vị khác.
Để DN được quyền chết
Theo ông Thịnh, thời gian tiến hành giải thể DN theo quy định là 6 tháng, nhưng để tiến hành các thủ tục, nhất là quyết toán thuế, thường kéo dài, có DN hoàn tất thủ tục mất từ 1-2 năm như vậy là vi phạm quy định, không thể tiến hành giải thể được. Đó là chưa kể, cơ quan thuế nhiều khi không cho DN đóng mã số thuế, vì DN “chết”, toàn bộ nghĩa vụ thuế chuyển cho cổ đông, rất khó triển khai.
Ông Thịnh kể, một DN kinh doanh thua lỗ đã ra thông báo do tình hình kinh doanh không hiệu quả nên không thể tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên giữa thông báo và việc hoàn thiện thủ tục là một quá trình và thời gian dài đằng đẵng. Kế toán của một trong những DN trên phải chạy hàng tháng trời chỉ để lo thủ tục thuế cho công ty mà cũng không xong. Theo quy định, muốn giải thể phải có giấy xác nhận không nợ thuế. Như vậy phải mang toàn bộ hồ sơ, sổ sách lên để kiểm tra, mất rất nhiều thời gian.
Đặc biêt, chế tài xử lý với chủ DN, người đại diện DN theo quy định hiện nay chưa đủ răn đe, dẫn tới người ta không thèm quan tâm đến nghĩa vụ giải thể, phá sản DN. Việc xử phạt vài chục triệu không có tác dụng mạnh để buộc các chủ DN phải thực hiện giải thể phán sản DN theo quy định của pháp luật.


Theo ông Trần Quang Minh, trưởng phòng đăng ký kinh doanh số 2 Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 6 tháng đầu năm 2012 Hà Nội chỉ có 480 DN làm thủ tục giải thể, trong khi trên thực tế số lượng DN giải thể lớn hơn rất nhiều, nhưng nhiều DN đã không làm thủ tục.
Tại Hà Nội, đến nay có 3.480 DN đã hoàn thành thủ tục đóng mã số thuế ( đã giải thể tại cơ quan thuế) nhưng không rõ lý do sao lại không làm thủ tục với quan đăng ký kinh doanh. Trên hệ thống đăng ký kinh doanh quốc gia, vẫn ghi nhận các DN này hoạt động bình thường. Ngoài ra cũng có một số lớn các DN đăng ký kinh doanh xong nhưng không đăng ký thuế, chỉ giữ con dấu và không biết có tham gia thị trường không. Số lượng những DN này đến nay rất khó giải quyết, ông Minh cho biết.
Theo ông Thịnh, từ đầu năm 2012 đến 20/7 đã có khoảng 30.000 DN ngừng hoạt động. Con số này có được là từ cơ quan thuế thống kê số DN không còn nộp thuế. Còn thực tế, trong số này, DN nào tạm ngừng hoạt động, DN nào ngừng hẳn, DN nào giải thể, phá sản thì chịu, không thể phân tách được. Vì các DN không làm thủ tục, xin tạm ngừng hoạt động, giải thể, phá sản thì khó có thể nắm bắt được chính xác.
Việc một số lượng lớn DN không giải thể phá sản được dẫn tới Nhà nước thất thu thuế, người lao động bị xâm hại quyền lợi, và làm sai lệch các thông tin thống kê về DN, ảnh hưởng tới sự minh bạch về môi trường kinh doanh. Đặc biệt việc DN đã ngừng hoạt động nhưng vẫn gây hậu quả kéo dài đang thể hiện rõ với chủ DN là người nước ngoài có thuê đất của Nhà nước, còn nợ thuế, nợ khách hàng, nợ lương người lao động nhưng chủ DN đã bỏ về nước nên không có người chịu trách nhiệm để thực hiện thủ tục giải thể phá sản theo quy định.
Theo các chuyên gia, để DN rút khỏi thị trường có trật tự, loại bỏ tình trạng “sống dở chết dở”, thì trước hết cần phải có chế tài mạnh để buộc các chủ DN, người đại diện phải làm thủ tục giải thể, phá sản theo quy định; cùng với đó là đơn giản hóa những thủ tục hành chính, cụ thể là về quy trình kê khai quyết toán thuế; sửa đổi luật DN và luật Đầu tư theo hướng phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với DN và với dự án đầu tư; sửa đổi bổ sung, hoàn thiện quy định về giải thể DN, luật phá sản…
Trần Thủy
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/vef/85045/gan-100-000-dn–chet-chua-duoc-chon-.html
 

Tại sao các Lãnh tụ Trung Quốc không còn bơi nữa ?

Issac Stone Fish/The Diplomat
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Thói quen thể thao của các lãnh tụ hàng đầu Trung Quốc cho thấy gì về bản chất của quyền lực ở đất nước này ?
Tháng 10 năm 1997, Giang Trạch Dân, Chủ tịch Trung Quốc vào thời điểm đó, đã đến Hoa Kỳ trong một chuyến thăm tám ngày đầy ý nghĩa. Ông đeo một vòng hoa Hạ Uy Di tại Trân Châu Cảng, và thừa nhận trong một cuộc xuất hiện tại Đại học Harvard rằng, có thể đã có “sai lầm” trong cuộc thảm sát ở Thiên an môn 1989, và đã giúp xây dựng hỗ trợ cho việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO vào năm 2001.
Tuy nhiên, hành động được cho là quan trọng nhất trong chuyến đi của Giang là việc ông đã thời gian để dành bơi ếch ngoài Bãi biển Waikiki ở Hawaii. Giang, khi ấy 71 tuổi, vẫn còn củng cố quyền lực sau cái chết của Đặng Tiểu Bình tháng Hai năm đó. Sức khỏe của Đặng Tiểu Bình đã xấu đi kể từ sau lầnxuất hiện công khai cuối cùng của ông vào năm 1994, nhưng vì là lãnh đạo tối cao của Trung Quốc kể từ năm 1978, ông vẫn bao trùm một ảnh hưởng rất lớn trong việc hoạch định chính sách. Tại buổi lễ bàn giao HongKong chưa đầy bốn tháng trước, Giang đã nhìn thấy là không được khỏe, khiến đưa đến tin đồn rằng ông đã bị một cơn đau tim. Vì vậy, Giang đã làm những gì mà các lãnh tụ hàng đầu của Trung Quốc đã phải làm: Ông bơi. Tờ New York Times đã tường thuật lại: đeo một “cặp kính bơi màu đen, một chiếc mũ tắm màu hồng và trắng,” Giang đã dành ra một giờ ngụp lặn đầu mình trong nước. Sau đó ông đã khoe trên bãi biển, “Tôi bơi hơn một km”.
Đầu tháng Tám này, Hồ Cẩm Đào, chủ tịch hiện tại của Trung Quốc đã có thể đến Bắc Ðái Hà, một khu nghỉ mát trên bờ biển Bột Hải, để tham dự một hội nghị hàng năm thảo luận về tương lai của giới lãnh đạo Trung Quốc. (Tờ Nhân Dân Nhật Báo của Đảng Cộng Sản báo cáo rằng Phó chủ tịch Tập Cận Bình đã ở đó vào đầu tháng Tám cùng với các nhà lãnh đạo cao cấp khác; Hồ đã chính thức hủy bỏ cuộc họp vào năm 2003 nhưng về sau đã có khả năng tham dự). Hội nghị diễn ra trước đại hội lần thứ 18 vào mùa thu này, một đại hội tổ chức hai lần trong một thập kỷ của Đảng Cộng sản mà gần như chắc chắn rằng Tập sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào làm chủ tịch Trung Quốc, nhưng nhiều chức vụ hàng đầu trong Uỷ Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, bộ phận chi phối mạnh mẽ nhất của Trung Quốc vẫn còn chưa được xác định. Tại Bắc Ðái Hà, các nhà lãnh đạo cũng có khả năng thảo luận về những ảnh hưởng của việc tiếp tục thanh trừng bí thư đảng Cộng Sản Trùng Khánh Bạc Hy Lai: Ngày 9 tháng 8, vợ của Bạc đã nhận tội sát nhân trong một phiên tòa kéo dài bảy giờ. (số phận của Bạc vẫn còn chưa rõ, mặc dù vào tháng Ba, nghe đồn rằng ông bị giam quản thúc tại Bắc Ðái Hà.)
Hội nghị tiếp nối một truyền thống nửa thế kỷ từng bắt đầu bởi Mao Trạch Đông, người thích bơi ở Bắc Ðái Hà, nơi có những căn nhà trên bãi biển từng được xây lên bởi những người nước ngoài muốn tránh khỏi cái nóng của Bắc Kinh và nơi nước biển có màu “lụa xám cũ,” như một nhà văn trên tờ New Yorker đã mô tả, Đặng Tiểu Bình, người thừa kế Mao, và Giang, sau khi bị đột quỵ đã bắt chước vọc nước theo. Nhưng có vẻ như không ai đề cập gì đến việc Hồ bơi ở Bác Đái Hà, hoặc thực sự là không hề bơi lội ở bất cứ nơi nào. Nói ra thì nghe có vể kỳ quặc, nhưng việc thiếu sót các thành tích bơi lội của Hồ cho chúng ta biết rất nhiều cả về phong cách quản trị nhà nước của ông và về bản chất của quyền lực ở Trung Quốc ngày nay.
Từ lâu, các lãnh tụ Cộng sản Trung Quốc đã dùng bơi lội để chứng minh mình vẫn đang khỏe mạnh và đủ thẩm quyền để cai trị. Mao là một bậc thầy, đã sử dụng năng lực khác thường trong làn nước của ông để chứng minh sức mạnh và giữ loại các đối thủ chính trị của ông khỏi thế cân bằng. Chống lại lời khuyên giải của bác sĩ riêng và bảo vệ an ninh của mình, Mao cứ trôi dạt “hàng dặm theo dòng nước, đầu ngửa, ngực vươn cao, tay chân hiếm thấy cử động, không hề bối rối với phân người nhẹ lướt qua,” sử gia Jonathan Spence đã viết lại “Có lẽ bạn sợ chìm, ông ta sẽ la rầy những người đồng hành của mình nếu họ bắt đầu hoảng sợ trong nước.” Cuộc bơi đáng xấu hổ của ông ở sông Dương Tử vào năm 1966 cho thấy ý định tái khẳng định sức mạnh của mìh sau gần một nửa thập kỷ tự áp đặt cô lập, và dường như đó là “một nỗ lực để đặt ông vào truyền thống của người cai trị phô trương giá trị cá nhân của mình”, nhà học thuật Ross Terrill đã viết trong cuốn tiểu sử Mao vào năm 2000.
Được biết, Đặng Tiểu Bình, đã trải qua mùa hè ở Bắc Đới Hà sau vụ thảm sát năm 1989 trên quảng trường Thiên An Môn, nơi nhà lãnh đạo tối cao cho biết ông đã bơi ngoài trời trong “một giờ một ngày”, những hình ảnh của ông trong làn nước được đưa ra công chúng “chuyển tải một nhân vật vô lo, yên tâm với thế giới “, giáo sư Harvard Ezra Vogel trong cuốn tiểu sử nhà lãnh đạo cải cách của ông vào năm 2011 đã viết. Sau đó, trong những năm 1990, những hình ảnh bơi lội của Đặng được sử dụng để phản bác những tin đồn rằng ông ốm nặng.
Gần 70 tuổi, ông Hồ trẻ hơn nhiều so với Mao và Đặng, khi cả hai người này từng giữ chiếc ghế quyền lực của mình ấm áp đến tận những năm 80 của họ. (Giang thoái vị vào năm 76 tuổi.) Mặc dù ưởng là bị bệnh tiểu đường, Hồ Cẩm Đào được xem là lành mạnh. Tuy nhiên, Hồ, một công chức cứng nhắc, thiếu tự tin, cũng thiếu chất thể thao, tính thoải mái và uy tín so với người tiền nhiệm của mình. Mặc dù có tin đồn cho rằng ông là người “nhảy đầm giỏi ở đại học Thanh Hoa trong những năm 1960,” Hồ không phải là một “người có thể chất khỏe” Kerry Brown, giám đốc điều hành Trung Tâm Nghiên cứu Trung Quốc của Đại học Sydney và là tác giả cuốn: Hồ Cẩm Đào: Một nhà lãnh đạo thầm lặng của Trung Quốc, đã viết.
Nhân cách có tính người máy của Hồ Cẩm Đào tại các chức năng nhà nước và quốc tế có thể là một lời chỉ trích tinh tế về Giang, người mà những kẻ dèm pha chỉ trích rằng ông đã làm xấu hổ Trung Quốc với những trò hề của mình ở nước ngoài, bao gồm cả việc hát một phiên bản karaoke bài “Love me Tender” của Elvis Presley tại hội nghị thượng đỉnh châu Á-Thái Bình Dương vào năm 1996. Hồ hành xử hết sức kềm chế đến mức một lãnh đạo nhà nước châu Âu, sau một chuyến thăm Hồ, đã gọi ông là người nhàm chán nhất tong các nhà lãnh đạo đã mình từng gặp, theo một người thông báo laị về cuộc trò chuyện giữa hai người cho biết..
Nhưng không phải chỉ tính cách cá nhân đã kềm giữ con người của Hồ. Một nhà học giả dấu tên đã nói với tôi rằng, sự việc thiếu ham thích bơi lội của vị chủ tịch nước này cũng có thể có liên quan đến sự thay đổi bản chất của giới lãnh đạo Trung Quốc. Không giống như người tiền nhiệm thich phô trương của mình, Hồ phải lãnh đạo bằng sự đồng thuận – ông không có cái gan để trình diễn một dịp phong phú về biểu tượng như bơi lội công khai. “Có lẽ không ai che chở khi ông bơi bởi vì nếu để cho người khác làm như thế, mình phải trả cho họ một thứ khác” nhà học thuật cho biết.
Thiếu tính sẵn sàng chia sẻ sự chú ý có thể đã dẫn đến sự sụp đổ của Bạc. Các chiến dịch kiểu Mao ở Trùng Khánh của Bạc, nơi ông đã gửi tin nhắn các lời dạy của Người Cầm Lái Vĩ đại đến hàng triệu điện thoại di động trên toàn đô thị và khuyến khích hàng ngàn người gặp nhau để hát những bài ca thời Cách Mạng Văn hóa, đã khiến các nhà lãnh đạo khác lo lắng rằng ông đã trở nên quá tham vọng. Bạc cũng thích bơi, trong một bài phát biểu năm 2009, khi ông chấp nhận chức chủ tịch danh dự của Hiệp hội Bơi lội Trung Quốc, Bo trích dẫn một câu từ bài thơ nói về bơi lội của Mao : “Với lòng tự tin, ta có thể sống thọ đến 200 tuổi và với lòng tự tin ta có thể sống 200 năm và có thể bơi 3.000 dặm”.
Việc nhân vật Tập, người thừa kế nhà lãnh đạo Hồ Cẩm Đào sẽ là loại lãnh tụ như thế nào và liệu ông ta có được niềm tự tin như Mao và Bạc không là còn tuỳ suy đoán của mọi người, nhưng ông có vẻ như một bước đi lên trong ban bộ các nhà lãnh đạo. Trong câu trả lời với tờ Washington Post qua hình thức bút vấn vào tháng Hai, Tập cho biết , “Tôi thích thể thao và bơi lội là sở thích của tôi.”
Nguồn: The Foreign Policy
 

Báo TQ tung luận điệu nực cười, đòi Mỹ cư xử “công bằng” ở Biển Đông

Biên đội tàu chiến của một Chi đội tàu đổ bộ, Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc.
Tờ “Hoàn Cầu” dẫn các nguồn tin cho biết, mặc dù Mỹ nhiều lần tuyên bố duy trì sự trung lập trong vấn đề biển Đông, nhưng vào tuần trước, Bộ Ngoại giao Mỹ lại công khai ra tuyên bố chỉ trích Trung Quốc làm trầm trọng thêm tình hình căng thẳng ở biển Đông.
Báo Trung Quốc dẫn nguồn tin (chưa xác định) từ Quỹ Hòa bình Quốc tế Carnegie Mỹ tuyên truyền cho rằng: “Mỹ chỉ phê phán Trung Quốc, không quan tâm đến việc Việt Nam và Philippines khai thác dầu mỏ ở biển Đông là nguyên nhân làm tăng thái độ bất mãn của Trung Quốc và làm trầm trọng hơn tình hình căng thẳng ở biển Đông”.
Theo báo Trung Quốc, Quỹ Carnegie vừa có bài viết cho rằng, tranh cãi xung quanh vấn đề biển Đông giữa Trung Quốc, các nước láng giềng Đông Á và Mỹ ngày càng kịch liệt. Tuần trước, Bộ Ngoại giao Mỹ thậm chí đã ra tuyên bố cảnh cáo Trung Quốc đơn phương thiết lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” tại khu vực tranh chấp biển Đông, đã làm cho truyền thông Trung Quốc phản ứng kịch liệt và tiếp tục làm gia tăng thái độ bất mãn của người dân Trung Quốc.
Theo bài viết, nhiệm vụ làm dịu tình hình căng thẳng và giải quyết tranh chấp lãnh thổ sẽ ngày càng trở nên khó khăn. Nhưng mặc dù trong vài năm tới chưa thể hoàn toàn giải quyết tranh chấp, tình hình căng thẳng ở biển Đông sẽ không mất kiểm soát.
Tuy nhiên, bài viết cho rằng, Chính phủ Mỹ hoàn toàn không có ý định để cho tình hình phát triển theo hướng xấu đi. Mỹ không hứng thú trong việc can dự tranh chấp biển Đông, nhưng “kiên trì bảo vệ tự do hàng hải ở biển Đông và giải quyết hòa bình tranh chấp theo luật pháp quốc tế”.

Tàu chiến của một Chi đội tàu đổ bộ, Hạm đội Nam Hải diễn tập hiệp đồng trên biển.
Bài viết còn vô cớ, xuyên tạc rằng: “Philippines, Việt Nam rất muốn Mỹ can thiệp tranh chấp biển Đông, giúp đỡ vô điều kiện cho họ đối đầu với Trung Quốc”. Bài viết còn lên tiếng doạ dẫm: Vì vậy, Mỹ cần thận trọng xem xét trước khi hành động. Chính sách châu Á của Mỹ, mục đích tuy là muốn ứng phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng đồng thời lại muốn bảo đảm lợi ích của Mỹ ở châu Á, cho nên Mỹ phải nhận rõ môi trường hiện thực không ngừng thay đổi.
Bài viết cho rằng, trong quá trình Mỹ thuyết phục Trung Quốc chấp nhận “nguyên tắc và luật pháp quốc tế”, quan hệ Trung-Mỹ chắc chắn sẽ đối mặt với không ít thách thức.
Trước khi công khai phê phán Trung Quốc vài tuần, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã hội kiến với Tổng thống Philippines Aquino tại Nhà Trắng. Khi đó, Aquino cho biết, Philippines muốn Mỹ có sự chi viện nhiều hơn cho nước này trong vấn đề biển Đông.
Đối với vấn đề này, Obama cho biết, Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines”, nhưng hoàn toàn sẽ không can thiệp vấn đề biển Đông. Ông còn nói, Mỹ sẽ hỗ trợ các bên liên quan tiến hành đối thoại, giải quyết hòa bình tranh chấp.
Nhưng, báo Trung Quốc cho rằng, hiện nay, Mỹ chỉ nhằm vào Trung Quốc mà chỉ trích, nên các nhà quan sát Trung Quốc nhận thấy lập trường của Mỹ là đối lập với Trung Quốc. Báo Trung Quốc coi đây là thái độ “thiên vị”, thậm chí nghi ngờ Mỹ muốn sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp biển Đông.
Báo Trung Quốc nhấn mạnh một vấn đề đáng chú ý, đó là: “Mỹ hoàn toàn không có lợi ích trực tiếp gì ở biển Đông, hoàn toàn không liên quan gì tới tranh chấp chủ quyền, hơn nữa lợi ích của người dân và doanh nghiệp Mỹ cũng không bị đe dọa”.

Biên đội hỗn hợp Hạm đội Nam Hải tiến hành cơ động tầm xa và huấn luyện tác chiến.
Tuy nhiên, “tự do hàng hải” ở biển Đông rất quan trọng đối với Mỹ, trong khi đó tàu chiến của Hải quân Trung Quốc lại hạn chế tự do hàng hải trên phạm vi hầu hết biển Đông, do đó, công việc thu thập tình báo của Mỹ bị hạn chế. Trong khi đó, lãnh đạo hai nước này cũng luôn tích cực ngăn chặn quan hệ Trung-Mỹ xảy ra xung đột vì vấn đề tự do hàng hải ở biển Đông.
Cuối cùng, bài viết chỉ ra, xét tới sự trỗi dậy của Trung Quốc và ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra từ sự phản ứng của các nước láng giềng, việc giải quyết hòa bình vấn đề biển Đông thực sự rất quan trọng đối với Mỹ. Ngoài ra, việc tiếp tục thúc đẩy áp dụng luật pháp quốc tế cũng có lợi cho Mỹ, bởi vì điều này sẽ giúp làm giảm chi phí duy trì sự ổn định và quản lý của Mỹ.
Báo Trung Quốc tuyên truyền với luận điệu hết sức lực cười, đòi hỏi “công bằng” cho rằng: “trong tình hình đó, Mỹ tuyệt đối có thể dùng nguyên tắc nhất quán, sử dụng phương pháp công bằng nhất cho các nước tranh chấp để giải quyết vấn đề. Muốn đạt được mục tiêu này, Chính phủ Mỹ phải duy trì lập trường không thiên vị, không nên tiếp tục phạm sai lầm như việc ra tuyên bố về biển Đông của Bộ Ngoại giao Mỹ”!.

Biên đội tàu chiến Hạm đội Nam Hải diễn tập vượt biển đổ bộ.

Tàu cần vụ và tàu ngầm của Hạm đội Nam Hải diễn tập hiệp đồng.

Tàu Hải Khẩu tập trận.
* Trích dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải chịu trách nhiệm và ghi rõ “theo báo Giáo Dục Việt Nam” hoặc “theo Giaoduc.net.vn”. Box thảo luận ở phía dưới là diễn đàn để độc giả gửi comment, đánh giá, nhìn nhận và chia sẻ ý kiến. Báo Giáo Dục Việt Nam luôn đón nhận các ý kiến khách quan, có tính chất xây dựng, tôn trọng pháp luật, thuần phong mỹ tục… của tất cả bạn đọc gửi về. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu để quá trình biên tập và đăng tải được thuận tiện. Chân thành cảm ơn độc giả!
Đông Bình (nguồn báo Hoàn Cầu)
(GDVN) – “Tàu chiến Hải quân Trung Quốc đang hạn chế tự do hàng hải ở biển Đông, gây cản trở cho hoạt động thu thập tin tức tình báo của Mỹ”.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét